PHƯỚC ĐỨC…

  PHƯỚC ĐỨC…

Ngày xưa có ba ông thầy : một thầy xem tướng, một thầy tính số, và một thầy phong thủy cùng nhau đi chu du khắp nơi. Một ngày, các thầy tới thăm một nông trại.

Lúc đó trời đã tối nên cả ba xin được tá túc qua đêm. Thế là, ba ông thầy tướng số theo chân gia nhân vào trong nhà. Cả ba người được chủ nhà chào đón rất chân tình. Chủ nhà sai người dâng trà rồi lại làm cơm thịnh soạn thiết đãi. Sau đó, ba thầy được sắp xếp nghỉ ngơi trong một phòng khách bài trí hài hòa, đồ đạc giản dị, gọn gàng ngăn nắp.

Trước khi đi ngủ, thầy tướng nói với hai thầy còn lại: “Hai huynh đệ, tôi thấy vị chủ nhà này ngũ quan phá tướng không tốt chút nào. Trán hẹp, lệch, tướng yểu, nghèo khổ”.

Thầy xem số bàn thêm: “Ông này mệnh triệt, thân tuần. Ba cung tam hợp mệnh, tài, quan đều không tốt, lại có số không giữ được tiền của.”

Ông thầy phong thủy tổng kết: “Vậy là tướng không tốt, số cũng chẳng lành. Kỳ lạ thật, tại sao ông ta lại có thể giàu có được nhỉ ? Tôi thấy người gác cổng kia còn có tướng làm ông chủ hơn đấy. Phải chăng nhờ mồ mả gia tiên ở nơi âm trạch tốt nên ông ta mới được như vậy?”. Ba thầy nằm thao thức mãi không ngủ được, mong trời mau sáng.

Sáng hôm sau, ba thầy cùng ngỏ ý muốn đi xem âm trạch. Chủ nhà vui vẻ đồng ý và đích thân dẫn ba thầy đi xem phần mộ.

Đường đi khá vòng vèo và xa xôi lại còn phải đi qua suối. Nhưng khi quay về, chủ nhà lại dắt họ đi một đường khác. Đường về thì ngược lại rất gần, chẳng vòng vèo như lúc đi.

Ba thầy hỏi: “Sao khi đi ông không đi đường này mà đi vòng chi cho xa ?”.

Chủ nhà từ tốn đáp: “Khi dẫn ba thầy ra tới cổng, tôi thấy người hàng xóm đang cắt trộm lúa của tôi. Nếu tôi đi qua đó, thấy tôi họ sẽ bỏ lúa mà chạy. Tôi biết vì đói nên họ mới làm vậy chứ bản tính không phải phường trộm cắp, nên muốn đi đường vòng để tránh không làm họ tủi thân.”

Cả ba thầy đều gật đầu nói rằng:
“Ồ, vậy Ngài được chữ ĐỨC, chính ĐỨC đã thay đổi vận mệnh của Ngài. Chính Tâm hành thiện của Ngài đã tích được ĐỨC!

 TÌNH MẪU TỬ

 TÌNH MẪU TỬ

Bài cũ, thấy hay, xin gởi thêm lần nữa. Mời đọc, để rồi không cầm được nước mắt.

Phùng Văn Phụng

(Nhân ngày HIỀN MẪU xin gởi truyện ngắn này đọc xem có khóc không?)

– Anh về ngay đi, em hết chịu nổi rồi, mẹ anh phiền thật.

– Uhm, mẹ anh phiền thật, bây giờ anh đang có cuộc họp quan trọng, tối về anh sẽ giải quyết nha em.

Tiếng đầu dây bên kia dập máy nghe có vẻ rất tức tối, anh buông thõng người ra sau ghế, ở bên kia cô nhìn ra phía cửa như đang cố nuốt trôi một cái gì đó vào mình.

– Anh nhìn đi, đó, đây này, hôm nay em sắp, ngày mai em xếp, cứ một người dọn, một người lại bày ra như vậy, ai mà chịu nổi. Em sắp điên rồi đây. Cô vò đầu trong 1 trạng thái vô cùng tức giận, anh lại gần cô, lấy tay xoa xoa hai bờ vai gầy gầy, cô hất chúng ra.

– Em vào đây – Anh nhẹ nhàng nắm lấy tay cô kéo vào phòng, khép hờ cửa, anh lấy xuống một chiếc hộp được đặt trên nóc tủ, lấy tay phủi nhẹ, anh nhìn cô mỉm cười.

– Mẹ phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé, còn bây giờ để anh cho em biết mẹ chúng ta phiền đến mức nào.

Anh mở chiếc hộp ra, bên trong là một xấp hình, anh lấy ra một tấm đã cũ, nhưng chẳng hề dính tí bụi nào, cô tò mò nhìn vào tấm ảnh.

– Em thấy không, đây là tấm hình mà Dì anh đã chụp lúc anh sinh ra, Dì kể vì mẹ yếu nên sinh lâu lắm, mà sinh lâu chắc là đau lâu em nhỉ, mà mẹ phiền thật, cứ la hét ầm ĩ cả lên, ai mà chẳng sinh. Dì còn nói, mẹ yếu lắm, nếu cứ cố sinh thì sẽ nguy hiểm cho người mẹ, bác sĩ đã nói như vậy rồi vậy mà mẹ vẫn cố cãi: “Không, con tôi phải ra đời, tôi phải sinh,” mẹ anh phiền thật đó.

Cô nhìn tấm hình, bàn tay cô nhẹ bổng, rồi cô nhìn anh, trong mắt anh chứa một điều gì đó rất lạ. Anh cẩn thận bỏ tấm hình đó qua một bên, lấy một tấm khác cho cô xem.

– Em nhìn nè, đây là bức ảnh chụp lần đầu tiên anh bú mẹ, anh chẳng thấy ai phiền như mẹ cả. Bà nội, bà ngoại nói cả rồi, mẹ yếu, không đủ sữa để cho anh, uống sữa bình đi, ở đó mà dưỡng sức, nhưng một hai cứ khư khư giữ anh vào lòng “Không, con con nhẹ cân, phải bú sữa mẹ mới tốt.” Ai nói gì cũng cãi em nhỉ, nếu không anh được uống sữa bình rồi, sữa bình phải ngon hơn chứ, mẹ anh phiền thật.

Bàn tay cô run run, cô thấy ánh mắt của người mẹ trong bức ảnh ánh lên vẻ rất hạnh phúc, hai bàn tay cô ta cứ giữ chặt đứa bé. Cô nhìn anh không nói gì cả.

– Còn nữa đây này – Anh lại lôi ra một tấm khác nhìn vào đó.

– Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, con nít hơn một năm ai chẳng chập chững biết đi, mẹ cứ làm như chỉ có con mẹ mới làm được điều đó không bằng. Ba kể mẹ cứ gặp ai là cũng hí hởn khoe “Thằng cu Tin nhà tôi đi được rồi, nó biết đi rồi đó.” Bộ mẹ không thấy phiền hay sao em nhỉ? – Bờ môi cô như muốn nói một cái gì đó nhưng cổ họng thì ứ nghẹn lại, bức ảnh đứa trẻ con chập chững đi về phía mẹ trong tấm hình, cô nhìn mãi. Ba còn kể, từ ngày anh bắt đầu bi bô tập nói rồi gọi được tiếng mẹ là nguyên những ngày sau là một chuỗi điệp khúc “ Cu Tin gọi mẹ đi, gọi mẹ đi cu Tin,” mẹ phiền quá đi mẹ à, anh mỉm cười xoa nhẹ vào bức ảnh, mắt anh đang long lanh thì phải.

– Đây nữa, đây nữa này – Anh lôi ra nguyên một xấp, nhiều lắm, rất nhiều ảnh – Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, chụp làm gì mà lắm ảnh vậy không biết, lần đầu tiên anh vào mẫu giáo, có phiếu bé ngoan, rồi tiểu học, trung học, nhận bằng khen, em coi đi, đủ trò trên đời, coi hình của anh có mà đến tết mới xong, anh phì cười, “mẹ anh phiền nhỉ?”

Cô nhìn anh, anh không cười nữa, anh cầm một tấm hình lên nhìn vào đó rất lâu, cô thấy nó, một tấm hình rất đẹp, anh rất đẹp trong bộ áo tốt nghiệp cử nhân, anh lúc đó trông điển trai quá, cao ráo, nhưng…

– Em có thấy không? Tóc mẹ anh đó, rối em nhỉ? Còn áo quần nữa này, cũ mèm…- Cô nghe thấy giọng anh trở nên khác đi, không đều đều như lúc ban đầu nữa, đứt quãng. Cô nắm lấy tay anh.

– Năm 15 tuổi, ba bỏ mẹ con anh lại, rồi lúc đó, mọi thứ trong nhà trở nên không có điểm tựa, anh đi học, mẹ bắt anh phải học… Em không biết đâu, anh xin nghỉ nhưng mẹ không cho, phiền như vậy chứ. Mẹ cứ sáng sớm đi phụ quán cơm cho người ta, trưa ăn một chén cơm thừa trong quán để dư tiền cho anh học thêm ngoại ngữ, rồi chiều đến chạy đi giặt đồ cho những bà mẹ không phiền khác, để họ đi mua sắm, cà phê, giải trí…- Giọng anh lạc hẳn – Còn nữa em ạ, tối đến mẹ lại tiếp tục đi làm lao công đường phố, sáng sớm mới về chợp mắt được một tí thôi, vậy đó… Em thấy mẹ anh khỏe không?

“Tách”, một giọt nước rơi xuống trên tấm hình, mắt cô cũng nhòe đi, khác thật, một bà mẹ trẻ với gương mặt xinh đẹp lúc đứa con mới bi bô tập nói, và cũng với gương mặt phúc hậu đó nhưng giờ làn da đã nhăn đi, khuôn mặt gầy hẳn khi đứng cạnh cậu con trai lúc chuẩn bị ra trường.

– Anh à – Bàn tay cô nắm lấy bàn tay run run của anh.

– Em có thấy tay mẹ rất yếu không, anh chẳng bao giờ kể em nghe nhỉ. Khi năm tuổi, anh đùa nghịch chạy nhảy lung tung, lúc đuổi bắt cùng cô nhóc hàng xóm anh đã trượt chân ngã từ cầu thang xuống. Lúc đó, anh chẳng thấy đau một chút nào cả, chỉ nghe một tiếng kêu rất thân quen, em có đoán được không, anh đang nằm trên một thân thể rất quen…mẹ anh đó. – Cô sững người lại, nước mắt cô trào ra, rơi xuống ướt đẫm tay anh.

– Em à, mẹ anh phiền vậy đó, phiền từ khi anh chuẩn bị lọt lòng cho đến khi anh gần đón đứa con đầu tiên của mình, chưa hết đâu, mẹ sẽ còn phiền cả đời em ạ, bây giờ lớn rồi mẹ vẫn cứ lẽo đẽo theo anh dặn đủ thứ em không thấy sao, cơm phải ăn ba chén, đi xe phải chậm thôi, đừng có mà thức khuya quá. Mẹ anh phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé.

“Anh”, cô ôm chặt lấy anh, cô òa khóc nức nở, “em xin lỗi”, anh ôm lấy cô vỗ về, vỗ về như ngày xưa anh vẫn thường được làm như vậy.

“Choang” – Anh và cô chạy nhanh xuống bếp.

– Mẹ xin lỗi, mẹ nghe con thèm chè hạt sen nên mẹ đi nấu, nhưng… Giọng mẹ run run không dám nhìn về phía trước, cúi người nhặt những mảnh vỡ vừa rơi.

– Mẹ à – Cô chạy đến nắm lấy bàn tay xương xương của mẹ – Từ nay mẹ đừng phiền nữa nhé, để con phiền mẹ cho – Cô ôm chặt mẹ, nước mắt thấm đẫm vai áo mẹ, mẹ nhìn anh, anh nhìn cô trong lòng của mẹ.

“Mẹ đã không sinh lầm con và con cũng đã không chọn nhầm dâu cho mẹ, phải không ạ?”

Lung Việt (T.H)

Bạc tóc tuổi hai mươi- Phạm Thị Mai Hương

GIẢI NHẤT cuộc thi của tuần báo Saigon Nhỏ: – Phạm Thị Mai Hương

Bạc tóc tuổi hai mươi

Từ giã mái trường thân yêu (ngày 15 Tháng Ba, 1975)

Đà Lạt, Tháng Ba, 1975, thành phố tôi ở vốn bình yên, an lành trong các tỉnh thành miền Nam ngay cả những ngày chiến tranh khốc liệt nhất, bỗng trở nên xáo trộn. Người ta bàn tán, thì thầm to nhỏ về cuộc chiến, tính chuyện tản cư. Dù không hiểu hết điều gì sẽ xảy ra nhưng ai cũng cảm nhận không khí chiến tranh đang tới gần, tới rất gần. Để trấn an nỗi sợ hãi, người dân đổ tiền ra mua đồ dự trữ: gạo cơm, thuốc men, xăng dầu, nhất là mì ăn liền, phòng khi cuộc chiến xảy ra. Bề ngoài thành phố bình yên đến lặng lẽ, người ta giấu nỗi sợ hãi vào lòng. Dọc các con phố chính, các cửa hiệu lần lượt đóng cửa, báo hiệu chủ nhân đã đi tản cư. Người ta ra đi, không ồn ào sôi động.

Sáng nay, tôi và các bạn đồng nghiệp vẫn đến trường trên chiếc xe lam đưa rước hàng tháng. Ngôi trường tiểu học Đa Phước nằm tận Trại Mát, cách trung tâm thành phố 10 km, dưới chân ngọn đồi cao làm Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến. Đường đi rất thơ mộng, len qua những rặng thông xanh thẳm, vòng quanh những ngọn núi chập chùng. Mấy hôm nay, chúng tôi không cảm thấy vẻ đẹp của giọt sương mai ướt đẫm lá cây hay tia nắng sáng rọi qua tán lá. Dẫu không nói ra, nhưng mọi người đều e ngại nhìn hai bên sợ bóng những người mặc áo bà ba đen xuất hiện, lo lắng nhìn trên lòng mặt đường xem có cây cối chắn ngang đắp ụ.

Chiếc xe lam bỏ chúng tôi trước cổng trường rồi vội vàng quay về lại thành phố. Sân trường không bóng dáng học sinh. Chúng tôi hoang mang nhìn nhau, vội vàng vào văn phòng. Ông hiệu trưởng già dường như chờ chúng tôi từ lâu.

Ông nhỏ giọng:

-Tôi muốn liên lạc với các cô mà không được. Tình hình an ninh không xuôi lắm. Cha mẹ học sinh không cho con đến trường, họ sợ có chuyện gì, con họ còn nhỏ về nhà không kịp.

Giọng ông nhỏ hơn, lo âu:

-Với lại ở dưới này xa quá, tôi có nghe trong Tây Hồ, Trạm Hành, buổi tối V.C. đã về. Thôi các cô mau quay lại, khi nào tình hình sáng sủa hãy xuống. Giờ không còn xe lam, các cô qua đón xe đò nghe.

Chúng tôi nặng trĩu lòng, đứa nào cũng mới ra trường nên đối với ông như một người cha. Chúng tôi chào ông và băng qua bên kia đường. Chờ chúng tôi ra khỏi cổng, ông lấy chiếc xích lớn khóa cổng rồi đi về hướng chợ. Dáng ông nhỏ lại, hai vai trĩu xuống, như vác một gánh nặng trên lưng. Đứng chờ xe, tôi chưa hoàn hồn, tiếc nuối vì chưa một lời từ biệt học sinh, những em học sinh đầu tiên của tôi. Hình ảnh 28 em hiện rõ từng nét mặt, dáng người.

Võ Quang Nam nhỏ con nhưng chững chạc, ngồi ngay bàn đầu, em giỏi và ngoan nhất lớp, chẳng khi nào nói chuyện khi tôi giảng bài. Hôm Nam bị ốm, tôi rủ cả lớp đi thăm, cả lớp thưa:

-Cô ơi! Vào nhà trò ấy sợ lắm, ba trò chết rồi, mẹ trò hay nổi cơn điên cầm dao chém người. Mọi chuyện ở nhà, trò đều tự làm lấy.

Thảo nào khuôn mặt em mang vẻ cam phận, nhẫn nhục mỗi khi bạn bè tị nạnh bảo tôi thiên vị.

Nguyễn Mẹo thông minh, giỏi toán, chăm học nhưng viết chữ xấu, không chú ý nên bài làm ít được điểm cao. Mẹo tốt với bạn bè, lễ phép với tất cả thầy cô. Đôi khi em làm tôi bối rối vì những câu hỏi thông minh bất ngờ. Tôi thực sự thương em hơn, khi biết nửa năm ngoái, em phải nghỉ học đi làm thuê, vậy mà khi đi học lại vẫn không chịu kém ai.

Nguyễn Văn Mỹ mồ côi cha mẹ, ở với cậu mợ. Khi người chị ruột duy nhất của em chết vì bệnh thì khuôn mặt em tắt tiếng cười, học hành sút hẳn, người như ở trong mê.

Trần Phương có khuôn mặt luôn cười. Mấy ngày đầu vào nhận lớp, tôi cho bài tập, em không làm. Bực mình, tôi hỏi:

-Ba em làm gì?

-Thưa cô! Ba em đi lính ở xa.

-Má em làm gì?

-Thưa cô! Má em đi làm thuê.

-Em có anh chị không?

-Thưa cô, không. Em là anh đầu.

-Ba em đi lính biết sống chết ra sao, má em đi làm thuê cực khổ mà em không chịu học để buồn lòng ba má. Em là anh đầu sao không làm gương cho các em.

Tôi bất ngờ khi thấy em khóc, từ đó em học ngoan hơn. Danh sách 28 em học sinh nam được tôi viết trên những miếng bìa cứng treo sau lưng với bảng đen; trong đó ghi địa chỉ học sinh, tên học sinh được khen thưởng. 28 em đầy đủ cá tính. Có em ngoan hiền như Ngô Đình Vân, Nguyễn Tấn Đạo; nghịch ngợm như Kiều Phương, Bùi Đức Danh… Ở ngôi trường tiểu học nằm ven đô thành phố này, học sinh đều nghèo, rời cuốn vở là về phụ với cha mẹ làm vườn. 28 em tuổi mới lên 10 mà số mồ côi cha không ít. Một số ghi cha mất nhưng mẹ ở nhà vẫn sinh thêm em, có phải trong đêm tối cha đã về đâu đó.

Nhìn cổng trường bị khóa chặt, tôi xót xa, biết rằng không bao giờ còn được dạy hay nhìn lại đầy đủ các em. Buổi chia tay cuối cùng không học trò, không chiếc bánh liên hoan, cũng không có lễ phát thưởng. Giờ mới giữa Tháng Ba, còn hơn tháng nữa đến Tháng Năm nghỉ Hè. Tôi đi dạy chưa trọn năm, lương tháng vừa nhận hôm qua, biết còn tháng lương nào để được nhận nữa không? Tôi không thể hình dung mình sống ra sao khi không còn được đi dạy. 14 năm ăn học để có một nghề sinh sống, giờ không biết mình còn cơ hội nào đứng trên bục giảng nữa. Bỗng dưng tôi thấy mình thật nghèo nàn đáng thương. Buồn cười thật! Cuộc chiến sắp tới, ngày mai biết sống chết ra sao mà còn nghĩ chuyện dạy dỗ. Giờ mới giữa Tháng Ba, tôi chưa tròn tuổi hai mươi. Tháng sau mới đến sinh nhật.

Để lại thành phố phía sau (ngày 20 Tháng Ba, 1975)

Sự hoảng sợ của mọi người lên đỉnh điểm khi Đài BBC loan tin Buôn Mê Thuột thất thủ. Tin dữ lan nhanh như ngọn lửa giữa mùa Hè nóng bỏng. Buôn Mê Thuột cách Đà Lạt khoảng 200 cây số, tính theo đường chim bay còn ngắn hơn. Không khí cuộc chiến đã lởn vởn thành phố có lẽ yên bình nhất nước này. Chính quyền không thông báo về tình hình chiến sự. Người dân mù mờ tự tìm hiểu nên càng rối rắm, hoang mang.

Chị ruột tôi dạy học và lấy chồng, một sĩ quan bộ binh đóng quân trên Quảng Đức. Chị mới về ăn Tết với gia đình mà không có anh rể vì anh phải cấm trại. Chị vừa trở về trường nay phải quay lại Đà Lạt một mình. Anh rể hứa nếu tình hình khó khăn sẽ đón chị về Sài Gòn. Chị tôi vô tư lên trường Bùi Thị Xuân vào ngày 17 Tháng Ba, 1975, dự buổi cắm trại mừng kết thúc đệ nhị cá nguyệt và họp mặt cựu học sinh. Buổi lễ đang vui, nhà trường được lệnh cho bế mạc khi nghe tin V.C. về đến ngoại ô thành phố.

Người dân Đà Lạt sống trong nỗi sợ hãi. Ban ngày họ hạn chế ra khỏi nhà; đêm về thành phố im như chết. Viện Đại Học đóng cửa để sinh viên ở xa về với gia đình. Tất cả học sinh tiểu và trung học được lịnh nghỉ học vô thời hạn. Sĩ quan và khóa sinh các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến cấm trại 100%. Dân chúng đi tản cư khá nhiều, nhất là gia đình có thân nhân ở Sài Gòn, Nha Trang…

Buổi chiều, ba tôi từ công sở về. Khuôn mặt ba đăm chiêu, bồn chồn khi bạn bè đi tản cư gần hết. Ba lo lắng vì con cái đông đúc, tiền bạc không nhiều, nếu về Sài Gòn không biết tá túc ở đâu. Mọi người đồn đoán: có thể vĩ tuyến 17 sẽ dời đến Đà Nẵng. Vì vậy, ba quyết định cho gia đình về lánh nạn ở Nha Trang với cậu T., em ruột mạ tôi. Tuy trời đã tối, mạ tôi cũng thuê được một chiếc xe G.M.C. mui trần, dắt các con nhỏ ra đi. Ba và người anh trai đầu sẽ đi sau. Tác phong, nề nếp công chức ăn sâu vào nếp sống, suy nghĩ nên ba không thể bỏ nhiệm sở khi chưa có lệnh.

Mạ xếp một loạt bao gạo dự phòng trên sàn xe, cột chặt nệm, mùng mền. Chúng tôi xếp quần áo, sách vở vào trong túi sắc, ba lô, bao tải; đứa em ngây thơ xì xẹp quả banh da nhét giữa quần áo. Mỗi người một tay nải. Cơ nghiệp của ba mạ gầy dựng 25 năm trời chất được một góc xe. Ba vào bàn thờ, thắp nhang khấn vái tổ tiên, rồi lấy tấm di ảnh của ông bà nội cùng cuốn băng magnétophone lưu giọng ông nội tụng kinh khi còn sống, để vào chiếc cặp da trao cho đứa em tôi giữ. Chị gái của tôi gói ghém vài bộ quần áo đi cùng các em. Cả nhà như đang trải qua cơn mê.

Phút chốc gia đình tôi chia đàn xẻ nghé: bố mẹ, anh chị em chia tay nhau mà không chắc có ngày gặp mặt, đoàn tụ; còn anh trai thứ đóng quân ở Qui Nhơn không biết giờ này phiêu bạt nơi đâu. Chúng tôi chất xong đồ đạc lên xe khi trời còn mù sương. Các em chạy quanh xóm từ giã bạn bè. Tôi đi vòng quanh sân. Căn nhà nơi lưu dấu tiếng khóc chào đời của anh em chúng tôi trống trơn đến lạnh người. Mạ gởi nhà cho hàng xóm trông giùm vì nghĩ có ngày trở lại. Dân Lò Gạch thuộc xóm lao động nên nhiều người không có điều kiện ra đi phải ở lại. Ông Tư Mạnh, bác Lợi, o Liên… ra tiễn, nhìn theo gia đình chúng tôi nửa ao ước có cơ hội được đi, nửa thương xót vì đích đến thật mông lung. Tình cảm xóm giềng thật sâu đậm. Đêm qua tôi viết thư từ giã ba đứa bạn thân nhưng sáng ra lại xé bỏ. Kẻ đào tẩu biện minh đâu có giá trị. Tôi không biết mình còn được gặp lại các bạn, những người bạn chí cốt từ thuở bé, san sẻ với nhau biết bao buồn vui tuổi học trò.

Xe nổ máy, từ từ lăn bánh. Bóng người ở lại khuất dần trong khói xe. Xe chạy lên đường Duy Tân. Phố xá hai bên đường vắng vẻ cùng khu Hòa Bình bình yên trên con dốc cao của thành phố; rồi xuôi theo đường Lê Đại Hành. Hồ Xuân Hương lặng im in bóng nhà Thủy Tạ. Bên kia hồ, cỏ và thông đồi Cù xanh ngắt. Cảnh vật chung quanh không thay đổi, chỉ có lòng người là bất an.

Sáng nay, chúng tôi vội vã ra đi. Bỏ lại thành phố, nhà cửa, bạn bè, xóm giềng và muôn vàn kỷ niệm dấu yêu phía sau lưng.

Nha Trang, ngày hoảng loạn (ngày 1 Tháng Tư, 1975)

Chịu nửa ngày dưới cái nắng cháy người của miền Trung, chúng tôi đến Nha Trang với khuôn mặt đỏ bừng như tôm luộc. Nhà ông cậu không lớn, chúng tôi chỉ ăn uống tại đó, tối đi ngủ nhờ chỗ khác. Qua cơn mệt mỏi, các em tôi theo đám em họ háo hức xuống biển, tưởng như để lại mọi nguy hiểm trên Đà Lạt.

Sau khi Quảng Đức bỏ ngỏ, anh rể tôi đi đường bộ về Đà Lạt. Ba tôi bảo anh nghỉ ngơi vài hôm để ba đi đón chị lên, tiện thể thăm vợ con. Ba tôi xuống được một hôm, Nha Trang trở nên hỗn loạn hơn vì lính các nơi đổ dồn về. Dân Nha Trang cũng bắt đầu tản cư. Gia đình cậu tôi và người bạn cho gia đình tôi tá túc những ngày qua quyết định về Sài Gòn. Cậu rớm nước mắt khi ra đi vì chính bản thân cậu cũng khó có thể cưu mang nổi gia đình cậu, nói chi đem theo gia đình tôi. Sau khi tiễn cậu, ba mạ tôi đưa cả nhà quay lại Đà Lạt, bởi gia đình tôi thực sự không biết đi đâu khi mà đứa lớn nhất mới tròn hai mươi, đứa bé nhất chỉ lên mười. Giữa cái chết đói, chết vì súng đạn, dường như chọn cái chết trong nhà mình thì vẫn dễ hơn.

Mạ tôi cùng chị và các em lên trước với ít quần áo trong người. Ba và tôi thu dọn đồ đạc thuê xe lên sau. Mạ và các em đi rồi, tôi gói quần áo của mạ lại, chỉ lỏm loi vài bộ. Tôi nhớ bà ao ước có một chiếc áo dài nhung màu hạt say, và tôi tự hứa khi nào có tiền sẽ may cho mạ một chiếc áo dài nhung đủ màu. Dọn xong đồ đạc, trong lúc chờ ba thuê xe quay lại, như có linh tính, tôi lấy chiếc cặp da đen mà ba đựng tấm hình của ông bà nội, gói ghém thêm vài bộ quần áo. Tôi thay chiếc quần tây đen, áo chemise trắng, chân mang đôi giày Bata trắng; dưới lòng bàn chân, trong chiếc bít tất, tôi lót ba mươi ngàn đồng tiền lương vừa lãnh.

Đúng lúc ba tôi vừa về, bảo tìm xe không có. Hai cha con hốt hoảng chạy ra đường. Như một luồng bão thổi qua, thành phố vắng hoe, thay đổi đến không ngờ, không khí lặng ngắt, ngột thở. Ba và tôi chạy đến bến xe đi Cam Ranh. Chỉ thấy người chen nhau mà không có một chiếc xe. Hai cha con lại chạy về bến xe đi Đà Lạt nhưng ở đó cảnh tượng không khác. Đường phố thấp thoáng tù vượt ngục đầu trọc, cỡi trần, tay mang súng, bắn chỉ thiên, nổ vang trời. Ba và tôi hoảng sợ núp vào một chiếc xe đậu dọc đường. Ngớt tiếng súng, hai cha con chạy xuống bãi biển.

Bất ngờ ba đón được chiếc xe Minh Tâm của một người thuê đón gia đình về lại Đà Lạt. Hai cha con mừng rỡ leo lên. Tiếng súng nổ khắp nơi. Thành phố giờ thêm những người lính đeo ba lô, súng ống đầy đủ nhưng khuôn mặt hoang mang.

Ra khỏi Nha Trang vài chục cây số, xe không thể chạy tiếp vì phía trước ngổn ngang xe cộ. Tôi luôn miệng hỏi ông tài xế:

-Đà Lạt có gì không bác?

-Lúc bảy giờ tôi đi xuống đây thì Đà Lạt vẫn bình thường.

Xe chạy ngang qua Trung Tâm II. Con đường tràn ngập tân binh xả trại. Ai cũng tìm đường về nhà. Trong số đó có hai người quen của tài xế, họ mừng rỡ trèo lên xe. Những chiếc xe nhích từng mét một, xe nào tắt máy bị kéo bỏ sang hai bên đường. Chiếc xe chúng tôi đi cũng hết xăng. Ba tôi nóng lòng muốn xuống đi bộ, nhưng hành lý còn ở trên xe không thể mang theo. Chung quanh hỗn quân hỗn quan, khuôn mặt đằng đằng sát khí; tôi lại là con gái nên cuối cùng hai cha con đành ở lại trên xe.

Tôi thấp thỏm nguyện cầu cho mạ, chị và các em về Đà Lạt bình an. Nhìn cảnh loạn lạc, súng nổ rền trời, khó biết được chuyện gì xảy ra nếu mạ và các em còn ở đây. Một chị trên xe nấu được miếng cơm chia cho hai cha con. Bấy giờ tôi mới cảm thấy cái đói, nhớ hôm qua đến giờ không cái gì bỏ bụng.

Mười giờ đêm, ba tôi sốt ruột không chịu nổi, hai cha con bỏ lại hành lý lần mò đi bộ hướng về Đà Lạt.

Đường về nhà (ngày 2 Tháng Tư, 1975)

Hai cha con đi suốt đêm. Tôi ôm chiếc cặp như một đứa trẻ lạc nhà. Hết đêm qua sáng, Mặt trời xứ biển lên mau và nắng gay gắt nhưng hai cha con không cảm thấy khát. Chân tôi mỏi nhừ, tưởng chừng như bị bỏng thì ba vẫy được chiếc xe hồng thập tự quân đội. Hai cha con được quá giang, đứng trên hai chiếc bánh xe sơ cua. Tới một ngã ba, xe rẽ hướng khác, hai cha con đi bộ thêm vài cây số đến Cam Ranh. Thành phố đầy người đi hôi của, dân địa phương tản cư, lính lạc đơn vị, tù phá ngục phá kho… Họ vác gạo, sữa, đồ hộp quân tiếp vụ… Hỗn loạn kinh hoàng. Hai cha con tôi ngơ ngác nhìn, quên bẵng mình đang rất đói.

Hai cha con đón được chiếc G.M.C. chở người tản cư ở Qui Nhơn đến. Xe chạy đoạn đường khá xa, đến một chiếc cầu dài bị gãy mấy nhịp, có lẽ sau khi rút quân, quân đội bỏ bom cho sập cầu. Đoàn xe dân sự dừng lại. Người đứng, kẻ ngồi theo từng nhóm dọc hai bên cầu. Đồ đạc, quần áo, máy móc, gạo cơm, sách vở, thậm chí những tập album hình vương vãi khắp nơi; người ta vội vã bỏ đi trước khi kịp cúi xuống nhặt nhạnh. Hai cha con đứng lặng bên cầu, nhìn dòng nước chảy, cuối cùng xắn quần lội qua sông.

Qua bên kia cầu, chúng tôi đón được xe về Phan Rang. Trên xe, người ta bàn tán về tình hình chiến sự. Một người cho biết đoàn quân của các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến di tản xong. Đà Lạt là thành phố chết, không chính quyền lẫn quân đội. Không ai biết điều gì đang xảy ra trong thành phố tôi ở; và sự tan rã lan dần đến Phan Rang. Tôi cố an ủi ba:

“Mới có một ngày thì không thể mất Đà Lạt mau như vậy được. Vả lại đâu thấy đánh nhau, mà không thể nào không có đánh nhau.”

Trung tâm thành phố Phan Rang tràn ngập người tản cư. Họ ngồi hai bên lề đường, trong chùa, trong trường học. Niềm vui tràn ngập khi tôi gặp được bác Hai Dĩ, một người hàng xóm. Bác cho biết:

-Mạ và các em con đã về đến Đà Lạt tối hôm trước, nhưng không biết sáng nay có di tản theo đoàn quân hay không. Chị con đã gặp được anh rể. Như vậy anh chị con và anh đầu chắc theo đoàn quân về Sài Gòn rồi.

Hoang mang, tôi để ba ngồi dựa vào gốc cây, còn mình chạy vào trường học, vào chùa để kiếm mạ và các em; tôi không trông mong thấy được anh chị, vì đoàn quân đã đi qua. Và tôi biết mình đang tự lừa dối vì mạ tôi không dám đưa đàn con còn nhỏ ra đi lần nữa; mạ sẽ chờ cha con tôi trở về. Một người đàn ông tốt bụng thấy tôi chạy loăng quăng, lên tiếng khuyên:

-Cháu tìm ai, giờ này sao không về nhà, còn cắp cặp đi đâu nữa. Về nhà đi cháu ơi! Coi chừng lạc bố mẹ đó.

Tôi không thể giải thích với ông lý do mình đi tìm mẹ. Ba tôi ngồi bên hiên chùa trông thảm hại. Ba như một cây cổ thụ bị đốn ngã. Trước đây ba luôn tự hào mình là người thành đạt: từ một cậu học trò nghèo ham học vươn dần lên thành người đứng đầu một cơ quan trong tỉnh. Ba muốn tìm lại mạ và các em nhưng đoán trước hậu quả khi bước chân về nhà. Ba chùn chân, suy nghĩ với trăm bề khổ đau.

Trước cổng chùa, có người dỗ dành một em bé ngồi khóc nức nở:

-Mẹ bảo cháu ngồi đây để mẹ đi tìm cha mà giờ này không thấy mẹ quay lại.

Chẳng biết người mẹ đó cuống cuồng chạy ngược xuôi tìm con hay nằm lại một góc đường nào đó. Không tìm thấy mẹ và các em, tôi tuyệt vọng. Hai cha con khóc ròng ở ngã ba Phan Rang. Bỗng một đoàn lính đi ngang chào ba tôi. Vài người đóng quân gần trường tôi dạy nhận ra tôi. Thành phố Đà Lạt quá nhỏ, mọi người hầu như biết nhau. Đó là những anh lính Địa Phương Quân được lệnh về đóng ở Ninh Thuận, hỗ trợ cho trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị rút quân. Khi đoàn quân di tản đi qua, các anh không biết đơn vị mình đi đâu nên trở về Đà Lạt vì gia đình còn trên đó.

May mắn chợt đến, ba và tôi vững niềm tin. Chúng tôi hòa vào đoàn người. Một người lính bắt một chiếc xe tải dừng lại, may mà ông tài xế có ý định lên Đà Lạt. Mọi người trèo qua thành chiếc xe tải phủ kín mui. Người nào đó chìa chiếc bánh lương khô cho ba và tôi. Tôi cảm động biết ơn. Những người lính lạc đơn vị từ khắp nơi đổ về, không người chỉ huy. Ai có súng là có sức mạnh. Thành phố kinh hoàng bởi tiếng súng nổ rền trời, không có chính quyền, tù hình sự phá ngục thoát ra phá phách và hôi của.

Một toán lính khác lên cò súng bắn chỉ thiên, bắt chiếc xe tôi đang chạy dừng lại. Hai toán lính đối đầu nhau, cuối cùng toán lính đứng dưới bỏ đi, sau khi lột chiếc đồng hồ của ông tài xế. Sợ hãi không dám đi tiếp, ông tài xế bỏ xe lẫn vào dân. Mọi người xuống xe lại tiếp tục đi bộ đến gần tối thì đón được một chiếc xe chở thuốc tây cho pharmacie Đà Lạt ngay trung tâm thành phố. Ông tài xế rộng rãi cho tất cả mọi người lên xe.

Xe chạy ra khỏi Phan Rang, không khí yên tĩnh, người đi đường thưa thớt, không có đoàn người chạy ngược xuôi. Đêm buông dần xuống, xe dừng giữa đèo Song Pha trong không khí lặng đến ghê người. Một chiếc xe lambretta bỗng xuất hiện trong đêm tối mịt mùng. Khuôn mặt một người đàn ông vẫn còn nét hoang mang, ông nhận ra ngay ba tôi:

-Anh ơi! Quân đội rút đi hết rồi. Không còn chính quyền trên đó, nghe nói V.C về rồi. Họ đã đặt đại diện. Anh không nên lên, không nên…

Báo tin xong, ông hối hả chạy tiếp. Mọi người trên xe nửa tin nửa ngờ, còn đang bàn tán thì trong rừng, bóng hai người đàn ông khác xuất hiện. Họ là hai cha con, tay đeo nãi, khoác ruột tượng đựng gạo trên vai. Dáng người cha to lớn in trong rừng cây tối đen. Ba tôi nhận ra bác Ngãi, một công chức đồng sự với ông. Chỉ vài câu nói, bác xác nhận tin trên là đúng sự thật. Bác khuyên ba tôi không nên trở lại Đà Lạt. Ba tôi sụp xuống, giãy giụa. Bác Ngãi quay qua tôi nói nhỏ:

-Bác nói cho cháu nghe, cháu phải cản không để ba cháu lên Đà Lạt nữa, nguy hiểm lắm.

Tôi òa khóc, người như mê đi. Trong tiếng mọi người bàn tán, tôi nghe bác Ngãi an ủi, vỗ về.

Con đường phía trước không còn lối thoát. Đà Lạt không còn là đất cho ba tôi dung thân, không có cơ may sống sót hay thoát cảnh tù tội. Tôi không nghĩ có thể thoát chết trong cuộc chiến này nhưng không muốn tự mình đưa ba đến chỗ khốn khó. Ba tôi không biết quyết định ra sao. Ông khóc than, tự trách không lên chuyến xe cùng vợ con; nay gia đình ly tán, ông không cùng vợ chia sẻ nỗi nhọc nhằn, thậm chí không biết họ vất vưởng ở đâu. Tôi cũng khóc hết nước mắt giữa đèo Sông Pha vì không biết mình còn gặp lại mẹ và các em được không.

Tôi nhớ từng khuôn mặt mỗi đứa em. Hoành nhỏ nhất mới lên mười, ít nói có đôi mắt to buồn. Phương nhí nhảnh, lên xe về Đà Lạt mặc bộ đồ mới tôi vừa mới may trông thật dễ thương. Sâm chính là đứa em đặt trái banh giữa bộ quần áo để tôi không thấy bắt bỏ lại; em còn có tên Sâm Banh. Cẩn đi xe đạp đến trường xa hơn năm cây số mà không than thở. Ngày xưa còn bé, tôi bồng Chi suốt trên tay; mỗi khi em đòi tôi bế, giọng ngọng nghịu: Gương ơi! Gương! Lạc, Lâm tuy lớn nhưng ngoan. Gần nhà có một điểm bán bạch phiến mà các em không hề ghé mắt nhìn qua. Quyền chăm lo học hành, lúc nào sách vở cũng trên tay.

Một đêm hãi hùng giữa đèo Sông Pha! Bỗng nhiên tôi trở thành người tứ cố vô thân không một mái nhà, hay có một mái nhà mà không dám về; có người thân chờ đợi mà không dám ghé. Tôi không dám nghĩ ba tôi sẽ sống như thế nào nếu cha con thoát thân về đến Sài Gòn. Tôi cố tự nhủ: nếu lạc mạ và các em thì cố đưa ba tìm gặp các anh và chị, vì tôi tin họ đã về đến Sài Gòn. Tôi nghiến răng thầm bảo hãy để nước mắt ở lại giữa đèo. Với một con bé suốt tháng quanh năm chỉ biết ăn học, ra đời chưa được bao lăm, nay phải tự mình quyết định một việc như thế, tôi biết tóc mình đã bạc dẫu chưa qua tuổi hai mươi.

Con đường tìm sự sống (ngày 3 Tháng Tư, 1975)

Sáng sớm, ông tài xế e dè hỏi cha con tôi có muốn lên Đà Lạt nữa không. Mọi người đã xuống xe. Ba muốn trèo lên nhưng tôi níu lại. Xe chạy, hai cha con chạy theo một đoạn rồi đứng nhìn chiếc xe mất hút, đem theo niềm hy vọng trở về nhà. Toán người đi xuống đèo. Ngoài cha con tôi, hai cha con bác Ngãi, còn có ba người lính địa phương đóng trong trường tôi dạy; hai người tên Phụng và Tân, còn người kia thì tôi không biết. Ba người lính muốn về Sài Gòn để trình diện tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Trên đoạn đường đi, mỗi người một suy nghĩ. Cha con bác Ngãi hăng hái nhất, bởi gia đình bác đã về Sài Gòn mấy hôm, bác đi sau vì không dám bỏ nhiệm sở. Ba người lính tuy từng trải trong chiến trường nhưng không hình dung nỗi việc mình đang làm; không biết mình muốn và đang muốn cái gì.

Ba đi như người mộng du. Tôi nhìn mặt đường, lòng chỉ cầu nguyện: anh chị tôi thuyết phục mạ chạy theo đoàn quân và cũng về được Sài Gòn. Trong thâm tâm, tôi tự biết điều đó là không thể. Nước mắt đã cạn ở giữa đèo. Trong tôi có một sức cứng rắn đến tàn nhẫn; tôi kéo mũ sụp che khuất khuôn mặt, tay cầm cặp, tay dìu ba, đi nhanh cố theo kịp những người nam đồng hành để không bị bỏ lại phía sau. Cuối đèo có một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát nhỏ cạnh đường, mọi người đứng lặng, ba tôi chắp tay cầu xin Phật phò hộ. Tôi không biết mình ao ước điều gì vì mỗi bước chân là cách xa mạ và các em.

Đoàn người đón được chiếc xe đò từ Đơn Dương xuống. Đến ngã ba xe rẽ đường khác, chúng tôi lếch thếch đi bộ. Khác với hôm qua, con đường đi vào Phan Rang đầy nghịt người. Nhóm đi tới đụng đoàn đi lui: người muốn trở về nhà, kẻ ao ước đến Sài Gòn. Phan Rang thực sự là một thành phố kinh hoàng. Hôm qua chỉ là hôi của, giờ là sự thống trị của cướp bóc. Đoàn người chúng tôi không có hành lý. Tôi giấu tháng lương mới lãnh dưới bít tất, tay cầm chiếc cặp da nhỏ. Ba có mười ngàn đồng. Hai cha con bác Ngãi đeo tay nãi lương thực. Ba anh lính với chiếc ba lô. Chúng tôi đi giữa sự hỗn loạn và nắng nóng. Tưởng chừng không chịu nổi, chúng tôi đón được xe vào thành phố.

Lính tráng có mặt khắp nơi, đủ các binh chủng. Họ đi thành từng nhóm, mặt mày căng thẳng. Một toán lính đứng trên thành cầu, nhóm khác lố nhố hai bên vệ đường. Một người ra giữa đường chĩa súng lên trời bắn chỉ thiên buộc xe chúng tôi dừng lại; chiếc xe ngang ngạnh không chịu dừng, một tràng súng bắn ngang. Cuối cùng xe dừng, vì có người trúng đạn. Xác chết bị kéo xuống đặt dưới đường, không tiếng khóc, có lẽ là một người đi lẻ loi. Tội nghiệp!

Toán lính dưới đất trèo lên. Xe tiếp tục chạy. Ngồi giữa những người lính đầy súng ống, tôi sợ điếng vì đối mặt với bộ mặt tàn nhẫn của chiến tranh. Những người lính lạc đoàn quân từ miền Trung chạy vào. Họ không biết cấp chỉ huy ai còn ai mất và nay ở đâu. Cuộc phục kích khi lui quân khiến đơn vị tan tác. Những người lính bình tâm lại, hỏi thăm những người trên xe, tỏ ra thương hại cha con tôi. Tôi chẳng dám nhìn ai, không nói một lời. Mọi người chắc nghĩ tôi là một con bé trung học lạc nhà. Xe ngừng lại ở Phan Rí. Đoàn người đi từ đèo Song Pha giờ như gia đình nhỏ, tá túc dưới một mái hiên. Mấy anh lính Địa Phương Quân cho ba tôi mượn chiếc poncho, đưa tôi nắm cơm. Tôi bẻ nắm cơm với bàn tay mấy ngày không rửa nước, ăn đến hạt cuối cùng.

(Minh họa: Đinh Trường Chinh)

Đoạn đường kinh hoàng (ngày 4 Tháng Tư, 1975)

Sáng hôm sau, xe chạy ngang Phan Thiết. Xe chở đầy lính tráng không bị chặn lại nhưng đi rất chậm vì trên đường đủ các loại phương tiện: xe ba gác, xe đạp, xe gắn máy, xe tải, xe quân đội, người đi bộ gồng gánh… lấn ra cả lòng đường… Đến ngã ba vào Bình Tuy, đoàn người phải xuống đi bộ. Đoạn đường dài, nắng nóng, không nhà cửa, cây cối. Ba và tôi nhắm mắt cố uống nước đục ngầu ở những vũng lầy cho qua cơn khát.

Con đường đầy xác chết. Mới nhìn tưởng người ngoại quốc vì thân xác to lớn, nhưng nhìn lại đó là người lính, dân thường xấu số chết trương phình, đám ruồi xanh bay vo ve. Tôi cúi mặt sát đường hơn, nhìn kỹ từng bước chân, tránh đạp nhầm súng ống ngổn ngang. Ba cũng chẳng hơn, bởi vốn là công chức dân sự, thêm sự mơ mộng, nên ba sống không thực tế, tất cả mọi việc trong gia đình đều một tay mạ tôi lo toan. Thiếu mạ bên cạnh, ba hụt hẫng không quyết được việc gì. Hai cha con dìu nhau đi trên đoạn đường địa ngục. Sự sợ hãi quá sức khiến mọi xúc cảm không còn, tôi lẩn thẩn tự hỏi: chắc gì mình may mắn hơn những người nằm xuống.

Buổi tối bên hiên nhà trên con đường vào Bình Tuy, trời mưa, tôi nằm dưới đất, gối đầu trên chiếc cặp, mình mẩy lấm lem đất cát. Đoàn người chạy loạn nay chịu ướt càng thêm khốn khổ. Trên bầu trời, hỏa châu soi sáng, tiếng súng ầm ì. Tôi mong một trái đạn pháo rớt trúng. Nếu chết, hồn tôi linh thiêng, tôi sẽ phù hộ cho ba mạ và các em.

Miền đất hứa (ngày 5 Tháng Tư, 1975)

Tôi thức giấc khi bầu trời còn tinh tú và không ngờ mình vẫn còn sống. Tôi dẫn ba lầm lũi đi sau cha con bác Ngãi. Mấy lần ba thối chí muốn dừng lại bên lề đường nhưng tôi không cho. Tôi níu tay không cho ba dừng hỏi chuyện với ai, bởi một lần gặp, ông lại khóc. Có lúc ba bảo tôi ông mới thấy người nào đó mặc chiếc áo len của anh rể do chính tôi đan tặng. Tôi không cho ba hỏi thăm, bởi nếu đúng thì chỉ báo điềm không may mà thôi.

Giờ ba lại xem tôi là người có tội khi hai cha con lâm vào tình thế khó khăn này. Ba trách móc, kết tội tôi không cho ông lên đèo. Ba hỏi tại sao tôi lại là con gái mà không phải con trai! Người tản cư khắp miền Trung và Tây Nguyên dồn về đây. Ai nấy yên tâm, cảm giác mọi chuyện trở nên bình yên nếu về được Sài Gòn, thánh địa cuối cùng. Đường đi về bãi biển nóng, khá nguy hiểm vì đồ đạc lẫn súng ống ngổn ngang, còn lựu đạn nằm lăn lóc đến đáng sợ. Người ta chen lấn thuê ghe máy vào Long Hải.

Trời về chiều, ba người lính có lẽ tìm bạn bè cùng đơn vị đi mất. Cha con bác Ngãi ái ngại hoàn cảnh ba và tôi nên dọc đường có ý chăm sóc, thuê giùm ghe máy đến Long Hải. Chiếc ghe máy chật người, nước mấp máy vào mạn ghe. Miền đất hứa hiện ra trước mắt! Lòng tôi khô cứng lại, tôi biết không thể nào mình gặp mẹ và các em nữa. Ba tôi như một người điên. Ba ôm, đánh, cấu véo như thể tôi là nguyên nhân gây cho ông nỗi khổ này, rồi ba lại khóc ôm tôi, quay quắt gọi tên từng đứa con.

Ghe cập bến. Mọi người nhìn nhau cười. Chúng tôi xuống ghe với tâm hồn nặng trĩu. Bờ biển Long Hải đầy người. Không muốn nhìn niềm hạnh phúc của cha con bác Ngãi và ba tôi lại phát rồ nổi cơn khủng hoảng khi thấy bác sắp gặp lại gia đình, tôi kéo ba lẫn vào đám đông mà không cám ơn cha con bác.

Trời sập tối, tôi ra bể nước giặt cho ba tôi chiếc áo chemise của người chạy loạn cho. Hai cha con mua một dĩa cơm. Dĩa cơm đúng nghĩa sau mấy ngày chạy loạn khiến tôi ngạc nhiên về sự ngon miệng. Đêm đó, cha con tôi thuê ghế bố ngủ trên bãi biển. Chung quanh tôi rất đông người. Giờ nơi này là nơi hội tụ của trăm ngàn người tản cư khắp nơi. Tình cảnh thê lương như cha con tôi không là gì so với người chung quanh. Những người giàu có may mắn đi bằng máy bay; người đi bộ thất lạc, chết chóc dọc đường. Một ông đứng tuổi nằm gần bên ba tôi khóc nức nở: vợ con chết ngay trước mắt, ông thấy xe cán lên mà không thể dừng lại để chôn cất. Tiếng khóc, tiếng than, tiếng kể lể vang khắp nơi. Con xa cha mẹ, vợ lạc chồng. Tiếng người bàn luận về cuộc chiến, không biết vĩ tuyến 17 sẽ đặt lại ở đâu.

Tôi nhìn trên trời cao, tìm ngôi sao bản mệnh của mình. Ngày mai, hai cha con tôi sẽ thuê xe về Sài Gòn, tôi có gặp được các anh chị trong đoàn quân di tản? Anh trai tôi trong đoàn quân tan tác miền Trung có về kịp hay bị bắt, chết ở đâu? Hai cha con về Sài Gòn để làm gì khi anh chị không ai về được? Cuộc chiến sắp kết thúc hay chỉ bắt đầu? Sự trầm luân của hai cha con tôi mới khởi sự và bao giờ kết thúc? Tiếng khóc, tiếng cười ồn ào xung quanh mà không ai trả lời câu hỏi đó… Tôi ngậm ngùi nghĩ tháng ngày này thật khủng khiếp, khi tôi chỉ mới ở tuổi hai mươi…

Nhật ký Tháng Tư, 1975

Những trang nhật ký này nằm trong tủ rất lâu vì tôi không muốn khơi gợi những kỷ niệm đau lòng và tránh làm ba tôi tổn thương. Khi ba mất năm 2008, tôi mở ra xem lại, và dẫu thời gian trôi qua rất lâu, tôi vẫn cảm nhận những ngày của Tháng Tư, 1975 ấy thật đáng sợ, đủ để bạc cả mái tóc…

– Tác gỉa Phạm Thị Mai Hương cùng các em học trò. (Hình: Tác giả cung cấp)

– Gánh nặng non sông trên đôi vai gày của phụ nữ VN. Hình minh họa.

(Tác giả sinh năm 1954 tại Đà Lạt; trước là giáo viên tiểu học ở Đà Lạt; nay về hưu và sống ở Sài Gòn)

Chuyện trên chuyến bay-Gái Việt sau 1975

Gái Việt sau 1975

Chuyện trên chuyến bay

 Tôi không có thói quen giao lưu với người ngồi cạnh trên máy bay nhưng vẫn thường để ý một chút, lúc vừa ngồi xuống.

Trưa nay, cạnh tôi là một anh Tàu sồn sồn, bụng to, đầu hói. Anh đi với một cô gái trẻ, đẹp vô hồn, có lẽ người Việt. Tôi chẳng nghe họ trò chuyện gì.

Đang thiu thiu, tôi giật mình vì mấy cái vỗ nhẹ. Là cô gái. Nhìn qua, tôi thấy ghế cạnh mình đang trống. Với vẻ mặt căng cứng, em chồm qua đưa tôi cái gì đó giấu trong tay và thì thào:

_ Anh là Việt Nam phải hôn?

_ Đúng rồi em.

_ Anh làm ơn cầm giùm em cái này đi. Cầm lẹ đi anh.

Nhìn ánh mắt và nghe giọng nói khẩn cầu, tôi cầm. Là tiền. 200 đô Mỹ.

_ Cái gì vậy em?

_ Anh cất vô liền đi. Em đọc số điện thoại của má em. Anh nhớ rồi chuyển nó cho má em giùm nha anh.

Tôi lấy điện thoại ra và làm theo như một cái máy rồi quay sang em thắc mắc:

_ Sao không đợi qua đến Hong Kong rồi nhờ dịch vụ chuyển về.

_ Hổng được anh ơi, em khổ lắm. Em lấy thằng này là Tàu Mã Lai, nó đi đâu cũng bắt em theo. Ở nhà em cũng không ra ngoài được đâu, như ở tù vậy đó. Nó ghen lắm. Đánh đập em hoài. Nè, anh nhìn tay em còn bầm nè. Nó mới qua Saigon công tác rồi kêu má em lên, cho được có triệu bạc. Hai trăm này em mới ăn cắp của nó đó.

Tôi ngóng về phía restroom rồi quay sang em:

_Trời ơi, nó biết rồi làm sao?

_ Em liệu được anh ơi.

Kéo kỹ khoá chiếc túi xách, tôi hỏi em thêm một câu mà giờ ngồi lại thấy hối hận quá chừng:

_ Sao em không bỏ về Việt Nam đi?

Em nghèn nghẹn:

_ “Bỏ nó thì dễ nhưng em đâu bỏ con mình được anh? Nhiều lúc em muốn ôm con nhảy lầu luôn”.

_ Thôi em ơi, không được, không được nghĩ vậy. Em còn ba má.

Nói tới đây, thoáng thấy cái đầu hói vừa lú ra khỏi cửa buồng vệ sinh, tôi nhắm mắt lại.

Tôi vừa tiếp tay cho một vụ ăn cắp. Nhưng, hai trăm, hai ngàn hay hai chục ngàn cũng không bù đắp nổi những đòn roi và nhục nhằn em đã và đang gánh chịu. Em có thể đòi công bằng cho mình, bằng bất cứ cách nào.

Và tôi biết, hàng ngàn những cô gái Việt Nam cũng đang ngập ngụa trong những đắng chát này, như em. Không phải ai cũng có thể soi trước cái bến mình sắp cập vào, không phải cuộc hy vọng đổi đời hoặc báo hiếu cha mẹ nào cũng toại thành.

Trách ai đây?

Dương Đạt.

From: Tuyen Ho-Nguyen

ÂN HẬN MUỘN MÀNG

ÂN HẬN MUỘN MÀNG

Anh Hai là con trai duy nhất mà 30 tuổi vẫn độc thân nên ba má tôi sốt ruột lắm. Hồi đó, tới tuổi băm mà “chưa có gì” thì thế nào cũng xảy ra nhiều suy diễn kiểu như “chắc thằng đó kỹ tính quá”. Đàn ông con trai mà bị mang tiếng kỹ tính thì coi như… hết cứu.
Chị em tôi lần lượt “bấm còi” vượt mặt, anh Hai vẫn giậm chân tại chỗ, mặc kệ má tôi bồng bế cháu ngoại, nói gần nói xa, rồi hỏi thẳng: “Tới chừng nào con mới chịu cho má bế cháu nội?”. Anh Hai cười hì hì trốn sự thúc giục của má bằng cách xách cưa và búa lên chùa.
Ba má tôi là Phật tử, từ khi còn nhỏ, anh chị em tôi đã được ba má dắt tới chùa lễ Phật và tập làm công quả như quét sân, kết hoa vải, dọn dẹp trong những ngày lễ lớn… Nhà chùa đang chuẩn bị mở lớp học cho các em nhỏ lang thang. Bàn ghế thu gom từ các nơi cần được sửa chữa và anh Hai đảm nhận phần việc này.
Trong số các giáo viên tình nguyện đến dạy các em, có một cô dạy toán là người theo đạo Công giáo. Chuyện bắt đầu từ đây. Anh Hai tôi thường xuyên lên chùa nhưng không chỉ để làm công quả mà còn để đưa đón cô dạy toán.
Ba má tôi cắn răng thở dài, ông bà mong biết mấy được thấy con trai có đôi có cặp, nhưng khi có rồi thì vui không nổi. Con trai đầu có bổn phận cúng kính mà lấy vợ khác đạo thì làm sao?
Anh Hai biết tình yêu của mình gây khó cho ba má, nên chẳng dám nói năng gì, cũng không dám đưa chị về chào gia đình. Tôi hỏi nhỏ: “Anh đã tới chào ba má chị chưa?”. Anh Hai lắc đầu. Tôi hiểu là nhà bên đó cũng chẳng đồng tình.
Hai gia đình biết rõ con mình thương ai, nhưng làm như không biết. Thời đó, chuyện yêu đương mà chưa có tiếng nói của người lớn thì coi như chuyện ngoài đường. Giả vờ như không biết, nhưng ba má tôi âm thầm theo dõi, thấy anh đưa chị đi lễ nhà thờ. Và nhà bên ấy cũng thầm theo dõi, thấy chị theo anh lên chùa lễ Phật ngày rằm. Hai bên cùng thấy, cùng biết và cùng nín lặng chờ đợi.
Chờ đợi gì cũng không rõ, có lẽ, không bên nào muốn là phía đầu tiên thốt lời khiến con mình đau khổ.
Mối tình của anh Hai kéo dài đến năm thứ ba thì má tôi không kiên nhẫn được nữa. Con mình là con trai, lỡ có bề gì thì mang tiếng ác với con gái người ta. Má ra tối hậu thư “hoặc tình, hoặc hiếu”. Anh Hai cúi đầu chọn bên hiếu.
Lựa chọn của anh Hai khiến má mềm lòng, nhưng thật ra, do âm thầm theo dõi, má đã sinh lòng mến thương người con gái hiền ngoan, vừa đẹp vừa nhân hậu, biết đến với trẻ em khốn khó. Được con dâu như vậy thì cũng đáng để má chịu lùi một bước. Má thuyết phục ba cho phép anh Hai ngỏ lời với nhà bên đó, với điều kiện đạo ai nấy giữ.
Ba má chị lắc đầu, với lời phân tích ngọn ngành rành mạch là phải từ chối người con trai nghề nghiệp đàng hoàng, tính tình tử tế, hiền lành thì cũng tiếc lắm, nhưng mai này sinh con ra thì làm sao? Đứa nào theo cha lên chùa, đứa nào theo mẹ đi nhà thờ? Ừ thì cho phép chúng tự chọn đức tin, nhưng khi mới sinh ra chưa biết gì thì cha mẹ là người dìu dắt, lúc đó làm lễ rửa tội thì sao? Đã nhận lễ rồi thì dĩ nhiên là con của Chúa, ông bà nội có chịu không?
Câu trả lời của ba má tôi là không, cháu nội nhất định phải theo đạo nhà mình.
Vậy là anh chị chia tay. Để khỏi gặp gỡ, khỏi xao lòng, chị không đến chùa dạy lớp học tình thương nữa, người thay thế chị là anh Hai. Trước đó, anh chỉ làm những việc công quả cần sức vóc đàn ông, tới lúc ấy, anh nhận luôn việc dạy học. Bọn trẻ thắc mắc: “Sao cô không dạy tụi em nữa hả thày?”, anh Hai trả lời: “Tại các em làm cô buồn”. Bọn nhóc chẳng hiểu câu trả lời này, thường ngày đứa nào cũng có nhiều lần nói chuyện trong lớp, không làm bài tập về nhà, rồi cãi nhau chí chóe… Cô giáo buồn là đúng rồi.
Anh Hai gầy sọm đi. Cả nhà tôi thở dài, bệnh buồn tình chỉ có thầy thuốc thời gian chữa lành mà thôi. Chữa lành thật không, tôi tự hỏi khi thấy anh Hai vẫn đi về một mình, vẫn cười cười nói nói nhưng ánh mắt chẳng còn sáng lên lấp lánh.
Tai nạn xe cộ bất ngờ cướp đi mạng sống của anh Hai.
Đám tang anh, chị lặng lẽ đến vào buổi tối, khi khách viếng đã ra về hết. Chị lặng lẽ chảy nước mắt trước di ảnh của anh. Nén nhang chị thắp cũng như người, lặng lẽ tỏa làn khói mỏng mà làm cay mắt tất cả. Ba tôi lau nước mắt quay mặt đi, còn má tôi ôm lấy chị mà nức nở. Quá muộn màng!
Sư thầy nói tục lệ đốt quần áo cho người chết đem theo là mê tín dị đoan, lãng phí, thay vì vậy, hãy đem làm từ thiện để làm phước. Tôi rủ chị xếp áo quần của anh để đem đi cho. Những ngón tay chị run run vuốt từng nếp vải như đây mới đúng là lần cuối cùng chị được chạm vào anh. Tôi chọn cái áo màu xám tro anh hay mặc, muốn nói chị hãy đem về giữ cho riêng mình, nhưng cái đầu tỉnh táo của tôi lại nghĩ, nỗi nhớ đã đủ làm khổ chị rồi, tốt nhất là để chị quên anh đi.
Tục lệ quê tôi là người vừa nằm xuống sẽ cảm thấy lạnh lẽo nên hằng ngày sẽ đốt củi sưởi ấm ngôi mộ. Sáng sớm, tôi chở má xuống nghĩa trang, ngang qua cổng, ông bảo vệ hỏi thay lời chào: “Con dâu của dì là cô giáo hả?”. Má tôi chảy nước mắt nhìn chị và bọn nhỏ lớp tình thương xúm xít mỗi đứa một khúc củi xếp lên nhau. Rồi những bàn tay nhỏ bé khum khum nối nhau che gió cho chị mồi lửa.
Tôi và má đứng lại ở xa xa nhìn tới, để cho chị được tự do chăm sóc anh. Má tôi vừa khóc vừa nói: “Biết vậy thì hồi đó má đã gật đầu. Chúa và Phật đều dạy người ta thiện tâm mà”.
Không ai biết trước được điều gì, nếu biết trước thì chẳng ai nỡ làm đau người khác. Tôi thường nói vậy để an ủi ba má và cũng là tự nói với mình. Tới tận ngày giỗ lần thứ bảy của anh Hai, sáng sớm mang hoa xuống mộ, tôi vẫn gặp chị bên cạnh đống lửa; lứa học trò ngày đó đã phiêu bạt khắp nơi, chị ngồi một mình… 

(Sưu tầm qua Internet)

From: Tuyen Ho-Nguyen  

Trở Về Trên Chuyến Tàu Việt Nam Thương Tín.

*TRUYỆN NGẮN CÓ THẬT … – Nguyễn Ngọc Dung,

Trở Về Trên Chuyến Tàu Việt Nam Thương Tín.

Mùa Xuân đang về, thời tiết lý tưởng, với chồi non, nụ thắm… dễ làm người ta yêu đời hơn.

Ngày dài hơn, nắng vàng của những ngày đầu mùa Xuân làm cho tôi ngồi vào bàn, viết lại một quãng thời gian đầy biến động và thay đổi cho cả gia đình mình. Một công việc đã âm ỉ trong lòng, chưa được viết ra, như một gửi gấm đến các con cháu mình những gì đến với cuộc đời của tôi, và phần nào muốn chia sẻ với các bạn, như một lời tâm tình của một thành viên bé nhỏ trong cái tập thể “vợ những người tù cải tạo” quanh đây.

30 Tháng Tư, 1975, lịch sử Việt Nam sang một trang mới. Tôi lấy chồng trong những ngày cuộc chiến cao độ (1970), chàng là một người lính Hải Quân, nay đây mai đó, lúc ở căn cứ hải quân mãi tận Phú Quốc, lúc đi tàu biển, rồi có khi về ngay bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn và đơn vị cuối cùng, là giang đoàn ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.

Tôi đi học, đi làm và không theo chân anh đi các vùng xa xôi như thế. Ngày 27 Tháng Tư, 1975, anh về thăm tôi 1 chút rồi trở về Long An, lúc đó là nơi anh được huy động về tiếp tay với các bạn giữ vùng 4 sông ngòi. Anh và tôi xa nhau, gặp nhau như chuyện thường ngày của các gia đình quân đội – nhất là hải quân – trong thời chiến, nào có biết rằng cũng là lần cuối gặp nhau mang hình ảnh anh trong bộ quần áo tác chiến hải quân.

Chúng tôi mất liên lạc từ đó, vài ngày sau, với lời tuyên bố đầu hàng sáng 30 Tháng Tư, 1975, tôi biết cuộc đời mình sẽ có những thay đổi rất lớn, mà chẳng biết nó sẽ như thế nào. Tôi chờ anh trở về Sài Gòn, chờ anh về nhà, tuy biết là không thể trở về với chiếc tàu, để đón gia đình hai bên và tôi.

Về sau này, tôi mới biết, giang đoàn của anh được biệt phái từ Đồng Tâm, tới Nhà Bè, rồi về Long An, nằm trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, gồm rất nhiều tàu bè, một mũi nhọn xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân miền Nam lúc bấy giờ.

Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập để bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài Rạp và sông Lòng Tào, và bảo vệ chính phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu.

Bến Bạch Đằng quen thuộc, gần nhà bố mẹ tôi, nay đã chẳng còn một chiếc tàu nào mang lá cờ xưa.

Chiều tối hôm 29 Tháng Tư, 1975, tôi cùng đoàn người gần nhà ra bến Bạch Đằng, mong có một cơ may nào lên được sà lan, tàu buôn hay cả ghe nhỏ để cứ đi vào một bến bờ vô định. Đi như trong giấc ngủ vật vờ, đêm xuống, bờ sông hỗn loạn, hàng kẽm gai kéo ngang, họng súng gờm sẵn sàng nhả đạn. Tên anh cũng chẳng ích gì trong việc xin 1 chỗ cho mình tôi lên tàu hải quân, ai thoát được, cứ lạnh lùng bỏ đi.

Thôi rồi, số phận mình ra sao, anh ở đâu và có an toàn?

Một đêm không ngủ nghe tiếng trực thăng bay liên tục, nhìn những chiến hạm không đèn trên sông Sài Gòn, tôi biết mọi hi vọng ra đi đã bị cắt đứt. Đi qua bộ tư lệnh Hải Quân, qua cầu tàu nơi có khi anh chỉ cho tôi, kia là con tàu anh đang làm việc trên đó, nay chỉ là một quãng sông đen ngòm, đe dọa và nhận chìm mọi hi vọng của chúng tôi.

Ngày qua ngày, qua lời 1 anh lính cận kề với anh ở giang đoàn, anh ta về nhà nhưng không muốn gặp mặt tôi, tôi biết anh đã dẫn đoàn ghe ra cửa biển, đón tàu khác để di tản.

Tôi vẫn phải đi làm, sáng ra phải dự các buổi gọi là “giao ban,” gặp tất cả các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ và ban quân quản bệnh viện. Không khí căm thù bàng bạc suốt buổi, nhiều đe dọa, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, im lặng, vì quanh mình chẳng biết ai là bạn ai là thù.

Bên cạnh đó, những buổi học tập tại chỗ, những bài tự khai thật nặng nề, những câu hỏi mơ hồ khiến câu trả lời nào của chúng tôi cũng không thỏa mãn được họ. Nhất là với tôi, khi tôi khai ông chồng tôi…mất tích… Thì đúng là mất tích chứ sao bây giờ, khi Tháng Năm, Sáu, Bảy, Tám 1975 không biết anh ở đâu. Họ đâu có chịu cho tôi yên với hai chữ mất tích kia, cái mất tích hàm nhiều ý nghĩa…có thể là đã chết, di tản, vô bưng hoạt động chống lại họ, hay trốn ở đâu. Họ bắt tôi lên họp, chỉ một với một, họ hạch hỏi quanh chữ “mất tích.” Tôi cũng hoang mang lắm, không biết anh sống chết thế nào.

Bức màn sắt đã trùm xuống toàn miền Nam, toàn vùng chỉ là đêm đen giữa ban ngày. Chỉ có một đường radio VOA, BBC để biết tin nước ngoài, được nghe trong sự trốn tránh che giấu. Sáng đi làm, nhìn những lá cờ đỏ trên đường, rùng mình như màu máu đang rút dần ra khỏi cơ thể tôi, ngủ dậy mới thấy đã qua được 1 ngày yên ấm, chưa bị bắt như các người lớn trong bệnh viện, nay ông bác sĩ bệnh viện trưởng, mai ông phụ tá hành chánh, mốt ông điều dưỡng trưởng.

Không khí trong bệnh viện đầy đe dọa, dò xét, ngay cả hộp đồ ăn trưa cũng được bà trưởng phòng về tiếp quản, đổ ra ngoài xem có dấu gì trong đó, hay xem bọn “ngụy” ăn uống cao lương mỹ vị gì.

Đến khoảng Tháng Tám 1975, tôi nhận được 1 điện tín gửi từ Pháp, như sau: sẽ hồi hương, cho biết ý kiến.

Bức điện tín ngắn gọn, mà thật là khó giải quyết. Tôi xin ý hai bên cha mẹ. Bố mẹ anh không biết nên bảo anh về lại Việt Nam hay bảo anh qua Mỹ, được sung sướng cho anh, thì lại khổ cho con dâu mà ông bà rất yêu quý. Bố mẹ tôi bảo anh trở về, thì thương anh bị ở tù khổ cực lắm. Ngay bản thân tôi, cũng chẳng biết sao là đúng.

Biết là anh đang rất cần câu trả lời để có quyết định, về hay ở?

Sau cùng, chúng tôi đành đánh điện tín qua: “Tùy ý quyết định.” Những ngày tháng sau đó, tôi sống như một người có tội, tội đẩy anh vào nơi lao lý, biết có ngày về ?

Sau đó các đài phát thanh, VOA, BBC báo tin cho biết sẽ có một chuyến tàu mang tên Việt Nam Thương Tín sẽ đưa một số người muốn hồi hương, khoảng Tháng Mười sẽ trở về. Thuở ấy, sau bức màn sắt là một thế giới khác, bít bùng, mọi tin tức đều không thể đến với người dân. Tôi đi làm, lòng đầy hoang mang, anh có về, nếu anh về, thì có phải ở tù không? Người ở đây, còn vào tù, huống gì người đã đi, nay trở lại, mang theo những câu nghi ngờ về các anh, có phải đã mang về những công việc dọ thám, đánh phá chế độ…

Rồi được tin nghe lén, chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín (VNTT) đã chở người di tản dạo 30 Tháng Tư, 1975, nay được dùng để đưa đoàn người hồi hương. Tôi tự hỏi, liệu có anh trong đó, nếu có thì anh sẽ ra sao. Ngay bản thân tôi ở Sài Gòn, còn bị đe dọa đi kinh tế mới, vì đã được đặt tên là vợ của ngụy quân, tội ác đầy mình, cần phải cải tạo cái đầu tư sản bằng con đường lao động.

Hai bàn tay một Nha Sĩ như tôi, thay vì điêu khắc lên miếng trám cho thật đẹp, thật giống những hình dáng thật của răng, nay có lúc phải cầm cuốc đi trồng dứa (thơm) ở nông trường, cầm cuốc trồng khoai mì sau khi đã cuốc hết sân cỏ xanh mướt tốn công biết bao, ở sân trước bệnh viện Chợ Rẫy nổi tiếng ở Sài Gòn.

Có lần chúng tôi phải đi đào kinh, giẫm chân trên dòng kinh lúp xúp nước, chuyền những miếng đất được các vị bác sĩ, các giáo sư đại học Y Khoa Sài Gòn trao cho, để tạo con kênh dẫn nước phèn vào ruộng. Dòng nước váng lên những phèn, cây nào sống nổi. Sau những lần khổ cực như thế, số bác sĩ quyết chí rời bỏ nước lại càng tăng lên. Họ đã không trọng vọng nhân tài, yêu quí những vị “cứu nhân, độ thế.”

Qua những sự việc hàng ngày như thế, tôi đã có thể hình dung cuộc sống trong tù “cải tạo” của các quân nhân chế độ cũ, và nhất là các anh đã về theo chuyến tàu VNTT sẽ khổ như thế nào.

Lá thư anh gửi từ trại tù Tuy Hòa đã xác định, anh đã trở về.

***

Tôi lên phòng nhân viên của bệnh viện tôi làm việc, xin điều chỉnh tình trạng chồng mình. Chữ “mất tích” nay đổi thành một địa chỉ lạ hoắc, ở một nơi rừng sâu núi thẳm nào đó miền Trung. Tưởng rằng đã yên cho mình, tưởng rằng không còn cái cảnh gọi lên làm lại lý lịch tôi đã thuộc lòng, với lời nghi ngờ là ông chồng tôi đang ở một nơi nào, đe dọa đến an ninh của chế độ mới.

Bây giờ họ đem chồng tôi để “dụ” tôi vào một công tác mới. Họ hỏi, tôi có muốn đi thăm nuôi anh, có muốn gặp anh? Dĩ nhiên là tôi muốn lắm chứ, nhưng tôi cũng biết dè chừng cái thâm ý của họ.

Đằng sau cái đề nghị ngọt ngào đó, hẳn là sẽ có điều kiện gì đây?

Thì ra, họ muốn tôi làm một thứ “ăng ten” để tìm hiểu về một nhân vật trong bệnh viện mà họ muốn bắt. Tôi tuy còn non trẻ, nhưng cũng đã biết lưu ý kịp thời, để không mắc mưu họ, giữ an toàn cho người ấy và cả cho mình. Cuộc sống bấy giờ, là một sự đối phó, là những cẩn thận và căng thẳng. Rồi cũng qua ngày, tôi tìm quên trong công việc. Trong bệnh viện, ngày ngày có tin người này đi thoát, bạn khác bị bắt. Tôi đã tìm cho mình một hướng đi, dứt khoát ở lại với anh. Chúng tôi chưa có con, tưởng như không có điều chi ràng buộc, nhưng tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, nhất là sự trở về của anh, thì sự dứt khoát kia trở thành một điều không lay chuyển.

Chuyến tàu VNTT về đến hải phận Vũng Tàu từ Tháng Mười, 1975, thế mà chúng tôi chỉ biết đến tin nhau qua vài lá thư, thư đầu tiên từ Tuy Hòa, ngày gửi là Tháng Hai, 1976, thư thứ hai từ Nghệ Tĩnh.

Anh đã bị còng tay, giải đi thật xa, đến một nơi nghèo nhất nước, để đói khát, bệnh tật sẽ giết lần mòn nhóm sĩ quan ưu tú của quân đội. Những lá thư được rập khuôn, vài ba chữ hỏi thăm là đã hết, anh chẳng đả động gì đến chuyện đi thăm, sự cô lập trong rừng sâu, sự cô lập với dân quanh vùng và ghê sợ hơn cả là sự cách chia với gia đình.

Anh sống thế nào nhỉ?

Sự chờ đợi mỏi mòn cho đến cuối năm 1978, anh mới báo tin cho tôi đi thăm nuôi. Hai chữ “thăm nuôi” thật giản dị mà đầy ý nghĩa.

Nghĩa là có hai việc trong lần được gặp này: thăm và nuôi. Anh viết thư về, danh sách các thứ “nuôi” dài thậm thượt, với một người gọi là “khảnh ăn” như anh, mà phải liệt kê bao nhiêu món như thế, chắc chắn anh thiếu thốn ghê gớm.

Quãng đường Hà Nội vào Vinh bằng tàu chợ đã là một ám ảnh tôi cho đến bây giờ, xe lửa cho những con buôn đanh đá, cảnh hỗn loạn cho những tay cướp hoạt động, nơi những tay anh chị và đồng bọn hoành hành với những luật chơi riêng của họ. Những chị đi thăm nuôi cứ chết dí, né tránh và chịu đựng. Nói sao cho hết những nhục nhằn chịu đựng trên đường thăm nuôi.

Lần đầu tiên gặp lại sau 3 năm xa cách, anh đã trở thành một người khác, cả người sưng phù, khuôn mặt giữ nước trông như mập ra, anh như một người khác trong bộ bà ba đen có lần tôi gửi vào theo đường bưu điện.

Vợ chồng nhìn nhau qua 1 chiếc bàn lớn, xa cách như tội nhân. Chúng tôi tội tình gì nhỉ, muốn nói bao điều, mà chỉ nói bằng ánh mắt. Giờ được thăm loáng cái đã hết, chúng tôi bịn rịn, anh ngay đây mà như một người xa lạ, gặp nhau và chia tay, chỉ yên tâm là chúng tôi vẫn còn sống, ngày mai sẽ ra sao, chẳng ai biết.

Anh quay vào trại, sống kiếp tù đày, tôi trở về lại Hà Nội đợi máy bay vào Sài Gòn. Ra đến Hà Nội mới biết các chuyến bay tạm ngưng vì chiến tranh Tháng Mười Hai, 1978 giữa Việt Nam và Cambodia, tôi kẹt ở lại, tôi đánh điện tín về bệnh viện xin nghỉ, họ không tin, cứ nghĩ tôi đã vượt biên. Sau khi có máy bay trở lại, tôi đi làm và đã bị làm khó dễ không ít với sự việc này. Đất nước đã được rêu rao là “thống nhất,” là hạnh phúc, mà sao vẫn sợ dân mình bỏ nước ra đi?

Cuộc sống ngay cả ngoài tù còn đầy rẫy khó khăn, đói ăn, thiếu mặc, thiếu tự do. Thử hỏi trong tù, nhất là người tù luôn kèm theo bốn chữ Việt Nam Thương Tín, thì khổ thế nào. Bốn chữ ấy có nghĩa là luôn nằm trong sự nghi ngờ của chính quyền, sự thương cảm của bạn bè, sự tiếc nuối có khi tức giận của những người đang tìm đường vượt biên. Riêng tôi, bị nhìn như nguyên nhân chính của sự trở về của anh.

Tôi tự giận mình, quyết định để anh trở về, như đang ở thiên đường mà lại xuống địa ngục. Nhiều khi tôi phải tự tìm ra câu trả lời, là, quyết định lúc nào, là đúng nhất vào lúc ấy, không ân hận và không tiếc gì. Hỏi rằng có ai can đảm như anh, biết trở về là tù đày mà chỉ nghĩ đến một ngày sẽ trở về với gia đình và tôi.

Nhiều bạn anh lúc còn ở Guam, đã ngăn anh trở về, nhưng các bạn mạnh miệng vì họ đang ở trong sự đầy đủ của vợ, con, cha mẹ. Anh tâm sự, có những buổi chiều ở Guam, ngồi ở bãi biển, nhìn đôi chim bay cùng nhau trong nắng xế, nhìn người ta bên cạnh vợ con, tuy chưa biết ngày mai nhưng vẫn ánh lên hạnh phúc vui vầy. Anh đã về vì chẳng có ai trong gia đình anh, gia đình tôi di tản được.

Anh ra khỏi tù Tháng Mười, 1982, từ xứ Nghệ Tĩnh rất xa, vào đến miền Nam là cả một lòng thương yêu của dân chúng, họ giúp đỡ, trên đường di chuyển về Sài Gòn. Hai năm sau, chúng tôi có đứa con trai đầu tiên và 3 năm sau, một đứa con trai thứ ra đời khi tôi đã ở tuổi 40. Bạn bè của anh thường lui tới thăm hỏi, nựng nịu hai cháu nhỏ nhất khóa. Chúng tôi muốn sống yên bình, nhưng thấy luôn luôn có những phân biệt, ngăn cản bước tiến của con mình từ phía chính quyền mới. Và năm 1991 bốn người chúng tôi ra đi định cư ở Mỹ trong chương trình H.O., chúng tôi phải làm lại từ đầu, bắt đầu một cuộc đời mới ở một xứ sở mới đã dang tay đón nhận chúng tôi.

Chúng tôi với tuổi thanh xuân, với thời điểm đẹp nhất cho việc tạo dựng một cuộc đời tốt đẹp, lúc ấy, đã bị cướp đi, phải bắt đầu một cuộc đời mới bằng hai bàn tay trắng. Những mất mát ấy, chẳng cách gì lấy lại được. Thật là nhiều thua thiệt, chỉ còn những an ủi là những ngày tháng cuối đời được sống bình an nơi xứ sở này, nơi chúng tôi xin nhận làm quê hương.

Anh đã từ Mỹ, trở về Việt Nam, trải qua 7 năm gian khổ, và 9 năm sau gia đình chúng tôi đã cùng nhau trở lại “thiên đường” tưởng đã đánh mất, sau 19 năm tuổi trẻ, đã qua đi vô ích, tuổi đẹp nhất của một đời người.

Qua những gian khó ban đầu ai cũng phải sống như thế, chúng tôi đã hội nhập được với “dòng chính,” các cháu học hành nên người, cuộc sống không đến nỗi kham khổ.

Để đến bây giờ, chúng tôi vẫn hãnh diện trả lời, “Vâng, chúng tôi là người của chuyến tàu VNTT, con tàu mang tên Định Mệnh, từ Guam trở về Việt Nam Tháng Mười, 1975.”

HÌNH:

– Những ngày tháng yêu nhau…. gặp gỡ nhau trên chiến hạm trước 30-4-1975…

– Phi trường Tân Sơn Nhất, 4 Tháng Bảy, 1991. (Hình: Tác giả cung cấp)

– Tết đầu tiên ở Hoa Kỳ, 1992. (Hình: Tác giả cung cấp)

– Gia đình, năm 2015. (Hình: Tác giả cung cấp)*

NHỮNG NGÀY VUI

Chuong BK  is with Thuy Nguyen

 NHỮNG NGÀY VUI

luật sư Nguyễn Hữu Thụy

(Hình chân dung Pre.75)

Lại sắp đến 30/4 thôi lại nói đến chuyện tù cho hợp thời vụ. Sống trong tù cộng sản , sự tàn bạo kể sao cho xiết, nhưng muốn sống sót nên quên đi những điều mà Việt cộng đặt ra để hành tù mà chỉ nghĩ đến những điều vui tươi cho ngày tù ngắn lại. Những nhân vật tôi nhắc đến ở đây tôi thường kèm chức vụ của những vị này cho khỏi lẫn lộn với người khác, và phần lớn đã ra người thiên cổ nên không đối chứng được, nhưng tôi thề chỉ nói sự thật chỉ sự thật mà thôi, và…như thế là công lý.

Sau ngày 30/4 cộng sản ra thông cáo đi “học tập “ đem tiền ăn trong một tháng. Nhiều người cả tin là sẽ bị giữ trong một tháng rồi ra về. Tôi không tin như vậy vì đây không phải là lần đầu tôi gặp người bạn khó ưa này, cộng sản. Trước đây năm 1953, tôi cũng đã nếm mùi trại tù cải tạo một lần, trong một năm, vì là con điạ chủ. Tại đây tôi đã bị giam chung với một người tù mà sau này lại được ngộ cố tri trong trại tù Long Thành là luật sư Nguyễn Hữu Hiệu.

Ngày đi tù tuy là luật sư, nhưng đã đi lính và mang cấp bậc thiếu tá, thẩm phán quân sự. Tôi có thể nạp mạng với tư cách quân nhân với chức vụ thiếu tá. Tôi cũng có thể trà trộn vào đám tù dân sự với tư cách thẩm phán . Tôi chọn đi tù dân sự để tránh việc có thể những quân nhân trước đây đã chẳng may có dịp đáo tụng đình và đã gặp tôi với tư cách thẩm phán công tố, điều đó sẽ kém vui đi. Do đó tôi trình diện ở trường Gia Long, nơi gặp gỡ của người tù dân sự.

Vào trường Gia Long chúng tôi bị giải đến trại tù Long Thành. Trại tù Long Thành, trước đây là làng cô nhi Long Thành của sư trụ trì tên là Tư Sự. Trước ngày l30/4 không lâu, với tư cách thẩm phán công tố, tôi đã có dịp gặp Tư Sự vì tội hoạt động cho việt cộng và bị tòa án Quân Dự Mặt Trận vùng 3 bắt giữ. Sau này lên Long Thành tôi mới biết Tư Sự là đại tá việt cộng. Tôi muốn tránh gặp lại người cũ nhưng rốt cuộc lại ở nhà người bạn cũ là TS chủ làng cô nhi Long Thành. Cũng may, chắc Tư sự lúc này làm lớn lắm nên chẳng gặp tôi làm gì.

Tại nhà tù Long Thành, đời tôi chưa đến nỗi khắt khe lắm, vẫn còn mang một tên thơ mộng là trường cải tạo 15 NV. Tôi đã gặp cụ Lê Tài Triển , ngày tôi tuyên thệ luật sư thì cụ là Chánh nhất tòa thượng thẩm Sài Gòn, sau này giữ chức vụ gì bên bộ ngoại giao thì tôi không nhớ. Cụ Triển đi lao động vai vác cuốc nhưng vẫn giữ phong thái của một người trí thức chân mang giầy tây và áo bỏ trong quần. Cụ Lưu Đình Việp, Chửơng lý tòa Thượng thẩm Sài Gòn đi tù còn cố mang theo một cái đệm hơi để tối nằm cho êm.

Ngày đi tù, theo sắp xếp, tôi ở đội các thẩm phán. Lúc đó tôi chưa đến tuổi 40, còn trẻ chán, nhưng lại ở tổ toàn những vị cao niên, phần lớn là các vị thẩm phán tối cao. Ngày ngày đi làm vườn cụ Vũ Tiến Tuân chưởng lý tối cao pháp viện, vì đau chân không ngồi xổm để nhổ cỏ được cụ kiếm được một mảnh gỗ làm ghế ngồi. Vì mảnh gỗ này cụ Tuân bị bọn cán bộ quấy rầy hoài , “ đi lao động mà còn ngồi ghế kiểu phong kiến”. Cụ Nguyễn Mạnh Nhu chưởng lý được giao một đàn dê . Lúc nào trong túi cụ cũng chứa đầy đá. Dê chạy nhanh cụ đuổi không kịp nên phải dùng đá ném để gom chúng nó về.

Cụ Phạm Văn Hiền, chánh nhất tòa thượng thẩm Huế, người hiền lành nhưng cũng không kém phần dí dỏm. Một lần tôi đi đổ rác với cụ Rác đựng trên một cái cáng, cụ đi phía trước tôi khiêng phía sau. Tới chỗ rẽ, tôi nhắc, cụ nghiêm nghị quay lại bảo tôi: “ Con đường chính trị tôi có thể lầm, nhưng con đường đổ rác thì tôi biết ông ạ “

Cụ Trịnh Xuân Ngạn người có thể biết thiên kinh vạn quyển, nhưng những chuyện đời thường, rất đời thường thì có khi lại không biết. Một lần cụ hớn hở tìm tôi như Archimede tìm ra sức đẩy của nước và khoe rằng :” Cái dây thép bẻ đi bẻ lại một lúc thì nó gẫy ông ạ .”

Ở tù hơn một năm thì đến tết, tù được thăm nuôi, anh Vũ Mạnh dự thẩm, nhân vật này tôi biết là còn sống vì thấy tên trong hội ái hữu Luật khoa San Jose, có người chú làm tướng việt cộng đến thăm. Tôi thấy anh Mạnh có vẻ chuẩn bị tư tưởng dữ lắm, vì đây là cuộc gặp gỡ của những người từ hai bên chiến tuyến. Từ nhà thăm nuôi trở về, anh Mạnh báo cáo là sau khi hỏi thăm chuyện gia đình, ông chú anh đã nghiêm nghị trách:” Sao nhà cháu đi hết rồi mà cháu còn ở lại đây”

Ở tù thì phải hát những bài của việt cộng. Anh Trần Tấn Toan, Thựơng nghị sĩ, người phụ trách văn nghệ của đội, sáng tác bài “ Giữ vững niềm tin “ và đưa lên ban giám thị trại để kiểm duyệt. Bài hát được chấp nhận, nhưng đội tập tành hát chưa được bao lâu thì có lệnh xuống là cấm hát. Không biết chúng nó giữ vững niềm tin nhưng là tin cái gì tình ai?

Những năm còn đi học, tôi được moị người biết đến với cái tên ông táo trường luật. Năm học sau, mọi người bắt tôi làm ông táo nữa, tôi từ chối, làm mãi cũng nhàm. Tuy nhiên khi đi tù, để giúp vui mọi người đang độ buồn phiền, tôi đành làm Táo hai lần nữa, nhưng những lần sau này, tôi không tự viết sớ táo nữa mà để người khác viết. Tôi chỉ sửa lại cho hợp ý táo thôi. Lần đầu ở trại long Thành do dự thẩm Nguyễn Ý Nhạc viết và lần thứ hai ở trại Quảng Ninh do đại sứ Phạm Trọng Nhân viết. “Những màn trình diễn cũng “ Mua vui cũng được một vài trống canh” ( Nguyễn Du).

Bây giờ đi tù, không phải chỉnh trang sắc đẹp như hồi đi làm nữa, nên tôi để râu dài như ông đạo dừa và lại được anh em đặt cho một tên mới là ông đạo. Một ngày không biết là có đẹp trời hay không, tôi gặp một tên cán bộ có vẻ để ý đến tôi, tôi tránh lối khác, chẳng nên dây với hủi, nhưng y cũng chẳng tha. Y đi nhanh vòng lối khác và chặn lối tôi: “ Để râu chống cộng hả?” thế là y lôi tôi đi cạo bén hàm râu. Râu đi rồi nhưng cái tên ông đạo thì còn, cho đến bây giờ thỉnh thoảng vẫn có người gọi

Sau những buổi học tập chính trị trên hội trường, chúng tôi phải về họp tổ để kiểm điểm và viết bản thu hoạch xem tù học hành như thế nào. Trong chiếu ngồi họp tổ, tôi với Hội thẩm. Dương Thiệu được phân công mỗi người nhìn về một phía làm lính gác bọn cán bộ trại. Chúng tôi ngồi nói chuyện tầm phào nhưng bỗng nhiên thấy hội thẩm Sinh hoặc tôi đổi giọng thì mọi người lập tức chuyển sang chuyện thảo luận chính trị có vẻ hăng say, tạm gác sang bên chuyện trời, trăng , mây , gió.

Ở trại giam Long Thành hơn một năm thì tôi cùng một số lớn tù nhân khác chuyển về Thủ Đức giam trong một trại dành cho các nữ ngày trước. Những nữ phạm nhân ngày trước không còn, nhưng cảnh thì vẫn là cảnh cũ để nhớ lại những ngày còn làm luật sư đi thăm thân chủ ở đây. Tại trại trại Thủ Đức tôi nằm cạnh và ăn chung với hai vị là giáo sư Bùi Từơng Huân tổng trưởng quốc phòng của chính phủ Dương văn Minh và đại sứ Phạm Trọng Nhân, cuối cùng làm giám đốc nghi lễ phủ tổng thống. Những ngày ở Thủ Đức, thức ăn của chúng tôi còn nhiều vì nhà mới thăm nuôi . Hai người ăn chung với tôi đều đã du học ở Pháp nên thời sinh viên đã nấu nướng giỏi lắm, còn tôi ở Việt Nam, cả đời cơm bưng nước rót nên chẳng biết gì. Để người ta nấu ăn cho mình mãi cũng khó coi nên một ngày nọ tôi tình nguyện làm đầu bếp. Các tù nhân nấu ăn trong lon sữa Guigoz. Trại cung cấp một bếp than đá cho tù nhân. Tôi lóng ngóng đặt lon trên bếp. Đồ ăn sôi, nắp lon bật ra, tôi bị phỏng. Thế là từ đó hai vị kia tiếp tục nấu nướng, tôi chỉ có việc ăn thôi. Tôi lẩm bẩm tuyên bố:” Đời tôi chưa bao giờ huy hoàng đến thế, bồi tổng trưởng mà bếp đại sứ.”

Giáo sư Huân đánh cờ tướng cao hơn tôi nhiều. Tôi thuộc loại cờ thấp nhưng không gọi là cờ thấp mà là “ cờ lùn” Tôi vừa đánh cờ vừa lẩm bẩn chọc ghẹo nên giáo sư Huân thua tôi hoài.

Ở trại giam Thủ Đức một thời gian ngắn thì chúng tôi bị lùa xuống hầm tàu Hồng Hà đem ra ngoài Bắc lưu đày. Nơi ở mới là trại giam Quảng Ninh.

Đêm đầu tiên ở trại Quảng Ninh, trại đón tiếp những người tù chính trị mới tới bằng một đêm do đội văn nghệ hình sự, những người tù phụ trách. Chúng tôi mệt mỏi ngồi xem. Một nữ ca sĩ phấn son lên trình bầy bản :” Người ơi xin ở đừng về.” Tù khổ sai biệt xứ mà năn nỉ người ơi xin ở đừng về thì kẹt nhau quá.

Thời gian này là gần tết nên giám thị trại yêu cầu tù làm văn nghệ mừng xuân. Đêm văn nghệ nghe anh Trần Huỳnh Châu tổng thư ký nội bộ nội vụ, chơi mandolin bản The Blue Danube, bọn cán bộ xem ra đã không bằng lòng vì cho là nhạc ngụy, nhưng đến khi nghe trung tá cảnh sát Kiều Đắc Thời, nặng 150 ký trình bày bản “ Bé yêu bác Hồ” tay chấp lên má, đầu nghiêng nghiêng rất là ngây thơ, thì bọn cán bộ không chịu nổi, đuổi tất cả về phòng giam. Vẫn chưa hết, vào phòng giam thấy một bàn bầy biện đàng hoàng, cán bộ lại hét lên :” Ai cho các anh làm bàn thờ tổ quốc trong phòng giam mà lại cắm hoa cứt lợn!” Thế là văn nghệ cũng dẹp mà bàn thờ cũng dẹp luôn.

Hết văn nghệ lại học tập chính trị rồi yêu cầu tù xung phong viết chuyên đề. Trong chuyên đề, việt cộng muốn khai thác và thu lượm những kiến thức của người tù. Tôi tình nguyện viết với đề tài là: Địch muốn gì qua luật người cày có ruộng. Nghe tựa có vẻ kêu nên việt cộng chấp nhận. Tôi chưa bao giờ đọc luật người cày có ruộng, nhưng biết việt cộng dốt nên cứ viết lung tung. Bao nhiêu chữ hóc hiểm nhớ được là tuôn ra hết. Tên cán bộ quản giáo thỉnh thoảng vào đọc và bình phẩm :” sao tôi thấy anh viết văn chương thì rất chải chuốt mà tôi đọc chẳng hiểu gì cả. “ Tôi an ủi:” Đây Là những tài liệu chuyên môn nên cán bộ xem không hiểu, nhưng cán bộ trên bộ nội vụ xuống nghiên cứu thì họ sẽ biết. Tôi nghĩ thầm : tao viết mà còn chẳng biết là tao viết cái gì thì làm sao mày hiểu. Mỗi ngày tôi chỉ viết năm trang chữ to bằng con bò còn dành thì giờ để nghỉ ngơi chứ. Những ngày sau thấy tên cán bộ quản giáo thập thò, tôi dơ tay xin ngòi bút, xin giấy viết. Bị quấy rầy những lần sao y chỉ đứng ở cửa nhìn vào chẳng bao giờ đến tận nơi xem tôi viết lách nữa.

Trốn việc quan đi ở chùa trong việc viết chuyên đề được gần một năm rồi cũng đến lúc bị chúng nó lùa ra ngoài đi làm lao động khổ sai. Ở tù muốn sống sót phải tìm cách làm càng ít càng tốt. Nứơc sông công tù mà. Trồng ngô thì một người đi trước, cầm cọc nhọn chọc một lỗ, người đi sau bỏ một hạt ngô xuống và lấp đất lại. Mỗi lỗ như thế tôi bỏ một nắm ngô cho chống hết. Cuốc đất thì phải cuốc từng lát mỏng mới có thể làm đất mịn để trồng trọt. Mỗi nhát cuốc của tôi chừng hai gang tay cho chóng đạt chỉ tiêu.

Thời gian này tù bắt đầu đói thê thảm. Đói ăn và đói cả thuốc hút nữa. Bây giờ ở đây no đủ rồi, việc bỏ thuốc có vẻ dễ dàng nhưng trong tù thì khó lắm. Đói ăn mà lại đói cả thuốc hút nữa thì chịu không nổi. Riêng tôi đã có lần nhịn cả phần ăn ít ỏi để đổi lấy thuốc hút. Đến giai đoạn này thuốc điếu đã thành xa xỉ phẩm vì thuốc đắt và hút chóng hết nên mọi người chuyển sang hút thuốc lào.

Giường tủ có hai từng, sàn trên và sàn dưới. Tôi nằm ở sàn trên bên dưới là anh Nguyễn Cao Quyền. Anh Quyền góc đại tá quân Pháp nhưng đã sang ngoại giao và nhiệm sở là tòa đại sứ ở anh nhưng tham bằng tiến sĩ nên mò về Việt Nam trình luận án. Kẹt lại đành đi tù với mọi người cho có anh có em. Một đêm thèm thuốc quá mà chẳng còn tí thuốc nào tôi lấy cái điếu cày ra kéo khan một hơi cho đỡ nhớ thuốc. Nghe tiếng điếu kêu lọc sọc anh Quyền ngốc đầu lên :” Có gì vui không toa (toi)”. thấy chẳng có khói và mặt tôi cũng chẳng hấp dẫn gì nên đành buồn rầu nằm xuống.

Mỗi lần có thuốc lào hút , sợ say ngã từ sàn

trên xuống đất có thể vỡ đầu , tôi đều leo xuống ngồi giữa nhà hút. Bao giờ tôi hút cũng có đại sứ Phạm Trọng Nhân đứng canh chừng. Thấy tôi say nằm giữa sàn nhà , có người thương hại chạy lại đỡ dậy vì sợ tôi trúng gió, thì người canh cho tôi cản lại và dõng dạc tuyên bố rằng: “ Hắn đang sướng đừng có đụng vào”

Kỹ sư Dương Kích Nhữơng, tổng trưởng giao thông công chính, cũng đói lắm, đi làm gặp con gì cũng bắt bỏ vào túi áo chờ khi về phòng giam sẽ hóa kiếp cho chúng để thêm thắt vào bữa ăn. Tuy nhiên ngày tổng trưởng rất ham đọc sách về đến phòng giam là chúi mũi vào đọc và đọc. Lũ cóc nhái tự do bò ra khỏi miệng túi áo và nhảy nhót tung tăng.

Tàu cộng và việt cộng chuẩn bị chỏang nhau nên chúng tôi lại được ưu ái chuyển về trại 5 Thanh hóa. Tại Thanh hóa điều kiện sinh hoạt còn tồi tệ hơn nữa nên đã nổ ra một cuộc tuyệt thực toàn trại mà anh bạn đồng nghiệp luật sư Ngô Văn Tiệp đã tường trình. Tôi không được cái hân hạnh ở bộ ba biệt giam “ Lạc, Chí, Tiệp” nhưng cũng được ưu ái xếp vào đội trừng giới.

Chế độ ăn uống của tù chia ra làm ba giai cấp: những người làm vựơt hơn tiêu chuẩn mà việt cộng quy định thì ăn 18kg thực phẩm, người làm mức trung bình 15 ký, còn ở mức kỷ luật là 13 kg. Một lần bị kỷ luật là ăn 13kg trong ba tháng. Tôi là khách hàng hầu như là thường xuyên của cơm kỷ luật. Chẳng phải tôi chống đối gì ghê gớm mà chẳng qua vì chỉ vì vạ miệng. Bọn chỉ điểm thì đội nào cũng có, do cán bộ trại chọn trong số những anh em tù tinh thần bị chao đảo để làm việc cho chúng rồi cài vào mỗi đội để theo dõi và báo cho cán bộ trại. Tôi rất ưu ái được bọn này chiếu cố.

Một lần tôi có lon Guigoz đường bị kiến vào vừa ngồi lắc lon cho kiến đi vừa lẩm bẩm một mình:” bác đang cùng chúng cháu hành quân” thế là đến tai cán bộ trại và lãnh 13kg kỷ lụât.

Một lần khác, tôi làm mấy cái khoen để đêm về có thể mắc mùng ngủ nhanh chóng, khỏi phải buộc dây lôi thôi. Vừa làm vừa nhắc lời “đồng chí “!Lê Duẫn để tự khen mình:” khoa học kĩ thuật là then chốt.” lại đến tai cán bộ trại và lại ăn 13kg

Những chuyện lẩm cẩm như thế xảy ra cho tôi không biết bao nhiêu lần.

Sau bao năm lưu đầy, chuyến xe lửa chở tù xuôi Nam rồi cũng xảy ra. Bọn Việt cộng muốn đưa những bộ xương cách trí từ những nhà tù miền Bắc về Nam cho gần để gia đình tù vỗ béo cho thân nhân tù trước khi thả ra trông cho được một chút. Trong chuyến xe lửa xuôi Nam, những nhân viên hoả xa vẫn phải giữ nét mặt lạnh lùng cho phải phép, nhưng những gói xôi, những trái chuối, những gói thuốc lá đã được kín đáo ném ra cho tù.

Về nam ở trại Long Khánh đời sống dễ chịu hẳn. Gần gia đình nên phần lớn tù được nhà thăm nuôi. Thái độ của bọn cán bộ trại cũng thay đổi hẳn. Chúng nịnh tù để được cho quà. Tên cán bộ trực trại anh em tù gọi đùa là đại tá. Một hôm trời đã khuya mà anh em trong phòng giam còn tụ tập. Tên cán bộ trực trại đứng lại hỏi:” Giờ này mà mấy ông tướng còn thức làm gì đây. “. Trả lời:” đại tá đi chỗ khác chơi, để các tướng làm việc.” Tên cán bộ trực trại bỏ đi, không nói một lời.

Nhốt mãi rồi cũng phải thả. Tôi đã nhận lệnh tha nhưng ngày hôm đó còn chờ cho các đội xuất trại đi lao động rồi mới đến được thả tù. Trong lúc ngồi đợi, tôi lấy đàn ra gẩy từng tưng. Biện lý Nguyễn Hồng Nhuận Tâm đi qua cằn nhằn :” về không lo chuẩn bị về còn ngồi đó mà đàn với địch.

Rồi nhà tù cũng mở cổng cho tôi ra. Tôi lóng ngóng không biết đường về nhà. Gặp được một bà cũng có vẻ đứng tuổi rồi, bụng mang bầu, để hỏi thăm bến xe đò về Sài Gòn. Người chỉ đường cho tôi, gọi tôi bằng bác và xưng con. Mình đã khám phá ra một điều là những năm tù đã biến mình từ một ngừơi trai trẻ thành một ông già.

Từ nhà tù nhỏ sang nhà tù lớn, chuyện quản chế, chuyện công an khu vực, và còn nhiều chuyện vui khác, nhưng đây chỉ nói chuyện tù, nói nữa là lạc đề nên đành chấm dứt.

luật sư Nguyễn Hữu Thụy

From: Truong Le

THĂM CHỒNG CẢI TẠO

THĂM CHỒNG CẢI TẠO

Lòng tôi chùng xuống, không biết từ bao giờ tôi nghĩ tới ngày 30/04/75, ngày sóng gió của cả Miền Nam.

Hoa Hồng Trắng

THĂM CHỒNG CẢI TẠO

Lòng tôi chùng xuống, không biết từ bao giờ tôi nghĩ tới ngày 30/04/75, ngày sóng gió của cả Miền Nam.

Tôi có bốn đứa con còn nhỏ lắm. Đứa con gái đẩu lòng hơn sáu tuổi và con trai út vừa tròn một năm. S. bị tập trung cải tạo trên rừng sâu … Những địa danh xa lạ của vùng rừng núi cao nguyên Trung Phần.

Đồng hồ đánh thức từ 3h sáng . Tối hôm qua phải thức khuya chuẩn bị đủ thứ, xếp các thức ăn vào giỏ … để sáng hôm nay lên đường sớm: Đi thăm chồng.

Tôi đi, các con còn đang ngủ say nên không nói được với con lời nào. Tôi nhờ một người láng giềng tốt bụng chăm sóc các cháu. Tôi vắng nhà chỉ một ngày một đêm mà sao lòng tôi lo lắng khôn nguôi.

Chúng tôi tập hợp tại ngã tư đường Yên Đỗ từ 5h sáng mà gần 8h xe mới bắt dầu rời thành phố về hướng Phước Long, Bình Long, Sông Bé …

Xe chạy qua nhiều đám khoai mì, chạy qua những đám ruộng khô cằn, những mái tranh rách nát, bên những rẫy bắp cành lá xác xơ … nắng cháy … Vùng Kinh Tế Mới!

Đến chiều, xe đã tới vùng rừng núi Phước Long, chạy quanh co trong rừng già, càng lên cao, càng chậm, như con Bọ Hung bò qua dốc! Đường vào trại thăm nuôi lầy lội, chắc là tối hôm qua đã có một trận mưa rừng lớn lắm.

Cái dốc đứng cao và dài … Những giỏ đồ ăn thăm nuôi được để trong xe, chúng tôi vén quần thật cao, một tay xách dép, tay kia níu chặt mấy nhánh lồ ô chìa ra hai bên đường lần từng bước nhỏ. Bùn quánh qua ống chân. Mồ hôi nhễ nhại … Vì sợ trợt tôi bò lên dốc. Nhìn lên phía trước, các chị bạn cũng đang bò …! Trông giống một đàn “kiến càng” bò lên dốc … Ý nghĩ ngộ nghĩnh khiến tôi bật cười một mình!

Lại thầm nghĩ: chắc ông xã mình đang tưởng tượng ra cảnh này và đang đợi từng giờ, tự nhiên thấy hết mệt …

Khoảng bốn giờ chiều thì chúng tôi tới nơi. Rừng trên cao nên rừng âm u tối. Những con muỗi rừng bay lượn từng đàn, cánh dài bụng bự vây quanh chúng tôi! Có lẽ người dân Sài Gòn vẫn còn thơm mùi thành phố dù họ đã nếm đủ mùi vị đắng cay từ khi xuất hiện lá Cờ Đỏ Sao Vàng trên mảnh đất Miền Nam!

Mặt trời trốn sau những rặng tre già, gió rừng lạnh buốt trên vai. tôi rùng mình nhìn quanh … Rừng lồ ô và những người vợ trẻ đi thăm chồng!

Vài người bộ đội đi qua … mặt lạnh như rừng già. Họ thật xa lạ … Nơi đây không còn tìm thấy bóng dáng những khuôn mặt Miền Nam hiền hoà năm trước …

Màn đêm bao trùm thật dễ sợ, lưa thưa vài dãy lều tranh và những ngọn đèn dầu mù u hắt hiu vàng úa. Chung quanh tôi là những người vợ trẻ đến từ đâu không ai hỏi nhưng chúng tôi cùng hoàn cảnh và tâm trạng giống nhau nên thân thiện như quen thân từ lâu lắm.

Chúng tôi ngồi chung trong một cái lán làm bằng nẹp tre rừng. Hai người bạn khá thân: chị Nguyễn Văn Tường, chị Vĩnh Thuế và tôi. Chúng tôi ngồi chụm lưng vào nhau cho đỡ sợ! Dưới bóng đèn dầu mờ mờ, chị Tường ngồi quấn lại mấy lọn tóc. Chị làm đẹp để sáng hôm sau gặp anh Tường.

Trên vách, hai con rắn đầu đỏ đang hả miệng nhìn chúng tôi. Chúng tôi ngồi co vào nhau, nhắm mắt … May mắn có một chị nói đó là rắn Mái Gầm. Nó chỉ rình để ăn vụng thực phẩm của tù nhân. Chúng tôi ngồi đó, lưng dựa vào nhau, bên cạnh mấy giỏ đồ ăn để trong mùng chờ trời sáng. Hai con rắn vẫn nhìn chúng tôi không rời.

Sáng hôm sau, mỗi đứa thay cho mình một cái áo tốt hơn … Để dấu nét âu lo của mình, tôi tô lên môi một chút son hồng. Mấy phút nữa tôi sẽ được gặp chồng, người tôi thương nhớ.

Thời gian chờ đợi nơi đây như dài gấp bao ngàn lần khi mình chưa đặt chân đến. Gần trưa, chúng tôi đươc gặp người thân của mình. Mỗi gia đình thăm nuôi ngồi một góc nhỏ, cạnh nhau vài mét, trên một lán làm bằng tre rừng …

Những chiếc nón lá làm mái che cho những nụ hôn thương nhớ. Đồ ăn bày ra trước mặt nhưng hình như chắng ai đói … Tôi nhìn Bs Tường và Bs Vĩnh Thuế. Các anh bơ phờ, áo quần nát nhàu vì năm tháng lao động tay chân. Nhìn lại chồng mình … ngậm ngùi muốn khóc …!

Vài món ăn mang ra rồi cất vào giỏ, chẳng ai muốn ăn mặc dù họ đang rất đói.

***

Bốn tiếng đồng hồ thăm nuôi trôi qua rất nhanh … Và mấy tiếng leng keng báo hểt giờ … Tôi vội vàng xếp thức ăn vào giỏ cho chồng … Thuốc nhức đầu, tiêu chảy, mấy ký đường cục, vài bao bột ngủ cốc, một ký tôm khô, một bịch mắn ruốc xào thịt ba chỉ với sả ớt, bộ quần áo …

Vài người bộ đội đi đi lại lại thúc dục hết giờ thăm nuôi!

Chúng tôi bịn rịn chia tay. Người đi vào trại cúi mặt bước nhanh, thình thoảng gắng quay đầu nhìn lại … Người ra về nhìn theo một lần nữa người thân yêu của mình … Rừng chiều cũng lạnh lùng ngoảnh mặt.

Để tránh con đường lầy lội hôm trước, bác tài đưa chúng tôi ra về theo một hướng khác … Đi quanh quẩn trong rừng rất lâu … Mặt trời bắt đầu trốn sau rừng tre già từ từ chìm trong bóng tối.

Chúng tôi đi sát vào nhau … Sợ lắm. Một nhóm phụ nữ trẻ chưa một lần nào nếm trải trong rừng đêm. Không biết con gì sẽ tấn công?

Người dẫn đường bật cái đèn pin bé tí, ánh sáng yếu ớt không đủ thấy mặt nhau. Chúng tôi loanh quanh trong rừng già. Bóng đêm bao trùm mọi nẻo … Để trấn an nỗi lo âu trong lòng mình, chị bạn đi bên tôi khôi hài: Chúng ta là đoàn người đi tìm vàng … (Vàng và Máu của Thế Lữ). Xơ xác mệt nhoài.

Sau hai giờ trôi qua trong rừng tre già, người dẫn đường cũng tìm được hướng ra … Chúng tôi vừa lên xe chưa bao lâu thì rừng đêm cũng chập chùng mưa gió. Tiếng sấm sét, gió rít, nước chảy, mưa rơi … Những nhánh tre rừng nghiêng ngã đập mạnh hai bên chỗ ngồi. Chúng tôi lắc lư theo nhịp di chuyển của chiếc xe đò.

Quanh co, băng rừng, qua suối … lòng tôi cũng đang mưa gió như ngoài trời.

Chị Tường đưa cặp mắt ướt lệ nhìn tôi! Chị cũng là một cô giáo đã bị thôi việc từ ngày 30/04. Chị buôn bán chợ trời nuôi đàn con thơ 5 đứa mà đứa lớn nhất vừa tròn 8 tuổi.

Tôi bắt đầu lo sợ, sợ bác tài lạc hướng … sợ xe lăn xuống hố … Trong đẩu tôi hiện lên hình ảnh cô em gái , đẩu quấn băng sau khi xuất viện mới cho tôi hay là bị xe lật trên đường đi thăm chồng cãi tạo ở Hà Nam Ninh về …

Xe cứ lắc lư, chao đảo giữa bóng đêm mịt mùng. Xe chạy gần qua hết một đêm dài mà không tìm thấy hướng ra Quốc lộ … Đêm nay, nếu tôi có bề nào không bao giờ về được nữa, thì ai nuôi bốn đứa con thơ đang chờ mẹ ở nhà! Ông bà ngoại mất lâu rồi, anh em tôi đông, nhưng ly tán và tan nát từng mảnh đời sau biến cố 30/04!

Những lo sợ không chịu rời bỏ tôi một phút giây nào. Tôi cố nắm chặt hai bàn tay mình lại hít một hơi thật dài. Tôi khom người đứng lên, cố gắng làm một động tác nào đó cho vơi đi nỗi lo sợ trong lòng mình nhưng tôi đã khóc lúc nào không biết … Xe vẫn chạy … Tôi nhắm mắt, cứ để cho giòng lệ của mình hoà theo những giọt nước mưa.

Qua một đêm kinh hoàng, xe về tới bên kia cầu Sài Gòn. Bác tài cho chúng tôi xuống xe ngồi lại bên lề đường chờ cầu Sài Gòn mở cửa. Tôi thở phào nhẹ nhỏm như vừa trút được một gánh nặng ngàn cân.

Ôi! Một chuyến đi … thăm chồng.

Kim Thoa

Tv TÂN NHÂN CHỦ chuyển

Ảnh: ngày còn trẻ

Nhớ Thương – Truyện Ngắn Nguyễn Thị Thêm…

May be an image of text

Lặn Lội Thân Cò

Lặn Lội Thân Cò

Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

(Ca dao)

Tôi không thể hình dung cảnh con cò gánh gạo nuôi chồng vất vả cơ cực như thế nào đến nỗi phải nỉ non kể lể như vậy, nhưng tôi có thể đoan chắc với bạn đọc rằng tình cảnh những bà vợ tù cải tạo cơm đùm gạo bới đi thăm nuôi chồng ở các nhà tù và các trại tập trung tại Việt Nam sau năm 1975 thì quả tình là muôn phần vất vả cơ cực. Vất vả là vì phải cùng một lúc, hoặc lần lượt trước sau, giải quyết một số vấn đề mà trước đây chưa từng đã gặp hoặc không phải là những công việc mà mình phải bận lòng. Cơ cực là vì phải cúi luồn, phải bon chen, phải vận động, phải năn nỉ, phải lanh lợi, phải mưu trí, phải gan dạ, phải nói những lời không từng quen nói, phải làm những việc không từng quen làm. Thân phận con cò lặn lội nuôi chồng vất vả cơ cực muôn phần như vậy, lại còn vất vả cơ cực muôn vạn lần hơn nữa, nếu không may cò lại thuộc vào một trong mười loại chúng sinh mà thi hào Nguyễn Du đã làm văn tế cô hồn:

“Nào những kẻ màn loan trướng huệ,
“Những cậy mình cung quế hằng nga.
“Một phen thay đổi sơn hà,
“Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Về đâu thì chưa biết, chỉ biết thân phận hiện giờ là bơ vơ, lạc lõng, là lá xa cành, là cây xa cội, là mình xa ta, mà mình xa ta thì còn đâu là cảnh cũ quen thuộc, người xưa thân thương để “ngày ngày núp bóng tùng quân, tuyết sương che chở cho thân cát đằng”! Bởi vậy, bằng mọi giá, phải tìm cho được nơi chồng đang bị giam giữ, để rồi cơm đùm gạo bới mang đến tận nơi thăm nuôi chồng. Không phải là ngày ngày, tháng tháng, mà năm này sang năm khác, trong quá trình chuyển biến lâu dài của nếp sinh hoạt mới, xuyên qua nhiều trạng huống đổi đời thấm đượm đắng cay, chiếc lá, một là sẽ bị cuốn theo cơn lốc thời thế, hai là sẽ cương cường vươn ra trước gió bão, quyết tâm sống chết tranh đấu cho sự sống còn của bản thân, của cành lá, của cội cây, để rồi thân phận cát đằng trở thành gốc lớn đại thụ.

Cái cảnh các bà vợ bà mẹ tù nhân cải tạo lặn lội đi thăm nuôi chồng con là một hiện tượng phổ biến. Sau tháng tư đen, khoảng ba trăm nghìn công chức và hơn một triệu quân nhân cùng một số người thuộc các giai tầng xã hội khác nhau như tôn giáo, đảng phái, văn nghệ sĩ, tư sản mại bản, học sinh sinh viên, phải chịu đi tù, hay nói theo ngôn từ thời thượng là bị lãnh án tập trung cải tạo. Thời hạn giam cầm ngắn dài tuy có khác nhau, mức độ khắc nghiệt trong cách đối xử tuy không đồng nhất, hình thức giam cứu và chế độ lao động tuy thiên hình vạn trạng, nhưng dấu ấn để lại trong lòng những người phụ nữ lặn lội đi thăm nuôi chồng con thì không khác biệt gì mấy cả. Ngày nay, một số còn ở lại Việt Nam, một số tản mác sinh sống khắp năm châu bốn biển, những thân cò ngày ấy, dù vẫn xác xơ còm cõi hay tươi tốt mỡ màng hơn truớc, chắc hẳn không bao giờ quên được những vất vả cơ cực ngày nào lặn lội gánh gồng, cơm đùm gạo bới, băng rừng vượt suối đi thăm nuôi chồng con. Những ai may mắn lanh chân lẹ cánh thoát đi khỏi Việt Nam năm 1975 thì tuy không hiểu thấu được nông nỗi đắng cay cơ cực này tận tường trong chân tơ kẻ tóc, nhưng cũng ít nhiều có nghe nói qua, có được kể lại, có đọc trên báo, có thấy trên truyền hình, nên cũng phần nào cảm thấy thảng thốt, hãi hùng, thấy mình may mắn thoát được trong gang tấc cái thân phận bất hạnh của những người bị kẹt lại, mặt khác, không khỏi cảm thấy xót thương cho những thân cò trong bao nhiêu năm tháng lặn lội gánh gạo nuôi chồng nuôi con đang phải chịu cảnh giam hãm đọa đày trong các nhà tù và các trại tập trung cải tạo.

Nhà văn Thế Uyên có viết trong một tác phẩm của anh xuất bản năm 1989 tại Mỹ về nông nỗi vất vả cơ cực của các bà vợ, bà mẹ đi thăm nuôi chồng con bị tù. Những điều anh viết là những điều anh và thân nhân của anh đã kinh qua trong thời gian anh phải đi cải tạo, hoặc là những điều anh được nghe kể lại sau này khi anh vượt biên thoát ra khỏi Việt Nam và có dịp trở về thăm quê hương. Nhà văn Duyên Anh, trong các hồi ký Nhà Tù xuất bản năm 1987, và Trại Tập Trung xuất bản năm 1988, cũng tại Mỹ, tuy chuyên chú nói nhiều về các mặt sinh hoạt của tù nhân, nhưng cũng phần nào có đề cập tới tình cảnh những người mẹ, người vợ lặn lội đi thăm nuôi chồng con. Những điều các anh viết về các bà mẹ, bà vợ tù nhân là rất trung thực, và những ai thuở ấy đã từng làm thân cò lặn lội gánh gạo đi thăm nuôi chồng con sẽ thấy được một phần nào hình bóng và tâm tư của mình trong các tác phẩm của Thế Uyên và Duyên Anh. Người viết chỉ bổ túc thêm một số tình tiết xuyên qua quá trình thụ án của bản thân có liên hệ đến người bạn đời tấm cám của mình để những bạn đọc may mắn lanh chân lẹ bước thoát đi khỏi Việt Nam năm 1975 có thêm được một chút ý niệm khái quát về tình cảnh điêu linh mà rất đáng tự hào của một lớp người đã vì tình yêu và nghiã vụ mà can đảm chấp nhận số kiếp thân cò.

Tôi bị bắt vào đầu tháng sáu năm 1975. Người ta đưa tôi vào T3, ở số 3 Bạch Đằng, tức là Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo lúc trước, cho ăn cơm trưa, sau đó đưa qua An ninh Nội chính Bộ Nội vụ, tức là Tổng Nha Cảnh sát cũ, làm thủ tục tống giam, rồi giải vào khám Chí hòa, nhốt ở khu xà lim AB. Vợ tôi chứng kiến tận mắt cảnh tôi bị hai người cán bộ có võ trang dẫn đi, một người dí súng lục vào đầu tôi, một người thúc súng AK vào lưng tôi, nên hãi hùng lắm. Trong trí tưởng tượng của vợ tôi lúc đó, người ta đang đưa tôi đi xử bắn. Những ngày tiếp theo, vợ tôi đi đến các cơ quan an ninh các cấp của chính quyền chiếm đóng, ai chỉ cho biết ở đâu là lần mò đến đó, để thăm hỏi tin tức của tôi. Ở đâu, người ta cũng lịch sự nhẹ nhàng khuyên nhủ an ủi vợ tôi, rằng “thì là đừng có lo”, tôi không phải bị bắt giữ, tôi đang được ở một nơi rất an toàn, được bảo vệ chu đáo, và việc cán bộ võ trang đưa tôi đi ở một nơi riêng biệt chưa tiện tiết lộ chẳng qua chỉ là biện pháp bảo vệ an ninh cho tôi, để tránh sự phẫn nộ căm hờn của quần chúng, có phương hại cho sinh mạng của tôi. Những lời an ủi đó đương nhiên không làm cho vợ tôi bớt lo sợ, ngược lại, càng làm cho vợ tôi nghĩ rằng tôi đã bị bắn chết. Về sau, vợ tôi không còn năn nỉ xin gặp mặt thăm nuôi mà chỉ xin cho biết xác tôi ở đâu để lãnh đem về chôn cất. Lại vẫn những lời an ủi khuôn sáo, những luận điệu động viên nghe mãi vợ tôi đâm ra thuộc nằm lòng, do đó vợ tôi lại càng tin chắc là tôi đã bị thủ tiêu, nên cuối cùng vợ tôi cũng không còn năn nỉ xin biết nơi chôn xác tôi mà chỉ xin cho biết ngày giờ tôi bị giết chết để viết bài vị thiết lập bàn thờ. Vợ tôi đã vì tôi mà phải trải qua những tâm trạng hãi hùng, khắc khoải, lo âu, rồi tuyệt vọng, lại thêm sau đó bị xét nhà vào lúc nửa đêm, của cải cũng có phần bị thất thoát, cho nên ngoài cái buồn cái lo chồng tuyệt tích không biết sống chết ra sao, lại thêm cái lo cái sợ con đông nhà nghèo, biết trông cậy vào đâu mà xoay trở. Lúc đó, vợ tôi đang mang thai bốn tháng, và vì quá lo nghĩ đến độ tuyệt vọng, vợ tôi đã bị sẩy thai. Bị băng huyết do sót nhau, vợ tôi phải đi nằm bệnh viện gần cả tháng trời. Ra khỏi nhà thương, vợ tôi trở thành con người khác hẳn, thân tàn ma dại không ai nhận ra. Còn tôi, tôi chỉ ở cách đó có mấy con đường, trong bốn bức tường đá xà lim, nào tôi có biết gì.

Bốn tháng sau, trong lúc phần lớn tù nhân ở Chí Hòa được chuyển đi các trại khác thì tôi được bố trí ở riêng một xà lim và bắt đầu bị hỏi cung. Tôi có đưa ra một yêu cầu để dọ dẫm, là xin viết thư về nhà để lấy cái kính đeo mắt, nhiên hậu mới viết các bản khai báo được, và yêu cầu của tôi đã được chấp thuận. Tôi được viết cho vợ tôi một lá thư ngắn, và mấy hôm sau khi người cán bộ chấp pháp trở lại với cái kính đeo mắt đúng là của tôi thì tôi biết chắc là tôi không bị xếp vào loại tù phải bị thủ tiêu. Nếu là thành phần tù cần phải thủ tiêu thì không bao giờ người ta cho liên lạc với gia đình hoặc cho gia đình biết tin tức. Hỏi thăm tình hình sức khoẻ của vợ tôi, tôi được người cán bộ liên lạc cho biết là vợ tôi đã gần ngày sinh, bụng rất lớn nhưng người vẫn nhanh nhẹn hồng hào. Tôi biết là người cán bộ nói không đúng sự thực, vợ tôi xưa nay có mang là bị thai hành dữ lắm, làm thế nào mà nhanh nhẹn hồng hào được, tuy nhiên tôi vẫn không nghĩ là vợ tôi đã sẩy thai. Trong thư gửi đi, tôi đã dặn vợ là nếu sinh con trai thì đặt tên là Sỹ Đạt, còn sinh con gái thì đặt tên là Tú Anh cơ mà. Vợ tôi không được phép viết thư cho tôi, nhưng được gửi cho tôi mấy thứ cần dùng và một ít thức ăn. Qua các thứ gửi vào, tôi vẫn nhận thấy được sự chăm chút của vợ tôi, nhưng tôi không tài nào hình dung được tình hình sinh họat của vợ con tôi lúc này ra sao. Các thức ăn gửi vào rất đạm bạc, tôi lo lắng không biết các con tôi no đói thế nào. Mãi về sau tôi mới biết mọi người ở Sài Gòn lúc đó đều nghĩ rằng tiếp tế cho thân nhân phải thật đơn sơ đạm bạc thì thân nhân sớm được cứu xét tha cho về, chứ lòng tôi lúc đó thật là ngổn ngang trăm mối. Sỡ dĩ tôi lo lắng cho vợ con như vậy là vì trong thư gửi đi, tôi đã nhắn nhủ vợ tôi là trong tình thế khó khăn hiện tại, chấp kinh phải tòng quyền, phải đặt nghĩa vụ lên trên tình yêu, phải lo cho con cái trước đã, do đó, nếu tình hình bắt buộc thì cũng đành phải hy sinh tình riêng đôi lứa để nuôi đàn con dại khôn lớn nên người. Chúng tôi quen biết nhau khi vợ tôi hãy còn nhỏ tuổi, chúng tôi cưới nhau khi vợ tôi chưa đủ tuổi làm thẻ kiểm tra. Từ bấy đến nay, vợ tôi chỉ biết quanh quẩn trong nhà, vui cảnh chồng con, nào có biết gì công việc ngoài đời. Người thiếu phụ vốn là học trò con quan, phu nhân vợ quan, không quen tháo vác, không phải tảo tần, giờ đây, trước giông tố bão bùng của thế giới đổi đời, làm sao đứng vững một mình mà chở che cho một đàn con nhỏ dại tám đứa. Bởi thế, trong thư gửi đi tôi đã khuyên nhủ vợ tôi rằng trong cái thế chẳng đặng đừng thì hãy can đảm tìm người tử tế mà nương tựa để đưa đàn con vượt qua khó khăn, để có điều kiện nuôi dạy chúng nên người. Nỗi dằn vặt con thơ vợ dại rồi cũng dần dần chìm lĩm trong cái lê thê của cuộc đời tù hãm giữa bốn bức tường đá xà lim, mà tin tức gia đình thì không vang không bóng, quá khứ thì mông lung hư ảo như là vọng về từ muôn kiếp xa xưa, và tương lai thì hoàn toàn chìm ngập trong bóng tối mịt mùng, không tài nào tìm thấy con đường tiến lên phía trước. Và cứ như thế kéo dài đằng đẳng gần hai năm, qua các xà lim khu AB rồi khu ED, rồi trở lại khu AB, mà “đêm thì không ánh trăng sao”, còn “ ngày thì chẳng ánh mặt trời.”

Cuối cùng thì chúng tôi cũng được ra khỏi khu biệt giam khám Chí hòa để được chuyển qua khu tập thể AH, 55 người ở chung một phòng, 3 tháng một lần được gia đình gửi thức ăn vào nuôi, một năm một lần được thân nhân vào thăm gặp 15 phút. Lần thăm gặp đầu tiên, lòng tôi rộn rã nhưng vẻ mặt thì cố giữ bình thản, chuẩn bị tinh thần để đón nhận tình huống bất lợi nhất. Gia đình có còn đông đủ, hay xiêu lạc mỗi người một nơi? Liễu Chương đài, cành dài có còn chốn cũ hay đã chuyền vào tay ai rồi? Chúng tôi mỗi người được bố trí vào một ô “chuồng chim”, có cán bộ đứng sau lưng, gia đình đứng trước mặt, ngăn cách bởi một tấm lưới thưa mắt cáo bằng kim loại. Vợ tôi “mười phần xuân cũng đã gầy năm bảy phần”, duy đôi mắt thì lại long lanh láng mướt như ngày còn con gái. Các con tôi, đứa nào cũng gầy, và có lớn hơn chút đỉnh so với ngày tôi xa chúng. Riêng đứa con nhỏ nhất thì lớn phỗng và xinh xắn lạ thường, tôi cơ hồ không nhận ra. Nó cũng e sợ nhìn tôi như nhìn người lạ. Ngày tôi xa nhà, nó chỉ mới biết đi chập chững. Trông quanh không thấy còn đứa bé nào khác, hỏi ra mới biết vợ tôi đã bị sẩy thai, đứa con trông đợi đã không được làm người. Trông nét mặt vợ tôi có vẻ hờn dỗi, tôi nghĩ là vợ tôi còn oán hận tôi đã nhận định chủ quan khiến cho toàn bộ gia đình bị kẹt lại, chịu cảnh đắng cay cơ cực như thế này. Lúc tôi động viên các con hãy cố gắng học hành, vợ tôi đã gay gắt: “Anh đừng có nói chuyện học nữa, tụi con mình bây giờ là tính chuyện đi cày”. Biết vợ đang giận, tôi không nói gì. Tôi thừa nhận là tại vì mình tính sai nước cờ mà vợ con mang lụy, nên bị vợ giận tôi đành chịu trận vậy. Nhưng tôi đã lầm. Sau này tôi mới biết là vợ tôi không giận tôi về chuyện cả nhà vì tôi mà bị kẹt lại, mà giận tôi là vì chuyện lá thư tôi viết gửi về nhà năm trước khuyên nhủ vợ tôi nếu hoàn cảnh bắt buộc thì hãy lấy chồng khác để nuôi con, và thái độ lạnh nhạt của tôi khi được ra thăm nuôi lần đầu, được gặp mặt vợ con sau hai năm trời bặt tăm âm tín. Vợ tôi đã trách tôi là trong lúc ai ai cũng hớn hở tươi cười gặp gỡ gia đình mà tôi lại mang bộ mặt xa lạ thản nhiên như đối với người dưng nước lã. Vợ tôi đâu có biết là con người tôi lúc đó bên ngoài trơ trơ như gỗ đá nhưng bên trong thì tình cảm sôi sục như dầu sôi lửa bỏng. Vợ tôi đâu có biết cùng với việc chuẩn bị tinh thần, tôi cũng cần có tư thế thích nghi để phù hợp với những tình huống khó khăn, cay đắng, để tránh đột ngột bị bẽ bàng.

May mắn cho tôi là đã không xảy ra chuyện gì đắng cay bẽ bàng cả. Từ đó, cứ ba tháng một lần, chúng tôi được viết thư về nhà, thư không được viết quá một trang giấy học trò, nội dung gồm 3 phần: báo tin sức khoẻ, thăm hỏi vợ con, và liệt kê nhu cầu. Thư ấy được cán bộ phòng, cán bộ khu duyệt xét xong, chuyển cho cán bộ giáo dục đóng dấu “Được phép thăm nuôi” lên phong bì, và được gửi về cho gia đình tù nhân. Người nhà đem phong bì có đóng dấu ra cơ quan phường để xin phép, chạy tiền chạy gạo sửa soạn thức ăn, rồi mang vào Chí hoà giao cho cán bộ thăm nuôi soát xét, xong chuyển lại cho tù nhân. Các giỏ “quà tiếp tế”này là lẽ sống của tù nhân, vì cơm trong tù đã kém cả phẩm lẫn lượng lại còn độn khoai sắn, bột mì, bo bo, thức ăn trong tù thì ngoài những ngày tư ngày tết chỉ gồm giản đơn có nước muối pha loãng mà thôi. Không có quà tiếp tế của gia đình thì tù nhân sẽ chết dần chết mòn vì các chứng bệnh thiếu dinh dưỡng và thiếu sức đề kháng. Nhưng mặt khác, các giỏ quà tiếp tế lại là những gánh nặng cho những thân cò lặn lội đi thăm nuôi chồng con. Thư tù nhân gửi về nhà như là những giấy đòi nợ. Thực phẩm thì khan hiếm, đắt đỏ, phải mua chui, mua rúc ở thị trường đen. Đối với phần đông các bà mẹ, bà vợ, lại còn vấn đề phải xoay xở tiền nong, cả nhà phải nhịn ăn nhịn uống hàng tháng mới đủ tiền sắm sửa một giỏ quà đi thăm nuôi. Lại còn vấn đề “lễ tiết” đối với cán bộ trại giam, cán bộ phường xã, thưa gửi phải ngọt ngào, thái độ phải cung kính. Làm sao nói cho hết được nỗi niềm đắng cay cơ cực của những ai đã từng vì tình yêu và nghĩa vụ đối với chồng con mà cam tâm chấp nhận làm thân cò.

Thư tù nhân gửi về nhà đã có khuôn mẫu, ai không theo đúng sẽ biết ngay hậu quả. Gặp lúc được phép viết thư nhằm vào dịp kỷ niệm ngày cưới, tôi đã gửi tặng vợ mấy câu thơ gọi là “cho có chút tình”, thay cho tờ giấy thăm hỏi và liệt kê nhu cầu tẻ nhạt:

Ta nhớ kinh kỳ ngày đầu thu năm ấy,
Đường Lê Thái Tổ rải hoa nắng lung linh.
Bím tóc đong đưa xuôi bờ vai nhún nhẩy,
Theo bước chân em, lòng ta rợn ngợp men tình.

Ta nhớ kinh kỳ ngày Nguyên tiêu năm ấy,
Đường Nam giao in bóng hai ta theo mẹ lên chùa.
Hồn ta chơi vơi theo làn gió xuân hây hẩy,
Chuyện yêu thương, nói mấy cũng chưa vừa.

Ta nhớ kinh kỳ đêm cuối hè năm ấy,
Hiên nhà em lặng nghe hai ta thủ thỉ chuyện tâm tình.
Tay trong tay, vai kề vai, môi tìm môi run rẫy.
Trời trong, sao sáng, đêm quê hương như đồng lõa với chúng mình.

Bao nhiêu năm rồi, tình ta không mảy may thay đổi,
Yêu em, ta vẫn yêu tha thiết như thuở ban đầu.
Đời hai ta như keo sơn gắn liền thành một khối
Không thể chia lìa, mãi mãi đến muôn vạn ngày sau.

(Kỷ niệm ngày cưới)

Đương nhiên là vợ tôi đã không nhận được bài thơ và tôi đã phải chịu “đói” 6 tháng. Những ai đã từng bị đói mới thấm thía trọn vẹn ý nghĩa cuộc đời. Ngày trước, Khái Hưng có viết một truyện ngắn diễn tả tâm trạng con người bị cái đói dằn vặt, nhưng những điều Khái Hưng viết ra chẳng thấm vào đâu so với thực tế phũ phàng mà các tù nhân cải tạo đã phải đối đầu trong các trại giam do cái đói mà ra. Có đói mới hiểu vì sao dân quê ta có đầu óc xôi thịt. Có đói mới hiểu vì sao nhiều người lại cam tâm làm những việc hèn hạ. Khi người ta bị cái đói ngày đêm dằn vặt, có lẽ trong đầu ai cũng như ai, ai cũng nghĩ tới cái ăn, ai cũng ao ước được ăn. Cái khác nhau là hành vi, là thái độ biểu hiện bên ngoài. Mà điều này là do giáo dục gia đình, và khuôn phép xã hội, đã uốn nắn, đã rèn dũa, đã tích lũy từ rất nhiều năm tháng trước đó, đã ẩn sâu, đã dấu kín trong tiềm thức, để giờ đây giúp cho con người đang bị cái đói hành hạ có thể vận dụng được lý trí đè bẹp bản năng đấy mà thôi.

Hết hè lại sang thu. Nghĩ đến chuyện về, đường đi chỉ là mộng mị, mờ mịt lắm. Vợ con biết ngày nào được gặp mặt đây. Tường đá, nền xi măng lạnh lẽo, chăn đơn gối chiếc phong phanh. Qua chấn song sắt, đêm khuya đối cảnh trăng chiếu sương sa, người nhậy cảm tránh sao khỏi động lòng:

Sương giáng lâu tiền liễm nguyệt quang,
Tư qui, mộng nhiễu lộ man man.
Thê nhi tái kiến tri hà nhật?
Truờng dạ cô miên chẩm bị hàn.

Đến Tết năm sau, chúng tôi lại được gặp mặt gia đình. Lần này thì trại không tổ chức thăm gặp ở địa điểm chuồng chim khó kiểm soát, mà tổ chức trong các phòng nhỏ thường ngày dùng để hỏi cung. Mỗi phòng tùy theo kích thước mà được dành cho một hoặc hai gia đình. Trong phòng kê một chiếc bàn, hai bên là hai chiếc ghế dài, một bên dành cho tù nhân ngồi, bên kia dành cho thân nhân ngồi đối mặt; đầu bàn kê chiếc ghế gỗ là chỗ của cán bộ. Mọi người nói chuyện phải nói thật lớn để cán bộ theo dõi nghe cho rõ. Hai tay tù nhân cũng như của thân nhân phải được đặt trên bàn. Thời gian gặp gỡ là 15 phút. Xong là nhận quà và chia tay. Trời hôm đó âm u, buồn chi lạ. Vợ tôi xanh xao, gầy gò; các con tôi hom hem, đen đủi. Giờ phút chia ly, vợ tôi khóc như mưa. Tôi an ủi vợ mà không biết đã nói những gì, vì không được phép nói nhiều và phải nói lớn tiếng để mọi người cùng được nghe. Tôi đã viết tối hôm đó:

Ngày gặp mặt cuối năm,
Ta nom em gầy gò ốm yếu.
Em nói với ta những lời hiền dịu,
Ta thương em ruột quặn tơ tằm.
Được gặp nhau một khắc,
Đã đến rồi cái phút thứ mười lăm!
Ủ tay con chưa ấm,
Nhìn mặt vợ đăm đăm,
Ta lại phải trở về nơi có những hàng song sắt.
Trời cuối năm hiu hắt,
Thoáng đâu đây cánh én lạc đàn.
Râm ran lời giã biệt.
Nắm tay em, ta nghe tiếng lòng em thảm thiết.
Nước mắt em buồn lả chả tuôn rơi.
Sầu thương chi lắm em ơi!
Vật đổi sao dời,
Ai tránh khỏi cảnh hồng nam nhạn bắc.
Sông có khúc, người có lúc.
“Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
“Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.*
Hẹn em ngày tái hợp.
Nắng xuân hồng, nắng ấm, xuân tươi.

(Thăm gặp cuối năm)

Qua các buổi thăm gặp định kỳ ngắn ngủi đó, tôi cũng biết được phần nào cuộc sống của vợ con ở nhà. Tôi và vợ tôi đã trao đổi với nhau bằng những ngôn từ chỉ riêng hai chúng tôi hiểu mà thôi. Trong lúc tôi ngày ăn hai bữa rồi nằm yên một xó trong khám Chí hoà thì vợ tôi đã phải đương đầu với bao nhiêu sóng gió bão bùng. Trong năm 1977, gia đình tôi được xếp vào loại “dãn dân”, phải chuẩn bị đi kinh tế mới. Tổ dân phố, Phân hội Phụ nữ, Công an Khu vực, Cán bộ Phường, Cán bộ Quận, lần lượt đến động viên gia đình tôi đi kinh tế mới, đi sớm khai phá sớm, đi sớm thu hoạch sớm, đi sớm thắng lợi sớm, đi sớm chồng được tha về sớm. Vợ tôi cứ gan lỳ bám trụ. Hết động viên đến hăm doạ, vợ tôi cũng không nao núng, cứ một mực xin thả chồng về rồi sẽ đi kinh tế mới. Bị thúc bách quá mức, vợ tôi đâm liều, xin cán bộ cho mấy mẹ con mỗi người một viên đạn. Cuối cùng rồi cũng thôi. Lại thêm con trai lớn không được thi vào đại học, con trai nhỏ không được vào lớp 10. Qua năm 1978, con trai lớn “trúng tuyển” nghĩa vụ quân sự, Phân hội Phụ nữ, Tổ dân phố đến chúc mừng. Kỳ thực thì con tôi bị cưỡng bức đi thanh niên xung phong, đưa lên tập trung ở nông trường Lê Minh Xuân, chuẩn bị sang Campuchia lao động chiến trường, tải gạo tải đạn. Vợ tôi đã tổ chức cho con trốn trại, đưa lên Thủ Ðức ẩn náu mấy tháng rồi vượt biên trốn ra nước ngoài. Cũng cùng thời gian này, vợ tôi cho đứa con trai không được vào lớp 10 vượt biên đi Mỹ, và gả chồng cho con gái lớn, rồi đầu năm 1979 cho cả hai vợ chồng vượt biên đi Canada. Qua năm 1980, đến lượt hai đứa con gái tiếp theo vượt biên đi Mỹ. Mỗi năm vào thăm gặp, gia đình tôi cứ ít người dần dần. Để giải thích sự kiện đó, tôi đã nói cho mọi người biết là hai con trai lớn ra Thuận Hải làm garage, con gái lớn lấy chồng trên Đà Lạt, hai đứa con gái tiếp theo thì cho ra Tuy Hòa ở với chị tôi. Anh chị tôi ngoài Tuy Hòa không có con nên nhận nuôi hai cháu. Mọi người đều tin lời tôi, không ai thấy có gì là bất thường trong việc sắp xếp như vậy. Mãi cho đến cuối năm 1982, khi chúng tôi bị chuyển ra trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Khánh, tôi thấy không cần phải dấu diếm nữa, mọi người mới biết sự thực và các bạn tù đã tíu tít chia vui với tôi, đồng thời khen ngợi vợ tôi không tiếc lời. Phần tôi, ngày truớc thấy vợ thụ động, mọi chuyện nhất nhất đều tùy thuộc vào mình nên không biết được tài tháo vát của vợ, tôi đã lo lắng băn khoăn không biết vợ tôi sẽ xoay trở ra sao trước sóng gió của cuộc đổi đời. Nay thì quả tình tôi thấy người phụ nữ Việt Nam thật là tuyệt vời về cả hai khía cạnh đức hạnh và tài năng:

Ngày xưa,
Anh ví anh như mây mùa thu,
Anh xem em như khói trong lò.
Nay mây mùa thu thôi không bay,
Khói trong lò thoát ra thay vào đó.
Em thay anh nuôi đàn con nhỏ.
Không có em, ai nuôi dạy chúng nó nên người.
Yêu em nhiều, và cảm phục em lắm em ơi.

Tôi và vợ tôi đã tính toán với nhau là vợ tôi cùng ba đứa con nhỏ còn lại sẽ vượt biên vào cuối năm 1980. Tôi đã đổi địa chỉ viết thư thăm nuôi gần cả năm trời. Vợ tôi cũng đã đóng lộ phí vượt biên cho chủ tàu. Thế mà, chỉ còn năm hôm nữa lên đường, vợ tôi lại đổi ý. Vợ tôi không nỡ bỏ tôi mà đi. Vợ tôi thu xếp cho hai đứa con kế tiếp vượt biên đi Mỹ, còn vợ tôi cùng con gái út tiếp tục ở lại Việt Nam chờ ngày tôi về. Dạo đó, ngày về còn xa lắc xa lơ. Tôi còn bị chuyển trại mấy lần nữa, hết A30A, A30B, A30C Xuân Phước đến Z30A Xuân Lộc, trải qua đủ mọi giai đoạn của qui chế cải tạo tập trung, từ biệt giam, kiên giam, đến lao động cải tạo rồi lao động tự giác. Thế là, cứ ba tháng một lần, năm này qua năm khác, “cây khiêng và chiếc giỏ”, vợ tôi tiếp tục lặn lội đi nuôi chồng. Cháu tôi cảm thương cho người con gái học trò năm nào giờ đây mang kiếp thân cò, đã tặng thím bài thơ “Lối nào đi thăm anh”, tôi chép lại ở đây để thay lời kết:

Giòng đời cuồn cuộn chảy
Nắng mai đã dậy rồi
Lối nào đi thăm nuôi.
Xích lô. Cầu Công lý.
Còn thiết gì hoa mỹ,
Điệu buồn trên nét mi
Niềm vui tươi nụ cười.
Cây khiêng và chiếc giỏ
Trọn tình trao anh đó
Chắt chiu bàn tay em
Còn thức nào mang thêm?
Phố phường hờ hững quá,
Riêng em buồn chi lạ.
Hàng cây dài chia vui,
Thương cho ai ngậm ngùi.
Cầm thư anh, suy nghĩ.
Nhớ về thư ngỏ ý
Nét chữ hiền, thương nhau
Bâng khuâng nụ hôn đầu.
Em không nhìn thiên hạ,
Gặp anh là tất cả.
Như ngày xưa học trò
Bài thuộc vẫn còn lo.
Thăm nuôi giờ cũng thế
Ngại còn chi khó dễ
Cho tương biệt cơ cầu
Xa cách vợ chồng ngâu…
Bước qua lòng cổng nhỏ
Anh mang niềm thương nhớ.
Gặp anh, gặp anh rồi…
Lát nữa về chia phôi
Cô đơn mềm vai áo.
Nhớ anh, em thầm bảo
Nắng giữa trời lên cao
Tình ta vẫn ngọt ngào…

(Lối nào đi thăm anh. 9/82)

Ottawa, tháng sáu, 1996
Minh Vũ Hồ Văn Châm

Chú thích:
*Hai câu này của Nguyễn Trải.

From: Xuan Nguyen

Bản Án Tử Hình – Khôi An

 Bản Án Tử Hình – Khôi An

Friday, April 30, 2021

Lời Giới Thiệu của Khôi An:

Đây là một câu chuyện có thật, đã được nhân vật chính cho phép ghi lại và phổ biến.

Hiện nay, nhân vật chính đang sống ở Mỹ, bên cạnh các con cháu thành đạt và hết lòng thương yêu Cô.

Ngoài chuyện kể về con đường phấn đấu đem các con sang Mỹ của một người mẹ, câu chuyện còn ghi lại nhiều chi tiết trung thực trong bối cảnh xã hội miền Nam Việt Nam ngay sau tháng Tư, 1975, cũng như tấm lòng của người dân miền Nam đối với nhau trong gian đoạn vô cùng đen tối đó.

Nhân kỷ niệm 30 tháng Tư, 2021, người viết xin đăng câu chuyện này như một lời tưởng nhớ các cựu chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã chết trong tù ngục, và tôn vinh các người vợ suốt đời làm hậu phương sắt son, mạnh mẽ.

***

Mắt tôi mờ đi, tờ giấy nhòe ra.

Hàng chữ run lên, uốn éo như con rắn độc. Nó phóng tới, mổ vào giữa tim tôi.

“Xử phạt: Trần Văn Bé – Tử hình.”

Giọng nói run rẩy của tôi vang lên như âm thanh từ một cơn ác mộng, “Má nhận tin này hồi nào?”

Mẹ chồng tôi còn mếu máo thì cô em chồng nghẹn ngào đỡ lời, “Từ tháng Năm, nhưng Má chưa dám nói với chị…”

Mẹ chồng tôi chùi nước mắt, phân trần, “Má tính đi kiếm cho ra mộ chồng con rồi mới nói cho con biết. Bởi vậy, hổm rày con đòi đi kiếm chồng, Má biểu để Má kiếm cho. Má sợ con chịu không nổi khi đối mặt với tụi công an… Con ơi, bữa đưa tin tụi nó làm dữ lắm! Công an phường, công an quận, công an thành phố kéo lại cả bầy. Tụi nó đưa ra tờ giấy này ra, biểu Má ký nhận. Lúc đầu Má không chịu ký, vì Má nghĩ ký nghĩa là chấp nhận rằng thằng Hai đáng bị xử tử. Tụi nó hăm dọa Má, nhắc tới thằng Ba còn đang bị tù ngoài Bắc. Má sợ tụi nó đem thằng Ba ra bắn luôn nên phải cắn răng ký tên lãnh án tử hình của con mình. Má đứt từng khúc ruột, con ơi…” Mẹ chồng tôi nghẹn lời, bà khóc nức nở.

***

Thế là hết!

Anh Bé đi tù tháng 6 năm 1975, sau đó tôi chỉ nhận được ba lá thư của anh. Lá cuối cùng đề tháng 2, 1976, gởi từ trại Suối Máu, Biên Hòa. Sau đó, anh bặt tin.

Tôi chờ đợi mòn mỏi, lên xuống trạm công an cả chục lần, hỏi gì họ cũng trả lời không biết. Cuối cùng, tôi nhất quyết làm đơn khiếu nại.

Lúc đó, tôi và sáu đứa con – đứa lớn nhất mười một tuổi, đứa nhỏ nhất mới lên hai – đang nương náu trong một mảnh vườn hẻo lánh tại Mỹ Tho. Vì vậy, tôi dùng nhờ địa chỉ nhà Mẹ chồng ở Sài Gòn. Cả chục lá đơn gởi tới trại tù Suối Máu đều như biến vào khoảng không, chẳng còn một chút tăm hơi.

Trại tù không trả lời thì tôi hỏi cấp trên; tôi mày mò kiếm địa chỉ của hai “Tòa Án Nhân Dân” ở Sài Gòn và Hà Nội rồi gởi đơn tới cả hai nơi đó. Thời miền Nam vừa mất, cây củi cũng mắc, mua một con tem là thâm vào tiền mua gạo cho các con, nhưng tôi vẫn cắn răng bớt miệng con để gởi đi mấy chục lá đơn, từ tháng này qua tháng khác.

Cuối cùng, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng phải trả lời. Ngày 10 tháng Năm, 1977, họ gởi thư về nhà Mẹ chồng tôi. Để xác nhận rằng: họ đã giết chồng tôi.

Cô em chồng đưa tay đỡ vai tôi cho tôi khỏi gục xuống. Sáu đứa con sợ hãi chạy lại vây quanh, tôi chỉ nói được mấy tiếng “Ba chết rồi!” rồi khóc ngất. Lũ trẻ thấy vậy cũng khóc òa lên, thằng lớn nhất ôm lấy con em kế, bệu bạo nói “Vậy là Ba không về nữa!”

Sau vài ngày ở nhà Mẹ chồng, tôi lại phải gượng đứng lên, dắt đám con về căn chòi trống huơ, trống hoác, nóc dột, tường xiêu ở Mỹ Tho.

Mẹ chồng tôi sợ tôi chết thì bà sẽ không nuôi nổi bầy cháu, còn cha mẹ ruột thì lo tôi sẽ phát điên. Tuy vậy, Mẹ chồng tôi không đủ sức cưu mang bảy mẹ con tôi và cha mẹ tôi cũng chỉ dám ghé thăm vài ngày rồi đi về. Thời đó, mỗi tuần người dân đều phải đi họp tổ dân phố để công an điểm danh, ai đi đâu cũng phải xin phép, vì thế không người nào dám đi lâu, sợ công an kiếm cớ làm khó dễ.

Ngày mẹ chồng tôi làm lễ phát tang anh Bé ở Sài Gòn, tôi chỉ đủ tiền mua ba tấm vé xe cho thằng con trai lớn nhất, đứa con gái út, và tôi. Họ hàng phần vì không có tiền đi xa, phần vì sợ liên lụy với “tử tù” nên không ai dám tới.

Ngoài ba mẹ con tôi, đám tang chỉ có mẹ chồng và hai cô em ruột của anh. Sau ngày giao bản án tử hình, công an khu vực dòm ngó nhà chồng tôi như chồn cáo rình chuồng gà; vì thế, ngay cả trên bàn thờ của anh chúng tôi cũng không dám chưng bày nhiều.

Di ảnh của anh đứng sau dĩa trái cây lỏng chỏng, một bát nhang hiu hắt và hai cây đèn cầy leo lét. Trước bàn thờ, bốn người đàn bà đầu tóc rũ rượi quỳ bên hai đứa nhỏ xanh xao, ngơ ngác. Chỉ có tiếng nhà sư đọc kinh nho nhỏ, còn chúng tôi phải kềm tiếng khóc trong lồng ngực, nuốt ngược nỗi đau vào lòng. Anh Bé sống ở khu xóm đó từ nhỏ, ai cũng biết và thương mến anh, cho nên bà con lối xóm kéo đến rất đông, nhưng không ai dám bước vô nhà. Họ giả làm kẻ tò mò đứng trước cửa, nhưng suốt buổi lễ họ lén dùng tay áo quẹt nước mắt, và nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt đỏ hoe, ứa tràn thương xót.

Tôi quỳ ở đó, dật dờ nửa mê, nửa tỉnh.

Những hình ảnh cuối của anh trở về trong đầu tôi.

Chiều 30 tháng 4, 1975, anh lái xe Jeep đến nhà cha mẹ tôi ở thành phố Mỹ Tho, nơi tôi đem sáu đứa con thơ từ khu cư xá sĩ quan ở Bình Dương về nương nhờ trong cơn hỗn loạn.

Tóc anh rối bời, mặt anh bơ phờ, nhưng anh vẫn mặc quân phục trên người. Anh ôm hôn từng đứa con, rồi nói với Ba tôi, “Ba cho con gởi vợ con của con.”

Ba tôi đã nghẹn ngào hứa, “Con đừng lo, vợ con của con ở đây với Ba Má, rau cháo có nhau. Con đi đâu cũng vậy, khi con trở về đây, vợ con của con sẽ còn đầy đủ.”

Trước mặt Ba Má tôi, anh ngại ngùng không ôm tôi lần cuối. Anh chỉ xiết tay tôi, dặn dò tôi giữ gìn sức khỏe và cố lo cho các con. Tôi quá bàng hoàng, lo sợ nên chỉ biết nghẹn ngào nhắc anh hết sức giữ gìn tánh mạng. Anh lưu luyến thêm một lát rồi quay đi.

Tôi đứng chết lặng ở bậc cửa.

Anh leo lên xe, rồ máy. Xe chuyển bánh. Chạy đi. Xa dần. Rồi mất hút.

Tôi cảm thấy một phần thân thể mình vừa bị chặt lìa ra…

Sau này tôi mới biết anh đã lái xe về nhà mẹ ruột ở Sài gòn và trốn ở đây cho tới ngày đi trình diện “học tập cải tạo”.

Mới hai năm qua mà tôi đã mất anh, con tôi đã mất cha. Người ta giết anh vì tội “trốn trại cải tạo nhằm mục đích phản Cách Mạng.” Độc ác hơn nữa là họ không thông báo gì cho thân nhân. Mạng sống của anh, của những người tù, và nỗi đau của gia đình họ, đối với người cầm quyền không có ý nghĩa gì!

Mãi hơn một năm sau từ ngày bắn anh, có lẽ vì mấy chục tờ đơn tìm chồng của tôi, họ mới gởi Tờ Trích Lục Án Hình về nhà. Tờ giấy đánh máy một cách cẩu thả vào tháng 5, 1977 đã đề sai ngày của phiên toà xử tử anh là 10 tháng 4, 1977, trễ một năm.

Tôi ngước nhìn anh trong uất nghẹn. Anh cũng đang đau đáu nhìn tôi. Có phải mắt anh long lanh vì nỗi đau cắt ruột, hay chỉ là màn lệ chan hoà từ mắt tôi?

***

Sau khi về lại Mỹ Tho, tôi nằm bẹp trên võng, không khóc nhưng nước mắt nóng hổi tuôn ra như vắt hết sức sống của tôi.

Lòng tôi nặng trĩu niềm đau, nỗi hận. Trong đầu tôi vang vang những lời oán trách số phận, nguyền rủa bọn giết người. Chồng tôi cả đời thanh liêm, đi lính Việt Nam Cộng Hoà tới lon Thiếu Tá mà vẫn không mua được cho vợ con một căn nhà riêng, tại sao anh phải chết tức tưởi như vậy?

Làm vợ lính, tôi đã nhiều lần nghĩ đến việc chồng tử trận, nhưng thà anh hy sinh trong cuộc chiến để các con còn được hãnh diện, để tôi còn được an ủi.

Bây giờ chiến tranh chấm dứt rồi, chồng tôi đã phải mang thân tù tội, tại sao người ta còn giết anh? Tại sao họ đẩy mẹ con tôi thành “thân nhân của tử tội”, lớp người cô đơn, khốn cùng nhất trong cái xã hội đầy móng vuốt này?

Ngày tiếp ngày trôi qua trong cơn đau, mí mắt tôi sưng vù, rát bỏng, tiếng các con réo gọi nghe xa xôi như vọng lại từ một thế giới khác, tôi nghe nhưng không thể nào trả lời nổi. Tôi nằm đó, dật dờ giữa hai bờ sống, chết.

Một buổi trưa, không biết là bao lâu sau, tiếng khóc thảm thiết của hai đứa con nhỏ nhất kéo tôi ra khỏi cơn mê sảng. Tiếng than đói của hai đứa bé xoáy vào tim tôi, nhắc rằng tôi còn bổn phận với sáu đứa trẻ thơ.

Tôi ngồi bật lên, quơ tay tìm con và ôm xiết chúng vào lòng. Giữa ban ngày mà trước mắt tôi tối đen. Không! Con không thể mù, con không thể chết! Xin Trời giúp con! Xin cứu con để con của con được sống!

Nhờ Trời thương và chắc anh vẫn theo phù hộ nên tôi hết bệnh, dù không có thuốc men gì. Tôi lết ra vườn, mò mẫm trồng rau, trồng khoai nuôi con.

Năm tháng rơi lặng lẽ như những sợi tóc của tôi rụng tơi bời trong cơ cực. Tay chân tôi khẳng khiu, trầy trụa, bầm dập, nhưng những vết thương đó không thấm thía gì với cái đau ở trong lòng.

Ở miệt vườn hẻo lánh, sự kìm kẹp của chính quyền địa phương khủng khiếp gấp mấy lần ở những thành phố lớn; công an mà dòm ngó, trù dập ai thì người đó không ngóc đầu lên nổi. Trong đám dân quê mùa, chất phác, gia đình có thân nhân là sĩ quan “Ngụy” đang ở tù đã là một điều ghê gớm, nói gì tới chuyện là con cái của người tử tội.

Thời đó, nhà trường cứ vài tuần lại bắt học sinh khai lý lịch, vì thế mỗi niên học các cháu đem về mấy chục tờ lý lịch nhờ tôi viết. Lúc nào tôi cũng khai là “Cha mất tích”, và các con tôi được dạy đi dạy lại rằng không bao giờ hé môi với ai về cái chết của cha.

Vậy mà cũng có lần chúng tôi xém bị lộ!

Tết Trung Thu năm 1977, trường học phát quà cho con của gia đình liệt sĩ. Thằng bé thứ Năm nhà tôi mới vô lớp Một, không biết nghe ai giải thích “liệt sĩ” là những người đi lính đã chết, thế là nó tính chạy lên lãnh quà.

May mà cô giáo của nó quen với tôi, cô thấy nó nhớm đứng lên, vội đè vai bắt nó ngồi xuống. Hôm đó thằng nhỏ tủi thân và thèm quà, khóc tức tưởi cả buổi chiều. Tôi xót cho các con ngây thơ mà phải chịu quá nhiều thiệt thòi, dồn nén, phải sống trong hất hủi, phải thèm khát từ miếng ăn tới tình thương. Đêm đó, tôi khóc trắng.

***

1979

Nước ngập cao. Hút mắt chỉ thấy làn nước đục ngàu, lềnh bềnh rác rến. Những cây chuối chỉ còn lú lên chút ngọn run rẩy bên những cành mận trụi lủi, khẳng khiu đang vật vã trong gió.

Trời vẫn mưa! Mưa như xối nước.

Trên mấy bộ ván chồng lên nhau, tôi và sáu đứa nhỏ nằm, ngồi lủ khủ bên đống chăn mền, quần áo, bếp lò, chén dĩa – tất cả tài sản còn lại của bảy mẹ con. Cơn bão đã kéo dài gần một tháng, nước sông Tiền dâng ngập hết ruộng vườn, cuốn băng đi công sức mẹ con tôi vật lộn với mảnh đất này trong gần bốn năm trời kể từ tháng Tư, 1975.

Mưa càng lúc càng nặng hột. Gió xoáy mạnh, rít lên như oán trách, như thay tôi than tiếc cho công sức của mẹ con tôi đang trôi theo giòng nước.

***

Như lời đã hứa, sau tháng 4, 1975, Ba Má tôi hết lòng bao bọc mẹ con tôi. Nhưng vai gầy không thể chống được cả bầu trời đang đổ sụp, sức lực của hai cụ già không thể nào đỡ nổi trận hồng thủy của cuộc đổi đời.

Nhà cầm quyền Cộng Sản bắt cha mẹ tôi phải nạp hết ruộng cho Hợp Tác Xã rồi mỗi tháng chúng phát cho mấy ký gạo vừa đủ cho hai người già sống cầm hơi.

Bảy mẹ con tôi không có tên trong “hộ khẩu” nên trở thành những người “ngoài pháp luật”, sống lây lất bên lề xã hội. Mỗi ngày, Ba Má tôi thu mót hoa màu trong vườn, rồi đem bán để mua gạo chợ đen về nuôi cháu.

Sau mấy tháng tôi không thể chịu được cảnh cha mẹ khổ sở, lo lắng, chạy ăn từng bữa vì mình nữa. Tôi đành nuốt nước mắt đem các con về ở tại năm công đất vườn do ông nội của chồng tôi chia cho anh từ thời anh còn trẻ.

Ngày mẹ con tôi dắt díu nhau ra đi, tôi không dám quay đầu nhìn lại, sợ ba má tôi thêm nát lòng. Tôi cắm đầu bước, nước mắt ràn rụa. Tôi gọi tên anh, xin anh giúp sức cho người vợ mỏng manh, yếu ớt, chưa bao giờ biết cầm cái cuốc, cái cày…

Khu vườn thiếu người chăm sóc chỉ có thưa thớt vài cây mận, bà nội chồng thương nên cho thêm ba công ruộng ven để tôi kiếm gạo nuôi con.

Tôi nắm một đầu chiếc gầu giai, đầu bên kia thằng Hai và con Ba – đứa mười một tuổi, đứa tám tuổi mím môi giữ. Trời nắng như đổ lửa, mặt tôi ướt đẫm mồ hôi; phía bên kia, dưới vành nón lá rách nát, hai đứa con tôi mặt đỏ bừng như lên cơn sốt. Chúng tôi múc từng gàu nước từ con rạch cạn, tạt vào những cây lúa đèo đẹt đứng gục đầu trên mảnh ruộng nứt chân chim.

Mùa đầu tiên trời hạn, sau khi trả tiền mướn trâu, tiền công cấy, tiền phân bón, tiền thuốc trừ sâu, tiền đóng thuế cho nhà nước, chúng tôi không còn một hột lúa mà ăn, đành đi vay mượn chờ năm tới.

Mùa kế, tôi chỉ dám mượn tiền để trả công cày rồi cố gắng tự làm đủ thứ việc, hy vọng cuối mùa thu được chút gạo sống qua ngày. Tôi học cách nhổ cỏ, rải phân, cấy lúa. Ngày ngày tôi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Có lần tôi khiêng bình thuốc trừ sâu to hơn một vòng ôm đi xịt quanh ruộng. Bình thuốc lớn che khuất mặt, tôi không thể thấy thuốc xịt đều hay không nhưng vẫn nghiến răng tha cái bình đi xịt hết một vòng. Làm xong, tôi run run leo lên bờ ruộng thì bình thuốc đẩy tôi té ngược ra sau. Tôi nằm ngửa như con nhái bén ôm bình thuốc to tướng, hên là đất ruộng không quá cứng nên tôi không bị thương. Lần đó, đám con tôi phải xúm lại kéo cả bình và tôi lên bờ ruộng.

Không hiểu vì cày không sâu, cấy không khéo, phân không đủ, thuốc không đều, nước không đẫm, hay vì vận mạng của chúng tôi lúc đó đang tối tăm nên đất ruộng cũng không chịu hợp tác với mẹ con tôi. Tôi thất thu ba năm liên tiếp, nợ sau chồng lên nợ trước, cuối cùng tôi phải thế ruộng để trừ nợ, mẹ con rút về kiếm ăn trên mấy công vườn xơ xác.

Khai mương, đào đất, trồng cây, tưới bón, tất cả chỉ có tôi và hai đứa con lớn lăn lộn làm, còn mấy đứa nhỏ đành bỏ liều trong lều.

Có một lần tôi hái mận đem ra chợ bán, đường xa nên mãi tối mịt mới về. Về tới nhà, thấy thiếu thằng Năm, tôi hoảng hồn chạy ra vườn, nhảy xuống mương tìm. Con mương không sâu lắm, chỉ để lấy nước tưới cây, nhưng cũng làm tôi lo lắng từ ngày mới về đây. Nước dưới mương ngập tới gần bắp vế, tôi vừa gọi tên con vừa khom người mò. Đụng thấy một vật tròn cứng như đầu người, tôi hét lên rồi vật ra chết giấc. Cũng may là lưng tôi dựa vô bờ mương nên tôi không ngộp nước và có con bé Ba chạy theo, nó vừa khóc vừa kéo tôi lên. Và may hơn nữa là cái vật tròn tròn đó chỉ là một cái gáo dừa chìm dưới mương, còn thằng Năm vẫn trùm mền nằm ngủ sau đống quần áo trong lều. Chắc nó đói quá nên lả đi, không lên tiếng khi tôi gọi.

Trăm ngàn khổ cực vậy mới thu được vài mùa mận, mà bây giờ cơn lụt lại phá tan hoang mảnh vườn, nguồn sống duy nhất của chúng tôi…

***

Cuối cùng nước lụt cũng rút để lại khu vườn đầy rác rến với những luống khoai bị nước san bằng và những gốc cây trụi lá, gãy cành. Chỉ còn vài cây chuối non, tôi chặt về bào mỏng bóp với muối cho các con ăn qua bữa.

Đói thì đầu gối phải bò, tôi lại bỏ liều các con ở nhà, qua Bến Tre đi buôn. Xứ dừa Bến Tre bạt ngàn cây trái nên dân bên đó khá giả, có lò nấu đường, làm xà bông. Tôi mua hàng đem về Mỹ Tho bán để kiếm chút lời.

Thời 1979-1980, trạm thu thuế mọc lên ở khắp nơi, như bầy rệp đói hút máu dân nghèo. Công an rình ở khắp các ngả đường, khám xét càng ngày càng gắt gao. Tiền lời chỉ đủ để đóng thuế nên người đi buôn phải trốn, nếu thoát thì kiếm được chút đỉnh, không may bị bắt là bị tịch thu hết hàng, đứt vốn.

Một mình tôi kiếm không đủ tiền rau cháo nên tôi phải dắt hai đứa con trai theo. Tôi cưỡi một chiếc xe đạp, hai đứa chở nhau trên chiếc xe đạp khác, làm bộ như hai anh em chở nhau đi học nhưng trong cặp chúng nhét đầy đường và xà bông.

Thằng Hai còn biết xoay xở chút ít, còn thằng Tư ngây thơ, tính tình lại nhút nhát nên nó rất sợ. Mỗi khi qua trạm gác, mắt nó nhìn thẳng phía trước, làm bộ bình tĩnh, nhưng ngón chân nó bấm xuống dép, cổ nó căng lên như sợi dây đàn. Tôi ngó mà đau như bị đâm vào tim.

Chuyến phà Bến Tre – Mỹ Tho chiều hôm đó đông nghẹt. Mặt trời đã xế nhưng vẫn tỏa sức nóng hừng hực làm cho những gói đường quấn quanh bắp chân, quanh bụng tôi thêm trĩu nặng. Tôi ì ạch dắt xe, nón lá che xùm xụp xuống mặt nhưng vẫn liếc mắt ngó chừng hai đứa đi phía sau. Chỉ còn một khúc nữa là vô trạm gác, ba mẹ con càng tách xa nhau như người xa lạ để nếu có bị bắt thì không bị dính cả chùm.

Tôi thoát qua trạm gác, đứng lại, làm bộ gỡ nón quạt để ngó lại tìm con. Thằng Hai vừa dắt xe đi ra, thằng Tư đang tiến vào trạm…

Bỗng nhiên cái cặp ở tay thằng Tư rớt xuống, những gói đường và xà bông văng tung tóe. Mắt thằng nhỏ mở lớn, hãi hùng, miệng há ra nhưng không dám khóc lên thành tiếng. Một tên công an bước tới, nắm lấy cổ áo nó. Mắt tôi hoa lên, ngực tôi nhói đau, tôi ngồi xụp xuống để khỏi té vật ra. Phà đã tới, đám đông ùn ùn xô nhau tràn tới, tôi đội xụp nón lên đầu rồi đành bước chân đi.

Phà qua tới Mỹ Tho, thằng Hai mới dám chạy lại bên tôi, mếu máo, “Má ơi, thằng Tư bị bắt rồi!” Tôi ôm con, vuốt lên mái tóc cháy nắng khét lẹt rồi nói cứng, “Chắc họ không nhốt con nít đâu. Con đem đồ về nhà trước để tụi nhỏ khỏi trông, Má ở đây chờ em.”

Trời đã nhá nhem tối, tôi đang nghĩ cách quay lại kiếm con thì thằng Tư thất thểu bước ra khỏi phà. Lưng nó khom xuống, mặt nó thất thần. Vừa thấy tôi, nó phóng tới ôm riết rồi khóc nức nở, người nó run bần bật trong những cơn nấc nghẹn ngào. Nước mắt tôi cũng rớt như mưa. Tôi hận mình bất tài, hận số phận mình khốn khổ để tuổi thơ của các con quá bi thảm và tủi nhục. Tôi lại ngửa mặt gọi anh. Anh ơi, hãy giúp em cứu các con ra khỏi cảnh khổ hận này.

Từ bữa đó, tôi không dám bắt các con đi buôn lậu nữa. Tôi đi tới từng vườn trái cây mua rồi chở đi bỏ cho những bạn hàng ở Sài gòn. Mỗi ngày tôi dậy từ 3 giờ sáng, cột mấy giỏ trái cây lên xe đạp rồi chở ra bến, đón xe đem về Sài Gòn.

Tiền xe hai chuyến đi về mắc mỏ mà tôi thì sức yếu, vốn nhỏ nên lời rất ít. Thấy dân nghèo tứ xứ bày bán đủ mọi loại hàng trên lề đường trước cửa chợ, tôi quyết định không bán sỉ nữa mà bán lẻ để kiếm lời khá hơn.

Tôi trải đại một tấm ny lông xuống lề đường, bày một ít trái cây làm mẫu, phần còn lại để trong giỏ gởi mấy cửa tiệm ở mặt đường, có tiệm thương tình cho gởi, có tiệm bắt trả tiền. Tôi lê la từ chợ Cầu Ông Lãnh tới chợ Tân Bình, chợ An Đông, đôi khi gặp bạn bè cũ, tôi cúi gầm mặt dưới vành nón, không dám ngước lên.

“Ủy Ban Trật Tự Thành Phố” nói rằng bán hàng trên lề đường gây hỗn loạn nên ra lệnh cấm, nhưng người dân đói quá cứ làm liều.

Từ cụ già tám mươi tuổi đến đứa bé sáu, bảy tuổi, từ người lành lặn tới anh thương phế binh, người trải tấm nylon, kẻ đẩy cái xe tự đóng bằng ván mục, người bưng cái rổ, kẻ đội cái mâm, chúng tôi đứng ngồi la liệt trên khắp các ngả đường để kiếm sống.

Ngày nào bán được khá, ngoài mấy lít gạo tôi còn mua về cho con vài ổ bánh mì. Trời sụp tối tôi mới về đến nhà, nhìn chúng chia nhau nhai ngấu nghiến một cách hết sức thèm thuồng, tôi có thêm sức mạnh để tiếp tục lăn lộn trên vỉa hè.

Tuy nhiên, những ngày vui thường ít hơn những ngày buồn. Rất nhiều khi đang ngồi bán thì người ở đầu đường la, “Công an!” và mọi người vùng lên chạy. Những người bán mặt hàng gọn, nhẹ thì túm tấm trải lại, ôm vào người rồi biến vào trong những ngõ hẻm. Tôi quảy đống trái cây nặng hơn nên thường lẹt đẹt phía sau và bị công an hốt. Công an đem tôi về “Trụ Sở Ban Quản Lý Chợ”, bắt ký tên vào biên bản rồi tịch thu hết hàng.

Tôi nhớ tới lời Mẹ chồng tôi thường an ủi tôi rằng “trời sanh voi, sanh cỏ” mà muốn gào vào lên sao các người ác vậy, đã giết chồng tôi mà còn không chừa cho mẹ con tôi một cọng cỏ để ăn!

Những ngày bị mất hàng, tôi trở về nhà với hai tay không, thê thảm như người vừa bị cướp. Mấy mẹ con phải ra vườn mót những củ khoai đèo đẹt và hái rau dại về ăn. Ngồi nhìn đám con chia nhau dĩa rau luộc chấm nước muối, lòng tôi đau nhói. Mới ngày nào tôi là cô dâu hai mươi tuổi, ngây thơ, lãng mạn cùng chồng mơ về một căn nhà ấm cúng với đàn con ngoan ngoãn, cười giỡn rộn ràng. Bây giờ, đàn con tôi gầy ốm, buồn rầu còn tôi thì da đen xạm, tay chân chai sần, tóc tai xác xơ như lòng tôi tan nát.

Sau nhiều lần bị công an bắt, vốn liếng sắp cạn thì tôi may mắn gặp được quý nhân.

Chị là vợ của Trung Tá Kh. ở cùng Sư Đoàn 5 với chồng tôi, và hai gia đình đã ở gần nhau trong Cư Xá Sĩ Quan Ngô Quyền tại Bình Dương trước năm 1975. Không ngờ sau cuộc đổi đời, chị cũng dắt con về ở ngay bên cạnh xã tôi. Con út của chị học chung một lớp với con tôi, có lẽ cùng thuộc diện con “tù cải tạo” nên chúng thân và tâm sự với nhau. Kể qua kể lại, té ra là hàng xóm hồi xưa, con tôi vui mừng về báo cho tôi và tôi đã tìm thăm chị.

Hầu hết các con của chị Kh. đã lớn nên kiếm được việc làm lặt vặt để sống qua ngày. Thời đó, phong trào đan mây tre và làm nón để xuất khẩu ra nước ngoài lên mạnh, chị giới thiệu cho tôi lãnh nón về thêu ăn công. Đêm nào tôi và con gái lớn cũng ngồi thêu bên cây đèn mù mờ, nước mắt sống chảy ròng ròng vì dùng mắt quá độ, nhưng số tiền công rẻ mạt chỉ giúp chúng tôi kiếm thêm chút cháo. Chị Kh. có người thân ở Huế nên chị cũng làm đại lý cung cấp nón lá Huế cho các sạp bán lẻ, thấy vậy chị lại thương tình cho tôi lấy nón về bán, bán xong mới đưa lại tiền vốn cho chị.

Thời đó, chợ huyện Tân Hiệp họp từ một, hai giờ đêm để người ta kịp mua hàng đem lên Sài Gòn bán lúc sáng sớm. Khoảng mười một giờ đêm là tôi mò mẫm dắt xe đạp ra khỏi nhà, trên yên sau là gói hàng lặt vặt như tiêu, tỏi, xà bông, bột ngọt, phía trên là chồng nón. Chiếc xe đạp cũ nát run rẩy bò trên con đường đất gồ ghề, hai bên là ruộng, côn trùng ếch nhái kêu nỉ non, đom đóm bay lập lòe như mắt quỉ.

Hồi còn con gái, tôi rất sợ ma, nhưng lúc đó tôi chỉ còn sợ… người. Trời tối đen, chỉ nhìn thấy một khúc đường ngắn lờ mờ trước mặt, tôi vừa đạp xe vừa cầu xin anh phù hộ cho tôi không bị cướp.

Ra tới chợ, có những đêm vừa bày hàng xong thì trời đổ mưa, tôi lấy hết nylon che cho hàng hóa rồi ngồi chịu trận trong cái áo mưa đầy lỗ lủng, nghe từng giọt nước lạnh như kim chích trên lưng, nghe gió quất từng cơn trên gương mặt ướt đẫm nước mưa hòa nước mắt.

Sau những đêm ế ẩm, sáng ra tôi phải đạp xe tới từng nhà quanh chợ, mời người ta mua nón dùm. Các bà không ai biết chuyện chồng tôi bị xử tử, nhưng họ biết tôi là vợ tù nên rất thương tôi. Họ cũng chẳng dư dả gì nhưng người mua dùm cái nón, người cho củ khoai, ly nước, người dúi cho tôi chút trái cây để đem về cho các con.

Những ngày tôi bán ế, không đủ tiền trả vốn số nón đã lấy của chị Kh., chị chỉ mắng yêu, “Thôi, không đủ tiền thì thím để bữa sau bán tiếp rồi trả, chớ không lẽ bây giờ tui bắt xác thím được ha…”

***

Bữa đói bữa no, bịnh không có thuốc nhưng nhờ Trời thương, đám con tôi vẫn lớn như cây dại mọc ở bờ rào.

Các cháu biết thân phận mình nên rất ngoan và chăm học. Ngoài giờ học, chúng đi câu, đi chạ, đi lưới để kiếm thêm thức ăn. Tuy vậy, chúng càng lớn thì tiền học, tiền sách vở càng tốn kém, rất nhiều lần các cháu bị thầy cô rầy la vì xài chung chỉ một cuốn vở cho mọi môn học, nhưng các cháu không hề than van.

Những ngày tôi đi buôn bán về trễ, lòng tôi ấm lại trước cảnh các con quây quanh ngọn đèn dầu leo lét, mấy đứa nhỏ tập đọc ồn ào, nhưng mấy đứa lớn vẫn ráng chăm chú giải toán, học bài.

Dù không có tiền đi học thêm, dù sự giảng dạy ở vùng quê trồi xụt bất thường, ba đứa con lớn của tôi đã đạt được điểm cao trong kỳ thi tốt nghiệp trung học. Tuy vậy, các cháu nhưng chỉ được trúng tuyển vào những trường dạy nghề như Trung Học Lâm Nghiệp ở Sông Bé, Trung Học Sư Phạm ở Tiền Giang, và Trung Học Xây Dựng ở Vĩnh Long. Dù sao, đây là một điều rất quan trọng cho cuộc đời của hai cháu trai bởi vì nếu không được đi học tiếp, các cháu sẽ phải đi “nghĩa vụ quân sự”, bị gởi đi đánh nhau ở vùng biên giới Tàu hay Campuchia.

Tôi đã thề cùng vong linh của anh rằng tôi sẽ làm mọi cách để các con chúng tôi không bị đi bộ đội. Chỉ tưởng tượng các cháu phải mặc cùng bộ quân phục, đứng cùng hàng ngũ, và đem thân đi chết vì chính kiến của những người đã giết cha các cháu, tôi rùng mình. Nếu bị kêu đi “nghĩa vụ”, các cháu chỉ còn nước bỏ làng xóm đi sống lang thang, dật dờ như rất nhiều thanh niên thời đó.

Dù trúng tuyển vào trường, nhưng sau khi tốt nghiệp, cả ba cháu không có tiền chạy chọt, không quen biết ai, nên bị gởi đi làm việc ở những nơi xa xôi, hẻo lánh. Các cháu chán nản quay về nhà, làm ăn lặt vặt qua ngày. Cuộc sống tuy đỡ đói khổ hơn thời các cháu còn nhỏ, nhưng đầy bế tắc, không có tương lai.

***

Từ đầu thập niên 1980 đã có lác đác sĩ quan đi tù được thả về. Mỗi lần nghe tin người quen được về với vợ con, tôi mừng cho họ nhưng nghe lòng càng thêm cô đơn, cay đắng.

Chồng tôi sẽ không bao giờ trở về, mà thân xác anh cũng vẫn còn lạc lõng ở tận phương nào. Mẹ chồng tôi đã già yếu, không còn tiếp tục đi tìm mộ anh được nữa, còn tôi thì lăn lộn kiếm gạo cho bầy con nên không thể hết lòng tìm kiếm. Vì thế, ngoài nỗi khổ đói nghèo, nỗi hận mất chồng, nỗi sợ hãi xã hội nhiễu nhương, và nỗi buồn đơn chiếc, tôi còn mang cảm giác nặng trĩu tội lỗi của người vợ vô tình.

Tôi không thể ngờ rằng năm 1984, tám năm sau khi anh mất, anh đã tìm về với mẹ con tôi.

Hôm đó, tôi đang lúi húi ngoài vườn thì chị Hai tôi bước vô cổng. Vừa tháo nón lá quạt lia lịa, chị vừa kêu, “Dì Ba! Dì Ba ơi! Có tin dượng Ba!”

Tôi quăng cuốc chạy ra, chị chụp tay tôi, hổn hển vừa thở vừa nói, “Mèn ơi, thiệt không ngờ! Em nhớ cô giáo H. dạy trong trường chị chớ? Chị với cổ thân nhau, lúc người này có chuyện thì người kia dạy dùm. Mới cách đây mấy bữa, chị coi lớp dùm cổ để cổ đi hốt cốt người em trai tên Thịnh, chết trong tù cải tạo. Cổ đi về kể chuyện cho chị nghe, cuối cùng cổ nói thêm ‘Kế sát bên mộ em tui có ngôi mộ của một ông chết cùng ngày. Tội nghiệp, chắc gia đình ổng đi vượt biên hết nên không ai chăm sóc, cỏ mọc tùm lum!’ Trước giờ chị ít để ý chuyện của ai, nhưng bữa đó như có gì xui khiến nên chị hỏi tới, ‘Vậy chứ bà có nhớ tên người đó không?’ Cổ nói ‘Tên là Trần Văn Bé, sinh ở Long An.’

Giữa trưa nắng mà tôi sống lưng tôi lạnh toát.

Tôi đã nghe các bạn tù của anh kể lại rằng sau khi bọn cai tù bắt được anh và đem trở về trại Suối Máu, bọn chúng còn chuyển về một người đã vượt trại ở Hóc Môn tên là Thịnh. Cả hai bị nhốt vào connex và bị bắn trong cùng một ngày, chồng tôi vào buổi sáng, anh kia vào buổi chiều.

Như vậy là những người bạn tù đã chôn hai anh kế bên nhau, và đã thương xót lập bia để chỉ đường cho thân nhân các anh mai sau đi kiếm. Trong gần bốn triệu người dân Sài gòn, cơ may hiếm có hay hồn thiêng của hai anh đã đem chị tôi và chị của anh Thịnh đến với nhau, để cho họ thân thiết và tin cậy nói cho nhau nghe những nỗi đau sâu kín của gia đình những người lính Cộng Hòa gãy súng.

Có lẽ hồn thiêng của chồng tôi níu chân chị H. nên chị đã để ý tới nấm mộ hoang khuất trong cỏ rậm, và đọc được cả những chi tiết viết bằng tay mờ nhạt trên miếng gỗ đã tám năm trời phơi mưa nắng.

Mẹ chồng tôi lập tức lo việc xin giấy phép đi đường, giấy phép cải táng và kiếm nhà quàn lo dịch vụ. Ngày đi bốc mộ, tôi và Mẹ ruột tôi từ Mỹ Tho về Sài Gòn cùng đi với Mẹ chồng, cậu ruột của chồng, và một cô em chồng.

Nhờ chị của anh Thịnh đã chỉ đường rất kỹ nên chúng tôi tới mộ khi mặt trời chưa đứng bóng. Cỏ dại đã được phạt đi nên chúng tôi thấy ngay ngôi mộ có tấm bia bạc phếch đứng chơ vơ trong nắng. Có lẽ đây là khúc cây tốt nhất mà các bạn tù của anh đã lựa, có lẽ họ đã khắc tên anh bằng cả tấm lòng, có lẽ vì mộ nằm ở khu đất cao và khô ráo, và có lẽ hồn anh còn quanh quẩn nên tấm bia vẫn còn đứng vững và những giòng chữ vẫn chưa phai sau tám năm hoang lạnh.

Người ta bắt đầu đào, tiếng bình bịch của cuốc bằm xuống đất dội bưng bưng vào óc tôi làm tôi choáng váng, phải ra ngồi dựa vào một gốc cây. Nấm mộ không sâu nên chỉ một lát là chạm đến cái hòm thô sơ, bể tan sau vài nhát cuốc.

Tôi vẫn ngồi dưới gốc cây, hai mắt mở trừng trừng. Tôi thấy như hồn tôi tách khỏi thân xác, bay là là trên cao nhìn mọi người đang khóc và tôi đang ngồi sững sờ như hóa đá. Từng khúc xương được bốc lên, mẹ chồng tôi nhìn bộ răng và nói rằng đúng là anh với hàm răng thiếu một chiếc ở góc trong. Khi mẹ kêu tôi tới nhận diện chồng, tôi mới lảo đảo đi tới gần mộ. Bên cạnh cái hộp sọ đã bể, tôi thấy chiếc áo sơ mi sọc do chính tôi sắm cho anh ngày xưa nằm cạnh sợi dây nịt của lính. Có lẽ anh em bạn tù đã thu nhặt túi đồ của anh và chôn theo anh. Tới lúc đó nước mắt tôi mới có thể trào ra. Cuối cùng thì em cũng đã tìm được anh rồi!

Sau khi thiêu cốt, Mẹ chồng tôi đề nghị đem gởi vào chùa ở Phú Lâm. Tôi đồng ý vì ở Sài Gòn dù sao cũng an toàn hơn là ở Mỹ Tho trong ngôi nhà xiêu vẹo, chông chênh của mẹ con tôi.

***

“Mẹ có nhà không con?”

Đang loay hoay đếm nón để khuya đem đi bán, tôi chạy vội ra cửa vì giọng nói đầy vẻ háo hức của cô bạn thân, học chung từ nhỏ.

Vừa thấy tôi, H. níu tay kéo ngồi xuống bậc cửa, móc trong túi áo ra một tờ báo được xếp gọn. Với vẻ mặt hết sức trang trọng, H. giở báo, chỉ vào một bản tin nhỏ với tựa đề : Thông Cáo Về Việc Làm Hồ Sơ Xuất Cảnh Cho Những Người Từng Đi Học Tập Cải Tạo.

Hai chúng tôi chúi đầu vào đọc. “Những người từng đi học tập cải tạo trên ba năm sẽ được làm hồ sơ đi Mỹ, ngay cả vợ con của những người đã chết trong trại cũng được đi.”

Run run, tôi hỏi H. “Bà nghĩ tin này thiệt không?”

“Thiệt mà! Ở trên Sài Gòn người ta xác định rồi, mấy người bạn ông xã tui đang làm đơn rần rần kìa!”

Thế là chiều hôm đó tôi mở cái hộp sắt, lấy ra tờ Trích Lục Án Hình vừa coi lai vừa van vái chồng tôi.

Năm đó là 1988, như vậy chồng tôi bị giết đã mười hai năm. Nước mắt rơi lã chã, tôi lại kêu anh. Anh ơi! Anh giúp em cứu các con ra khỏi nơi này.

Mẹ chồng tôi nghe tôi kể chuyện làm đơn xin đi Mỹ, bà chép miệng, “Làm đơn thì phải khai ra cái chuyện chồng con bị tử hình. Tụi công an xã mà biết thì giống như khui ổ rắn. Má sợ các con mà đi không được, sau này sẽ khổ hơn…”

Tuy nhiên lòng tôi đã quyết, đây là cơ hội duy nhất để cứu con tôi, điều mà tôi ước mơ từ mười mấy năm nay. Với sự giúp đỡ của vợ chồng bạn, tôi xin mẫu đơn, điền chi tiết, đính kèm bản sao của bản án tử hình rồi đem nộp ở Ty Ngoại Vụ Tỉnh Tiền Giang. Gia đình H. và chúng tôi đều được xếp vào danh sách H.O. 7.

Nhưng chỉ mấy tuần sau tôi nhận được thư từ Sở Ngoại Vụ ở Sài Gòn từ chối đơn của tôi với lý do: chồng tôi bị tử hình năm 1976, do đó anh không hội đủ điều kiện bị tù ba năm. Tôi nghiến răng rủa bọn Cộng ngu xuẩn, chồng tôi bị tử hình nghĩa là đi tù không bao giờ về, cớ gì mà không đủ điều kiện ba năm. Tôi viết thư khiếu nại nhưng Sở Ngoại Vụ từ chối, họ nói bắt buộc phải có ba năm ở tù. Đối với họ chết là hết, là không còn giá trị gì nữa.

Lúc đó, gia đình của những người sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà đã hồi sinh như ruộng hạn gặp mưa rào. Họ tụm năm, tụm ba, thì thào về chuyện làm đơn, chuyện nhận được giấy tờ chấp thuận cho đi. Họ len lén mua sắm, chuẩn bị cho ngày lên đường. Mọi người chạy qua chạy lại, bàn bạc, chia sẻ với nhau những tin tức góp nhặt được về đời sống bên Mỹ, về ước mơ tương lai. Lác đác tiếng cười đã trở lại trong những căn nhà lụp xụp, buồn hiu.

Tôi đứng bên ngoài hạnh phúc đó, nhìn cảnh tượng đó bằng cảm giác của đứa con nít bị bỏ rơi. Các bạn của tôi cứ nghĩ là tôi không có hy vọng, nên họ tránh bàn chuyện đi Mỹ trước mặt tôi. Có nhiều khi họ đang nói mà thấy tôi đến là im bặt. Tôi ráng cười nói cho họ yên tâm dù lòng đau như cắt.

Giữa năm 1991, H. lên đường đi Mỹ theo diện H.O. 7.

Đêm trước khi đi, hai đứa nói chuyện thật lâu. H. hứa sau khi sang Mỹ sẽ hết lòng giúp mẹ con tôi. Tôi bỏ bản sao của tờ đơn xin đi diện H.O., bản sao của tờ Trích Lục Án Hình, và lá đơn khiếu nại của tôi vào một cái phong bì lớn. Tôi thêm vào đó bản sao của tấm hình thờ của anh, mong có phép lạ để một trong những người Mỹ từng làm việc với anh ở Phòng Nhì tiểu khu Định Tường, Mỹ Tho ngày trước nhận ra anh mà cứu mẹ con tôi. Tôi van vái, “Anh ơi! Anh phù hộ cho H. đưa được đơn đến tay người tốt, cho họ mở lòng thương mà cứu vớt gia đình mình.”

Ngày chia tay, tôi hết gượng nổi, tôi khóc như mưa.

  1. lên xe, đem theo hy vọng của chúng tôi. Xe chuyển bánh rồi từ từ xa dần.

Tôi đứng dưới ánh nắng gay gắt, nước mắt chứa chan, nhìn dõi theo chiếc xe mờ dần trong bụi khói rồi biến mất sau khúc quẹo.

***

  1. đi rồi, tôi hồi hộp chờ đợi từng ngày.

Nhiều gia đình cựu sĩ quan ở trong vùng đã ra đi làm tôi càng thấy bơ vơ, khó kiếm người tâm sự. Khó hơn nữa là khi nghe tôi nói rằng tôi muốn khiếu nại với người Mỹ, hầu hết bạn bè đều chớp mắt ái ngại, rồi làm thinh.

Tôi hiểu rằng họ nghĩ người Mỹ sẽ không quan tâm đến một gia đình ở cách nửa vòng trái đất mà mối liên hệ với Mỹ đã bị tử hình từ mười sáu năm trước. Vài người bi quan còn không dám tin là H. sẽ giữ lời hứa với tôi. Họ lắc đầu nói, “Trước khi đi ai cũng hứa hẹn nhưng qua đó nhiều thứ phải lo quá nên người ta quên hết…”

Nhưng H. đã không quên mẹ con tôi.

  1. có người anh chồng từng học Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một sĩ quan VNCH. Năm 1975, anh giữ chức trưởng phòng kinh tế của Quân đoàn 4, anh cũng bị đi tù nhiều năm, sau đó anh vượt biển và định cư ở Mỹ.

Lá thư đầu tiên H. gởi về kể rằng anh ấy đã dịch lá đơn cùng với lá thư khiếu nại của tôi ra tiếng Anh rồi gởi cho cơ quan di trú Mỹ.

Từ đó, sáng nào tôi cũng thắp nhang trên bàn thờ chồng rồi ngóng chờ thư. Khoảng hai tháng sau, thư của H. đến.

Tôi dụi mắt, coi đi coi lại giòng chữ viết tay của H. để biết chắc là mình không lầm. “Văn phòng ODP bên đây chấp thuận hồ sơ của gia đình bà rồi! Họ sẽ liên lạc với Việt Nam để hoàn tất thủ tục.”

Hai tuần trôi qua với lo lắng, chờ đợi. Rồi tôi nhận được một lá thư của Sở Ngoại Vụ tại Sài Gòn yêu cầu tôi bổ sung giấy tờ về cái chết của chồng tôi.

Tôi đọc lá thư mà điếng hồn.

Như vậy là tờ Trích Lục Án Hình mà tôi đã nộp là không đủ. Chồng tôi bị xử theo luật rừng vào năm 1976, trong một phiên toà rừng tại trại tù, biết có biên bản hay không? Nếu có, biết họ có còn giữ lại sau mười sáu năm hay không?

Tôi lại mở cái hộp sắt và lấy tờ Trích Lục Án Hình ra soi xét. Góc trái của tờ giấy có hàng chữ “Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7”. Tôi sẽ đi tìm từ đầu mối đó.

Ngày đó, ở Mỹ Tho điện nước còn không có đủ, nói gì tới máy tính hoặc mạng internet. Thêm nữa, những hồ sơ về tù chính trị không bao giờ lộ ra ngoài nên tôi thông thể tra cứu, tìm kiếm được ở bất cứ nơi nào.

Cách duy nhất là tới thẳng Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7 mà tôi không biết ở đâu. Tôi phải nhờ chị ruột và anh rể tôi đang ở Sài Gòn đi hỏi thăm dùm.

***

Một buổi trưa nắng gắt, có một người đi bộ từng bước xiêu vẹo trên con đường trơ trụi từ bến xe vô nhà tôi. Đó là chị Hai tôi!

Vừa tới nhà tôi, chị lột cái nón quạt lia lịa rồi vừa thở vừa nói, “Tìm thấy địa chỉ của Tòa Án Quân Khu 7 rồi! Đâu dè nó ở ngay tại Sài Gòn! Bây giờ, cái khó là em có dám vô đó hỏi họ về bản án không?”

Hai bàn tay tôi bỗng ướt nhẹp mồ hôi. Mười sáu năm qua tôi đã viết hàng trăm tờ lý lịch khai là chồng tôi mất tích, bây giờ tôi phải đối mặt với công an để nói rằng anh đã chết và tôi muốn kiếm bản án tử hình. Họ có túm đầu cả gia đình tôi về tội khai gian không?

Nhưng giấc mơ đi Mỹ của cả gia đình đã gần kề, cánh tay cứu vớt của người Mỹ đã đưa ra rất gần rồi, tôi nhất định phải nắm lấy. Tôi phải vượt qua mọi gian nan vì tương lai của các con.

Tôi gom góp cây trái trong vườn đem bán, kiếm đủ tiền mua cái vé xe lên Sài Gòn rồi ghé ở nhờ nhà anh chị. Chị tôi trao cho tôi tấm giấy ghi rõ địa chỉ nơi tôi cần đến, cho tôi mượn bồ đồ tươm tất nhất để mặc, nhưng chị cũng lo ăn từng bữa nên chỉ giúp tôi được tới đó.

Tôi cầu cứu cậu em út lúc đó mới tốt nghiệp Sư Phạm, có vợ vừa sinh con nhỏ. Hai vợ chồng vét tất cả gia tài phòng thân đưa cho tôi mượn hai trăm ngàn, lúc đó mua được gần một chỉ vàng.

Buổi sáng ngày tốt mà tôi đã chọn, cậu em chở tôi bằng xe Honda tới trước Tòa Án Quân Khu 7. Trời còn sớm, con đường còn vắng vẻ, cậu Sáu ngừng xe rồi quay lại nhìn tôi, lặng lẽ. Ánh mắt cậu nửa như khuyến khích, nửa như lo lắng, thương cảm khiến tôi mủi lòng muốn khóc. Nhưng tôi gom hết can đảm, lấy giọng bình tĩnh, “Sáu đậu ngay đây, rồ máy sẵn nghe. Có chuyện gì chị phóng lên xe, mình chạy liền nghe.” Cậu em gật đầu, “Em biết rồi, chị cứ vô đi. Ráng cẩn thận!” Tôi xuống xe, thò tay soát lại cuộn tiền dấu trong túi nhỏ ở lưng quần, rồi mím môi bước tới.

Khúc sân xi măng dẫn tới căn nhà nhỏ có tấm bảng đề “Trạm Tiếp Dân” chỉ có mấy thước ngang mà tôi thấy quá dài. Chân tôi ríu lại, tim tôi đập dồn dập, tôi không ngừng van vái, “Anh ơi, phù hộ cho em!”

Tôi là người khách đầu tiên trong ngày, cả căn phòng còn trống không, chỉ có một người công an còn rất trẻ ngồi ở cái bàn nhỏ ngay gần cửa vào. Thấy tôi, hắn hất hàm, “Cần gì?”

Tôi đưa bản sao tờ Trích Lục Án Hình ra rồi lấy giọng nhỏ nhẹ nhất, “Chào chú, tôi muốn xin bản sao của toàn bộ bản án này.”

“Xin để bổ túc giấy tờ đi H.O, phải không?”

“Dạ… Dạ phải. Chú làm ơn giúp dùm!”

Tên công an săm soi ngày tháng trên tờ giấy rồi nói, “Vụ này từ năm 1976, giấy tờ đem ra Hà Nội hết rồi.”

Tôi liếc nhìn quanh, rồi rút nhanh cuộn giấy bạc nhét vào tay hắn và nài nỉ, “Chú làm ơn hỏi dùm tôi…”

Tên công an đút lẹ tiền vào túi, suy nghĩ một chút rồi nói, “Được rồi, để tôi cố tìm. Hai tuần sau chị trở lại.”

Tôi vừa cám ơn hắn vừa lùi ra cửa.

Mười bốn đêm tôi trằn trọc vì lo lắng. Lỡ mà tên công an đó trốn luôn, lỡ mà bản án không còn, lỡ mà công an đòi thêm tiền… Hàng chục cái “lỡ” hiện ra trong đầu làm cho tóc tôi thêm bạc, mặt tôi thêm hốc hác.

Đúng hai tuần, tôi trở lại ngay lúc Toà Án vừa mở cửa. Tim tôi nhảy bình bịch khi thấy tên công an trẻ hôm trước, hắn lôi ra trong ngăn kéo ra một phong bì, đưa cho tôi với một nụ cười thoáng trong ánh mắt nhưng chỉ nói cụt ngủn, “Đây.”

Tôi chụp lấy, miệng líu ríu cám ơn hắn, chân vọt nhanh ra cửa. Mới thấy mặt cậu em, tôi run run lôi ra ba tờ giấy từ trong bao thư ra và nói líu lưỡi, “Có rồi, có rồi, Sáu ơi!”

Tờ đầu là lý lịch của chồng tôi, tờ thứ hai ghi lại diễn tiến trốn trại của anh, và tờ cuối kết thúc bằng giòng chữ:

Xử phạt: TRẦN VĂN BÉ Tử Hình

Nước mắt tôi lúc đó mới tuôn ra và lòng tôi lại đau như cắt trước cái trớ trêu của đời tôi: bản án tử hình với những lời chửi chồng tôi là “ác ôn, phản động” cũng là tờ giấy để cứu mẹ con tôi.

***

Tôi sao lại bản án để gởi lên Sở Ngoại Vụ, còn bản chính tôi cất vào chiếc hộp sắt chung với tờ giấy Trích Lục Án Hình tôi đã nhận năm xưa.

Những đêm mất ngủ tôi lại lấy bản án ra đọc, và tôi đã thuộc từng câu trong đoạn diễn tả những điều xảy ra khi anh vượt trại.

“… Hồi 11 giờ 30 ngày 5 tháng 3, 1976, Bé đã chui rào trốn ra tới Quốc Lộ 1 và thuê xe lam chạy đến khu vực ấp Bắc Hải. Đến đây nghe thấy tiếng súng nổ ở phía sau, Bé liền xuống xe chạy vào nghĩa địa lẩn trốn. Lúc 18 giờ ngày 5 tháng 3, 1976 Bé chạy tới xã Tân Hiệp – Biên Hòa trà trộn trong nhân dân… Đã có sự bố trí từ trước, nhân dân và chính quyền địa phương đã bắt Bé.”

Như vậy là anh đã lẩn trốn hơn sáu tiếng đồng hồ, từ trưa tới chiều ngày 5 tháng 3, 1976. Lòng tôi đau như cắt khi nghĩ đến lúc anh bơ vơ ở Biên Hòa, vùng đất miền Nam quê hương, nơi rất thân quen nhưng lúc đó đã trở thành xa lạ, đầy cạm bẫy trong móng vuốt kẻ thù.

Trời ơi! Chúng đã bao vây anh ở Tân Hiệp ra sao? Anh có hoảng hốt, tuyệt vọng không? Anh có bị đánh đập nhiều không? Rồi trong hơn một tháng từ ngày 5 tháng 3 cho tới 10 tháng 4, 1976, anh đã bị hành hạ tới mức nào? Những ngày nóng như lửa nằm trong connex, anh đã đau đớn, đói khát tới bao nhiêu? Những đêm dài khủng khiếp anh đã nghĩ gì? Anh có nhớ vợ con nhiều không? Anh có lời gì muốn nói với với chúng tôi không?

Óc tôi bưng bưng với hàng trăm câu hỏi, ruột tôi đau như xát muối khi nghĩ tới những khổ hình anh phải chịu lúc cuối đời. Trong đêm lặng lẽ, nước mắt tôi tuôn ra, chảy ngược xuống ván, ướt đẫm hai bên tóc mai. Và tôi thường thiếp đi với bản án tử hình úp trên ngực…

***

Sau khi tôi nộp bản án tử hình lên Sở Ngoại Vụ, hồ sơ được Mỹ chấp thuận nhanh chóng và gia đình tôi được vào danh sách H.O. 14.

Nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản đâu có để chúng tôi ra đi một cách dễ dàng! Ngày tôi đi lãnh hộ chiếu, một nhân viên Sở Ngoại Vụ cau có nói, “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đã bỏ tiền ra đào tạo nuôi dạy các con của chị, nay các con chị lại ra đi, không phục vụ cho Đảng và nhà nước. Chị phải đền lại tất cả số tiền mà nhà nước đã bỏ ra. Chị đi về đi, khi nào trả tiền xong cho nhà trường, cầm biên lai lên đây thì sẽ được lãnh hộ chiếu.”

Tôi lại ra về với nỗi lo thắt thẻo ruột gan.

Trong tay tôi không có tới vài chục ngàn mà họ đòi bồi thường tiền triệu! Chạy xuôi chạy ngược hết mọi nơi, suy nghĩ nát đầu óc, cuối cùng tôi lại phải về cầu cứu mẹ ruột của tôi. Bà suy nghĩ trắng một đêm rồi quyết định cắt một phần đất vườn nhà đưa cho tôi, coi như chia gia tài, mặc dù mẹ tôi còn sống.

Tôi rớt nước mắt vì thương mẹ và tủi thân mình. Từ nhỏ cha mẹ nuôi tôi ăn học, lớn lên làm cô giáo lương bổng ít oi, lấy chồng quân nhân, “tiền lính, tính liền” nên tôi chưa bao giờ có cơ hội báo hiếu cha mẹ.

Rồi cuộc đổi đời làm tôi góa bụa, một nách sáu con thơ, sống được tới giờ cũng nhờ cha mẹ nhịn ăn mà bao bọc. Nay ba tôi đã khuất, các con tôi đã lớn, vậy mà lúc ngặt nghèo cũng lại là mẹ già phải hy sinh.

Tôi vừa khóc vừa rao bán phần đất mẹ cho. Người ta biết tôi cần tiền nên ép giá, chỉ trả hơn một cây vàng. Tôi đem đền trường học gần hết, phần còn lại không đủ để đi xe lên xuống Sài Gòn phỏng vấn và khám sức khỏe nên tôi lại phải mượn em trai tôi.

Rồi cái ngày mong đợi cũng tới. Ngày 20 tháng Mười Một, 1992, chúng tôi ra phi trường với một cái va li duy nhất chứa hành lý của cả gia đình sáu người. Mỗi đứa con tôi chỉ có một bộ quần áo trên người và một bộ đem theo, chỉ có tôi là được sắm một cái áo lạnh còn lại thì đành tới đâu hay tới đó.

Tôi ôm trên tay tài sản quý nhất, đó là cái bao thư lớn đựng di ảnh của chồng tôi, một vài tấm hình thời chúng tôi yêu nhau, và bản án tử hình.

Máy bay cất cánh, tôi nhìn qua cửa sổ thấy Sài Gòn thu nhỏ dần mà nghẹn ngào. Cuối cùng, các con tôi đã thoát ra khỏi cái ngục tù bao la của nhà cầm quyền Việt Nam. Lần đầu tiên từ sau tháng Tư, 1975, tôi cảm thấy bình an.

Anh ơi, em đã lo được cho các con như lời anh dặn dò lần cuối. Cái chết đau đớn của anh và nước mắt, mồ hôi của em đã mở đường cho các con đi đến một tương lai tươi sáng. Anh đang mỉm cười, phải không anh?

Khôi An

https://vvnm.vietbao.com/a247562/ban-an-tu-hinh

 
No photo description available.

Cô Gái Cùng Chuyến Xe – TRUYỆN NGẮN – LÊ PHI Ô…

TRUYỆN NGẮN – LÊ PHI Ô….

Cô Gái Cùng Chuyến Xe

– Thưa Bác…ghế nầy có ai ngồi chưa ạ !

– Chưa cô….ghế còn trống.

Tôi vội lấy cái túi đeo lưng (Backpack) về phía mình trả ghế trống cho người vừa hỏi. Cô gái…thiếu phụ thì đúng hơn, tuổi khoảng chừng ngoài 30. Nàng ngồi xuống cạnh tôi, hương thơm của mùi nước hoa thoảng nhẹ trong không khí ban mai thật dễ chịu. Đã lâu, hình như lâu lắm mùi nước hoa quen thuộc nầy…nhất thời tôi chưa nhớ ra là tôi được thưởng thức hương thơm nầy từ…đâu.

Tôi kín đáo nhìn ngang để xem người vừa ngồi có quen biết gì không. Ngoại hình và mái tóc có nét gì đó quen thuộc nhưng gương mặt thì không thể nào nhìn được vì nàng mang một cặp kính mát lớn che cả nửa phần trên của gương mặt nhưng…hình như cũng có một nét gì đó quen quen.

Xe đến Gilroy thì rẻ vào xa lộ 252 west, nắng chói thẳng vào mặt, tôi lấy kính mát đeo vào và cũng có dụng ý là khi tôi quan sát cô gái ngồi kế bên sẽ không bị nàng phát giác. Cùng lúc đó nàng lấy kính xuống để lau bụi, tôi giật nẩy người khi liếc nhìn khuôn mặt nàng. Giống quá, nàng giống quá. Khuôn mặt, mái tóc và nhất là cặp mắt của một người tôi quen của cái thời tôi còn là một anh lính trẻ.

Quá khứ hiện về rỏ nét và đang ngồi sát cạnh bên tôi chứ không lung linh mờ ảo như những lần tôi hồi tưởng. Nhớ ra rồi, mùi nước hoa Channel #5 của phụ nữ mà Hồng Gấm thường dùng. Cũng mái tóc, gương mặt, sóng mũi và nhất là cặp mắt tròn xoe đen láy như hai hạt nhãn khi nhìn vào nó trong những ngày mới quen em…làm tôi quên cả lối về.

Khẽ gọi thầm tên em…cô gái quay ngang nhìn tôi như muốn hỏi gì đó nhưng rồi…thôi.

– Cô xuống…Westminster thăm người quen, phải không ?

– Dạ không, con ở dưới đó. Con lên San Jose thăm bạn hôm nay về lại. Còn Bác ?

– Tôi ở San Jose, xuống thăm bạn bè ít bửa…rồi về.

Cô gái ngầm quan sát tôi, nàng nghĩ ông già nầy nói chuyện hình như không được tự nhiên…ông có điều gì muốn nói ra nhưng không tiện thì phải. Cô nở nụ cười rồi quay lại ngồi thẳng, cũng là lúc thuận tiện cho tôi quan sát nàng. Hồng Gấm ngày xưa của tôi năm nay cũng ngoài 60, không biết bây giờ em ở đâu, gia đình có hạnh phúc không ! Hoặc…cũng có thể một bất hạnh nào đó xảy ra cho em kể từ thảm họa 30 tháng 04, ngày bi thảm của lịch sử.

Không lúc nào là tôi thôi nghĩ đến em và cầu mong cho em luôn gặp được nhiều may mắn. Cô gái lấy trong giỏ xách ra một gói nho, quay lại phía tôi:

– Thưa Bác, mời Bác ăn nho. loại nầy ngọt lắm…con nhỏ bạn biết con thích ăn vặt nên hôm qua đi chợ nó mua cho con nhiều lắm.

– Cám ơn cô ! …

Tôi đưa tay cầm lấy chùm nho tươi mọng nước, nhìn bàn tay cô gái tôi không khỏi xúc động, cũng những ngón tay thon đó năm xưa Hồng Gấm đã từng mời tôi ăn nho và cũng nhiều lần tôi tìm cớ xem bói để được cầm tay nàng lâu hơn. Tôi buông tiếng thở dài dù rất nhẹ nhưng cũng đủ làm cho cô gái nghe thấy, nàng định nói gì đó nhưng lại thôi.

Một lát, cô gái nói khẽ:

– Bác gái sao không đi với Bác ?

– Tôi sống một mình cô ạ, đã từ lâu…

– Thế, Bác gái còn ở Việt Nam hở Bác.

– Tôi cũng không rỏ, chúng tôi chia tay nhau từ…lâu lắm. Kể từ ngày tôi bước chân vào nhà tù “cải tạo” Cọng Sản.

Cô gái hình như hiểu một điều gì đó, cô ngồi im mắt ngó ngoài cửa xe. Bỗng nhiên cô quay lại tôi nói nhỏ, giọng có vẽ chua chát:

– Bà nào rồi cũng vậy, con ghét những người như vậy !

Tôi giả vờ:

– Cô nói ai…ạ ?

– Ở xóm con bên Việt Nam có rất nhiều bà bỏ chồng, ngày nào ông chồng còn lên xe xuống ngựa…đến khi té ngựa thì mấy bả cho…té luôn.

– Không phải ai cũng vậy cô ạ, đúng ra cũng vì hoàn cảnh.

– Thưa Bác, không phải con quơ đủa cả nắm đâu. Đa số, con nói đa số…đều đổ thừa cho hoàn cảnh.

Cô gái nầy lòng dạ thẳng ngay, nếu tiếp tục sẽ đưa đến chổ làm cô ấy mất vui. Tôi lãng sang chuyện khác:

– Ông xã cô đâu…sao đi chỉ một mình vậy ?

– Con còn độc thân, đáng lý ra đôi khi con cũng muốn có một mái ấm riêng cho mình. Nhưng vì thương mẹ, con không muốn để mẹ sống một mình. –

– Không phải tò mò, nhưng cho Bác hỏi…Ba, Má con vẫn sống hạch phúc phải không con.

– Dạ, Ba Má con vẫn bình thường, nhiều lần khuyên con lập gia đình, con vâng dạ cho ba má con vui nhưng…

Cô gái bỏ lững câu nói, rồi đột nhiên lên tiếng: “Trong tình trường có người may mắn chỉ gặp nhau một lần mà hạnh phúc cả đời. Có người lại lận đận…”

– Bác hỏi thật, có khi nào con gặp phải “lận đận”…không ?

– Dạ không, con chưa bao giờ cả, chỉ có điều…

Cô gái ngập ngừng…đầu hơi cúi xuống. Cô định nói gì đó nhưng rồi thôi.

– Bác xin lỗi con, Bác cũng thuộc loại không nói nhiều nhưng vì thấy con tánh tình cởi mở vui tánh nên Bác…

– Không, thưa Bác không đâu ạ, trái lại khi vừa gặp Bác con đã có cảm tình ngay cứ như là bà con với nhau, Bác cứ tiếp tục, con thích nghe Bác nói lắm !

Không hiểu sao tôi cũng có cảm tình với cô gái nầy khi mới trao đổi nhau những câu nói đầu tiên. Giọng trầm buồn cô gái nói tiếp:

– Thưa Bác, gia đình con 4 người, ngoài cha mẹ…con còn có một người anh trai đã có vợ và 2 con. Hiện anh ấy là bác sĩ trong quân đội Mỹ. Con thì sống với Ba Mẹ ở Santa Ana. Ba con là một người đàn Ông lý tưởng, biết thương yêu và chăm sóc vợ con, mỗi khi mẹ con buồn Ông thường hay tìm chuyện nầy chuyện nọ chọc cho mẹ con vui.

– Một gia đình hạnh phúc như vậy thì…mẹ con có việc gì phải buồn hở con ?!

– Thưa Bác…

Cô gái ngập ngừng giây lát, hai môi hơi mím lại…rồi như quả quyết:

– Trước khi lấy Ba con, má con đã yêu một người !

Tôi hơi bất ngờ:

– Ba con có biết không ?

– Dạ thưa, biết !

Chuyện bỗng nhiên trở nên “ly kỳ”, tôi hỏi tiếp:

– Thái độ của Ba con ra sao ? Bác muốn hỏi lúc Ba con mới biết kể cả sau nầy nghĩa là bây giờ.

– Ba biết rỏ câu chuyện tình của má con trước khi hai người lấy nhau cho đến bây giờ mà vẫn một mực yêu thương má con.

– Cho Bác xin lỗi hỏi con câu nầy nha. Có bao giờ…

– Con biết Bác muốn hỏi: Má con có làm điều gì có lỗi với Ba con, phải không Bác ! không Bác ạ, hoàn toàn không. Má con một mực kính trọng Ba của con và bà giữ đúng cương vị của một người vợ có tư cách.

Như vậy có điều gì khiến cô bé nói với tôi:

– “Những buổi hoàng hôn nắng tắt, mẹ con thường đứng một mình bên song cửa nhìn về hướng trời xa. Những đêm trăng mờ ảo má con cũng chỉ một mình. Hình như bà rất sợ ánh sáng và cả bóng tối. Đầu năm 1975, tin tức chiến sự ác liệt trên khắp chiến trường miền Nam cho đến ngày ông DVM tuyên bố đầu hàng, sau ngày đó những cuộc vượt biên tìm tự do có không ít chiếc thuyền bạc phước đã chìm giữa đại dương trong đêm tối mịt mờ. Ba con cũng đã tìm phương tiện cho cả nhà vượt thoát bằng đường biển, may mà thành công.

Khi đã định cư ở Mỹ, tin tức trên báo chí, truyền hình đề cập đến những trại “cải tạo” do Cộng Sản dựng lên mà thực chất là những trại tù lao động khổ sai, đã có nhiều người chết vì bệnh tật, đói khát và kiệt sức. Mới đây một ông cựu Bác Sĩ Quân Y bạn của Ba con ghé thăm, mẹ con hỏi cuộc sống trong quân ngủ khi xưa có vất vả lắm không – Bác đó nói dù sao cũng là Bác Sĩ nên chuyện vất vả, hiểm nguy đâu có bằng những người ngoài mặt trận. Bác nói…cầm con dao giải phẫu trên tay đôi lúc phải kềm chặc lại để khỏi run khi nhìn thấy những vết thương xé cả lồng ngực người chiến binh, hoặc vết đứt rách cả vùng bụng không thể cứu sống được mà vẫn thều thào gọi tên người yêu ! – Những lúc đó mẹ của con ngồi bất động, mắt nhìn ra cửa sổ và mấp máy đôi môi, bà lảm nhảm gì đó không ai hiểu bà nói gì. Chỉ có bà hiểu, bà âm thầm cầu nguyện cho một người lính đang băng mình ngoài kia nơi chập chùng lửa đạn…”.

Tôi hỏi cô gái:

– Ai đã nói cho con biết vậy ?

– Thưa Bác, sinh nhật năm con 20 tuổi, nghĩa là cách đây hơn 10 năm. Sau tiệc sinh nhật mẹ gọi con vào phòng, trên tay mẹ cầm một gói giấy nhỏ bọc nylon kỷ lưởng, giọng thật buồn mẹ nói:

– Đây là quà sinh nhật mẹ tặng con, một gói quà vô giá bằng cả cuộc đời mẹ. Mẹ giao cho con, đọc xong nhớ giữ kỷ cho mẹ nha con. Cô gái tiếp: – Đó là quyển nhật ký của mẹ con, nét chử nắn nót thật đẹp nhưng cũng có những chổ chử viết xiêu vẹo, lem luốc. Đoạn văn thật xúc động, con đoán là những giọt nước mắt của mẹ làm trang giấy nhòe đi !

Giọng nói bỗng ngưng lại và cô ấy…khóc !– Tôi tôn trọng những giây phút nầy nên cũng giữ yên lặng. Hồi lâu, tiếng cô gái cất lên nhẹ như hơi thở:

– Con xin lỗi Bác…những lời mẹ viết ra khiến con xúc động nên…

– Nếu cần con cứ tự nhiên khóc, những giọt nước mắt sẽ giúp con vơi bớt xúc cảm trong lòng.

Cô gái nhìn tôi, ái ngại:

– Con xin lỗi Bác, tự dưng con đem chuyện buồn của gia đình con nói ra làm Bác cũng không được vui !

Tôi thoáng cười buồn, cả hai chúng tôi mỗi người lại yên lặng theo đuổi ý nghĩ của riêng mình. Chuyện gia đình nàng mà tôi tưởng chừng như chuyện của tôi, chỉ có tên họ và nơi chốn thì khác nhau.

Tương tự, câu chuyện của tôi và Hồng Gấm cũng thế: – Hồng Gấm lấy chồng, một dược sĩ con nhà giàu anh ruột của cô bạn thân cùng lớp. Nàng đã nhận lời lấy người mình không yêu chỉ vì mẹ nàng bị bệnh nan y, muốn chửa khỏi phải tốn cả triệu dollars. Gia đình nàng có 3 chị em, người chị đầu có chồng làm thư ký cho một hãng xuất nhập cảng, bà chị làm cô giáo mà phải nuôi cả hai đứa em còn đi học.

Chị kế nàng là Hồng Nhung cũng bỏ học nửa chừng đi làm y tá để nuôi cô em út Hồng Gấm học cho đến nơi đến chốn. Hồng Nhung là bạn gái của anh Chuẩn Úy nghèo xác nghèo xơ là tôi, mối tình đẹp như mơ thì Hồng Nhung bị Việt Cộng sát hại. Có lẽ do Trời sắp đặt, Cô em út là Hồng Gấm trở thành ngời yêu của tôi sau một buổi chiều đi thăm mộ Hồng Nhung về…có lẽ tình yêu thương tha thiết của cả hai chúng tôi đối với Hồng Nhung nên đã đưa hai đứa đến với nhau, nhưng Hồng Gấm còn bé quá, nàng chưa học xong bậc trung học. Tôi hứa với em là mình sẽ sống với nhau sau khi em tốt nghiệp Đ.H Sư Phạm rồi đi dạy học, như vậy em mới có đủ tiền nuôi anh lính nghèo nầy nữa chứ. Hồng Gấm cười ngượng ngùng rồi đưa ngón út lên móc ngoéo tay tôi.

Nhưng, ngày tốt nghiệp của Hồng Gấm cũng là ngày chị Hai nàng thay mặt gia đình nhận lời cầu hôn của gia đình anh dược sĩ trẻ, lúc đó tôi đang được Trực Thăng tải thương về Tổng Y Viện Cộng Hoà nằm ở phòng lựa thương chờ phân loại do đạn súng cối 82 ly của vc khi đồn bị tấn công.

Đang nằm trên băng ca để Bác Sĩ xem xét vết thương thì Hồng Gấm đến, theo sau nàng độ mươi bước là anh Dược Sĩ “Người chồng tương lai” của nàng. Hồng Gấm hớt hãi đang dáo dác tìm rồi…em chạy nhanh đến gục xuống và òa khóc trên ngực tôi. Nước mắt của em như những vết dao đâm xuống lồng ngực đang thoi thóp vì vết thương, tôi lặng người giây lát định nói gì đó với em nhưng vết thương do súng đạn và vết thương “đến từ em” làm tôi tê liệt hoàn toàn. Tôi được chích thuốc mê, trong cơn nửa mơ nửa tỉnh, tôi thấy anh Dược Sĩ cúi chào tôi rồi đở Hồng Gấm dậy và hình như tôi cũng có… chào lại !

Nhìn nét mặt buồn thiu của cô gái, tôi nói:

– Chuyện con kể nghe sao buồn quá !

– Trước khi lấy vợ, Bác có trãi qua cuộc tình buồn nào như vậy không hở Bác.

– Có, chuyện cũng buồn không kém chuyện của con !

– Giờ đây…Bác, có lẽ cũng phôi phai phần nào ?

– Không…con ạ ! Cô gái nhìn tôi, ái ngại:

– Con xin lỗi vì đã vô tình gợi lên vết thương trong lòng Bác !

– Bác phải cảm ơn con mới đúng, con đã làm cho Bác sống lại kỷ niệm dù đau thương nhưng cũng vẫn đẹp vô cùng !

– Có phút giây nào Bác quên nghĩ đến, không Bác ?

– Không ! nó đã trở thành một phần máu thịt trong bác, nó là hơi thở…con người không thể sống mà thiếu hơi thở.

– Sao Bác không đi tìm người của Bác bằng cách nhắn tin trên sách báo, trên online hoặc bạn bạn bè khắp nơi…thử xem.

– Bác chỉ mơ ước một điều duy nhất là biết người đó còn sống và hạnh phúc cùng với gia đình con cháu, như thế là quá đủ…!

—–o0o—–

Ba giờ chiều xe đến Westminster, tôi chào từ giả cô gái rồi xuống sắp hàng lấy hành lý. Vừa lấy xong đi được mấy bước thì ai đó kéo tôi lại, hóa ra là cô gái đi cùng xe. Nàng hấp tấp nói:

– Cái túi xách đang mang trên lưng là của Bác phải không ?

– Vâng, của Bác.

– Tên trên túi xách là tên của Bác ?

– Đúng, là tên Bác, có việc gì… không con ?

Cô gái kêu lên: “Bác ơi !” rồi gương mặt biến sắc và tái đi làm tôi hoảng hốt: “Con, Con làm sao vậy !”. Sau làn kính mát hai hàng nước mắt cô gái chảy dài xuống đôi gò má, cô lắp bắp: “Cám ơn Bác, con cám ơn Bác !” rồi vụt bỏ chạy lẫn vào đám đông ở bến xe.

Tôi há hốc miệng nhìn theo cô gái chưa biết chuyện gì, trong trí tôi mường tượng đến câu chuyện tôi và cô gái kể nhau nghe trên xe đò, quên cả việc gọi bạn ra đón về nhà

Khoảng mươi phút trong khi chờ bạn đến thì một chiếc xe ngừng ngay sát cạnh tôi. Trên xe có vài người, cô gái đi chung xe đò thò mặt ra, gương mặt rạng rỡ, miệng cười tươi như hoa nhưng cặp mắt vẫn còn đỏ hoe. Cô đưa tôi mảnh giấy và xe vụt chạy đi.

Tôi ngẫn ngơ, chuyện xãy ra quá nhanh làm tôi quên nhìn bảng số xe. Trên mảnh giấy một dòng chử ngắn làm tôi hoa cả mắt:

“Thưa Bác, mẹ con tên Hồng Gấm, ba mẹ con đã nhìn thấy Bác từ xa. Gởi lời hỏi thăm và chúc Bác vạn điều may mắn ! – Con, Hồng Phấn”.