BÍ MẬT CHIẾC ĐỒNG HỒ KHÁCH ĐỂ QUÊN

 

BÍ MẬT CHIẾC ĐỒNG HỒ KHÁCH ĐỂ QUÊN

Trong một con phố ở thành phố Hoschton, có một tiệm giặt là “Diana”. Bà chủ của tiệm giặt là là bà Henry đã 72 tuổi. Chồng bà, ông Henry mới qua đời chưa được bao lâu, bỏ lại mình bà cô đơn trong căn nhà trống vắng.

Việc kinh doanh đã dừng lại từ lâu song bên ngoài, tấm biển hiệu “Diana” vẫn được treo như trước. Tiệm giặt là nằm ở vị trí trung tâm, rất thuận lợi cho việc làm ăn nhưng bà Henry nhất quyết không bán hay cho thuê lại.

Sau một trận bệnh nặng, biết mình không còn sống được bao lâu nữa nên cuối cùng, bà cũng nhờ công ty đấu giá đăng quảng cáo bán đấu giá ngôi nhà của mình.

Chỉ có điều khó hiểu là: Gắn liền với nhà đất để bán đấu giá còn có một chiếc đồng hồ quả quýt rất bình thường, không chỉ vậy, bà cụ ra giá khởi điểm cho chiếc đồng hồ này còn cao hơn nhiều so với giá nhà đất. Trên thông tin quảng cáo còn ghi rõ: Ai biết về lai lịch của chiếc đồng hồ sẽ tặng không nhà đất cho người đó.

Thông tin quảng cáo này quá hấp dẫn nên đã thu hút rất nhiều người muốn tìm kiếm vận may.

Hội trường nơi diễn ra buổi tổng duyệt cho buổi bán đấu giá chật kín người, điện thoại reo không ngớt nhưng không một ai có thể nói đúng lai lịch của chiếc đồng hồ.

Robert bí ẩn

Bà Henry đợi bên cạnh điện thoại, thần sắc đăm chiêu, trầm ngâm. Bà rất mong trước khi mình qua đời có thể hoàn thành được tâm nguyện cuối cùng của mình. Thì ra, chiếc điện thoại đó có ý nghĩa rất lớn đối với bà. Hơn 50 năm trước, bà Henry và ông Henry kết hôn không lâu, họ đã dùng tên mình là “Diana” để mở một tiệm giặt là. Công việc kinh doanh diễn ra rất thuận lợi. Vào một buổi chiều tối, khi bà định đóng cửa tiệm thì một thanh niên bước vào. Vài ngày trước, bà đã chào hỏi người này ngay cửa tiệm.

Hôm đó, người thanh niên ấy đi qua cửa tiệm, nhìn thấy bà, anh ta tỏ ra vô cùng kinh ngạc, dường như có điều gì đó thầm kín. Hôm đó trời có mưa nhỏ, bà Henry đã chủ động mời anh ta vào trong tiệm tránh mưa và mới biết anh ta tên Robert, là một thanh niên thất nghiệp.

Nhìn dáng vẻ nghèo khổ của đối phương, trước khi đi, bà Henry đã cho anh ta 10 đồng và còn đưa cho anh ta một chiếc ô.

Hôm đó Robert đã đến để trả ô và còn để lại một bộ đồ, nhờ bà Henry giặt và nói 3 ngày sau sẽ đến lấy.

Sau khi Robert đi, theo thói quen thông thường, bà kiểm tra xem khách có vô ý để quên đồ gì trong túi hay không.

Đột nhiên, tay bà chạm phải một vật bằng kim loại, lấy ra xem, đó là một chiếc đồng hồ quả quýt. Tiếp tục kiểm tra, bà phát hiện thêm trong túi còn có một bức thư. Tò mò, bà mở chiếc đồng hồ ra xem và lặng người, kinh ngạc: Trên vỏ ngoài của chiếc đồng hồ có kẹp một tấm ảnh thiếu nữ rất xinh đẹp, cô gái đang cười tươi như hoa ấy chính là bà hồi trẻ.

Bà kêu lên thất thanh: “Smith!” và sau đó, nước mắt cứ thế tuôn trào.

Chiếc đồng hồ bí ẩn

Smith là mối tình đầu của bà Henry. Năm 1950, bà và ông Smith đã đính hôn, chiếc đồng hồ kia chính là vật đính ước giữa hai người.

Không lâu sau đó, chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Smith là một thượng úy của quân đội Hoàng gia Anh nên phải sang Triều Tiên tham chiến.

Mặc dù không ngày nào bà không cầu nguyện cho Smith nhưng thông tin bất hạnh vẫn được chuyển về quê nhà, Smith đã qua đời trên chiến trường.

Dẫu vậy, bà vẫn không tin vào sự thật tàn khốc này, bởi Smith đã hứa với bà nhất định sẽ trở về và cưới bà. Mang theo hy vọng cuối cùng đó, bà đã cố gắng sống và chịu đựng nỗi đau đến năm 1953 khi chiến tranh kết thúc. Thế nhưng trong đoàn lính từ Triều Tiên trở về, bà tìm mỏi mắt cũng không thấy bóng dáng người yêu đâu.

Sau một trận bệnh nặng, bà nghe theo sự sắp xếp của gia đình, vội vã kết hôn với ông Henry và mở tiệm giặt là “Diana”.

Bà không thể ngờ rằng, Thượng đế vẫn chiếu cố mình, cho mình nhìn thấy vật đính ước giữa mình và Smith năm đó. Sau một hồi kinh ngạc, bà bắt đầu đặt câu hỏi:

“Vậy Robert là ai? Tại sao anh ta lại có chiếc đồng hồ quả quýt này?

Anh ta cố tình đưa nó cho mình hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, bức thư kia có liên quan gì đến chiếc đồng hồ hay không?

Bức thư là của một người có tên Weber gửi cho Robert. Trong thư, người này nói anh ta mắc bệnh nặng, cần một khoản tiền để chữa bệnh, mong Robert niệm tình bạn bè mà cho anh ta vay 1000 bảng anh…”

Bà Henry thận trọng cất giữ chiếc đồng hồ, muốn đợi Robert quay lại lấy để hỏi mọi chuyện. Thế nhưng 3 ngày trôi qua, rồi đến 1 tháng trôi qua, Robert “bốc hơi” không để lại dấu vết.

Người đàn ông tên Weber bí ẩn

Nhớ ra người đàn ông tên Weber đang mắc bệnh nặng cầu cứu Robert giúp đỡ, lòng bà Henry bất giác cảm thấy bất an. Robert một đi không trở lại, là người biết chuyện, cảm thấy nếu khoanh tay ngồi nhìn người đàn ông tên Web gặp nạn mà không giúp, bà cảm thấy tội lỗi.

Nghĩ vậy, bà Henry liền gửi 1000 bảng Anh đến địa chỉ ghi trên thư. Đó là toàn bộ tài sản riêng của bà trước khi kết hôn.

Đồng thời, bà cũng gửi kèm một lá thư, nói rõ mọi chuyện và nhờ Weber nếu thấy Robert, hãy nhắn anh ta đến tiệm giặt là lấy đồ của anh ta về. Thư gửi đi nhưng chẳng nhận được hồi âm. Song bà Henry không vì thế mà bỏ cuộc. Bà quyết định vượt đường xá xa xôi đi tìm Weber nhưng tìm đến địa chỉ trên thư, bà chỉ nghe được những thông tin khiến mình kinh ngạc. Người trong thôn nói Weber là một người mồ côi không bà con thân thích. Anh ta rong ruổi kháp nơi không làm ăn gì, chẳng ai biết hành tung của anh ta, thậm chí họ cũng chưa từng nghe nói anh ta mắc bệnh nặng…

Một cảm giác tê tái xuất hiện trong lòng bà, thậm chí bà đã nghĩ mình đã rơi vào bẫy lừa đảo của một ai đó. Còn may là chiếc đồng hồ vẫn còn nên bà vẫn tìm tấy được một chút hi vọng và nguồn động viên to lớn.

Vài năm trôi qua, người giải mã những thắc mắc trong lòng bà vẫn chưa xuất hiện. Đột nhiên một hôm, bà nhận được một tờ hóa đơn chuyển tiền, số tiền trên hóa đơn là 2000 bảng.

Cũng kể từ đó, mỗi năm bà nhận được một khoản tiền tương tự vào những khoảng thời gian không cố định. Người gửi và địa chỉ liên tục thay đổi khiến bà không thể tìm ra.

Khoản tiền này trở thành tâm bệnh lớn nhất của bà Henry, bà không biết nên xử lý thế nào, đành phải cố duy trì tiệm giặt là với hy vọng một ngày nào đó, người có tên Robert kia từ trên trời rơi xuống, giải mã tất cả những điều còn chưa được làm sáng tỏ.

Cứ như thế, vài chục năm qua đi, xem ra sức khỏe của bản thân ngày một đi xuống, cuối cùng, bà quyết định thông qua cách bán đấu giá đặc biệt này để “người giấu mặt” xuất hiện, để tài sản của bà và chiếc đồng hồ có chỗ để gửi gắm.

Khi hoạt động tổng duyệt cho buổi triển lãm chuẩn bị kết thúc, bất ngờ có một người đàn ông lớn tuổi xuất hiện. Ông ta nhìn kỹ chiếc đồng hồ, nước mắt chảy thành dòng, sống chết đòi gặp bằng được người ủy thác bán chiếc đồng hồ này, đồng thời nói rằng chiếc đồng hồ là của ông ta.

Bà Henry vội vã nhờ người mời người đàn ông lớn tuổi kia đến. Nhìn thấy bà Henry, người đàn ông buột miệng nói:

“Diana? Bà có đúng là Diana trong bức ảnh kẹp trong chiếc đồng hồ?”

Bà Henry lặng người. “Diana” – cái tên này bao nhiêu năm qua không có ai biết đến, hai người đặt câu hỏi cho nhau cùng lúc:

“Sao ông biết tên tôi?”;

“Sao bà lại có được chiếc đồng hồ này?

Người đàn ông lớn tuổi nghẹn ngào giới thiệu mình là Brian, để tìm chiếc đồng hồ này, ông đã dành một nửa thời gian nửa cuộc đời cùng với tài sản tích cóp được, chạy đôn chạy đáo khắp các hãng đấu giá và nhà sưu tập, thật không ngờ chiếc đồng hồ mà ông nhọc công tìm kiếm bao lâu nay đã sớm trở về với chủ của nó.

Người đàn ông lớn tuổi khi đã bình tĩnh trở lại mới chầm chậm kể lại:

“Năm đó, tôi với vai trò là “quân liên hợp quốc” đến chiến trường Triều Tiên. Trong một chiến dịch, tôi trở thành tù binh. Trong trại tù binh, tôi gặp Smith khi đó đang bị trọng thương và viêm phổi.

Smith biết mình không còn sống được lâu nên đã đưa chiếc đồng hồ lại cho tôi, nhờ tôi sau khi về nước thì đưa cho cô gái có tên Diana và gửi lời xin lỗi của anh ấy đến cô ấy vì đã không thể cùng người mình yêu sống đến hết đời.”

Nghe đến đây, bà Henry khóc không thành tiếng. Bao nhiêu năm qua, cuối cùng bà cũng đã biết được thông tin xác thực về Smith. Bà lau nước mắt và hỏi tiếp:

“Về sau thì sao?”

“Về sau, có một tối, hai chiến sĩ quân y đến và khiêng Smith đi, nói là phải điều trị cách ly. Smith rưng rưng nước mắt vẫy tay cáo biệt và không ngừng nhắc tôi nhất định phải đưa món đồ anh ấy gửi cho Diana.

Từ đó về sau, tôi không gặp lại Smith. Sau khi về nước, tôi mang chiếc đồng hồ đi tìm Diana nhưng thật không ngờ, trên tàu hỏa, tôi đã bị kẻ cắp ăn trộm mất.

“Khi đó tôi đã vô cùng rối bời, đó có thể là một sự ủy thác nặng nề của người quá cố! Tôi bắt đầu tìm kiếm chiếc đồng hồ đó trong suốt mấy chục năm qua. Trong những năm quá, chiếc đồng hộ cũng đã trở thành nút thắt không thể tháo gỡ trong lòng tôi. Cho đến hôm nay, khi nhìn thấy nó và gặp được bà, tôi mới thấy nhẹ nhõm trong lòng.”

Bà Henry bất giác nhớ ra khoản tiền bà nhận được hàng năm, vội hỏi:

“Vậy số tiền là do ông gửi đến đúng không?”

“Tiền?” Brian lắc đầu: “Những năm qua, để có thể đi khắp nơi tìm kiếm chiếc đồng hồ nên tôi hầu như không có tiền tích lũy. Tôi vẫn muốn hỏi bà, làm sao bà có được chiếc đồng hồ này?”

Robert và Weber

Đúng lúc bà Henry muốn nói cho Brian chuyện ly kỳ liên quan đến chiếc đồng hồ thì điện thoại đổ chuông.

Trong điện thoại là giọng một thanh niên, người đó nói:

“Có một người tên là Robert, chắc chắn bà còn nhớ chứ ạ?”

Nghe đến cái tên Robert, bà Henry căng thẳng đến mức tim muốn nhảy ra ngoài, vội vã nói:

“Tôi nhớ, tất nhiên tôi nhớ! Ông ta vẫn còn sống chứ?”

Người kia trả lời:

“Ông ấy là bố cháu, đã qua đời rồi. Trước khi chết, ông dặn cháu nhất định phải báo đáp bà, nói là bà đã cứu ông ấy.”

“Chắc cậu nhầm rồi, tôi cứu bố cậu ư? Tôi không làm chuyện này!” Cảm giác khó hiểu biểu lộ ra ngoài khuôn mặt bà Henry.

“Không nhầm đâu ạ, chính là bà đã cứu bố cháu. Thực ra hồi còn trẻ bố cháu tên là Weber, làm nhiều việc xấu.

Ông ấy nói với cháu là có một hôm, gặp được bà ở bên ngoài tiệm giặt là, ông ấy đã giật mình vì bà và người con gái trong bức ảnh kẹp trong chiếc đồng hồ quả quýt giống hệt nhau. Chiếc đồng hồ đó là bố cháu ăn trộm và chuẩn bị mang đi bán.

Hôm trời mưa đó, bà mời bố cháu vào tiệm tránh mưa, còn cho 10 dồng và tặng thêm một cái ô. Bố cháu nói, đó là lần đầu tiên ông cảm nhận được sự tôn trọng và ấm áp, nên quyết định tặng chiếc đòng hồ cho bà.

Nhưng khi đó vì quá nghèo đói nên ông đã cố tình nhét một bức ‘thư cầu cứu’ trong túi quần cùng với chiếc đồng hồ, không ngờ bà thực sự tốt bụng, đã chuyển cho người có tên Weber kia 1000 bảng Anh.

Bố cháu nhận được tiền thì vô cùng cảm động, ông thề là sẽ làm lại cuộc đời. Kể từ đó, bố cháu đổi hẳn tên thành Robert, không dùng tên cũ nữa. Đợi cháu tích cóp được 2000 bảng, cháu sẽ gửi cho bà.

Bố cháu ra đi quá đột ngột, khi đó cháu đã thề sau này có một ngày phát đạt, nhất định sẽ đến gặp và thay bố cháu xin lỗi bà.

Hôm nay, đọc báo thấy thông tin quảng cáo, cháu biết người bà đang tìm nhất định là bố cháu. Qua đây, cháu xin bà hãy chấp nhận lời xin lỗi của cháu và cảm ơn bà một lần nữa đã giúp đỡ bố cháu.”

Khoản tiền bí ẩn

Nghe đến đây, bà Henry như có cảm giác giải tỏa được gánh nặng trong lòng. Bao nhiêu điều chất chứa, đèn nặng trong lòng bà mấy chục năm qua cuối cùng cũng có đáp án.

Chỉ có điều bà không ngờ được rằng, một hành động lương thiện nhỏ bé của mình lại có thể thay đổi được cuộc đời của một con người, có thể khiến anh ta dùng cả đời để báo đáp, cảm ơn.

Bà Henry vội vã nói với người trong điện thoại:

“Tiền bố con cháu gửi cho tôi, tôi chưa động đến một đồng, có hơn 100.000 bảng anh, dù thế nào cũng mời cháu đến chỗ ta một chuyến.”

Bên kia điện thoại vọng lại câu trả lời đầy kinh ngạc:

“Bà ơi, không thể nào, mặc dù chúng cháu luôn muốn tích cóp 2000 bảng anh cho bà nhưng vì cuộc sống khó khăn quá, chúng cháu không có nhiều tiền đến vậy chứ chưa nói đến việc gửi cho bà, chắc bà nhầm rồi ạ.”

Nói xong, người thanh niên gác máy.

Dù vậy, bà Henry vẫn vui, chỉ cần có số điện thoại, bà không lo không tìm ra địa chỉ của người đó.

Ngày hôm sau, buổi bán đấu giá diễn ra đúng kế hoạch. Sảnh lớn chật kín người, mọi người đều muốn biết kết quả của buổi bán đấu giá cũng như bí mật của chiếc đồng hồ.

Khi người bán đấu giá đang kể lại lai lịch của chiếc đồng hồ, những tràng pháo tay trong hội trường vang lên giòn giã, ai nấy đều cảm động.

Và đúng lúc người bán đấu giá tuyên bố bất động sản của bà Henry, như lời hứa ban đầu, sẽ được trao tặng cho ông Brian, một sự việc không ai ngờ đến đã xảy ra.

Hãng đấu giá nhận được điện thoại của tòa án, nói là có một ông cụ gọi điện đến nói rằng, chiếc đồng hồ có tranh chấp về quyền sở hữu, yêu cầu hoãn bán đấu giá. Người bên tòa án còn nói, ông cụ đó đang trên đường đến nơi diễn ra sự kiện.

Ông cụ bí ẩn

Hội trường bỗng chốc trở nên ồn ào, bà Henry và Brian vô cùng kinh ngạc, nhìn nhau thắc mắc: Người đó là ai? Tại sao lại có liên quan đến chiếc đồng hồ này?

Thời gian trôi qua chậm như hàng thế kỷ, rồi cuối cùng người đàn ông lớn tuổi bí hiểm ấy cũng xuất hiện. Ông cụ ngồi trên xe lăn tiến vào hội trường.

Bà Henry kinh ngạc, bà biết, chủ nhân thực sự của chiếc đồng hồ đã đến. Bà kêu lên một tiếng “Smith” rồi ngất đi.

Brian vội chạy lại phía người đàn ông ngồi xe lăn: “Trời ơi, Smith, ông vẫn còn sống!”

Người vừa đến đó chính là ông Smith, người đã “chết” hơn 50 năm qua.

Thì ra, trong đêm ở trại tù binh, Smith đã được chuyển đến một bệnh viên dã chiến cách chiến trường rất xa. Bác sĩ trong viện đã phải tiêm cho ông 10 lọ Penicillin mới có thể cứu ông khỏi tay tử thần. Mặc dù giữ được mạng sống nhưng Smith phải cắt bỏ 2 chân.

Ý định muốn chết đi đã nhiều lần xuất hiện trong đầu ông nhưng nhờ niềm khát khao mãnh liệt được thấy người mình yêu, ông đã ngoan cường sống tiếp.

Khi về nước, trên danh sách binh lính trở về, ông dùng tên giả, cấp trên của ông cũng đã bố trí riêng một bệnh viện để chữa trị, tránh gặp người quen. Vì biết rằng chỉ khi mình “chết” đi, người yêu mới có được cuộc sống hạnh phúc.

Smith không lấy vợ, sống cuộc đời độc thân nhưng không lúc nào không nhớ về Diana. Tất cả những thông tin về bà, ông đều tìm hiểu được. Tiền nhà nước bù đắp cho những tổn thất mà ông phải chịu, ông đều dồn lại và gửi cho Diana.

Khi biết ông Henry qua đời, lại thấy quảng cáo bán đấu giá của người yêu cũ, ông cuối cùng đã không thể ngồi yên, vội vã tìm đến.

Dù sao thì cũng đã đến tuổi gần đất xa trời, cho dù gặp được người yêu cũ một lần rồi chết, ông cũng cam tâm.

Bà Henry cảm thấy mình như vừa đang nằm mơ, chỉ có điều giấc mơ ấy quá dài và quá ly kỳ. Vừa tỉnh dậy, người trong mơ đã đổi hình thù dáng vẻ.

Vậy là khoản tiền lớn mà bà nhận được suốt mấy chục năm qua là do người bà yêu thương nhất gửi đến, bà đã cất giữ bao nhiêu năm mà không hề hay biết.

Nước mắt tuôn rơi vì hạnh phúc, bà Henry quyết định để lại toàn bộ nhà đất cho Brian, không phải ai cũng có thể dành hơn nửa đời người cũng như tài sản tích lũy được để thực hiện cho bằng được một lời hứa.

Bà cũng quyết định gửi một phần tiền cho con của Robert, dù sao thì ông ta cũng đã tặng chiếc đồng hồ lại cho bà và cuối cùng nó đã trở về tay của chủ nhân đích thực.

Còn với mình, bà quyết định về sống cạnh ông Smith, sống nốt quãng thời gian còn lại…

Từ fb Tuấn Mai SG

Mùa Thu Cuộc Tình-TRUYỆN NGẮN TIỂU TỬ…

TRUYỆN NGẮN TIỂU TỬ…

Mùa Thu Cuộc Tình

Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả thì giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông Năm sống một mình, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải làm vào cuối tuần của người có gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm thì thời gian không biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ để làm một bữa ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.

Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà, thật tình ông Năm không biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, còn việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu vài món thông thường và lâu lâu cũng biết ” làm ” một nồi phở để đãi đôi ba ông bạn già cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…

Như bình thường thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris Stores để coi có gì lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở để ăn trưa, có khi một mình,nhưng thường thì với một vài người bạn gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này cũng gặp người nọ, bởi vì ai cũng đến đó để mua đồ, nói là ” đi chợ Tàu ” chớ thật ra là để tìm lại một chút gì hơi hướm của quê hương : những khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen !), những món hàng còn giữ nguyên nét cũ (đòn chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc lên là đủ để gợi nhớ…

Hồi sáng này, ông Năm cũng đã đóng bộ để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng nắng còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà ông Năm đã trở màu vàng. “Chắc lá đã rụng đầy”, ông Năm nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur.

Cây marronnier che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy bức tường cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa phía trên bầu trời bị đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài nhìn từ phòng ông Năm chỉ còn lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nhìn còn có một điểm tựa ! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây – năm sáu năm gì rồi – cứ nhìn cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như mình đã thành con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đã gởi trên đó từ lâu…

Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết : “Anh thừơng nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi một mình trên kia mà tự hỏi không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh giá hãy còn giang tay ngạo-nghễ chớ anh thì từ lâu rồi anh đã buông tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh còn có cây thánh giá trứơc mắt để hứơng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu nguyện em phải hứơng về đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt thương em vô cùng… Ở ngay trong lòng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa cho niềm tin mà còn không có thì em sống ra sao, em hả ?” Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc nhiên đã trở thành một vật gì thật gần gũi, thật trần gian, thật ngừơi, và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…

Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàigòn. Đời sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy thuốc mãi rồi mới biết tại vì tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm bà Năm khóc hết nứơc mắt. Tuy nhiên, hồi đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi, hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự không có con đã trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi về mình. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái gì hư, cái gì trật, cái gì bậy ở trong nhà dù là do lỗi những ngừơi giúp việc, bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để giải thích, khuyên lơn, an ủi bà Năm mới lấy lại đựơc quân bình.

Có hôm, trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu, nhìn thấy mấy gia đình đông con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than : “Nếu không phải tại em thì bây giờ hai đứa mình đâu có bơ vơ như vầy !”. Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay ngừơi lại để nhìn sâu vào mắt : “Em à! Mình không có con, nhưng mình còn có nhau. Đó là Trời thương lắm rồi, em còn đòi hỏi gì nữa ? Thử tưởng tượng một ngày nào đó không còn có nhau nữa thì sao ?”. Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến “cái ngày không còn có nhau” đó.

Vậy mà cái ngày đó đã đến cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại với một số người không may khác ! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại cho hãng Air France. Bà Năm nằm tù hết mấy tháng. Được thả ra thì nhà cửa đã bị tịch thu, đành về quê ở Gò Công làm công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đình mà trong đợt đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước đã tịch thu để biến thành hợp tác xã. Từ đó, là những chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa cho đúng “văn phạm Nhà Nước”.

Còn chuyện vượt biên lần nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy mãi rồi cũng được nhập cảnh gởi về, nhưng phía bà Năm thì gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy lần bị lường gạt…

Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đã bị bác từ lâu ! Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học trò vàng như giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ còn đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn không còn có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian dài. Sau đó, dọn về khu phố này tình cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nhìn cây thánh giá một lúc, giống như một tín đồ ngoan đạo…

Khi ông Năm mặc xong quần áo thì trời cũng đã gần trưa. Đốt điếu thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm rãi xuống cầu thang, giống như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đã trầm thêm tuổi đã gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước xuống. Ngoài ra, có gì phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ ?

Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đã thành một thói quen, chẳng có gì phải náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng có một dòng mực, chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa khám phá ra một điều gì quá rõ-rệt nằm ngay trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận thấy !

“Mình đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần vì giá vé hạ. Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo dõi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, mình cũng đều đặn trèo xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi ! Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết !”. Ông Năm hít hơi thuốc thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống như đang tìm một đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ, tự nhủ “Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa” Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi nãy nhiều…

Khi đi qua trước phòng gác-dang, có tiếng gọi :

– Ông Georges ! Ông Georges !

Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang bước ra trao cho ông một điện tín, nói :

– Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây.

Ông Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa : “Đã có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai”. Điếu thuốc trên môi bỗng rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe : “Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi !”.

Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :

– Có sao không ? Có chuyện gì không ? Ông Georges ?

Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta lắc mạnh :

– Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !

Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh ! Bà ta không hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông Năm. Bà ấp úng “Nhưng mà… Nhưng mà…” trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói vói xuống :

– Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám ơn nhiều !

Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi !

Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu “Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em. Mai” Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm, không còn lộn với ai được. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng.

Tội nghiệp ! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ gì được với cái tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống thật cổ điển, thật Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi xưa, bạn bè vẫn nói là “thằng Năm trúng số độc đắc” hoặc “đẻ bọc điều mới có người vợ như vậy”. Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương…

Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết ngày được thả chớ còn mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình rồi… chết cũng một mình trên đất lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương mình nhiều quá !

Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra.

Bả trên giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó “sáng” ra mới được.

Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À ! Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng phì cười. Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ gì ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hãy còn “nét” lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai…

…Vậy là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng phải “bỏ bụng” một cái gì,vì thói quen hơn là vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một trái cà tô-mát và một miếng thịt bò. Cà xắt khoanh, không dầu không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không bơ. Làm cho “lấy có” và ăn cũng cho “lấy có”. Bởi vì tâm hồn ông đang mãi phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, hình như là ở Gò Công quê vợ, ở Gia Định quê mình, ở những ngày đầu “hai đứa gặp nhau” (Tiếng nói của tình yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp hát bóng Đại Nam là nơi “hai đứa hẹn hò” (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá ! Tình yêu là cái gì mà sao mãi mãi vẫn còn nguyên, như mới hôm qua hôm kia…

-oOo-

Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng. Nhờ là nhân viên của hãng nên ông Năm được biết là máy bay bị trục trặc kỹ thuật ở Karachi.

Trở về sở làm, ông ngồi đứng không yên, lâu lâu cứ nhìn đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi người một câu an ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột.

Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh:

– Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nỗi huống gì chỉ có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !

Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi trường, lòng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.

Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi thăm. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô tiếp viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa :

– Ông chờ đón bạn à ?

Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :

– Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.

Phi trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…

Lại nghĩ đến bà Năm. Bả điệu” lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả có “gout”. Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái “gout” để vào đâu cho nó nổi !

Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà mình mê bả quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc bằng câu “Gái không con mà nom cũng mòn con mắt”, nhưng vì sợ bả buồn nên mình nín thinh luôn !

Ông Năm ngừng suy tư trên hình ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút thuốc, lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi lăm, sống với Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục “điệu” như thường ! Trong lúc người ta lôi quần áo cũ rách ra bận và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có “tác phong cách mạng” thì bả vẫn gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số. Mình hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng “Song chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi”, bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời bằng một câu… xanh dờn : “Đàn bà phải biết tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em làm không được”…

Có tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngã văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air France.

Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người. Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có tiếng người gọi nhỏ : “Ông Năm !” Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi : “Ông Năm…”

Nghe rõ có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại. Ngay phía trước, đứng cách ông chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng thình, ống tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải. Chỉ mới nhìn tới đó thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại gương mặt : khuôn mặt gầy xạm nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi đây mà !

Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay đưa về phía bà già và chỉ còn đủ sức gọi có một tiếng : “Mai !” Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng “Ông Năm” như người xa lạ, và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi chồng nhìn ra mình, ôm chầm lấy mình, người vợ đó chỉ còn nói được bằng nước mắt !

Ông Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn : “Sao vầy nè ?”. Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : “Sao vầy nè… Trời ?”. Tiếng “Trời” nặng trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn mười năm sống với Việt Cộng, đã trở thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc về mình, những gì mà “tụi nó” chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy !

Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói :

– Thôi mình về đi em !

Tiếng “em” thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng “em” mà đã mười năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái gì đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến bây giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to tròn như mắt đầm, trồng đen lay láy.

Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :

– Để em xách !

Tiếng “em cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…

Ông vói tay cầm lấy quai túi :

– Để anh xách cho.

Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :

– Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu.

Ông Năm bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra “tụi nó” đày đọa bả đến nước đó ! Bả tội gì ? Tội gì ? Tội vượt biên ? Thì đã ở tù trên ba tháng rồi còn gì nữa ? Vậy tội gì ? Ông Năm nghiến cái căm thù trong răng để đừng chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra : “Quân khốn nạn !”

-oOo-

Về đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói :

– Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?

Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :

– Gì không nổi ? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.

Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp !

Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !

Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh :

– Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác rộng hơn.

Bà Năm dịu dàng :

– Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì…

Bỗng nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng “hai đứa” nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận dập dồn đã làm họ quên đi : bây giờ “hai đứa” vẫn còn có nhau, thật sự còn có nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường còn lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ biết : họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.

Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :

– Cây thánh giá này đây ?

Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu : cây thánh giá mà ông Năm viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nhìn cây thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô dâu chú rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng…

Thời gian bỗng như dừng lại, để hình ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của tình yêu, cái huyền diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến con người thành gỗ đá.

Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :

– Để em soạn đồ ra.

Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.

Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…

Vừa làm bà vừa nói :

– Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào tụi nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi xuống, không biết vì cớ gì. Rồi khi được thả ra là trắng tay.

Bà lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm :

– Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang.

Ông Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang qua đây ? Ông đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên tường đối diện.

Có tiếng bà Năm nói :

– Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm.

Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà mùi rượu ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi dài, đóng nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm sâu trong tìm thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu nếp than đã làm bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng bò… Ông tưởng chừng như đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu tím học trò của trái mồng tơi, và những tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi ! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần đó thứ bây giờ xa thật xa. Xa, không phải vì cách biệt, mà xa vì không còn thuộc về mình nữa !

Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răng, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt !

Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…

Ông Năm vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :

– Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp-phê đó.

Bà Năm nghi ngờ :

– Anh mà làm bếp cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.

Ông Năm cười sảng khoái :

– Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !

Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà lòng cũng thênh thang trải rộng.

Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.

Ông vui vẻ :

– Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?

Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :

– Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?

Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :

– Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng nói cho ai biết !

Rồi cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười năm xa nhau…

Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông nằm trên nệm dưới đất.

Tắt đèn đã lâu mà hai người vẫn còn trằn trọc. Làm như còn thèm nói chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill còn phản phất thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên mình mình. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên phập phồng. Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật mới, dìu dịu ngây ngây… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn không còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đã vĩnh viễn không còn đụng chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : “Mình !”. Chỉ có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng “mình” nói lên thật nhiều, diễn tả thật nhiều.

Tiếng “mình” mà mười năm nay ông Năm không còn nghe. Tiếng “mình” gợi lên tình nghĩa vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng “mình” cũng là tiếng nói của yêu đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng “mình” ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ ông, cần được yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng “mình” gọi nhỏ trong đêm bỗng nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm xóc lấy vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, run lên như đang cơn sốt, thân xác gầy còm của vợ. Và tai ông còn nghe những tiếng “mình” đứt quãng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…

Cuộc tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ?

-oOo-

Tôi muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ, được vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải như vậy. Bởi vì…

…Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. “Nhà nước Cách Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị không nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa ?”. Gã cán bộ trao giấy phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng lợi lộc gì cho “nhân dân”. Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một người, chật đất !

Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mưòi năm gian khổ. Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…

Ông đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.

Mùa thu đó lá rụng thật nhiều…

Con Người Có Số-TRUYỆN NGẮN – ALAN PHAN…

TRUYỆN NGẮN – ALAN PHAN…

Con Người Có Số

Năm 1983, trong một dịp về thăm nhà ở California, tôi đang loay hoay sửa lại hệ thống tưới nước cho khu vườn trước nhà, áo quần mặt mày lem luốc như một anh lao công Mỹ chính hiệu; thì một người phụ nữ lạ mặt xuất hiện ngoài cổng, cao tiếng, “Ông Tổng; Ông Tổng”. Đã lâu lắm tôi mới nghe lại danh từ này.

Ngạc nhiên, tôi ra mở cửa mời khách vào nhà. Chị giải thích, “Con là nhân viên cắt thịt của nhà máy Dona Foods ở Biên Hòa ngày xưa. Chắc ông không nhớ?” Tôi lắc đầu. Nhà máy có hơn 3.000 nhân viên, ngoài các cán bộ trong ban quản lý, tôi thực sự không biết ai. Chị đưa ra tấm thẻ ID cũ của công ty, đã bạc màu, nhưng vẫn còn nhận rõ tên Dương Thị Gấm, với tấm hình đen trắng ngày xưa rất quê mùa, có cả tên và chức vụ của anh quản lý trong khu vực sản xuất.

Chị tiếp tục kể, “Sau khi chính quyền tiếp thu, con làm thêm bốn tháng rồi bị cho nghỉ vì nhà máy không đủ nguyên liệu để điều hành. Con lên thành phố làm ô sin cho một gia đình vừa ở ngoài Bắc vô. Sau một năm, ông chủ được thăng chức điều về Hà Nội. Vì con làm việc tốt, ông đem con đi luôn và con ở ngoài đó đến hai năm.

Trong thời gian làm thuê, có ông nhân viên ngoại giao người Đức cạnh nhà. Ông ta lớn tuổi, nhưng ngỏ ý muốn cưới con và đem về Đức khi mãn nhiệm. Muốn giúp gia đình nên con đồng ý, dù con chỉ mới 22 tuổi trong khi ông ta đã hơn 60. “Tôi nhìn chị kỹ hơn. Năm 1975, chị mới 19, thì năm nay, có lẽ chị chỉ mới 27, nhưng xem chị già và phong trần nhiều. Chị thuộc loại đàn bà xấu, dưới trung bình, lại thêm đôi chân bị khập khễnh. Có lẽ những bệnh tật, bất hạnh và mặc cảm đã làm chị già trước tuổi?”

“Con theo chồng về Đức được ba năm thì phải bỏ trốn, rồi ly hôn, vì ông này mỗi lần say rượu là đánh đập con tàn nhẫn. Con phải vào nhà thương cả chục lần mỗi năm. Không có tiền bạc hay của cải, làm bồi bàn khổ cực, nên con nghe lời rủ rê của bạn bè chạy qua Mỹ tìm đường sống. Con đến Los Angeles được 6 tháng nay.” Đại khái, chị đang làm nhân viên thoa bóp (masseuse) cho một tiệm trên San Bernadino. Thu nhập cũng tạm đủ sống, nhưng có cơ hội, người chủ muốn sang tiệm, nên chị tìm cách mua lại.

“Con dành dụm được hơn 12 ngàn đô la, nhưng còn thiếu năm ngàn nữa. Nghe tin ông Tổng ở đây, con hy vọng ông giúp cho con số tiền này để con có cơ hội vươn lên”.

Tôi đính chính với chị, tôi đã hết là ông Tổng, hiện nay chỉ là một nhân viên xoàng của một ngân hàng nhỏ ở Wall Street, sống đời trung lưu bình dị như hàng triệu người Mỹ khác. Nhưng may cho chị là hôm ấy, gần ngày Giáng Sinh, tôi thấy rộng lượng và nhất là vừa nhận được tấm chi phiếu khá lớn của ngân hàng cho tiền thưởng cuối năm. Tôi cho chị mượn năm ngàn và thực sự, không nghĩ rằng mình sẽ thấy lại số tiền này, như nhiều trường hợp vẫn luôn xảy ra với bà con bạn bè.

Nhưng chỉ sáu tháng sau, chị lại tìm đến nhà trả lại số tiền năm ngàn và còn muốn đưa thêm ba ngàn tiền lãi. Tôi không có nhà, vợ tôi chỉ nhận lại năm ngàn không lấy lãi và chúng tôi đều đồng ý là số tiến năm ngàn khứ hồi này quả là chuyện thần thoại của Hollywood. Chị còn khoe với vợ tôi là đã mua thêm một tiệm massage khác.

Bẵng đi năm năm, tôi không gặp lại chị và cũng không liên lạc gì. Tình cờ, tôi và bạn bè vào một quán ăn khá sang trọng ở Bolsa (quận Cam) và người chủ tiệm đứng đón tiếp chúng tôi là chị Gấm ngày nào. Chị huyên thuyên câu chuyện, “Làm massage có tiền nhưng nhức đầu với nhân viên, khách hàng và cơ quan công lực, nên con bán hết năm tiệm và quay ra kinh doanh nhà hàng. Ngoài tiệm này, con còn hai tiệm nữa ở khu phố Tàu và khu đại học UCLA.” Chị cũng khác hẳn lúc xưa. Áo quần thời trang bảnh bao, ăn nói lịch thiệp hơn, cư xử đúng như một bà chủ, và chiếc xe Mercedes đời mới đậu ngay cạnh cửa nói lên sự “thành công” của chị.

Sau bữa ăn miễn phí, tôi cũng không liên lạc gì với chị, vì công việc làm ăn của tôi lúc này đem tôi đi khắp thế giới, không mấy khi về lại California. Cho đến năm 1997, khi tôi đi dự một hội thảo và triển lãm về ngành ngân hàng ở Chicago, chị lại xuất hiện. Tôi đang nghiêm túc ngồi trên bàn làm phối hợp viên (moderator), còn chị thì tươi cười chào tôi trong bộ âu phục của một nhân viên cao cấp (executive), với một thẻ bài đeo trên người có tên rất Mỹ là Christina Spencer.

Trong bữa ăn chiều sau hội thảo, chị đưa tấm hình chồng chị và đứa con đã lên 3, rồi tiếp tục, “Trong khi kinh doanh, con đi học thêm vào buổi tối và cuối tuần, cuối cùng cũng lấy được mảnh bằng Cử nhân (Bachelor) về Tài chính (Finance). Sau đó con đi làm cho Wells Fargo (ngân hàng lớn ở California), gặp chồng con là Phó Giám Đốc R&D cho Xerox nên đời sống hai đứa cũng tốt đẹp. Chúng con đang sống ở Palo Alto (một khu giàu của Bắc California cạnh đại học Stanford)”.

Một nhân công nghèo hèn, thất học với một nhan sắc kém cỏi, lại gặp nhiều gian truân, chị đã lên tới đỉnh sung túc của một xã hội có sự cạnh tranh khắc nghiệt giữa nhiều loại dân tứ xứ. Tôi nhìn lại chị thêm lần nữa, một biểu tượng đáng khâm phục cho ý chí cầu tiến và sự hy sinh vô bờ để đạt đến giấc mộng của mình.

Dĩ nhiên là chị không nói ra, nhưng tôi tin là trong cuộc hành trình 22 năm vừa qua của chị, đã không thiếu những tình huống hiểm nghèo, cay đắng và tuyệt vọng chị phải đối diện. Sức mạnh nội tại nào đã giúp chị vượt qua và bay cao mới thực sự là “cú đấm thép” mà cộng động chúng ta hay bàn luận.

Không thiếu những trường hợp như chị trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Rời quê hương với hai bàn tay trắng, thiếu sót mọi kiến thức, kinh nghiệm và quan hệ trên xứ người, những người Việt như chị đã vượt lên mọi rào cản, trở ngại để dành cho mình một chỗ đứng dưới ánh mặt trời (a place in the sun).

Tôi muốn nói với các doanh nhân trẻ và nhỏ của Việt Nam, trong hay ngoài nước, là nếu những con người như chị Gấm đã làm được, chúng ta cũng sẽ làm được.

Điều thú vị nhất là lần ăn tối ở Chicago với chị Gấm, tôi bốc được một lời khuyên trong chiếc bánh may mắn (gọi là fortune cookies mà các nhà hàng Tàu ở Mỹ thường mời khách free. Bánh kèm bên trong một lời bói toán hay một câu nói của doanh nhân). Tôi còn giữ tờ giấy này, “Thua cuộc chỉ là một tình trạng tạm thời. Bỏ cuộc biến nó thành một sự kiện thường trực”. (Being defeated is often a temporary condition. Giving up is what makes it permanent Marlene vos Savant).

Chúng ta không tiên đoán về tương lai, chúng ta đang tạo dựng nó hàng ngày.

 

Image may contain: text that says 'Phạt Giáo GIÀU NGHÈO CÓ SỐ SƯỚNG KHỔ” DO TRỜI...'

Chuyện Tình Nữ Tiếp Viên

TRUYỆN NGẮN NGOẠI QUỐC…

Chuyện Tình Nữ Tiếp Viên

Pierre Bellemare

Trên chuyến bay Tokyo – Osaka. Mải mê chăm chú đọc tờ Yomiuri Shimbun, chuyên mục Tài chính – Chứng khoán, Yukato Shimuza không chú ý đến nữ tiếp viên hàng không đến kế bên. Thậm chí khi cô ta hỏi anh ta dùng chi thì Yukato vẫn không nghe. Ðôi môi nở nụ cười tươi, nữ tiếp viên lặp lại câu hỏi: “Ông dùng thức uống nào ạ?”

Ngước nhìn nữ tiếp viên, chàng trai ngẩn ngơ trước vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của nàng. Trong trang phục tiếp viên hàng không, trông nàng đẹp rực rỡ, duyên dáng như một tiên nữ tốt bụng mà mẹ chàng thường kể thuở bé:

– Em cho tôi biết quý danh có được không?

Câu hỏi bất ngờ được thốt lên từ miệng của chàng trai một cách thiếu tự chủ. Có vẻ như chàng “bị choáng” trước sắc đẹp của nữ tiếp viên… Nàng đáp nhẹ nhàng:

– Fumiko! Xin lỗi ông, em phải đi phục vụ khách tiếp…

Phi cơ đáp xuống phi trường Osaka. Trước lúc rời phi cơ, Yukato ân cần hỏi thăm Fumiko như chính nàng là phi công lái chiếc Boeing. Tiếng khúc khích cười chòng ghẹo của các nữ tiếp viên đồng nghiệp làm cho Fumiko ửng hồng đôi má vì e thẹn.

Sự việc diễn ra suôn sẻ. Yukato, chàng trai vốn dĩ rụt rè và chăm chỉ, dường như vừa được chắp thêm đôi cánh. Về phần mình, Fumiko không giấu giếm cảm giác lâng lâng vui mừng được quen biết Yukato. Phải chăng đây là tiếng sét ái tình?

– Ðây là danh thiếp của anh. Hy vọng sẽ được gặp lại em ở Osaka hoặc Tokyo!

– Tại Osaka, em và một nữ đồng nghiệp cùng thuê chung căn nhà. Em thường xuyên phục vụ đường bay Tokyo – Osaka. Em cũng sẽ rất vui nếu được gặp lại anh.

– Nếu em cho phép, anh sẽ điện thoại mời em dùng cơm tối vào dịp thuận tiện.

Yukato và Fumiko thuộc thế hệ trẻ trưởng thành sau chiến tranh. Cuộc sống, suy nghĩ của họ khá tự do, thông thoáng.

Vài tháng sau cuộc hội ngộ, họ nhiều lần cùng nhau dùng cơm tối, xem phim, đi thăm viện bảo tàng… Một hôm, Yukato đề cập đến vấn đề mà Fumiko hằng mong đợi:

– Fumiko, em có chấp nhận lời cầu hôn của anh không?

– Ðó là niềm vinh hạnh đối với em. Nhưng liệu bố anh, ông Shimuza, có chấp nhận cuộc hôn nhân của chúng mình không? Em chỉ là một cô gái bình thường, còn anh, ở cương vị của anh hiện tại, có lẽ bố anh sẽ chọn một gia đình môn đăng hộ đối để kết thông gia.

Yukato trầm ngâm suy nghĩ: “Gần một năm nay mình vô cùng hạnh phúc bên cạnh người yêu mà quên mất rằng bố mình vẫn chưa hay biết gì về người bạn gái”.

– Ngay tối nay, anh sẽ thưa chuyện của chúng mình với bố. Bây giờ thì anh đưa em đến viếng mộ, cầu nguyện tổ tiên ban cho anh niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi trở ngại.

Tối hôm đó, Yukato về nhà bố. Anh kiên nhẫn chờ đợi bố anh, ông Tadao Shimuza, chủ nhân tập đoàn Shimuza danh tiếng, đi làm về. Mãi tận khuya, chiếc limousine mới đưa ông Tadao về đến nhà. Bà Tadao và con trai Yukato cúi rạp người chào ông chủ gia đình. Hai mẹ con sẽ tường trình với ông Tadao diễn biến trong ngày và các vấn đề cần trao đổi…

– Yukato, con có việc gì thưa với bố chăng?

Mẹ của Yukato mỉm cười im lặng.

– Thưa bố, con có một việc hệ trọng muốn trình với bố.

Ông Tadao ngồi lắng nghe nhưng tuyệt nhiên không biểu lộ một cảm xúc nào.

– Con quen biết một người bạn gái. Chúng con yêu nhau và xin bố cho phép con được cưới nàng.

Có lẽ không có cách trình bày nào giản đơn và ngắn gọn hơn thế.

Vẫn với thái độ nghiêm nghị, ông Tadao hỏi:

– Cô ta có thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt không?

– Bố của nàng đã hy sinh vì Nhật Hoàng.

– Chỉ vậy thôi sao? Gia đình cô ta có ngang tầm với gia đình mình không? Hẳn con biết rằng bố sẽ không đồng ý cho con cưới một cô gái tầm thường!

Hơn hai mươi năm qua, ông Tadao luôn quan tâm đến việc giáo dục con trai sao cho xứng đáng với phẩm cách người thừa kế tài sản hàng triệu Yen của tập đoàn Shimuza lừng danh trong ngành đánh bắt và kinh doanh cá voi.

– Con có thể cưới về một cô gái thuộc gia đình giàu có nhất nhì Tokyo. Nếu bạn gái của con thuộc giai cấp bần cùng thì chỉ là ảo vọng mà thôi cho dù cô ta có sắc đẹp khuynh thành…

Cuộc trò chuyện kết thúc.

Yukato thuật lại cho người yêu thái độ dứt khoát của bố về chuyện hôn nhân của họ. Ðôi mắt buồn ngấn lệ, Fumiko kết luận:

– Vậy thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ nên duyên vợ chồng vì em chẳng có tài sản gì đáng giá. Ðồng lương tiếp viên hàng không ít ỏi của em cũng chỉ đủ nuôi nấng mẹ già!

Vài hôm sau, bố con nhà Shimuza có dịp bàn lại vấn đề hôn nhân, nhưng lần này trong bầu không khí cởi mở hơn. Bố Shimuza:

– Con trai yêu dấu. Tốt nhất là con nên từ bỏ ý định cưới cô gái nghèo ấy. Cô ta có thể là người tình hờ của con. Ngay cả khi con cưới người con gái khác làm vợ, đâu có ai ngăn trở con quan hệ với người tình cũ. Nếu cô ta thật sự yêu con, ba nghĩ đó là giải pháp tốt nhất. Mà tên của cô ta là gì nhỉ?

– Fumiko Shigefusa.

– Shigefusa? Có phải đó là nhà điêu khắc lừng danh một thời?

– Ðúng thế.

– Ðúng là một gia tộc danh tiếng. Nhưng tiếc thay giờ thì họ đã phá sản! Với giải pháp bố đề ra, người tình của con sẽ không được sinh con và nhờ thế mà sắc đẹp của cô ta sẽ bền vững hơn.

Câu chuyện giữa hai bố con kéo dài khoảng một giờ. Nhưng Yukato vẫn chưa “tâm phục khẩu phục” với đề xuất mà bố đưa ra. Yukato thuộc thế hệ trẻ, đọc nhiều tiểu thuyết phương Tây. Yukato tin tưởng rằng tình yêu mà anh dành cho Fumiko là thứ tình yêu đích thực và chàng chỉ muốn cưới một mình nàng. Chỉ có một Fumiko mà thôi dù nàng giàu hay nghèo! Tư tưởng dứt khoát, Yukato đáp lời bố:

– Con sẽ chẳng bao giờ cưới người con gái “vàng” do bố chọn. Con sẽ không cưới bất kỳ ai ngoài Fumiko, ngay cả khi con phải từ bỏ tất cả…

– Con nói phải từ bỏ gì…?

Gương mặt ông bố Shimuza bỗng thay đổi từ trạng thái vô cảm sang tức giận. Dường như những tia lửa tóe ra từ đôi mắt ông bố. Thế nhưng Yukato không quan tâm. Lòng anh đã quyết… Câu chuyện giữa hai bố con kết thúc trong đổ vỡ.

– Fumiko yêu dấu. Anh rất thất vọng… vì bố anh một mực từ chối cuộc hôn nhân của đôi ta. Bố anh thậm chí từ chối gặp mặt em!

Có lẽ đoán trước được kết quả, Fumiko chỉ thoáng buồn khi nghe người yêu thuật lại sự việc. Nhưng ngay sau đó, Fumiko vui vẻ báo tin:

– Công ty vừa cho biết từ nay trở đi, em sẽ bay tuyến Tokyo – San Francisco !

– Thế chuyện của chúng mình em tính sao đây?

– Anh chưa nghĩ ra sao? Thế này nhé. Bố anh dứt khoát phản đối chúng mình cưới nhau. Anh giả vờ vâng lời bố và để cho bố vững tin, anh xin bố đi nước ngoài, cụ thể là đi San Francisco để mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu sang Hoa Kỳ…

Hai ngày sau, Yukato lại đưa ra yêu cầu xin bố cho cưới Fumiko. Tất nhiên là bố Shimuza run lên vì giận:

– Bố cấm con gặp lại cô gái đó…

– Bằng cách nào…?

– Ðơn giản thôi. Từ ngày mai, bố đưa con đi nước ngoài !

– Con không đi!

– Tháng sau, con đi Hàn Quốc…

– Rồi con sẽ sớm quay về thôi.

– Không! Không đi Hàn Quốc mà đi San Francisco xa xôi, con sẽ khó về lại Nhật hơn.

Thế là đầu năm sau, Yukato và Fumiko nắm tay nhau tung tăng dạo phố ở tận San Francisco mỗi khi nàng kết thúc chuyến bay Tokyo – San Francisco! Fumiko thỏ thẻ vào tai người yêu:

– Mọi chuyện rồi sẽ nguôi dịu đi thôi.

– Bố anh mới có hơn bốn mươi tuổi. Bố sẽ sống đến chín mươi tuổi hoặc hơn nữa. Em nghĩ chúng mình sẽ cưới nhau năm bảy mươi tuổi sao? Anh muốn em sinh con cho anh càng sớm càng tốt.

– Em có thể làm chuyện đó mà không cần đợi đến đám cưới !

– Không bao giờ anh chấp nhận điều đó vì nó sẽ hạ thấp danh dự của em ! Anh muốn em sẽ đường hoàng là phu nhân của Yukato Shimuza công khai trước mặt mọi người !

Nhưng than ôi, cuộc tình vụng trộm của đôi nam nữ không thể qua mặt được ông bố dạn dày kinh nghiệm. Bố Tadao Shimuza đặt nghi vấn với mẹ của Yukato:

– Lạ thật, từ khi đi San Francisco đến nay, Yukato hầu như quên hẳn Fumiko. Ngay cả trong lúc nói chuyện qua điện thọai nó cũng chẳng màng đề cập đến chuyện cưới hỏi Fumiko. Hẳn là có chuyện mờ ám gì đây.

Thế là bố Tadao tiến hành cuộc điều tra… Chỉ cần vài hôm sau, Tadao nổi giận khi biết “Nữ tiếp viên hàng không Fumiko Shigefusa đã chuyển sang bay tuyến Tokyo – San Francisco”. Ngay tuần lễ sau đó, bố Tadao “điều động khẩn” Yukato về lại Tokyo.

Buồn vô hạn vì bị cách ly với người yêu, Yukato quyết tâm thuyết phục bố Tadao… nhưng chỉ vô ích. Với anh, thế là hết. Hạnh phúc vĩnh viễn đã vuột khỏi tầm tay.

Một buổi sáng, Yukato rời ngôi biệt thự của bố mẹ. Vài giờ sau, nông dân đang làm đồng nhìn thấy một chàng trai trẻ đi lên dốc núi lửa Mihara.

Miệng núi lửa đang hoạt động này đã “đón chào” không biết bao kẻ tuyệt vọng vì tình. Núi lửa phun dung nham theo chu kỳ ba giờ một lần. Với tâm trạng bình thản, Yukato tiến đến miệng núi lửa, nơi thần âm phủ Shoko-O-Kamakura, chực sẵn để đón nhận linh hồn anh.

Sau khi hô to ”Fumiko, Fumiko… Anh yêu em, Vĩnh biệt em yêu dấu !”, Yukato nhảy vào miệng núi lửa đang tạm ngưng phun nham thạch theo chu kỳ!

Nhìn thấy Yukato tự tử, một người vội la to:

– Takashi, Soichiro! Nhìn kìa, một kẻ thất tình vừa nhảy vào miệng núi lửa.

Mọi người hiểu rõ rằng lý do khiến kẻ tuyệt vọng nhảy vào núi lửa chỉ có thể là vì tình duyên trắc trở.

– Nhanh lên, mặc bộ đồ chống cháy đi cứu anh ta làm phúc! Nếu chậm trễ, anh ta sẽ chết mất.

Người vừa hô to chính là Kamazaki, giáo sư trường đại học Tokyo. Quả là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Giáo sư Kamazaki đang ở dốc núi lửa gần đó. Yukato chỉ nghĩ đến cái chết nên không nhìn thấy Kamakazi hiện diện gần bên.

Nhóm người của giáo sư Kamakazi đang thí nghiệm chất liệu phòng bắt lửa mới dùng chế tạo đồ chống cháy cho ngành phòng cháy chữa cháy. Kamakazi cùng một đồng nghiệp mặc vội bộ đồ chống cháy, đội nón, mang mặt nạ vào. Họ đến bên miệng núi lửa và nhìn thấy Yukato nằm bất động trên gờ đất bốc khói bên dưới, cách miệng núi lửa độ ba mét.

Một cái móc được thả xuống. Sau nhiều lần trật vuột, cái móc ghim chặt vào y phục và cơ thể bất động của Yukato. Cái móc được từ từ kéo lên… Vài tiếng gầm gừ phát ra báo hiệu đợt phun trào nham thạch mới sắp diễn ra. Nhưng rất may, Yukato được mang ra khỏi miệng núi lửa kịp lúc.

Nhóm “cứu hộ” của giáo sư Kamakazi tức tốc lái xe Jeep đưa Yukato thẳng đến bệnh viện gần nhất. Tuy bị bỏng và vấy máu vì thương tích, Yukato vẫn còn thở…

Ông bà Tadao Shimuza, bố mẹ Yukato, gặp mặt Fumiko lần đầu tiên tại bệnh viện. Fumiko đáp chuyến bay sớm nhất từ San Francisco về Tokyo săn sóc người yêu vừa may mắn thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Nét mặt thoáng buồn càng làm tăng vẻ đẹp và duyên dáng của Fukimo.

Yukato trìu mến nhìn người yêu… Tấm chân tình của đôi trai tài gái sắc khiến bố Tadao mềm lòng và thuận tình cho họ kết duyên.

Image may contain: 1 person, sitting and indoor

Một chuyện tình yêu 80 niên

Một chuyện tình yêu 80 niên

Chàng 16 tuổi, còn nàng 12. Nàng về nhà người dì ở cùng quê chàng và đi học ở tiểu học nữ Cao Lãnh, Đồng Tháp. Chàng khi đó yêu nhạc đàn, chỉ 10 tuổi đã rất giỏi các nhạc cụ. Một lần, ôm cây măng cầm (mandoline) đến nhà người dì đàn cho vợ chồng họ nghe, chàng gặp nàng và “say nắng”. Nhưng chỉ là thầm yêu trộm nhớ vậy, vì 1 năm sau nàng đã từ giã người dì để về ở với cha mẹ tại Sóc Trăng. Chàng chính là nhạc sư Vĩnh Bảo sau này nổi danh còn nàng là hoa khôi Trâm Anh nổi tiếng.

Từ Sa Đéc khi đó tới Sóc Trăng là cả 1 quãng đường. Có lần, nhớ người trong mộng đến quay quắt, chàng đón xe đò xuống quê nàng. Đứng ở cầu quay Sóc Trăng, chàng chờ hàng giờ, nhìn học sinh lần lượt đi qua mà không thấy bóng dáng nàng đâu, đành thất thểu quay về.

Năm 1946 – 12 năm sau, Vĩnh Bảo – lúc này đã là một tay đàn lẫy lừng – từ Sài Gòn về thăm quê cha ở Sa Đéc. Vẫn ôm mối tình vô vọng, khi gặp người quen, ông bâng quơ hỏi thăm về Trâm Anh, được cho biết nàng vẫn còn độc thân ở quê nhà.

Chàng trai năm ấy quyết liều một phen, về nhà nhờ gia đình mang trầu cau sang dạm hỏi. Phút giây cha mẹ bà gật đầu đồng ý, ông miệng cười mà nước mắt tuôn rơi. Nhạc sư không dám tin từ nay sẽ sống bên người con gái ông ngỡ đã mãi đánh mất. Một đám cưới nhỏ được tổ chức ngay trong năm. Và họ nên duyên cầm sắt.

Yêu vợ, 7 người con ra đời đều ông đặt theo tên vợ: Thu Anh, Trung Anh, Tam Anh, Tùng Anh, Tú Anh, Tiến Anh, Tường Anh. Ông từng tâm niệm vợ chồng gắn bó cả đời là ở sự kính nể nhau. Học trò về Đồng Tháp thăm nhà ông, thường ngưỡng mộ tình cảm ông dành cho vợ. Trong gian nhà chỉ khoảng hơn 40 m2, ông bày khắp tường khung ảnh của vợ, từ khoảnh khắc vợ chồng thuở thanh niên đến lúc bạc đầu.

Bà làm vợ 1 nhạc sư, gia cảnh nghèo, rất tần tảo lo tề gia nội trợ, yêu chồng thương con, quý học trò của chồng.

Những năm cuối đời của Trâm Anh, ông không rời bà nửa bước. Lúc ấy, bà bị suy thận, phải nhập viện điều trị. Ông thường nằm bên bà để vợ bớt lẻ loi, hai cái giường chỉ cách nhau nửa gang tay. Đến khuya, bà than lạnh, ông liền leo qua nằm chung. Chứng thận yếu khiến người bà hay ngứa ngáy, phải nhờ ông gãi suốt đêm, bà mới êm giấc. Những tháng cuối cùng, biết mình khó qua khỏi, bà mới chủ động ôm chồng dù thường ngày, tính bà hay ngại. Mỗi lần muốn hôn, bà cố gượng dậy nhưng lực bất tòng tâm. Thấy cảnh đó, lòng ông đau như cắt.

Bà mất trong một chiều mùa thu năm 2014. Trong đám tang bà, ông không còn nước mắt để khóc. Nhạc sư chỉ kịp viết bài thơ tiễn biệt vợ sau 68 năm chung sống:

“Chiều nay em vĩnh viễn ra đi

Tim anh rỉ máu phút biệt ly

Sáu tám năm, nặng nghĩa sâu

Đơn phương cởi áo qua cầu mình em

(…) Từ nay lạnh lẽo kiếp phù sinh

Biết nói gì đây hết ý tình

Chuyến xe định mạng, đành an phận

Bấm ruột, lệ rơi chỉ riêng mình”.

6 năm sau khi người vợ ra đi, nay nhạc sư Vĩnh Bảo thọ 104 tuổi đã về trùng phùng cùng vợ. Chuyện tình của ông bà thật bình dị, nhưng thật đẹp, như cuộc đời của ông, bảo vật quý báu của đờn ca tài tử Nam Bộ, và của bà, một phụ nữ cả đời hy sinh nhất mực vì chồng con.

Theo VN Express, Truyền hình Đồng Tháp

Hình tư liệu

Nhà báo Nguyễn Thị Bích Hậu

TÌNH GIÀ

Van Pham

CHUYỆN PHIẾM CUỐI TUẦN…

Gửi mấy ông bà bạn già của tui… ở trỏng cũng như ở ni… đọc cho thoải mái cái đầu và để thấy… “hy vọng đã vươn lên trong màn đêm, bao u buồn…”

********

TÌNH GIÀ

Huy Phương

Tuần qua, giữa những tin buồn, tôi đã đọc được một tin vui. Trong hai chuyên tang, hôn, “hôn” chẳng vui là gì. Ðó là chuyện ông cụ Ebemezer Rose 93 tuổi vừa kết hôn với bà Monica Hayden, 89 tuổi ở West Palm Beach, Florida. Lý do đơn giản họ đưa ra là, “Chúng tôi đều cô đơn, tại sao không nghĩ đến việc lấy nhau?”

Người qua đường nghe chuyện này có người nói, “Già hết xí- quách rồi, lấy nhau làm chi nữa?” hay về phía cô dâu chú rể, người ta cũng có thể bình luận, “lấy nhau về để đổ bô cho ông (hay bà) ấy hay sao?” Mỗi lần mở đài phát thanh nghe các nhà thuốc Tây quảng cáo bán nào ống dẫn tiểu, túi dựng phân, tã lót, xe lăn, gậy chống… nghe đã lạnh người, cứ tưởng tượng ra đem một ông già hay bà lão về để phục vụ, rồi lo “hậu sự” đã đủ khiếp. Ở đây hai ông bà già, chỉ mới biết nhau hai mươi năm về trước, không tình mà cũng chưa đủ nghĩa, lấy nhau tất nhiên phải có lý do. Ðó là hai tâm hồn cô đơn tìm đến với nhau trong những ngày cuối đời, cũng có lý lắm chứ!

Hình như tình yêu của người Tây phương kéo dài lâu hơn tình yêu của người Á Ðông. Chúng ta thấy những ông bà cụ già cầm tay nhau đi trong công viên, thủ thỉ bên nhau, hôn nhau dịu dàng là chuyện thường tình, trong khi các ông bà cụ của chúng ta, thường già trước tuổi, bà cụ mới vừa tắt kinh đã đỏ mặt khi đụng chạm với ông cụ, cứ giẫy nẩy lên, sợ lũ trẻ nó cười, sợ già mà “không nên nết.” Vì vậy, chúng ta lại cũng thường khắt khe đối với những người lớn tuổi chết vợ, mất chồng mà còn “bước qua dư luận” tục huyền hay tái giá. Văn chương bình dân thì mỉa mai chuyện “bà già đã tám mươi tư, ngồi trong cửa sổ viết thư tìm chồng”, hay kể chuyện “bà già ra chợ Cầu Ðông, xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng? Thầy bói xem quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!” thật là “kỳ thị” hết chỗ nói.

Các cụ xưa thường đùa rằng, “Càng già càng dẻo càng dai, càng gãy chân chõng càng sai chân giường.” Nhưng theo các nhà y học, thì nói như vậy là trái với khoa học, có lẽ các cụ tiếc của trời, nói cho sướng miệng thế thôi. Nhưng bao nhiêu tuổi mới gọi là già, chưa nghe ai ấn định cho rõ ràng. Vả lại vợ chồng lấy nhau lúc trẻ, sống với nhau vì tình, về già nếu không còn tình, thì sống với nhau vì nghĩa, đâu phải cần đến chuyện chăn gối mà hạnh phúc vẫn vững bền, miễn là đừng bao giờ dập tắt sự chiều chuộng thương yêu.

Cuộc hôn nhân lâu bền nhất trên trái đất này thuộc về ông bà Arrowsmith ở Hereford, Anh Quốc. Ông cụ Percy Arrowsmith vừa mất hồi Tháng Sáu 2005 khi ông được 105 tuổi, và vợ ông 100 tuổi sau khi họ tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm hôn nhân hai tuần lễ trước đó. Bí quyết của đôi vợ chồng già kỷ lục này họ không bao giờ cãi nhau lúc lên giường và thường hôn hay cầm tay nhau trước khi đi ngủ. Mới đây nhất thì hồi Tháng Năm 2009, cũng tại Anh Quốc, ông cụ Frank Milford 100 tuổi và bà Anita 99, vừa ăn mừng hôn lễ thứ 80. Họ cũng tiết lộ là họ luôn luôn hôn nhau trước khi đi ngủ (không nghe nói trước hay sau khi tháo răng giả).

Vậy thì những ông già chết vợ, những bà lão góa chồng, nếu cảm thấy trống lạnh trên cõi đời này, chẳng có ai hôn mình trước khi đi ngủ, sao lại không có quyền bước thêm bước nữa.

Ở nước ngoài này hay trong nước, thỉnh thoảng tôi vẫn nghe dư luận chê trách những cái đám cưới mà ông cũng “thất thập cổ lai hy”, bà cũng “lục thập đắc nhĩ thuận” và cho đó là chuyện bất thường, nhưng nếu không là người trong cuộc, làm sao hiểu nỗi chuyện của họ. Lúc về già, vợ hay chồng mất sớm, con cái đều lập gia đình, ra ở riêng, ông hay bà thui thủi cô đơn, “lúc tỉnh rượu, lúc tàn canh” cũng buồn lắm chứ, sao không kiếm về một nửa bên kia của ai đã bỏ lại trên đời này, để ráp nối lại chiếc phi thuyền cuối đời bay về… cõi chết.

Nếu không rồi đây “khi rượu sớm, khi trà trưa, khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” lấy ai mà đối ẩm, lấy ai mà tri kỷ. Bạn thử nghĩ rồi đây, sáng thức dậy, bên ly cà phê nhỏ những giọt cô đơn, đọc một câu chuyện vui cũng chỉ biết cười một mình như thằng điên, buồn nỗi thế sự cũng không biết chia xẻ với ai, nghe một chuyện bất bình không có trái cam mà bóp nát trong tay, lấy ai làm người tri kỷ để chuyện trò, tâm sự.

Gần đây, hải ngoại quả thật có nhiều cụ, để trả thù những ngày cơ cực, tù đày, áp bức đã qua, làm những cuộc hôn nhân bước thêm bước nữa với những cô con gái còn quá trẻ, nhưng không biết lượng sức mình, đến nỗi “tinh khô, lực kiệt”, trở về trên chiếc xe lăn để người đời dè bỉu, châm biếm, mà con cháu cũng xấu hổ chê cười.

Những mối tình này được kết hợp một bên là thèm khát dục vọng, một bên là đồng đô la, không thể gọi là tình yêu được. Vì vậy, người đời hay khắt khe châm biếm những ông già mà lấy vợ trẻ, lại mỉa mai “trâu già mà thích gặm cỏ non” trong lúc chính các cụ răng yếu, vẫn thường lựa thức ăn mềm mà ăn thì chẳng ai nói gì.

Thầy Mạnh Tử cho rằng đại trượng phu là phải “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.”

Trong ba thứ “bất năng” này, thứ bất năng đầu tiên coi bộ khó giữ, vì thấy ở phương Tây này, các ông tỷ phú già thì lại hay lấy vợ sexy như người mẫu hay là vũ nữ thoát y. Tỷ phú Joe Hardy 84 lấy người mẫu Kristin Georgi 23, tỷ phú J. Howard Marshall 89 còn lấy cô vũ nữ playboy Anna Nicole Smith 26 tuổi, chỉ 14 tháng sau là “đứt bóng”, gây nên một vụ án chia gia tài khá ồn ào.

Nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã hát rằng, “Khi người ta yêu nhau , yêu trong lúc hai mươi tuổi đầu, thì không phải vì tiền đâu, nhưng mà chẳng được bao lâu…”, “Khi người ta yêu nhau, yêu trong lúc bẩy mươi tuổi đầu, thì không phải vì tiền đâu, nhưng mà chẳng còn bao lâu….”

Cho nên, bây giờ nếu các bạn nghe tin một ông cụ 90 mà lấy một bà lão 85, mặc dầu “chẳng còn bao lâu”, nhưng chắc chắn là không phải vì tiền rồi. Không phải vì tiền thì chỉ có một đường là vì tình, tình này bạn muốn hiểu là “tình cao thượng”, “tình trong sáng”, hay “tình cuối”, “tình già” sao cũng được.

Khi người ta lập gia đình năm hai mươi hay hai mươi lăm tuổi, có thể vì tình yêu xốc nổi, vì bồng bột, nhưng ở tuổi bảy mươi, sau khi đã qua tuổi “tri thiên mệnh” đã hai mươi năm, việc cưới một người về chung sống phải là việc suy nghĩ, chín chắn không ai có thể chê trách hay nghi ngờ vào đâu được.

Chưa ai biết ai đổ bô cho ai, chứ đêm nay trời trở lạnh, có hơi người cũng ấm, sống một mình, có người gãi lưng giùm cũng đỡ khổ. Trên giường có hai người bạn già nương tựa vào nhau, thì trong cái ly nước trên bàn ngủ, hai hàm răng giả cũng đang ngụp lặn bên nhau. Nói theo kiểu người Huế “Ðời còn vui không có răng mô!” (Ðời còn vui, không có sao đâu!)

Xin chúc mừng và nhớ “giúp nhau” nhé!!! kakakaaaa

Image may contain: text that says 'Love is... Supporting each other in old age.'

Lời tɾăn trối củɑ cô gái 27 tuổi qua đời ʋì ung thư

 

Lời tɾăn trối củɑ cô gái 27 tuổi qua đời ʋì ung thư làм dậу sóпg MXH: Hãу bỏ điện thоại хᴜốпg!

By Tạp Chí Hoa Kỳ – 8 January 2021

“Bạn có thể пgủ không ngon tối qᴜɑ ʋì мấу đứɑ con củɑ bạn qᴜấу, haу tóc củɑ bạn ᴄắт ngắn qᴜá. Bạn có thể làм gãу мóng taу, haу ngực củɑ bạn qᴜá пhỏ, haу mông bạn có ʋết lúм ʋà bụng bạn thì đầу мỡ. Hãу bỏ qᴜɑ đi. Tôi thề ɾằиg bạn sẽ không пghĩ đến пhữиg điều đó khi đến lượt bạn rɑ đi”.

Chắc hẳn, mọi người còn nhớ tới bức thư đầу xúc độиg củɑ Hollу Bᴜtcheɾ – мột cô gái người Úc không maу mắc căn bệпh ᴜпg thư нiếм gặp ʋà qᴜɑ đời ʋào пgàу 4/1 ʋừɑ qᴜɑ, khi chỉ ʋừɑ tɾòn 27 тᴜổi. Thời gian ấу, пội dung bức тhư cũng пhư là пgᴜồn пăng lượng tích cực, giàᴜ cảm xúc lan tỏɑ củɑ пó đã làм hàng triệᴜ пgười tɾên тhế giới ɾung động thông qᴜɑ các bài báo ʋà ρhương tiện tɾuyền thông. Tᴜу пhiên, мới đâу, Facebookeɾ пổi тiếиg Hᴜyền Chip lại мột lần пữɑ chiɑ sẻ lại bức thư được dịch chính xáç từ bản gốc để tɾᴜyền tải đúng ʋà sâᴜ hơn thông điệp củɑ cô gái tɾẻ xấᴜ số Hollу Bᴜtcheɾ tɾên tɾang fanpage củɑ mình như sau:

“Bức thư củɑ chị đã được Ԁịch sang тiếng Việt ʋà được khá пhiềᴜ báo đăng, пhưng мình đọc cứ thấу thiếu ý gì đó пên Ԁịch lại пhững lời khᴜyên củɑ chị theo ý нiểu củɑ мình. Một số từ tɾong bản gốc ʋiết sai lỗi chính tả, mình đoán là chị đã ρhải ʋượt qᴜɑ ɾất пhiều đau đớn tɾong пhững ngàу cᴜối cùng để ʋiết được bức thư пàу, ʋà điều đó làm mình ɾất buồn…. Mình xin đăng bản dịch cùng bản gốc.

Một chút lời khuyên cᴜộc sống từ Hol:

Thật kỳ lạ khi ρhải chấp пhận sự hữu hạn củɑ đời пgười khi bạn mới 26 tᴜổi. Đó là мột tɾoиg пhữиg điều bạn cố tình tảиg lờ. Ngàу пgàу tɾôi qᴜɑ ʋà bạn tɾôиg đợi пó sẽ ʋẫn tiếp Ԁiễn; cho đến khi điềᴜ bất пgờ xảу đến. Tôi đã lᴜôn нình Ԁᴜng мột пgàу пào đó мìиh sẽ già, пhăn пheo ʋà xáм xtт – ɾất có thể là kết qᴜả củɑ ʋiệc có мột giɑ đìиh xiиh đẹp (với пhiềᴜ con) мà tôi Ԁự định xâу Ԁựng ʋới tình уêᴜ củɑ cᴜộc đời мình. Tôi мᴜốn пó, đến mức ϯim tôi đaᴜ пhói.

Cᴜộc sốиg là ʋậу đấy; пó мong мanh, qᴜý giá, ʋà khôиg lường tɾước được. Mỗi пgàу là мột мón qᴜà, không ρhải là мột quyềп bạn нiển пhiên được пhận. Bâу giờ, tôi đaиg 27 тᴜổi. Tôi khôиg mᴜốn ɾɑ đi. Tôi уêᴜ cᴜộc sốиg củɑ мình. Tôi hạиh ρhúc… Tôi пợ điềᴜ đó ʋới пhữиg пgười tôi уêᴜ thương. Nhưиg quyềп quyết định không пằм tɾong taу tôi. Tôi không bắt đầᴜ ʋiết “lá thư tɾước khi tôi ᴄhết” пàу để мọi пgười sợ cái ᴄhết. Chúng tɑ hầu пhư hoàn hoàn không hề để ý đến điều không thể tɾánh khỏi пàу, coi пó пhư мột chủ đề cấm kỵ sẽ khôиg bao giờ xảу đến ʋới bất kỳ ɑi tɾoиg số chúng tɑ.

Tôi chỉ мᴜốn мọi пgười нãу пgừиg lo lắиg qᴜá đáng ʋề пhữиg điềᴜ пhỏ bé, ʋô пghĩɑ ʋà нãу пhớ ɾằng cᴜối cùng chúng tɑ đều có chung мột số ρhận. Hãу làm пhững điều khiến thời gian củɑ bạn tɾở пên đáng giá ʋà tuyệt ʋời, loại bỏ пhữиg điều không đâu ʋào đâu. Tôi đã ʋiết ɾɑ ɾất пhiều пhững suу пghĩ củɑ mình bởi tôi đã có ɾất пhiều thời gian để suy пghĩ tɾong ʋài tháng ʋừɑ qᴜɑ. Dĩ пhiên, пhữиg suу пghĩ пàу пhảу ʋào tɾong đầu tôi пhiều пhất là ʋào lúc пửɑ đêm! Mỗi khi bạn kêu cɑ ʋề một điều gì đó пgớ пgẩn (một điều tôi пhận ɾɑ ɾất пhiều tɾong mấу tháng gần đây), hãу пghĩ ʋề пhữиg пgười đang có мột ʋấn đề thực sự. Hãу biết ơn ʋề пhững chuyện пhỏ пhặt bạn ρhải đối mặt ʋà để пó qᴜɑ đi.

Bạn có thể thừɑ пhận мột chuyện khiến bạn khó chịu, пhưng đừng có пhai đi пhai lại ʋiệc đó làm ảnh hưởng tiêu cực đến пgười khác. Sau khi bạn đã làm điều đó, hãу ɾɑ пgoài ʋà hít thở мột hơi sâu không khí tɾong lành ʋào tɾong lá ρhổi củɑ bạn. Hãу пhìn bầu tɾời xanh thật xanh ʋà пhữиg cái câу xanh thật xanh. Hãу пghĩ ɾằиg bạn maу mắn thế пào khi mà ʋẫn có thể làm điều đó – hít thở.

Bạn có thể bị kẹt tɾong làn xe đông пghịt, haу пgủ không пgon tối qᴜɑ ʋì mấу đứɑ con xinh đẹp củɑ bạn quấу, haу thợ ᴄắt tóc ᴄắt tóc củɑ bạn пgắn qᴜá. Bạn có thể làm gãу móng taу, haу пgực củɑ bạn qᴜá пhỏ, haу mông bạn có ʋết lúm ʋà bụиg bạn thì đầу мỡ. Hãу bỏ qᴜɑ hết пhững chuyện đó đi… Tôi thề ɾằng bạn sẽ khôиg пghĩ đến пhững điều đó khi đến lượt bạn ɾɑ đi. Chúng thật ʋô пghĩɑ khi bạn пhìn ʋào hoàn cảnh cᴜộc sống. Tôi đang пhìn cơ thể mình hᴜỷ hoại từng пgàу пgaу tɾước mắt ʋà không thể làm gì được ʋề điều đó.

Ước gì tôi có thêm chỉ một пgàу sinh пhật haу Giáng sinh ʋới giɑ đình, haу chỉ một пgàу bình thườиg thôi ʋới bạn tɾai mìиh ʋà con cún cưng. Chỉ một пgàу thôi.

Tôi пghe mọi пgười than ρhiền ʋề ᴄôпg ʋiệc tồi tệ thế пào ʋà thật khó để có thời gian tập thể dục – hãу biết ơn ɾằиg bạn ʋẫn còn có thể làм điều đó. Làm ʋiệc ʋà tập thể dục có ʋẻ пhư là пhững thứ thật tầm thường – cho đến khi cơ thể bạn không cho ρhép bạn làm được пữɑ. Tɾân tɾọng sức khoẻ ʋà cơ thể ʋẫn còn hoạt động củɑ bạn – cho dù пó khôиg được béo gầу пhư ý. Chăm sóc пó ʋà chấp пhận пó tuyệt ʋời пhư thế пào. Hãу ʋận độиg chân taу ʋà пᴜôi dưỡng пó ʋới пhữиg đồ ăn tươi. Đừng để cơ thể củɑ bản thân tɾở thàиh một пỗi ám ảnh! Hãу пhớ ɾằng, sức khoẻ tốt không chỉ bao gồm cơ thể.

Hãу đầᴜ tư cả ʋào sức khỏe, tɾí óc, tình cảm, ʋà tinh thần củɑ bạn. Bạn có thể sẽ пhận ɾɑ hình ảиh cơ thể tuyệt ʋời mà mạпg xã hội muốn bạn tin ʋào пgớ пgẩn пhư thế пào. Nhân chủ đề пàу, нãу xóɑ khỏi danh sách theo dõi tất cả пhữиg tài khoản khiến bạn cảm thấу tồi tệ ʋề bản thân. Kể cả bạn bè. Hãу пhẫn tâm ʋì ρhúc lợi củɑ chính bạn. Hãу biết ơn mỗi пgàу bạn khôиg bị đau đớn ʋà cả пhữиg пgàу bạn thấу không khoẻ ʋới một tí cảm cúm, một cái lưng đau, haу bị tɾật gân. Chấp пhận ɾằng пó chẳng dễ chịu tí пào пhưng ít пhất thì пó cũng sẽ khỏi thôi ʋà cuộc sống củɑ bạn khôиg bị đe Ԁoạ. Than ρhiền ít đi, ʋà giúp đỡ lẫn пhau пhiều hơn.

Image may contain: 3 people

Tôi chỉ làm những gì tôi cảm thấy là đúng

Trong hình là Matt Lima, sĩ quan cảnh sát tại tiểu bang Massachusetts, Mỹ. Cách Giáng sinh 24/12/2020 ít ngày, anh nhận được tin cửa hàng tạp hóa Stop & Shop có 2 phụ nữ đã không thanh toán tiền trong khi lấy 1 số hàng hóa. Họ đã bị giữ lại.

Tới nơi, anh nhận thấy họ đi cùng 2 con nhỏ. Anh giao cho chủ cửa hàng giữ 2 đứa bé và mời một trong hai phụ nữ này ra một góc để nói chuyện. Là vì anh muốn trẻ con không nghe được câu chuyện này.

Người phụ nữ giải thích vì họ không có việc làm, và không còn tiền, mà Giáng sinh đã tới, họ chỉ muốn có một bữa ăn Giáng sinh cho con. Viên cảnh sát xem lại hóa đơn của họ vì hàng đã được trả lại trên kệ và nhận ra nó chỉ toàn thực phẩm. Anh thấy rất cảm thông với họ, và hai đứa bé con của họ cũng chỉ trạc tuổi con anh. Nên anh quyết định thả họ ra thay vì bắt giữ họ. Hành động của anh làm họ vô cùng ngạc nhiên và cảm ơn.

Tuy nhiên, viên cảnh sát không dừng ở đó, anh mua 1 thẻ quà tặng 250 usd và đưa cho họ để họ có thể mua hàng như mọi người mẹ đang chuẩn bị Lễ Giáng sinh cho các con. Vì anh muốn mấy đứa bé kia được hưởng Giáng sinh và Năm Mới tốt lành.

Anh nói “Tôi chỉ làm những gì tôi cảm thấy là đúng. Đó không phải là những gì to tát, tôi chỉ cố gắng đặt mình vào vị trí của gia đình đó và thể hiện một chút đồng cảm.”

Dịch từ turnto10

Hình của Yahoo News

Fb Nguyễn Thị Bích Hậu

Image may contain: 1 person, standing and closeup

ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…TRONG CUỘC ĐỜI MÌNH.!!!

 

GÓC SUY GẪM…

ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…TRONG CUỘC ĐỜI MÌNH.!!!

Một người đàn bà nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng nghe văng vẳng bên tai :”

Ngươi có thể vào trong và lấy bất cứ thứ gì mình muốn, nhưng đừng quên cái chính và hãy nhớ một điều: sau khi ngươi trở ra thì cửa hang sẽ đóng lại vĩnh viễn, tuy vậy hãy lợi dụng cơ hội hiếm có này và nhớ đừng quên cái chính”.

Nghe lời bà ta đi vào trong hang. Bà bị lóa mắt bởi vô số những thứ quý giá: vàng bạc, châu báu, kim cương. Bà ta đặt đứa con xuống và bắt đầu nhặt mọi thứ có thể và nhét hết vào mọi nơi trên người. Bên tai văng vẳng lời nhắc nhở: “ngươi chỉ có 8 phút thôi và đừng quên cái chính !”.

Sau khi đã nhét đầy người vàng bạc châu báu cũng là lúc hết giờ. Bà ta vội vã rời khỏi hang, cũng là lúc cửa hang đóng sập lại. Chợt bà ta sực nhớ đến đứa trẻ còn ở trong hang. Bà ta vứt tất cả vàng bạc châu báu đã lấy được và lăn ra khóc lóc vật vã. Nhưng chẳng ích gì vì cửa hang đã vĩnh viễn đóng lại.

Trong cuộc đời chúng ta cũng có khoảng 80 năm để sống ở đời và từ trong sâu thẳm đáy lòng luôn có một âm thanh nhắc nhở chúng ta:

“ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH”.

Nhiều khi con người vì ham kiếm thật nhiều tiền, nhiều khi ăn chơi vô độ, hoặc chạy theo danh vọng, sắc đẹp mà quên đi cái chính của cuộc đời: đó là chăm chút đời sống tâm linh, cho gia đình, cho những người thân yêu là cha mẹ con cái chồng vợ… là giá trị của đạo đức làm người.

Nhoáng cái đã hết 80 năm. Đến khi sắp nhắm mắt mới nhận ra mình đã quên đi cái chính thì ôi thôi đã muộn…!!!

Image may contain: one or more people, cloud, sky, twilight and outdoor

Món quà giáng sinh

Món quà giáng sinh

Tác giả: O-Henry 

Đây là truyện ngắn của nhà văn Mỹ nổi tiếng O-Henry. Truyện được xuất bản lần đầu vào ngày 10 tháng 4 năm 1906, không những được các độc giả phương Tây lúc bấy giờ yêu thích mà nó đã nhanh chóng được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới trong đó có Việt Nam. Câu chuyện có nội dung sâu sắc khiến người đọc không khỏi xúc động bồi hồi khi suy nghĩ về cuộc sống, về tình yêu, tình cảm vợ chồng.

Cả hai nhân vật trong câu chuyện đều là những người giàu lòng thương yêu, biết suy nghĩ cho người khác. Della và James là đôi vợ chồng trẻ tuy cuộc sống của họ còn nhiều vất vả nhưng họ luôn muốn dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất, kể cả hi sinh lợi ích của bản thân. Những thách thức mà họ gặp phải khi bí mật mua quà Giáng Sinh cho nhau chính là điểm hấp dẫn của câu chuyện. Chúng ta hãy cùng đọc và cảm nhận, để rồi trân trọng những yêu thương đang ở cạnh bên mình.

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn

cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó. Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu và ngày mai sẽ là Lễ Giáng sinh. Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi.

Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở. Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK. Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm ‘Jim’, James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.

Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ. Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho James của cô một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh. Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tường. Mắt cô sáng lên. Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della. Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.

Della bước chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu “Madame Eloise” Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ “Eloise” nào cả. Della cất tiếng hỏi:

– Bà mua tóc tôi không?

– Tôi chuyên mua tóc mà – bà ta đáp và bảo: “Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi”

Suối tóc nâu đẹp tuyệt vời buông xuống.

– Hai mươi đồng – bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

– Hãy cắt nhanh đi! Và đưa tiền cho tôi – Della nói.

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho James trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Đó là một sợi dây đồng hồ bằng vàng. James rất quý chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó. Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.

Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm: “Mình có thể làm gì với nó đây?” Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. “Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!”. Cô tự nhủ: “James sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?” Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần

xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt James. Thế rồi cửa mở, James bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cái áo khoác mới. James nhìn chằm chằm vào Della.

Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên James òa khóc: “Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói “Giáng sinh vui vẻ”, em có một món quà rất hay cho anh này!”

– Em đã cắt mất tóc rồi à? – James hỏi.

– Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? em vẫn là em mà! – Della nói. James nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn:

– Em nói là em đã bán tóc à?

– Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh!

Chúng ta có thể ăn tối được chưa, James?

Chợt James vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn.

– Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy.

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung sướng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa! Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc.

– Tóc em sẽ chóng dài ra thôi James – nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho James và chạy đi lấy.

– Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, James, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.

Nhưng James không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cười nói: “Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em.

Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu.”

Tác giả: O-Henry 

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Chuỗi Ngọc Lam đêm Giáng Sinh

Chuỗi Ngọc Lam đêm Giáng Sinh

DUYÊN PHẬN

Tác Giả: Fulton Oursler

Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê

🍀 – Ngày cô bé Joan Grace đẩy cửa bước vào tiệm của Pierre Richard thì Pierre là con người cô độc nhất thành phố. Có lẽ hồi ấy các bạn đã được nghe phong phanh câu chuyện đó. Nhưng báo chí không nêu tên mà cũng không kể chi tiết nên hôm nay tôi xin thuật lại tường tận.

Pierre đã được ông nội để lại cho một cửa tiệm bán đồ cổ. Trong cái tủ kính nhỏ xíu anh chất đủ các thứ đồ kỳ cục: vòng, mề đay đeo vào dây chuyền có từ thế kỷ trước, nhẫn vàng, hộp bạc, ngọc thạch hoặc ngà chạm trổ, tượng nhỏ bằng sứ.

Buổi chiều, mùa đông hôm đó, một em gái đứng áp trán vào tủ kính, trố mắt ngó kỹ từng vật cổ lỗ đó như muốn kiếm một vật gì. Bỗng em ngững đầu lên, vẻ khoan khoái rồi đẩy cửa bước vào tiệm.

Tiệm tối tăm mà còn bừa bãi hơn mặt tiền nữa. Có những ngăn tủ muốn sập vì chất quá nặng: hộp đựng tư trang, súng lục cũ không còn dùng được nữa, đồng hồ chuông đèn; còn trên sàn thì chất đống nào là giá để củi trong lò sưởi, đờn măng-đô-lin và những đồ cũ kỹ khó mà phân loại được.

Pierre ngồi ở sau quầy. Mặc dầu mới ngoài ba mươi mà tóc của anh đã hoa râm. Anh ngó cô bé.

Em hỏi:

– Thưa ông, con có thể coi chuỗi ngọc lam bày ở tủ kính không ạ?

Pierre kéo tấm màn, lấy chuỗi ngọc ra đưa cho cô bé xem. Những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trong bàn tay xanh xao của anh. Em đỡ lấy, thốt lên lời khen:

– Đẹp quá! Xin ông gói lại thành một gói đẹp cho con.

Pierre lạnh lùng ngó em:

– Có ai sai em đi mua hả?

-Thưa không. Con mua cho chị Hai con. Chị đã nuôi nấng con từ khi má mất. Đây là lễ Noel đầu tiên chị em con được ở gần nhau. Con muốn tặng chị một món quà đẹp.

Pierre nghi ngờ hỏi:

– Em có bao nhiêu tiền?

Em mở khăn tay ra, đổ lên bàn một nắm bạc xu, bảo:

– Con đã đập con heo của con ra đấy.

Pierre Richard ngó em, vẻ trầm tư. Rồi anh ý tứ cầm chuỗi ngọc lên, sợ em trông thấy giá tiền. Nói thẳng cách nào cho em biết được? Cặp mắt xanh đầy tin tưởng của em gợi cho anh nhớ lại vết thương lòng thời trước.

Quay lưng lại em, anh bảo:

– Em đợi một chút nhé.

Rồi vừa lúi húi làm một việc gì đó, anh vừa quay lại hỏi:

– Em tên gì?

– Thưa, Joan Grace.

Khi quay lại thì trong tay anh đã cầm một gói nhỏ bao bằng giấy lụa đỏ và cột bằng một băng lụa màu xanh lá cây. Anh đưa cho em bé và bảo:

– Này, coi chừng em đừng đánh rơi nhé.

Em Joan mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt về nhà. Anh nhìn theo, một nỗi buồn mênh mông dâng lên trong lòng. Em nhỏ đó và chuỗi ngọc lam khêu gợi lại một vết thương lòng không bao giờ lành hẳn của anh. Tóc em vàng như lúa chín, mắt em xanh như nước biển; mới mấy năm trước, anh đã yêu một thiếu nữ cũng có mớ tóc đó, cặp mắt đó. Chuỗi ngọc đã tính để tặng nàng.

Nhưng một chiếc cam nhông trượt bánh trên con đường trơn trợt một đêm mưa đã làm tiêu tan ước mơ.

Từ đó anh sống cô độc, ôn lại hoài nỗi khổ tâm. Anh ân cần lễ độ tiếp khách, nhưng ngoài công việc ra, anh thấy đời trống rỗng vô nghĩa một cách khủng khiếp. Lầm lì, không giao thiệp với ai, anh rán quên mà không quên được, nỗi thất vọng như sương mù cứ mỗi ngày mỗi dày đặc.

Cặp mắt xanh của em Joan Grace gợi cho anh hình ảnh người yêu. Vào dịp lễ này, khách hàng tới đông, ai cũng bộc lộ niềm vui làm cho anh càng đau lòng. Khách qua đường bước vào tiệm, chuyện trò, sờ mó các món đồ, trả giá lăng xăng. 

Đêm Noel đã khuya rồi, khi người khách cuối cùng bước ra, Pierre Richard thở phào nhẹ nhàng. Thôi thế là qua được năm nay. Nhưng anh đã lầm.

Cửa thình lình mở ra, một thiếu nữ xông vào. Anh thấy nhói ở tim: thiếu nữ có vẻ mặt quen quen nhưng anh không nhớ rõ đã gặp ở đâu, hồi nào. Tóc cô vàng hoe, mắt xanh thăm thẳm. Cô im lặng lấy trong túi xách ra một gói nhỏ bao vội vàng một thứ giấy lụa đỏ, lại có cả cái băng lụa màu xanh lá cây đã mở ra rồi. Và những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trên bàn:

– Chiếc chuỗi ngọc lam này có phải của tiệm ông không?

Pierre ngước mắt lên nhìn cô, nhẹ nhàng trả lời:

– Phải.

– Phải ngọc thật không?

– Nhất định rồi. Không phải thứ ngọc quý nhất nhưng ngọc thật đó.

– Ông có nhớ đã bán cho ai không?

– Bán cho một cô bé. Tên em là Joan. Em mua để tặng quà Noel cho chị Hai của em.

– Giá bao nhiêu?

Pierre nghiêm mặt đáp:

– Tôi không khi nào nói giá tiền khách hàng đã trả cho tôi.

– Em Joan chỉ có ít đồng tiền tiêu vặt làm sao em có đủ tiền mua chuỗi ngọc này?

Trong lúc đó, Pierre vuốt kỹ lại tờ giấy lụa, gói lại chuỗi ngọc. Anh bảo:

– Em đã trả đắt hơn hết thảy các người khác. Có bao nhiêu tiền em đưa tôi hết.

Hai người làm thinh. Cửa hàng bỗng tĩnh mịch lạ thường. Tiếng chuông từ một giáo đường ở gần đó bắt đầu đổ, văng vẳng đưa lại. Cái gói nhỏ đặt trên bàn, vẻ thắc mắc dò hỏi trong cặp mắt thiếu nữ và cảm giác hồi sinh kỳ dị dồn dập dâng lên trong lòng Pierre, tất cả những cái đó đều là do tình yêu của một em nhỏ.

– Nhưng sao ông lại làm như vậy?

Pierre vừa đưa gói nhỏ đó cho cô vừa trả lời:

– Hôm nay là ngày Noel. Tôi bất hạnh không có ai để tặng quà. Cô cho phép tôi đưa cô về nhà và chúc cô một lễ Noel vui vẻ với gia đình nhé!

Thế là trong tiếng chuông đổ hồi, giữa một đám đông vui vẻ, Pierre Richard và một thiếu nữ mà anh chưa biết tên, cùng nhau bước qua một ngày mới đem lại nguồn hy vọng tràn trề trong lòng mọi người.

Ảnh cùng dòng

Chuyện tù “cải tạo” của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

Chuyện tù “cải tạo” của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

Trần Đỗ Cung

 

Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông   thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.

Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?

 Trần Đỗ Cung