MỘT CÂU CHUYỆN NHÂN VĂN

Image may contain: one or more people, wedding, flower and outdoor
Dung TranFollow

MỘT CÂU CHUYỆN NHÂN VĂN .

NÊN ĐỌC DÙ ĐÃ HAY CHƯA KẾT HÔN – DÙ ĐANG TUỔI TRẺ HAY ĐÃ ĐANG VỀ CÙNG GIÓ HEO MAY…

Khi tôi về đến nhà, vợ tôi đang dọn bữa tối. Tôi nắm lấy tay em và nói rằng, có chuyện này phải nói với cô ấy. Em ngồi xuống, không nói gì chỉ lặng lẽ ăn. Tôi nhìn thấy nỗi đau trong đôi mắt kia, dường như em cũng biết tôi định nói gì.

Quả thực lúc này tôi không biết phải mở miệng thế nào. Phải rất lâu tôi mới thốt lên được, tôi muốn ly hôn. Không quá ngạc nhiên, em chỉ hỏi nhỏ: “Tại sao?”.

Tôi tránh câu hỏi ấy, điều này đã làm em giận dữ. Em ném đôi đũa đi và hét vào mặt tôi: “Anh không xứng là đàn ông!”.

Đêm đó, chúng tôi đã không nói chuyện với nhau. Em muốn biết điều gì đang thực sự xảy ra với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Nhưng thật khó để đưa ra câu trả lời thỏa đáng. Chẳng lẽ phải nói thẳng rằng trái tim tôi đã thuộc về người con gái khác và rằng tôi không yêu em nữa, tôi chỉ thương hại em mà thôi.

Tôi biết mình là người có lỗi nên trong đơn ly hôn, tôi viết rõ em sẽ sở hữu căn nhà, chiếc xe hơi cùng 30% cổ phần của công ty tôi. Em liếc nhìn và sau đó xé nó ra từng mảnh. Người phụ nữ đã gắn bó với tôi hơn 10 năm qua đột nhiên trở thành một người xa lạ. Cuối cùng, em cũng òa khóc, trái tim tôi cũng dằn vặt ghê gớm nhưng thực sự tôi yêu Jane – cô người tình bé bỏng của tôi rất nhiều.

Ngày hôm sau, tôi trở về nhà rất muộn và thấy em đang viết gì đó. Dù vẫn chưa ăn tối nhưng tôi không cảm thấy đói và đi thẳng vào phòng ngủ sau một ngày mệt mỏi đưa Jane đi chơi. Nửa đêm, có đôi khi tôi tỉnh dậy, vẫn thấy em ngồi ở bàn viết nhưng bây giờ với tôi, đó đâu phải là điều đáng quan tâm.

Sáng hôm sau, trong sự ngỡ ngàng của tôi, em đưa ra điều kiện ly hôn. Em không cần bất cứ thứ gì từ tôi, chỉ cần cần thông báo một tháng trước khi ly hôn và rằng, trong một tháng ấy, cả hai chúng tôi phải coi như không có chuyện gì xảy ra. Lý do rất đơn giản, con trai của chúng tôi sẽ có một kỳ thi quan trọng trong tháng tới và em không muốn con bị phân tâm bởi quyết định ly hôn của bố mẹ nó.

Ngoài ra, cũng trong một tháng ấy, em yêu cầu tôi nhớ lại cách tôi đã bế em vào phòng tân hôn trong ngày cưới của chúng tôi, rồi mỗi sáng lại bế em ra cửa phòng. Em đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên, có lẽ cú sốc lớn này khiến đầu óc em không còn tỉnh táo. Tuy nhiên, với những gì tôi gây ra cho em, điều này không hề khó và tất nhiên tôi đồng ý với những yêu cầu kỳ quặc ấy.

Kể từ khi tôi có ý định ly hôn, giữa chúng tôi đã không còn sự đụng chạm thể xác. Vì vậy ngày đầu tiên khi tôi thực hiện điều kiện của em, cả 2 chúng tôi đều rất ngượng ngùng. Con trai chạy theo hò reo thích thú làm cho tôi bỗng nhiên có chút gì đó đau đớn. Tôi bế em từ phòng ngủ ra phòng khách, đặt xuống cửa và em ra ngoài đợi xe buýt, còn tôi lái xe đến văn phòng. Thế là kết thúc ngày thứ nhất.

Vào ngày thứ hai, cả hai chúng tôi đã hành động tự nhiên hơn. Em dựa vào ngực tôi, tôi có thể ngửi được mùi hương từ áo khoác của em. Chợt nhận ra rằng, đã lâu tôi không còn thói quen nhìn ngắm người phụ nữ này. Có vẻ như em đã không còn trẻ nữa, những nếp nhăn trên khuôn mặt xuất hiện, mái tóc cũng đã xơ xác hơn xưa. Cuộc hôn nhân của chúng tôi đã lấy đi tuổi trẻ của em. Bỗng nhiên trong đầu tôi lóe lên câu hỏi: Tôi đã làm gì với em thế này?

Sang ngày thứ ba rồi ngày thứ tư, khi nhấc bổng em lên, tôi nhận thấy một cảm giác rất đỗi quen thuộc. Đây chính là người phụ nữ đã đi cùng tôi suốt 10 năm qua.

Vào ngày thứ năm và thứ sáu, tôi ngạc nhiên nhận ra rằng, sự thân thiết tưởng chừng ngủ quên từ lâu nay bỗng nhiên trở lại. Tôi đã không nói với Jane về điều này.

Cho đến một ngày, tôi thấy em thở dài vì mọi trang phục thường ngày dường như rộng hơn. Tôi giật mình thấy em đã gầy đi rất nhiều. Có lẽ em đã phải giấu kín rất nhiều đau đớn và cay đắng trong tim. “Bố à, đến giờ bế mẹ ra rồi kìa”, lời nói của con trai khiến tôi bừng tỉnh. Đối với nó, hình ảnh này đã trở thành một phần thiết yếu hàng ngày. Tôi ôm em trong vòng tay, bước từ phòng ngủ qua phòng khách rồi hành lang, tay em vòng qua cổ tôi nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi ôm em thật chặt, giống như nhiều năm về trước, trong ngày cưới của chúng tôi.

Vào ngày cuối cùng, nhìn em trong vòng tay của mình, tôi khó có thể cất bước. Con trai chúng tôi đã đến trường. Tôi lái xe đi, nhảy ra khỏi xe thật nhanh quên cả đóng cửa. Tôi sợ bất cứ sự chậm trễ nào đều sẽ làm thay đổi tâm trí vì tôi đã có quyết định của mình…

Tôi bước lên thềm, Jane ra mở cửa với nụ cười tươi rói nhưng tắt ngay sau đó khi tôi đã nói với cô ấy: “Xin lỗi em, Jane, anh không muốn ly hôn nữa”.

Jane nhìn tôi, đầy vẻ ngạc nhiên và sau đó, sờ trán tôi hỏi: “Anh có bị sốt không?”. Tôi gỡ tay cô ấy ra: “Xin lỗi, Jane, anh sẽ không ly dị. Anh nhận ra cuộc hôn nhân của anh trở nên nhàm chán có lẽ vì cô ấy và anh không đánh giá cao những chi tiết tưởng chừng vụn vặt trong cuộc sống hôn nhân chứ không phải vì không còn tình yêu. Bây giờ anh nhận ra rằng, anh đã đưa cô ấy bước vào cuộc đời anh thì có chết cũng phải chết cạnh anh”. Jane há hốc miệng khi nghe tôi nói và đột nhiên cô ấy cho tôi một cái tát như trời giáng rồi đóng sầm cửa lại và bật khóc.

Tôi xuống cầu thang và lái xe đi, trong lòng nhẹ bẫng. Đi qua tiệm hoa bên đường, tôi mua một bó thật đẹp về tặng vợ. Cô bán hàng hỏi tôi muốn viết gì trên bưu thiếp, tôi mỉm cười và viết :”Anh sẽ bế em ra, vào mỗi buổi sáng, cho đến khi cái chết chia lìa”.

Tối hôm đó về đến nhà, với bó hoa trên tay và một nụ cười rạng rỡ đã rất lâu rồi bị quên lãng, tôi chạy lên cầu thang, mở cửa phòng và nhìn thấy em đang nằm đó. Tôi biết được sự thật khi đã quá muộn… thì ra, vợ tôi đã một mình chiến đấu với căn bệnh ung thư trong nhiều tháng qua, trong khi tôi quá bận rộn với Jane.

Em biết cuộc sống của mình không còn kéo dài bao lâu và cho đến ngày đó, ít nhất em muốn trong con mắt của con trai mình, tôi là một người cha tuyệt vời, một người chồng đầy lòng yêu thương.

ST.

@ Ngoc Han Thuyen

Tranh của họa sĩ Andrei Belichenko

Người Việt Nam Đầu Tiên Đặt Chân Đến Châu Mỹ

Người Việt Nam Đầu Tiên Đặt Chân Đến Châu Mỹ

Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ.

Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.

Tuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm

Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về thành phố Xanh–Phát–Lan–Xích–Cố (phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờDaily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.

Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.

Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.

Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.

Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

Ở Hoa Kỳ, Lê Kim vừa tìm vàng, vừa làm nhà báo và được một nhà văn viết trong cuốn “Đổ xô đi tìm vàng”.

Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.

Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.

Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.

Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.

Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.

Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.

Người Minh Hương cầm quân chống Pháp

Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.

Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.

Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi Pháp xâm lược Việt Nam. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi.

Di tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim.

Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăng trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:

“Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.

Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9,   có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm nối phố Nguyễn Xiển với phố Mạc Hiển Tích.

Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm được hai nhà văn hư cấu nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết có nhan đề: La rueé vers l’or(Đổ xô đi tìm vàng) của Rene Lefebre (Nhà Xuất bản Dumas, 1937) và Con đường thiên lý của Nguyễn Hiến Lê (năm 1972).Theo Con đường Thiên lý

From: TU-PHUNG

 Tâm sự người vợ H.O.

 Tâm sự người vợ H.O.

 Tôi không phải là nhà văn. Tôi cũng không phải là nhà thơ. Tôi chỉ là một cô giáo già với tuổi đời đã gần 80 và tuổi nghề 35 năm trong ngành giáo dục. Nguyện vọng của tôi khi viết bài nầy là để lưu lại một kỷ niệm thân thương cho con cháu khi chúng muốn tìm lại cội nguồn, khi muốn nhớ lại người mẹ, người bà yêu mến, chúng sẽ đọc và sẽ tự hào là người Việt Nam.

Tôi không bao giờ quên được ngày 30 tháng 04 năm 1975, ngày (…) và cũng là ngày biến cố quan trọng của đời tôi. (…) Con phải mất cha, vợ phải xa chồng, gia đình phải ly tán nhau! Bao nhiêu máu đổ thây phơi, bao nhiêu trái tim tan nát…

(…………………)

Chồng tôi, Nguyễn Văn Quy, bị gọi đi trình diện và bị đi học tập cải tạo ở Cây Cầy (Tây Ninh). Một mình tôi ở nhà, vừa làm cha vừa làm mẹ, nuôi dạy bốn đứa con còn nhỏ dại, đứa con trai lớn nhứt mới mười một tuổi, đứa con gái nhỏ nhứt mới năm tuổi.

Tôi dạy ban ngày ở trường tiểu học Bạch Đằng. Ban đêm thì dạy lớp bổ túc văn hóa cho quý cô, quý bác lớn tuổi thất học (mù chữ). Chủ Nhật thì dạy kèm tại gia cho các học sinh học kém. Ông bà ta thường nói “nhất nghệ tinh nhất thân vinh.” Thân vinh đâu tôi không thấy mà tôi thấy tôi cực như trâu. Mà đúng vậy các bạn ạ. Tôi tuổi Sửu. Mà con trâu thì ban ngày kéo cày, tối được nằm nghỉ ngơi. Tôi còn cực hơn trâu các bạn ạ. Người ta thường nói “trâu ruộng bộn bề không bằng một nghề trong tay.” Với nghề dạy học, tôi bán chữ nuôi cha mẹ bịnh tật già yếu, nuôi chồng đang học tập cải tạo trong lao tù khổ sở, nuôi bốn đứa con nhỏ dại tiếp tục cấp sách đến trường.

Cha tôi, tám mươi lăm tuổi, bị té gẫy xương hông nên đã nằm liệt giường suốt năm năm qua. Mẹ tôi tám mươi tuổi, bị mổ bướu buồng trứng ba lần nên sức khoẻ rất yếu. Gánh nặng gia đình oằn xuống trên đôi vai gầy yếu của tôi.

Có một lần nọ, bốn đứa con lần lượt bị ban đỏ (bệnh sởi). Nhìn các con nằm rên xiết trên giường, tôi đau lòng quá! Tôi quẫn trí, định đưa các con lên cầu Bình Triệu (Thủ Đức) để mẹ con cùng nhảy xuống sông chết hết cho rồi!! Nhưng tôi sực nhớ lại, tôi còn cha mẹ già yếu đang cần đến sự chăm sóc của tôi, còn chồng tôi đang học tập cải tạo, đang cần đến sự thăm nuôi của tôi và nhứt là, bốn đứa con yêu quí của tôi đang rất cần đến bàn tay mẹ hiền. Tôi tự nhủ thầm rằng “ Tôi Phải Sống.” Bổn phận làm con, tôi phải báo hiếu cho mẹ cha. Bổn phận làm vợ, tôi phải lo tròn đạo phu thê. Bổn phận làm mẹ, tôi phải nuôi dạy các con khôn lớn nên người. Ròng rã suốt bảy năm trời thì cũng có ngày chồng tôi được trả tự do.

Ngày 21 Tháng Giêng năm 1982, ngày mà chồng tôi được ra khỏi tù (…..), ngày mà cả gia đình tôi đều nở nụ cười mừng rỡ. Nhìn chồng gầy ốm xanh xao, tóc đổi màu bạc trắng, tôi cay đắng, nghẹn ngào.Tôi chạy đến ôm anh, chỉ thốt ra được hai tiếng “Mình ơi,” rồi nước mắt tuôn ra thắm đẩm gò má và loang lổ trên ngực áo. Anh thì cũng chẳng thốt được lời nào, chỉ ôm chặt lấy tôi với khóe mắt rưng rưng đầy lệ.

Ôi làm sao tả xiết cảnh đoàn tụ sao bao năm dài xa cách. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Kể từ bây giờ tôi sẽ có người bạn đời bên cạnh để chia sẻ vui buồn, để chung nuôi con cái, để phụng dưỡng cha mẹ già.

Mỗi tháng anh phải viết báo cáo và trình diện tại phường 24 quận Bình Thạnh (nơi cư trú của gia đình tôi). Sau một năm, anh đi làm thư ký cho khách sạn bên Khánh Hội dưới sự kiểm soát của phường. Đến năm 1984, tôi nhờ một chị bạn làm tại bưu điện Saigon gởi hồ sơ của chúng tôi tới tòa đại sứ Mỹ bên Thái Lan, xin đi Mỹ theo diện H.O.. Chờ đợi mỏi mòn mười năm, hồ sơ được chấp thuận cho cả gia đình gồm cha mẹ và ba đứa con qua Mỹ (đứa thứ tư đã vượt biên năm 1988 và định cư tại Canada).

Làm sao để ta có thể giải thích được phước họa ở đời? Ngày 30 Tháng Chín năm 1994, vợ chồng con cái chuẩn bị đi phỏng vấn cho một cuộc đổi đời thì sự thay đổi oan nghiệt lại lù lù hiện tới: Mẹ tôi đột ngột qua đời! Hỡi ôi, thân nầy ví xẻ làm hai được! Tôi nên đi theo chồng con, hay ở lại lo hậu sự cho mẹ hiền? Thôi thì tùy duyên. Anh và con hãy đi trước đi. Anh ơi hãy cho em… Các con ơi hãy cho mẹ…một lần cuối cùng nhỏ lệ khóc thương đấng sanh thành.

Ngày 17 Tháng Mười, năm 1994, anh và ba đứa con ngậm ngùi từ giã quê hương. Đại úy Nguyễn Văn Quy của sư đoàn 25 Bộ Binh, dẫn theo ba con lên máy bay, đi Mỹ theo diện H.O. 23, để lại người vợ héo hon, người mẹ nát lòng. Sự sống của tôi đã theo đường bay trong đám mây ảm đạm kia mà mất dần, mất dần… Tôi ngã xuống trong chiếc xe mang tôi trở về. Cấp cứu của người bạn bác sĩ làm tôi tỉnh lại và bao lời khuyên lơn của bạn bè lối xóm, làm tôi thuyên giảm nỗi đau lòng. Tôi tự nhủ, thôi thì chỉ có xa nhau sáu tháng. Lo cho mẹ mồ yên mả đẹp rồi gia đình lại sẽ gặp nhau.

Anh và các con qua California ở nhờ nhà người bạn thân mà anh đã kết nghĩa anh em trong tù! Cùng nhau chia sẻ hoạn nạn, dằn vặt, nhục nhã, đói khát, anh và Thạch đã coi nhau như anh em ruột.

Thạch và Bảo, vợ Thạch, cùng các con đã đem hết tấm lòng thương yêu ra, giúp đỡ cho gia đình tôi. Cả nhà đi học ESL. Con trai tôi vì đã học hết hai năm tại trường sư phạm, môn Anh Văn, nên dễ dàng kiếm được việc làm. Cháu đạp xe đi làm nên người bạn Mễ cùng sở thương tình cho cháu quá giang khi mùa đông lạnh tới. Tuy không phải là người cùng chung huyết thống mà cậu ta xem con tôi như người bạn đã thân quen lâu đời. Rồi dần dần cả anh và hai đứa con gái cũng đều có việc làm.

Thế là Chủ Nhật cuộc gọi phone tưng bừng diễn ra. Ôi đại dương ơi, dù mi có xa xôi muôn trùng nhưng cũng không có quyền lực cách ngăn tình chồng nghĩa vợ, tình mẫu tử thiêng liêng. Nhưng hãng điện thoại thì có đủ quyền lực gởi cái “bill” đến với giá sáu trăm đô la! Ôi Chúa ơi, những lần sau tôi đều luôn miệng ngăn cản: “Thôi stop đi anh ơi. Thôi stop đi con ơi …” Tôi xin được phỏng vấn lại sau bốn tháng xa cách.

Ngày 17 Tháng Hai, năm 1995, tôi rời Việt Nam với một tâm hồn nặng trĩu, lớp lưu luyến nơi chôn nhau cắt rún, lớp lo lắng cho bệnh tình của cha già. Tôi không dám đến từ giã người, vì tôi sợ tôi bị xúc động rồi ngất xỉu đi thì sẽ không đi Mỹ được. Tôi bị bịnh cao máu nặng, mỗi khi tôi bị buồn rầu hay xúc động thì tôi bị ngất xỉu rất lâu mới tỉnh dậy. Máy bay cất cánh rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 12 giờ rưỡi và sau 20 tiếng đồng hồ, gia đình tôi xum họp lại tại Mỹ.

Ngày ngày tôi đến trung tâm St. Alsem để học Anh văn. Sau sáu tháng tôi phải đi mổ mắt. Trước khi đi mổ, tôi quỳ gối trước bàn thờ và thành tâm khấn nguyện: “Xin Đức Mẹ cho con thấy được rõ ràng sau khi mổ mắt. Nếu con bị mù chắc con tự tử chết quá, vì con không muốn làm khổ chồng và các con của con !” Có lẽ vì quá thương chồng và các con nên tôi mới có ý nghĩ điên cuồng như thế.

Đức Mẹ đã nhận lời cầu nguyện của tôi nên sau khi mổ, đôi mắt tôi rất sáng và trông thấy rõ ràng. Tôi có thể đọc sách mà không cần mang kiếng lão nữa. Con xin cám ơn Mẹ Maria, tôi xin cám ơn bác sĩ Minh, người đã mổ mắt cườm cho tôi. Tôi đặt chân lên đất Mỹ ở cái tuổi năm mươi tám, cái tuổi dở thầy, dở thợ, và không muốn đi ở đợ. Ở Việt Nam tôi làm cô giáo, qua Mỹ tôi “tháo giầy.”

Làm cô giáo 35 năm, hôm nay đổi đời tôi trở lại làm học trò! Thật là một kinh nghiệm sâu sắc và quí giá. Chồng tôi học Anh văn và Spanish vào buổi tối. Tôi học buổi sáng. Ban ngày anh đi làm việc ở tận Long Beach. Chiều về ăn vội vài chén cơm rồi đi ngủ để đến 10 giờ tối thì vợ chồng tôi lại đến xưởng phân phát báo Los Angeles Times, để xếp báo. Đến 5 giờ sáng thì cùng nhau đi bỏ báo. Địa điểm bỏ báo của chúng tôi ở gần biển nên mùa Hè thì dễ chịu, còn mùa Đông thì lại vất vả, khổ sở. Gió biển lạnh thấu xương. Tay xách, vai mang bị đựng báo, chúng tôi lê bước bỏ báo đến từng nhà, vì chúng tôi tuổi già, sức yếu, tay run nên không thể ngồi trên xe mà quăng báo một cách điệu nghệ như đám trẻ. Xong việc, anh đưa tôi tới Golden West để tôi tham gia lớp học, còn anh lại đi làm thêm.

Tôi học Anh văn rất khó khăn, nên mấy tháng đầu nghe thầy giảng mà như vịt nghe sấm! Phần lớn tuổi, phần đầu óc chậm tiếp thu, nên thay vì học lớp cắm hoa chỉ có hai năm, tôi phải mất bốn năm. Sau bốn năm miệt mài tôi cũng ra trường vào mùa hè 2001 với chứng chỉ Floral Design & Shop Management. Dù có chứng chỉ trong tay nhưng với số tuổi đời đã muộn nên không có tiệm hoa nào mướn tôi hết. Tôi đành ở nhà lo cơm nước cho chồng và các con. Đêm đêm cùng chồng đi bỏ báo cho đến lúc hưởng tiền già.

Tôi thuộc loại “Giamaha” (già mà ham). Ham học, ham làm chớ không ham đi shopping. Vì tiết kiệm ngân quỹ gia đình, tôi chỉ mặc đồ hiệu ‘”DOMIBO” (đồ Mỹ bỏ ) và “DOREMI” (đồ rẻ Mỹ). Ba đứa con tôi tiện tặn để dành tiền trong ba năm và mua được một căn nhà ba phòng ngủ, hai phòng tắm, giá $158,000 mà chỉ đặt tiền trước có $ 10,000.

Trước khi mua nhà chúng tôi tạm trú với Thạch. Sau một năm chúng tôi muớn một căn hộ hai phòng đường Magnolia để ra riêng. Sau khi ở được hai ngày, đứa con trai lớn xuống garage thì thấy xe đã mất. Tôi bủn rủn cả chân tay. Chiếc xe chưa trả hết tiền mà đã mất.

Nỗi khổ mất xe còn nóng hổi thì anh cả tôi bên ViệtNam kêu qua, báo tin ba tôi vừa mới qua đời sáng ngày 05 Tháng Tư, năm 1995. Con người có thể chịu đựng được bao nhiêu đau khổ dập dồn trong một thời gian ngắn ngủi hả bạn? Lòng tôi ray rứt, ăn năn. Phải chi tôi nán lại Việt Nam hai tháng thôi thì tôi đã có cơ hội mang chiếc khăn tang tiễn đưa ba tôi đến nơi yên nghỉ cuối cùng. Phải chi tôi đừng vội vàng, tôi đã có thể quỳ bên giường bệnh và vuốt mắt đấng sanh thành trong lần tiễn biệt. Tôi khóc như mưa và khấn nguyện: “ Cha ơi, xin hãy tha cho con tội bất hiếu. Con không thể nào vẹn vẻ cả đôi đường… Xin cha hiểu cho con. Con thương cha nhiều lắm…” Tôi không thể về VN được nên gởi tiền về cho anh tôi lo ma chay. Trong sáu tháng tôi mồ côi cả mẹ lẫn cha !

Tôi ở nhà lo việc nội trợ, nấu nướng để khi chồng và các con về sẽ có bát canh nóng, chén cơm dẻo. Cả nhà sống trong hạnh phúc giản dị, chân thành. Các con ban ngày làm việc, tối học thêm ở Golden West College. Chúng hiện đã hoàn thành “ Giấc Mơ Mỹ” với công việc ổn định, nhà cửa đàng hoàng. Vợ chồng tôi chỉ ao ước sớm có cháu nội ngoại để ẵm bồng cho vui tuổi già. Các con tôi đều hiếu thảo, hiền ngoan. Gia đình tôi rất hạnh phúc. Cuối tuần xum họp, ăn uống và cùng nhau đi lễ ở nhà thờ Westminster. Chúng tôi tập cho các con biết thương yêu, chia sẻ và nâng đỡ nhau trong những khi tối lửa tắt đèn.

Sau mười sáu năm cùng nhau chia sẻ tất cả thăng trầm, buồn vui, khổ đau và hạnh phúc, ngày 14 Tháng Giêng, năm 2009, chồng tôi bỏ tôi ra đi, về với Chúa. Anh trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Fountain Valley vì nhồi máu cơ tim. Trước khi hôn mê, anh đã thì thầm với tôi: “Loan ơi, anh mệt lắm.” Nghe anh nói mà tim tôi đau nhói. Tôi cảm thấy như có muôn ngàn mũi tên đâm vào trái tim tôi. Tôi nắm tay anh, cố nén tiếng khóc. Đau khổ ơi, hãy chảy ngược vào tim đi, hãy nằm đó rã tan và thấm đậm. Rồi một ngày nào đó, chúng ta sẽ cùng nhau gặm nhắm từng phút, từng giây, từng nét rạch, từng đường vỡ để cho nước mắt nhỏ từng giọt xuống mộ bia lạnh lẻo, để người nằm đó nhắm mắt thở dài… Anh chăm chú nhìn tôi rất lâu mà không nói được cho đến khi hoàn toàn chìm vào hôn mê. Bác sĩ mời mẹ con tôi ra ngoài để họ dùng máy nhồi tim. Mẹ con tôi ngồi chờ trên đống lửa. Sau cùng ông ra, buồn rầu và nghiêm trang, nói: “Xin lỗi bà, chúng tôi đã làm hết sức. Ông nhà quá yếu…”

Các con dìu người mẹ khổ đau ngồi xuống ghế. Tình yêu, hạnh phúc, xum họp, chia lìa… Như những bọt nước…như những chiếc lá vàng… mênh mông… bềnh bồng… vô tận…

Chúng tôi được phép xuống phòng ICU để nhìn mặt anh lần cuối cùng. Sau khi Cha làm phép xức dầu và đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn Gioan Baotixita sớm về với Chúa thì y tá đến rút ống oxy. Tôi nắm bàn tay mềm mại và còn chút hơi ấm của chồng mà nước mắt tuôn rơi. Tôi than thầm: “ Mình ơi, sao mình nỡ đi trước, bỏ em lại bơ vơ một mình. Mình nhớ cầu xin Chúa sớm rước em đi theo mình nghen mình !”

Chúng tôi quàn anh tại nhà thờ Dilday Brothers ở đường Beach. Chúng tôi xin cảm tạ tất cả quý Cha, quý thân nhân, bằng hữu đã an ủi, thăm viếng và tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Chúng tôi cũng không quên cám ơn nước Mỹ đã cho những gia đình cựu quân nhân của quân lực Việt Nam Cộng Hoà được tị nạn trên miền đất tự do nầy… được tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do ứng cử và bầu cử, và được tự do biểu tình v..v..

Chúng tôi nguyện chọn nơi đây là quê hương thứ hai và chúng tôi cũng sẽ gởi nắm xương tàn tại non nước nầy, giống như người chồng, người cha yêu quý của chúng tôi vậy.

Nguyễn Kim Loan

From: TU-PHUNG

Baby sit

Baby sit

Nguyễn thị Thanh Dương

“Cần người baby sit ở tại nhà, trông 3 đứa trẻ 7, 6, và 5 tuổi, làm vài công việc vặt. Có phòng riêng, lương hậu hỉ. Xin mời ”.

Đọc hàng loạt mục cần người đến nhà giữ trẻ, tôi dừng lại ở đây, sao mà thích hợp với tôi đến thế, tôi đang tìm một nhà có đông trẻ con để đến giúp việc, vì tôi cô đơn quá đổi. Cái nghề baby sit này tôi đã nghĩ tới với rất nhiều hứng thú sau những tháng năm dài mấy lần vấp ngã trong cuộc đời.

Tôi gọi phone ngay:

– Hello, chào chị, tôi có đủ điều kiện để xin làm baby sit cho nhà chị đây.

Giọng hớn hở bên kia đầu dây:

– Chị trẻ không? Khỏe không? Em có 3 thằng con trai quậy dữ lắm, đến nỗi bác Ba hiện thời đang baby sit tụi nó chịu không thấu, bác quá mệt đòi thôi việc nên em mới đăng báo kiếm người thế vô, bác Ba làm nốt 2 tuần nữa cho tròn tháng rồi mới ra…

Chị ta nói dài quá tôi phải ngắt lời :

– Tôi hiểu rồi, năm nay tôi 40 tuổi, sức khỏe tốt. Được không?

– Vậy thì tốt quá, coi như em nhận lời mướn chị, bữa nào mời chị đến nhà, coi những công việc bác Ba làm sao chị làm vậy.

Tôi đồng ý, hai tuần nữa tôi lại có một cuộc sống khác.

Một cuốn tiểu thuyết có bao nhiêu trang buồn vui thì cuộc đời tôi cũng có bấy nhiêu trang. Tôi là một đứa trẻ không có cha ngay từ trong bụng mẹ, nghèo khổ và lam lũ tôi sống với mẹ bữa đói bữa no trong một xóm lao động ở Việt Nam, năm tôi 12 tuổi mẹ tôi bị bệnh chết, không thân bằng quyến thuộc. Tôi bơ vơ.

Tôi được một bà hàng xóm tốt bụng mang tôi đến một gia đình họ hàng của bà. Đó là chủ hãng nước mắm ở bến Chương Dương, Sài Gòn, để tôi làm việc vặt gì thì làm, mục đích chính là họ nuôi tôi làm phước.

Ông bà chủ có hai người con gái tuổi mười tám đôi mươi, đa số tôi làm việc vặt cho hai cô. Biết thân phận mình tôi làm việc rất chăm và ngoan ngoãn nên cả ông bà và hai cô đều thương. Được sống ở thành phố, bên cạnh hai cô chủ, tôi phổng phao khoẻ mạnh và đầu óc khôn ra, những sinh hoạt của họ cũng cho tôi nhiều kiến thức. Lúc nào rảnh hai cô thay phiên nhau dạy tôi học chữ.

Tôi quý mến ông bà chủ hãng nước mắm lắm, tôi hay nói với ông bà con mong mau lớn con sẽ khuân nước mắm từ kho ra xe, ông bà đỡ phải mướn người ta. Nhưng chưa đến cái ngày tôi được làm công việc đó để đền ơn đáp nghĩa chủ, thì năm 1980 cả nhà ông bà tổ chức vượt biên, và tôi nghiễm nhiên đã là một thành viên của gia đình họ nên cũng được đi theo. Năm đó tôi 18 tuổi.

Sang đến Mỹ tôi vẫn tiếp tục làm người giúp việc cho họ. Vài năm sau hai cô học hành xong và lập gia đình, cuộc sống của tôi vẫn êm đềm theo gia đình chủ, nhưng hai cô nói tôi không thể suốt đời làm thuê làm mướn cho nhà cô mãi được, tôi đã trưởng thành cấn có một cuộc sống riêng, có vợ có chồng như người ta. Hai cô thương tôi mà nói thế, chia tay hai cô tôi buồn lắm và không tự tin chút nào, vừa xấu vừa không trình độ thì ai dám lấy tôi?

Thế mà có người thương tôi, lấy tôi, làm tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, anh quê ở Long Đất, Vũng Tàu, làm tài công chở người vượt biên từ ghe nhỏ ra ghe lớn, một hôm anh liều mình lên ghe lớn đi luôn, qua đây tứ cố vô thân. Anh cũng bơ vơ.

Gia đình ông chủ hãng nước mắm ở California, còn tôi và chồng rủ nhau về Tiểu bang Texas, nghe nói cũng đông người Việt Nam và nhà cửa thì rất rẻ so với Cali.

Sau này tôi hỏi chồng tôi với vẻ cảm động và vô vàn biết ơn rằng em xấu, em quê mùa thế tại sao anh lấy em, anh yêu em ở điểm nào ? Anh đáp thản nhiên thời điểm đó ít người Việt Nam, đàn ông thì thừa, đàn bà thì thiếu, thà lấy em còn hơn ở giá, chứ có yêu thương gì đâu!

Sự thật mất lòng, nhưng chứng tỏ là anh thành thật, thôi thì “ bèo dạt mây trôi” gặp nhau, cho đời bớt buồn, bớt khổ. Chúng tôi an phận sống bên nhau và mong muốn có một đứa con, nhưng chờ hoài hết năm nọ, năm kia, hai vợ chồng tôi mới đi bác sĩ để biết một sự thật đau lòng tôi không có khả năng sinh con. Chồng tôi thất vọng, chán nản sinh ra nhậu nhẹt say sưa, một hôm tôi biết được anh đã ăn ở với một cô gái, và cô đang mang bầu, tôi hiểu phận mình thua thiệt, tự nguyện rút lui, trả anh cho cuộc đời mới đang mở ra cho anh.

Vài năm sau tôi lập gia đình với một ông lớn tuổi, bị vợ bỏ, ông chấp nhận hoàn cảnh tôi, không cần con cái, hình như ông dị ứng với vấn đề này, ông nói con cái ở Mỹ chỉ là một lũ mất dạy. Tôi an lòng sống với ông, tưởng sẽ được hạnh phúc cho đến tuổi già. Nhưng ông bị chết đột ngột vì bệnh tim, không kịp một lời trăn trối, nhưng cũng kịp để lại cho tôi một món tiền khá lớnphải trả nợ cho credit card, không biết ông đã vay mượn từ lúc nào, mang tên hai vợ chồng, chỉ để đánh cá football (sau này tôi mới biết đó chính là nguyên nhân ông bị vợ bỏ, con khinh, và vất va vất vưởng như lục bình trôi sông rồi tấp vào đời tôi, để tôi phải trả một giá rất đắt cho cái hạnh phúc mà tôi chưa hề được hưởng). 

Tôi đã cần cù đi làm lương vài đồng một giờ trong vài năm để trả món nợ đó, tôi suy luận theo thuyết nhà Phật, có lẽ kiếp trước mình mắc nợ ông ta? Bây giờ nợ trả hết rồi, tôi không oán hận gì ông đâu, ông hãy thanh thản an giấc ngàn thu, chỉ mong rằng kiếp sau nếu có tái sinh , dù lấy ai cũng xin ông chừa thói cờ bạc, chừa đánh cá football cho vợ con ông nhờ.

Vừa xấu người, vừa xấu số, qua hai đời chồng mà chẳng được gì ngoài thất vọng khổ đau.Tôi quyết tâm an hưởng cuộc sống độc thân, tưởng rằng sẽ thanh thản mà sao buồn thế! đơn độc thế! Đôi lúc tôi muốn quay về tìm hai cô chủ cũ đang sống ở California, nhưng lại tự ái, và phụ lòng tin tưởng của người ta nên đành thôi. 

Tôi cũng là một người đàn bà như bao nhiêu người đàn bà khác, cũng thèm khát một mái gia đình, những đứa trẻ thơ, để được săn sóc chúng, thương yêu chúng. Thế là tôi nghĩ đến nghề baby sit, tôi muốn được ở tại nhà chủ, sống hàng ngày với họ, để hưởng lây không khí gia đình, để gần gũi những đứa trẻ mà đáng lẽ tôi cũng có.

***

Tôi đã đến nhà cô chủ mới để quan sát tình hình, vợ chồng chú An giới thiệu tôi với bà Ba và 3 đứa trẻ rồi họ vội vã rời khỏi nhà, họ đang kinh doanh một nhà hàng lớn rất đông khách nên bận túi bụi, việc nhà cửa, con cái giao phó hết cho người baby sit.

Lần đầu nhìn 3 thằng ranh tôi đã thích, còn chúng nhìn tôi với vẻ tò mò .Hôm nay ngày nghỉ nên chúng ở nhà đủ, bà Ba vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi, bà hơn 65 tuổi, nhưng chưa có quốc tịch nên chưa được hưởng tiền già. Ôi, ở cái tuổi này mà phải quản lý 3 thằng vừa ăn khoẻ vừa nghịch ngợm như thế kia thì mệt thật! Tôi bỗng thấy mình còn trẻ quá, sẽ đủ sức làm nữ tướng điều khiển 3 thằng lính quèn đó.

Tôi tiếp tục công việc của bà Ba không khó khăn gì, sáng dậy lo cho 3 đứa đi học, trưa lần lượt đón về, chiều nấu cơm, tắm rửa cho chúng, rồi dọn dẹp nhà cửa… Tôi vừa nghiêm vừa thân thiện để chúng không ăn hiếp và không quá sợ tôi. Ai như bà Ba muốn làm cái gì cũng phải năn nỉ nào ăn cơm đi, nào tắm đi, nào thay đồ đi.v.v… rồi bà thương, chúng nó đâu cần cái tình thương hứa hẹn của bà để phải đánh đổi những trò chơi hứng thú của chúng. 

Mỗi lần cho lũ trẻ tắm là một cuộc chơi “trốn tìm” và “đuổi bắt” đầy ngoạn mục, quần áo dơ thay ra, chúng không để vào rổ trong phòng tắm mà cố tình quẳng vào kẹt tủ, gầm giường, hay góc bếp cho bà Ba tìm mệt nghỉ, bà Ba đi khắp nhà tìm quần áo dơ của chúng như tìm chiến lợi phẩm sau một cuộc giao tranh. Xong, thì 3 thằng lại xổng mất, bà phải chạy từ phòng nọ đến phòng kia, từ tầng lầu xuống tầng dưới, và ngược từ tầng dưới lên tầng lầu để tóm chúng lôi vào phòng tắm… 

Bà mệt và căng thẳng đến nỗi có đêm bà thấy ác mộng, 3 đứa chạy nhảy bừa bộn trong phòng tắm, nước văng tung toé, nước tràn lan lênh láng, trôi bà đi khắp nhà… Giật mình tỉnh dậy người bà còn đẫm mồ hôi, bà không tin là mình vừa ngủ mê, lò dò bật đèn ra phòng tắm, thấy mọi sự yên tịnh bình thường bà mới yên tâm vào ngủ tiếp.

Khi bố mẹ chúng ra khỏi nhà, căn nhà rộng 4,000 sqft, đẹp đẽ sang trọng, trên khu đất rộng, vườn tược xinh tươi, hàng tháng có người đến làm vườn cắt cỏ này là của tôi, tôi tha hồ ra mà đi trên cỏ non xanh mướt, ngắm hoa lá, nhìn chim bay… Những giây phút thú vị đó, tôi tin chắc rằng vợ chồng cô chủ chưa bao giờ biết đến.

Vào nhà tủ lạnh đầy ngập đồ ăn, tôi muốn ăn, muốn bày món gì có mà trời biết. Tôi đã làm những món ăn, bánh trái khiến lũ trẻ thích mê, tôi kể cho chúng nghe những đứa trẻ bằng tuổi chúng đang ở Việt Nam, đang thiếu ăn, thiếu mặc, hay không được học hành gì cả… tôi kể về tuổi thơ nghèo khổ của tôi, chúng cảm động nghe tôi kể như nghe chuyện cổ tích, tôi dạy chúng phải biết quan tâm và giúp đỡ người khác, biết nhường nhịn thương yêu nhau. 

Dần dần 3 đứa đều quý mến tôi, ngoan ngoãn nghe lời tôi, chúng không nghịch phá nữa, tự mình làm những gì có thể được, tôi không phải hầu hạ chúng như bà Ba, trái lại tôi còn sai chúng làm được khối việc vặt, khi quần áo đã sấy khô, chúng gấp lại, của đứa nào đứa nấy mang về phòng, chúng vui thích vì được tự tay xếp quần áo vào tủ theo ý mình. 

Tôi sai chúng nó lấy báo cho tôi đọc hay rót nước cho tôi uống là chuyện thường tình ở nhà, không biết bố mẹ chúng nhìn thấy có xót ruột không? Chứ chúng làm với tất cả lòng hăng hái, mà tôi cũng thương yêu chúng biết bao nhiêu, không phải là nhiệm vụ của một baby sit đâu, mà bằng tấm lòng của một người mẹ.

Tôi và 3 đứa trẻ đã có những ngày êm đềm hạnh phúc, những bữa cơm chiều đầm ấm, những buổi trưa 3 đứa thì ngủ, còn tôi nằm khểnh nghe nhạc, thảnh thơi như một kẻ vô công rỗi nghề, tôi mở máy nghe Chế Linh và Tuấn Vũ, hai giọng ca mùi mẫn là thần tượng của tôi, họ hát bài gì tôi cũng thuộc dù tôi không nhớ tên tác giả, nhưng chắc chắn là không có nhạc Trịnh công Sơn, dù ai cũng khen nhạc ông ta, có nhiều câu nhạc của Trịnh công Sơn nghe “mơ hồ” quá tôi không hiểu nổi: “Tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống thành hồ nước lênh đênh.” Hay “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…” thà cứ cụ thể, huỵch toẹt như “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn…” hay “Đêm đêm một mùi hương, mùi hoa sứ nhà nàng…” nghe mà thấm tới tim tới phổi, nghe mà rơi lệ.

Nằm nghe nhạc đã, tôi ngủ thiếp đi, tỉnh dậy 3 đứa trẻ vẫn nằm ngủ bên tôi trong căn nhà sạch sẽ thơm tho, chẳng có chuyện gì phải làm, tôi vẩn vơ nghĩ tới vợ chồng cô An, không biết ngay giây phút này họ đang làm gì nhỉ ? Tội nghiệp ! chắc chú An đang bù đầu trong khói bếp mịt mù, trước kia chú có thuê đầu bếp, nhưng đứa thì làm mình làm mẩy, đi trễ về sớm, đứa thì chuyên môn ăn cắp mang về nhà toàn những món đồ biển đắt tiền. 

Thế là chú vừa là ông chủ vừa kiêm luôn chức đầu bếp cho chắc ăn, khỏi phải trả tiền công đầu bếp mà lại quản lý được cả đám nhân viên dưới bếp, không thất thoát hao phí đồ ăn, thực phẩm. Còn cô An cũng bù đầu không kém, như tất cả những người Châu Á làm kinh doanh, khâu tiền nong thì chỉ có ngưòi nhà hay chính chủ nhân quản lý, cô An ngồi trong quầy thu tiền, mỗi ngày phải mỉm cuời không biết bao nhiêu lần, phải Hello, Thank you với không biết bao nhiêu người, kể cả những người có bộ mặt đáng ghét nhất.

Chín mười giớ tối cô chú An mới về tới nhà, tắm rửa và hỏi thăm con cái qua loa xong là lăn vào phòng ngủ, nếu có động đất hay trời sập chắc họ cũng không biết.

Làm gì cô chú An dám mơ tới một giấc ngủ trưa thanh bình nhàn hạ như tôi? Nằm nghe nhạc lâm ly sướt mướt như tôi?

Làm chủ nhà hàng, khách tới ăn tấp nập, nhưng cô chú An thường không ăn nổi những món ăn của mình, ngày nào cũng ngửi, cũng nhìn thấy, họ ngán quá rồi, cô An thường mang đồ ăn do tôi nấu ở nhà , tôi làm món dưa cải muối chua với củ hành đỏ thật thơm ngon, cô An rất thích.

Từ ngày làm baby sit, ăn, ở, chủ bao nên đồng lương tôi hầu như không dùng tới, dư được bộn tiền, tôi không có họ hàng gần xa ở Việt Nam để mà giúp họ. Tôi nghĩ đến những đứa trẻ nghèo – như tôi ngày xưa – và muốn đồng tiền của tôi được hữu ích tôi liên lạc với một ngôi chùa ở Việt Nam, thông qua đó, hàng tháng tôi gởi tiền về để chùa mang đến những Cô nhi viện, những Nhà nuôi trẻ em khuyết tật, cho các em được thêm manh áo mới, thêm miếng ăn ngon. 

Nếu quả thật kiếp này làm điều lành kiếp sau được hưởng thì tôi mong sẽ có một mái gia đình và những đứa con như 3 thằng mà tôi đang baby sit là đủ rồi, chẳng mong giàu có sang trọng gì.

Một hôm cô An mang về một tờ báo xuất bản ở Việt Nam, do người bạn cô mới đi chơi Việt Nam và mang về. Cô An chỉ cho tôi bài viết về một bà người Việt sống ở Mỹ có lòng từ tâm, hàng tháng gởi cả ngàn đô về Việt Nam để giúp các trẻ em nghèo.

Cô An chặc lưỡi:

– Làm điều thiện mà dấu tên, ngu thật. Người ta đâu biết mình là ai, thì hãnh diện với ai đây?

Rồi cô so sánh, nửa đùa nửa thật:

– Chắc bà này giàu lắm mới chi ra như thế. Mà có giàu hơn tôi được không?

Mỗi ngày nhìn vợ chồng cô An ra đi, lao vào cuộc sống, tôi biết họ kiếm ra rất nhiều tiền, bằng sức lực mồ hôi và bằng cả sự khôn ngoan sống ở đời như cô An đã từng hãnh diện khoe với tôi, chị biết không, buôn bán kiếm lời là chuyện dĩ nhiên, ngoài ra phải biết kiếm thêm, mỗi bill tính tiền ăn của khách đều cộng thuế, nhưng tôi đâu có ngu mà khai thật lợi tức của mình với sở thuế, nên hầu hết tiền lời, tiền thuế của người ta trả đều vô túi mình.

Còn tôi, lương tháng 1,200 đồng, không kiếm thêm được đồng nào như vợ chồng cô chủ. Nhưng nếu so sánh giữa tôi và họ ai giàu hơn? Thì …tôi chứ ai! Vì tôi còn có tiền phân phát cho người khác. Và ai sướng hơn? Thì… cũng tôi chứ ai! vì tôi có niềm vui khi đã mang lại niềm vui cho người khác…

Nguyễn thị Thanh Dương

From: Xuan Nguyen

Hỏi vị khách đi xe 1 câu, tài xế taxi thay đổi cả cuộc đời con trai mình

Hỏi vị khách đi xe 1 câu, tài xế taxi thay đổi cả cuộc đời con trai mình

20/05/2020   

Câu chuyện của tài xế taxi Irving Stern đăng trên tạp chí Reader’s Digest đã truyền cảm hứng cho nhiều người.

Suốt 28 năm, 3 tháng, 12 ngày qua, tôi là lái xe taxi ở thành phố New York. Nếu bạn hỏi sáng hôm qua tôi đã ăn gì, có thể tôi sẽ không nhớ nổi. Nhưng có một chuyến đi mà tôi sẽ ghi nhớ suốt đời.

Đó là một sáng thứ Hai đầy nắng mùa xuân năm 1966. Tôi đang lái xe trên đại lộ York để tìm khách. Hôm đó trời đẹp nên taxi hơi ế. Khi tôi dừng đèn đỏ ở ngay đối diện Bệnh viện New York thì một người đàn ông ăn mặc bảnh bao đang lao xuống bậc thang của bệnh viện. Ông ấy vẫy xe tôi.

Khi đèn xanh chuyển sang màu xanh, người lái xe phía sau tôi bấm còi inh ỏi. Nhưng tôi cố đợi vị khách. Cuối cùng, người đàn ông cũng lên xe. Ông nói tôi cho tới Sân bay LaGuardia và cảm ơn tôi vì đã đợi.

Tôi nghĩ bụng ‘thật là tin tốt’. Vào buổi sáng thứ Hai, ở sân bay LaGuardia, chỉ cần một chút may mắn, tôi sẽ có khách chiều về.

Tài xế taxi Irving Stern kể lại câu chuyện trên tạp chí Reader’s Digest

Và như mọi khi, tôi tự hỏi về vị khách vừa lên xe. Liệu ông ấy là người hay nói, kín tiếng hay chỉ thích đọc báo trên xe? Một lúc sau, ông bắt đầu bắt chuyện. ‘Anh thích công việc này không?’ – ông hỏi tôi.

Đó là một câu hỏi cũ rích, nên tôi cũng trả lời theo cách cũ rích: ‘Cũng ổn’.

‘Nó giúp tôi kiếm sống và đôi khi được gặp những người thú vị. Nhưng nếu có một công việc có thể kiếm thêm được 100 USD/ tuần, tôi sẽ nghỉ việc này – giống như anh thôi’.

Câu trả lời của ông ấy khiến tôi tò mò: ‘Tôi sẽ không nghỉ việc kể cả công việc của tôi có bớt đi 100 USD mỗi tuần’.

Tôi chưa từng nghe thấy ai nói thế, nên tôi hỏi: ‘Ông làm nghề gì vậy?’

‘Tôi làm ở khoa Thần kinh của Bệnh viện New York’.

Tôi luôn luôn tò mò về mọi người. Tôi cố gắng học hỏi từ họ. Nhiều lần, trong những chuyến đi dài, tôi đã tạo được mối quan hệ với khách của mình và nhận được những lời khuyên rất tử tế, từ các kế toán, luật sư, kể cả thợ sửa ống nước.

Rõ ràng, người đàn ông này rất yêu công việc của mình. Lúc đó, tôi quyết định sẽ nhờ ông một việc khi chúng tôi không còn cách sân bay bao xa.

‘Tôi có thể nhờ anh giúp một việc được không?’ Ông ấy không trả lời.

‘Tôi có một cậu con trai 15 tuổi. Nó rất ngoan và cũng học tốt ở trường. Chúng tôi muốn thằng bé đi trại hè mùa hè này, nhưng thằng bé thì muốn đi xin việc. Nhưng không ai thuê một thằng bé 15 tuổi trừ khi bố nó quen ai đó có công ty. Tôi thì không quen ai’ – tôi dừng lại.

‘Liệu ông có thể cho thằng bé một công việc nào đó làm vào mùa hè không? Thằng bé không cần nhận lương’.

Vị khách vẫn không nói gì. Tôi bắt đầu cảm thấy mình ngốc nghếch khi đề cập đến chủ đề này. Cuối cùng, khi xe dừng lại, ông ấy nói: ‘Chà, các sinh viên y khoa đang có một dự án nghiên cứu mùa hè. Có thể cậu ấy sẽ phù hợp. Bảo thằng bé gửi cho tôi học bạ nhé’.

Nói xong, ông lục túi để tìm danh thiếp nhưng không tìm thấy. ‘Anh có giấy không’ – ông hỏi.

Tôi xé một mảnh giấy từ túi đồ ăn trưa màu nâu của mình. Ông viết nguệch ngoạc lên đó rồi trả tiền cho tôi. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông ấy.

Buổi tối hôm ấy, ngồi quanh bàn ăn cùng gia đình, tôi rút mảnh giấy từ túi áo ra. ‘Robbie, đây là công việc mùa hè của con’ – tôi nói với con trai.

Thằng bé đọc to: ‘Fred Plum, Bệnh viện New York’.

‘Ông ấy là bác sĩ à?’ – vợ tôi hỏi.

‘Ông ấy là một quả táo à’ – đến lượt con gái tôi.

‘Bố có đùa không đấy?’ – con trai tôi thắc mắc.

Sau khi tôi cằn nhằn, la mắng và cuối cùng là đe doạ cắt trợ cấp của thằng bé, Robbie đã gửi bảng điểm của mình vào sáng hôm sau. Cái tên của vị khách là trò đùa của bọn trẻ mấy ngày sau đó. Dần dần, sự việc bị lãng quên.

2 tuần sau, khi vừa đi làm về, tôi thấy con trai cười rạng rỡ. Thằng bé đưa cho tôi một bức thư được in nổi gửi từ ông Fred.

Tựa đề bức thư đề: Fred Plum, tiến sĩ, trưởng khoa Thần kinh học, Bệnh viện New York. Con trai tôi được thư ký của ông gọi tới để phỏng vấn.

Robbie được nhận công việc. Sau khi làm việc 2 tuần như một tình nguyện viên, thằng bé được trả 40 USD/ tuần trong suốt mùa hè. Chiếc áo màu trắng của phòng thí nghiệm khiến thằng bé thấy mình quan trọng hơn khi theo Tiến sĩ Plum đi quanh bệnh viện, làm những việc vặt cho ông.

Mùa hè năm sau, Robbie lại làm việc trong bệnh viện, nhưng lần này, thằng bé được giao nhiều nhiệm vụ hơn. Khi Robbie tốt nghiệp trung học, Tiến sĩ Plum đã rất tử tế viết thư giới thiệu để thằng bé đăng ký vào đại học. Cuối cùng, thằng bé được nhận vào ĐH Brown.

Mùa hè tiếp theo, thằng bé lại làm việc ở bệnh viện, rồi dần dần dành tình yêu cho nghề y. Sau khi tốt nghiệp đại học, Robbie nộp hồ sơ vào trường y. Tiến sĩ Plum lại viết thư giới thiệu chứng thực khả năng và tính cách của thằng bé.

Robbie được nhận vào Trường Y New York. Sau khi có bằng y khoa, thằng bé làm nội trú 4 năm ở Khoa Sản.

Ông Irving Stern (trái) và con trai Robert Stern – bây giờ đã là bác sĩ

Bây giờ con trai tôi đã trở thành bác sĩ Robert Stern. Một số người có thể gọi đó là định mệnh. Nhưng nó cho bạn thấy rằng những cơ hội lớn có thể đến từ những cuộc gặp gỡ thông thường, thậm chí bình thường như một chuyến taxi.

Tiến sĩ Plum và Robbie sau đó vẫn giữ liên lạc với nhau cho đến khi ông Plum mất vào năm 2010. Cháu trai tôi bây giờ cũng là một bác sĩ tim mạch, còn 2 cháu gái tôi – một đứa là bác sĩ nha khoa, một đứa là luật sư.

‘Những điều tốt đẹp ấy có thể đều là nhờ bác sĩ Fred Plum – người mà tôi sẽ không bao giờ quên’ – ông Irving Stern nói.

From:TU-PHUNG

Vui buồn chuyện cái khẩu trang

Vui buồn chuyện cái khẩu trang

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Nội hai chữ “khẩu trang” thôi cũng đã làm tôi nghi ngại, chần chừ mãi mới viết bài tản mạn về đề tài này, vì thấy danh từ này lấn cấn làm sao. Thứ nhất nó có vẻ Tàu, “khẩu” là miệng, “trang” là trang bị. Thứ nhì nó đâu chỉ che miệng, mà còn che mũi và mặt nữa. Còn nếu dùng chữ “mặt nạ” dịch từ chữ “gauze mask / face mask” trong tiếng Anh, thì lại có thể hiểu lầm là các mặt nạ đeo để hóa trang vào các ngày xin kẹo Halloween hay trong các phim ảnh. Thôi thì tạm thời gọi nó là “khẩu trang” theo số đông vậy, cho tới khi biết chữ khác tốt hơn.

Được biết mặt nạ / khẩu trang đã có khoảng 9000 năm trước đây ở khắp nơi trên thế giới, đủ kiểu đủ màu sắc dùng trong các buổi săn bắn, rước kiệu, tụ họp ăn mừng mùa gặt hái, ngày văn hóa, thời trang… Khi nhà thám hiểm người Ý là ông Marco Polo đến Trung Hoa vào thế kỷ 13, ông được một quan lớn của nhà Nguyên mời dự yến tiệc. Marco Polo thấy những người hầu bàn đều đeo quanh miệng một mảnh vải lụa nhằm ngăn không cho hơi thở của họ bám vào thức ăn, Marco có cảm giác an toàn và ăn thấy ngon hơn.

Cũng có loại mặt nạ làm bằng sắt hay thép cứng, để bảo vệ các đấu sĩ trong khi cận chiến thời Trung Cổ. Ngày nay một số môn thể thao có va chạm mạnh như khúc côn cầu, đấu kiếm… người ta vẫn đeo mặt nạ cùng với mũ sắt để bảo vệ đầu. Mặt nạ chống hơi độc là quân trang ra đời khi chiến tranh hóa học xuất hiện. Những người thợ hàn cũng rất cần mặt nạ, vì đó là công cụ để che ánh sáng và sức nóng khi hàn chảy kim loại chế biến thành đồ dùng. Trong y khoa, các bác sĩ, y tá, nha sĩ… luôn đeo mặt nạ y tế khi làm phẫu thuật, mổ xẻ, khám bệnh… Bệnh nhân khi khó thở vẫn thường được đeo mặt nạ oxy để trợ thở.

Phái nữ thì lại dùng trái cây, mật ong, trứng hoặc các sản phẩm bổ dưỡng đắp lên mặt để giữ ẩm làn da, làm mặt mũi tươi mát, trắng trẻo. Người sang giàu còn đắp mặt nạ bằng vàng để làm đẹp, chống lão hóa. Nói chung là có rất nhiều loại mặt nạ, nhiều mục đích khác nhau và đã có từ xa xưa.

Trong phim ảnh, tôi rất thích vở nhạc kịch “The Phantom of the Opera”, nhân vật nam xấu xí với khuôn mặt biến dạng, phải che mặt nạ. Dù đã che mặt nhưng không che được trái tim, bóng ma Phantom này cũng biết yêu và khổ vì yêu. Kế tới là cuốn phim “The Mask”, tạm dịch là “Kẻ đeo Mặt Nạ”, là một bộ phim điện ảnh hài hước của Mỹ sản xuất năm 1994, trong đó nam tài tử Jim Carrey đóng vai chính đã thành công với cách cười rất mới lạ, thâm thúy. Sau đó là loạt phim liên hệ tới mặt nạ như “Iron Man – Người Sắt” – các cuốn 1, 2, 3 và 4 đều đã thành công không kém.

Trong trận dịch lớn năm 1918, hằng triệu người trên thế giới đã chết vì cúm, chính quyền phải bắt buộc mọi người thời đó đeo khẩu trang hầu làm giảm lây lan. Rồi bây giờ trong trận đại dịch Vũ Hán Covid-19 bắt đầu vào cuối năm 2019, chuyện “khẩu trang” bỗng sôi bỏng trở lại, đang là “phụ kiện” bỗng trở thành “chính kiện”! Người ta dự đoán con siêu vi trùng ác hiểm này sẽ tồn tại nhiều năm, nên việc đeo khẩu trang sẽ là điều thiết yếu trong nhiều năm tới, cũng như khi ra nắng thì ta đội nón đeo kiếng râm, khi ra mưa thì ta che dù…

Tản mạn về khẩu trang tôi lại nhớ ngay tới nhân vật đeo mặt nạ sắt Du Thản Chi trong bộ chuyện chưởng “Thiên Long Bát Bộ” của Kim Dung. Du Thản Chi si mê cô gái đẹp nhưng ác độc vô cùng là A Tỷ. A Tỷ yêu Kiều Phong mà không được đáp lại nên rất đau khổ, bèn lấy Thản Chi ra làm trò tiêu khiển. Lạ cái là chàng họ Du này lại “enjoy” khi được hành hạ, miễn sao thấy người yêu được khuây khỏa. Du Thản Chi móc mắt tặng A Tỷ, rồi vui lòng đeo mặt nạ sắt dán luôn vào đầu vì thương tích gây ra bởi A Tỷ. Ngày ấy nếu có dịch Vũ Hán, ai cũng phải đeo khẩu trang như bây giờ thì chắc Du Thản Chi bớt nhìn kỳ quái khác người và chắc sẽ bớt buồn đi nhiều! Nói tới nhân vật trong chuyện chưởng đeo mặt nạ thì cũng phải kể tới Nhạc Bất Quần. Nhân vật này bề ngoài rất quân tử, nhưng ông che một cái mặt nạ vô hình, nham hiểm xảo trá vô cùng. Sau này khi mặt nạ rơi xuống người ta mới biết. Thật tội nghiệp cô Nhạc Linh San và biết bao người khác đã bị ông lừa dối. Trong Kinh Thánh Công Giáo cũng có nói tới kẻ giả hình, chuộng hình thức thích phô diễn mà trong lòng đầy gươm dao. Thời nay cũng có nhiều người đeo mặt nạ ngụy quân tử rất tài tình, để rồi gạt gẫm nhiều người, nhất là những cô gái nhẹ dạ.

Trở lại chuyện thời nay trong cơn đại dịch Vũ Hán Corona này, đại diện chính phủ các quốc gia rất nhức đầu với vấn nạn và bị chỉ trích rất nhiều, xử sao cũng có kẽ hở, khó khăn. Chẳng hạn thủ tướng Nhật Bản là ông Shinzo Abe đã bị dư luận búa rìu vì ra chánh sách đối phó với cơn dịch khá chậm trễ, nhất là khi ông tuyên bố sẽ phát 2 khẩu trang vải có thể tái sử dụng cho mỗi gia đình Nhật ở khu vực lây nhiễm. Người dân mỉa mai rằng 2 cái thì quá ít, chỉ đủ để làm vật lưu niệm mà thôi. Ông Trump cầm đầu nước Mỹ thì khỏi nói, truyền thông suốt ngày ra rả vạch lá tìm sâu, bàn tán đủ điều. Ông Trudeau – Thủ Tướng đẹp trai của Canada cũng bị trách quá yếu, đến bây giờ mà vẫn làm ăn, ký những hợp đồng tiền triệu với Trung Cộng. Tỷ phú Bill Gate cũng đang bị phanh phui nhiều chuyện không hay liên hệ tới Tàu Cộng. Sinh hoạt cả thế giới đang bị khó khăn, nhiễu nhương từ trong ra ngoài, từ lớn tới nhỏ.

Quan niệm về việc đeo khẩu trang cũng thay đổi tùy quốc gia, tùy thời gian, nhiều khi rất trái ngược nhau. Chẳng hạn trước đây các bác sĩ không được phép đeo mặt nạ y tế N95 ở ngoài phòng làm việc. Chuyện xảy ra cho bác sĩ gây mê Henry Nikicicz tại bệnh viện El Paso (Texas, Hoa Kỳ) đã làm nhiều người thắc mắc. Sau khi mổ cho bệnh nhân, bác sĩ Henry đã đeo mask N95 đi bên ngoài hành lang để tiếp tục tránh vi trùng, nhưng ông bị đình chỉ công việc và không được trả lương vì trái luật bệnh viện. Luật gì mà lạ thế không biết, chắc cũng phải có lý do chính đáng, nhưng tôi chỉ đọc tin thoáng qua, quý vị nào quan tâm xin tìm hiểu dùm.

Theo tờ New York Times, Phần Lan là quốc gia hiếm hoi biết lo xa tích trữ thiết bị y tế, luôn chuẩn bị số khẩu trang cần thiết trong những năm qua – bên cạnh dầu, ngũ cốc và các dụng cụ khác – nên trong cơn dịch cúm Corona này đã không bị “cháy hàng”. Còn lại các nước khác thì đa số đều khốn đốn vì thiếu khẩu trang, không tồn trữ trong kho nên không có để xài trong mùa dịch. Có lẽ do nhu cầu quá cần kíp, nên Trung Cộng lại càng thêm cẩu thả gian dối, chế tạo nhiều mặt nạ thiếu phẩm chất, nên đã bị Uỷ ban châu Âu rồi Thống đốc ở California đình chỉ không chịu tiếp tục mua hàng, số tiền thiệt hại về phía Tàu Cộng lên tới hàng trăm triệu đô Mỹ. Những khẩu trang y tế này mang tên N95 vì khả năng ngăn cản vi trùng, bụi và phấn hoa lên tới 95%. Tàu Cộng làm tệ đến nỗi chỉ che chắn được 1%, thật là quá vô trách nhiệm đáng bỏ tù. Để che vi trùng xâm nhập, khi đeo N95 vào người ta sẽ rất khó thở. Mà nếu còn thấy dễ thở thì chắc là đã đeo sai cách hoặc đã mua nhầm hàng giả. Lại có chuyện “nổi cộm” là hai học sinh Trung Quốc bất ngờ tử vong trong lúc vừa đeo khẩu trang vừa chạy trong giờ thể dục. Lãnh đạo ngành Giáo dục Trung Quốc qua đó đã quyết định hủy bỏ môn chạy ra khỏi chương trình trong học kỳ này. Chuyện này có nhiều chi tiết “lạ”, thế nhưng vì “ma-zde in” Trung Cộng nên thôi không bàn chi tiết chi cho mệt.

Đeo khẩu trang che mặt cũng có cái hay, không ai phân biệt được ai xấu ai đẹp nữa, khỏi tốn tiền và thì giờ phấn son trang điểm, khỏi tốn tiền mua kem chống nắng luôn. Cũng có chuyện vui cười diễu ông chồng chở vợ đi chợ, khi về tới nhà mới biết mình đã chở bà khác về, vì đeo mặt nạ kiểu giống hệt nhìn không ra! Trước đây nếu đeo mặt nạ vào ngân hàng thì bị xem là cướp nhà bank rồi cảnh sát sẽ hỏi thăm ngay, nay nếu khách hàng vào nhà băng đeo khẩu trang, nhân viên sẽ vui vẻ phục vụ. Các ngân hàng luôn có máy thâu phim 24 giờ liên tục, khi rủi ro bị cướp sẽ dựa vào những khúc phim này để tìm ra thủ phạm, bây giờ khách hàng công khai che mặt kín mít, tìm tướng mạo kẻ cướp cách nào đây?

Có người rất khôi hài bảo nhau đeo khẩu trang dù chỉ ở nhà một mình, không phải để tránh vi trùng mà để che bớt cái miệng lại để khỏi ăn, vì cấm cung ở nhà “buồn tình” sẽ ăn nhiều rồi mập ra. Đây là vấn nạn của người ở Âu Mỹ, không đi ra ngoài chơi, các phòng tập thể dục không mở cửa, ở nhà ăn riết thì cơ hội chết vì béo phì có lẽ còn cao hơn chết vì virus Vũ Hán nữa.

Bạn có thích trở thành người nổi tiếng không? Được biết đến kể cũng sướng nhưng cũng thật là phiền đấy các bạn ạ. Đi đâu, làm gì cũng bị soi mói, phê phán. Chuyện là sau khi cách ly nằm nhà do một nhân viên trong văn phòng con gái tổng thống Trump bị nhiễm Covid, mới đây ngày 15 tháng 5 năm 2020, truyền thông đã cho lên “tít” lớn hình cô Ivanka Trump ra đường với chiếc khẩu trang màu đen, khác với ông bố nhất định không chịu đeo đồ che miệng – trừ lần đi thăm hãng xe Ford thì ông Trump chỉ đeo chút xíu cho có lệ rồi bỏ vào túi. Truyền thông luôn rình rập, chụp cho được hình các người nổi tiếng đeo khẩu trang. Mà không đeo thì càng bị chụp hình và phê phán nhiều hơn. Nhà báo cũng soi mói xem các người nổi tiếng giữ luật cách ly, ăn nói như thế nào. Sau vụ Thống đốc Cali bị hỏi ông cắt tóc ở đâu mà lên TV nhìn gọn đẹp thế, thủ Hiến của tỉnh bang Ontario, Canada cũng bị báo chí théc méc vì ông ra luật hạn chế gặp gỡ tụ họp, mà ngày Hiền Mẫu tháng 5 vừa qua lại để các con gái tới thăm. Ông Doug Ford phải vội vã đính chính là số người họp mặt tại nhà ông giới hạn chỉ 6 người, chính con rể hay bạn trai của con gái mà cũng đã không được tới dự. Một người bạn mừng sinh nhật đứa cháu ngoại đầu tiên trong gia đình, hội họp chừng 10 thành viên nên đã bảo con cái không đứa nào được đăng hình ảnh trên “phây” kẻo bị rắc rối. Rõ khổ, không biết chừng nào mới được “độc lập tự do” hội họp như trước đây, đi tiệm cắt tóc không bị cho là phạm tội!

Việc đeo “khẩu trang” ngày nay đang bị chính trị hóa. Phe Cộng Hòa bên Hoa Kỳ muốn tự do, chủ trương mở cửa kinh tế sớm nên không thích đeo mask, ngược lại phe Dân Chủ muốn “trùm mền, bế quan tỏa cảng” nằm nhà, thì lại hô hào đeo mặt nạ. Có người sống ở khu vực đa số theo đảng Dân Chủ, người này đeo khẩu trang ra đường liền bị chửi: “Hey, che mặt thì đi chỗ khác chơi”! Ngược lại có nơi không đeo mask thì không được vào cửa, thậm chí có thể bị phạt “vi cảnh” nhiều tiền. Người Á Đông ở hải ngoại lúc này dễ bị kỳ thị, lầm tưởng là người Tàu mang vi trùng Vũ Hán vào làm hại thế giới, nên đã bị vài nhóm dân địa phương rủa xả đuổi về Tàu, thái độ rất quá khích. Chiều chiều ông xã hay rủ tôi chạy xe đạp vòng vòng chung quanh nhà, tôi cũng thích ra ngoài vận động chút chút vì làm việc bằng computer ở nhà cả ngày cũng tù túng, nhưng lại cũng hơi ớn ớn, sợ bị chửi là Tàu và bị xua đuổi. Anh bạn thân nghe thế bèn khuyên tôi đội nón có in chữ “Việt Nam” khi ra đường, như vậy tự khắc sẽ minh định được mình không phải là Ba Tàu. Bạn có đồng ý rằng lời khuyên này quả là “diệu kế” không?

Tiến sĩ Yinxuan Huang – một nhà nghiên cứu xã hội học tại Đại học Manchester – đã tìm hiểu hiện tượng “Maskaphobia”: Sự phân biệt đối xử và phân biệt chủng tộc đối với những người đeo khẩu trang. Ông Huang cho biết có sự xung đột tư tưởng rất lớn giữa phương Đông và phương Tây về việc này. Vấn đề khá phức tạp dài dòng nên thôi, tôi không dám lạm bàn ở đây.

Phong trào đeo khẩu trang cũng đang được “fashion hóa”. Có bà thì sắm nhiều khẩu trang đủ sắc đủ tông. Áo màu gì, sơn móng tay màu gì thì che miệng màu đó cho “match”, từ trên đầu xuống tới giày dép tạo thành một bộ màu sắc tiệp với nhau nên nhìn rất “sang chảnh”. Cũng có anh mang khẩu trang in hình lưỡi bò với gạch chéo chống China. Có chị dùng nền vàng với ba sọc đỏ, như màu cờ Việt Nam Cộng Hòa để tỏ lòng yêu nước. Nhưng lại có người hát bài “I can you”, vì cho rằng như vậy có thể bị hiểu lầm là VNCH đang bịt miệng không cho nói! Thế mới thấy làm cái gì cũng có thể bị hiểu lầm, bị nhìn theo góc cạnh khác – luôn luôn có hai mặt của vấn đề. Riêng tôi thích loại khẩu trang có thể giặt để xài lại, nhất là loại làm bằng chất trong suốt “see through” để còn lộ mặt được. Tôi không thích loại đen thui tùm hụp kín mít. Các nhà thiết kế thời trang đã từng làm những bộ áo tắm bikini bằng vàng nạm kim cương giá hằng triệu đô, tương lai chắc là sẽ có các buổi trình diễn thời trang với các kiểu khẩu trang mới lạ, quý giá cho dân nhà giàu và giới minh tinh màn bạc. Bạn muốn kiếm tiền lời thì hãy đầu tư vào các chương trình này nhé. Được biết các công ty làm thuốc đang đánh bài sản xuất thật nhiều vaccine chủng ngừa Corona Virus dù chưa được “approve”, chờ khi vừa được FDA chấp thuận là tung ra bán ngay cho kịp thời cơ. Ai muốn mua stock của họ thì mại dzô, nhất 9 nhì bù!

Giữa muôn màu sắc, kiểu cọ của các loại khẩu trang khắp nơi thì tại Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An, người ta đưa lên Facebook những tấm ảnh chụp học sinh phải dùng khẩu trang bằng giấy vì không có tiền mua loại đàng hoàng. Các em tới lớp với tấm giấy che mặt để tuân thủ luật lệ do nhà nước đề ra. Những tấm hình này phơi bày sự thiếu thốn nghèo đói của người dân, không xa hoa “hoành tráng” như đảng Cộng Sản luôn tuyên truyền, hãnh diện khoe khoang. Lại cũng có hình ảnh của người che mặt bị khó thở, bèn “phát huy sáng kiến” khoét hai lỗ ở mũi để thở cho thoải mái. Chèn ơi, đeo như vậy thì đeo làm chi. Cũng mới ra lò loại khẩu trang có nắp tròn bằng plastic ở miệng, khi ăn uống thì mở ra đóng vào như đóng nắp hộp, không phải tháo nguyên cái khẩu trang ra chi cho phiền phức.

Mẫu khẩu trang vải được ướp lạnh chưng bày trong các máy bán hàng tự động đang rất phổ biến ở Nhật Bản. Các miếng che miệng này được giữ ở khoảng 4 độ C, bán rất chạy khi vào hè nóng nực tại các tỉnh như Yamagata. Như vậy vào mùa đông sẽ cần khẩu trang được hấp nóng, mùa nào thức đó mới hợp nhu cầu người tiêu dùng.

Ngày nay mọi người phải đeo khẩu trang là chuyện bình thường, nhưng đã có các bức tượng mà cũng phải đeo mặt nạ mới lạ chứ! Thật thế, có ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan đã đeo vải che mặt cho bức tượng Phật khổng lồ. Các tác phẩm điêu khắc lớn ở các địa điểm tham quan khắp thế giới cũng được che miệng để “làm gương”, nhắc nhở mọi người giữ luật bảo vệ sức khỏe cho nhau. Thậm chí các thân cây trong công viên thành phố cũng được đeo khẩu trang dù cây không có miệng! Chữ “khẩu trang” trong trường hợp này thì sai nghĩa hẳn rồi!

Chuyện vui buồn về khẩu trang cũng được tiếp diễn với các đoạn video ngắn, thâu cảnh con chó biết tự đeo mảnh vải che miệng cho mình một cách thành thạo. Các khúc phim này đã được rất nhiều người xem, “câu like” rất thành công. Bức tranh hoạt họa cô mèo xinh xắn bị che miệng, than thở thế này rồi làm sao bắt chuột cũng là đề tài làm người ta cười trong mùa Covid. Mới đây nhất, thử nghiệm để chó đánh hơi tìm ra xem ai đang bị Cô-Vi hành cũng là đề tài nóng bỏng. Chuyện chó biết đánh hơi phát hiện có ma túy là chuyện “xưa rồi Diễm”, chó bây giờ đang được huấn luyện để ngửi ra mùi cô Vi!

Hình chụp cô dâu chú rể thời đại “mắc dịch” đã phải đeo khẩu trang trong lúc đám cưới là hình đặc biệt có lẽ chỉ có ở thời đại của Cô Vi này. Chuyện không diễu chút nào là các linh mục tại Việt Nam khi cử hành Thánh Lễ đã phải mang khẩu trang trên bàn thờ.

Việc kiện tụng, tranh cãi luôn xảy ra khắp nơi, nhưng mùa đại dịch các vụ kiện càng xảy ra nhiều hơn, như vụ 116 gia đình có người thân qua đời vì Covid 19 đang kiện chính phủ Tây Ban Nha. Các vụ kiện khác liên hệ tới việc mở cửa hay đóng cửa các cơ sở thương mại cũng đang nở rộ sôi nổi. Các sinh viên lên tiếng kiện trường đại học cũng là chuyện dễ hiểu. Mỗi sinh viên trước học kỳ phải đóng học phí rất cao, bao gồm tiền trường, tiền trả cho thầy cô, tiền sử dụng phòng gym để tập thể dục, mà bây giờ phải cách ly xã hội không được tới trường, thì phải kiện để đòi tiền học phí lại chứ. Học online chắc chắn không kết quả như học trực tiếp với thầy cô thật, các em lại cần gặp nhau để trao đổi, có hứng thú tìm hiểu, tranh đua, cần có bầu khí không gian thích hợp. Các em bây giờ phải ca bài “Trả lại em yêu khung trời đại học…” vì vùng trời hoa mộng ấy nay còn đâu, tốn tiền để chỉ đọc bài vở trên mạng khi nằm nhà, trong khung cảnh bố mẹ ra vào thường xuyên đốc thúc, cằn nhằn thì chán chết. Bên nào thắng bên nào thua qua các vụ kiện tụng này thì chưa ai biết, chỉ biết chắc chắn mùa này là mùa các luật sư tha hồ hốt bạc.

Trong khi thực hành luật cách ly, một số nơi đã trở lại hình thức họp chợ ngoài trời, tức là không tụ họp buôn bán trong mall, trong nhà nữa mà ra bãi đất trống, giống như một chợ trời lộ thiên, chia ô cách nhau 2 mét theo đúng luật đòi hỏi. Chúng ta đang trở lại thời nhóm chợ miền quê ở Việt Nam chăng?

Hiện đang có những “app” nhỏ có thể cài đặt trong cell phôn, nguyên tắc cũng như chức năng định vị của GPS, có thể mách cho cơ quan thẩm quyền biết ai đang bị cách ly mà dám đi ra ngoài. Hay là “app” sẽ cho biết nếu trong thời gian qua mình có vô tình đến gần người nhiễm vi trùng Covid 19 không, nhờ thế sẽ mau chóng đi thử nghiệm trước khi bệnh cúm phát nặng. Nhưng cái “app” này hiện chỉ được chính thức áp dụng ở Đại Hàn, tại Âu Mỹ luật “Privacy” bảo vệ tự do cá nhân không ai muốn mình bị theo dõi, nên chưa được phổ thông lắm.

Khi nạn dịnh lan tràn, một số đông tù nhân ở Ohio nước Mỹ bị lây nhiễm vi trùng nên được trả về tư gia, nhà tù không dám chứa nữa, thế nên một số tù nhân nơi khác lại mong mình lây bệnh để được thả về nhà. Họ cố tình uống chung chai nước, gần gũi cọ quẹt cố ý mời “Cô Vi” xâm nhập vào người. Thế mới biết Tự Do là quý vô cùng, chẳng thà lây nhiễm vi khuẩn có thể chết người để được về nhà, còn hơn phải ngày ngày gỡ lịch sống trong tù. Nhưng rất tiếc chính phủ đã phải ngưng không dám thả tù nhân về nhà sớm nữa, vì những người dân chung quanh than phiền họ không cảm thấy an toàn khi “thứ dữ” được ra khỏi tù sớm, sẽ tiếp tục quậy phá họ.

Việc tháo bỏ luật cấm cung được chính quyền cấp trên trao lại cho từng địa phương quyết định riêng, cũng làm xảy ra chuyện buồn cười. Ngày xưa khi chia đôi đất nước Việt Nam, đã có bài hát “Chia đôi dòng sông Thương, nên bên đục bên trong“, nay hai nhà hàng ở ngay biên giới, cách nhau chỉ một con đường mà cảnh tượng nhìn khác hẳn. Bên cho thông thương thì tấp nập khách sắp hàng để được vào ăn, bên vẫn còn cấm cửa thuộc tiểu bang khác nên im lìm. Hai bên nhìn nhau mà lệ ứa, dù chỉ cách nhau trong gang tấc. Có nhiều nhà hàng, cửa hiệu đã bị phạt vì nhận hơn số khách hàng được quy định. Việc tranh cãi, méc moi nhau đang tiếp tục làm cảnh sát rất nhức đầu.

Tại Detroit Hoa Kỳ, ông Robert Sinclair Tesh, 32 tuổi đã bị cảnh sát bắt vì tội hăm doạ giết Thống Đốc Michigan là bà Gretchen Whitmer, vì bà chưa “xả cảng” cho khu vực này hoạt động buôn bán trở lại. Nếu bị kết án, Tesh có thể bị tù nhiều năm vì ở Mỹ mở miệng hăm doạ đến tính mạng người khác là tội rất nặng. Nhiều nơi cũng biểu tình, đòi tự do mở cửa buôn bán, sinh hoạt. Tổng thống xứ Ba Tây cũng tuyên bố đóng cửa cách ly là thất bại vì sẽ biến người dân cả nước thành dân nghèo do kinh tế không phát triển. Cô phát ngôn viên mới của ông Trump – nàng Kayleigh McEnany tóc vàng xinh đẹp cũng đã chia sẻ cô bị ung thư ngực, mà phải ngưng không được tái khám như thế rất có hại cho sức khỏe của cô. Cô ủng hộ ông Trump muốn tất cả mau trở lại sinh hoạt bình thường, cứu lấy nền kinh tế và cứu cả về tinh thần, vì người Mỹ không chịu nổi sự gò bó sẽ dễ có ảnh hưởng tới tâm thần.

Bàn về khẩu trang, có lẽ chuyện sau đây là chuyện buồn nhất đã xảy ra tại thành phố Flint, tiểu bang Michigan vào tháng 5, 2020. Chỉ vì một cái mặt nạ mà một người chết, 3 người khác sẽ lãnh án tù chung thân, qua đó các bà vợ, nhiều đứa con bị ảnh hưởng nặng nề. Số là ông làm bảo vệ cho tiệm Dollar Family ở Flint đã quá sốt sắng khi thi hành công việc, bắt buộc hai mẹ con khách hàng vào tiệm phải đeo khẩu trang. Người khách hàng này không chịu, lời qua tiếng lại gây gỗ, bà nóng nảy nhổ cả nước bọt vào mặt ông bảo vệ. Mua hàng xong, bà còn chưa nguôi cơn giận, về méc với chồng rồi 3 người tất cả đã trở lại tiệm, bắn chết ông Security này. Chuyện khác là có một ông cha dượng 42 tuổi – Hargrove ở Atlanta cũng đã bắn con riêng của vợ vì cãi vả với nhau liên hệ tới Covid, thằng nhỏ lì lợm này không chịu cách ly mà còn cãi bướng.

Người “Tây” thì hay rắc rối thế, riêng người Việt ở hải ngoại lại rất tốt bụng, luôn tỏ lòng biết ơn đất nước đã cưu mang mình qua nhiều hành động cụ thể. Qua mùa dịch Vũ Hán, các tiệm Nail, chùa chiền, nhà thờ, các cá nhân đã may, tặng rất nhiều khẩu trang, bao tay cho người già, nhân viên y tế khu vực mình. Tỷ phú Chính Chu – chồng ca sĩ Hà Phương – cũng được truyền thông nhắc tới khi mua số lượng lớn khẩu trang y tế để hỗ trợ các bệnh viện, trường học…

Qua cơn đại dịch Cororna này, nhiều chuyện đã thay đổi hẳn: “Ngày xưa du lịch thì sang, bây giờ du lịch cả làng cách ly“, ngành du lịch, du thuyền, máy bay, xe hơi, công ty cho mướn xe lâm vào tình trạng kinh tế nguy kịch.

Hình ảnh lãng mạn vuốt tóc, lau nước mắt cho người yêu bây giờ không phải là hình ảnh nên thơ nữa, mà đã tạo ra nhiều thắc mắc: Trước hết tóc nàng cắt nhuộm ở đâu mà đẹp thế trong khi tiệm cắt tóc đang bị ngưng hoạt động. Kế đến hai người không cùng địa chỉ mà đứng gần nhau thì quả là phạm luật cách ly rồi, lại không đeo khẩu trang, không giữ vệ sinh dám sờ vào mặt nhau. Chàng có rửa tay trước và sau khi lau lệ cho nàng hay không? Và tại sao nàng lại phải khóc, có bị ai “abuse” áp bức gì không? Rõ khổ cho thời đại ngày nay phải không các bạn?!

Qua cơn dịch này, phía các ông nhiều người cũng đã biết vào bếp, các trang mạng dạy nấu ăn được truy cập tối đa. Khi lệnh mở cửa lại được ban hành, các nhà hàng được sinh hoạt lại nhưng phải tuân thủ nhiều luật lệ mới. Thí dụ không được để mắm muối, muỗng đũa sẵn trên bàn nữa, cách phục vụ tại nhà hàng buffet, dim sum phải thay đổi tránh không được các “bàn tay chuối mắn” đụng chạm vào. Một số nhà nội trợ bây giờ nấu ăn, rồi giao thức ăn tận nhà với giá rẻ hơn nhà hàng nhiều, kiểu này hệ thống nhà hàng sẽ bị khó khăn thêm, đến nỗi một số quyết định đóng cửa tiệm cho rồi. Hiện chỉ có tiệm bán khẩu trang, thuốc rửa tay, nhà quàng chôn xác chết, tiệm cầm đồ là phát đạt. Được biết do nạn thất nghiệp cao, người ta đã phải đi cầm đồ khá nhiều. Tiệm bán xe đạp cũng có doanh thu cao hơn nhiều, vì người ta cần thư giãn thể dục thể thao ngoài trời cho khuây khỏa. 

Cũng xin mở ngoặc loan tin buồn cho quý vị hút thuốc lá, các nhà nghiên cứu đã làm thống kê cho biết người hút thuốc sẽ có 30% cơ hội cao hơn để lây nhiễm Cô-Vi, và khi phát bệnh thì cũng sẽ khó điều trị hơn. Điều kinh sợ hơn là khi bị bệnh, ngay cả con tinh trùng của người đàn ông nhiễm bệnh cũng có mầm mống Covid trong đó! Ôi chao, con siêu vi trùng này “siêu” thật.

Tản mạn linh tinh nãy giờ coi bộ cũng dông dài lắm rồi, tôi xin tạm dừng. Dù bài viết đôi khi hơi bi quan nhưng vẫn mong người đọc “mua vui cũng được một vài trống canh” trong mùa cấm cung Vũ Hán này. Chúc bạn đeo khẩu trang đúng cách, không bao giờ gặp người giả quân tử đeo mặt nạ để gian dối, lừa gạt mình. Nhất là chúc bạn luôn vui khoẻ, mọi sự an lành và xin cùng nhau cầu nguyện cho thế giới được mau chóng vượt qua đại nạn này.

Nguyễn Ngọc Duy Hân

LẺ BÓNG…

Nhân tiện người bạn gửi cho xem bài viết của TG/Cô Bùi Bích Hà, bài viết rất thấm thía cho mùa đông sắp đến. Cảm ơn Cô.

Thân kính.

LẺ BÓNG…

Xin chuyển và mời quý bạn đọc để thông cảm cái cô đơn của tuổi già chúng ta….  

Ông là một trong những bác sĩ Việt Nam di tản kịp trong biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Tới Mỹ, ông đi học lại, hành nghề rất sớm và thành công tại quận Cam ít nhất trên ba thập niên cho tới khi nghỉ hưu.

Tất nhiên như mọi người có cùng địa vị với ông, ông làm chủ một quỹ về hưu khá lớn, cho phép ông vẫn giữ nếp sống thoải mái như thời còn làm việc. Chỉ có điều, ông than thở: “Nhà cao cửa rộng phải bán đi vì lầu cao, đầu gối đau, không lên xuống cầu thang được, chưa kể nhà lớn quá mà một thân một mình, ở sao hết? Sức đâu mà dọn dẹp?

Nhìn cái hồ bơi đầy lá vàng chỉ thêm cám cảnh. Thảm cỏ sân trước, vườn sau cần người chăm sóc nhưng người làm vườn khi tới khi không, gọi khi được khi mất, chỉ tổ bực mình, nhức đầu. Mời các con, cô cậu nào muốn lấy cái nhà, ông giao nhưng chúng nó, thứ nhất đã có nhà rồi, đẹp và sang gấp mấy lần cái nhà của ông ở Fountain Valley, mắc mớ gì phải nhận của ông để bị anh chị em nhòm ngó, tỵ nạnh, chưa kể nhận cái nhà rồi, sau này khi ông cần gì, nó sẽ là đối tượng thứ nhất được chiếu cố và giao phó trách nhiệm.

Ông đành bán nhà, dọn vào một căn mobile home ở giữa khu Little Saigon cho ông tiện đi lại hoặc hẹn hò bạn bè cũ mới. Nhà ba phòng, sửa sang tươm tất trông cũng khang trang, đẹp mắt, nhưng với ông hôm sớm vào ra một bóng, vẫn còn quá dư thừa.. Mấy bụi hoa xung quanh nhà được cắt tỉa gọn ghẽ vì người phụ trách cây cảnh của chủ đất rất dễ gọi để nhờ vả. Tuy nhiên, “vườn Thúy” của ông thiếu đôi mắt phượng nên không được sum suê và mỹ quan như bên hàng xóm. Ông nhớ cái vườn cây quý tự tay ông đi kén chọn mua giống, chăm bón và săm soi những ngày xưa thần tiên đã xa xôi rồi, ông tặc lưỡi, lắc đầu mấy cái, như người đi dưới cơn mưa muốn rũ sạch những giọt buồn trên khóe mắt.

Nhà đã vậy, xe đẹp cũng thường xuyên nằm ụ vì ông không còn đi đâu xa, ngay cả đi gần thì cũng phải về nhà trước khi tắt nắng vì mắt quáng. Gần đây, vẻ ngoài cái xe và ông chênh lệch nhau nhiều quá, một bên bóng lộn, khỏe mạnh, vạm vỡ, một bên hom hem, xập xùi, yếu ớt, khiến ông ngại ngùng mỗi khi ngồi vào ghế lái, chậm rãi lùi xe ra khỏi gara mà có người đang nhìn ông.

Thêm nữa, do thị lực yếu đi, ông không mấy tự tin vào khả năng ước lượng khoảng cách của cặp mắt mỗi khi cần vào một chỗ đậu xe hơi chật, sợ cọ quẹt, nên ông bắt đầu thấy cái xe Lexus 450 của ông không thích hợp với ông nữa. Gần đây, ông nghe bạn bè kháo nhau xe Honda kiểu Civic đời 2018 rất đẹp, đầy đủ tiện nghi, thoáng nhìn sang trọng không kém kiểu xe đắt tiền, mua mới từ dealer ra chỉ trên dưới $20,000, xài xăng thường, đổ đầy bình chỉ $20 một lần, bảo hiểm cũng rẻ, bảo trì càng không tốn vì hợp đồng bảo trì miễn phí của dealer có lẽ dài hơn số năm tháng còn lại của ông, chưa kể xe nhỏ nhắn, vào ra parking dễ dàng. Ông đang tính bữa nào chờ có đợt xeo, sẽ ra Honda World đổi một chiếc.

Lúc mới dọn vào khu mobile home trên đường Bolsa, thấy chợ Mỹ, chợ Việt đều gần, ông sung lắm, tự đi chợ và nấu nướng. Được ít ngày, một bữa ông đang ngồi xem ti vi, thoáng thấy có lửa cháy trên màn hình, ông hơi ngỡ ngàng, chưa biết là chuyện gì thì ông nghe mùi khét. Quay nhìn vào bếp, ông hết hồn thấy lửa đang phừng phừng. May phước đầu óc còn tỉnh táo, ông phóng ba bước tới cái lò và nhanh tay vặn cái nút tắt. Sau lần đó, lớp thì cọ rửa soong nồi, lớp lau bếp bắt mệt, may là máy báo khói chưa hú chớ không cả xóm kinh động rồi, ông quyết định thôi không nấu nướng nữa mà ăn cơm phần hay cơm chỉ cho khỏe, ngày nào ưa ăn ngon thì đi kéo ghế. Tủ lạnh nhà ông lúc nào cũng có chả lụa, chả chiên; tủ pantry thì đầy oat meal, súp hộp và mì gói, không bao giờ sợ cơ lỡ…

Thức ăn giải quyết được rồi nhưng ông nói ăn một mình buồn quá, nhiều khi nghẹn ngào muốn buông đũa, buông chén. Ông than không có gì chán hơn là cứ lui cui cặm cụi gắp, nhai, nuốt một mình, xung quanh vắng lặng không tiếng người, không cả tiếng dép hay tiếng rót một ly nước. Có bữa ông bưng cái tô vừa cơm vừa thức ăn ra đứng bên cửa sổ bếp, ngó mông ra ngoài, thử coi có gì vui không nhưng cũng đâu có gì vui?

Cư xá của ông toàn người cao niên, vắng cả tiếng trẻ con nô đùa. Cụ Nguyễn Du chẳng đã từng hạ bút viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” ư? Trong trí tưởng ông, thấp thoáng hiện lên quang cảnh gia đình đông vui ngày nào, vợ ông  tươi mát như một bông huệ tây, ngồi giữa đám cháu nội ngoại lau hau, đứa này níu tay ông, đứa kia níu tay bà, om xòm tiếng Anh tiếng Việt, grand ma, grand pa, bà ngại, ông ngại, hỏi một trăm câu hỏi mà ông chỉ trả lời qua loa rồi bán cái cho bà, bà không biết sao thì lại chỉ qua ông.

Riêng ông chốc chốc nhìn đồng hồ, chỉ mong sao đến giờ, bố mẹ chúng tới đón hết đám trẻ của từng nhà về để trả lại ông bà ngôi nhà yên tĩnh trong buổi chiều. Trong khi bà kiên nhẫn dọn dẹp đồ chơi và thức ăn thừa mứa do lũ trẻ bỏ lại, ông ngồi duỗi chân xem ti vi tin tức hay ca nhạc, chờ bữa ăn tối ngon lành, nóng sốt, thay đổi hàng ngày nhờ bàn tay của bà…

Bây giờ, ông đảo mắt nhìn một lượt căn nhà sạch sẽ, sàn gỗ không một cọng rác, một mẩu giấy vụn, bàn ghế ngay ngắn, đồ đạc đâu vào đấy, trật tự, lạnh lẽo như chưa từng xô động, như không có ai ở, ông thấm ngấm đến tận xương tủy cảm giác hiu quạnh lạ thường. Đàn cháu nội ngoại ngày nào ríu rít như chim, nay đã trưởng thành, vào/ra đại học hết. Thỉnh thoảng có đứa còn nhớ ông, điện thoại hỏi thăm, tới chở ông ra phố uống cà phê hay ăn chè, khiến ông vui cả ngày.

Bạn bè cũ biết ông thích hát, có người rủ ông đi karaoke buổi tối ở các câu lạc bộ khiêu vũ. Ông theo họ đi giải trí cho quên bớt thời giờ trống trải nhưng trở ngại của ông là ông thích hát song không thích nhảy đầm. Hát xong vòng đầu, ông phải chờ khá lâu mới đến vòng nhì và sẽ về khuya lắm, ông sẽ mất ngủ vì quá giấc rồi lại phải uống thuốc ngủ mà ông thì rất sợ bị nghiện. Vì vậy, ông không đi thường xuyên như lúc bắt đầu nữa, đành chấp nhận nhiều hôm một mình đối bóng với đêm trường.

Năm nay ông đã ngoài 80 nhưng 10 năm trước ông chỉ mới ngoài 70. Chẳng phải ông vì lễ giáo của tông môn và sợ miệng đời mai mỉa mà nhắm mắt bỏ qua cơ hội đi tìm kiếm một hạnh phúc cho quãng đời còn lại của ông ư?

Như gia chủ buổi họp mặt bằng hữu hôm nay cũng ngoài 70 khi hai ông bà gặp nhau trong tình cảnh góa bụa, hiểu ra họ cần nhau và quyết định tạo dựng một mái ấm chung với con cái hai bên đều đồng thuận chọn lựa của bố mẹ. Họ vui lòng trả giá để có những buổi sáng thức dậy cùng nhau đón mặt trời và nghe chim hót trong vườn, ngồi bên nhau uống tách cà phê thơm đầu ngày, ăn món điểm tâm tùy thích, nói năm ba câu chuyện trên trời dưới biển đem lại cho nhau những tràng cười sảng khoái.

Tại sao khước từ những ngụm mật ngọt ấy, cái hạnh phúc ấm êm cận kề ấy mà nghĩ rằng mình khôn ngoan? Thật ra, chỉ vì vẩn vơ lo sợ những điều mình không biết trước và biết chắc có xảy ra hay không? Mà nếu biết trước và biết chắc, liệu có tránh được không, ngay cả xoay chuyển chúng được không? Ở chặng đường cuối một đời người, không ai còn nhiều thời gian phí uổng nữa nhưng có lẽ phí uổng là cách giải quyết dễ nhất khi không có nhiều chọn lựa.

Trên cõi trần gian nhiều phiền trược này, chỉ nghe con người phàn nàn đời không một ngày hạnh phúc nhưng không nghe ai thở than đã một thời hạnh phúc cho dù sau đó, như bầu trời mưa nắng bất thường, vạn vật đổi thay và hạnh phúc cũng sang trang…

Riêng ông, hoàn cảnh có khắc nghiệt hơn vì bà đang ở nhà dưỡng lão. Hằng ngày vào thăm bà, nhìn vào đôi mắt trống vắng, lạnh băng của bà, cầm hai bàn tay bà ấm thân nhiệt, không ấm một dấu hiệu cảm xúc, ông nghẹn ngào nói thầm: “Em ơi, em đã trả lại mọi buồn vui cho đời, không còn bận tâm chi nữa, có biết là anh rất khổ không?” Ông hỏi rồi ông tự nghiệm ra câu trả lời, không ai có thể giúp ông một câu trả lời nào khác.

Mỗi ngày qua, hết chiều đến đêm, hết những công việc phải chu toàn cho mình trong cuộc sống như một bổn phận không thể chối từ, ông ngồi trên ghế bành, mở ti vi cho có tiếng người, không xem, không nghe. Mở nhạc để âm thanh cho ông sự êm dịu trong căn nhà lạ dù ông đã ở đây gần ba năm. Nó không cho ông một hồi ức nào nên không có gì gắn bó.

Ông thèm một tách trà thơm, một ly cà phê nóng nhưng ông ngồi yên vị tại chỗ vì biết những thú vui nhỏ ấy sẽ làm ông mất ngủ. Con đường của người già là con đường trong những bức tranh hay tấm hình vẽ hoặc chụp viễn cảnh, hun hút, thu hẹp dần trong mắt nhìn.

Ông chợt mỉm cười nhớ lại câu nói bâng quơ của người bạn đồng cảnh, thốt lên trong một cuộc họp mặt anh em: “Mai mốt chắc là phải đặt mua robot của Nhật.” Câu nói nhỏ, tan vào đám đông huyên náo… Ông ngồi gần, nên lọt tai. Không biết có ai cũng lọt tai câu nói như ông nhưng cũng như ông, đã cất riêng cho mình như lời tự thú về một mơ ước không tiện bày tỏ?

Đôi mắt ông nhìn mông lung ra xung quanh, chạm vào cái kệ sách chỉ còn lại ít sách quý ông mang theo tới đây, ngậm ngùi hình dung ra đời mình như cuốn sách, nay cũng đang khép lại trên án thư. Các nhân vật có vai trò đã xuất hiện, đã làm xong nhiệm vụ, đã bước ra, chỉ còn ông ở trang cuối cùng chờ cơn gió nhân duyên thổi tắt ngọn nến từ bi trong thời kinh Bát Nhã ông tụng hằng đêm, đóng lại giùm ông cuốn sách sẽ được xếp lên kệ rồi bỏ quên như chưa từng hiện diện. (Bùi Bích Hà)

Phật dậy cái gì người khác cho mình được thì cũng lấy lại được, hay nói cho chính xác hơn thì vui buồn của mình mà phải chờ người khác đem tới thì mãi mãi mình chỉ là cái bóng, cái đuôi tàu của một ai đó thôi.

Có gì bảo đảm cái đầu tầu đó sẽ đưa mình tới nơi mình muốn đâu?? chưa kể hễ nó hết xăng như bà cụ trong bài thì mình dẫu còn xăng cũng không chạy một mình được, bởi chỉ biết dựa hơi thôi là vậy! tội nghiệp ông cụ quá!

From: Doan Dang

 Người Con Dâu Của Nước Mỹ

 Người Con Dâu Của Nước Mỹ

(Viết theo tâm sự của một người)

Lưu Hồng Phúc

***
Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được.
Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.

Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vôi vã đi ngay.

Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô.
Con đương Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa màu tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây.
Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích được đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau..
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tỉa thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế , anh chàng Mike râu ria xồm xoàm đã chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng , áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia.
Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.

Về sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu , khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục , bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người . Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng.
Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ bởi vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ.
Tôi không giống, và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng đươc bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời…

..Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà ta vừa mới khóc. Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn.
-Ông bà từ đâu tới ?
– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
– Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
-Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
-Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng.. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
-Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới. Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến phi lý đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc.
Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuồng ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mike Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mike người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn anh được gắn lon giữa hai hàng nến . Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ.
Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.

Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện.. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana . Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.

Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngôi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá. Gặp lại nhau tôi lên tiếng.
-Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích.
-Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông.
– – Con trai của ông bà tên là gì nhỉ . Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
– – Con trai tôi tên là Mike Wright, Tử trận ở Việt năm năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này.
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mike của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mike còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
-Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mike đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt.
– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
– Mike có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio.. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mike nào khác nữa nên chỉ nói với ông.
-Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mike con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mike Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
-Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mike Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mike trong những ngày cuối cùng.
-Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà. Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mike . Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
-Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mike rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mike thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.
-Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mike , không biết ông bà có muốn nghe không.
-Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mike và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
– Chị tôi có một người con với anh Mike . Chính anh Mike cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mike và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
-Chúa ơi, thật thế sao. Chúa ơi.. Chúa ơi.
-Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mike lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
-Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
-Cháu vẫn còn ở Việt Nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị hay không.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu.. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa. Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích.
– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie , em gái của Mike và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm , đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
-Đúng là chị tôi rồi.
-Ông bà Wright mừng vui như mở hội.Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này.
Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chi cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mike nên không ngạc nhiên với quyết định này.
Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông Bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không dấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
– Oh my God, he looks just like his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

LƯU HỒNG PHÚC 

From: LUCIE 1937 

CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V. HUY

QUÁ HAY!

🌿Hắn tên là V. Huy, thật ra tên đầy đủ của hắn là Nguyễn Phúc Vĩnh Huy, vốn là con cháu giòng họ vua chúa triều Nguyễn.

Bố hắn là giáo sư tiến sĩ, từng chữa bệnh cho ông Hồ.
Ông nội hắn là Thượng thư bộ Lại trong triều vua gì đó của nhà Nguyễn.

Mẹ hắn cũng là giáo sư nhưng hình như bên ngành Luật, tốt nghiệp từ bên Tây, nghe lời ông Hồ vì nước tham gia đánh giặc.

Lí lịch của hắn quá ư là đẹp, vừa quí tộc vừa cộng sản, không chê vào đâu được.

Hắn tốt nghiệp Tiến sĩ ngành ngoại giao ở Liên Xô, cũng nghe nói là bằng đỏ đàng hoàng, và chắc chắn là bằng thật.

💥Thế mà hắn lại xổ toẹt cái lí lịch đó, đái lên cái truyền thống đẹp như mơ đó. Hắn không bao giờ chịu thổ lộ cái tên trong khai sinh cho bất kì ai, và luôn luôn tự xưng tên tôi là V. Huy, cắt đứt mọi liên hệ với cái gia đình danh giá.
Cũng chẳng biết tại sao. Và mọi người cũng không rảnh thì giờ để điều tra chuyện đó.

🌿Tôi gặp hắn lần đầu trong quán cà phê. Quen qua quen lại mà thành thân gần tám năm nay.
Hắn là một thằng có cá tính. Mà lại là cá tính quái dị. Tôi cũng vốn là một người quái đản – theo mọi người chung quanh bảo thế – nên khi gặp hắn là thành thân ngay, đi đâu cũng có nhau. Ngưu tìm ngưu, mã tìm mã mà.😊

🌿Hắn có khuôn mặt của John Lennon: ngây thơ mà tinh quái. Cũng nét mặt gầy, mũi thẳng, tóc xoăn để dài đến bờ vai, chỉ khác là tóc màu đen.
Hắn cũng đeo kính cận gọng tròn, nặng độ, dày như đít chai. Lúc nào hắn cũng kè kè cái ba lô nặng trĩu chứa tùm lum nào sách, nào khăn, nào đủ thứ như một túi rác. Nhưng hắn bảo hắn chứa cả càn khôn trong đó.🥰

🌿Hắn chỉ có độc một bộ đồ, chiếc áo jean bạc màu, áo jacket màu cứt ngựa có nhiều túi và cũng nhiều fermature. Chiếc quần jean rách ở đầu gối và sờn ở hai mông đít. Đôi giày lính Mỹ cao cổ loang lổ và ám bụi đường. Hắn không bao giờ giặt áo quần, cứ mặc cho đến tả tơi lại đi tìm bộ khác cũng y như thế. Công nhận hắn cũng giỏi săn lùng vì suốt tám năm quen hắn, tôi có cảm tưởng hình như hắn chẳng bao giờ thay kiểu quần áo.

🌿Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác.

Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường.

Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford , đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố

. Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được.
Nói tóm lại, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.

🌿Không biết chính xác hắn ở đâu. Lúc thì bảo ở quận tư, có khi lại ở quận tám.

Tóm lại hắn là thằng giang hồ. Một thằng trí thức nhất trong những thằng trí thức đúng nghĩa của Việt Nam đang là kẻ không nhà.

Hắn là thằng ma – cà – bông. Cứ khoảng chín giờ sáng là có mặt hắn ở quán cà phê, kêu li đen và ngồi rít thuốc liên tục.

Bất cứ vấn đề gì hắn cũng có thể nói được, và nói rất sâu. Gặp những từ ngữ cần chính danh, hắn có thể lấy giải nhĩa từ nguyên chữ Hán và có khi từ chữ gốc của tiếng La tinh. Hắn có thể nói từ chuyện văn chương kim cổ cho đến những phát minh từ xưa đến nay của loài người. Hắn giảng về Socrate, Platon cho đến các triết gia cận đại. Hắn nói về Mác thì ai cũng ngóng cổ lên mà nghe bởi vì toàn những vần đề mà những ngài tuyên huấn cộng sản không bao giờ biết đến và phân tích nổi. Khi hắn phân tích cách mạng Trung Hoa, cách mạng Việt Nam, rồi tương lai của toàn thế giới thì mọi người há mỏ nghe không ngậm lại được, mặt ai cũng nghệch ra như ngỗng ỉa. Trong mọi cuộc bàn luận, hắn trở thành trung tâm. Khi chưa có mặt hắn ở khu vực này, tôi được mọi người phong cho là bách khoa toàn thư, chuyện gì cũng biết. Nhưng từ khi có hắn, tôi như đèn dầu le lói mà hắn thì sáng như đèn pha. Ngay như chuyện chó mèo, chim cò, rắn rít, thú hoang hắn cũng rành như ông giáo sư Võ Qúy. Chuyện gì hắn cũng biết, mà biết rõ ngọn ngành rành mạch mới siêu chứ. Khi hắn đã nói thì chẳng còn ai có thể cãi lại hắn được. Với cái đầu của hắn, nếu được làm lãnh đạo hắn có thể là người lãnh đạo giỏi hay ít nhất đất nước sẽ nở mày nở mặt khi hắn tiếp xúc với năm châu bốn bể.

Nhưng hắn lại là thằng lang thang, sống bằng những bài dịch tin nước ngoài cho mấy tờ báo lá cải. Trong khi mấy thằng ngu thì chức cao quyền trọng, ghế cao chót vót. Đời là vậy đấy! C’est la vie!!😥😡

🌿Theo những tin tức vỉa hè thì hồi mới về nước thì hắn cũng đi làm ở Bộ Ngoại giao. Là nhân viên của một cục, một vụ gì đấy.
Nhưng vì hắn quá giỏi lại quá ngông, không chịu nghe theo những chỉ thị ngu xuẩn của lãnh đạo nên cuối cùng bị đẩy xuống làm anh chạy văn thư.
Vì cảm thấy nhục, hắn cũng kiện tụng tùm lum mà chẳng đi đến đâu nên bỏ sở mà làm kẻ lang thang.
Tôi nghĩ tánh khí ngang tàng không khuất phục chính là nguyên nhân bi kịch chối từ gia đình của hắn.

🌿Cách đây mấy năm, tôi có người bạn Pháp, một chuyên gia sưu tầm cổ vật Đông phương sang Việt Nam mua được một chậu sứ Trung Hoa rất cổ, hình như là đời đầu Minh. Chậu sứ vẽ cảnh mục đồng chăn trâu men xanh rất đẹp. Nét vẽ uyển chuyển và tinh tế của một nghệ nhân bậc thầy. Ông bạn tôi mấy lần mang về Pháp đều bị chận lại vì hải quan không cho mang cổ vật ra khỏi nước. Chuyện đến tai hắn, hắn bảo sẽ mang đi được với điều kiện bạn tôi mua vé khứ hồi cho hắn kèm theo 1500 Euro cho hắn tiêu mấy ngày ở bên đó.

Bạn tôi ok ngay. Và hắn mang đi được thật mà chẳng cần xin xỏ, khai báo gì cả. Dịp đó hắn đi hết mấy nước châu Âu; gần hai tháng sau hắn mới về. Hỏi hắn làm sao, hắn bảo có khó đéo gì đâu, vào đến phi trường tớ đến ngay quầy bán hoa lan của Đà Lạt, mua một giỏ hoa lan có cả chậu, vào ngay phòng vệ sinh, bỏ chậu ra, lấy chậu sứ thay vào.

Thế là ung dung xách giò lan bước lên máy bay chẳng thằng nào, con nào hỏi một tiếng. Ai cũng bảo hắn giỏi. Hỏi hắn ở bên đó hai tháng lấy gì mà ăn, hắn bảo hắn làm hướng dẫn viên du lịch.
Đến thành phố nào cứ thấy mấy thằng du khách ngơ ngác thì hắn sấn tới làm quen sau đó hướng dẫn người ta đi tham quan. Hỏi hắn chưa bao giờ đi qua đó, biết đếch gì mà hướng dẫn.
Hắn gào lên xin lỗi mọi người à, trước khi đi tôi đã học thuộc mấy cuốn sách hướng dẫn du lịch của hơn mười nước Châu Âu rồi. Nghe sợ chưa?

🌿Có lần tôi với hắn đi nghe một tay giáo sư người Mỹ nói chuyện văn chương, trong giờ giải lao, hắn bước đến nói chuyện với tay giáo sư đó.

Chẳng biết nó nói những gì mà khi trở lại sân khấu để tiếp tục câu chuyện, tay giáo sư người Mỹ mời hắn lên ngồi chung và giới thiệu hắn với cử tọa bằng những lời rất trân trọng.

Lần đó hắn bị công an văn hóa mời lên mấy lần để nói rõ mối quan hệ giữa hắn và tay người Mỹ. Hắn chỉ bảo là hắn không đồng tình một số ý của diễn giả và người giáo sư nể hắn. Thế thôi. Bắt nó làm tường trình, nó bảo chẳng có đéo gì mà phải tường với trình, không tin thì cứ đi hỏi tay giáo sư người Mỹ chứ tại sao lại hỏi hắn. Cuối cùng huề, chẳng có chuyện gì mà ầm ĩ.

🌿Hắn chưa bao giờ kể cho tôi nghe về mối quan hệ của hắn với phụ nữ.

Thế mà có một lần, có một người đàn bà đẹp đến tìm hắn ở quán cà phê. Tôi ngỡ ngàng khi gặp người phụ nữ này, bởi vì cô ấy quá đẹp. Một sắc đẹp đài các, duyên dáng và rất trí thức. Một khuôn mặt mà thi ca và hội họa suốt đời ca tụng.

Bữa đó không có mặt hắn ở quán và tôi tiếp chuyện với người đàn bà đẹp đó. Nàng tên là Bạch Huệ – hoa huệ trắng- cái tên nghe có vẻ hơi cải lương, nhưng cô gái đó nói chuyện rất thông minh và rất có trình độ. Nàng đi tìm hắn đã lâu rồi, và rồi không biết ai đó đã hướng dẫn nàng đến đây.

Cô gái kể sơ cho tôi nghe về mối quan hệ giữa hắn và nàng. Yêu nhau từ ngày còn ở bên Nga, nàng là con gái rượu của đại sứ Việt Nam ở đó. Một mối tình đẹp và môn đăng hộ đối. Hai người về Việt Nam và dự định khi ổn định cuộc sống sẽ làm lễ cưới.

Nhưng rồi hắn chửi lãnh đạo, mất việc, bị bố nàng nói nặng nhẹ đụng chạm tự ái sao đó, hắn chửi ông bố vợ tương lai một trận ra trò và bảo các ngài chỉ là một lũ ngu rồi bỏ đi không dấu vết. Nàng đau khổ đi tìm. Vô vọng. Mò kim đáy bể.

Cuối cùng nghe theo lời bố lấy chồng. Chồng nàng bây giờ là thứ trưởng một bộ rất quan trọng.
Tôi bảo thế thì bây giờ cô còn tìm hắn làm gì, khi đã trở thành hai tầng lớp khác nhau, vị trí xã hội cũng đã không còn như xưa nữa. Cô ấy bảo là tìm để xem hắn sống ra sao, tìm lại hình ảnh mối tình xưa đã không còn nữa và quan trọng nhất là cô ấy vẫn còn yêu hắn.

🌿Khi tôi kể lại cho hắn nghe cuộc gặp gỡ, hắn không nói gì chỉ lẩm bẩm chửi thề, chửi thề là thói quen của hắn, nên tôi không biết hắn đang chửi cái gì. Chửi số phận hay chửi mối tình của hắn. Sau đó hắn lầm lì mấy ngày rồi vắng mặt gần mười mấy hôm, cũng chẳng biết hắn đi đâu…..

🌿Hắn xuất hiện trở lại chốn giang hồ với một cọc tiền khá lớn, hắn bảo hắn vừa lãnh tiền công viết luận án tiến sĩ cho một đồng chí lãnh đạo thành phố.

Hắn nói đây là đồng tiền tanh hôi, đồng tiền đã làm lụn bại đất nước, nhưng nếu hắn không nhận làm thì thằng khác cũng làm, xã hội bây giờ thiếu gì thằng trí thức sẵn sàng làm thuê.

Hắn gom mấy đứa trẻ bán báo, đánh giày, bán vé số lại. Thuê một chiếc xe mười lăm chỗ ngồi, chở hết mấy đứa trẻ vào thành phố, mua sắm áo quần, đồ chơi, sách vở. Lại còn cho mỗi đứa mấy trăm ngàn. Cả đám trẻ sung sướng. Còn hắn thì hả hê. Chưa bao giờ thấy khuôn mặt của hắn sướng đến như vậy. Mấy bà bán dạo quanh quán cà phê bảo hắn điên, hắn cười sảng khoái, gật gù: điên, điên, đúng là điên.

🌿Tối hôm đó hắn đi vào bar Mưa Rừng, vừa bước vào cửa, mấy gã bảo vệ nhìn bộ dạng của hắn, định ngăn không cho vào.

Hắn rút ra mấy tờ bạc giúi vào tay chúng. Hai gã bảo vệ nghiêng mình, mở cửa. Hắn vào bàn, ngoắc một em phục vụ ăn mặc nóng bỏng lại, kêu cho ly sữa tươi.

Em cave nhìn hắn định cười khi dễ thì hắn đã rút hai tờ năm trăm nhét vào tay cô gái và bảo, em mua giúp anh ly sữa tươi.
Dĩ nhiên là cô gái thực hiện ngay. Ai dại gì từ chối bán ly sữa tươi giá một triệu bạc bao giờ
. Hắn uống một hơi hết ly sữa. Lại ngoắc em gái lần nữa và rút thêm một xấp tiền, bảo: vú em nhỏ quá, anh cho em chục triệu đi bơm vú to lên mà làm cho đời thêm tươi.

Cô gái há hốc mồm không kịp nói gì thì hắn đã lẳng lặng rời ghế, đi về. Chuyện này được kể lại với nhiều tình tiết ly kỳ hơn, kéo dài mấy tháng trong giới cave, sau này trở thành giai thoại, báo chí cũng có đăng.

Mọi người kháo nhau hắn là tỷ phú đóng vai kẻ nghèo vì chán cảnh giàu sang nhung lụa. Bữa đó hắn đi bộ về, vừa đi vừa khóc, chẳng ai hiểu tại sao?

🌿Hắn lại mất hút. Cả tháng rồi tôi không gặp hắn. Cho đến hôm qua, lúc trưa, tôi nhận được điện thoại của công an hỏi tôi có phải là người thân của hắn không? Tôi ừ. Đồng chí công an bảo phát hiện hắn đã chết đêm hôm qua, trong tay có mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của tôi

.🔥 Tôi chạy ngay đến đồn, họ chở tôi đến một căn nhà nhiều phòng ở một chung cư tại quận tư.

Hắn nằm đó, khuôn mặt thanh thản và bình yên, trên môi phảng phất nụ cười. Chung quanh giường và tràn ngập căn phòng là những cành huệ trắng. Màu trắng của huệ, màu trắng của chiếc drap giường và bộ đồ trắng lần đầu tiên tôi thấy hắn mặc làm cho căn phòng tinh khiết lạ lùng và cũng tang tóc vô cùng.

Trên đầu giường có một bức tranh sơn dầu nhỏ vẽ chân dung một cô gái cũng mặt chiếc váy trắng. Khuôn mặt trong hình rất quen. Đó là chân dung của Bạch Huệ. Thì ra hắn tự tử bằng hoa huệ. Hắn đã chất đầy căn phòng hoa huệ trắng, đóng kín cửa và hắn từ từ chết trong hương thơm ngào ngạt của loài hoa huệ trắng.

Trong tờ giấy hắm nắm trong tay lúc ra đi, ngoài tên và số điện thoại của tôi, hắn còn ghi thêm hai dòng nữa.
Dòng đầu hắn cho biết là hắn tự kết liễu đời mình, không liên lụy đến ai. Dòng sau hắn ghi là hắn không còn cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt nên nhờ tôi hỏa tang thân xác hắn và rải tro xuống sông để cho hắn được trôi ra biển lớn. Tôi đưa tay chào như chiến sĩ, như một lời chia tay.

🌿Ba hôm sau, tôi nhận được mail của hắn. Nhìn thấy tên hắn là tên người gởi, tôi lạnh dọc sống lưng. Sao hắn chết ba hôm rồi, than xác hắn đã thành tro bụi rải xuống sông rồi. Sao lại còn có thư của hắn gởi.

🔥Hắn viết:

“Gởi anh.

Đã đến lúc tôi cảm thấy mình thừa thãi trong cuộc đời này. Tôi không còn lí do để tồn tại nữa. Phải biết đúng lúc để rút lui là người khôn ngoan. Tôi đã làm tròn phận sự và tôi phải ra đi. Biết đâu ở thế giới khác sẽ vui hơn trần gian điên dại này? Xem như không có V. Huy ở cuộc đời này, quá khứ cũng như tương lai.

Anh ở lại hãy sống vui.

V. Huy

Tái bút: Tôi nhờ anh đến địa chỉ…lấy một số vật dụng của tôi và đốt tất cả giúp tôi. Đốt hết và đừng giữ lại gì. Cám ơn anh.

Anh đừng sợ hãi khi nhận được thư này. Tôi gởi thư theo chế độ hẹn. Tôi hẹn ba ngày sau khi tôi ra đi, máy mới gởi thư đi”.

🌿Tôi đến địa chỉ hắn đã ghi, người ta giao cho tôi một thùng to, vất vả lắm tôi mới chở được về nhà. Những gì trong đó làm tôi kinh ngạc đến sững sờ.

🔥18 cuốn nhật ký hắn ghi từ lúc bảy tuổi cho đến trước ngày hắn chết một tuần lễ với nhiều suy nghĩ gây sửng sốt.

🔥72 bản dịch những cuốn tiểu thuyết của nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới.

🔥4 bản dịch sang tiếng Đức cuốn Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Thơ các thiền sư đời Lý và cuốn Đoạn trường vô thanh.

🔥3 tập phê bình và nhận định những sai lầm của chủ nghĩa Mác viết bằng tiếng Anh.

🔥2 cuốn nói về sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thế kỉ 21 viết bằng tiếng Pháp.

🔥43 cuốn phân tích và phê bình về các tác giả Việt Nam từ thơ ca đến tiểu thuyết.

🔥12 cuốn viết về các danh nhân văn hóa Trung Quốc và sự ảnh hưởng của họ.

🔥5 cuốn dịch thơ Đường sang tiếng Việt.

🔥3 cuốn chép tay kinh Phật bằng tiếng Pali.

🔥1 cuốn dịch nhạc Trịnh Công Sơn sang tiếng Tây Ban Nha.

🔥8 tập thơ hắn viết từ hồi 15 tuổi cho đến năm ngoái, tức là cả năm nay hắn không còn làm thơ.

🔥1 cuốn luận án tiến sĩ của hắn với tiêu đề: “Tìm hiểu chính sách ngoai giao của nhà nước Việt Nam từ đời Lý đến 1945”..với nhiều lời phê khen ngợi.

🔥Và nhiều bằng cấp giấy khen của nhiều trường học, tổ chức trong và ngoài nước. Nhiều bài báo của hắn viết trên nhiều tạp chíchuyên ngành của nhiều tổ chức khoa học tiếng tăm trên thế giới.

🌿Một gia tài đồ sộ chứng tỏ sự uyên thâm cùng sức làm việc khủng khiếp của hắn.

Tôi mất gần cả năm nay mà vẫn chưa đọc hết những gì hắn đã viết, và tôi sẽ tiếp tục đọc để hiểu hắn hơn, để càng thêm cảm phục hắn.
💔 Một thiên tài đã sinh nhầm nơi chốn. Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ..

🌿Tôi không đốt như ý nguyện của hắn. Tôi đóng một tủ sách khá đẹp, đem tất cả tác phẩm hắn đã viết sắp xếp thứ tự. Ngoài mặt tủ, tôi đi thuê khắc dòng chữ: “CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V. HUY“

VPA st

 From: Tham Nguyen & KimBang Nguyen

Đám Cưới bên giường bệnh

Đám Cưới bên giường bệnh

22/05/2020

Tôi tên Don, một cựu quân nhân Mỹ. Khi vừa học xong đại học thì chiến trường Việt Nam bộc phát mạnh, tôi cũng như đa số thanh niên đều phải đi lính.

Sau một thời gian huấn luyện, tôi được gửi sang Việt Nam.

Ở đại học tôi theo ngành chính trị và báo chí nên chỉ biết về Việt Nam qua hình ảnh và sách vở. Tôi biết lờ mờ về xứ Việt Nam, nơi có chiến tranh triền miên, từ năm này đến năm khác, hết người Pháp và giờ đến Mỹ liên lụy vào. Những trận đánh như Điện Biên Phủ, Đồng Xoải, Bình Giả, Mậu Thân… mà báo chí, TV liên tiếp bình luận khen chê…

Sang Việt Nam người ta không cho tôi đi đánh nhau như tôi nghĩ mà cử tôi lo về tâm lý chiến, có lẽ cấp chỉ huy biết tiểu sử của tôi trên đại học. Một thời gian sau tôi được chuyển về làm cố vấn cho chi khu Hàm Tân của tỉnh Bình Tuy, một ông cố vấn còn quá trẻ, tuổi chưa tới 25. Từ trước cố vấn Mỹ chỉ tới tiểu khu tức cấp tỉnh, sau này tăng cường cố vấn Mỹ về đến chi khu tức cấp quận, có lẽ vì thế nên thiếu nhân sự. Tôi ăn ở ngay trong khu hàng rào quận.

Công việc hàng ngày của tôi là cung cấp tin tức chiến sự lên cấp trên, đệ đạt ý kiến mà nhu cầu địa phương đòi hỏi như xin tiếp liệu, yểm trợ…

Hàm Tân là một quận hạt nhỏ, sát với Phan Thiết, phía Đông là biển. Dân đa số sống bằng nghề đánh cá. Đời sống ở đây rất buồn, sợ an ninh nên không bao giờ dám đi tắm biển hoặc đi chơi xa. Cô bạn gái của tôi ở Mỹ chắc giờ đã có người khác vì 2 lá thư tôi gửi đều không được hồi âm. Tôi sống trong quận như một nhà tu.

Ông quận trưởng là một Đại úy, khá lớn tuổi, đời sống rất mẫu mực, tôi nghe báo cáo từ ngày ông về làm quận trưởng Việt cộng không dám quấy rối và phá hoại nữa. Ông giải thích với tôi về chiến thuật của ông: Dưới quyền ông có 4 trung đội địa phương quân, hai trung đôi túc trực trong quận, trong các lô cốt, còn hai trung đội luôn luôn ở bên ngoài. Ban đêm nằm phục ở các tuyến quan trọng dẫn vào quận, nếu Việt cộng vào là bị chặn đánh ngay nên Việt cộng không làm gì được nhờ vậy ban đêm rất an ninh. Tôi yên tâm nhưng rất buồn vì không có gì giải trí, thỉnh thoảng được về Sài Gòn nhưng rồi cũng phải trở lại nhiệm sở. ..

Cho tới một hôm tôi nhận được giấy mời của ông hiệu trưởng trường tiểu học Hàm Tân đến dự lễ khánh thành 2 lớp học mới hoàn tất do tiền viện trợ của Mỹ giúp. Tôi, ông quận trưởng và phó quận trưởng ngồi hàng ghế quan khách cùng với các vị xã trưởng như Văn Mỹ, Tam Tân và Hiệp Nghĩa. Sau bài diễn văn khai mạc ngắn gọn của ông Hiệu trưởng, một cô giáo lên nói bằng tiếng Anh, đại ý cám ơn chúng tôi đến dự và cám ơn chính phủ Hoa Kỳ đã giúp đỡ tài chánh để hoàn tất 2 lớp học mới này.

Cô nói tiếng Anh rất lưu loát. Nhan sắc thật đẹp. Lần đầu tiên tôi thấy một người con gái Việt Nam đẹp như thế. Dáng nàng thùy mỵ, da trắng hồng, mái tóc xõa ôm lấy bờ vai, áo dài màu nhạt, tha thướt như một nữ sinh chứ không giống một cô giáo. Tôi ngây ngất nhìn. Tôi như bị người con gái này khớp hồn. Tôi muốn được quen cô nhưng chưa biết làm cách nào. Đợi chương trình chấm dứt, tôi đi thăm phòng học rồi lân la đến gần cô. Tôi tự giới thiệu:

– Tôi tên Don. Rất hân hạnh được gặp cô.

– Cám ơn anh. Tôi tên Hạnh.

– Cô nói tiếng Anh hay lắm. Cô dạy ở đây lâu chưa ?

– Mới gần một tháng. Tôi tốt nghiệp trường sư phạm Sài Gòn và về đây.

Tôi nói với cô:

– Tôi về quận này được gần một năm rồi.

Tôi định nói: “Lần đầu tiên tôi thấy một người con gái đẹp như cô” nhưng không hiểu sao tôi lại thôi rồi đổi sang câu nói khác:

– Cô nói tiếng Anh không khác gì người Mỹ.

– Cám ơn anh đã quá khen.

Hạnh thay mặt ông Hiệu Trưởng mời chúng tôi ăn bánh và uống nước rồi mới ra về. Tôi bắt tay Hạnh và nói: “Mong thỉnh thoảng được gặp cô”. Hạnh chỉ mỉm cười và không trả lới, nhưng nhìn khoé mắt tôi hiểu là Hạnh cũng có cảm tình với tôi.

Tôi biết chỗ ở của Hạnh. Nàng thuê một phòng trên lầu của một căn nhà đẹp nhất quận, muốn đến thăm nàng phải qua nhà chủ ở dưới nên hơi bất tiện, hơn nữa tôi lại là người Mỹ, đi đâu cũng bị dân địa phương dòm ngó nên thỉnh thoảng mới đến thăm nàng. Hạnh không cho tôi lên phòng của nàng, chỉ tiếp tôi nơi phòng khách của chủ.. Tôi muốn rủ Hạnh đi chơi nhưng rất khó vì an ninh trong quận nên không dám đi xa và có lẽ Hạnh cũng không nhận lời vì sợ dư luận.

Tôi mỗi ngày một yêu Hạnh hơn nhưng không biết làm sao. Lấy chồng tôi biết nàng chưa sẵn sàng vì nàng mới 21 tuổi. Nếu ở Sài Gòn chúng tôi sẽ dễ dàng hơn là ở quận nhỏ này, hơn nữa nàng lại là một cô giáo nên cần phải giữ gìn ý tứ…

Chiến trường ngày một sôi động và biến chuyển quá mau lẹ. Chính phủ Mỹ dự trù rút khỏi Việt Nam. Tôi được lệnh rời Hàm Tân ngay để về Sài Gòn và có thể về Mỹ ở luôn. Tôi rất buồn vì phải xa Hạnh. Khi hành lý đã sẵn sàng tôi đến tìm Hạnh, rất may Hạnh mới đi dạy về. Chủ nhà đi vắng, tôi vào trong nhà và nói với Hạnh là khoảng 4 giờ chiều máy bay trực thăng đến đón và tôi phải đi ngay.

Hạnh im lặng không nói gì. Lúc này sao tôi thấy Hạnh đẹp thế và thương nàng vô cùng. Tôi rủ Hạnh đi với tôi nhưng Hạnh lắc đầu từ chối. Tôi đến bên Hạnh rồi không hiểu sao tôi ôm chầm lấy nàng và hôn lên má, lên môi nàng. Môi Hạnh nóng và run run. Tôi chưa bao giờ được hôn người con gái có đôi môi mềm và ngọt ngào như vậy. Tôi có cảm giác tôi là người đầu tiên hôn nàng. Hạnh không chống đối nhưng cũng không ôm lại tôi, Hạnh hồi hộp và da mặt nóng bừng.. Mãi lúc sau tôi mới buông Hạnh ra và nói lời xin lỗi: “Anh xin lỗi đã làm em bất ngờ nhưng anh yêu em quá và không biết đến bao giờ mới được gặp lại…”

Có tiếng máy bay trực thăng, tôi nói trong vội vàng: “Mong có một ngày anh trở lại đón em”. Hình như Hạnh khóc, tôi không dám quay lại nhìn. Rồi tôi về Mỹ và giải ngũ. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt.

Người bạn gái của tôi ở Mỹ khi xưa đã đi lấy chồng. Tôi sống bơ vơ. Thời gian trở lại Việt Nam để thăm Hạnh thật xa vời. Tôi đi tìm việc làm, kiếm việc rất khó vì rất nhiều quân nhân giải ngũ sau chiến tranh Việt Nam. Tôi làm đủ thứ nghề nhưng không có nghề nào là chính, bẩy tám năm sau nhờ có người giới thiệu đi làm QA Engineer cho một hãng lo về quốc phòng. Tuy gọi là Engineer nhưng không có liên hệ nhiều với kỹ thuật nên rất dễ dàng. Công việc nặng về giấy tờ. Hãng ký giao kèo để làm từng bộ phận cho một chiến hạm.

Đầu tiên một nhóm engineer design phần hardware, họ họp và bàn luận, khi đã đến phần chung kết tôi được gọi đến như là một nhân chứng và ký vào biên bản cuộc họp rồi người ta viết cách thử bộ phận này như thế nào, sửa chữa cho đến khi hoàn tất rồi lại họp gọi là “review document”, mỗi đại diện đến họp được phát một quyển sách gọi là document để về xem lại và đề nghị sửa chữa nếu cần rồi in ra bản mới. Tôi, đại diện hải quân (Navy) và đại diện bộ quốc phòng ký vào document rồi theo đó định ngày đem ra test thử. Mỗi lần làm như thế tôi lại được gọi đến như là nhân chứng. Hãng định ngày final test. Tôi, đại diện hải quân, đại diện bộ quốc phòng được mời đến chứng kiến và theo dõi xem họ làm có đúng như document không, nếu đúng thì chúng tôi ký vào biên bàn, nếu sai cần được sửa chữa thì lại họp rồi làm lại, hết product này làm đến product khác. Công việc hàng ngày của tôi chỉ có thế, không mấy hứng thú nhưng tôi cần có tiền để tiếp tục học luật trở lại.

Một hôm tới giờ ăn trưa, tôi đang đi trong hành lang để đến phòng ăn. Xa xa có một người con gái trông dáng dấp quen quen, tôi đứng lại đợi. Tôi lên tiếng hỏi:

– Xin lỗi có phải cô Hạnh không ?

Người con gái mỉm cười thật tươi:

– Dạ. Ô kìa anh Don. Anh cũng làm ở đây hở?

– Anh làm ở đây được một năm rồi. Còn Hạnh ?

– Em ở Building bên kia, hôm nay mới thuyên chuyển sang đây.

Tôi mừng quá rồi ôm chầm lấy nàng và chúng tôi vào ngồi ăn với nhau. Hạnh cho tôi biết nàng về Sài Gòn 2 tuần trước khi miền nam rơi vào tay cộng sản. Hạnh và cô em tên Liên theo đoàn người ra bến Bạch Đằng, lên được tàu rồi sang Phi Luật Tân, một năm sau vào được Hoa kỳ. Hạnh ghi tên học college, 2 năm sau nàng lấy được bằng AS và đi làm Electronic Technician.

Tan sở ra về tôi không biết là mộng hay thực nữa. Tôi không ngờ có ngày gặp lại nàng. Hạnh vẫn đẹp như xưa nhưng hơi gầy và có vẻ không được khoẻ. Mới gặp tôi Hạnh mừng lắm nhưng chỉ một lúc sau Hạnh lộ vẻ buồn.

Tôi đến thăm Hạnh và được biết Hạnh và em gái sống vơí nhau. Mẹ Hạnh ở lại Việt Nam đợi bố nên không đi nhưng rồi bố Hạnh là cựu Trung tá bị chết trong trại tù Cộng sản ngoài Bắc… Thỉnh thoảng chúng tôi đi chơi với nhau rồi tôi đề nghị làm đám cưới, Hạnh lắc đầu và nước mắt nàng chảy ra. Hạnh nói người đàn ông duy nhất Hạnh yêu là tôi và không có ai khác nữa nhưng đám cưới thì nàng không bằng lòng. Hạnh rủ tôi thỉnh thoảng đến ăn với nàng, Hạnh săn sóc tôi không khác nào người vợ săn sóc chồng.

Chúng tôi gặp lại nhau được gần một năm thì Hạnh phải vào nhà thương vì một căn bệnh hiểm nghèo đã bộc phát trở lại. Bác sĩ cho biết nàng chỉ có thể sống được thêm 6 tháng nữa. Tôi vào thăm thì lúc đó Hạnh đã hôn mê và không nói được nữa.

Liên, em gái của Hạnh biết chúng tôi thật tình yêu nhau nên nói với tôi: “Chị Hạnh yêu anh lắm, anh là người đầu tiên chị yêu, rất muốn làm vợ anh nhưng vì chị bị bệnh nên không dám nhận lời lấy anh, sợ anh phải khổ…” , nói rồi Liên đưa cuốn nhật ký của Hạnh cho tôi. Đêm hôm đó tôi thức suốt đêm vì những trang nhật ký của nàng. Hạnh viết bằng 2 thứ tiếng: Việt và Mỹ;

Hàm Tân ngày… Người đàn ông đầu tiên hôn tôi lại là người Mỹ. Từ trước tới giờ tôi vẫn tâm niệm người hôn tôi đầu tiên là người tôi yêu và sẽ lấy ngưới ấy làm chồng. Thật oái oăm, anh hôn tôi rồi anh bỏ tôi để về Mỹ… Nhìn đôi mắt anh tôi thấy anh thành thật, anh đâu khác gì người Việt Nam. Anh cuồng nhiệt làm tôi điêu đứng. Tôi luống cuống và run rẩy trong tay anh.

Tiếc quá sao hôm đó tôi không ôm chặt lấy anh rồi đi theo anh để bây giờ tôi không phải nhớ nhung. Mỗi buổi sáng soi gương tôi thấy môi tôi “kỳ kỳ” làm sao, cũng làn môi ấy nhưng sao tôi thấy hơi là lạ, tôi bậm môi rồi nuốt vào trong bụng như để giữ mãi môi anh trong tôi…

Cali ngày… Bao nhiêu mong ước được gặp lại anh và rồi cuối cùng được gặp anh trên đất Mỹ thật. Don, em yêu anh và rất muốn được làm vợ anh nhưng em không thể nghe lời anh được. Em không muốn làm khổ anh. Bác sĩ nói em chỉ sống được hơn 1 năm nữa. Em cố gắng đi làm để được gần anh. Em đi làm đến khi em gục xuống thì thôi…

Hôm sau tan sở tôi đến thẳng bệnh viện thăm Hạnh. Ngồi một lúc thì Liên tới, tôi bàn với Liên là tôi phải làm một cái gì cho Hạnh vui, biết đâu nhờ tình yêu mà Hạnh khỏi bệnh. Rồi tôi nói với Liên: “Anh sẽ làm đám cưới với Hạnh”. Liên ngạc nhiên không hiểu sao tôi lại làm như thế. Đám cưới với một người đang rên la trên giường bệnh ? Nhưng thấy tôi nhật định nên Liên nghe theo.

Tôi liên lạc với vị Mục Sư trong nhà thờ để định ngày, giờ đám cưới. Liên mời 2 người bạn thân với Hạnh hồi còn học Trưng Vương và tôi mời 3 người bạn trong sở, có một người là xếp của Hạnh. Đám cưới hôm đó có 9 người. Liên cẩn thận mua cho tôi một bó hoa để trao cho Hạnh. Tôi xin phép bệnh viện và được chấp thuận. Thế là đám cươí bên giường bệnh được diễn ra.

Vị Mục sư hỏi tôi đại khái; “Don, anh có bằng lòng lấy Hạnh làm vợ không? Thưa bằng lòng.”. “Don, anh có bằng lòng săn sóc Hạnh suốt đời không ? Thưa Bằng lòng”. Mục sư quay ra hỏi Hạnh: “Hạnh, cô có bằng lòng lấy Don làm chồng không?”, Tất cả 7 người đứng đó im lặng chờ đợi không biết sao, Liên nhanh nhẹn ghé sát vào tai chị: “Nếu chị bằng lòng lấy anh Don thì chị chớp mắt nhá”. Mọi người nhìn về phía Hạnh thấy nàng chớp chớp mắt, chúng tôi vỗ tay mừng rỡ. Vị Mục sư cũng vui mừng và nói: “Lần đầu tiên trong đời tôi cử hành một đám cưới như thế này” .

Sau hôm đám cưới, Hạnh vui hơn và tỉnh lại dần. Rồi như một phép lạ, ba tuần sau nàng được xuất viện và mỗi tháng một lần phải trở lại tái khám. Hạnh về nhà nhưng vẫn chưa thể tự túc được. Hàng ngày tôi và Liên thay nhau săn sóc Hạnh. Tám tháng sau Hạnh đi lại được trong nhà và tự ăn uống lấy. Tôi vui theo với sức khoẻ của Hạnh.

Tôi sống với Hạnh như thế được gần 6 năm. Rồi một hôm Hạnh mệt và không muốn ăn, tôi lấy sữa ensure cho Hạnh uống nhưng nàng chỉ uống chưa được nửa lon. Hôm sau Hạnh có hẹn với bác sĩ, tôi dự tính sẽ hỏi xem tình trạng như thế nào. Rồi không hiểu sao Hạnh kéo tôi xuống nằm bên nàng. Hạnh hôn tôi và nói; “Em cám ơn anh đã hy sinh cho em nhiều quá. Em yêu anh và mãi mãi yêu anh.. Em biết bệnh tình của em. Em không thể sống được nữa và sắp phải xa anh…”. Nói xong Hạnh nấc lên một tiếng rồi nằm im, hơi thở không đều. Tôi vội vàng gọi xe cứu thương. Xe cứu thương tới đưa Hạnh vào bệnh viện. Tôi lái xe theo sau. Người ta tiếp nước biển và đo tim mạch cho nàng. Hạnh được giữ lại trong nhà thương. Vì phải đợi kết quả thí nghiệm nên chưa biết bệnh tình ra sao. Tôi hồi hộp chờ đợi. Hạnh mỗi ngày một yếu đi, mắt nhắm lại.

Ở trong bệnh viện đến tuần lễ thứ hai thì Hạnh hầu như không còn biết gì nữa, tim đập bất thường. Rồi bác sĩ đến bên tôi và nói bệnh tình Hạnh tái phát và không thể chữa được nữa. Ông ngỏ lời chia buồn với tôi. Lúc này Hạnh đã ngừng thở. Ông ra lệnh cho y tá tháo giây nối nước biển và tim mạch ra khỏi người Hạnh. Tôi đến gần cúi xuống ôm lấy Hạnh. Tôi hôn lên trán nàng và nước mắt tôi tự nhiên chảy ra…

(Viết theo tâm sự của một cựu quân nhân Mỹ)

Hoàng Nguyên Linh

CHIẾC KHĂN MU-SOA – (Tiểu Tử)

CHIẾC KHĂN MU-SOA

TIỂU TỬ

Hôm đó, tôi nhận được một CD gởi từ Bruxelles (nước Bỉ) trên CD thấy đề: ” À Monsieur Tiêu Tu “. Chữ viết bằng bút feutre rõ nét, nói lên người viết có trình độ. Tuy viết ” Tiểu Tử ” không có dấu, người gởi viết tên của mình lại có dấu đầy đủ:

” Exp : Nguyễn Thị Sương ” ! Vừa ngạc nhiên vừa thích thú, tôi vội vã đặt dĩa vào máy, nghe. Đó là giọng một người con gái miền Nam, trong trẻo, phát âm rõ ràng. Những gì cô ta nói đã làm tôi xúc động, có lúc tôi ứa nước mắt! Tôi đã nghe nhiều lần và cố gắng ghi chép lại đây. Dĩ nhiên là tôi đã viết để đọc cho suông sẻ chớ cô gái nói còn nhiều chỗ nghe sượng hay dùng từ chưa chính xác

…Thưa ông,

 Con tên Nguyễn Thị Sương, con của Nguyễn Văn Cương, một trong những nhân vật trong truyện ngắn ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình ” của ông.

 Thưa ông. Con sanh ra và lớn lên ở Pháp, biết nói tiếng Việt nhưng không biết đọc và viết tiếng Việt. Vì vậy, con phải dùng cách nầy để liên lạc với ông. Xin ông thông cảm!

 Hôm chúa nhựt rồi, chị Loan bà con bạn dì của con ghé nhà nói:

 ” Sương ơi ! Người ta nói về ba của Sương ở trong truyện ngắn đăng trên internet cả tuần nay nè ! Chị in ra đem qua đây đọc cho em nghe. “. Rồi chỉ đọc:

 Đó là truyện ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình “..

 Thưa ông. Con chưa biết Việt Nam, nhưng những gì ông tả trong truyện làm như con đã thấy qua rồi! Bởi vì hồi con mới lớn ba con thường hay kể chuyện về cái làng Nhơn Hòa và con rạch Cồn Cỏ của ba con, về những người bạn của ba con hồi thời tuổi nhỏ, kể tỉ mỉ đến nổi con có cảm tưởng như ba con đang cầm tay con dẫn đi coi chỗ nầy chỗ nọ ( Nói đến đây, giọng cô gái như nghẹn lại vì xúc động . Ngừng mấy giây rồi mới nói tiếp…) Mà ba cứ kể đi kể lại hoài làm như là những hình ảnh đó nó ám ảnh ba dữ lắm. Sau nầy thì con mới hiểu khi ba con nói:

 ” Hồi đó, ba đi Pháp quá sớm, ở cái tuổi chưa biết gì nhiều. Rồi qua đây, chóa mắt ngất ngây với những văn minh tiến bộ của xứ người làm ba quên đi cái làng nhà quê của ba. Điều ân hận lớn nhứt của ba là đã không viết gởi về một chữ để hỏi thăm bạn bè hồi đó. Ba phải về thăm lại Nhơn Hòa Cồn Cỏ, con à ! “. Nói đến đó, ba ứa nước mắt nắm bàn tay con dặc dặc:

 ” Mà con cũng phải về với ba nữa! Về để cho ba lên tinh thần! Về để thấy ba biết xin lỗi mọi người! Về để thấy ba biết nhìn lại cái quê hương của ba cho dầu nó có quê mùa xấu xí bao nhiêu đi nữa! Về để thấy ba chưa đến nỗi là thằng mất gốc! “. ( Đến đây, không còn nghe gì nữa ! )

 Xin lỗi ông ! Con đã ngừng thâu để con khóc ( Rồi giọng cô lạc đi ) Con thương ba con! ( Ngừng một lúc )

 Thưa ông. Ba má con đều là giáo sư toán, dạy ở lycée. Má con mất hồi con mười tuổi. Bây giờ con làm chủ một tiệm sách ở Bruxelles, ba con dạy ở cách nhà không xa lắm. Một hôm, ba nói:

 ” Ba được một thằng bạn học hồi ở đại học, người Phi Châu, mời qua xứ nó giúp tổ chức lại hệ trung học. Ba đã OK. “. Rồi ba đưa cho con một phong bì loại A4, nói : ” Con ráng tìm cách về Nhơn Hòa Cồn Cỏ, trao cái nầy cho cô Hai Huê nói ba không quên ai hết ! “. Con nhìn thấy trên phong bì ba viết ” Mến trả lại Huê, kỷ vật của thời tuổi nhỏ. Cương “. Vậy rồi ba qua Phi Châu làm việc rồi mất ở bển trong mấy trận nội chiến ( Chắc ngừng thâu ở đây nên không nghe gì nữa )

 Thưa ông. Nhờ nghe đọc ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình ” mà con biết được mối tình một chiều của cô Hai Huê, biết được cái khăn mu-soa mà cô Hai đã thêu tặng ba con thuở thiếu thời. Cái khăn đó, bây giờ thì con biết nó đang nằm trong phong bì A4 mà con đang giữ để trả lại cô Hai. Và bây giờ thì con thấy thương cô Hai vô cùng và cũng thấy tội nghiệp ba con vô cùng ( Chỗ nầy giọng cô gái lệch đi, ngừng một chút mới nói tiếp ) Con nhờ ông giới thiệu con cho bác Sáu Lân, người đã kể chuyện để ông viết về Nhơn Hòa Cồn Cỏ. Con sẽ xin bác Sáu đưa con về đó để con làm theo lời dặn của ba con …

 Địa chỉ và số phôn của con như sau :

Melle Nguyên ……

 Con cám ơn ông.

 Con : Sương

Nhớ lại, cách đây khá lâu, một thằng bạn ở Marseille ( miền Nam nước Pháp ) gọi điện thoại lên Paris cho tôi, nói : ” Dưới nầy trời tốt, mầy xuống chơi, đi câu với tao. Sẵn dịp, tao giới thiệu mầy cho một ông bạn mới từ Việt Nam qua định cư ở đây. Tao có khoe với ổng là mầy viết lách khá lắm. Ổng nói ổng muốn nhờ mầy viết một chuyện nhỏ ở dưới quê của ổng để ổng tìm một người bạn. Tao thấy coi bộ ngộ à ! Xuống, đi ! “. Vậy rồi tôi đi Marseille. Sau đó, tôi viết ” Con rạch nhỏ quê mình ” với câu gởi gắm của ổng : ” Tôi nhờ ông viết lại giùm. Biết đâu chừng thằng Cương sẽ đọc. Để nhắc nó đừng quên con rạch Cồn Cỏ, đừng quên thằng Đực Nhỏ, thằng Lân, con Huê … “.

Sau khi nghe CD và ghi chép lại, tôi gọi điện thoại xuống Marseille thì thằng bạn tôi cho hay là ông Lân đã dọn về ở ngoại ô Paris, cách đây mấy năm. Nó cho tôi địa chỉ và số điện thoại của ổng. Vậy rồi ổng và tôi gặp nhau. Tôi kể sơ câu chuyện và đưa cho ổng mượn cái CD. Tôi thấy ổng rơm rớm nước mắt khi nghe tôi nói làm tôi cũng xúc động: người đàn ông hiên ngang, xong xáo trong trận mạc, gan lỳ đánh Việt cộng đến nỗi mang hỗn danh ” thằng Lân ăn pháo “… vậy mà bây giờ cũng biết ứa nước mắt khi nhận được tin thằng bạn không bao giờ gặp lại !

Khi chia tay, ổng nói : ” Cám ơn ông! Nhờ có bài viết của ông mà hôm nay tôi mới có tin của thằng Cương! Tôi sẽ thay nó, đưa con gái nó về thăm Cồn Cỏ! Và thắp cho nó ba cây nhang ở đầu vàm để vong hồn nó nương theo đó mà tìm lại con đường về … “.

* * *

Hơn một tháng sau, ông Lân gọi điện thoại cho tôi nói ổng vừa ở Việt Nam về, muốn gặp tôi để trả cái CD và để ổng kể chuyến đi nầy của ổng. Vậy là chúng tôi đã gặp nhau và tôi đã ghi những lời ổng kể …

 … Nhờ cái CD ông cho tôi mượn mà tôi liên lạc được con Sương. Tội nghiệp! Biết được là tôi gọi, nó khóc ồ ồ ở đầu dây bên kia! Sau đó, nó kêu tôi bằng ” Bác Sáu “, ngọt như tôi là bác ruột của nó vậy! Thấy thương quá!

 Vậy rồi hai bác cháu tôi bay về Việt Nam. Ở Sài Gòn chúng tôi mướn một chiếc xe hơi có tài xế để về Nhơn Hòa Cồn Cỏ. Trên xe, tôi nói với con Sương: ” Ở Cồn Cỏ, ba của con không còn bà con gì hết, họ đã dọn lên tỉnh ở mấy chục năm nay. Bây giờ, ba con chỉ còn có một người bạn thân … ” . Con nhỏ nói; ” Cô Hai Huê ! “. Tôi gật đầu ờ. Nó nói tiếp: ” Cô Hai là người ba nhắc thường nhứt và ba hay thở dài nói ba có lỗi với cô Hai nhiều lắm! Thấy ba con như vậy, con cũng nghe đau lòng, bác Sáu à ! “.

 Thấy thương quá, tôi cầm bàn tay nó bóp nhẹ. Con Sương nhìn cảnh vật bên ngoài nhưng vẫn để bàn tay nó trong lòng bàn tay tôi. Ông biết không ? Tôi không có con, bây giờ, trong cái cầm tay nầy, tôi bỗng cảm thấy như thằng Cương vừa đặt vào tay tôi một đứa con. Trời Đất ! Sao tôi muốn nói : ” Sương ơi ! Từ nay, bác Sáu sẽ thay ba con mà lo lắng bảo vệ con như con là con của bác vậy! “. Nhưng thấy có vẻ cãi lương quá nên tôi làm thinh!

 Xe ngừng ở chợ Cồn Cỏ. Bác cháu tôi vô chợ nhà lồng đến sạp vải của con Huê thì thấy một cô gái lạ. Cổ nói cổ là cháu kêu con Huê bằng dì và đến đây phụ bán vải từ mấy năm nay. Cổ nói : ” Dì Huê có ở nhà, ông bà vô chơi ! “.

 Chúng tôi đi lần theo con đường nằm dọc bờ rạch. Đường nầy bây giờ được tráng xi-măng sạch sẽ. Tôi nói:

 ” Nhà cô Hai có cây mù u nằm trước nhà cạnh bờ rạch, dễ nhận ra lắm ! “. Đến nơi, thấy còn nguyên như cách đây mấy chục năm: cũng hàng rào bông bụp thấp thấp, qua một cái sân nhỏ là ngôi nhà xưa ngói âm dương, kèo cột gỗ, ba gian hai chái với hàng ba rộng, một bên hàng ba có một bộ ván nhỏ … Tôi hơi xúc động vì bắt gặp lại những gì của thời cũ. Chỉ có bao nhiêu đó thôi – nhỏ xíu – vậy mà sao gợi lại được vô vàn kỷ niệm ! Tôi gọi lớn: ” Huê ơi Huê ! “. Trong nhà chạy ra một người đàn bà tóc bạc nhìn tôi rồi la lên: ” Trời Đất ! Anh Lân ! “. Tuy cô ta đang nhăn mặt vì xúc động, tôi vẫn nhận ra là Huê ! Không kềm được nữa, Huê và tôi cùng bước tới nắm tay nhau vừa dặc dặc vừa nói ” Trời Đất ! Trời Đất ! ” mà không cầm được nước mắt!

 Một phút sau, Huê buông tay tôi ra quay sang con Sương, hỏi:

” Còn ai đây ? “. Tôi nói:

” Con Sương ! Con thằng Cương ! “.. Nó hỏi:

” Còn anh Cương đâu ? “. Con Sương thả rơi ba-lô xuống đất, bước lại phía con Huê, nói:

” Ba con chết rồi, cô Hai ơi ! “. Con Huê chỉ nói được có một tiếng ” Chết ” rồi xiêu xiêu muốn quị xuống.

 Con Sương phóng tới đỡ con Huê, nói:

 ” Cô Hai ơi ! “. Rồi hai cô cháu ôm nhau khóc nức nở.

 Tôi đứng tần ngần một lúc mới bước lại đặt tay lên vai Huê bóp nhẹ:

 ” Tại cái số hết, Huê à ! Thằng Cương đang dạy ở bên Bỉ, mắc gì mà qua Phi Châu làm việc để rồi chết mất xác trong chiến tranh ở bên đó. Tại cái số hết ! Phải chịu vậy thôi ! “.

 Con Sương dìu Huê lại ngồi ở bực thềm, vói tay mở ba-lô lấy phong bì A4, nói:

 ” Ba con gởi cái nầy cho cô “. Huê cầm phong bì, nheo mắt đọc rồi lắc đầu nhè nhẹ:

 ” Chắc là cái khăn mu-soa ! “.. Huê xé phong bì lấy khăn ra cầm hai góc khăn đưa lên nhìn:

 khăn còn thẳng nếp, chưa có dấu hiệu xử dụng ! Huê nhăn mặt, đưa khăn lau nước mắt của mình rồi sang qua lau nước mắt của con Sương làm nó cảm động nấc lên khóc. Huê nói:

 ” Khăn nầy cô thêu tặng cho ba của con, nhưng không có duyên nên khăn lại trở về. Bây giờ, cô tặng cho con để kỷ niệm ngày cô cháu mình gặp nhau “. Con Sương cầm lấy khăn rồi ngả đầu vào vai Huê, nói:

 ” Con cám ơn cô Hai “. Huê vừa gật đầu vừa choàng tay ôm con Sương lắc nhè nhẹ như vỗ về đứa con!

 Tôi bước ra bờ rạch ngồi cạnh gốc cây mù u đốt thuốc hút. Tôi thấy trên thân cây có đóng một cây đinh dài đã gỉ sét đen thui, vắt lên cây đinh là một cuộn dây dừa cũ mèm như muốn mục. Tôi nghĩ chắc con Huê nó làm như vậy, nó vốn nhiều tình cảm và giàu tưởng tượng. Nó có ý nói con thuyền ngày xưa đã bỏ bờ đi mất, nếu một mai có trôi về được thì cũng có sẵn dây để cột con thuyền vào gốc cây mù u … Tôi đốt thêm một điếu thuốc rồi đặt lên cuộn dây dừa, vái lâm râm: ” Cương ơi ! Mầy có linh thiêng thì về đây hút với tao một điếu ! “. Tự nhiên, tôi ứa nước mắt!

 Khi tôi trở vô nhà thì cô cháu tụi nó ngồi cạnh nhau trên bộ ván, nói chuyện coi bộ tương đắc! Thấy tôi, Huê nói để vô làm cơm cùng ăn. Tôi từ chối vì phải về trả xe.. Huê xin cho con Sương ở lại chơi với nó mươi hôm, còn con Sương thì hớn hở :

 ” Bác Sáu đừng lo ! Con về một mình được ! “.

 Tôi bằng lòng nhưng đề nghị cùng ra đầu vàm thắp ba cây nhang cho thằng Cương. Con Huê vô nhà lấy nhang và một tấm ni-long để ra đó trải cho ba người ngồi. Khi đi ngang cây mù u, con Huê bước lại gốc cây lấy cuộn dây dừa liệng xuống rạch, rồi phủi tay, đi ! 

 Sau khi cúng vái ở đầu vàm, cô cháu nó đưa tôi ra xe. Nhìn tụi nó cập tay nhau mà thấy thương quá, ông ơi !

 * * *

… Bây giờ thì cô Sương đã đem cô Huê qua Bỉ ở với cổ. Nghe ông Lân nói hai cô cháu rất ” tâm đồng ý hợp “. Còn chiếc khăn mu-soa thêu thì ông Lân nói cô Sương đã cho lộng vào một khuôn kiếng rất đẹp treo ở phòng khách , ở một vị trí mà ai bước vào cũng phải thấy !

TIỂU TỬ

Bỏ quên

Thảm trạng gia đình người Việt ở Mỹ trong mùa dịch

 Bỏ quên

Nghe tiếng phone reng, Hoàng bực mình cho là phone quảng cáo, nhưng vẫn dở phone lên gắt gỏng :

– Alo ! cái gì mà gọi hoài vậy.

 

– Dạ cho chúng tôi gặp ông Lợi,  chúng tôi gọi hai ngày nay không ai bắt phone.

 

– Ông Lợi không có nhà.

– Chúng tôi rất cần gặp ông Lợi

 

– Ông Lợi đi làm hai giờ chiều mới về, có gì nói với tôi được không, tôi là người nhà ông Lợi,

– Xin bà làm ơn nói với ông Lợi đến nhà dưỡng lão CampBell đưa ông cụ về nhà vì dịch corona nhà dưỡng lão được lệnh phải giải tán.

 

Hoàng hoảng  hốt nghĩ cái hoạ sắp tấp vào nhà,  liền xuống giọng năn nỉ :

 –  Thưa bà,  xin bà có cách gì tạm để ông già trên đó không,  tốn mấy chúng tôi xin chịu, nhờ bà làm ơn giúp cho chúng tôi, chúng tôi sẽ hậu tạ riêng bà.

 

 – Không được cô, tôi là nhân viên đâu có quyền hành gì, 19 người già trong viện xét nghiệm có 4 người dương tính, bị nhiễm virus, hiện cho nằm bịnh viện, số còn lại kết quả âm nên cấp tốc trả về nhà cách ly 14 ngày.

Đó là lệnh của ban phòng chống dịch. Hiện người ta về nhà hết, trừ ông cụ, bởi vậy cô phải báo cho ông Lợi biết,  cấp tốc đến đưa ông cụ về. Thôi, cảm ơn cô.

 

Bỏ phone xuống Hoàng sững sờ :  Làm sao bây giờ.

Lợi có một bà chị và một đứa em. Gọi phone bà chị, nhờ bà chị nhận ông già về tạm mấy ngày dịch hoành hành rồi sẽ tính sau :

– Chị nên đưa cha về một thời gian ngắn rồi sẽ tính, chị lo cho cha,  bọn em chịu tất cả phí tổn cho chị

 

– Không được, nhà tui có một phòng,  lớn nhỏ năm người ở,  đưa cha về ở chỗ nào. Nhưng mà cậu mợ nghĩ sao, ba năm nay ổng đã ở yên rồi, thì để ổng ở tiếp cho hết đời, đem về làm gì.

– Bây giờ người ta không cho ở nữa, tất cả viện dưỡng lão đều bị đóng cửa. Thôi để em thuyết  phục chú út thử.

 

 Chú út viện lý do hai vợ chồng chú cả ngày đi làm , vì làm y tá ở bịnh viện nên dù mọi người đều phải ở nhà, hãng xưởng đều đóng cửa, nhưng hai vợ chồng chú không được ở nhà, thì làm sao có thì giờ chăm sóc ông già.

 

Trước lý do đó chị không thể năn nỉ câu thứ hai. Không còn cách gì nữa,  năn nỉ ai cũng không được,  chị liền nghĩ đến cách cuối cùng là im lặng xem như không được tin tức gì hết, và có thể cảnh sát xem như ông già không có thân nhân, và họ sẽ giải quyết theo hướng đó, hướng không có thân nhân.

 

 Chị mỉm cười khen mình người sáng ý,  thông minh. Chị biết rất rõ anh bạn của  chồng chị, cách nay ba năm, có bà mẹ già ở Pháp sang thăm, bà bị bịnh,  anh gấp rút đưa vào bịnh viện, độ vài tuần sau bà cụ qua đời. Bịnh viện liên lạc thân nhân mới hay,  là số phone giả, địa chỉ giả.

 

Chiều hôm đó Lợi về hơi sớm. Đường vắng quá, một vài người lớn tuổi đi bộ có vẻ ké né trên lề đường, đeo khẩu trang,  ra dáng thận trọng nghiêm nghị khác những ngày thường.

 

Quang cảnh khác hẳn, hơi rờn rợn, hình như ma quái núp trong cỏ cây, nơi nào đâu xa lạ hoang vu,  chứ không phải nơi anh thường đi ngày hai bận, đi cắt cỏ cho một trường học gần nhà.

 

Anh vừa bước vào nhà, nghe phone reng, trong phòng bên cạnh chị chạy ra nhưng không kịp.

– Alo ! dạ..dạ .. dạ vâng …dạ..dạ tôi đến ngay.

 

 Vừa đặt phone xuống, anh nói ngay :

– Bọn nó đuổi ông già về, bây giờ anh phải đi đón về.

 

 Chị cố bình tỉnh, tuy giọng hơi run run :

– Thì anh ăn cơm rồi sẽ tính sau.

-Tính cái con mẹ gì, nó bảo trước đây hai ngày, họ về hết rồi, nếu chiều nay không ai đón về, nó báo cho cảnh sát biết và xem như xong nhiệm vụ.

 

– Hay là anh để cho cảnh sát nó giải quyết xem sao.

– Làm thế cha anh sẽ chết lạnh dọc đường cái trong đêm nay.

 

Bực mình anh vẫn giữ nguyên bộ quần áo cắt cỏ ra xe.  Anh nghĩ cũng tại anh, năm đó ông già không  chịu đi, lấy lý do già rồi đi làm gì, tiếng Anh không nói được không biết lái xe, hơn nữa, mẹ anh mới mất chưa giáp năm, bỏ đi thấy tội nghiệp quá.

 

Nhưng anh bảo cha anh nên đi, tuổi già ở Mỹ có đũ thuốc men,  có bác sĩ giỏi, có binh viện tốt,  nhất là tránh được cái nạn dùng thuốc giả, thuốc độc,  của Trung quốc.

 

Bà chị cả của anh, người em trai út và nhất là vợ anh,  liên tục lén anh, viết thơ về khuyên ông già nên ở lại Việt nam lo mồ mã cho mẹ mới mất,  rồi sẽ gửi tiền,  gửi thuốc Tây về cho ông.

 

Bởi vậy ông quyết định xoá bỏ hồ sơ H.O.  Khi được tin xoá bỏ hồ sơ,  anh phải cấp tốc về quê khuyên bảo ép buộc ông làm lại hồ sơ. Thế mà phải chờ đến trên mười năm,  hổ sơ mới được tái xét, mới được ra đi.

 

 Freeway 17 vắng quá, anh chạy hơi quá tốc độ nên chưa đến một giờ đã ra exit Campbell.

Theo con đường nhỏ đi sâu vào rừng rậm.  Tuy chưa đến 4 giờ chiểu nhưng như sắp tối, vắng một cách kinh hoàng.

 

Anh nghĩ làm nhà dưỡng lão ở nơi này có khác gì một nhà tù nhốt mấy ông già gần đất xa trời.

Đậu xe phía trước,  anh chạy vòng vào sân sau, không có một bóng người nào, phía trong hành lang xa,  một ông già nhỏ thó ngồi bất động trên cái ghế dài bên cái xách vải .

“ Trời ơi ! cha tôi đây Trời !” Anh nhào tới ôm cha anh, ông già mỉm cười, nước mắt dầm dề :

–  Thấy con cha mừng quá. Hai hôm nay cha ở đây một mình. Nếu tối nay con không đến, cha mò lần ra đường cái. Trời còn thuong cha.

 

– Cha ngồi đây lâu chưa ?”

– Hồi sáng giờ.  Bà y tá bảo cha dọn đồ ra ngồi chờ người nhà lên,  họ đóng cửa.

 

Lợi xách túi vải nói :

– Con cõng cha ra xe, đường đi nhiều rễ cây dễ bị vấp ngã.

 

Ông giả lẩm nhẩm :

 – Cha ở đây đúng ba năm 4 tháng 18 ngày.

 

Lợi mừng thầm, ông già mình tuy ốm yếu nhưng trí óc còn khá sáng suốt mới nhớ được số ngày tháng năm ở khu rừng này.

– Bọn con đều khoẻ mạnh hết.?

– Dạ, vì bịnh dịch đang lan tràn nên ai ở nhà nấy không dám ra đường, nên mình con đi đón cha..

 

– Hai đứa cháu nội của cha lớn lắm hả,  có đứa nào có vợ chưa.

– Chưa cha, bọn nó còn nhỏ, còn đi học mà.

 

Lợi lái xe chạy chậm vì đoạn đường xấu, sợ xe xóc làm mệt cha già. Nghe tiếng thở đều đều ông già ngoẽo đầu qua một bên thiu thiu ngủ.

Lợi định tạm để cha già ở cách ly tại garage xe. và anh định nghỉ cắt cỏ ít nhất 2 tuần để chăm sóc cha.

Anh nguyện lần này chính anh, chinh bàn tay anh,  sẽ làm mọi thứ,  từ nấu ăn, giặt dũ đến tắm rửa, đổ bô,  lau cầu, không để ai nhúng vào, nhất là vợ anh.

 

Nhắc đến vợ, anh lo lắng rồi đây anh phải cố gắng chịu đựng, cố gắng nhịn nhục tối đa,  để tránh những cuộc đổ vỡ cãi vã to tiếng. Nhất là không để cho ông già nghe được   những lời cãi vã.

Anh chắc chắn phải làm được vì ông già sống ở garage biệt lập.

 

Bữa cơm tối hôm đó tuy rất đói nhưng anh ăn không ngon vì hình ảnh cha anh  khi chiều làm anh rất xúc động, anh cảm thấy tội lỗi,  một ông già gầy ốm một  mình ngồi cheo leo ở bìa rừng vắng vẻ tiêu điều,  vào một buổi chiều sắp tắt.

 

Tại sao một ông già phải bị đày đoạ như thế.  Mâm ăn có 4 người, hai con anh ngồi một bên, vợ anh với anh một bên.

Hai đứa nhỏ và vợ anh mỗi người chăm chú vào chiếc Iphone,  không để ý gì đến việc ăn uống.

Bỗng chị hỏi :

-Cha ăn uống gỉ chưa ?

 

– Cha mệt đang ngủ ngoài garage, anh đang nấu cháo cho cha

– Chắc anh gặp cha đang lang thang ngoài đường cái chứ gì?

 

Anh giả vờ không hiểu câu nói móc của chị,  vì khi ra xe đi đón ông già,  anh bảo nếu không lên đêm nay, ông già có thể chết lạnh trên đường cái.

Anh bình thảng trả lời :

– Không,  ông già ngồi cheo leo một mình ở hè nhà dưỡng lão.

 

Hai đứa nhỏ thôi ăn đứng dậy, mỗi đứa rót một ly nước, lên lầu

 Chị cũng thôi ăn, đứng dậy,  anh liền bảo :

 – Em ngồi lại anh có vài điều muốn bàn với em.

 

Chị ngồi xuống nhìn thẳng vào anh.

Anh đem cha vể đây ở tạm một thời gian, có thể nửa năm, một năm để ổng ổn định sức khoẻ, anh sẽ dẫn ổng về lại Việt Nam ở với bà cô ruột anh cũng đang sống một mình với đứa cháu trong họ.

 

Anh sẽ làm hết mọi việc từ đi chợ, nâu ăn, rửa chén, dọn dẹp trong nhà, lau chùi cầu tiêu nhà cửa, v..v..anh chỉ tha thiết xin em một điều ..một điều.. là cố gắng vui vẻ với ông già trong lúc ổng còn ở nhà này với chúng ta.

Nghĩa là em sẽ không làm gì hết, cố nhiên việc chăm sóc ông già là việc của anh, nếu em …thấy không thể được thì cũng nên cho anh biết.

 

Không khí nặng nề im lặng.  Chị đứng dậy,  chậm chậm đi lên lầu.  Khi chị đi rồi anh bực  mình tại sao lại đặt vấn đề với chị một cách thẳng thừng thô bạo như vậy, vô tình đẩy chị vào thế chống đối, anh cảm thấy mình kém cõi quá, làm vấn đề đáng lẽ đơn giản,  hoá ra khó khăn phức tạp hơn.

 

Nhà anh có 4 phòng, trên lầu 3 phòng ngủ, 2 phòng tắm. Hai con hai phòng anh chị một phòng.

Tầng trệt 1 phòng ngủ 1 phòng tắm. Khi ông già chưa đến nhà dưỡng lão, ở phòng dưới này.  Để ông già nằm một mình ở garage anh không yên tâm, đêm hôm có việc gì ông già kêu không ai nghe, anh đặt môt giường nhỏ anh nằm cạnh ông già.

 

Lấy lý do vì dịch corona, cách ly xã hội, nên anh yên tâm để ông già ở Garage cho đến khi hết dịch.

Cũng vì lý do đó anh giải thích với ông vợ anh và hai con anh chưa dám ra garage.

Thật sự ông già hiểu hết sự việc, nhất là suốt hơn ba năm nay, ba chục người bị  “lưu đày” ( chữ của các cụ ở nhà dưỡng lão Campbell ) ở chung với nhau . Hầu như họ chung một tâm trạng bị con, tống họ ra khỏi nhà, vì tốn kém thì ít,  vì người nào cũng có tiền già, tiền chánh phủ cấp cho tạm đũ sống, có lẽ vì người càng già càng làm cuộc sống của chúng mất tươi trẻ, mất hạnh phúc, và cũng chính người già bị gán cho là cái ổ vi trùng, ổ bịnh tật.

 

Người già đồng nghĩa với dơ dáy. v..v.. Tất cả họ, những người Việt nam ở trại Campbell, đều là cựu sĩ quan miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước tháng Tư năm 75 (1975), trung bình mỗi người chịu gần 10 năn tù cộng sản.

 

Vì cùng chung một tâm trạng, một ngôn ngữ họ thông cảm với nhau họ không quá chán nản quá cô đơn như ở các nhà dưỡng lão khác nói tiếng Anh là chính,  nên người nào không nói   được,  chịu rất nhièu thiệt thòi,  có khi bị đánh đập vì bị xem như bất tuân các mệnh lệnh của y tá y công.

Vì chia  xẽ vì thông cảm vì cùng cảnh ngộ họ tránh được những cãi vã,  những xô xác với nhau,  nhưng họ mỗi ngày mỗi chuốt thêm những oái oăm, những nỗi buồn vì bất hạnh với gia đình,  với con cháu.

 

 Mỗi ngày họ phết thêm vào bức tranh tập thể đó,  một nét buồn thảm ảm đạm. Thế cho nên họ thiếu hẳn niềm vui, người nào cũng mang một bộ mặt âu sầu buồn thảm.

Thậm chí có người than rằng ở tù tuy mất tự do,  tuy nhục nhã,  nhưng ít nhất một tháng,  hoặc 6 tháng,  có gia đình đến thăm nuôi, và gia đình còn thương xót,  còn tôn trọng,  còn kính nể người đang ở tù,  và còn hi vọng người tù còn có ngày về để cùng xây dựng lại cuộc sống,  tạo lại hạnh phúc.

 

Trái lại vào trại dưỡng lão không mất tự do,  nhưng gần như  không cần tự do nữa, như bước vào giai đoạn cuối cuộc đời .

 Họ thật sự bi bỏ quên. Có người suốt năm không có người đến thăm.

Theo ông khi vào trại, tổng số là 30 nguòi, và gần 4 năm sau chỉ còn 19 người. Mười một người lìa trần vì buồn bã quá, vì chán nản đến cùng cực, vì tủi thân, vì bị bỏ quên,  chứ không phải vì những bịnh nan y.

Có những người không chịu uống thuốc, có người phản đối đi bịnh viện.

 

Từ ngày đưa cha về nhà anh thay thế vợ làm mọi việc trong nhà,  anh mới biết rằng tuy công việc nhẹ,  nhưng bực mình quá.

Quần quật từ sáng đến tối,  không hết việc.  Anh dọn cho cha anh và chính anh ăn ngoài garage, sợ cha buồn anh giải thích vì trong thời kỳ cách ly nên phải như thế. Vợ con anh ăn trong nhà.

 

 Tuy ông hiểu điều giải thích của anh là đúng trong thời kỳ cách ly này, nhưng ông vẫn buồn buồn tủi thân.  Ông mỉm cười tự thấy mình càng già càng khó tính, càng cô đơn càng khó tính.

 

Ông nghĩ đáng lẽ ở tuổi mình tuổi gần 80 phải dễ dãi , phải cởi mở, sao cũng xong cũng tốt.  Ông nhớ lại cái đề tài này, trong nhà dưỡng lão,  thường đem ra bàn luận với nhau trong nhóm anh em,  và lúc nào ông cũng ở phe chỉ trích những người khó tính,  và quả quyết vì tính xấu đó,  mà con cháu nó không muốn sống gần với mấy người già,  dù đó là ông bà nội ngoại.

 

Mấy người bạn của ông không đồng ý và cho rằng vì hai nền văn hoá Đông phương Tây phương đối lập nhau,  nên mới có những bi kịch như vậy.

Rồi họ dẫn chứng ở Việt Nam chẳng hạn( trừ cộng sản) đứa bé lên ba đã được cha mẹ dạy dỗ lễ độ chào hỏi,  trong khi ở Mỹ trẻ con lên đại học chưa có thói quen chào hỏi.

Vấn đề này với ông,  chưa ngã ngũ,  chưa tìm ra câu giải đáp thoả mãn.

 

 Từ ngày ra khỏi nhà dưỡng lão Campbell. ông sống một mình ở garage ông hay nghĩ đến người vợ quá cố của ông.

Nếu bà còn sống,  thì có lẽ đời ông không như thế này, không có chuyện ở nhà “ lưu đày Campbell”.

 

Càng nhớ đến bà,  ông càng thấy ở bà có phẩm cách cao quí, một người vợ tuyệt vời, một người đàn bà suốt đời biết hi sinh cho chồng cho con, một người kính trọng cha mẹ ông hơn cả ông kính trọng.

Có hôm trong giấc chiêm bao ông thấy bà ngồi cạnh giường ông, ông mừng quá ngồi dậy thì bà lặng lẽ đúng dậy ra  đi im lặng không nói một lời.

Rồi những đêm tiếp theo,  ông mong được gặp bà nhưng không thấy.  Ông tính sẽ nói với anh lập bàn thờ thờ mẹ để đêm đêm có chỗ ông thắp cây nhang, tội nghiệp. Nhưng ý nghĩ này bị dập tắt ngay,  vì ông,  và bạn bè ông đều biết,  có bao giờ bọn chúng chấp nhận bàn thờ.

 

Anh vui vẻ hỏi cha :

– Hôm nay con đi chợ, cha muốn mua thứ gì, muốn ăn uống gì,  con mua cho cha.

– Không, không, khỏi mua gì con, cha ăn gì cũng được,  nhà có gì ăn nấy.

 

Anh vừa ra xe,  thì chị và hai đứa nhỏ đến cửa trong nhà xuống garage, chị nói lớn trong nước mắt :

 

– Hai cháu và con chào cha.  Nhờ cha nói với ổng có cái thư để trong tủ lạnh. Ổng không cần vợ,  không cần con,  nên bọn con ra đi.  Nói xong chị và hai đứa nhỏ lui  vào nhà.  Ông bối rối không kịp nói gì.  Mệt quá ông  nằm đừ lên giường cảm thấy khó thở.  Ông mê mang vào giấc ngủ hồi nào không biết.

 

Anh đặt mâm cơm lên bàn mới hay cha anh đang ngủ. Anh ngạc nhiên sao giờ này cha anh còn ngủ :

 – Cha, cha, dây ăn cơm rồi hãy ngủ cha.

 

 Ông già ngồi dậy bần thần không biết ở đâu. Anh nói lớn:

 – Hình như cha bị cảm phải không.

 – Không,  hơi mệt thôi, không sao đâu.

 

 Ông ngồi dậy cố nuốt miếng cơm, nước mắt dầm dề :

 – Vợ con với hai đứa nhỏ bỏ nhà đi rồi

 – Cha nói cái gì vậy cha ?

  Ông lặp lại :

 – Vợ con bỏ nhà đi rồi. Nó có ra chào cha và dặn cho con biết có thư trong tủ lạnh.

 Anh vội vàng chạy vào nhà. Thư viết : “ Ông xem mẹ con tui không ra gì nên chúng tôi phải ra đi”. Viết vội vã chữ nguệch ngoạc, chỉ một câu thôi, không ký tên không đề ngày.

Tức qúa anh xé nát tờ thư, ngồi thừ xuống ghế nước mắt tuông chảy, anh khóc.  Anh ngồi như thế đến 1 giờ sáng, giật mình nghĩ đến ông già, anh vội bước ra garage cố điềm tỉnh dấu cha anh.

Cha anh nằm im lặng hình như chưa ngủ, vì ông già cựa mình và thỉnh thoảng ho. Anh nghĩ phải cố gắng bình thảng trước cha anh. Mong hết cơn dịch anh sẽ đưa cha anh về Việt nam rồi anh sẽ đi tìm vợ con anh. Nhất định không để đổ vỡ gia đình. Anh nghĩ,  lỗi do mình, mình bất tài quá nên mới ra nông nỗi này.

Nguyễn Liệu

San Jose ngày 15 tháng 4 năm 2020

Ngày cao điểm của trận dịch corona

From: Xuân Nguyễn