Ngày Về – Vương Mộng Long
Ngày Về – Vương Mộng Long
Hớt tóc vỉa hè. (Ảnh: phong-vu.blogspot.com)
Năm 1981, khi tôi còn bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm Tân, Thuận-Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại chuyện đời cho nhau nghe.
Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa bão dầm dề, thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo não của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy Dù.
Chúng tôi mất nước đã gần chục năm, xa nhà cũng đã gần chục năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua…” – “Những ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, thì người đàn, người hát, người nghe cùng chạnh lòng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ xóm giềng, và nhớ quê hương.
Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là cảnh-sát tỉnh Hậu-Nghĩa; nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm. Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée.“
Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đã thuộc nhập tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Ðế đã chọn quê hương tôi để dựng lên một Tân Thiên Ðường.)
Ngày xưa Thượng Ðế đã ban cho tôi một Thiên Ðường, mà tôi lại vô tình không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Năm 1975 Thiên Ðường của tôi đã không còn nữa.
Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ-Lớn. Khu này quy tụ khá nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia Hành-Chánh.
Vá, sửa xe đạp, một nghề phổ biến sau 1975. (Ảnh: vietq.vn)
Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam giữ ở Z30D. Vì làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.
Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh làm nghề quái quỷ gì mà nhiều sách thế thì anh vênh mặt lên,
– Tớ đi dạy.
– Dạy nhạc hả?
– Nhạc gì?
– Thì nhạc Việt, tân nhạc… hồi còn trong trại tù cậu và thằng Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…
Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,
– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ gì đâu? Guitar tớ học lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lý, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ tớ đi dạy Anh Văn!
Tôi nghi ngờ vặn lại,
– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?
Hùng cười hì hì,
– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ vì lý do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc còn lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mã-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…
Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đã được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại của Z30C, Hàm-Tân năm nào.
Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng uống trà; ông Ðốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Ðốc Sự cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đã ra chiều tương đắc.
Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên cạnh là cây đờn cò của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,
– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?
Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho tôi nghe.
Chiều ý tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng, ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt đầu: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua? Tìm đâu những ngày xanh như mộng?…”
Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “Tìm đâu? Biết tìm đâu? đâu giờ…” thì anh bắt ngay qua“Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”
Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn cò “í!a! í!a!…” phụ họa, còn ông thợ hớt tóc thì hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành! cành!…”trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành nghề.
Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao, khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát não nuột, tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn cò nức nở làm cho lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Ðạo một chiều Thu năm 1989.

Xe đạp thồ. (Ảnh: pinsdaddy.com)
Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó xì xào với nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”
Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”
(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong niềm vui vừa trở lại…) thì Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,
– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?
Thì ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo, họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…
Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Hòa nhìn nhau, miệng mếu xệch.
Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù cải tạo đã lẫn vào và như đã biến mất trong cái xã hội hỗn mang, hạ cám thượng vàng. Họ chìm vào giòng đời dưới những bộ mã khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động; ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn trong con người họ vẫn còn đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.
Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Hòa khác, ngày về của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ từ lẫn vào, và biến mất trong dòng chảy của một xã hội hạ cám, thượng vàng. Tôi bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.
Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng. Nó chẳng đòi ăn, đòi uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện trò gì. Tôi chất bất cứ vật gì lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Ðông. Trời nắng chang chang, nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-Gòn lên Thủ-Ðức, len lỏi trong những con hẻm ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng ký cá khô, tôm khô.
Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-Gòn đi Thủ-Ðức tới nhà anh bạn Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Võ-Bị chào mừng mười cựu sĩ quan khóa 20 Võ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi bãi cỏ đậu xe trước sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda, Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của mình có vẻ “oai phong” không kém gì chúng bạn, vì so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nhìn kỹ, tôi thấy nó còn có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng, kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!
Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên Sài-Gòn.
Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đã đon đả gọi con,
– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia kìa!
Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy còn nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ” mà mẹ anh ta đã đặt cho tôi.
Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà thì thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng tìm vàng, đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.
“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị bình thường. Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nhìn đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến đi dài ngày đào thiếc, tìm vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-Gòn; vợ chồng tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Ðường phố Sài-Gòn thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của Trường Trung Học Hưng Ðạo, nơi đứa con gái thứ nhì của tôi đang theo học. Qua những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đã quen mặt vợ tôi. Bà cũng biết rõ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đi tù cải tạo.

Nghề đánh máy chữ đã có từ lâu nhưng sau 1975 thì tràn ra đường.
(Ảnh: Zing News – Zing.vn.)
Chắc chắn hình ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đã lọt vào những đôi mắt tò mò.
Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười:“Sáng nay cô giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đã về chưa? Con nói bố em mới về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp đi qua nhà cô.”
Ðời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu theo dõi dòm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi dò la, tọc mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xã hội này. Tôi chạnh nghĩ, qua mười mấy năm dài, xã hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng Mạnh cũng còn là chút gì đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ vô cùng. Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là thường xuyên. Lốp xe nổ, thì vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa mình đi xe Jeep, ngày nay mình đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có gì mà phải kén chọn, quan tâm? Ðiều quan yếu là: Ngày xưa mình có nhau, ngày nay mình vẫn còn có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, mình còn nguyên vẹn như thế này là quý lắm rồi!
Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng! Anh bạn quý của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn Continental. Hắn chắt bóp mãi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới. Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa Sài Gòn thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đã có lúc viết nhạc bán cho một nhạc sĩ đã thành danh để có tiền đi phòng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật mãi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ- Ðức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Ðội.
Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.
Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi nơi góc.
Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Chi-Lăng của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Võ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-Gòn, nên thích nghe tôi kể chuyện đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô, chuyện khai thác gỗ quý, săn ngải, tìm trầm…
Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nhìn tôi, cười, miệng xuýt xoa: “Thế là có tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”
Sau đó khá lâu, gia đình Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách H.O 16. Qua tới Mỹ thì ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như cồn.
Thời gian đầu, khi Chánh còn cư ngụ ở Philadelphia thì tôi và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ thì tình hình đã đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, vì hai đứa tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện trò với anh được. Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?
Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Ða”, anh bạn tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ-Lý của tôi. Sở dĩ Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Ða” chỉ vì lúc nào trong túi anh cũng dự trữ sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhãn hiệu Fansidar. Không rõ bạn tôi có hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Ðà-Lạt và anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài-Gòn nhớ nhung anh gác-dan Khách Sạn Continental không nguôi?
Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những hình bóng mờ dần vì vô tình hay cố ý như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quý những giây phút bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.
Ôi! Biết tìm đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết tìm đâu xứ sở mà Thượng Ðế đã chọn làm một Thiên Ðường? Biết tìm đâu Việt-Nam Cộng-Hòa của tôi?
VML – K20
18-4-2018
CHUYỆN TÌNH HẢI TẶC… tiếp theo “ĐỨA CON LAI… HẢI TẶC”
Truyện Ngắn – Nguyễn Cát Thịnh
***
CHUYỆN TÌNH HẢI TẶC… tiếp theo “ĐỨA CON LAI… HẢI TẶC”
– Giới thiệu với chú, đây là bạn gái của cháu. Cô đã cùng với thám tử tư giúp tìm ra người cha hải tặc của cháu như trong bài viết “Đứa Con Lai… Hải Tặc” của chú.
Còn đây là ông chú mà anh vẫn thường nói với em.
-Chào chú! Chú ngạc nhiên lắm phải không? Con đã được nghe rất nhiều về chú. Con muốn gặp chú từ lâu nên đã nhờ bạn thu xếp giúp. Con từ Thái Lan qua, đang theo học tại Michigan State University. Con chọn trường này vì biết bạn cũng ở thành phố Detroit, Michigan.
-Chú không ngờ hai đứa lại hội ngộ ở Mỹ. Vui quá! Nhất là cả hai đều nói tiếng Việt rất giỏi.
-Chú quá khen đấy thôi. Cháu sinh ở Mỹ, chỉ nói đựợc tiếng Việt, giọng Bắc, nhưng đọc và viết thì chịu thua. Bạn gái cháu sinh ở Thái, nói giọng Nam ngọt như mía lùi. Viết thì hết sẩy, vì được học với mẹ và học gần hai năm ở Khoa Việt Nam học – Đại học Sư Phạm Hà Nội.
-Chú bái phục cả hai cô cậu. Thôi bây giờ chúng ta tìm tiệm cà phê Starbucks gần đây. Tha hồ chúng ta nói chuyện cũ, chuyện mới.
Cuộc trò chuyện thân tình, cởi mở cùng hai người trẻ với tư duy mới để lại thật nhiều ấn tượng. Họ khiến tôi phải xét lại một vài quan niệm lỗi thời.
Phong thái tự tin qua cách nói chuyện của họ cuốn hút đến nỗi tôi quên cả không gian lẫn thời gian. Quên mất cả tuổi già (một chút luyến tiếc tuổi trẻ đã qua.) May còn nhớ đường về!
Sau buổi chiều thú vị này, tôi vội ghi lại hai “Chuyện Tình… Hải Tặc” độc đáo:
– Chuyện tình cũ, tiền hung hậu kiết, của một hải tặc hoàn lương với một nạn nhân hụt của hải tặc.
– Chuyện tình mới, trong sáng, của cô gái kết tinh từ duyên kỳ ngộ của đôi uyên ương trên và “Đứa Con Lai… Hải Tặc.”
***
Lời cô gái:
– Chú đã bao giờ đến Sóc Trăng chưa? Đó là quê ngoại của con.
Trước 75 ông bà ngoại con có tiệm vàng ở trên đường Hai Bà Trưng. Ông ngoại đã mất ít lâu sau ngày đổi đời. Bà ngoại vẫn sống với các dì, dượng từ đó đến nay. Má là con út trong gia đình có năm anh chị em.
Nghe má kể, gần ba mươi năm trước, Dượng Hai hùn với mấy người bạn mua ghe tổ chức vượt biên. Khi đó má đang là giáo viên, buồn chuyện tình ngang trái với một đồng nghiệp, muốn bỏ xứ đi xa nên xin một chỗ trên tàu.
Bà ngoại can ngăn nhưng má nhất quyết, bà đành để má ra đi mà trong lòng thấp thỏm. Cho đến bây giờ, mỗi khi nghe thuật lại chuyến đi kinh hoàng ngoại vẫn còn run rẩy, vẫn chảy nước mắt.
Khách trên ghe đa số là bà con quen biết. Khởi hành từ Vĩnh Châu. Qua được hải phận quốc tế thì máy chính trục trặc không sửa được, phải chạy bằng máy phụ.
Đám đàn bà con gái xôn xao bàn tán, lo ngại vì tàu chỉ chạy quanh quẩn trong vịnh Thái Lan, e có nguy cơ gặp hải tặc. Nhiều người bàn chuyện quay lại. Thà trở về ở tù còn hơn phải đương đầu với nguy hiểm rình rập.
Trong lúc còn đang phân vân chưa quyết định có nên đi tiếp hay không thì điều lo sợ đã xảy ra, không kịp trở tay.
Hai chiếc tàu hải tặc chạy vòng quanh tàu, quan sát vài phút rồi hùng hổ tiến đến kẹp sát hai bên hông, đâm thủng một lỗ lớn. Chúng huơ huơ vũ khí. Dao dài, dao ngắn, súng, búa, rìu, đe dọa, đàn áp tinh thần mọi người.
Khi nước biển bắt đầu tràn vào phòng máy thì sự hoảng hốt lên đến cực độ.
Phần sợ ghe chìm chết đuối, phần lo hải tặc chém giết, hãm hiếp. Không ai dám lên tiếng. Đa số chấp nhận đầu hàng để mong được bảo toàn tính mệnh. Có người vật vã than khóc, có người lâm râm cầu trời khấn Phật, có người ngơ ngác như mất trí.
Rất nhanh chóng, những tên hải tặc vạm vỡ, đứa mình trần, đứa quấn khăn rằn, nhảy lên tàu uy hiếp các thanh niên, trói lại, dồn vào một góc hoặc ném xuống hầm.
Họ bắt đầu lục soát từng người, từng vật dụng, từng chỗ nghi ngờ nơi dấu vàng bạc châu báu.
Dì Hai, vợ của Dượng, dấu đầy vàng lá khâu kỹ trong áo lót, bị chúng lột trần truồng, đạp xuống biển. Má con sợ quá, lôi trong cạp quần tất cả số vàng mang theo đưa cho chúng trước khi bị khám xét.
Sau khi biết chắc chắn đã vơ vét cạn kiệt những gì muốn tìm, chúng bắt đầu chiếu cố đến chiến lợi phẩm kế tiếp: phụ nữ!
Mặc sự giãy giụa phản kháng, các cô gái trẻ đều bị chúng kiểm soát hàng họ. Xong, tuyển chọn một số vừa mắt chuyển xuống ghe của chúng. Má cũng không thoát khỏi.
Những người còn lại trên ghe cởi trói cho nhau, gấp rút tát nước, lấp lỗ thủng, tìm sự sống trong cõi chết.
Nhiều ngày sau, tàu may mắn trôi dạt vào Côn Sơn và tất cả đều bị bắt.
Hai tàu của hải tặc chạy mất hút. Các trò khả ố đã diễn ra. Các cô gái mềm nhũn nhắm mắt chịu nhục để những con thú thỏa thuê trên các thân xác bất động.
Một tên xáp lại gần má, mắt hau háu. Má co cụm, cúi mặt, hai bàn tay nắm chặt, ngồi ôm đầu gối. Hắn giơ chân đạp, đẩy má ngã ngửa. Phản ứng tự vệ khiến má giơ tay chống đỡ. Chiếc tượng Phật bằng vàng, vật hộ mệnh ngoại trao, rớt xuống sàn. Hắn sáng mắt, cúi xuống định lượm thì nhanh như chớp, một cánh tay khỏe mạnh từ đằng sau chận lại. Người hùng đó chính là ba tương lai của con.
Sau này nhắc lại, ba nói rằng khi chiếc tượng Phật rơi ra khỏi lòng bàn tay của má, một tia sáng với hào quang vụt loé làm ba chóa mắt. Cho rằng bị phép lạ của Phật Bà cảnh tỉnh, ba bỗng thấy hổ thẹn trước người con gái yếu đuối, có gương mặt thơ ngây, thánh thiện. Tuởng như hiện thân của cô bé láng giềng mất tích từ thuở nhỏ mà hình ảnh chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí. Ba nâng má dậy, bồng vào vào cabin, săn sóc tựa người thân.
Hình như có tiếng nói của một người vô hình ra lệnh cho ba phải bảo vệ má. Dù bị đồng bọn nói xiên xỏ nhưng ba phớt lờ. Họ nể ba vì ba là thợ máy, có chút chữ nghĩa, nên để má yên.
Qua gần một tuần bị hành hạ, cuối cùng các nạn nhân khốn khổ và má được họ thả vào bãi đất hoang của làng chài Budi thuộc vùng bờ biển phía Nam, ráp ranh giới Mã Lai. Ba trốn tàu, lên bờ, bí mật theo dõi má từng đường đi nước bước.
Cảnh sát tạm giữ tất cả, đồng thời báo cáo lên cấp trên chờ lệnh.
Cơ quan thiện nguyện được yêu cầu đem xe bus đến đón, bảo lãnh, đưa về Songkhla làm thủ tục nhập trại dù khi đó có tin đồn trại sắp bị đóng cửa vĩnh viễn. Má được xếp ở chung chòi lá với những cô gái đơn thân.
Sống ở ngoài không lâu, ba xin được công việc bảo trì điện nước ngay trong trại tỵ nạn một cách dễ dàng vì nói được chút ít tiếng Việt căn bản.
Hàng ngày nhìn thấy má nhưng mỗi lần ba lại gần liền bị má giận dữ xua đuổi.
Một hôm đi xách nước, má trượt chân té xuống ao kêu cứu, ba ở xa trông thấy vội phóng đến, nhảy xuống kéo lên, trong khi mọi người khác chỉ đứng nhìn.
Ba làm sơ cứu, xong bồng má phi thân đến bệnh viện cách khá xa. Khi hơi hồi tỉnh, mở mắt thấy ba đứng khép nép cuối giường với vẻ mặt ủ rũ, má chợt hiểu, chút áy náy trong lòng.
Từ đó tuy má không còn nhìn ba với con mắt thiếu thiện cảm nhưng vẫn lẩn tránh tiếp xúc. Ba chỉ còn cách âm thầm dõi theo cuộc sống của má.
Thực phẩm trong trại phân phát hầu như không thay đổi, ăn mãi một thứ cũng ngán, ba muốn tiếp tế đồ ăn mua bên ngoài nhưng má luôn luôn từ chối.
Ba nhờ người quen gởi cho má quần áo và những vật dụng hàng ngày của phụ nữ, nói dối là tặng phẩm của hội đoàn từ thiện. Má tưởng thiệt nên nhận nhưng khi biết là của ba thì má trả lại hoặc mang cho người khác. Ba không nản chí, tìm đủ mọi cách giúp má bớt khó khăn trong điều kiện sinh hoạt rất giới hạn trong trại.
Sau 14 Tháng Ba, 1989, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) quyết định đóng cửa các trại tị nạn, mọi thuyền nhân phải qua thanh lọc để hoặc được tiếp tục đi định cư nước thứ ba, hoặc phải hồi hương, trở lại nơi đã ra đi.
Không may, má nằm trong diện đó. Buồn hơn nữa, má rớt thanh lọc. Má và những người cùng số phận được chuyển sang trại Sikiew, nơi giống như nhà tù, có canh gác nghiêm ngặt.
Nếu không được đề nghị tái xét thì chỉ còn đường xin tự nguyện hồi hương hoặc chờ bị cưỡng bách hồi hương.
Ba kiên nhẫn theo má đến tận chỗ mới. Lần này ba chỉ sống quanh quẩn bên ngoài trại. Thỉnh thoảng mua chuộc lính canh, lọt vào bên trong, liên lạc với má.
Sự lạnh lùng thường nhật của má vẫn không làm nản lòng người tình si. Chỉ đến khi một chuyện bất ngờ xảy ra khiến quan hệ giữa hai người bước sang ngã rẽ mới.
Trong một đêm, đám lính nhậu nhẹt say sưa gây náo loạn, bắt cóc má và hai cô gái khác, lôi ra ngoài trại.
Tiếng la hét của các cô gái cầu cứu báo động vài thanh niên cảm tử đuổi theo, bất chấp lệnh giới nghiêm sau 10 giờ đêm. Lính canh nổ súng buộc các thanh niên phải trở vào.
Biết có biến vì nghe tiếng súng nổ, ba vội vàng tìm đến. Kịp nhận ra một trong ba cô gái bị lôi kéo là má. Lấy hết sức bình sinh, ba liều mạng xông pha, vùng lên như cọp dữ, đá bay tên này, đấm gục tên kia, các tên còn lại sợ quá, trốn chạy.
Má chưa hết hoàn hồn, chân tay bủn rủn không đi đứng nổi. Một lần nữa ba lại có dịp bồng má, đưa vào chỗ nghỉ. Phải mất một ngày má mới tạm hồi phục.
Ánh mắt của má nhìn ba bây giờ đã có chiều trìu mến. Má không còn từ chối sự săn sóc của ba nữa. Má e thẹn nhớ đến những lần “bị ba bồng”, cảm giác lâng lâng dễ chịu. Tình cảm đã bắt đầu nhen nhúm.
Viễn ảnh cưỡng bách hồi hương trước mắt. Tình trạng mất an ninh trong trại. Tình yêu vừa chợt đến. Tất cả các nguyên do đó đã khiến má không có sự chọn lựa nào khác khi ba ngỏ lời đưa má ra khỏi trại, bằng cách hối lộ các quan chức có thẩm quyền.
“Ba đưa nàng về dinh” ở thành phố Bangkok.
Khi tình yêu đã chín mùi, họ đồng lòng làm lễ cưới theo Phật giáo, ước mong có sự kết hợp thiêng liêng.
Các Tỳ kheo được cung thỉnh đến tụng kinh cầu an trong căn nhà của đôi tân hôn. Theo phong tục, sáng hôm sau ba má đem thức ăn cúng dường cho chư Tăng trước khi họ tiến hành hôn lễ. Chư Tăng tiếp đó đọc kinh cầu phúc và rải nước thánh chính thức công nhận cuộc hôn nhân.
Ba má mở tiệm ăn đặt tên “Thai-Viet”, chọn nghề chân chính, làm ăn lương thiện. Khách ủng hộ mỗi ngày mỗi đông. Không giàu có nhưng sống sung túc. Gia đình ổn định theo giáo lý nhà Phật.
Hai người anh trai song sinh và con đã lần lượt ra đời và trưởng thành từ căn nhà bình yên, lúc nào cũng vang vang tiếng cười hạnh phúc.
Ba tin ở thần Ganesha, vị thần đầu voi tượng trưng cho sự hợp nhất giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ, được xem là vị phúc thần đáp ứng những điều may mắn, cát tường mà ba thường cầu nguyện.
Chú ạ! Con không có ý thuyết pháp đâu nhưng chú cho phép con nói một chút về quốc giáo của Thái Lan nhé.
Phật giáo có một vị trí vô cùng quan trọng, đã đóng góp tích cực vào đời sống của người dân Thái, không những về mặt vật chất, kinh tế mà còn đi sâu vào đời sống tinh thần của họ.
Xứ sở được biết đến như quê hương của nụ cười, đất nước của những chiếc áo cà sa. Nó nói lên một cách sâu sắc về một đạo giáo lớn mà dân tộc Thái tôn thờ.
Trong mỗi con người, ngoại trừ hải tặc và kẻ gian ác, đều có niềm tin và tín ngưỡng, đều tin tưởng và cầu nguyện cho mọi điều tốt đẹp đến với tha nhân, đến với bản thân cùng gia đình. Có tin tất có linh!
Ấy thế, từ các dân đánh cá hiền lành, một số ngư dân Thái đã bị vật chất và dục vọng cám dỗ, trở thành những tên hải tặc điên cuồng gây ra thảm kịch kinh hoàng trên biển đông suốt hai thập niên. Cả thế giới lên án. Tên và hình ảnh đất nước Thái Lan bị hoen ố. Người Việt căm hờn, thù ghét.
Con rất xấu hổ về những tội ác dã man, ghê tởm của họ. Sự thiếu hiểu biết giáo lý nhân quả nghiệp báo đã làm cho họ xa cách khuôn khổ của chánh pháp.
Con tin, đời này và đời sau họ sẽ phải trả giá, ác giả ác báo.
Với một đất nước có gần 95% người dân theo đạo Phật Nam Truyền, 4.6% đạo Hồi, 0.7% Thiên Chúa giáo, con tin các hải tặc hoặc vô thần hoặc là tín đồ hoang đạo của một trong các đạo giáo đó. Họ cũng có thể thuộc về tà giáo, tín đồ của quỷ Sa Tăng.
Con rất mừng và hãnh diện vì ba đã sớm tỉnh ngộ, đã trở lại với bản chất hiền hòa, từ ái, khiêm cung và nhã nhặn của một người dân Thái tiêu biểu. Đã thể hiện một phần nào cốt lõi Phật pháp qua cách thực hành đạo lý.
Hồi cuối năm ngoái, con đã đến Ogden thuộc tiểu bang Utah dự lễ khai trương của chùa Chaimongkolvararam.
Quỳ lạy trước Phật A Di Đà, con xin Ngài chứng giám cho ba, người mà một thời là hải tặc, đã nguyện sống một đời ăn năn sám hối. Con xin Ngài ban sức mạnh để ba giữ mãi sự quân bình trong tâm khảm. Con cầu chư Phật độ trì cho ba má giữ hương lửa tình yêu nồng ấm đến trọn đời.
Con cầu Ngài soi ánh đạo vàng, giải thoát những hải tặc già cũng như trẻ, ra khỏi vòng u mê, tìm thấy chánh đạo. Con cũng không quên cầu nguyện cho những nạn nhân của hải tặc, đồng bào Việt Nam ruột thịt của má con. Cầu cho người chết được siêu thoát. Cầu cho những người sống sót tìm lại được bình an.
***
Lời chàng trai:
Như chú biết, cháu đã trải qua một thời gian dài ở Thái Lan, quyết tìm gã hải tặc gieo rắc hậu chứng bi thương cho gia đình cháu.
Những ngày tháng vô vọng, cháu len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm của các thành phố Thái, chỉ cầu may gặp sự mầu nhiệm.
Có hôm anh tài xế xe Tuk-Tuk đưa cháu vào tiệm ăn Thai-Viet ở Bangkok. Ở đấy cháu gặp và quen cô sinh viên con ông bà chủ (chồng Thái vợ Việt.)
Với nụ cười tươi, tiếp đãi lịch sự ân cần, nói năng ngọt ngào, cô đã chinh phục được người khách phương xa, gây cảm tưởng tốt đẹp.
Cô có dáng dấp rất Việt Nam, tiếng Việt chuẩn mực, cách nói thu hút người nghe. Chả thế mà cháu đã trở thành thực khách trung thành suốt thời gian ở Thái.
Trong khi chờ thám tử cung cấp tin tức về người cha hải tặc, mỗi tuần ít nhất ba ngày cháu phải đến tiệm, vừa để ăn uống vừa để có dịp gặp gỡ cô gái.
Chúng cháu có thể ngồi bàn luận hàng giờ không chán, đủ mọi lãnh vực, rất tương đồng, tương đắc. Hôm nào không đến, thấy nhớ kỳ lạ.
Cháu để ý thấy cô tiếp cháu có vẻ vồn vã đặc biệt hơn các thực khách khác. Cháu tự hỏi có phải đó là khởi đầu của tình yêu? Chú có tin tiếng sét ái tình không? Thú thật, ngay lần gặp đầu tiên cháu đã liêu xiêu, có phải cháu “bị” rồi không chú?
Khi đề cập đến đời tư, chúng cháu nhận ra gia cảnh của cả hai khá giống nhau. Ba của cô và cha của cháu đều có gốc hải tặc Thái Lan. Hai bà mẹ đều xuất thân từ những gia đình Việt Nam nền nếp.
Cô là sản phẩm của tình yêu chân chính, cháu là sản phẩm của hành vi hiếp dâm dã man. Cha hải tặc của cô đã trở thành một Phật tử thuần thành, sống đời đạo hạnh. Cha hải tặc của cháu không tông tích.
Tình thương cao thượng của người cha nuôi vô sinh hữu dưỡng và sự hy sinh cao cả của người mẹ chưa được đền đáp thì đã qua đời làm cháu mãi ân hận. Cháu mang điều đó tâm sự.
Cô cho biết ở Thái mọi người con trai trưởng thành đều thọ giới, phải qua một khoá tu ngắn hạn gọi là Buatphra, có nghĩa là tu để trả ơn cho cha mẹ, đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục.
Ngay khi khoác lên người chiếc y vàng, người con đã phần nào tạo được phúc báo hồi hướng, tích phúc cho cha mẹ, còn sống hay đã mất.
Với người đã khuất núi, đi tu còn mang ý nghĩa báo hiếu để người chết được siêu độ, ra đi thanh thản.
Không bao giờ trễ nếu người con muốn mang lại vinh hạnh cho cha mẹ, cho dù ở bên kia thế giới, bằng đường tu tập gieo duyên với tam bảo.
Chú ơi! Chưa bao giờ cháu tiếp nhận một lời khuyên chân thành hơn. Cháu sẽ chọn thời gian thuận tiện vào dịp lễ Khao Phansa là mùa an cư của Phật tử, ghi danh một khóa tu ở chùa Đại Già Lam Wat Nawamintararachutis tại Raynham, Massachusetts, để vừa ổn định tinh thần, vừa tu tâm dưỡng tính.
Ngày qua ngày, hai đứa trở nên gần gủi hơn. Cô khóc cho phận đời oan nghiệt của cháu. Chúng cháu định ôm nhau an ủi, theo thói quen, nhưng mặc cảm thất lễ của đứa con hải tặc ngăn lại.
Cháu tự nhắc nhở phải tôn trọng phái nữ, bất kể là ai. Không cho phép “gien” hải tặc có cơ hội trổi dậy. Cô thật lòng chia sẻ về nỗi uất hận mang nửa giòng máu hải tặc của cháu.
Cháu nói rõ mục đích đến Thái Lan chỉ để đưa người cha hải tặc ấy đối đầu công lý, cô tình nguyện trợ giúp.
Hơn sáu tháng sống ở Thái Lan đủ để chúng cháu hiểu nhau. Chưa ai mạnh miệng nói tiếng lòng nhưng cả hai cảm nhận được mối quan hệ thân thiết đã vượt qua giới hạn bạn bè.
Mỗi khi có thời gian rảnh rỗi cô hân hoan rủ cháu đi thăm viếng các danh lam thắng cảnh hoặc giới thiệu các ngôi chùa nổi tiếng như chùa Wat Arun nằm trên bờ phía tây của sông Chao Phraya, Thonburi, với lối kiến trúc đậm nét Thái và nhiều chùa khác nữa, Wat Phra Kaeo, Wat Pho, Wat Benchamabophit Dusitvanaram, Wat Mahathat, Wat Saket, Wat Traimit…
Có lần cô đưa cháu đến trung tâm thương mại Central World, vào ngôi đền Trimurti. Chúng cháu cùng nhau chắp tay quỳ trước tượng thần. Ra về, hỏi cô đã cầu nguyện gì? cô chỉ mỉm cười, má ửng hồng, thẹn thùng không nói.
Sau này cháu được biết đền thờ ấy là ngôi đền cầu tình duyên linh thiêng bậc nhất Bangkok. Một ngày chủ nhật đẹp trời chúng cháu dắt nhau về miền quê có phong cảnh hữu tình. Cháu đã ngỏ lời yêu và thật sung sướng, cô đã chấp nhận.
Cuối cùng, thám tử đã tìm thấy người cha sinh học của cháu. Đó là một nhà sư già khắc khổ, trụ trì ngôi chùa nhỏ trong một làng chài hẻo lánh.
Thoạt tiên dân làng không biết nhà sư này từ đâu tới nhưng khi ông trút bỏ tất cả khối tài sản khổng lồ mang theo, phân phát cho mọi người trong và ngoài làng thì họ đã hiểu.
Rất ít người nhận quà tặng nên ông đã dùng vào những việc công ích như xây cất cầu đường, trường học, trạm y tế, nhà máy điện nước v.v… Cuộc sống của dân làng nhờ thế đã được cải tiến.
Họ để yên cho ông tu hành cùng vị sư thầy cho đến lúc thầy viên tịch, ông lên thay, trụ trì ngôi chùa. Thật ra ông chưa phải là một nhà sư chính thống vì chưa được thọ giới theo luật đạo. Gọi ông là cư sĩ thì đúng hơn.
Chúng cháu nhờ luật sư thiết lập hồ sơ sẵn sàng đưa ông ra tòa hình sự. Cháu cũng đã thỉnh ý chú và nhận được lời tư vấn đầy nghĩa tình.
Trở về Mỹ, cháu vẫn còn lưỡng lự.
Tuần lễ trước, cháu đến đón cô sau buổi học, thấy cháu trầm mặc ưu tư, cô đưa cháu vào thư viện của trường đọc sách. Chúng cháu cùng đọc, cùng nhau nghiền ngẫm và thảo luận một vài đoạn trong cuốn sách của bà Ashley Lawton (Nhà văn, nhiếp ảnh gia và diễn giả Kitô giáo). Người dịch Hà Anh:
***
Thiên Chúa biến sự dữ thành sự lành. Vụ hiếp dâm đã mang tôi vào thế giới này. Tôi là con của Thiên Chúa! Ngài đã làm cho tôi được nhận nuôi, và công trình huy hoàng của Ngài thật tốt đẹp, vững chắc và kỳ diệu. Tôi ở đây để chia sẻ tin mừng, và kế hoạch Thiên Chúa dành cho cuộc đời tôi. Tôi sống sót – không phải vì một sai lầm, mà nhờ hồng ân Thiên Chúa.
***
“Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo; dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.
Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách của Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự.” (Thánh Vịnh 139, 13-16)
Sách Ngôn sứ Jeremiah chương l, câu 5: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi; Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”
***
Ngài biết tôi, Ngài đã dựng nên tôi, Ngài yêu tôi. Bạn thấy đấy, tôi không phải là một sản phẩm lỗi. Thiên Chúa biết điều gì sẽ xảy ra, ngài biết ngày được thành hình, và có một kế hoạch lớn lao hơn cho tôi mà không ai có thể hiểu hết được. Thậm chí cha mẹ nuôi của tôi cũng không thể hiểu được. Cha trên trời của tôi đã mặc khải cho tôi ý nghĩa của mục đích mà Ngài đã ghi khắc vào cuộc đời tôi.
***
Những gì Ngài đã làm cho tôi và thông qua tôi. Xin ngợi khen Thiên Chúa bởi sự mặc khải của Ngài trong sách ngôn sứ Jeremiah: “Vì chính Ta đã biết các kế hoạch Ta định làm cho ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa – kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.” (Gr 29, 11).
***
Và sau cùng, thêm một nhận thức từ bài viết của Betty Michael Esene, một nghệ nhân trang điểm người Nigeria, trích từ bài Lord is my Shepherd/ Chúa Trời là Người Chăn Dắt Tôi:
“Mọi trẻ em đều có một cuộc đời để sống, cách riêng, là những trẻ em được sinh ra do hậu quả của hiếp dâm. Chúng có một tương lai tươi sáng và người kiến tạo là Đức Chúa Trời – Người đã không đem chúng đến với thế giới này nếu không có mục đích. Các em không phải là “sản phẩm” của những kẻ hiếp dâm phụ nữ, mà là một công trình sáng tạo của Thượng Đế. Người đem các em đến vì một mục đích và để hoàn tất định mệnh.”
Ra khỏi thư viện, hai đứa nắm tay rảo bước trong sân trường đại học, mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng tư.
***
Lời cô gái nói với chàng trai:
Thật sự tự đáy lòng, bây giờ, em không xem anh như là “sản phẩm” của lão hải tặc hiếp dâm mẹ anh. Em là Phật tử nhưng trong vấn đề này, giáo lý Ki Tô đã khiến em phải suy nghĩ.
Sự thụ thai do hiếp dâm theo giáo lý đạo Phật sẽ là một đề tài lớn thách thức em tìm hiểu.
Em nhớ, năm 2015 Miss Grand International tổ chức tại Thái Lan, Hoa hậu Anea Garcia trả lời trong phần ứng xử rất chân thành làm khán giả và ban giám khảo xúc động:
“Mẹ tôi là một nạn nhân của một vụ hiếp dâm và tôi ra đời như một việc ngoài ý muốn. Đó có thể là một cú sốc với nhiều người, nhưng nếu như không có ông ấy thì tôi đã không thể có mặt ngày hôm nay. Nếu được gặp người đàn ông ấy, tôi sẽ bước đến, ôm chặt ông và nói rằng tôi tha thứ cho ông ấy. Vì đó là cách duy nhất mà tôi có thể sống cuộc sống của mình trong sự thanh thản”.
Không phải ai cũng rộng lượng như cô hoa hậu. Em chỉ nghĩ rằng anh là đứa con của định mệnh. Anh không có trách nhiệm phải chịu liên đới về những gì đã xảy ra và có quyền được sống như mọi người lương thiện khác.
Giòng máu Việt anh hùng luân lưu trong huyết quản sẽ cho anh sức mạnh triệt tiêu giòng máu nhiễm độc hải tặc Thái. Em mong anh có sức khỏe, nghĩa là luôn luôn có được trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất lẫn tâm thần.
Chúng ta cùng có nửa xác phàm Thái nhưng chúng ta có cả một bầu trời Việt Nam trong tâm tưởng để có thể hãnh diện tuyên xưng “chúng tôi là người Việt Nam.”
Chúng ta đã khẳng định tình yêu. Em yêu anh và mãi mãi yêu anh.
Đến ngày lễ hội hoa đăng Loy Krathongy, rằm Tháng Chạp Thái lịch, em sẽ rủ anh về thăm quê. Suốt đêm trăng tròn, chúng ta sẽ cùng nhau đi thả đèn Krathong xuống sông, để cầu cho tình nghĩa vợ chồng và tình yêu bền chặt.
***
Trên đây là chuyện tình của đôi trẻ được sinh ra từ hoàn cảnh bi đát của một thời bất hạnh. Câu chuyện được ghi lại, bằng lòng yêu thương và niềm tin vào tình nghĩa và phẩm giá con người.
Cầu nguyện cho lứa đôi hạnh phúc và chúc lành tương lai.

Đứa con lai… hải tặc -TRUYỆN NGẮN – NGUYỄN CÁT THỊNH
TRUYỆN NGẮN – NGUYỄN CÁT THỊNH
***
Đứa con lai… hải tặc
Xong tú tài, tôi vào Sài Gòn cư ngụ trong đại học xá Minh Mạng, Chợ Lớn để tiếp tục việc học. Sau này có một anh sinh viên Dự Bị Y Khoa được xếp chung phòng. Khi ra trường phải động viên vào quân đội, tôi nhường anh chân gia sư dạy kèm hai học sinh trung học, một trai một gái. Họ là con của một ông trung tá Bộ Tổng Tham Mưu và bà chủ một công ty nhập cảng vải lụa.
Cuộc biển dâu xảy ra. Tôi và ông trung tá đều bị nhập trại “tập trung học tập cải tạo.” Tôi “học tập” một thời gian không dài lắm, có lẽ vì cấp bậc nhỏ ít nợ máu. Ông trung tá bị chuyển ra trại tù miền Bắc. Được trả tự do nhưng không việc làm, lê lết ở các quán cà phê vỉa hè, một ngày nọ tôi tình cờ gặp lại bạn. Bấy giờ anh đã là bác sĩ tại một bệnh viện thuộc quận nhất của thành phố.
Và câu chuyện bắt đầu từ đây.
Chuyện kể, khi cô học trò nhỏ không còn nhỏ nữa thì quan hệ giữa cậu cựu gia sư và tiểu thư tân sinh viên văn khoa đã bước vào giai đoạn anh anh-em em (âu cũng là điều dễ hiểu.) Gia đình cả hai bên đều hoan hỉ, trông đợi ngày đại đăng khoa và tiểu đăng khoa. Thế nhưng thời cuộc đã đảo lộn tất cả. Ông bố trung tá đi không biết ngày về. Bà mẹ mất cơ sở kinh doanh. Cậu con trai lớn tìm lãng quên trong những con hẻm nhầy nhụa. Tiểu thư tuy vẫn còn đậm nét tiểu thư nhưng chớm trầm cảm vì cuộc sống đã nhuộm đỏ giấc mơ hồng. Cậu bác sĩ chung tình đeo thêm gánh nặng phiền muộn.
Rồi phong trào vượt biển rầm rộ khắp nơi.
Trong lần đi thăm nuôi cuối cùng, bà trung tá đưa tiểu thư và cậu bác sĩ ra tận trại tù Hoàng Liên Sơn dò hỏi ý chồng. Ông trung tá bỗng trở nên lạc quan sau những năm tháng tuyệt vọng. Ông biết sức khỏe và bệnh trạng của ông, biết ngày tàn không còn xa. Ông không những đồng ý với vợ mà còn mong vợ phải thực hiện chuyến đi cho các con bằng mọi giá.
Bà đã được cha mẹ cậu bác sĩ thuận kết sui gia. Nhân tiện gặp ông, bà và ông tác thành luôn cho đôi trẻ. Đối với cả hai gia đình, họ đã nên duyên vợ chồng. Ông xin các con hứa, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lúc vui buồn hay lúc cùng cực cũng phải gắn bó, không được chối bỏ nhau. Đôi trẻ kín đáo cúi đầu quỳ lạy thay lời thề chung thủy.
Bạn tôi cùng vợ và người anh vợ đăng ký chuyến đi bán chính thức của người Hoa. Khi ra đến bến bãi, một sự việc diễn ra ngoài dự tính của nhóm tổ chức. Chỉ những người Hoa chính gốc mới được nhận. Người Hoa giả mạo bị loại ra. Chủ tàu là một đại gia có mẹ già mang bệnh kinh niên nên cần thầy thuốc. Hắn hối lộ để xin đặc ân cho hai vợ chồng bạn tôi nhưng họ chỉ chấp nhận một người. Dùng dằng mãi, cuối cùng một mình bạn tôi lên tàu. Chuyến hải hành tương đối êm ả đưa người chồng đến đảo Bidong Mã Lai. Người anh vợ và người vợ trở về buồn hiu hắt.
Anh bạn tôi may mắn được gia đình một luật sư làm việc trong chính quyền tiểu bang Michigan bảo lãnh qua Mỹ. Sau hơn hai năm ôn luyện bài vở, anh được nhận vào nội trú để hoàn tất bằng hành nghề Y Khoa.
Người vợ đi thêm hai chuyến nữa không thành công. Chuyến sau cùng chủ tàu gọi đi khẩn cấp. Người anh trai của cô còn mải vui chốn giang hồ không kịp nhận tin, đành đi chuyến sau. Tôi đến chơi đúng thời điểm. Bà trung tá cho tôi trám chỗ, đồng hành với vợ người bạn.
Đâu có ai ngờ một chuyến đi định mệnh đang chờ đợi! Con tàu chạy vòng vo hai ngày ba đêm vẫn chưa nhìn thấy đất đảo như hoạch định. Tàu trôi, trôi như vô tận. Tài công thú nhận không có kinh nghiệm lái đường biển.
Buổi trưa, vừa nhai xong một nhúm cơm và uống một nắp nước do tàu cấp phát thì mọi người dưới hầm nghe nhiều tiếng chạy thình thịch náo động trên boong tàu. Qua kẽ hở, biết tàu đã bị hải tặc xâm chiếm không biết từ lúc nào. Họ hoàn toàn làm chủ tình hình. Trong vòng một tiếng đồng hồ không gặp kháng cự, những tên hải tặc đã đủ thì giờ lục lọi tìm kiếm vàng bạc và giở trò khả ố với những đàn bà con gái nằm la liệt trên sàn tàu mà trước đó đã được ưu tiên dời lên vì kiệt sức.
Sau khi đã chiến thắng được sự sợ hãi tột cùng ban đầu, một số thanh niên còn khỏe mạnh họp lại tính chuyện phản công. Đám hải tặc vẫn còn e dè, chặn cửa hầm chưa dám xuống. Để chiến đấu, mỗi người tự trang bị vũ khí cho mình. Với kìm búa gậy sắt gậy gỗ, họ phá bật nắp cửa hầm, reo hò vùng lên quyết sinh tử khiến đám hải tặc rúng động. Biết không địch nổi số đông áp đảo, không đợi lệnh, các tên hải tặc chen nhau nhảy xuống biển bơi về tàu của chúng, xả máy rút lui.
Tôi cố tìm nguời vợ của bạn. Một tên hải tặc mang vết sẹo dài trên vai trái bước ra từ phòng lái đầu hàng. Cô gái trong phòng nằm trên tấm nệm cao su vẫn còn lõa thể chính là người tôi tìm. Một tên nữa cũng chậm chân nên bị bắt giữ vì còn mải nhập thiên thai. Tên có sẹo có lẽ là đầu đảng, xá lạy xin đoái công chuộc tội bằng cách hướng dẫn tài công lái đúng đường, cặp vào đảo Tarempa Nam Dương.
Ngoại trừ những người bị nhốt dưới hầm, tất cả đàn ông đều bị trói gô chân tay. Một phụ lái bị giết chết vì kháng cự. Chủ tàu bị ném xuống biển vì cố che chở cho con gái nhỏ sắp bị hãm hiếp. Hai phụ nữ hoảng hốt nhảy xuống biển tự vận để bảo toàn trinh tiết… Mười một phụ nữ trẻ bị liên tục thay phiên hãm hiếp, riêng người vợ của bạn tôi được tên đầu đảng giành độc quyền. Một thanh niên trượt chân rơi xuống biển và năm thanh niên khác bị thương khi chiến đấu. Hai hải tặc bị bắt giữ nhưng trốn thoát khi tàu vừa cặp bến vào đảo Tarempa.
Chính quyền địa phương đưa tàu qua đảo Kuku tạm trú. Một tháng sau được chuyển sang đảo Galang. Chút vốn liếng tiếng Anh sót lại từ thời trung học giúp tôi tìm được một việc làm trong văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc. Có cơ hội thuận tiện, tôi tường trình trung thực những gì đã xảy ra.
Tôi thuyết phục các phụ nữ bị làm nhục ra trước ủy ban điều tra quốc tế đối chứng với lời khai của tôi. Nhưng chỉ có người vợ của bạn và một người vợ của anh thợ máy đồng ý. Tiếng kêu tuy yếu ớt được ghi nhận. Người vợ của bạn tôi suy sụp khủng hoảng tinh thần cực độ khi biết đã mang thai. Cô nài nỉ tôi tìm mọi cách giúp phá nếu không sẽ tự vận. Tôi thật sự khổ sở giữa nên hay không nên. Nếu nên thì cũng không biết làm sao. Phương tiện y tế hạn chế, dễ gây hậu quả xấu cho người mẹ.
Sau một đêm dài trằn trọc tôi quyết định viết một lá thư kể toàn bộ sự việc diễn tiến trên tàu, nhờ gửi khẩn cho người chồng. Năm tuần lễ sau nhận được hồi âm. Anh cho biết vị luật sư bảo lãnh anh đã tích cực vận động với các dân biểu và nghị sĩ tiểu bang cũng như liên bang lên tiếng với bộ ngoại giao Hoa Kỳ, thỉnh cầu can thiệp trực tiếp trường hợp của vợ anh để xin được đi định cư trong thời gian sớm nhất trước khi tiên liệu xấu xảy ra. Anh tha thiết xin vợ đừng phá thai, sẵn sàng nhận vai trò làm cha.
Tôi đã được phái đoàn Canada chấp nhận và thông báo ngày đi định cư nhưng phải xin đình hoãn. Sáu tháng vận động đã có kết quả. Anh bạn tôi đi cùng với nhân viên lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Singapore đến Galang. Qua thủ tục đặc biệt, mang được người vợ đến Mỹ. Đứa bé được sinh ra trên đất Mỹ với khai sinh mang họ của bạn tôi.
Trong buổi hội ngộ tiệc thôi nôi, vợ chồng anh bạn và người anh vợ cùng tôi đồng thuận tuyệt đối giữ bí mật mọi chuyện để sự phát triển tâm sinh lý của đứa trẻ không bị ảnh hưởng và sẽ lớn lên như một người Việt Nam trong một gia đình Việt tỵ nạn. Thỉnh thoảng có dịp thăm viếng tôi tưởng như nhìn thấy hạnh phúc thật sự trong gia đình họ. Cậu bé lớn lên trong tình yêu tràn đầy của cha lẫn mẹ.
Sinh kế đã làm giảm tần xuất liên lạc giữa chúng tôi một thời gian. Mỗi năm chỉ còn nhớ đến nhau qua những tấm thiệp xuân. Cho đến một lần, thay vì nhận được thiệp thì là một lá thư dài kể lại tai nạn thảm thương cướp mất người vợ.
Thường ngày người chồng nhắc nhở vợ dùng thuốc đều đặn vì hậu chấn thương trên biển cả khiến người vợ cần được săn sóc tâm thần và tâm lý trị liệu lâu dài. Lần đó người chồng đi dự hội thảo chuyên môn ở tiểu bang xa nhà… Người vợ đã bỏ thuốc nhiều ngày, giữa đêm mưa gió đi lang thang ngoài bờ sông không tự kiểm soát được, ngã xuống nước trôi mất tích…
Vợ chết. Bệnh trầm cảm truyền qua anh. Mặc cảm có tội luôn luôn ám ảnh. Anh dồn hết tình thương cho đứa bé, nay đã trở thành một thiếu niên. Đến lúc đứa con phải xa nhà vì học vấn anh không thể đương đầu với nỗi buồn gặm nhấm, trầm cảm nặng hơn.
Nhiều năm nữa trôi qua. Tin buồn khác lại đến. Bạn tôi qua đời sau một thời gian ngắn nhuốm bệnh. Anh biết bệnh mình trầm kha, nhưng buông xuôi không quan tâm chữa trị, có lẽ muốn gặp vợ để giữ trọn lời thề năm xưa.
Đứa con từ chuyến vượt biển của người vợ bạn tôi năm xưa nay đã là người lớn. Cha mẹ đều mất. Bác ruột di cư sang Úc theo vợ. Tôi trở thành người thân duy nhất để chàng thanh niên, tức đứa bé ngày xưa, xả tâm tình. Chúng tôi xem nhau như chú cháu. Những lá thư qua lại làm tôi lấy những ưu tư của một người trẻ nghĩ về thân phận mình. Sau đây là một số trích đoạn từ những lá thư của cháu từ nước Mỹ với ông chú, thư viết bằng Anh ngữ, và do tôi trích dịch:
“Chú ơi! Từ lúc bắt đầu hiểu biết cháu đã linh cảm có điều gì rất nghịch lý trong gia đình cháu. Hạnh phúc như con bướm lượn lờ trên những bông hoa mời chào, ngập ngừng muốn đậu rồi lại bay đi.
Cha cháu chiều chuộng cháu hơn những đứa trẻ cùng trang lứa. Mẹ cháu hay vuốt tóc, hôn cháu trong không gian tĩnh lặng, nói nhỏ, con của mẹ, mẹ yêu con, lặp đi lặp lại. Nhưng cũng có đôi lúc cháu bắt gặp cặp mắt thất thần của mẹ nhìn ra cõi xa xăm. Mẹ rất sợ sông, biển. Những kỳ đi nghỉ hè cha luôn luôn tránh vùng biển.
Cha săn sóc mẹ từ miếng ăn giấc ngủ. Mẹ biếng ăn, cha bỏ bữa. Mẹ mất ngủ, cha “hầu quạt.” Mẹ buồn, cha làm hề, dí ngón tay lên trán gọi mẹ là cô bé bướng bỉnh, mẹ mỉm cười gọi cha là cậu giáo khó tính, thế là buồn tiêu tan. Cha biết làm cho mẹ vui vẻ hoạt bát qua những viên thuốc mà cha gọi là thuốc tiên, bắt mẹ uống mỗi ngày (sau này cháu mới biết là những thuốc trị tâm thần).
Mấy đứa bạn của cháu thắc mắc tại sao cha mẹ cháu đều có nước da sáng, cao lớn, mũi thẳng mà cháu thì sậm da, người tròn thấp, cánh mũi to. Cháu muốn quên mà không quên được cái hình hài không giống ai của cháu. Có phải cháu là con ngoại hôn của mẹ không chú? Hay cháu là con nuôi? Hay là cháu đến từ một hành tinh khác?”
“Chú không hiểu tại sao cháu lại có những suy nghĩ lẩm cẩm như thế. Chuyện giống hay không giống là quyền của… ông trời. Cố học thành tài nối nghiệp cha.”
“Chú ạ. Cháu báo cho chú tin động… ông trời! Cháu đã xin thử DNA. Ông trời đã sụp đổ trước mắt cháu! Kết quả đúng như cháu hoang mang lo sợ. Cháu không có liên quan phụ hệ với cha cháu!”
“Chú hiểu tâm trạng của cháu. Nếu chia sẻ được xin cho chú chia sẻ. Chú nhớ có đọc ở đâu đó:
Cha không được định nghĩa như người đã tạo ra đứa trẻ, mà khác hơn thế, là người dang rộng vòng tay và dành thì giờ nuôi nấng đứa trẻ bằng cả tâm trí và tình yêu. Huyết thống không luôn luôn làm nên người cha. Chữ cha phải thoát ra từ tấm lòng. Ai cũng có thể tạo ra một đứa trẻ nhưng cha đúng nghĩa nhất chính là người đã nuôi nấng đứa trẻ. Không liên hệ máu mủ không làm cho người cha kém tình phụ tử. Xác nhận một người cha đích thực, không phải ở DNA, mà ở trong trái tim người ấy.”
“Cháu cám ơn chú đã mở mắt cho cháu. Nghĩ lại, cháu không còn vướng mắc chuyện… ông trời nữa. Nhưng chú ơi! Dòng máu đang chảy trong người cháu là của ai? Cháu muốn biết và cháu biết chắc chắn chú biết.”
Lá thư của chàng trai khiến tôi phải trăn trở thao thức. Không thể chối cãi là tôi và cha mẹ cháu đã giấu diếm nguồn gốc của cháu.
Tôi sẽ tiếp tục giữ hay phá lời thề khi phải trả lời cháu? Tôi đặt lên bàn cân, một bên là sự đòi hỏi chính đáng của cháu, một bên là lời cam kết với vợ chồng bạn. Cháu đã trưởng thành, có suy nghĩ chín chắn… Sẽ mang tội với cháu nếu vẫn giữ điều bí mật. Vì thế tôi khấn vái vong linh hai người bạn, xin được giải lời thề giúp tôi thanh thản tiết lộ sự thật, từ tình sử thơ mộng của hai người cho đến thảm kịch trong chuyến đi định mệnh.
“Cháu xin lỗi đã ngừng liên lạc với chú khá lâu. Cả năm nay cháu đi đi về về giữa Mỹ và Thái Lan. Cháu thuê thám tử tư quyết tìm ra tên hải tặc đã mang tai họa cho gia đình cháu.
Bà ngoại cháu trước khi qua đời vẫn tin tưởng cha mẹ cháu sống hạnh phúc và rất hãnh diện về đứa cháu ngoại. Ông ngoại cháu đã chết trong trại tù không lâu sau lần thăm nuôi, chắc không yên tâm nhắm mắt. Ông bà nội từng kỳ vọng ở đứa cháu đích tôn một ngày về vinh quy bái tổ, làm rạng danh dòng họ. Ở bên kia thế giới hai cụ có phẫn nộ vì chi nhánh con cháu chính thống đã thay máu từ đây?
Mọi người đều bị lừa dối.
Cháu có nhờ cô thông dịch viên, đang theo học khoa ngôn ngữ đại học Chulalongkorn, trợ giúp. Cô này có hoàn cảnh hơi giống cháu. Cha là hải tặc hoàn lương. Mẹ là thuyền nhân suýt bị nạn trên biển như mẹ cháu.
Nhờ thám tử và cô bạn, cháu đã tìm thấy và trực diện với người gieo giọt máu oan nghiệt cho mẹ cháu. Bây giờ ông ta đã trở thành một nhà sư, trụ trì ngôi chùa nhỏ trong một làng đánh cá.
Cháu tham khảo các luật sư của Mỹ và Thái với ý định đưa ông ra tòa án để đòi lại công lý cho các nạn nhân, trong đó có mẹ cháu. Chú ơi giúp cháu.”
Tiến thoái lưỡng nan! Nếu bị kết án, ông sư già có thể phải vào tù, trả giá cho tội lỗi trong quá khứ. Nhưng điều đó có đổi lại bình an cho cháu không? Nên hay không nên tiến hành thủ tục pháp lý?
Cháu lâm vào tình trạng y hệt như chú khi xưa, phân vân giữa việc nên hay không nên giúp mẹ cháu phá thai. Chú ơi, có bao giờ chú hối hận vì đã không giúp mẹ trục thai nhi cháu không? Nếu không có cháu trên đời thì sao chú nhỉ? Cha mẹ cháu sẽ sống trong thiên đàng hạnh phúc với những đứa con kết tinh từ tình yêu.
Chú có nghĩ rằng cháu đang nuôi đau khổ vì nan giải? Chú ơi, cháu là ai? Việt Nam hay ngoại tộc Việt Nam? Thái Lan ư? Ô nhục! Mỹ ư? Chỉ trên giấy tờ! Những đứa con lai Mỹ dù có bị kỳ thị nhưng vẫn không bị khước từ dòng máu Việt. Còn cháu, cháu có được cái hãnh diện giới thiệu với mọi người “tôi là người Mỹ gốc Việt?” Cháu muốn ra biển hét thi với sóng, gào lên, hỏi ông trời! Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?”
“Chú rất thán phục sự quyết tâm và ý chí của cháu. Có lương tâm dẫn dắt, cháu hãy đi theo, làm những gì cháu thấy nên làm. Nếu cháu muốn được tư vấn thì đừng chê quan niệm lỗi thời của chú nhé.
Thời của cha mẹ cháu cũng như chú, không thiếu những chứng tích của tội ác man rợ. Cũng không thiếu những chứng tích đau thương bi thảm. Trong số này, có số phận của những đứa con lai hải tặc.
Người ta thường tìm cách che giấu thứ mà người ta muốn quên. Nhưng cháu, một trong những đứa con đó, đã dũng cảm nói lên tiếng nói của con người, bình đẳng như mọi người của thế gian này.
Giáo lý Phật Đà dạy ta dùng từ bi và tha thứ để đối phó với nghịch cảnh. Lòng từ bi không chấp nhận hành động sai nhưng có thể tha thứ cho người làm sai. Chính cháu là người đau khổ nhất, không được gì, đúng không? Mong cho ông sư hải tặc rục xương trong tù? Tất cả chỉ làm tinh thần cháu kiệt quệ.
Cháu ạ, Kinh Pháp Cú 5 có câu:
Hận thù diệt hận thù,
Đời này không có được,
Từ bi diệt hận thù
Là định luật ngàn thu.
Có phải cháu muốn tìm sự bình an? Nếu cháu chưa sẵn sàng mở lòng bao dung thì cũng đừng để tâm bị xáo trộn. Tâm là cốt lõi của cuộc sống. Với tâm thanh tịnh thì hạnh phúc sẽ tìm đến. Với tâm bất ổn thì đau khổ sẽ bám không rời.
Vị sư già cũng đi tìm bình an như cháu. Câu kinh tiếng kệ là những tiếng than khóc tạo thành một vòng kín vô hình nhốt ông. Ông ta đang thi hành hình phạt nặng nề nhất của lương tâm. Cứ để ông ta thụ án. Cháu đâu cần phải cố sức bắt tội người có tội. Vào tù hay thoát khỏi tù là quyền của… ông trời!”
“Thưa chú, chú đã giải tỏa đám mây u ám vần vũ trên đầu cháu. Cho cháu thấy ở phía trước một con đường sáng sủa hơn. Hành trang đeo trên vai cũng nhẹ hơn.
Cháu hối tiếc những ngày còn cha mẹ, cháu đã không mang đến cho các người tiếng cười hạnh phúc. Không có dịp thầm thì bên tai các người, cha mẹ ơi con yêu cha mẹ.”
“Cha cháu đã đón nhận cháu như một quà tặng quý giá của tạo hóa. Mẹ cháu cũng mang nặng đẻ đau như các bà mẹ khác. Chú tin rằng ơn này còn nặng hơn ơn nghĩa sinh thành.
Phải vinh danh những người cha vĩ đại có trái tim thánh. Phải cúi đầu ngưỡng mộ và cảm thông cho những người mẹ bất hạnh. Người mẹ can đảm, mạnh mẽ đứng dậy sau khi bị vùi dập, cùng với người cha cưu mang, nuôi nấng sinh linh ‘lạ,’ thay dòng máu ô nhiễm trong hài nhi bằng dòng máu vô nhiễm của tâm hồn.
Chú đọc cho cháu thống kê của Liên Hiệp Quốc, tìm thấy trong thư viện, để cháu có cái nhìn tổng thể. Khoảng 839,000 người Việt Nam đã vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh từ 1975 đến 1997. Phỏng chừng 300,000 đến 400,000 người không đến được bến bờ tự do.
Chỉ riêng năm 1981, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc báo cáo: 15,479 thuyền nhân đến Thái Lan đi trên 452 con tàu. Trong đó 349 tàu đã bị hải tặc tấn công, trung bình mỗi tàu ba lần. 578 phụ nữ bị hãm hiếp. 228 phụ nữ bị bắt cóc. 881 chết hoặc biệt tích. Con số thai nhi do hải tặc không được báo cáo chính xác vì bản chất phụ nữ Việt hiền lành, chịu đựng. Đa phần do xấu hổ nhục nhã nên không khai báo.”
“Cháu đoán, những bào thai ấy nếu sống sót bây giờ đã trở thành những thanh niên, trung niên bằng hoặc hơn tuổi cháu. Họ có thể đã lập gia đình và có con cái. Chú ơi, có ai mang cùng tâm trạng như cháu? Hỏi mãi một câu hỏi ‘Tôi là ai?’”
“Thảm trạng lịch sử đã sang trang chưa? Có nên hâm lại chuyện cũ không? Chú không biết. Tội ác, theo thời gian, có thể dần dần bị quên lãng nhưng chứng tích tội ác là những đứa con lai… hải tặc hiện hữu khắp nơi.
Chú nêu vấn đề với cộng đồng, với đất nước, với các lãnh tụ ….. mong câu hỏi ‘Tôi là ai?’ của cháu sẽ được trả lời. Bằng lòng với số phận? Sống để bụng chết mang theo? Nghĩ sao?”


Phiên phiến tuổi già Tràm Cà Mau
Phiên phiến tuổi già Tràm Cà Mau

Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại. Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết….
Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có nhiều mặt khác nhau.
Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: “Mai mốt tôi già rồi thì…” Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại: ” Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?” Bà cụ chỉ cười, không đáp lại. Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói: “Theo tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ. Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế. Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít. Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ.”
Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.
Ông nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý bắt đầu yếu. Nhịp độ “gần gũi” của vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ, mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu bà vợ gạt ra, không cho gần gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để không làm tròn “bổn phận” mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những lúc mình đang hăng, đang nóng máu, sắp xáp chiến, mà bà vợ cứ cằn nhằn về những chuyện không đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc mốc, con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Đành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn trẻ, vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy, thì dù cho sét nổ trên đầu, cũng không nghe, không biết.
Có người hỏi ông sao không dùng viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà chết sớm, đau tim mà dùng thuốc nầy, thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông cũng xin ông bác sĩ cho toa thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu ông cũng hơi giận, nhưng bây giờ thì cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát, mà bỏ mạng, lãng nhách. Theo ông, thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là chuyện vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già, mà tìm trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.
Nói về cái tai điếc, ông nói: “Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Đó là dấu hiệu già. Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn.”
Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa. Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn. Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây. Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.
Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực? Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe, đã là quá quý rồi. Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn trời.
Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không. Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu. Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào. Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng.
Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một “lão trượng” đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả. Ông đoán chắc, chín mươi phần là “lão trượng” kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia. Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh? Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.
Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là “đêm bảy, ngày ba” cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai. Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi. Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn.
Dạo sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn. Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu “cái đó” mà ông trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không ra. Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra, thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.
Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt. Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng nhờ trời cho. Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.
Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho. Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.
Một ông bạn cho ông Tư biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là:
1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ
2) thể dục thường xuyên
3) làm tình đều đều.
Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết. Còn chuyện thể dục thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Phần làm tình đều đều, có lẽ không ai chắc, vấn đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ. Đừng say sưa là được. Lâu lâu cũng rán vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt lẽo. Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon.
Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn. Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ. Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ? Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới dược trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn? Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru. Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao? Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc.
Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời. Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối? Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có. Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa. Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ “bói ra ma, quét nhà ra rác”. Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra. Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. Đừng vì một số trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh. Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được. Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường. Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá. Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh. Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú.
Ông Hai Hô tập thể dục đều đặn. Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục. Không thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn. Đi bộ trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi nhanh, yếu thì đi chậm hơn, yếu hơn nữa, thì chống gậy mà đi. Có vận động là tốt. Đi bộ, xương đỡ rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra, lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi. Đi bộ cũng vui, nhất là đi với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn. Nhưng khi bà vợ bắt đầu cằn nhằn vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá sau, cho bà nói với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng, thì đi với bà cụ hàng xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu. Bà sẽ lịch sự hơn. Đi với bà hàng xóm, ông bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng đừng sợ chính bà ấy hiều lầm. Không hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ đến cái nhan sắc mùa thu của bà. Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ. Ông nói, ông được nghe chuyện một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng: “Mình phải biết tự thương mình. Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp, chứ không cho mình sức khỏe được. Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho vui, sống cho có chất lượng.” Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm giảm. Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm. Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh.
Mỗi lần nghe có người than là mất ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy. Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ. Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15 phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm. Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ liên miên. Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban khó ngủ là chuyện thường. Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được, thì dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng. Đừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn. Cũng đừng uống thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh. Đừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ hơn. Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm ái, thân thương. Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà quên xem phong cảnh. Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn, thì làm sao mà ngủ thêm được nữa. Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ. Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ. Một chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ. Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật. Đêm không cho đi ngủ sớm. Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài đến sáng hôm sau. Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả. Ông truyền bí quyết, là không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon.”
Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó. Khắc kỷ cũng là điều hay. Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ xem mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn. Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều. Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn. Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả, ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức. Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay ? Ông bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được. Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán.
Ông không bao giờ tranh luận gay gắt với ai. Ông nói, tranh luận làm chi cho mệt, rồi giận nhau? Trong tuổi già, khi có cuộc tranh luận, thì tránh là tốt nhất. Nếu không tránh được, thì chịu thua đi, thắng làm chi, để cho đời ngắn lại? Thắng tranh luận, làm thiên hạ ghét, làm mất lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa mình. Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị ghét hơn. Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng, làm họ vui hơn, không chừng mình đưọc đãi đằng hậu hỉ hơn. Đến nhà người ta, mà cãi nhau, tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì đừng mong chi được tiếp đãi thắm thiết. Khi thua, mình không thiệt thòi, mất mát chi cả, mà lại được thương, tại sao không chọn tình thương, mà chọn cái bị ghét. Thắng tranh luận, cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn người, mà giỏi hơn để làm chi? Và cũng chưa chắc ngưòi ta đã chịu cái lý của mình là đúng. Trong tình vợ chồng cũng vậy, nhiều ông nhiều bà tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về những điều không ích lợi chi cho ai cả. Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau đau đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự. Có ích lợi gì đâu. Tranh nhau thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu bên nhau, làm không khí gia đình nặng nề. Đừng bao giờ nói là phải làm cho ra lẽ, không thì hoá “lừng”. Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình “lừng” đi, cho họ sướng. Tại sao đi ra ngoài, không dám “lừng” với thiên hạ, mà về nhà lại “lừng” nhau làm chi cho mất vui. Ông thường nói, cứ chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việc chi mà ai đó gây hấn thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có tranh luận, thì cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không gây mất mát. Mỗi lần phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông Pol Pot. Ông nầy đã giết chết hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một phần ba dân số Kampuchia của ông thời đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết, ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây phương rằng, những điều ông đã làm, là lợi ích cho dân tộc của ông. Nhớ chuyện đó, làm ông đỡ ngứa miệng xen vào những cuộc tranh luận.
Khi có ai chê bai ông, ông chẳng bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu ông cũng đáng chê, đáng trách. Nghe thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn cái chưa hay, sai sót. Không phải ông là kẽ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng thiên hạ chê, mà không phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ chê bai hoài, chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không ngờ bà xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho bà quá. Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn.
Khi nghe ai khoe khoang, ông cũng không bắt bẻ, không lật mặt thật của họ ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng. Ông cứ giả vờ tin, để mà đãi họ vài phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho nhỏ. Ông không mất gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui, thêm tử tế. Bởi nghĩ thế mà ông làm.
Ông Hai Hô quan niệm rằng, trong tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà không có hoài bảo chi cả, thì tốt hơn, và khôn ngoan hơn. Khi trẻ, nhiều thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo nào làm xong, thì khi già rồi, mong chi đạt được. Tội chi đeo vào thân cái hoài bảo cho khổ. Già rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả. Từ danh vọng, tiền tài, tình yêu. Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng. Có lần, ông đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có thấm nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức vì một tác phẩm để đời chưa khởi đầu được. Chết chưa an lòng. Ông nói: “Thôi bác ơi, chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình sau nầy cũng làm. Yên tâm mà dưỡng bệnh đi.”
Ông Hai Hô cho rằng, cứ năm ba ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà phê mà nói chuyện nhảm cũng là một thứ hạnh phúc trong đời. Ông nói, dù đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình, cũng cứ vui, được người ta chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là không ai khen, ai chửi cả. Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham gia cho cuộc họp thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng. Ông khoái các buổi ca nhạc cây nhà lá vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó. Những buổi họp mặt anh em bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng lắm. Ông cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn gì quý báu hơn. Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng gặp bạn cũ. Gặp dịp vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được bao lâu nữa mà mãi phí ngày giờ chạy theo lợi lộc.”
Mỗi khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau. Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa, vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện. Khi ăn xong, thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc. Bởi vậy, ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu “Không ăn đậu không phải Mễ, không đi trễ, không phải Việt Nam.”
Ông Tư Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình.
Tràm Cà Mau
Chung Thủy…
Chung Thủy…
Ngày đó mới về nông trại ở, thấy cái gì hay con gì cũng ngắm.
Hãng cho làm ở nhà, giờ giấc không cần thiết phải theo giờ hành chính nhưng phải hoàn tất project đúng kỳ hạn. Mình tranh thủ làm nên có nhiều thời giờ rảnh để ngắm.
Buổi chiều nọ đi lại một gốc bụi cây thì thấy con ngỗng Canada đang nằm trong tổ. Mình lại gần nên nó bay đi. Nhìn vào tổ thấy có ba trứng ngỗng to nên cầm ra ngoài khoe. Sau đó bỏ trứng lại nhưng con ngỗng không bay về tổ nữa. Sau này mình mới biết ngỗng mẹ ngửi mùi tay người là nó bỏ. Buộc mình phải đem trứng bỏ trong lò ấp. Khi nở ra thì chỉ có hai con. Còn một trứng thì bị hư.
Từ đó mình làm mẹ ngỗng Canada. Lúc nào cũng để nó theo mình. Cặp đôi lớn như thổi lúc nào cũng quanh quẩn bên mình. Lớn xác nhưng chưa biết bay dù mình thấy hai đứa nó cũng có thân xác to bằng những con ngoài trời.
Rồi tháng ngày qua đi, con mình nó cũng biết bay. Mỗi lần thấy ngỗng trời bay đậu gần nhà thì mình bò theo để con mình nó ra gặp bà con cùng giống của nó. Biết đâu nó sẽ theo bầy. Mình quan niệm của thiên nhiên trả về thiên nhiên nếu hợp với hoàn cảnh ưa thích của nó. Cặp con mình cũng bay lại làm quen với bầy. Rồi một ngày cặp con của mình nó vỗ cánh theo bầy. Con nó lượn một vòng nhìn mình lần cuối rồi mất dần về hướng Bắc.
Nuôi hơn một năm trời, bắt từng con trùng, hái từng ngọn cỏ đút nó ăn nên tình cảm cũng dính liền với nó. Nhớ và thương nó nhiều.
Rồi tháng ngày bận rộn nên mình cũng quên, thì hai đứa con mình nó bay về. Hơi ngờ ngợ vì nó dẫn thêm năm con khác nữa (con của nó). Lúc đó mình mới biết hai con của mình là đực cái.
Hai đứa nó lại gần và để mình ôm nó vuốt ve nó. Tuyệt nhiên năm đứa con của nó đứng xa xa nhìn. Mình đem bắp cho hai đứa ăn nhưng con nó không ăn từ tay mình, ngay cả lúc mình giục bắp gần tụi nó, nhưng tụi nhỏ không ăn. Nó lòng vòng bay đi và về trong một tuần rồi bay mất.
Hàng năm vào cuối tháng 11 thì hai đứa nó về và dẫn theo một bầy ngỗng mỗi năm mỗi nhiều hơn. Cứ thế hai đứa ở nhà một tuần rồi mất dạng.
Mỗi năm mỗi về và năm thứ 14 thì về chỉ một con, nguyên đàn của nó chỉ bay lạng về ngày đầu rồi bay mất. Lính cảm cho mình biết là một đứa bị chết.
Mình bắt đầu đọc sách về loại ngỗng Canada. Loài này chỉ một vợ, một chồng. Nếu một trong hai con chết thì con kia sẽ không bao giờ tìm bạn tình. Trước khi chết bao giờ nó cũng về nơi nguyên thủy của nó.
Nó ở với mình một năm. Nó bay đi bay về và tối ngủ lại nhà. Rồi bỗng nhiên nó chỉ nằm trong tổ không bay đi đâu, mình đem cỏ tươi và nước nhưng nó không ăn. Được ba ngày như vậy thì mình tính đưa đi bác sĩ thú y. Mình nghĩ nó bệnh…. nhưng tối đó mình lại, nó chúi đầu vào lòng mình. Mình ôm nó thật lâu rồi mới vào nhà. Đêm đó nó qua đời , thọ 15 năm…. không ngờ nó nhịn đói, khát để chết.
Buồn mấy tháng trời. Giờ mỗi lần thấy ngỗng Canada là nhớ nó.
Tuổi thọ của ngỗng Canada là 25 năm.
Nhớ con quá!
From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen
Thèm – Tiểu Tử
Thèm –
Tiểu Tử
Mày biết không ? Bây giờ tao đi làm bằng xe đạp. Tụi bây đừng cười. Tao không giỡn đâu. Hồi xưa, hồi trước 1975, trong bọn mấy đứa tụi mình, tao là thằng tếu nhứt. Tao hay kể chuyện tiếu lâm, hay bịa chuyện này chuyện nọ để chọc cười, để phá phách cho vui với nhau. Nên tụi bây thường nói: “Coi chừng ! Nó nói cái gì mình phải xin keo coi có đúng không, rồi hãy tin”. Hồi đó, khác. Bây giờ, khác. Tụi bây đi hết rồi, chỉ còn mình tao kẹt lại. Nói thiệt hay nói dóc đều không còn ý nghĩa gì nữa, cũng không còn giá trị gì nữa đối với tao. Bởi vì không còn ai để giỡn, không còn lòng dạ đâu để giỡn, và cái cười của tao đã vượt biên đâu mất từ lâu…
Điều ngộ nghĩnh là, bây giờ, bất cứ chuyện gì tao kể ra chắc chắn tụi bây đều không tin ráo ! Bởi vì tụi bây đã di tản trước ngày 30 tháng tư 1975, không thấy không biết những gì đã xảy ra ở trong nước, làm sao mà tin ? Vả lại “những gì đã xảy ra” đã không xảy ra theo quy luật thông thường. Tất cả đều bị xáo trộn, đảo lộn một cách nghịch lý đến nỗi tao là người sống trong đó mà lắm khi tao phải tự hỏi: “Làm sao có thể như vậy được ?”. Vậy mà nó đã “như vậy được” tụi bây à ! Khó tin nhưng có thật ! Cho nên, những gì tao viết ở đây cho tụi bây hoàn toàn là những chuyện có thật mà… khó tin đó.
Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày, tao cứ phải nghe ra rả nói láo nói dóc, cứ phải luôn luôn nói láo nói dóc… Nào là “Đã vượt chỉ tiêu 150%” (Chỉ tiêu là con số đã được ấn định trước cho mức sản xuất, không biết là bao nhiêu, nhưng thấy tháng nào cũng vượt, năm nào cũng vượt, nghành nào cũng vượt – tao phải… dịch những chữ mới rõ ràng ra như vậy cho tụi bây hiểu, bởi vì bây giờ mình không còn nói giống như hồi trước nữa). Nào là “Đã hồ hởi phấn khởi đi làm nghĩa vụ” nghĩa là đi làm cái nghĩa vụ gì đó một cách… khoái trá sôi động bởi vì biết chắc rằng không đi cũng không được. Nào là “Hoàn toàn nhất trí” ( Bây giờ không nói nhứt nữa, mà nói nhất. Nghe… cách mạng hơn ), nghĩa là “đồng ý hoàn toàn”, cho nó rồi, kẻo không thì… kẹt lắm. Mọi người đều “nhất trí” hết mà mình không “nhất trí” thì nó… lòi ra coi không giống ai. Thành ra “nhất trí” cũng có nghĩa là “phải làm như mọi người”. Tụi bây hiểu chưa ? Nào là “Làm việc rất là năng nổ”. Tao nghĩ chắc khỏi cần dịch. Tụi bây cứ nghe “nó… lốp bốp” là đoán ra cái nghĩa của nó rồi. Đại khái là làm việc giống như có cờ phất trống khua, có loa trên loa dưới ồn ào, còn lè phè suốt buổi hút thuốc uống trà là chuyện khác… vân vân và vân vân… Kể không hết !
Sau bao năm dài sống trong môi trường như kể trên, “cái thèm” rất lớn của tao là được sống thật, nói thật. Cho nên, viết cho tụi bây giống như tao được… giải phóng. Vậy những gì tao kể ra đây, tụi bây khỏi phải xin keo !
Bây giờ, tao đi làm bằng xe đạp. Vẫn làm ở sở cũ. (Còn được làm việc ở sở cũ là may đó nghen. Nhiều người bị đổi đi nơi khác xa hơn và thường thì ở một ngành nghề không dính dấp gì với phần chuyên môn của mình hết. Cách mạng mà !). Cái xe hơi con cóc , tao đã cho nó lên nằm trên bốn gộc cây để bán lần bán hồi bốn bánh xe, cái bình điện, cái đề-ma-rơ… Hầu như tháng nào tao cũng phải bán một món gì trong nhà, bởi vì lương của tao cộng với những gì vợ tao và hai con gái lớn kiếm được hằng tháng… không đủ sống. Tình trạng đó bắt đầu từ sau hai “trận” Nhà Nước đổi tiền.
Đạp xe riết rồi cũng quen. Khoảng cách trên mười cây số từ nhà đến sở, tao coi như “pha”. Chỉ bực mình là xe đạp của tao hay sút sên khi nó “nhảy” ổ gà. Mà đường sá bây giờ, ổ gà ở đâu nó… lòi ra nhiều quá. (Người ta nói Mỹ rút đi, để lại toàn là đồ giả không – tao nghe sao chép vậy !). Cho nên, ở nhiều đoạn đường, tao lái xe tránh ổ gà giống như người say rượu ! Vậy mà có hôm vẫn cứ sút sên vì “nhảy” ổ gà, cho nên, vào tới sở hai tay tao thường lấm lem dầu, đất, mà áo quần thì ướt đẵm mồ hôi.
Bây giờ, tao làm việc “thông tầm”, nghĩa là làm suốt tới chiều rồi về sớm không có về nhà ăn cơm nghỉ trưa như hồi trước. Vì vậy, mỗi sáng tao mang theo một lon ghi-gô cơm với vài miếng cá mặn để ăn tại bàn viết buổi trưa. Chiều về sớm, tao có bổn phận nấu cơm làm đồ ăn – những món tầm thường như hột vịt luộc hột vịt chiên…vv – bởi vì giờ đó vợ con tao còn kẹt ở tổ may thêu tuốt trong Gò Vấp. Ờ…bây giờ tụi nó cũng đạp xe đi làm xa như tao và cũng đi hằng ngày như tao. Đổi đời mà….
Mỗi sáng đi làm, lúc nào tao cũng đem theo cái giỏ đi chợ treo tòn ten ở ghi-đong, giống như đi chợ chớ không giống đi làm ! Bởi vì trong sở thường hay… bất thần bán cho nhân viên (gọi là “phân phối” chớ không gọi là “bán”, nghe có vẻ như được… cho, nhưng mình phải trả tiền !) cá, rau cải… vv. Tuy không nhiều và không được lựa chọn vì phải… bắt thăm trúng lô nào lấy lô đó, nhưng rẻ hơn ngoài chợ thành ra cũng đỡ. Cho nên, đi làm việc mà ngày nào cũng nhóng nhóng hỏi thăm “coi bữa nay có phân phối gì không ?” và chiều về đến nhà, thằng con tao – thằng út đó, tụi bây nhớ không ? bây giờ nó lớn đại rồi – chạy ra mở cổng lúc nào cũng hỏi: “Bữa nay có mua được gì không ba ?”. Và hôm nào thấy trong giỏ có đồ gì để ăn là mắt nó sáng rỡ. Tội nghiệp, sống trong sự thiếu thốn triền miên, có đứa nhỏ nào, có người lớn nào mà không nghĩ đến miếng ăn ?
Bây giờ, tao hút thuốc lá vấn tay. Tao tự vấn lấy. Không phải tao muốn lập dị mà vì tao không đủ tiền mua loại thuốc điếu kỹ nghệ thông thường (Ờ ! Nghèo đến nước đó. Tụi bây có tin không ? ) Mới đầu, tao vấn thuốc rê Gò Vấp. Nó nặng muốn… tét phổi ! Về sau, tao bắt chước thiên hạ mua thuốc lá Lạng Sơn đã xắt sẵn – nghe nói là giống thuốc Virginia, mấy ông ngoài Bắc bảo thế ! – đem trộn với thuốc Gò Vấp, hút thấy được. Vậy là mỗi khi muốn hút, tao cứ tà tà xé một miếng giấy quyến, tà tà rứt một miếng thuốc kéo cho dài dài ra khi để lên lòng giấy, rồi đặt hết tâm tư vào mấy ngón tay (của cả hai bàn tay đang chụm đầu lại nâng nhẹ giấy và thuốc !) để ém, lận, cuốn, xe… cho điếu thuốc được tròn đều trước khi đưa lên lưỡi liếm. Xem thật “ung dung nhàn hạ”. Giống như một nghi thức. Và tao có quyền tà tà vấn thuốc như vậy bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào: trong khi làm việc, trong các buổi hội họp học tập, và cả ngay trước mặt ông xếp của tao nữa (Bây giờ gọi là “thủ trưởng”, nôm na là “cái đầu đứng đầu”. Còn cái đầu có cái gì trong đó hay không lại là chuyện khác). Cho nên, hút thuốc vấn – đối với tao – giống như là một cách thoát tục, cái “tục” quá… tục mà tao đang sống bây giờ. Tuy nhiên, sao tao vẫn nghe thèm điếu thuốc ba số năm là loại thuốc mà mấy chục năm tao đã hút ! Làm như mùi vị của nó còn nằm ở đâu trong máu trong xương. Nhiều đêm trở giấc, tao nghe thèm ray rứt, thèm chảy nước mắt !
Chiều hôm qua, trên đường về nhà, đạp xe tới chợ Tân Định thì trời bỗng đổ mưa. Tao tấp vô đụt mưa dưới mái hiên tiệm nước nằm ở góc đường dọc hông chợ (tao quên tên) và đường Hai Bà Trưng. Lúc đó, cỡ gần năm giờ (đồng hồ tay, tao đã bán từ lâu, nên từ lâu, tao chỉ… đoán giờ thôi !). Trong tiệm thấy lai rai có người ăn uống.
Tao đã đứng sát vào vách vậy mà gió cũng tạt mưa vào ướt hết phía dưới chân. Một lát, tao nghe lạnh chân. Rồi tao nghe đói. Cái đói đến một cách đột ngột, giống như nó chui từ dưới chân chui lên. Hồi nãy đạp xe trên đường, tao có thấy đói đâu, mặc dù buổi trưa tao chỉ ăn có một lon ghi-gô cơm với ít mắm ruốc – dĩ nhiên là tao có uống thật nhiều trà, thứ này, loại thường thôi, trong sở ( Bây giờ gọi là “cơ quan”) có chị nhân viên tối ngày cứ châm đầy bình cho mình uống “líp” – Vậy mà bây giờ tao lại thấy đói. Có lẽ tại vì lỗ mũi tao nghe mùi hủ tiếu, mùi mì. Ờ… tụi bây không biết chớ từ lâu rồi – tao không nhớ là bao nhiêu lâu, nhưng chắc là lâu lắm – tao chưa được ăn mì. Bây giờ đứng đây, bên đường ngang hông chợ Tân Định, phía trên gió, vậy mà vẫn “đánh hơi” rõ mồn một mùi nước lèo của xe mì nằm bên đường Hai Bà Trưng, phía dưới gió, rõ như hơi của nước lèo đang bốc lên ngay trước mũi ! Tao nuốt nước miếng.
Thèm quá ! Tao thèm ăn ngay một tô mì ! Thọc tay vào túi quần, tao đụng hai tờ giấy bạc. Móc ra xem thì ra là hai đồng. Tao chỉ có ngần đó thôi ! Nhưng hai đồng, đủ để ăn một tô mì rồi ! Thì ăn… đại một tô cho nó đã ! Tao dợm bước vào tiệm nước bỗng nhớ lại vợ tao hồi sáng khi trao cho tao hai đồng đó, có dặn: “Chiều, anh ghé chợ Cây Quéo mua 6 cái hột vịt và nửa giỏ rau. Về, anh bắc nồi cơm bỏ vô luộc trước. Chừng mẹ con em về, em làm nước mắm rồi dầm cho nhà ăn.” Hình ảnh cả nhà tao 7 đứa quây quần bên “nửa giỏ rau và 6 cái hột vịt” và hình ảnh tao một mình ngồi ăn tô mì… làm tao khựng lại. Tô mì mà tao muốn ăn, thèm ăn, là cả một bữa ăn của gia đình ! Tao không thể đổi được. Thà là tao nhịn thèm. Thà là tao chịu đói để về ăn chung với vợ con. Ăn thứ gì cũng được, ít nhiều gì cũng được, dở ngon gì cũng được. Miễn là ăn chung với tụi nó. Để thấy rằng cuộc đời tao bây giờ chỉ còn lại có tụi nó là quí thôi ! Tao nghe thương vợ thương con vô cùng. Và tao cũng nghe thương thân tao vô cùng…
Tao đứng yên nhìn ra mưa bỗng nghe hai má của mình ướt ướt. Tao đưa tay lên vuốt mặt mà nghĩ rằng mình vuốt nước mưa trên má…
(Trên đây là lá thơ viết lỡ dở, của ai viết cho ai tôi không biết. Thơ viết trên giấy tập học trò, chữ nhỏ li ti, nhưng đẹp và rõ nét. Tình cờ, tôi nhìn thấy nó trong xấp giấy gói hàng của bà bán xôi đầu ngõ Ngô Tùng Châu, vì tò mò nên tôi xin.Về nhà, đọc thơ mà lòng nghe rưn rứt. Rồi thắc mắc tại sao người viết không gởi đi, để nó phải ra nằm chung với giấy vụn gói hàng ? Một phần vì vậy mà tôi đã mang nó theo khi tôi vượt biên, để bây giờ tôi chép lại gởi đăng đây đó với hy vọng có người đọc và nhận ra thằng bạn còn kẹt lại mà viết cho ông ta ít hàng, đại khái : « X. ơi ! Tao nè ! Tao đã đọc được thơ mầy… » Chỉ bao nhiêu đó thôi, tôi cũng thấy mãn nguyện).
Tiểu Tử

Lối Cũ Chẳng Sao Quên-TRUYỆN NGẮN BÍCH HUYỀN…
TRUYỆN NGẮN BÍCH HUYỀN…
Lối Cũ Chẳng Sao Quên
Đường trần quên lối cũ
Người đời xa cách mãi
Tình trần khôn hàn gắn thương lòng…
(Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay – Đoàn Chuẩn-Từ Linh)
Vĩnh Phú, địa danh tôi muốn quên mà không thể nào quên. Trong suốt hơn mười năm qua và trong cả cuộc đời . K1, K2, K3, K4… những chữ số ký hiệu kinh hoàng. Của tôi. Của những người tù và gia đình họ. Ở rồi, đến rồi, đi rồi…mấy ai muốn quay trở lại? Vậy mà hôm nay tôi vẫn phải trở về đây. Cảnh vật không khác xưa là bao nhiêu dù thời gian trôi qua bốn năm rồi…
Những khẩu hiệu:” Chào mừng thành công Đại Hội Đảng 5″ ,”Đảng Cộng sản Việt Nam – Người lãnh đạo tài tình”, “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm…” lem luốc màu đỏ vì nước mưa, chảy dài xuống như những dòng nước mắt pha máu ngoằn ngoèo trên từng bờ tường loang lổ, cũ kỹ. Ngay phía dưới lại có hàng chữ mang tính “pháp lệnh” bằng những lời thô tục “Cấm ỉa đái” . Có cả những nét chữ nguệch ngoạc chửi thề. Hình như không một ai để ý.
Ở cái ga xép èo uột gần tận cùng của đất nước này, những con người lam lũ, ngác ngơ, còn đang loay hoay với ký trà, bao gạo, rổ rá nhựa, nồi niêu xoong chảo, xấp vải Chợ Lớn hoa xanh, hoa đỏ…Che che, giấu giấu, tránh con mắt dòm ngó của bọn Công an kinh tế. Chính sách của Đảng đổi mới rồi, tự do buôn bán nhưng người dân lại khổ vì sưu cao thuế nặng.
Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi không đến trại Tân Lập bằng đường sông nữa. Đạp xe trên bờ đê. Dắt xe đi bộ qua bãi cát lổn nhổn những vỏ sò, vỏ ốc. Băng ngang qua những thửa ruộng khô cằn của vùng đất miền trung du. Cái hình ảnh “quê em miền trung du, đồng chiêm lúa xanh rì…”của một thời hoàng kim nào xa lắm, nay ở đâu? Giặc tràn về đốt phá thôn làng. Gia đình ly tán. “Vườn không nhà trống tàn hoang” còn trong trí óc non nớt của tuổi thơ tôi. Giờ đây, giặc nào đã làm cho miền Bắc điêu tàn?
Đảng Cộng Sản Việt Nam, đỉnh cao của trí tuệ loài người! Ôi, mỉa mai thay những khẩu hiệu kêu to như những chiếc thùng rỗng! Đảng lãnh đạo tài tình làm sao để bao nhiêu năm đời ta có Đảng, bấy nhiêu năm Đảng phá tàn mạt đời ta? Để những người dân quê hiền hoà cởi mở trở nên ngu ngơ câm lặng đến thế kia sao?
Dân cư ở đây rất thưa thớt. Họ sống trong những mái nhà lụp xụp, vách đất, mái tranh. Mảnh vườn. Rào thưa. Khoảng sân đất. Giếng nước. Chiếc gầu… tất cả đều quá nhỏ bé, trơ trụi, xa lạ. Trẻ con gầy còm, ốm yếu. Quần đùi vá víu miếng nọ miếng kia. Cởi trần, ngồi nghịch đất. Không tiếng nô đùa. Không tiếng hát. Không tiếng nhạc của máy thu thanh. Không cả tiếng chim hót. Như một vùng đất chết.
Ba người anh cùng đi với tôi chuyến này đều là những thanh niên đầy nhiệt huyết của hơn ba mươi năm về trước. Thoát ly gia đình, mang tuổi trẻ của mình cống hiến cho đất nước . Để rồi khi biết mình bị lừa thì đã muộn. Cũng dòng sông Lô nắng vàng lấp lánh nhưng còn đâu tiếng hát rộn ràng? Cũng con đê này của những buổi chiều vai đeo ba lô từ chiến khu về, rầm rập bước chân.
Trong không gian, hồi chuông ngân nga trong chiều thu lộng gió, ba người anh tôi ôn lại một vài kỷ niệm xưa. Tiếc nuối. Tôi làm các anh tỉnh giấc mơ: “Phải chi ngày ấy các anh không đi theo phong trào Thanh Niên Cứu Quốc thì nay em đâu phải đi bốc mộ chồng ở một nơi đèo heo hút gió này !” Ba người anh im lặng. Họ như muốn quên đi những năm tháng sục sôi khí thế cách mạng. Yêu tự do. Yêu tổ quốc. Đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước . Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày trở về giải phóng thủ đô Hà Nội. Những người bộ độ với tuổi hai mươi. Trẻ trung. Học thức. Hà Nội như đã bừng lên một sức sống mới.
Hà Nội rực rỡ cờ hoa. Hà Nội tưng bừng tiếng hát. Không bao lâu, những cuộc đấu tố dã man diễn ra khắp nơi. Ông bác tôi bị đấu tố, dù có năm người con đi kháng chiến. Nghe tin dữ, các anh về quê xin Đảng khoan hồng. Không những không tha, họ còn xúi giục các anh tôi: phải giác ngộ cách mạng, phải đứng vào hàng ngũ nhân dân, cùng vạch tội, chỉ tên địa chủ cường hào ác bá. Ông bác tôi bị tù. Khổ sai lao động. Thất vọng, đớn đau nhìn bố vác cây, đào đất, khiêng đá, trộn hồ…Những người tù già này làm việc suốt ngày đêm để đạt chỉ tiêu biến khu đất hoang quanh hồ Bảy Mẫu, Hà Nội, thành một công viên mang tên Thống Nhất. Đến thập niên 1980 đổi thành công viên Lê Nin.
Cũng vì sự khổ nhục của người bác thân yêu mà bao lần ra Hà Nội là bấy nhiêu lần tôi không đặt chân vào công viên này. Cũng như tôi đã không đến vui chơi khu K4 Long Khánh, một địa điểm du lịch mới lạ của miền Nam. Vì nơi đây được tạo nên bởi những bàn tay của cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị Cộng sản tù đầy, hành hạ.
Các anh tôi, vài năm đầu “Sài Gòn giải phóng”, vì đường lối của Đảng, hay vì muốn các em của mình ở miền Nam sớm “giác ngộ” để hoà nhập ngay với cuộc sống mới, đã có những lần tranh luận. Bao giờ cũng trở thành lớn tiếng cãi nhau. Tôi đã làm các anh nhức đầu không ít. Lần cuối cùng, tôi không cãi lại các anh nữa. “Đảng đã cho các anh tôi sáng mắt sáng lòng”. Đó là một lần anh nói với tôi:” Người em không yêu làm em khổ, em đâu có đau bằng anh? Anh đã yêu, anh đã dâng hiến cả cuộc đời mà ngày nay anh bị phụ bạc, anh bị lừa dối…”. Một anh khác: “Viên gạch đã trót để vào xây tường, giờ có rút ra cũng bị vỡ tan. Thôi em ạ, không còn con đường nào khác!”
Trên con đê này, giữa khung cảnh hoang vắng của buổi chiều trung du, bốn anh em đi bên nhau. Thương cho thân mình. Thương cho các anh. Lý tưởng sụp đổ tan tành. Ngày mai đen tối.
Trời chạng vạng. Tôi đã bắt đầu đi những bước thấp bước cao. Quãng đường này làm tôi nhớ lại những lần vượt biên. Xuống ghe tại Nhà Bè khi thành phố còn chìm trong màn đêm. Lên bờ đi bộ băng qua bao nhiêu là thửa ruộng. Vấp ngã bao lần mà không cảm thấy đau đớn vì thần kinh đang trong tình trạng căng thẳng: hồi hộp, lo sợ.
Lần này trên cánh đồng: mệt mỏi, chán chường…
Cũng phải vài giờ nữa mới tới trụ sở Ban Chỉ Huy. Tiếng dế nỉ non. Xa xa ánh đèn leo lét. Cố lê bước tới đó để xin ngủ nhờ qua đêm. Nhìn một căn nhà tương đối khang trang, chúng tôi vào gặp chủ nhà xin ngủ đỡ ngoài mái hiên. Nhưng cũng bị từ chối. Đang lo lắng không biết tôi có đủ sức đi tiếp hay không, thì như có phép lạ, một người đàn bà gánh lúa từ xa đi tới. Bà ta dừng lại:”Các bác tìm nhà ai thế?” Khi biết ý, bà ta mời chúng tôi về nhà. Bốn anh em mừng rỡ như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Dù gánh lúa nặng trĩu trên vai, bà ta vẫn bước đi thoăn thoắt. Trong khi tôi lẽo đẽo theo sau.
Khi bà đẩy cánh cổng tre, bóng tối làm tôi không thể nhìn rõ một người đàn ông đang xếp lúa ngay đầu nhà. Ông ta không quay lại và cũng không lên tiếng đáp lại lời chào của các anh tôi. Trước thái độ lạnh nhạt đó, chúng tôi hơi e ngại. Trong lòng vẫn mừng thầm không bị đuổi ra.
Một gian nhà ba gian bằng tre sơ sài nhưng gọn ghẽ. Nhìn cách trang trí nhà cửa, nhìn bức tượng Chúa nho nhỏ trên bàn thờ cao, tôi có thể đoán chủ nhân không phải là người quê mùa. Tôi ôm bộ quần áo ra giếng. Những giọt nước mát lạnh làm tôi tỉnh táo lại. Trăng bắt đầu lên. Tôi đã nhìn rõ khung cảnh chung quanh. Mảnh sân hình chữ nhật. Khu vườn nhỏ. Chái bếp cuối sân. Ánh lửa bập bùng. Hàng cây cau vươn cao đón ánh trăng. Tôi liên tưởng tới hàng cau của khu vườn trước nhà tôi ở quê hương. Ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường trèo lên nhanh như một chú mèo con để hái quả cau cho mẹ tôi têm trầu đãi khách. Trong không gian thoang thoảng mùi hương hoa thiên lý. Âm thanh tiếng đàn mandoline bản Valse Favorite vui tươi, tiếng hát chan chứa tình quê ” Làng tôi xanh bóng tre. Hồn lắng tiếng chuông ngân. Tiếng chuông nhà thờ rung…” chợt khua động trong tôi ngày tháng êm đềm thời thơ ấu.
Tôi thở thật sâu để nén xúc cảm. Đêm yên lặng. Đêm mờ ảo. Tất cả đều rất mong manh. Một tiếng động nhỏ cũng đủ làm tan vỡ giấc mơ xưa thoáng đến với tôi, đưa tôi về thực tại. Tôi phải vào nhà để bàn chuyện ngày mai.
Tiếng cười nói làm tôi ngạc nhiên. Ông chủ nhà cùng ba anh tôi đang vui vẻ quây quần bên khay trà bốc khói. Thấy tôi vào, ông kéo ghế trịnh trọng mời ngồi. Tôi còn đang ngơ ngác trước thái độ thay đổi nhanh chóng thì một anh đã giải thích: “Ban đầu ông Tuyển tưởng anh em mình đi thăm nuôi tù. Bây giờ ở đây có tù hình sự (những thanh thiếu niên can tội cướp của giết người ). Tù chính trị chuyển đi từ lâu rồi. Một số về trại Hà Nam Ninh. Đa số vào Nam.”
Ông Tuyển đặt ly trà thơm phức trước mặt tôi: “Được biết cô về đây bốc mộ cho chồng, chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia đình chúng tôi xin hết sức giúp đỡ cô và các ông anh đây.”
Vầng trán cao. Khuôn mặt chữ điền. Cách nói chuyện lưu loát cùng dáng điệu từ tốn, cử chỉ lịch sự, chứng tỏ ông Tuyển là một người có một số vốn kiến thức về học vấn cũng như về xã hội. Ông cho biết có một người anh là linh mục trong một ngôi nhà thờ vùng đất đỏ Long Khánh.
Ông Tuyển đã sắp xếp chỗ ngủ cho chúng tôi. Để khách được tự do, ông Tuyển dặn dò vợ con và đi vào thôn tìm người quen chuyên việc cải táng.
Gian phòng khách rộng, sơ sài nhưng ngăn nắp. Giường tre, bàn gỗ mộc mạc, thô kệch, được hình thành có lẽ do bàn tay của chủ nhà. Tượng Chúa và tượng Đức Mẹ trên cao là một hình ảnh cảm động hiếm có trong những ngôi nhà tại miền Bắc. Theo như lời ông Tuyển, đời sống gia đình ông bắt đầu khá hơn kể từ khi hợp tác xã nhà nước tan vỡ. Lối làm ăn tập thể nhường lại cho lối khoán sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn phải nộp đủ cho nhà nước , cả nhà xúm nhau cày cấy mới có gạo ăn.
Dưới nhà ngang, các con ông bà Tuyển đang đập lúa, giã gạo, sàng sẩy…Mọi người chăm chú làm việc, không tò mò để ý khách phương xa. Tôi mệt mỏi nằm thiếp đi trong chốc lát.
Khi tôi tỉnh dậy, trăng đã lên cao. Ông Tuyển vừa về tới. Tay cầm hai chai rượu và một bó hoa tươi. Ông cho biết đã tìm được một người rất thành thạo trong việc bốc mộ. Chai rượu này để rửa hài cốt. Tìm mua được rượu ở miền núi không phải là chuyện dễ dàng.
Bà Tuyển bưng mâm cơm từ nhà bếp lên. Chúng tôi trải chiếu ngoài hiên, ngồi ăn cơm dưới ánh trăng. Đĩa thịt gà luộc thơm mùi lá chanh thái chỉ rắc lên trên. Tô canh rau “tập tàng”- đủ mọi loại rau hái ngoài vườn – mát ngọt. Tôi không ngờ anh em chúng tôi được đối xử như một thượng khách ở nơi đây. Thế mới biết ở một nơi tưởng chừng như không có, ta vẫn tìm thấy một tấm lòng.
Qua một đêm ngủ với nhiều mộng mị, sáng sớm hôm sau, tôi và các anh đến Bộ Chỉ Huy. Có quãng đường đi được bằng xe đạp. Có quãng đường đá lởm chởm phải dắt bộ. Chỉ huy trại là người mới. Không phải Thiếu Tá Nguyễn Huy Thùy tôi gặp lần trước. Hắn vồn vã thái quá, khiến tôi chỉ im lặng ngồi nghe. Hắn kể chuyện, có một người nước ngoài, cách đây không lâu, về đây bốc mộ bố. Cầm bình hài cốt lên xe, xe không nổ máy. Gọi xe ngựa đến kéo, con ngựa nhảy quớ lên không chịu chạy.
Nhìn hắn ba hoa, ngồi bỏ cả hai chân lên ghế, tôi hơi khó chịu. Nhất là cặp mắt hắn thỉnh thoảng lại nhìn vào mấy bao thuốc là “555” anh tôi mang đến làm quà. ” Ba con năm vừa nằm vừa ký”, cho nên bọn tôi mới được chấp thuận một cách dễ dàng.
Những chuyện hắn nói có thể xảy ra ở đâu, hắn nghe được. Hắn muốn nói đến đời sống tâm linh. Anh em tôi thì có rất ít thời gian. Cũng có thể sau một thời gian quá dài bị đè nén, những con người triệt để chống chủ nghĩa duy tâm ngày nay bắt đầu duy tâm hơn ai hết.
Xe Volga cọc cạch chở chúng tôi đi lên ngọn đồi, nơi an nghỉ của những quân nhân chế độ cũ. Ít ra từ ngày Việt Cộng muốn bang giao với Mỹ, đã có lúc họ bỏ được từ ngữ “ngụy quân ngụy quyền”. Nhưng tiếc thay những tên gọi này vẫn là vết hằn trong lòng người Việt.
Tôi ngồi đợi trong một căn nhà nhỏ dựng sơ sài bằng tre nứa. Nền đất lồi lõm. Trên vách nhỏ treo đủ thứ khẩu hiệu, kế hoạch công tác hàng tháng, tuần… Hình ảnh các lãnh tụ Cộng Sản thế giới và trong nước quá khổ so với bức vách, treo xộc xệch như sắp rơi. Đây là nơi làm việc của toán công an canh gác.
Cách đây bốn năm khi tôi đến nơi đây nhận mộ chồng, cảnh vật chung quanh gọn ghẽ hơn. Hàng ngày còn có bàn tay bạn tù săn sóc. Giờ đây cỏ cây, dây leo chằng chịt, không nhìn thấy lối đi. Hơn một giờ đồng hồ trôi qua, tên công an cầm bản đồ nghĩa trang và các anh tôi trở lại trụ sở với gương mặt thất vọng. Không tìm thấy mộ vì cỏ cây che lấp cả một vùng rộng lớn. Tim tôi như muốn ngừng lại. Chẳng lẽ lại về không?
Tôi xin mọi người hãy cho tôi đến tìm. Tôi thầm cầu nguyện cũng như ở Sài Gòn, mẹ tôi và các em tôi đã cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được tốt đẹp.
Kỳ lạ thay! Tôi chỉ vạch lá chui vào đúng một quãng ngắn là tìm ra mộ. Tôi reo to lên. Các anh tôi đứng ngoài không tin. Ngôi mộ có hai bia đá. Tôi lầm thế nào được. Một tấm bia tôi mang từ Hà Nội lên. Một tấm bia nữa của anh em bạn tù đẽo gọt bằng tay. Nét chữ khắc vào đá mờ đi vì rêu phủ.
Trong khi người thợ cải táng chặt cây cối chung quanh, tôi thắp nhang lui cui cắm trên từng ngôi mộ. Đêm mưa, cỏ ướt, ngửi thấy có hơi người, những con vắt nhảy ra, bám lấy chúng tôi. Máu chảy ròng ròng. Tôi muốn ngất người đi vì sợ. Cây cối quang dần. Dầu nóng tôi bôi đầy mặt, mũi, chân, tay, khiến những chú dế bé xíu cũng không dám nhảy ra đột kích nữa.
Một ít trái cây mua vội dọc đường, bó hoa ông Tuyển mua dùm, chúng tôi chỉ có những tấm lòng thành trước linh hồn người đã khuất. Người anh lớn nhất của tôi khấn thật lâu. Những cây nhang cháy rất nhanh, tàn cong vòng…khói nhang thơm toả ngát. Nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất, lòng tôi đau buốt. Tiếng cuốc, xẻng đều đều vang vọng giữa miền rừng núi hoang vu. Từng tảng đất bật lên, tâm hồn tôi như vỡ vụn. Cho tới lúc lưỡi cuốc đụng vào quan tài. Tôi hồi hộp. Các anh tôi nôn nóng.
Khi tôi ra đến Hà Nội, các bậc lão thành có trấn an:”Đất miền núi khô ráo, xương cốt lâu ngày sẽ tan đi. Phải chuẩn bị tinh thần: có thể đứng trước một cái hòm chỉ có đầy cát bụi!”
Thế cho nên khi những nhát búa đầu tiên bổ xuống để nạy nắp quan tài, tôi cứ giật thót mình. Một cảm giác đớn đau như lần đầu tiên nghe thấy tiếng đóng đinh vào quan tài bố tôi lúc liệm quan…
Gỗ áo quan dầy và chắc. Khi chiếc nắp bật lên, tôi lạnh người: chiếc chăn len màu đỏ! Suốt đêm qua, người anh lớn của tôi cứ chợp mắt là nằm mơ thấy xác chồng tôi quấn bằng mảnh vải màu đỏ. Gương mặt các anh tôi xúc động. Bóc lượt chăn len ra là quần áo. Hết lớp áo này đến lớp quần khác. Bàn bè đã dồn tất cả cho người chết mang đi. Nước mắt tôi ràn rụa. Màu xanh lá cây đậm của chiếc áo len mẹ tôi mua tặng, gửi trong năm ký lô quà đầu tiên ra Bắc. Chiếc sơ-mi trắng ngà có từng sợi chỉ xanh xanh, hồng nhạt, mang về Sài Gòn sau chuyến du học tại Mỹ năm 1971. Chai dầu gió, đôi giày ba ta…tất cả tôi đã tự tay xếp vào ba lô trước ngày anh đi trình diện “học tập cải tạo”.
Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng:”Đã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào.” Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Đồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi…
Lâu lắm, khi tôi tỉnh dậy, đống tro tàn của áo quần vừa đốt còn âm ỉ cháy. Trong một cái sanh to bằng gang dùng thổi cơm cho trại tù đã gẫy tay cầm, các anh tôi đã đổ bột nhang thơm với rượu trắng để ngâm xương cốt. Người thợ cải táng cùng các anh tôi quấn giấy bao từng lóng xương, đặt từng mảnh vào trong nhiều túi ni-lông …
Không gian mênh mông yên lặng. Tôi lặng lẽ theo các anh tôi bước nhanh cho kịp chuyến đò cuối cùng…
(Chuyến bốc mộ vào năm 1985)
Trích tập truyện Lối Cũ Chẳng Sao Quên
(The Trail I Never Forget)

CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI TÙ GIÀ
Vũ Thư Hiên is with Vũ Lương Vu
CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI TÙ GIÀ
Kính tặng hương hồn bạn tù Nguyễn Thái Bút
1
Người Tù Già nằm bất động.
Lão nằm và nhìn lên bầu trời xám xịt qua song cửa.
Nhìn đăm đăm và nghĩ miên man.
Những ý nghĩ đứt quãng, trôi nổi, bồng bềnh, lẫn lộn. Trùm lên những ý nghĩ vẩn vơ ấy là một màu buồn u tối.
Đầu đông ở thung lũng là thế. Thời tiết thay đổi từng giờ. Mặt trời không cất mình nổi nơi sương mù giăng mắc giữa ban ngày. Những vạt rừng ngàn năm nhấp nhô đậm nhạt trong thứ nửa mù nửa mưa bao quanh trại tù như vành khăn xô rách rưới. Không phải vô lý mà người ta đặt trại tù trong những thung lũng, lão nghĩ. Họ khôn lắm. Không phải chỉ để ngăn tù trốn đâu. Mà để ngăn cả ý nghĩ vượt ngục của tù nữa, nếu như nó dám nảy ra.
Người Tù Già buồn.
Lão biết lão chẳng còn sống bao lâu. Dấu hiệu đầu tiên của cái chết mà lão biết được là đôi chân không còn nghe theo lão. Lão mất hết cảm giác về chúng. Chúng rời bỏ lão một cách chậm chạp, không sao ngăn nổi. Bắt đầu là hai bàn chân, hôm qua, rồi tới đầu gối, sáng nay, và bây giờ – tới hông. Cả cái mùi khăn khẳn dính chặt vào khứu giác, không biết nó xuất phát từ đâu, có phải đấy là mùi của chính lão?
Lão biết lần ngã bệnh này của lão không như những lần trước, trong suốt đời tù đằng đẵng. Mười một năm rồi chứ ít à? Trong mười một năm ấy lão đã vượt qua cái chết không phải một lần. Nhưng lần này thì không, lão biết. Không qua được. Không ăn thua. Thân thể lão đã cạn khả năng sống sót để chờ thêm một năm, hoặc hai năm, như lão từng chờđể được xét tha sau một lệnh. Lệnh, là gọi tắt một kỳ hạn của cái gọi là “tập trung cải tạo”. Một lệnh là ba năm. Hết ba năm này là ba năm khác. Cứ thế mà diễn.
Mà chắc gì lão được tha cơ chứ?
Cái chết toàn năng, cái chết bất khả kháng, như hốc miệng đen ngòm của một con trăn khổng lồ đang nuốt dần cơ thể lão, từng phút một. Rất chậm, nhưng không dừng lấy một giây.
Lão sợ. Lão không muốn chết một tí tẹo nào. Lão muốn sống. Chao ôi, lão muốn sống lắm lắm. Chưa khi nào lão muốn sống bằng lúc này.
Đấy, ngay bây giờ đây này, lão đang muốn kêu, muốn gào lên, muốn thét lên để thiên hạ nghe thấy mà chạy đến, để thiên hạ xúm lại kéo lão ra khỏi cái hốc khủng khiếp đen ngòm kia. Nhưng lão không kêu được. Từ cuống họng lão chỉ phát ra những tiếng ú ớ mà, lạ thay, lão lại nghe rất rõ. Đôi tai nghễnh ngãng nhiều năm bỗng trở lên thính lạ thường. Tưởng chừng cái sống còn lại trong người lão chỉ tập trung nơi thính giác. Nó, và chỉ có nó, nối lão với thế giới bên ngoài.
Nói lão muốn gọi thiên hạ là nói thế thôi, chứ lão biết cả cái thế giới bên ngoài kia chẳng thèm nhòm nhõi gì đến lão. Đối với cái thiên hạ ấy, lão chẳng là cái gì. Bạn tù cũng chẳng đến thăm lão. Họ mệt lử sau một ngày lao động, lết về được tới phòng là nằm vật ra, còn sức nào để nghĩ tới lão cơ chứ. May cho lão, còn có Tỉnh Trưởng, một người tù già, còn già hơn lão nữa, ở ngay đây, trong trạm xá, thỉnh thoảng vẫn lệt xệt từng bước đến bên giường ngó lão một cái.
Lũ bệnh nhân cùng trạm xá với lão ở ngay cạnh lão thì chẳng nói làm gì – còn khuya cái lũ ấy mới nói với lão một lời. Chúng chẳng bệnh tật gì ráo, chúng được nằm trạm xá vì chúng có tiền cống cho thằng Y Tá, cho ông Y Sĩ . Giờ đây chúng đang túm tụm sát phạt nhau trong canh bạc mới mở. Lão nghe rõ mồn một thằng nào cười hô hố, thằng nào đang ngửa cổ reo, thằng nào vỗ đùi đen đét trong khoái trá, thằng nào văng tục chửi đổng trong cơn bực bội.
Y Tá cũng ngồi trong đám bạc. Mặt bì bì, mắt trắng dã, cặp môi mỏng thâm xì mím chặt, va vật quân bài xuống chiếu cái đét và ngửa cổ lên văng một tràng chửi tục. Không cần nhìn, lão cũng biết nước bọt va văng tung toé. Va không thể nói mà không văng nước bọt.
Y Tá vốn là một bác sĩ khoa sản bệnh viện tỉnh, trước nữa là Y Tá huyện, được học bổ túc lên y sĩ, rồi tiếp tục bổ túc lên bác sĩ. Va là tù có án – năm năm vì tội cưỡng dâm bệnh nhân.
Người Tù Già đón va từ lúc va vừa bước xuống ô tô từ trại tỉnh chở tù lên trại trung ương. Đồng hương gặp nhau ở trong tù thì mừng, là lẽ thường. Chẳng gì cũng cùng quê hương bản quán với nhau, chứ trước kia lão đâu có quen va.
Như mọi nông dân, có bao giờ lão đi bệnh viện. Người nông dân nghe đến bệnh viện là hãi rồi, như chết đến đít rồi, không thế thì chẳng ai tới bệnh viện làm gì. Lão không đến bệnh viện vì sợ tốn. Ốm đau đã có lá lẩu trong vườn, nặng hơn thì tìm đến ông lang ngoài chợ.
Va được phân vào toán đan lát của lão. Lão mừng húm. Lão rủ va ăn chung. Chia sẻ với va từng viên thuốc lào. Ở ngoài, nghe nói va béo lắm. Lên trại, va xuống cân vù vù. Gày tong teo. Đi xiêu vẹo. Va quên sạch mọi thứ trên đời, trừ những cái có thể bỏ vào mồm. Đi làm ngoài trại mắt va láo liên lục bới từng khóm cây bụi cỏ kiếm con cào cào, con châu chấu. Hôm nào vớ được con thằn lằn, hôm đó va như sống lại. Người ta quen thấy va vật vờ ngoài sân, hết rẽ vào nhà này lại nhà kia để kiếm miếng ăn. Một trong những cách kiếm ăn lương thiện nhất, ít bị khinh bỉ nhất, là tẩm quất thuê cho lũ “đầu gấu”, lũ “sĩ quan ”.
Cuộc đời đầy những bất ngờ.
“Y tá trại”, trước kia là bác sĩ một bệnh viện trung ương,án chung thân vì tội dùng thạch tín đầu độc vợ, giữ chức này đã nhiều năm nhờ có quan hệ rộng với các quan chức lớn nên luôn được giảm án, rồi đùng một cái được tha trước hạn. Chân y tá trại béo bở có sẵn nhiều ứng viên sáng giá – mấy tù nhân bác sĩ, người đi tù vì tham ô, kẻ vì buôn lậu. Trời xui đất khiến thế nào, va lại được Ban giám thị chọn. Tính về thành phần xuất thân va ăn đứt bọn kia, va không phải chỉ là nông dân nói chung, va là cố nông từ đời ông bà tính về thành phần, là quân chủ lực của cách mạng. Một bước, va lên quan, dù là quan trong tù.
Làm y tá trong tù bảnh lắm. Muốn nghỉ lao động một ngày, hoặc vài ngày trong đời tù triền miên lao động và lao động, những người tù khốn khổ, không trừ một ai, đều phải cầu cạnh y tá. Tuỳ theo cống vật họ dâng mà ,y tá trại sẽ gia ân cho họ nhiều hay ít – từ một hai ngày nghỉ lao động cho đến nằm khểnh ở trạm xá để theo dõi và điều trị.
Nhà bếp, liên minh thần thánh của trạm xá, bao giờ cũng dành cho Y Tá phần béo bở, ngày thường cũng như ngày ăn “tươi”, trong mốì quan hệ hai bên cùng có lợi. Va mau chóng lên cân trở lại. Trơn lông đỏ da. Rồi béo hú. Va thích kể chuyện những người đàn bà đã qua tay va, như những chiến công, và thề sẽ trả thù con mụ bệnh nhân bị cưỡng hiếp đã làm đơn tố cáo va. Con mụ này là cháu họ xa một quan to.
Người Tù Già không trông cậy ở Y Tá một sự chiếu cố nào. Lão biết có trông cậy cũng vô ích. Ở trong tù mà nói chuyện ân tình là là thậm ngu, là chí ngu. Lão chỉ ân hận một điều – ấy là lão đã không đủ khôn ngoan để nghĩ tới chuyện đút lót Y tá như những người tù khác.
– Ở đời chẳng có gì tự nhiên có, chẳng có gì tự nhiên mất – Y Tá triết lý – Không hiểu điều sơ đẳng ấy thì ô hô, có mà ăn cám.
Người Tù Già không nghĩ tới đút lót có cái lý của lão.
Lão có cái gì để mà đút cơ chứ? Trên răng dưới cát-tút, lão là thế. Lão không thuộc loại người giận đời hoặc đám kẻ sĩ dở hơi đã vào tù rồi vẫn còn cương, không chịu cúi đầu trước bọn cán bộ, đừng nói gì tới Y Tá hay trật tự. Nếu có cái để đút thì lão cũng đút rồi.
Cơ mà Y Tá lại nghĩ khác – ừ thì lão không có tiền thật, lão nghèo rớt mồng tơi thật, đúng thế, nhưng lão có thể xin, có thể vay người này người khác chứ. Vẫn còn những bạn tù tốt sẵn lòng giúp lão lúc hiểm nghèo cơ mà. Vay trước trả sau là chuyện thường tình.
Cho nên Y Tá mới giận. Lão cứ ì thần cụ ra, cứ như thể Y Tá là đồng hương của lão thì va phải có trách nhiệm săn sóc lão. Đừng hòng. Còn khuya nhé!
Y Tá đoán sai – lão hành xử như thế, không tính đến chuyện lão không có tiền, cái chính là vì lão coi thường bệnh. Lão xem trận ốm bất ngờ như một sự bất tiện hơn là một bệnh. Lão tin ở đặc tính sống dai của người tù.
Tù là một sinh vật kỳ lạ – sống không mảy may tiện nghi, thiếu thốn đủ đường, mắc đủ mọi bệnh, thế mà vẫn sống nhăn, như để phô bày một hiện tượng không thể giải thích của nhân loại.
Lão không hề nghĩ đến cái chết khi lão khai ốm. Thậm chí lão còn nghĩa là Y Tá đã nhầm khi cho lão đi nằm trạm xá. Kiết lỵ là cái quái gì cơ chứ? Lão đã chứng kiến một lần tù chết hàng loạt trong một trận dịch kiết lỵ. Kinh lắm. Chôn không kịp. Nhưng dịch là dịch, chứ cái kiết lị bình thường, kiết lỵ hàng ngày, có làm thằng chó nào chết đâu? Lần này lão có đau bụng thật, đau quặn, khó chịu lắm, nhưng cũng chỉ như những lần khác, không hơn. Đến bữa lão vẫn “bụp” đến nơi đến chốn, ngoài suất cơm trại còn ngốn cả mấy chét to rau má mới thấy lưng lửng dạ.
Lão chỉ bắt đầu lo, bắt đầu ân hận đã không đút lót Y Tá khi thấy cái bệnh tưởng chừng vớ vẩn ấy ngày một nặng. Lão bị những cơn đau quặn dữ dộ ở bụng dưới. Mót liên tục. Không nhịn được. Mỗi lần đi cầu sức lực của lão như trôi ra theo đám phân lầy nhầy máu.
Y Tá cũng coi thường bệnh của lão. Khi thấy bệnh nặng thêm thì va cho lão ăn cháo với muối. Muối là lành nhất, không gì lành bằng. Với phương pháp điều trị này, bệnh nhân nào rồi cũng khỏi. Trừ những bệnh nhân đã đến cõi. Khi thấy lão đi nhiều quá, mệt quá, thì y cho uống Berberin. Trong trại Berberin là thần dược. Nó là thuốc bách bệnh.
Nhưng Berberin không ăn thua. Uống vào như không uống.
Người Tù Già thầm trách Y Tá trại nhẫn tâm. Va cho lão nằm trạm xá để làm gì, nếu như va không muốn chữa cho lão khỏi?
Lão không biết rằng Y Tá chẳng tốt mà cũng chẳng xấu với lão. Y Tá chỉ làm việc phải làm mà thôi. Đó là lệnh của Ban Giám thị: “Phải giảm tỷ lệ tử vong xuống!”
Số là từ đầu năm tù ở mấy trại trung ương bỗng lăn ra chết như ruồi trong một trận dịch kiết lỵ. Đến nỗi ông Bộ trưởng Bộ Công an phải ra một chỉ thị đặc biệt để chặn đứng tai hoạ. Không phải bỗng nhiên ông quan tâm tới số phận tù nhân. Sự quan tâm bắt đầu từ việc đứa cháu họ mẹ vợ ông Tổng bí thư đảng, làm công an một trại, đến thăm kể cho bà nghe chuyện tù chết la liệt như thế nào. Anh ta muốn bà nói giúp một tiếng để anh ta được chuyển ngành. Là Phật tử thuần thành, bà lựa lời khuyên ông con rể chớ để sự thể như thế mà luỵ đến đời con đời cháu.
Ông Tổng bí thư, tác giả nhiều cuốn sách về chủ nghĩa duy vật, về tính nhân văn xã hội chủ nghĩa, về tính bách chiến bách tvag của chủ nghĩa Mác-Lênin, cười giễu cái sự tin nhảm của bà lão. Ông không tin Trời, không tin Chúa, không tin Phật. Ông chỉ tin ở sức mạnh của cái Đảng dưới quyền ông. Có nó, ông muốn làm gì cũng được.
Ông Bộ trưởng Công an và ông Cục trưởng Cục quản lý trại giam được ông Tổng bí thư triệu lên.
– Đường lối của Đảng ta là trị bệnh cứu người – Tổng bí thư ân cần căn dặn – Trấn áp bọn có hại cho an ninh xã hội, nhất là phản cách mạng, tất nhiên không thể nương nhẹ. Đó là nội dung của chuyên chính vô sản. Nhưng khi chúng nó đã vào tù thì phải coi chúng nó như người bệnh, phải chăm nom cho chúng nó khỏi bệnh, để chúng nó còn sống mà trở thành công dân lương thiện. Các đồng chí làm ăn thế nào để đến nỗi tù chết nhiều đến thế? Tôi chỉ thị các đồng chí phát động ngay một đợt thi đua trong các trại giam để giảm ngay lập tức số tử vong. Tôi nhắc lại, ta phải nhân đạo, ngay cả với kẻ thù … Các đồng chí phải quán triệt đường lối ấy.
Hai ông cấp dưới trở về, nói với cấp dưới nữa, rồi cấp dưới nữa lại nói với cấp dưới nữa. Khi nhắc lại lời ông, họ ngước mắt lên trời:
– Thánh thật! Ngồi một chỗ mà cái gì Cụ cũng biết, biết hết. Vớ vẩn với Cụ, toi có ngày!
2
Người Tù Già lắng nghe. Từ xa vẳng lại tiếng gõ chí chạt, đều đều. Cái gì thế nhỉ? A, đúng rồi – đó tiếng dao thớt. Hớn hở và hối hả. Rộn rã. Tưng bừng. Tiếng dao thớt này nghe vui lắm, phấn khởi lắm. Chắc cva phải là tiếng băm thịt, chặt xương. Không phải tiếng băm rau, không phải. Nhà bếp cái gì cũng băm, cho nó nhanh. Có lần lão đã lầm – hôm đó nhà bếp băm bí đỏ. Nhưng tiếng băm bí đỏ có khác với băm thịt. Để ý thì thấy. Nó cũng phầm phập, nhưng không khô, không gọn. Uể oải. Chậm chạp.
Chao ôi! Lão muốn vỗ trán mà reo lên vì phát hiện, nhưng tay lão yếu quá rồi, nó chỉ còn có thể vỗ được trong ý nghĩ. Lão buồn xỉu. Lão hiểu rằng lão đã mất hết ý thức về thời gian. Lão không còn phân biệt được hôm qua với hôm kia. Lão chỉ còn biết hôm nay. Lão chỉ còn biết cái hiện tại, cái bây giờ.
Ngày lại ngày trong đời tù giống hệt nhau. Thế là lẫn. Lão nhớ được hai lần trại “ăn tươi” trước đó – ngày Quốc tế Lao động Mồng Một Tháng Năm và Mồng Hai Tháng Chín. Giữa hai ngày lễ ấy chẳng có lễ nào khác.
Giờ là Tết. Tết tây cũng được bữa tươi. Nhưng Tết ta mới lớn, mới “nhoè”.
Lão mơ màng, lão hình dung những miếng thịt kho tàu màu cánh gián đẹp như được đánh véc ni, những bát canh xương bò nhuếnh nhoáng hằng hà sa số những sao nhỏ sao to trên mặt nước béo ngậy.
Thảo nào, từ buổi sáng lão đã mơ màng nghe tiếng quạ kêu. Cái giống đến là tài, chúng ngửi được mùi xác chết cách xa cả chục cây số. Thế mà lúc ấy lão đã nghĩ dại – lão nghĩ lũ quạ đánh hơi thấy mùi lão. Lão nghe có người bảo giống quạ biết ở đâu đó có súc vật chết, hoặc người chết. Chim lợn còn thính hơn. Nó còn đánh hơi được cả người sắp chết. Là bởi người sắp chết cũng bốc mùi. Cái mùi ấy mũi người không thấy được.
Lão nhếch mép. Không ai có thể bảo đó là lão cười, bởi cái nhếch mép của lão không thành. Lão đang sung sướng trong lòng. Không phải lũ quạ đánh hơi thấy mùi lão. Chúng nó đánh hơi thấy con lợn hay con bò bị làm thịt dưới kia, chỗ nhà bếp. Lão hình dung bữa tươi sắp được hưởng. Miếng mỡ căng phồng khi cắn vào mới ngon làm sao! Là lão nhớ đến miếng mỡ ở ngoài kia kia, ở cái cuộc sống bên kia bốn bức tường nhà tù kia, chứ ở đây có bao giờ được một miếng như thế. Nhưng mỡ thì ở đâu cũng vẫn là mỡ. Nước mỡ ứa ra sẽ làm cho miệng lão hết khô, lưỡi lão hết sưng tấy. Nó giống như nước mưa nhỏ xuống đất cằn.
Thịt cũng thế. Nó làm cho người ốm khỏe ra, làm cho người già trẻ lại. Chỉ mới nghĩ tới nó lão đã tỉnh hẳn, đã quên bẵng nhưng ý nghĩ đen tối về cái chết.
Lão nhớ lại bữa “ăn tươi” cuối cùng xảy ra hôm nào.
Thông thường một tháng tù được “ăn tươi” một lần. Nhưng đã ba tháng rồi chẳng được một bữa tươi nào sất. Ban giám thị cắt ăn tươi toàn trại vì một vụ trốn tù táo bạo – năm tên tù xổng cùng một lúc vào ban đêm. Ban giám thị cho rằng nhiều người biết sự chuẩn bị của vụ trốn, nhưng không chịu tố cáo.
Lão gượng quay đầu nhìn sang giường bên, nơi những con bạc đang mải mê sát phạt. Lão đã thấy chúng mà cả với nhau về giá cả bữa tươi lớn, đặc biệt, sắp tới.
– Thịt!
Đôi mắt mờ đục của lão sáng lên. Chúng thậm chí còn động đậy trong hai hốc sâu của cái sau này gọi là đầu lâu.
Cái chết giật mình. Nó đang say sưa nuốt dần con mồi, nó đã nuốt tới đầu gối, tới hông. Con mồi đã chịu tho, ngoan ngoãn và yên phận. Vậy mà đùng một cái, cái con mồi mềm oặt, đã hết sức sống, bỗng giãy giụa, đẩy nó ra bằng sức mạnh không ngờ. Cái chết ngừng nuốt, nhẹ nhàng tạm nhả miếng mồi.
Y Tá vừa trang bài vừa bực bội vừa nhìn sang giường Người Tù Già.
– Mẹ kiếp, anh giề chưa chết hử? – va hấm hứ – Đã bảo, đừng có rên! Sốt cả ruột!
Cái đầu của Người Tù Già lắc lư khe khẽ.
A, lão còn lắc đầu được kìa, Y Tá nghĩ. Lão cãi đấy. Rằng lão vẫn còn sống, lão chưa chết. Chao ôi, cái giống tù sống dai khiếp! Một bệnh nhân như thế ở ngoài đời thì đã xong từ lâu. Từ hôm kia. Hoặc tới hôm qua là cùng. Mạch gần như không còn, hơi thở mong manh. Từ giường bệnh của lão bốc lên mùi tanh tưởi. Hồi còn ở bệnh viện – va lúc đó là bác sĩ chứ không phải là Y Tá như trong cái trại khốn kiếp này – va không bao giờ đứng lâu trong phòng bệnh nhân. Va lướt qua các giường bệnh một lượt, hỏi han qua loa, rồi đi thẳng. Cuộc chạy việt dã qua các giường bệnh kết thúc bằng việc rửa ráy không với mục đích sát trùng mà chỉ cốt xua tan uế khí của phòng bệnh dính vào da thịt. Thế mà ở đây, va phải chịu đựng cái cực hình đó. Phòng dành cho Y Tá và phòng bệnh nhân thông với nhau, mùi hôi thối và tanh tưởi của phòng bệnh nhân nồng nặc. Tối đến, người ta khóa tuốt tuột cả va lẫn con bệnh của va trong trạm xá. Ít nhất thì cánh cửa liếp cũng ngăn được một phần cái mùi kinh tởm ấy.
Va từng biết ơn Người Tù Già đã giúp va khi va mới tới trại. Lúc đó va khốn khổ lắm. Lúc đó va nghĩ rồi đây va sẽ phải trả ơn lão. Thế rồi va quên bẵng. Trí nhớ của va không giữ lại ý nghĩ xa xỉ đó. Va đã học được cách sống theo luật rừng, không phải ở đây, mà từ ngoài kia. Rừng thuộc về kẻ mạnh. Kẻ nào không học được cách sống ấy, kẻ đó tiêu. Va cho Người Tù Già được nằm trạm xá không phải như một cử chỉ trả ơn. Va thấy mặt lão đã bạc ra vì bệnh. Theo lệ thường người sắp chết phải được đi qua trạm xá để đến nhà xác.
Người Tù Già lại rên. Y Tá rời mắt khỏi mấy quân bài, nguýt lão:
– Gì?
– N..ư..ơ..ớ..c! – Người Tù Già cố gắng mấp máy cặp môi nứt nẻ.
– Để người ta xong ván bài đã nào. Đang đen bỏ mẹ đây này – Y Tá quát – Đừng có ám quẻ!
– N..ư..ơ..ớ..c!
– Mẹ kiếp, “Anh giề” uống đéo gì mà lắm thế? Này, đây bảo cho mà biết: càng uống nhiều thì càng chóng chết đấy!
Nghe đến tiếng “chết” mặt Người Tù Già co rúm. Đó là nói phóng đại lên, chứ mặt lão không còn có thể co rúm thêm được nữa. Mặt lão méo xệch, đôi mắt láo liên, thất thần. Cái tiếng “chết” thốt ra từ miệng bác sĩ là bản án tử hình đọc cho bệnh nhân.
– Sợ hử? – Y Tá liếc xéo gương mặt méo xệch của lão, vừa lắc lư toàn thân vừa xoi bài – Đừng có sợ. Thằng đéo nào rồi chẳng chết. “Anh giề” chết, tôi chết, nó chết, các ông chết, chúng nó cũng chết. Chết sạch. Kẻ trước người sau, vậy thôi. Đéo có đứa nào thoát.
Y Tá ngửa mặt lên cái trần nhà xạm đen, dấu vết của những bữa sột sệt, cười hô hố.
3
Khi nhà bếp gánh cơm đến trạm xá, thì đám bài lá giải tán.
Sĩ Quan nhún chân nhảy xuống đất, khệnh khạng bước ra khoảng trống trong phòng khám. Va chống nạnh nhìn quanh, hai cánh mũi phập phồng, ngực áo phanh ra phô hình con rắn quấn người đàn bà cởi truồng, và ở bên trên là một trái tim bị tên xuyên thủng. Người đàn bà giãy giụa trong vòng xiết của con rắn khi va cử động. .
Khẩu phần ăn của Y tá ở nhà bếp, quân số của va ở đó. Va bưng bát được lĩnh riêng từ nhà bếp lên, lướt qua đám bệnh nhân đang đứng vòng trong vòng ngoài quanh mấy xoong thức ăn sắp được chia, khẽ dặn Sĩ Quan:
– Chia xong, vào ăn với tao!
– Có cay chứ?
– Nhoè!
Đấy là hai đứa nói về rượu. Y Tá đã loay hoay pha chế chất cay, vừa pha vừa huýt sáo. Đó là một hỗn hợp gồm cồn, mật mía, những viên polyvitamine vàng ươm. Từ lâu, Y Tá sát trùng ngoài da cho bệnh nhân bằng nước sôi để nguội, để dành cồn cho những cuộc nhậu nhẹt. Hội của va là vài Sĩ Quan cổ cánh, Trật tự và Thông tin.
Từ giường của Người Tù Già phát ra một tiếng rên to. Sĩ Quan quay lại, bắt gặp cái nhìn lạnh lẽo của Người Tù Già. Ấy là va có cảm giác như vậy chứ chưa chắc đã là sự thật. Va thấy đôi mắt kẻ hấp hối đang hướng về phía đám đông ồn ào chia thịt bỗng quay về phía va.
Sĩ Quan giật mình trước cái nhìn ấy. Chuyện va bao giờ cũng chiếm phần hơn trong những bữa tươi là chuyện đương nhiên. Những người tù buộc phải chia cho va phần hơn – nhiều hơn, ngon hơn. Va đã gặp những cái nhìn không thiện cảm, nhưng chưa bao giờ va gặp một cái nhìn gườm gườm lạnh lẽo như thế.
Va tiến về phía Người Tù Già.
– “Anh giề” không bằng lòng hử? – va hất hàm hỏi, nhưng không sẵng.
Người Tù Già không trả lời. Từ đôi môi xám xịt của lão phát ra một tiếng hừ, giống một tiếng rên. Lão không nói được nữa rồi.
Sĩ Quan nhẹ nhàng hỏi lại lần nữa, một thái độ không thường có ở va:
– Vậy “anh giề” muốn gì nào? Cân nhá? Hay quay mặt đặt tên?
Người Tù Già vẫn không nói, đôi mắt gắn chặt vào mặt Sĩ Quan. Cái nhìn ấy làm va bối rối. Đó là điều chưa từng xảy ra với va. Vào tù, qua nhiều trại, va không sợ một ai. Va tự tin vì va có những quả đấm thành thục. Ngày trước, va là võ sĩ quyền Anh hạng ruồi, từng lên vũ đài và giật giải vô địch đôi ba lần. Rơi xuống đáy vực xã hội va học thêm võ giang hồ. Trong môn võ không môn phái ấy cái đầu tiên cần có là máu liều. Máu ấy va không thiếu. Nhưng hôm nay va cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ. Y Tá bảo lão già chẳng còn mấy nả. Lão già kia, với cái nhìn lạnh lẽo ấy, dám trả thù lắm, dám báo oán lắm, một khi lão thành ma. Đánh nhau với người thì được, đánh nhau với ma làm sao?!
Sĩ Quan đã định bụng nhận phần thịt của mình xong sẽ vào phòng Y Tá với các sĩ quan khác đang đợi va. Nhưng va thấy bữa tươi này cần được chia công bằng. Nếu va có mặt, không đứa nào dám hó hé giở trò bịp bợm. Người Tù Già sẽ được hưởng phần thịt xứng đáng.
– Quay mặt đặt tên nhá?
Va hỏi lại lần nữa, giọng hạ hẳn xuống, dịu dàng. Cái đầu lưa thưa tóc của người hấp hối khẽ cử động. Va hiểu là Người Tù Già gật đầu.
Theo hiệu lệnh câm lặng của va, người tù gày như một bộ xương biết đi liếm đầu bút chì rồi ngồi xổm xuống viết tên những người tù trong trạm xá vào mặt sau vỏ bao thuốc lá đặt trên đầu gối. Người đó viết xong thì một người tù khác cầm tờ giấy lên, quay mặt đi xướng tên người được lĩnh phần, trong khi đích thân Sĩ Quan cầm một cái thìa gõ không theo một thứ tự nào vào từng bát đã được chia. Tên ai được xướng lên trúng vào bát nào thì người có tên nhận bát đó.
Sĩ Quan tự tay bưng bát thịt đến bên giường Người Tù Già, đặt xuống bên cạnh ông
– “Anh giề” ơi, phần Tết của ông anh đây – va nói bằng giọng ngọt ngào và vụng về – tôi bỏ thêm vào cho “anh giề”một miếng phần của tôi nữa đấy, đấy miếng này này. Thế nào, “anh giề” bằng lòng chứ? Phần của “anh giề” không lẫn miếng sụn miếng xương nào đâu, “anh giề” ăn cho khỏe!
Đầu của Người Tù Già đụng đậy, Sĩ Quan hiểu là lão gật, lão hài lòng.
Rồi hạ giọng, va ghé sát vào tai lão thì thầm:
– Nói dại, “anh giề” có đi ngay hôm nay hay ngày mai thì chớ quên phù hộ cho thằng này nhé! Chớ quên rằng thằng này đã tử tế với ông anh.
Va bưng bát thịt của va quay vào phòng trong, ở đó Y Tá đang trịnh trọng rót thứ nước thánh do va chế tạo vào mấy cái chén nhỏ trước những cặp mắt hau háu.
4
Mấy anh tù tự giác đi làm về rẽ qua trạm xá xin thuốc đỏ vừa hút thuốc lá cuốn vừa lắng nghe Y Tá hào hứng kể về những phút cuối cùng của ông lão:
– Cái bát để bên cạnh, ngay chỗ này này, các đằng ấy ạ. “Anh giề” nhà mình thấy cái bát là cố gượng quay đầu lại. Bữa tươi “dầm ”, thịt rang mặn thơm đéo chịu được. Nhưng đến lúc ấy thì “anh giề” hết ngồi lên được rồi. Chết ấy à, chúng mày phải biết, bao giờ cũng phải từ chân lên đầu, ngược lại là không có. Tớ nghe tiếng “anh giề” ú ớ. Chắc lão muốn gọi đứa nào đỡ lão ngồi lên, nhưng lưỡi lão cứng rồi…
Người Tù Già nằm trên giường. Nằm im lặng. Mặt lão xám lại trong vẻ bất cần, trong một vẻ trịnh trọng không nguyên cớ. Trên người lão là tấm chăn rách của trại, phủ ngay ngắn, tấm chăn sợi Nam Định không biết đã được dùng cho bao nhiêu kiếp tù.
– Lão ú ớ một hồi, rồi im bặt, các đằng ấy ạ. Mẹ kiếp, tớ lại ngỡ “anh giề” rên. Mấy hôm nay lão rên suốt ấy mà. Nhưng tớ mặc. Cứ thấy rên mà chạy lại, có mà chạy cả đêm. Ấy vậy, tớ mặc cho lão rên, định bụng ăn xong sẽ cho lão một ống dầu long não. Đã đến nước ấy trời cũng không cứu nổi, dầu long não cứu thế đéo nào được. Nhưng lệ trong nghề tớ là thế, chúng mày ạ – gì thì gì cũng phải cho người hấp hối một mũi tiêm làm phúc. Người không biết thì bảo nó là thuốc hồi dương. Long não chỉ làm cho cái xác sắp chết ấm lên một tẹo thôi. Ra cái vẻ còn nước còn tát ấy mà, chứ ăn thua đếch gì…
– Thế là “anh giề” đi luôn?
Y tá khịt mũi ra chiều khinh bỉ:
– Đi là thế đéo nào? Giống tù là sống dai nhất hạng.
Tỉnh Trưởng lệt xệt đến bên giường người chết. Lão gày tong teo, già nhất trong những người tù già trong toàn trại, mặt nhăn nheo như một quả bưởi héo, nổi tiếng có học nhất trong cộng đồng tù, nhưng ít lời đến nỗi tưởng như câm. Không biết vì lý do gì, nhưng lão cũng được Ban giám thị cho nằm trạm xá từ đời y tá trước. Cái sự được ở trạm xá lâu như thế làm cho lão trở thành có giá, biết đâu tổ con chuồn chuồn, có khi lão có họ hàng hang hốc với ông kễnh nào trong các quan ở Cục hay ở Bộ chửa biết chừng.
Y Tá hằn học nhìn Tỉnh Trưởng. Va coi Tỉnh Trưởng là kẻ làm mất đi một suất trạm xá, suất ấy va có thể “chác” với những người tù khác, nhưng gã e dè không dám xử tệ với Tỉnh Trưởng. Tỉnh Trưởng tlà bạn thiết của Người Tù Già từ những năm cả hai chưa phải nằm trạm xá. Người ta thường thấy bắt gặp họ im lặng ngồi bên nhau sưởi nắng.
Đứng bên người chết, Tỉnh Trưởng nghiêng đầu ngắm nghía bạn mình như thể người ngắm tranh.
– Này, tẩn ngẩn tần ngần làm gì ở đây đấy? – Y Tá nói với Tỉnh Trưởng bằng giọng nhẹ nhàng – Anh giề ạ, rồi anh cũng thế thôi. Chẳng lâu nữa đâu.
Tỉnh Trưởng không nghe thấy câu nói của Y Tá, hoặc làm bộ không nghe thấy. Lão tỉ mẩn xếp lại cái chăn phủ xác chết cho ngay ngắn.
– Tớ tiêm cho “anh giề”một phát long não là “anh giề” hồi lại liền – Y Tá quay lại với câu chuyện – Cứ như thuốc tiên í. Vừa hồi lại là “anh giề” đã cuống lên, ú ớ một chập, mà ú ớ rõ to nhá! Tớ đồ rằng “anh giề” muốn lạy van tớ cứu lão…
– Có khi ông ấy muốn trối trăng điều gì… – Tỉnh Trưởng nói khẽ, như nói một mình.
– Anh bảo sao? Trối trăng à? “Anh giề” ấy thì có cái đéo gì mà trối với trăng chứ. Đừng nói leo! Ra ngoài kia! – Sĩ Quan quát – Tôi bảo anh ra ngoài kia. Tắp lự.
Tỉnh Trưởng lẳng lặng trôi ra ngoài trạm xá như một cái bóng. Lão ngồi bệt xuống đất bên bức vách, úp mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gày của lão rung lên từng chập.
– Mặc lão – Y Tá can Sĩ Quan, kể tiếp – Ăn xong, tớ mới ra xem “anh giề” của tớ thế nào rồi, thì cha mẹ ơi, lão đã chống tay trái nhỏm dậy được, tay phải cầm đôi đũa…
– Thánh thật! – một người tù bình luận – Lão nằm liệt từ hôm qua rồi mà.
– Thế mà “anh giề” lại tỉnh, lại nhấc được tay, mới thánh chứ. Từ trước đến nay, các cậu biết, tớ mà đã phán thằng nào mà tớ chịu không chữa được nữa, thì y như rằng thằng ấy ngỏm củ tỏi. Đã tưởng lần này mình sai bét.
– “Anh giề” ghê thật. Chết đi sống lại mấy lần rồi đấy.
– Đéo phải. Tớ không sai. Tớ vẫn đúng. Tớ thấy “anh giề” giơ đôi đũa về phía bát thịt, bàn tay “anh giề” run run, cuối cùng rồi đôi đũa cũng chạm được vào thành bát nghe đánh cóc một cái. Nhưng chỉ đến đấy thôi. Đến lúc “anh giề” run run gắp được một miếng thì hức, “anh giề” nấc lên một tiếng, cả người lão vagiật lên bẳn bặt ….
– Xong phim?
– Xong! – Y tá gật, xác nhận.
– Không thêm một tiếng nào?
– Không. “Anh giề” ngã vật ra, đầu ngoẹo sang một bên. – Y Tá nói – Đéo mẹ, tớ mà đã phán là trúng phóc. Có điều “anh giề” sống dai khủng khiếp. Người khác thì đã ngỏm củ tỏi từ lâu…
– Gắp miếng thịt lên mà không ăn được, cái số con người ta sao mà khốn nạn! – một người chép miệng, lắc đầu – Đúng là nhất ẩm nhất trác giai do tiền định.
– Có cái gì khốn nạn hơn là số phận con người?!!
Người ngồi bên đế thêm và đưa cái điếu cày lên.
– Thế là đéo cần lệnh tha nữa.
Tiếng rít thuốc vang giòn giã.
5
Người Tù Già được chôn chiều hôm đó.
Không người viếng, không tiếng khóc, không vòng hoa. Đám ma tù là thế.
Khi buổi điểm danh lần thứ hai trong ngày kết thúc, tù đã được lùa vào trong các phòng giam, cửa đã được khóa lại, thì mọi thủ tục cho sự ra đi vĩnh viễn của Người Tù Già bắt đầu.
Các bậc chức việc từ khu nhà Ban giám thị ở ngoài trại lục tục mang hồ sơ đến, lấy dấu tay xác chết, đối chiếu mặt xác chết với ảnh trong hồ sơ, lần lượt ký tên vào biên bản. Cái chết như thế mới được coi là hoàn tất.
Lệnh mai táng được phát.
Tổ mai táng gồm bốn người lẻo khoẻo hì hục đặt Người Tù Già nằm vào chiếc áo quan chật chội do đội mộc đóng bằng sáu tấm ván tiết kiệm, mỏng và cong vênh, rồi đóng nắp lại. Tiếng đinh đóng lên ván thiên kêu chan chát. Cái tiếng chan chát ấy chui vào trong các phòng làm cho những người tù lặng đi đúng một phút, như thể họ mặc niệm bạn tù vừa qua đời. Sau đúng phút ấy, phòng nào phòng nấy lại ồn ào như tổ ong.
Luồn hai sợi chão vào đáy, bốn người nọ gánh Người Tù Già ra nghĩa địa.
Theo mệnh lệnh của Sĩ Quan, được phát ra với vẻ mặt nghiêm trang, đội mai táng đặt cái bát sắt tráng men cóc gặm đựng suất thịt của Người Tù Già vào quan tài, bên cạnh ông lão. Bình thường, không ai để phí của giời như thế. Bát thịt – tức là cả cái bát, cả thịt bên trong – sẽ thuộc về một người nào đó, là bạn thân của kẻ xấu số, hoặc một tên “vét đĩa”. Hàng ngũ sĩ quan và “đầu gấu” không bao giờ đụng đến đồ của người chết.
Mệnh lệnh của Sĩ Quan làm mọi người ngạc nhiên. Chưa bao giờ Sĩ Quan ra một lệnh tương tự. Không ai biết rằng va tin Người Tù Già chết vào chính Ngọ sẽ thiêng lắm. Nếu linh hồn Người Tù Già biết va đối tốt với ông ta, va sẽ được lão đền đáp.
Trong trại không có đội mai táng chuyên nghiệp.
Không kể những trận dịch, không phải ngày nào cũng có tù chết, thành thử gọi là đội mai táng cho bảnh, chứ khi nào có người chết thì cán bộ mới gọi người đi chôn.
Người được phân công chôn người chết nhiều lần nghiễm nhiên họp thành đội.
Mỗi lần chôn tù chết, đội được bồi dưỡng một yến sắn, cho dù công việc không vất vả. Đó là mấy người được Ban giám thị đặc biệt tín nhiệm. Tín nhiệm ở đây có nghĩa là người làm việc ấy không lợi dụng cơ hội để trốn trại. Đối với những người được tín nhiệm thì lính áp giải phó mặc họ làm, làm xong tự về. Đi khỏi trại một quãng lính áp giải phẩy tay cho bốn người khiêng áo quan đi, còn tự mình rẽ vào xóm dân ở gần đấy để tán gái, hoặc để mua bán đổi chác.
Khi đám ma ra khỏi cổng trại thì ánh mặt trời đọng trong thung lũng bắt đầu nhạt. Mùa đông, trong lòng chảo lọt thỏm giữa vòng vây của những ngọn núi cao núi thấp ban đêm lạnh thấu xương, nhưng ban ngày thì oi bức. Thứ khí hậu khắc nghiệt này làm cho người ta bao giờ cũng ở trong tâm trạng bực dọc. Những người tù nghe thấy những người coi tù văng tục, không phải một lần:
– Mẹ kiếp, ở cái nơi này mình với thằng tù có khác chó gì nhau!
Tu Sĩ đi đòn trước thở hồng hộc. Lúc qua cổng trại, va lao ào ào, kéo cả bốn người phải lao theo. Va đặc biệt dị ứng với cái cổng trại. Cứ mỗi khi đi qua vòm cổng là va đi thật nhanh, dường như cái cổng đè nặng lên va, rằng nó mới là biểu tượng của sự giam giữ đích thực, mới là nhà tù, chứ không phải phòng giam nơi va ở, không phải khu trại có tường xây bao bọc và dây thép gai bịt bùng mắc trên.
– Này Cha, từ từ chứ nào. Đéo gì mà như ma đuổi thế?
Tên Giết Người càu nhàu. Va bao giờ cũng giữ được dáng nhàn tản. Nhàn tản làm, Nhàn tản ăn. Tưởng chừng khi va giết người đàn bà ở cái ga hẻo lánh để cướp có một cái tay nải không biết trong có gì, va cũng ung dung như thế – rút búa ra, nhằm cẩn thận, rồi bổ một nhát duy nhất. Người nghe hình dung ra cảnh giết người đúng như vậy khi va bình thản kể lại trường hợp phạm tội, vừa kể vừa nhấm nháp từng ngụm trà nóng bỏng.
Tu Sĩ bao giờ cũng nghe lời Tên Giết Người, không dám cãi. Và tránh xa va lúc nào có thể tránh xa. Tu Sĩ sợ va, có vẻ là như thế. Hoặc ít nhất thì cũng rất nể va, như Nhà Báo kết luận. Tu Sĩ bị bắt trong một lần giảng đạo “chui”, trong một bản miền núi. Tội giảng đạo “chui” bị “quả tớm ” đại loại cũng như tội buôn lậu bị bắt với đầy đủ tang chứng, không thể tha. Khác nhau ở chỗ, tên buôn lậu được đưa ra toà xử, có án, còn người giảng đạo chui thì bị “boọp”, tức là “tập trung cải tạo”, thứ tù không biết ngày về.
Nhà Báo, cùng đòn khiêng với Tu Sĩ, thở dài. Trong lòng, va không ưa Tu Sĩ, không ưa cái gọi là đức “khiêm nhường chịu luỵ” của Tu Sĩ. Va là kẻ vô thần. Trong đầu va chỉ có chủ nghĩa duy vật, kết quả của một nền giáo dục duy nhất va được hưởng. Va coi khinh cái cách lý giải mọi sự đời kiểu “Một sợi tóc rơi xuống cũng không ngoài ý Chúa” của tín đồ Thiên Chúa giáo.
Vào tù Nhà Báo mới có dịp thấu hiểu cái xã hội trong đó va phải sống sở dĩ cứ nhơn nhơn tồn tại chính là nhờ thứ “khiêm nhường chịu luỵ” ấy, nơi thay vào Chúa là Đảng và Nhà nước. Nhưng cái lý thuyết lởm khởm nọ một khi đã chui sâu vào đầu va thì cứ ở lì đấy để bắt va suy nghĩ theo cách nó biện giải sự đời. Va không thể hiểu được vì sao con người rất mực hiền lành như Tu Sĩ lại có thể rơi vào sự khốn khó này? Ờ thì chính quyền vô thần không ưa bất cứ tôn giáo nào, nhưng ngoài mặt nó tỏ ra không ngăn cấm tự do tín ngưỡng. Nó chỉ tìm đủ cách không cho các tôn giáo tranh giành địa vị kẻ cai trị về mặt tinh thần với nó mà thôi. Va khác, va có tội thật, vì va đã dám vượt rào phát biểu những ý nghĩ phạm thượng với những kẻ luôn khuyến khích va sử dụng quyền dân chủ để xây dựng đất nước. Chính những kẻ đó đưa va đi tù.
Tu Sĩ ít nói, va giấu giếm làm dấu thánh, giấu giếm đọc kinh vào ban đêm, khi mọi người ngủ say. Những người tù Thiên Chúa giáo kính trọng va. Một lời của Tu Sĩ nói ra được họ coi như một lời của bề trên mà họ phải nghe theo. Qua lời kể của họ, Nhà Báo biết rằng chỉ còn thiếu một chức thánh nữa là Tu Sĩ thành linh mục. Có lẽ vì thế mà những người ngoại giáo trêu chọc gọi Tu Sĩ bằng Cha. Tu Sĩ cam chịu mọi sự trêu chọc và trên gương mặt bất động của va tỏa ra một ánh hạnh phúc, hoặc chí ít cũng là niềm vui từ sự cam chịu đó.
– Này Cha, Cha có nghiệm thấy người chết nặng hơn người sống không? – Nhà Báo bâng quơ hỏi Tu Sĩ – Nói ví thử như lão này, gày như cá mắm, thế mà bây giờ thì nặng chình chịch.
– Cái đó không có lý – Tu Sĩ trả lời – Trọng lượng con người ta lúc sống thế nào thì lúc chết thế vậy.
– Thế thì trong trường hợp này phải có hai thứ trọng lượng, thưa Cha: trọng lượng tuyệt đối và trọng lượng cảm tính. Chính cái chết đã sinh ra cảm giác người chết nặng hơn lúc còn sống
Nhà Báo nói và ngẩng đầu nhìn bầu trời hoàng hôn sơn cước, thứ hoàng hôn cô tịch màu lam ngả sang màu tím. Sương mù trong thung lũng không bao giờ đọng lại dưới lòng chảo lúc hoàng hôn. Chỉ lúc ấy không khí mới có màu hổ phách trong vắt. Mải nhìn trời, va vấp phải hòn đá trồi lên trên mặt đường làm cho cái quan tài nhao đi cùng với cái vấp của va, và từ trong áo quan vẳng ra một tiếng nấc, hoặc một tiếng ợ.
– Cha mẹ ơi, ông ấy còn sống!
Tên Cắp Vặt, trẻ tuổi nhất trong đội mai táng quăng vội cây đòn, nhảy phắt sang một bên. Mặt va trắng bệch. Cái quan tài giộng xuống đường đánh cái kịch, đổ nghiêng. Nghe rõ tiếng xác chết va lục cục vào thành áo quan.
6
Bốn người tù bắt đầu đào huyệt. Trên nghĩa địa tù không có lấy một ngọn gió. Tu Sĩ bắt mệt nhanh hơn ba người còn lại. Mồ hôi chảy thành dòng trên mặt va, mặc dầu khi nắng vừa tắt thì cái lạnh bắt đầu ào ạt dâng lên.
Nhà Báo trầm tư xúc từng xẻng một.
– Cha không cần phải vội – Nhà Báo nhìn Tu Sĩ đang chăm chú đào huyệt – Nghĩa địa không phải bến ô tô. Đã đến đây rồi không ai lỡ chuyến hết.
Tu Sĩ đưa cánh tay quệt mồ hôi trên trán. Trong tầm mắt của va là một vùng nhấp nhô mả lớn mả bé, mả cũ mả mới. Khi Tu Sĩ được đưa tới đây, ba năm trước, nghĩa địa tù chỉ là một mảnh vườn đầy cỏ gà, cỏ xước và những bụi chó đẻ.
– Làm nhanh rồi còn về – Tu Sĩ nói.
– Tôi không vội, thưa Cha – Nhà Báo nói – Tôi không có nhà để mà về. Ở đây, giữa thiên nhiên, tôi thanh thản. Tôi muốn kéo dài thời gian thanh thản này.
– Thôi đi mày – Tên Giết Người gắt – đừng tán dóc. Ta sắp được một bữa sắn nhoè, thanh thản là cái đéo gì.
Nhà Báo nhổ bọt vào lòng bàn tay để cầm cán xẻng cho đỡ rát, lẳng lặng xục lưỡi xẻng vào đất bán sơn địa lổn nhổn sỏi vụn và đá son.
– Mày không thấy lão Tỉnh Trưởng à? Mặt lão bệch ra rồi. Chẳng còn được mấy nả đâu. Lão sẽ đi trước. Sau mới đến lượt thằng Ngựa Điên.
Tên Giết Người thích gọi Nhà Báo bằng “mày” để nhấn mạnh tính chất bình đẳng giữa va và Nhà Báo, thứ bình đẳng chỉ nhờ nhà tù mà có. Ở ngoài đời va chưa từng gặp một nhà báo nào, đừng nói tới chuyện được ngồi ăn cùng, được vỗ vai, được văng tục, được mày tao chi tớ thoải mái với một thằng trí thức như thế.
Nhà Báo trong thâm tâm không thừa nhận sự bình đẳng ấy, va cảm thấy khó chịu, va còn buồn nữa, gọi là tủi thân thì đúng hơn, nhưng va không phản đối. Trong tù cần phải biết chấp nhận mọi điều bất bình thường, phải biết coi tất tật mọi sự là lẽ đương nhiên
Nhà Báo lắc đầu:
– Tỉnh Trưởng còn trụ được lâu.
– Cuộc nào, tao bảo nội trong tuần này là va xong phim – Tên Giết Người hất hàm – Hai suất cơm, chịu không?
– Đừng cuộc – Tu Sĩ khuyên Nhà Báo – Ông ấy nói đúng đấy.
– Tại sao?
– Tôi đã nhìn thấy bóng Thần Chết trên mặt Tỉnh Trưởng.
– Thế còn Ngựa Điên? Cha bảo sao? – Nhà Báo hỏi lại.
– Anh ấy thì đúng là còn lâu.
Tên Giết Người cười lớn. Va không biết kết luận thành lời những ý nghĩ, nhất là những cảm xúc của va.
Ngựa Điên là kẻ mà Tên Giết Người ghét cay ghét đắng. Sự có mặt của Ngựa Điên làm lu mờ danh tiếng của va. Cái tên Ngựa Điên sở dĩ có là do những cái răng cửa dài hơn bình thường và cặp mắt long sòng sọc của người tù mang án chung thân vì tội giết người. Những người tù kính trọng Ngựa Điên vì va giết người chỉ để trả thù cho người cha bị bức tử trong cải cách ruộng đất. Viênquan toà xử cha va về sau giàu sụ, Ngựa Điên hạ sát kẻ thù xong thì chỉ cắt thủ cấp mang về, tịnh không động đến chút gì gọi là của cải. Đặt thủ cấp kẻ thù lên ban thờ cha xong, va xách mã tấu lên đồn Công an đầu thú.
Dọc đường, Tên Cắp Vặt im lặng, không tham gia chuyện người lớn. Bé người, nhưng va có thâm niên tù cao nhất so với các bạn trong đội mai táng. Va vào tù từ lúc còn bị cưỡng bức học trường Phổ thông Công nông nghiệp, thực ra là một hình thức giam giữ thiếu niên hư hỏng. Va bị đưa lên trại sau khi ngủ với một cô giáo ở trường làm cho cô ta có mang.
Cái huyệt được đào xong.
Nhà Báo ngồi lên cán xẻng, bên cạnh quan tài Người Tù Già, nhàn nhã đánh diêm châm điếu thuốc vê. Mấy người kia cũng hút, kể cả Tu Sĩ. Bốn làn khói khét lẹt bay lên trên nền núi xa đã sẫm hơn trên nền trời về tối. Hoàng hôn ở đây bắt đầu sớm nhưng trôi đi rất chậm. Trời mỗi lúc mỗi lạnh.
Tên Giết Người bấm Tên Cắp Vặt, hai đứa lảng ra xa. Ở đó chúng thì thào với nhau, thỉnh thoảng lại liếc về phía Tu Sĩ và Nhà Báo.
Nhà Báo, bằng con mắt nghề nghiệp, đoán chúng đang bàn chuyện gì đen tối. Va theo dõi hai đứa theo thói quen, vì tò mò, chứ mọi âm mưu, mọi thủ đoạn của những người bạn tù đủ mọi loại, đối với va chẳng có nghĩa lý gì. Va đứng trên, đứng xa mọi sự, dửng dưng với mọi sự. Với bộ lạc tù, va được coi là vô hại. Một người dửng dưng với sự đời không bao giờ làm ăng-ten .
Tên Giết Người quay lại bên huyệt, lạnh lùng nói :
– Thưa Cha, xin Cha vui lòng đi ra đàng kia… Một lát thôi. Và quay mặt đi cho con nhờ.
Tu Sĩ không nói không rằng đi ra xa, ở đó va đứng yên như tượng, nhìn lên trời.
– Còn mày nữa, Nhà Báo, mày cũng ra đàng kia. Và quay mặt đi.
– Các anh định làm gì vậy? – Tu Sĩ quay mặt lại, hỏi.
– Cái đó không liên quan đến Cha. Đi xa nữa đi.
Tu Sĩ lẳng lặng bước xa thêm. Va ngắm nghía những đám mây bay chậm trên đỉnh núi cao nhất, lấp lánh màu sắc xà cừ. Những màu sắc thay đổi rất nhanh. Tu Sĩ bất giác nhớ đến những hoàng hôn biển ở quê mình và thở dài. Cuộc đời bên ngoài tù ngục dù sao vẫn đẹp, va sẵn sàng chịu đựng mọi khốn khó Chúa trao.
Nhà Báo cười gượng gạo :
– Tao thì xem được chứ? Vì tò mò thôi.
– Tùy! Nếu mày muốn – Tên Giết Người buông xõng và cầm lấy cái xẻng.
Đôi vai Tu Sĩ giật lên khi nghe tiếng két kéo dài của tấm ván thiên được cậy lên.
– Mày tin là ở trong áo bông? – Tên Giết Người hỏi.
– Người ta bảo thế – Tên Cắp Vặt đáp khẽ.
Tên Giết Người ra lệnh:
– Được. Bây giờ dựng nó dậy.
Tên Cắp Vặt lùi lại, mặt tái mét.
– Em sợ!
– Đồ hèn! – Tên Giết Người cười và nhổ bọt – Quá hèn.
Tên Cắp Vặt xua tay:
– Chớ! Chớ nhổ bọt.
– Thì sao?
– Kiêng đấy.
Tên Giết Người ném cho Tên Cắp Vặt một cái lườm bỏng rẫy rồi xoạc cẳng đứng trên đầu áo quan nhìn xuống.
Va ngạc nhiên thấy sắc mặt Người Tù Già không xám ngoét như lúc nhập quan, mà bỗng có chút hồng. Cái đó có thể do ánh sáng của mặt trời đã lặn phản chiếu từ đám mây trên trời cao mà ra.
Tên Giết Người nhớ đến chuyện một người tù đã đem chôn mà sống lại, bật ván thiên vùng ra khỏi huyệt để lần về trại. Va tát vào má Người Tù Già mấy cái xem lão có phản ứng gì không, nhưng lão nằm yên.
– Đừng, ông – Tên Cắp Vặt nói, giọng van vỉ – Đừng làm thế.
Đáp lại, Tên Giết Người cười khẩy. Va nắm lấy hai vai xác chết, giật mạnh. Xác chết bật dậy, đứng dựa vào ngực Tên Giết Người. Va, một tay đỡ xác chết cho nó khỏi đổ, tay kia lục lọi quần áo người chết.
Nhà Báo nhìn thấy cằm của Người Tù Già tựa vào vai Tên Giết Người, trên gương mặt bất động của xác chết đôi mắt hé mở, lờ đờ.
– Chẳng có chó gì hết – Tên Giết Người càu nhàu – Mày nói thế nào ấy…
– Hay là ở trong áo bông? – Tên Cắp Vặt lí nhí.
– Đưa tao con dao.
Tên Cắp Vặt đưa cho Tên Giết Người con dao to bằng đốt ngón tay làm bằng sắt đai thùng. Roạt, roạt. Tên Giết Người rạch mấy đường làm cho bông gòn trong áo bay loạn lên trong gió.
– Đéo có chó gì hết – va càu nhàu.
– Có khi ông ấy giấu trong quần lót, ông ạ – Tên Cắp Vặt lùi ra xa, mặt xám không kém gì mặt xác chết – Ông “loại” kỹ xem.
– Lại đây, đồ vô tích sự!
Nghe va gọi, Tên Cắp Vặt không những không đến gần mà còn lùi thêm vài bước.
– Lại đây! – Tên Giết Người gắt – Sao mày nhát thế?
Nhưng vô hiệu, Tên Cắp Vặt trợn mắt, cái nhìn dán chặt vào bộ mặt bất động của xác chết.
Nhà Báo nhếch mép, nhưng không cười. Cảnh tượng ấy chẳng thích hợp với nụ cười nào.
– Thôi, mày – Nhà Báo phẩy tay – Chôn đi, rồi còn về.
Ngoái cổ lại, va nhìn thấy Tên Giết Người và Người Tù Già vẫn đứng tựa vào nhau. Hệt như Tên Giết Người đang vuốt ve Người Tù Già và đang thủ thỉ với lão.
– Họ vẫn chưa xong hả? – không quay mặt lại, Tu Sĩ hỏi vọng lại.
– Chưa.
Cảnh tượng Tên Giết Người lục soát xác chết làm cho Nhà Báo thấy trong lòng mình sôi lên một nỗi giận dữ khó hiểu.
Và chẳng biết làm gì với nó, va bước mấy bước về phía Tu Sĩ.
– Này Cha – va nói – Cha tin là có Chúa?
– Tôi hằng tin ở Người – Tu Sĩ đáp, mặt nghiêm trang.
– Vậy thì Chúa ở đâu?
– Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa thông biết mọi sự.
– Cả ở đây nữa chứ thưa Cha, – Nhà Báo mai mỉa – Trong cái chốn chúng ta đang ở này này?
– Trong cả chốn này.
– Thật sao?
– Và cả trong ta – Tu Sĩ nhấc tay làm dấu
– Và Chúa công bằng? – Nhà Báo gặng.
Tu Sĩ vẫn nghiêm trang:
– Không ai công bằng hơn Chúa.
Nhà Báo phá lên cười. Tiếng cười ngạo nghễ của va bay xa, đập vào vách núi rồi lại vẳng lại “ha..ha..ha..ha.. ha …a..a…”!
Khi tiếng cười yếu dần rơi xuống ở đâu đó trong những lùm cây đã biến thành những khối đen, Nhà Báo nghe tiếng một vật nặng đập vào gỗ. Va đoán Tên Giết Người đã xong việc, vừa ném Người Tù Già trở lại áo quan.
– Cho mày! – Nhà Báo nghe thấy Tên Giết Người nói.
– Không. Cháu cảm ơn ông.
– Sao? Mày chê ít à?
– Không! Cháu không lấy đâu.
– Mày sợ hả?
Tên Cắp Vặt lắp bắp:
– Cháu thấy… cháu thấy…
– Thấy cái gì?
-… Ông ấy lườm cháu. Tại cháu đầu têu…
Tên Giết Người ngửa mặt lên trời mà cười to.
– Mày không lấy, tao lấy. Tao cóc sợ con khỉ khô nào hết.
Rồi chợt nghĩ ra điều gì, va cúi xuống nhặt cái bát sắt tráng men mà thịt ở trong đã đổ tung toé ra áo quan khi nó bị rơi xuống trên đường.
– Cái bát còn tốt – Tên Giết Người ngắm nghía cái bát rồi nói – Cho mày đấy.
– Không! – Tên Cắp Vặt rền rĩ – Không. Cháu không lấy đâu.
– Thế thì tao cho mày một cái bạt tai – Tên Giết Người quát – Có lấy không? Này đây!
Vang lên một tiếng bốp, rồi tiếng Tên Cắp Vặt nấc lên, không rõ vì đau hay vì sợ.
Tên Giết Người đóng nắp áo quan. Tấm ván thiên xô sang một bên, để lộ nửa mặt người chết, khi bốn người lặng lẽ thòng dây chão vào dưới áo quan để thả nó xuống lỗ huyệt đen ngòm. Chẳng nói chẳng rằng, họ xúc đất đổ xuống cho đến khi nó được lấp đầy. Tu Sĩ là người cuối cùng còn làm việc sau khi ba người kia đã ngồi nghỉ.
Khi nấm mồ đã được Tu Sĩ đắp xong lùm lùm cho ra vẻ một nấm mồ, Tên Cắp Vặt đứng dậy, chạy hộc tốc về phía con suối ở đầu kia của nghĩa địa, từ đó va lặc lè vác một tảng đá đi về phía ba người đứng đợi. Tảng đá nặng làm va thở dốc. Va liếc nhìn Nhà Báo và Tu Sĩ rồi nhẹ nhàng đặt tảng đá xuống đầu nấm mộ. Đoạn lấy tay vun đất chung quanh cho cao thêm.
“Món hối lộ của một lương tâm khiếp đảm”, Nhà Báo nghĩ.
Bốn người tù ra về.
Ngày hết.
Khi họ xuống suối rửa chân tay, Nhà Báo cà khịa với Tu Sĩ :
– Nếu có Chúa và Chúa là công bằng thì ít nhất cũng phải để cho ông lão tội nghiệp nọ ăn xong bữa tươi hôm nay đã… Chúa toàn năng trong trường hợp này còn nhẫn tâm hơn cả người thế tục.
– Lạy Chúa tôi lòng lành! – Tu Sĩ sợ hãi kêu lên.
– Ít nhất thì Chúa cũng phải làm một điều gì đó cho con người bất hạnh ấy chứ, phải không? Nếu không, Chúa sao còn là Chúa?
Tu Sĩ rùng mình trước lời nói báng bổ của Nhà Báo, lẳng lặng ngước mắt lên trời, thành kính làm làm dấu thánh.
– Caeli enarrant gloriam Dei !
Bầu trời đêm chết lặng trước mắt va. Những tầng trời sáng danh Chúa.
Tu Sĩ lẩm bẩm và thở dài não nuột.
1979
NƯỚC MẮM CỦA RIÊNG TÔI
NƯỚC MẮM CỦA RIÊNG TÔI
Tác giả: Bruce Weigl
Giáo sư Bruce Weigl được biết đến như một hiện tượng của thi ca Mỹ . Sinh ngày 27-1-1949 tại Lorain, Ohio , ông từng tham chiến ở chiến trường Quảng Trị từ năm 1967 đến 1968 và đã chứng kiến những sự thật kinh hoàng của cuộc chiến tranh Việt Nam . Trở về sau cuộc chiến , ông tìm đến văn chương như một sự cứu rỗi linh hồn . Sau tập thơ đầu tay Một mối tình (1979) , ông là tác giả của 13 tập thơ riêng và quyển hồi ký nổi tiếng mang tên Vòng tròn của Hạnh . Giáo sư Bruce Weigi nguyên là chủ tịch Chương trình viết văn quốc gia , chủ tịch hội đồng thẩm định thơ của giải thưởng Văn học quốc gia Mỹ . Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học . Tập thơ Bài hát bom na-pan viết về chiến tranh Việt Nam của ông đã được đề cử cho giải thưởng Pulitzer .
Nước mắm của riêng tôi là một trong những câu chuyện có thật mà ông viết riêng cho tập sách Khi mưa thôi nã đạn .
Tôi ngửi thấy mùi nước mắm lần đầu tiên trong lúc tên lửa và đạn cối pháo kích dữ dội tại một nơi chúng tôi đặt tên là Trại Evans, một căn cứ của lữ đoàn kỵ binh bay số 1 , trong chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, cách Huế 35 km về phía bắc theo quốc lộ số 1 .
Đối diện với hầm trú ẩn của chúng tôi – cái hầm đã cứu mạng chúng tôi rất nhiều lần -là một chiếc lều và hầm trú ẩn của những người lính Việt Nam Cộng Hoà . Lúc đó chúng tôi đã bị hai quả tên lửa 122 li nổ rất gần , một mảnh tên lửa đã xé toang chiếc lều ngủ của những người lính Việt Nam Cộng Hoà dù lúc đó họ thoát chết vì đã kịp ẩn náu dưới hầm sau đợt pháo kích , tôi và một số đồng đội bước khoảng năm mươi mét để quan sát mảnh tên lửa đã xé rách chiếc lều . Khi cách lều chừng mười lăm mét, chúng tôi bị choáng váng bởi một mùi nồng nặc hơn tất cả các loại mùi mà tôi đã từng tiếp xúc. Lúc đó tôi nghĩ phải có một người hoặc con thú to lớn nào đó đã chết và thối rữa gần đó. Tôi không kìm nén dược cơn ho dữ dội, cơn ho đã khiến tôi phải hít thở rất sâu và điều đó làm tôi mắc nghẹn , tiếp tục ho không thể kiềm chế . Tôi di chuyển càng nhanh càng tốt xa khỏi cái lều đã bị tên lửa đánh trúng , nơi những người lính Việt Nam Cộng Hoà đã trữ một lu nước mắm trên dưới 80 lít , một thứ không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt . Sau đó tôi mới biết điều này và biết rằng lu nước mắm đậm đặc đó bị mảnh tên lửa bắn vỡ . Nước mắm tràn vào lều , chảy xuống chiếc mương nhỏ gần đó .
Nhưng có điều gì trong cái mùi nồng nặc đó làm tôi thích thú và nó lưu lại trong tôi . Một đôi lần ở trại căn cứ trên quốc lộ số 1 , nơi chiến trường đầy bom và lửa đạn , hoặc ở bãi đậu máy bay gần đó , tôi đã ăn cùng những người lính Việt Nam Cộng Hoà – những người đã vui vẻ cho tôi nhập cuộc . Tôi rất biết ơn họ vì tôi ghét cay ghét đắng lương khô được cung cấp cho lính Mỹ . Có một lần trong những bữa ăn chung đó , tôi hỏi họ về nước mắm . Họ rất vui khi tôi đề cập đến nó – lúc này tôi đã biết đôi chút về tính cách của người Việt – và họ nhanh nhảu rót ra một ít , chan lên một chén cơm trắng nhỏ và đưa cho tôi . Thật là ngon : một sự phối hợp tuyệt vời giữa sự đậm đà và ngọt ngào , và sự trù phú của một dòng sông chảy về bóng tối nơi thời gian chiếm hữu .
Kể từ lúc đó tôi ăn với nước mắm bất cứ khi nào có thể ở chiến trường Việt Nam , nhưng cơ hội đó không nhiều .Dĩ nhiên nước mắm không nằm trong khẩu phần lương khô hoặc trong những bữa ăn được chuẩn bị cho lính Mỹ nơi căn cứ trại . Nhưng tôi luôn giữ hương vị của nó trong tâm trí tôi và chỉ cần nghĩ về nước mắm là tôi đã ứa nước bọt . Tôi tìm hiểu nhiều hơn về nước mắm : nước mắm dùng làm nước chấm , dùng nấu ăn để thêm hương vị và thay cho muối . Trong chiến tranh , một số người Việt thậm chí còn uống nước mắm để giữ cho thân thể họ ấm áp , đặc biệt là khi họ phải ngâm mình xuống nước trong thời gian dài . Với cái mùi đặc biệt của nước mắm , nó cũng giúp mồi hoặc bẫy thú lợi hại hơn . Và nước mắm làm cho tất cả những thứ bạn ăn ngon hơn .
Khi rời chiến trường Việt Nam , tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ quay trở lại . Tôi mang theo rất ít văn hoá Việt về cùng , lý do chính là bởi nền văn hoá đó đã bị ngăn cách với chúng tôi . Tôi biết rằng nó đã bị biệt lập với chúng tôi vì nó là một nền văn hoá lâu đời , giàu có . Nó bị ngăn cách với chúng tôi để chúng tôi không thể nhìn thấy con người Việt Nam như những con người thật , nhất là những con người đang chiến đấu cho miền Bắc , chống lại chúng tôi ở chiến tuyến bên kia , để chúng tôi cảm thấy dễ dàng hơn khi giết họ . Tôi không mang nhiều văn hoá Việt theo về cùng tôi sau chiến tranh , nhưng tôi mang theo tình yêu về một đất nước xanh như thiên đàng , nơi mà những con người tôi gặp luôn luôn tỏ ra tốt bụng và rộng lượng . Tôi cũng đem theo về một balô đầy những nỗi buồn sâu thẳm , một sự trống vắng niềm tin đối với chính phủ của mình . Và tôi đem theo một sự nghiện ngập đối với nước mắm .
Ở Lorain , bang Ohio , một thị xã có nhiều xưởng chế biến sắt nơi tôi sinh ra và lớn lên , không thể nào tìm thấy nước mắm vào tháng 12 năm 1968 . Tôi cũng không thể tìm thấy nước mắm ở Cleveland , không có một nhà hàng , cửa hiệu hoặc chợ bán đồ ăn Việt Nam nào . Lúc đó chưa có một người Việt nào sống ở khu vực xung quanh . Sau khi rời chiến trường , trở về quê hương , tôi thường nhìn đăm đắm qua cửa sổ căn nhà cha tôi , quan sát tuyết phủ đầy những khoảng sân để biết rằng không có ai đang trốn sau bụi cây để tìm cách giết tôi . Tôi cảm thấy an toàn nhưng tôi cũng thấy rất nhớ Việt Nam . Nhưng tôi không thể bày tỏ nỗi nhớ đó với những cựu binh khác và với cả gia đình của mình . Nếu biết , họ sẽ nghĩ rằng có điều gì không ổn với tôi và chiến tranh đã làm tôi mất trí . Vì thế tôi giữ nỗi nhớ đó cho riêng mình . Sau đó thời gian trôi đi như những mảnh vụn trên sông , tôi bị lạc vào cơn mộng tưởng không thể gọi tên . Tôi không là con người của một năm về trước , tôi đã bỏ lại một phần hồn vía của mình ở Việt Nam .
Khi mùa xuân tới , tôi làm một việc mà tôi luôn làm trong mỗi mùa xuân : câu những con cá hồi to đã nảy nở sinh sôi nơi những con sông , dòng suối gần nhà . Sau một ngày may mắn , tôi đem về ba con cá to , mỗi con nặng khoảng hai đến ba cân . Khi làm vảy chúng sau gara ôtô của cha tôi , tôi ngửi thấy mùi cá . Lúc đó tôi nhớ về cuộc trò chuyện với một người lính Việt Nam Cộng Hoà . Chúng tôi đã nói về nước mắm , về việc nó là gia vị quan trọng và đặc biệt nhất trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt Nam , rằng nó có sức mạnh huyền bí để biến đổi hương vị của những loại thức ăn khác nhau , theo những cách khác nhau và về cách làm nước mắm . Cuối câu chuyện , anh ta cho tôi biết cách làm nước mắm tại nhà . Tôi đã quên câu chuyện này cho đến khi tôi làm vảy cá vào mùa xuân mà tôi trở về nhà và bỏ lại rất nhiều trí nhớ của tôi nơi chiến trường xưa . Tôi nhớ anh ấy đã bảo tôi rằng chỉ cần mổ bụng , mổ ruột , xẻ đôi con cá , ướp muối và trải chúng trên những chiếc que xếp sẵn , sau đó cứ chờ chúng rã xuống chiếc nồi bên dưới . Anh ấy nói rằng khi mà chúng đã rã hết ra , tôi sẽ nấu chúng với lửa nhỏ cho đến khi chúng thật nhừ và quánh đặc thành một chất lỏng tuyệt đẹp . Ý nghĩ về nước mắm nơi căn lều của những người lính Việt Nam Cộng Hoà tại trại Evans đưa tôi trở về Việt Nam , và mùi nước mắm rất nặng thật sự đã trở thành mùi của một đất nước .
Vì thế tôi quyết định mà không cần suy nghĩ nhiều là mình sẽ tự làm nước mắm . Tôi ra cửa hàng vật liệu tìm mua dây thép và đinh . Dùng những thanh gỗ thừa trong gara ôtô của cha tôi , tôi dựng một giàn phơi nhỏ . Tôi lấy một chiếc chảo từ bếp của mẹ tôi , dùng gạch kê nó dưới giàn phơi để đón lấy chất lỏng từ những con cá đang rữa ra .
Tôi biết rằng tôi phải chờ chúng rữa , vì thế tôi vào nhà và quên mất nước mắm của riêng tôi đang lên men đằng sau gara ôtô của cha tôi tại thị xã Lorain , bang Ohio , cách cuộc chiến vẫn đang ác liệt mười hai nghìn dặm . Tôi quên như tôi đã để quên phần lớn trí nhớ của mình tại cuộc chiến ấy . Tôi quên cho đến một buổi tối , tôi đang ngồi trong nhà của cha tôi nhìn ra cửa sổ . Tôi không nhớ tôi đã nghĩ gì , nhưng tôi nhớ rằng lúc đó tôi đã loay hoay tìm lối đi cho mình . Tôi biết rằng chiến tranh đã ăn vào tôi và bám riết , không buông tha tôi . Ngồi trong ngôi nhà của cha , tôi nghe có sự náo động bên ngoài và bước sát đến cửa sổ , nhìn ra ngoài và thấy nửa tá xe cảnh sát đang đỗ bên đường và những khoảng sân ngập xanh màu áo cảnh sát . Tôi đi ra ngoài và nhập vào đám đông nơi hàng xóm của tôi đang tụ tập . Tôi hỏi người cảnh sát thường tuần tra quanh khu vực tôi sống rằng điều gì đang xảy ra vậy .
“Có người báo với chúng tôi có một xác chết ở một trong những căn nhà này” – anh ta nói .
“Tại sao họ nghĩ thế ?” – tôi hỏi .
“Chúa ơi – anh ta thốt lên – Vì cái mùi nồng nặc này . Anh không ngửi thấy nó sao ?”
Đứng giữa con phố , ban đêm , xung quanh tôi hàng xóm đang tụ tập như thể một nghi lễ, những khoảng sân nhà đầy cảnh sát , tôi hít hơi thở sâu đầu tiên từ khi tôi ra ngoài . Tôi biết ngay vấn đề và bảo cảnh sát tôi biết mùi nồng nặc phát sinh từ đâu . Ba người cảnh sát và một số hàng xóm đi theo tôi đến giàn phơi , đằng sau gara ôtô của cha tôi . Trước khi họ thấy cảnh tượng phơi cá của tôi , họ choáng váng bởi mùi nồng nặc và buộc phải quay chân .
“Đây là xác chết của anh” – người cảnh sát thường tuần tra khu vực của tôi đứng đằng xa và nói , chỉ tay vào những con cá đang thối rữa .
Sau khi mọi việc đã được giải quyết với cảnh sát và với những người hàng xóm tốt bụng của tôi , tôi hứa với họ rằng tôi sẽ tiêu huỷ những con cá càng sớm càng tốt . Tôi nhặt nhạnh những thứ còn lại của ba con cá hồi và bỏ chúng vào nồi . Bên ngoài nhà , tôi nhóm lửa và nấu những con cá này với lửa thật nhỏ , thật lâu cho đến khi chúng thật nát và hầu như biến thành chất lỏng . Tôi lược bỏ phần xác qua một chiếc rây và lại nấu tiếp . Cuối cùng , màu của chất lỏng trở nên giống màu mặt trời trước khi lặn xuống chân trời .Tôi đổ đầy chất lỏng vào một cái lọ , đậy nắp thật chặt và giấu nó trong phòng ngủ của mình .
Năm 1968 , ở cao nguyên Trung phần Việt Nam , một số người lính Việt Nam Cộng Hoà đã chia cho tôi ăn nhu yếu phẩm của họ , đã dạy tôi cách làm một loại nước từ cá lên men , loại nước giống như thuốc trường sinh bất lão diệu kỳ , như một phương thuốc chữa cho tất cả các loại bệnh thể xác và linh hồn . Đối với riêng tôi , mùi nước mắm đã trở thành mùi của đất nước Việt Nam khi tôi ở Mỹ và thương nhớ về đất nước thứ hai của tôi . Mùa xuân năm ấy , tôi làm nước mắm của riêng mình nơi sân sau của ngôi nhà cha tôi – một người công nhân làm ở xưởng chế biến sắt . Nước mắm ấy tôi đã đậy nắp thật chặt như một loại tinh hoa mà tôi cần phải mãi mãi giữ gìn . Tôi dùng nước mắm một cách bí mật cùng thức ăn , nhưng luôn luôn phải rất cẩn trọng vì mùi của nó rất nặng và vì cảnh sát đã đến thăm hỏi tôi chính vì cái mùi đó .
Sau rất nhiều năm , chiến tranh đã di trú vào tôi , mặc dù làm đủ cách để quên nó , có những điều cứ khắc sâu vào tâm khảm . Khi tôi ăn ở những cửa hiệu , nhà hàng Việt Nam trên đất Mỹ , tôi luôn nói với họ rằng hãy đừng cho tôi nước mắm kiểu Mỹ mà phải là kiểu chính hiệu Việt Nam . Tôi đã học được rằng thức ăn Việt Nam ngon hơn khi nấu với nước mắm ngon , hoặc chấm với nước mắm được pha khéo léo với đủ lượng tỏi , ớt , chanh , nước và đường . Từ một người hâm mộ nước mắm , tôi trở thành một người sành sõi khó tính , lùng sục những cửa hiệu châu Á ở Mỹ để tìm nước mắm ngon . Ở quê hương tôi , trong thập niên 1980 và 1990 , mặc dù người Việt bắt đầu di cư sang , rất khó tìm được nước mắm ngon .
Một số loại nước mắm hình như chỉ được pha bằng nước , muối và màu thực phẩm nhưng đã đánh lừa được những cái mũi to . Chỉ qua một quá trình tìm kiếm công phu , tôi mới tìm được những cửa hiệu tin cậy có thể cung cấp nước mắm tốt cho tôi . Thỉnh thoảng , khi nấu ăn mời bạn bè , tôi dùng một ít nước mắm để nấu những món ăn châu Âu mà họ yêu thích . Và thường sau bữa ăn , bạn tôi sẽ nói rằng thức ăn thật ngon và mùi vị rất đặc biệt , rồi hỏi “Anh đã dùng gia vị gì trong công thức chế biến đấy …? Cái vị này rất đặc biệt” … Tôi không bao giờ kể cho họ nghe . Cho đến hôm nay , tôi muốn giữ bí mật đó cho mình .
Nguyễn Phan Quế Mai dịch
From: Thành Hương Nguyễn
BỨC CHÂN DUNG
Vũ Thư Hiên
BỨC CHÂN DUNG
Cuộc chuyển trại diễn ra đột ngột. Không có lấy một dấu hiệu báo trước, dù nhỏ. Tịnh không. Mà ai chứ tù tinh lắm. Một động thái mơ hồ nhất của Ban Giám thị, chỉ cần khác thường một chút là lập tức được các bình luận gia chính trị cũng như hình sự phân tích, cho ra ngay một kết luận, nói chung và về đại thể, nếu không đúng hẳn thì cũng gần đúng.
Vậy mà không một ai biết trước cuộc chuyển trại. Mọi sự diễn ra hết sức bình thường những ngày trước đó.
Đùng một cái, tai hoạ ập đến. Mọi người nhớn nhác, mặt xám ngoét, nhưng đến lúc ấy thì không còn gì để đối phó nữa rồi, không kịp nữa rồi.
Cuộc sống thường nhật, dù trong trại tù, lâu ngày đã ổn định, đã thành nếp, cho dù tồi tệ đến mấy, bỗng nhiên lộn tùng phèo. Mất mát đủ thứ. Tan đàn xẻ nghé. Trước mặt là một sự tù mù trên hết mọi sự tù mù, tốt ít xấu nhiều.
Những nhà giam được bố trí thành hàng như những cục gạch xám bỗng chốc xôn xao như những tổ ong bò vẽ. Đã tới giờ mở cửa cho tù ra làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng rồi đi lao động như thường lệ mà cửa vẫn đóng chặt. Hơn một giờ sau mới thấy một toán quân quan vàng khè xuất hiện ở cổng trại, tiểu liên cầm ngang.
– “Loại ”[1]? – một người trong rất nhiều người chen chúc nhau bám vào song sắt cửa sổ để nhìn ra, nói – Dám lắm.
Đến giữa sân, toán công an tản ra thành từng nhóm nhỏ đi về phía các nhà.
– Có vẻ không phải chuyển trại – một tiếng nói cất lên – Chắc chỉ “loại” thôi…
Một hi vọng thốt thành lời. Nó không được đám đông hưởng ứng.
– Đúng chuyển trại rồi – một người to – Nếu không thì súng ống kè kè làm gì…
– Chuyển trại ắt cánh tự giác phải biết – người khác phản bác – Chuyển trại thì họ đã phải đi dọn tủ, khuân hồ sơ từ mấy hôm trước chứ. Cán bộ có khi nào tự khuân vác…
– Hay là có thanh tra Bộ về chăng?
Gì thì gì, sự bất thường như thế này chắc hẳn lành ít dữ nhiều. Mấy anh tự giác thuộc toán lâm sản hối hả chạy đi thủ tiêu đồ vi phạm nội quy – cẩn tắc vô áy náy. Chỗ thủ tiêu tốt nhất, ai cũng biết, là hố xí cuối phòng. Những viên cai tù trẻ mới vào nghề rất mẫn cán mò mẫm mọi xó xỉnh để tìm cớ trừng phạt bọn tù nhân mất dạy cũng chừa chỗ ấy ra.
Đồ phạm nội quy thì nhiều, kể không xiết. Nó có thể là những ống bương đựng dầu diesel ăn cắp ở tổ máy cày dùng cho việc “sột sệt”, “nhặm xà ”, những bọc trà “tự biên tự diễn” to tú hụ do hái trộm mà có, là quần áo dân sự còn mới để bán cho tù được tha, là bật lửa tàu bò, lưỡi dao cạo râu Tiệp Khắc, những vật dụng đời thường nhờ mua bán đổi chác với dân quanh trại. Có thể kể thêm những dụng cụ sắc nhọn dùng để chế tạo nõ điếu, thìa, hộp đựng thuốc lào, do những tay tổ của nghề chạm trổ làm ra, đẹp còn hơn hàng thủ công mỹ nghệ. Cán bộ thường đặt tù làm những đồ vật cầu kỳ ấy với giá rẻ mạt: vài phong thuốc lào. Những thứ này có thể mang về quê làm quà hoặc bán lại. Được dịp tịch thu vô tội vạ những đồ không đâu có thì ai có thể bỏ qua. Quản giáo và lính thu tất tật mọi vật bằng kim khí, là thứ có thể suy diễn thành dụng cụ cưa chấn song hoặc hung khí cho một cuộc thanh toán giang hồ…
Trong căn phòng tối mờ mịt khói thuốc lào, mấy cái bóng xám vọt vào vọt ra nơi chuồng xí, trong khi ở bên ngoài đã vang lên tiếng khoá mở lạch xạch, tiếng then rít ken két.
– Ê, ra sân tập họp!
– Mang theo đồ đoàn. Không được để lại thứ gì.
Tiếng mấy “ông cán bộ” vang lên nơi cánh cửa vừa được mở rộng. Không khí trong lành của ban mai ùa vào.
Một tiếng ồ ngạc nhiên khe khẽ lan nhanh trong đám tù nhốn nháo. Người ta quýnh quáng:
– “Loại”rồi!
– Chuyển trại là cái chắc.
– Thường, đến trại mới người ta mới “loại” cơ mà.
– Chết cha, con dao mày để đâu? Tao cầm bằng mất toi cái tàu bò[4].
– Suỵt! Giấu không kịp đâu. Vứt.
– Tao nhét bao “ken tẩy ”ở đây đấy nhá. Tao hô rồi đấy. Thằng nào “bẩm” tao xin tí tiết. Trong cái nhà này tao biết tỏng thằng nào là Gia Ve .
Nhưng cả tự giác, tù thường, lẫn Gia Ve, đều chưng hửng khi ở sân trại họ được lệnh rỡ hết đồ đoàn để ra trước mặt. Giờ thì tất cả đều như nhau trong cuộc tổng lục soát.
Hầu như người tù nào cũng có một cái gì đó vi phạm nội quy trại, hoặc nhẹ nhất thì cũng bị coi là trái với nó, nếu trong nội quy chưa ghi đủ. Một cái áo rách xé ra bện thành bùi nhùi giữ lửa có thể bị tình nghi là thứ dùng để vượt tường rào. Một tờ giấy viết dở cũng bị nghi là sự thông tin với bên ngoài chưa kịp chuyển đi.
Già Lương, ông hàng xóm của tôi, ngồi xếp bằng tròn trên giường, bình chân như vại. Trong lúc thiên hạ bấn loạn, chỉ có mình già là tỉnh khô, nhìn đời bằng con mắt bàng quan. Thật vậy, già thì có quái gì mà phải lo.
Người ta sợ mất thứ này thứ khác, cuống cuồng giấu giấu giếm giếm, chứ tài sản của già chỉ có một cái tay nải. Tôi biết tỏng trong đó có gì: một bộ quần áo tù còn lành không mấy khi mặc đến, một cái áo trấn thủ còn khá tươm để dành cho những ngày đại hàn, một sợi chỉ dài quấn quanh một cọng tre với một cái kim bằng cật tre. Không kể mẩu khăn mặt rách, to hơn bàn tay, đã thâm xỉn vì mồ hôi nhiều năm. Đồ vật đáng giá hơn cả thì già đã khoác trên người rồi, đông cũng như hè. Đó là cái áo bông vải kaki xanh Sĩ Lâm , loại bán cho cán bộ chứ không bán cho dân, nhưng cũng đã rách, với những mụn vá sặc sỡ,
Già Lương là tù “số lẻ”, tức tù chính trị. Tôi nằm cạnh ông hơn một năm trời nhưng tịnh không biết ông phạm vào tội gì trong cái sự chính trị rất chi là tù mù ở nước ta. Đáp lại câu hỏi của tôi: ông có phải Ku Dét[8]không? Ông lắc. Có phải ông là Đờ Vờ[9]không? Ông lắc. Hay ông bị quy địa chủ cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân? Ông cũng lắc. Lại hỏi: có phải ông lỡ lời nói xấu chế độ, hoặc lỡ tay chống người nhà nước để phạm tội chống chính quyền địa phương không? Ông cũng lắc nốt. Tóm lại, tại sao già Lương là tù “số lẻ” là câu hỏi không có lời giải đáp. Chỉ biết ông tội danh của ông là “phản động, chống chế độ”, tức là i xì cái tội danh rất chung chung của hơn hai trăm tù “số lẻ” trong trại. Ấy là thân rồi tôi mới dám hỏi già. Chứ trong tù mà hỏi tội danh của nhau là điều tối kỵ. Người ta chỉ tình cờ biết người nào tội gì vào dịp tổng điểm danh, mỗi năm một lần. Chỉ vào dịp ấy cán bộ trại mới gọi tên từng người, mới công khai xướng lên giữa bàn dân thiên hạ rằng ai phạm tội gì, án phạt bao nhiêu năm.
Cuộc lục soát bắt đầu.
Tù ngồi thành từng toán trên sân điểm danh. Mỗi quản giáo trông hai tự giác lục bới tung toé đồ đoàn của từng người. Giờ thì không ai dám thì thào với ai nữa. Sân trại im phăng phắc.
Những người tù, mặt chảy dài, theo dõi đôi tay sục sạo thoăn thoắt của kẻ khám đồ. Chẳng còn cách nào kịp giấu những thứ cầm bằng bị thu. Ở trong tù cái gì cũng quý, từ mẩu đai thùng được mài sắc làm dao chẻ tăm, cắt móng chân móng tay, kể cả mảnh ni-lông gói đồ.
Thường, trong cuộc tổng “loại” như thế cán bộ chỉ thu đồ vi phạm nội quy chứ không phạt kẻ sở hữu. Phạt không xuể. Số người vi phạm nội quy quá đông, mà trại chỉ có một khu kỷ luật với một tá xà lim. Trừ phi phát hiện ra vũ khí, hoặc đồ vật có thể dùng làm vũ khí, đại loại như dao găm hoặc dùi, búa, cưa sắt, người ta mới tống kẻ vi phạm vào “u tì quốc ”, cùm chặt.
Của thu được dần chất thành đống.
Người trông cuộc tổng “loại” là phó giám thị Tằng, biệt hiệu “Tằng ác ôn”. Lùn một mẩu, cằm bạnh, môi thâm, mắt trắng dã, Tằng nghiện ra oai với tù. Đứng trước mặt y, anh tù nào vô phúc có chiều cao nhỉnh hơn y một tí là phải lập tức khuỵu hai đầu gối xuống, cổ rụt lại, hai tay bỏ thõng tối đa – tthấp đi được chừng nào hay chừng ấy. Già Lương thản nhiên nhìn trời. Mọi sự diễn ra chung quanh chẳng làm già động tâm. Cái lối nhìn trời như thế đã nhiều lần bị các quản giáo bắt tội: này, cái anh già vênh vênh cái mặt kia, anh thách thức ai đấy? Anh láo hả? Cụp cái mặt xuống!
Khốn nạn thân già Lương. Nào già có định thách thức ai đâu, có định thách thức cái gì đâu. Tôi biết cái tật ấy của già lắm. Già mải suy cái nghĩ của già, vậy thôi. Có lần mải suy nghĩ và nhìn trời, già đã ăn mấy báng súng vì tội không thèm trả lời cán bộ. Rồi chứng nào tật nấy, già vẫn cứ thế, cứ vênh vênh, không chừa.
– Tránh voi chẳng xấu mặt nào, bác ơi! – trong những trường hợp như thế chính tôi cũng khuyên già – Mình là thằng tù. Một thằng oắt con đáng tuổi cháu gọi bằng ông cũng có quyền cầm roi vụt mình, bác chớ dại…
– Khốn tính tôi cả nghĩ, ông ạ – già chép miệng – Mà đã nghĩ là cứ lan man, dứt không ra. Thí dụ tôi nhớ chuyện các cụ tôi ngày xưa dạy tôi thế nào, các cụ dữ lắm, đòn luôn luôn, có lần tôi mải nhìn trời nhìn đất gặp ông mõ không chào, thế là bị một trận vì tội khinh người… Ông biết đấy, mõ là thứ cùng đinh trong thiên hạ, bị thiên hạ coi rẻ, cơ mà oan cho tôi, tôi nhãng đi không thấy ông ấy, không phải tôi dám khinh. Chao ôi là dữ, cái trận ấy…
Già bắt đầu kể, rồi im bặt, chìm nghỉm trong hồi tưởng..
Lần này cũng vậy. Trung uý Tằng đến trước mặt già mà già không hay. Mà già cao hơn Tằng hẳn một cái đầu. Phải ngước lên mới nhìn được vào mắt già, Tằng đã khó chịu lắm.
– Anh kia, nhìn nhìn cái gì?
Tôi đứng bên già Lương. Tôi huých già một cái mạnh. Già choàng tỉnh. Cúi xuống nhìn Tằng, già chậm rãi hỏi “ông cán bộ ” chỉ đáng tuổi con út hoặc cháu mình:
– Cán bộ hỏi nhà cháu ạ?
– Còn thằng chó nào vào đây nữa? Anh nhìn nhìn cái gì?
Cặp mắt kéo màng của già mở to hơn một chút, đôi lông mày rậm với những sợi lông dài bạc trắng của già hơi nhướng lên một chút.
– Dạ?
Tằng nạt nộ:
– Dạ cái con khỉ. Tôi hỏi anh phải đứng nghiêm trả lời: anh nhìn cái gì?
Già Lương đến lúc ấy mới vỡ câu hỏi. Theo thói quen, già vuốt râu một cái, rồi mới thủng thẳng đáp:
– À, thưa cán bộ, nhà cháu mải nhìn đám mây ạ.
– Đám mây thì có gì mà nhìn? Anh dở người hử?
– Dạ, không, nhà cháu tỉnh trí ạ…
– Thế sao nhìn mây?
– Dạ, nó giống cái kiệu bát cống ạ.
Tằng gườm gườm nhìn già Lương. Rồi hất hàm gọi tay trật tự trại và tay nhà bếp vừa khám xong một người tù ở gần đấy:
– Lại đây. “Loại” thằng này! Tao bảo đảm: nó có vấn đề.
Già Lương lúc ấy mới thật tỉnh hẳn.
Già tự động ngồi xuống, chậm chạp mở nút buộc tay nải. Những ngón tay khô xác run bần bật. Cái đó lại càng gây ra nghi ngờ. Không có gì vi phạm thì sao lại run? Nhưng cả tay trật tự lẫn tay nhà bếp đều biết tỏng ông già là người thế nào. Ông già hiền lành này chẳng có gì để vi phạm nội quy, có “loại” mấy cũng chẳng ra. Ông có bệnh rung tay. Biết thế, họ chỉ thọc vào cái tay nải rách rưới của ông già, khua khoắng lấy lệ. Khi lôi từ trong đó ra bộ cái áo trấn thủ, mẩu khăn mặt hôi rình và rất nhiều mụn vải, mũi họ chun lại.
– Báo cáo ông, không có gì ạ – anh trật tự đứng lên, lễ phép bẩm.
– Chắc không? – Tằng trề môi – Còn cái áo bông kia?
Y hất hàm ra lệnh cho già Lương cởi áo bông ra.
Đúng vào lúc ấy già Lương phạm một sai lầm không tha thứ được – thay vì lễ phép cởi áo đưa cho anh trật tự thì già lại vứt toẹt nó xuống đất. Thái độ ấy của già làm cho tay trật tự nổi cạu. Chẳng nói chẳng rằng, y hằm hằm nắn bóp cái áo bông.
Bỗng mắt y sáng lên. Y mạnh tay xé rách lớp mền cái roạt rồi lôi ra một khúc nứa tép nhỏ xíu.
– Cái gì đây, anh giế ? – giọng trịch thượng, y hỏi.
– Thì anh cứ xem đi. – thay vì ăn nói lễ phép với trật tự trại, ít nhất thì y cũng là bậc chức sắc trong xã hội tù, già khinh khỉnh đáp.
Tằng nheo mắt nhìn ống nứa tép. “Không biết thằng già giấu cái gì trong đó?”.
Mở cái ống không được, nắp của nó gắn liền với thân bằng một thứ nhựa quỷ quái gì không biết, rất chặt, tay trật tự bèn đặt nó lên đầu gối, bẻ gãy đôi. Tiếng nứa vỡ toác. Bên trong là một tờ giấy cuộn tròn.
– Hừm – Tằng nói – anh “giề” này gớm nhỉ? “Yểm ”cái gì đây?
Sống với tù lâu, Tằng thuộc mọi tiếng lóng của lưu manh.
Già Lương biến sắc.
Tay trật tự mở tờ giấy, giơ ra trước mặt. Đó là một bức tranh vẽ bằng bút chì. Trong tranh là hình một ông già quắc thước, chòm râu thưa phơ phất.
– Gì đây, hử? – Tằng dằn giọng.
Già Lương lí nhí:
– Báo cáo cán bộ: cái này là…
– Cái gì?
– Dạ, báo cáo ông, là cái tranh thờ của nhà cháu ạ….
Tằng ra lệnh:
– Đưa tôi!
Tay trật tự cung kính đưa bức tranh cho phó giám thị bằng hai tay.
– Hừm! – Tằng nghiêng ngó ngắm bức tranh, rồi sẵng giọng – Anh này láo. Láo lắm! Anh có biết anh phạm tội gì không?
Già Lương còn lúng túng hơn nữa.
– Dạ, nhà cháu không biết…
– Lại còn vờ! – Tằng gắt – Không biết? Hay cố tình?
Đến lúc ấy thì già Lương quýnh lên, lắp bắp:
– Dạ, thưa cán bộ, nhà cháu…
– Nói, cái gì?
– Nhà cháu…, thưa ông cán bộ, nhà cháu sợ tranh bị ướt, nhà cháu mới cất cẩn thận…
Tằng nguýt:
– Anh vẫn chưa thấy rằng anh có tội?
Già Lương còn luống cuống hơn nữa:
– Dạ, xin ông cán bộ chỉ bảo…
Tằng nghiêm nghị:
– Để tôi giảng cho anh nghe. Tội của anh là thế này: nhân dân ta ai cũng có lòng thành kính lãnh tụ. Thờ Bác không có tội. Nhưng chỗ thờ phụng Bác phải là nơi tôn nghiêm, chỗ tinh khiết, vậy mà anh dám cả gan giấu ảnh Bác trong cái áo hôi thối của anh. Anh phải biết đây là đâu chứ? Đây là nhà tù, hiểu chửa? Thằng tù không có phép được thờ Bác trong cái chốn nhơ nhuốc này, hiểu chửa?
Già Lương lắp bắp:
– Dạ, nhà cháu hiểu… Nhưng, thưa ông xét cho…
Tằng dằn từng tiếng:
– Im cái mồm. Xét xét cái gì? Đừng có mà nguỵ biện. Không có nhưng nhiếc gì hết. Tôi lại không đi guốc vào bụng các anh ấy à. Mười anh bị bắt vào đây, chín anh rưỡi kêu oan. Có mà oan Thị Mầu! Tội lỗi đầy mình còn ngoạc mồm ra kêu Đảng kêu Bác đèn trời soi xét…
Mặt già Lương thượt ra:
– Dạ, quả thật nhà cháu không dám thế, báo cáo ông …
Tằng quát:
– Anh hay đứa nào ở đây dám vẽ ảnh Bác?
Già Lương còn quýnh hơn nữa, đến nỗi nói lắp:
– Dạ, thưa thưa thưa…ông…
Tằng quát to hơn nữa:
– Im tắp lự. Còn thưa bẩm nỗi gì?
Già Lương cúi mặt:
– Dạ, thưa ông cán bộ, không phải ảnh Cụ đâu ạ…
– Còn cãi. Thằng nào vẽ cho anh? Khai ra.
– Dạ…
– Không thưa bẩm gì hết. Tôi hỏi anh: thằng nào vẽ?
Mấy cán bộ thấy ồn ào chạy lại.
Tình hình coi mòi nghiêm trọng. Không phải chuyện chơi. Mặt già Lương rịn mồ hôi.
Anh trật tự ghé vào tai già:
– Khốn nạn, bố ngu như bò í. Có gì cứ khai thật đi, ông cán bộ thương, ông tha cho.
– Nhưng…
– Còn nhưng nhưng cái gì? – anh ta nhăn mặt – Ngu thế. Cứ thưa thật với ông cán bộ. Muốn chết hử?
Già Lương cuống lên, gắt:
– Thì tôi khai thực mà. Anh đừng lên mặt với tôi. Anh cũng là thằng tù như tôi thôi…
Quay sang Tằng, già chắp hai tay van vỉ:
– Thưa ông, nhà cháu xin khai thật… Cái này không phải ảnh Cụ đâu ạ…
– Thế nó còn là cái gì? Hử?
Già Lương ấp úng thẽ thọt:
– Dạ, nó là… , nó là bức tranh thờ của nhà cháu…
Tằng gắt to:
– Của anh, rõ rồi, không phải của anh thì việc gì anh phải “yểm” kỹ thế? Câu hỏi của tôi anh đừng có lờ: thằng nào vẽ? Anh phải thành khẩn khai ra: thằng nào dám vẽ Bác để cho anh thờ trong tù?
– Dạ, nhà cháu…
– Đừng lấy vải thưa che mắt thánh. Sao? Anh không muốn khai hử? Còn muốn che giấu hử?
Già Lương cúi gằm mặt.
– Thằng nào? Nói mau!
Những người tù đứng gần quên cả việc lục soát, chằm chằm nhìn vào mặt già.
– Thưa ông, nhà cháu khai thật ạ. Không phải ảnh Cụ đâu ạ…
– Vẫn còn chối, hử?
– Thật ạ – giờ thì già Lương không kiềm chế được nữa, già nói một thôi một hồi – Nói có trời đất, nhà cháu không dám nói sai. Nhà cháu năm nay gần tám mươi rồi. Chẳng còn mấy nả nữa… Sắp xuống lỗ rồi…Lúc đi trại, mười lăm năm rồi, không phải ít, nhà cháu đi không một hình tích để lại, con cái cháu chắt ở nhà nhiều đứa chỉ nhớ được cái tên chứ không biết mặt… Vậy nên nhà cháu mới cậy người ta hoạ cho một bức…để khi nào có người nhà lên thăm thì cho mang về…
– Hừm – Tằng nheo mắt, chăm chú nhìn lại bức hình, rồi nhìn người tù trước mặt – Tức là, anh nói hình này là hình anh?
– … Dạ, đúng vậy. Nhà cháu nghĩ: nay mai có chết đi thì, thưa ông, cũng còn tấm hình để lại.
Tôi ở với già Lương cả năm mà không biết già có bức hình ấy. Liếc mắt nhìn tờ giấy trong tay Tằng, tôi thấy Tằng không phải không có lý – người trong bức hình quả có hao hao giống lãnh tụ tối cao, cha già dân tộc. Cũng cặp mắt sâu, cũng đôi lưỡng quyền cao, cũng chòm râu thưa “tu bất phủ hầu”, được thiên hạ coi là quý tướng. Không biết già có bức hình này từ khi nào?
Tằng dịu giọng:
– Chắc là hình anh không?
– Dạ, thưa ông cán bộ, có trời đất chứng giám…
– Không cần anh thề. Thề cá trê chui ống. Anh có thề cả trăm lần tôi cũng không tin. Anh trả lời tôi tắp lự: đứa nào vẽ?
– Thưa ông, anh Ca ạ – như chết đuối vớ phải cọc, già Lương chắc mẩm Tằng đã mềm lòng, ngước nhìn hắn bằng cặp mắt ướt nhèm – Anh ấy được tha năm ngoái. Cái anh xương xương người, Ban vẫn thường gọi lên kẻ bảng với làm vườn hoa ấy ạ.
– Ờ…
– Thưa ông, anh ấy có hoa tay, nét vẽ rất có tinh thần…
– Chuyện này rồi phải cho điều tra đến nơi đến chốn. Cái thằng Ca này xem chừng có vấn đề đây. Có âm mưu gì trong chuyện này đây?
– Dạ, đúng là thế ạ.
– Nói để anh biết: tôi sẽ đích thân xem xétviệc này. Tôi sẽ tư về địa phương cho điều tra lại thằng Ca. Các anh đừng có tưởng bở: khỏi vòng cong đuôi, cầm được trong tay tờ lệnh tha là xong, là hết mọi chuyện. Đừng hòng nhé! Ở đâu cũng là đất đai của Đảng, của Bác. Lưới Đảng lồng lộng, con ruồi chui không lọt.
– Thưa ông, xin ông đừng nghĩ oan cho anh ấy – già Lương thấy mình có trách nhiệm bảo vệ tác giả bức hình, lại lắp bắp một thôi một hồi – Anh Ca có án đàng hoàng đấy ạ, không phải tập trung cải tạo như nhà cháu đâu ạ. Anh ấy cũng không phải phản động, không phải kẻ thù của nhân dân đâu ạ. Ông cán bộ cũng biết, anh ấy còn thuộc diện cải tạo tốt đấy ạ. Nhà cháu thấy anh ấy hoạ được, mới nhờ anh ấy hoạ cho một bức. Nể lắm, thương lắm, anh ấy mới hoạ cho nhà cháu. Ông xem lại bức hình, giống in nhà cháu đấy ạ. Anh ấy không dám báng bổ Cụ Hồ đâu ạ… Ông xét cho, anh ấy người hiền lành tử tế…
– Hừm, anh dám bảo thằng Ca là hiền lành tử tế, hử? Người hiền lành tử tế không ai ở tù. Lại còn bảo bức vẽ của nó giống nhà anh, là có tinh thần.
– Dạ.
Tằng vẫn giữ giọng nghiêm khắc, nhưng không còn gay gắt:
– Vẽ anh mà lại hoá ra giống Bác, bậy, bậy hết sức. Phải có ẩn ý gì nó mới vẽ ra thế chứ?
– Thưa, ông đèn giời soi xét – già Lương nói – người già mà lại gày thời hao hao nhau. Ông chớ nghi anh Ca phải tội…
– Nghi đứa nào, nghi cái gì, là quyền của tôi, Tằng cao giọng – Ngay cái chuyện nó vẽ hình cho anh để thờ cũng đáng trừng phạt rồi. Ai cho phép nó vẽ? Nó có xin phép cán bộ được vẽ không? Lại nữa, anh là thằng nào? Hử? Anh là thằng phản động. Có phải thằng phản động không?
– Dạ, thưa ông cán bộ, phải.
– Không ai thờ thằng phản động hết, rõ chửa? Con cháu cũng vậy, không con cháu nào được thờ ông cha phản động. Đứa nào thờ phản động thì đứa ấy cũng là phản động. Anh muốn cả nhà anh kéo nhau vào đây hay sao?
– Dạ, không ạ.
Giọng Tằng “ác ôn” bỗng dịu xuống:
– Thôi được, là nói thế thôi, chứ tôi tha cho anh lần này. Là tôi thương cái tuổi già của anh…
– Dạ, nhà cháu đội ơn Ban…
– Nhưng cái hình này thì tôi thu.
Già Lương mếu máo:
– Thưa ông …
– Còn thưa bẩm cái gì nữa đây?
Già Lương chắp hai tay, van lơn:
– Xin ông cho lại nhà cháu cái hình. Không phải dễ gì nhà cháu được gặp người như anh Ca để có được bức hình này. Nhà cháu thưa thật tình: trong cả gia tộc không còn cái hình nào của nhà cháu cả… Trâu chết để da, người chết cũng phải để lại cái hình cái bóng…
– Im ngay! Không lằng nhằng!
Tằng quát. Tôi thúc cùi chỏ vào mạng sườn ông bạn già. Cú thúc quá mạnh, ông nhăn mặt. Tằng nhìn tôi, lừ mắt.
– Dạ – giọng già Lương run run – Xin ông rón tay…
Tằng bỗng ghé sát mặt già Lương, đăm đăm nhìn. Thằng khốn nạn, y còn định làm gì ông già khốn khổ nữa đây
– Hừm – Tằng ra chiều suy nghĩ – Hừm.
Trong giây phút kéo dài ấy già Lương vẫn còn phấp phỏng chờ đợi, vẫn còn hi vọng, có vẻ là như thế. Biết đâu đấy, dù sao Tằng cũng là người, y ác đấy, nhưng cũng phải có lúc y không ác chứ, y sẽ nghĩ lại cho già cũng nên. Rất có thể y sẽ trao lại cho già bức chân dung để thờ kia, với một câu quát lấy lệ, không quát không được, nhưng y sẽ trả lại. Tôi đoán phỏng thế. Trong phút đó tôi hình dung ra bức hình của già được đặt trang trọng trên ban thờ, trong khói hương vương vất.
Rời khỏi mặt già Lương, Tằng lắc đầu, giọng thương hại:
– Anh là thằng không có trí khôn. Loại ngu lâu, khó đào tạo. Thằng như anh biết bao giờ mới được đánh giá là cải tạo tốt để được hưởng lượng khoan hồng của Đảng…
– Dạ, thưa ông, nhà cháu biết thế ạ, nhà cháu không dám nghĩ tới ngày về đâu ạ… – già Lương vẫn chưa hết hi vọng – Vì thế nhà cháu mới muốn có bức hình, để đến nỗi vi phạm nội quy…
– Nghĩ thế cũng không đúng. Đã vào đây rồi, an tâm cải tạo là tốt, nhưng phải nghĩ tới ngày được Đảng thương đến, Đảng cho về với vợ con chứ…
– Dạ. Cảm ơn ông cán bộ dạy bảo.
– Hừm.
Đúng là Tằng suy nghĩ. Với loại người như Tằng, những phút suy nghĩ rất hiếm hoi. Tôi cho rằng cơn nóng đã dịu, y sẽ cho ông già được phép giữ bức hình.
Tại sao y không thể làm người, dù chỉ trong một phút?
Nhưng tôi sai. Bằng giọng ôn tồn, y nói với già Lương:
– Nói cho anh biết: anh là thằng tù. Đừng có lúc nào quên điều đó. Nhá? Được tha rồi cũng chớ quên. Hồ sơ anh còn đấy, nó sẽ theo anh mãi mãi. Suốt đời. Phàm là thằng tù thì không được hỗn. Không được phép giống Bác. Giống Bác là hỗn đấy. Tù nào cũng thế, tuốt mo, tù hiếp dâm, tù ăn cướp, tù phản động chống chế độ. Không được là không được. Hiểu chửa?
Già Lương nuốt nước bọt đánh ực.
Tằng gập bức hình làm tư, đút vào túi quần.
Đoạn, y vẫy tay gọi anh văn hoá trại đang lui cui khám một người tù gần đấy:
– Ê, văn hoá!
– Dạ, thưa ông gọi!
– Phải. Bỏ đó đã. Mang tông đơ lại đây!
Thoắt cái, anh ta chạy lên phòng văn hoá, cách đấy khá xa, thoắt cái đã đứng nghiêm trước mặt Tằng “ác ôn”, tay phải lăm lăm cái tông đơ.
– Húi trụi cả râu lẫn ria anh này cho tôi!
Nhìn vào mặt già Lương, Tằng xin xít nói qua hai hàm răng nghiến:
– Vào đây rồi mà còn để râu. Lại còn dám nói: hao hao giống Bác. Láo! Láo đến thế là cùng! Húi!
Anh văn hoá trại kiêm phó cạo đưa tông đơ lên.
Tôi nhìn xuống. Tôi không muốn chứng kiến cảnh tượng ấy. Trong tầm mắt của tôi, tôi nhìn thấy những sợi râu bạc trắng rơi xuống. Tôi nhìn thấy đôi chân gày của già Lương kiễng lên, kiễng lên mãi. Ấy là khi cái tông đơ rúc lên hai lỗ mũi già.
Tằng “ác ôn” lững thững rời khỏi chỗ già Lương đứng, tiếp tục chỉ huy cuộc lục soát.
Trong cuộc chuyển trại diễn ra sau đó, khi cuộc tổng “loại” kết thúc, mọi người trên xe chở tù đều im lặng, lắc lư, không ai nói với ai một câu.
Tôi không nghe già Lương ngồi bên tôi than thở.
Ngay cả một tiếng thở dài cũng không.
1990
Lời Tạ Lỗi Muộn Màng
NHƯ CHỈ MỚI HÔM QUA – KÝ ỨC MỘT CHUYỆN TÌNH….
Lời Tạ Lỗi Muộn Màng
THANH HÀ/SGN
Viết cho H., Hải Quân Trung úy BTL Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi muộn màng mà khi xưa TH đã giấu lòng mình nói dối anh. Bất luận anh ở nơi nào, TH cầu mong anh luôn được hạnh phúc, an bình và mạnh khỏe.
Ngày ấy cách đây bốn mươi mấy năm. Sài Gòn thanh bình. Giờ tan trường có hai nữ sinh đi học về trên đường Hồng Thập Tự, bước chân thong dong, tóc xõa ngang lưng, trong đồng phục áo dài trắng. Hai chị em ruột, 17 và 18 tuổi, từ một tỉnh ven biển miền Tây lên thủ đô mới vài tuần. Người chị thi đậu tú tài đôi, đang ghi danh chờ nhập học Đại học Luật, cô em đậu xong tú tài một, đáng lẽ chờ xong trung học mới được lên Sài Gòn nhưng ba má thương cô chị chưa bao giờ sống xa nhà, nên để cô em cùng lên cho có chị có em. Hai nữ sinh ấy là người chị thứ ba của tôi và tôi.
Với tôi lúc ấy, được lên học ở Sài Gòn là một giấc mơ tuyệt vời. Sài Gòn là cái nôi của văn minh, tri thức, lịch sự, nhã nhặn. Là nơi hội tụ tinh hoa trong mọi lãnh vực khoa học, giáo dục, văn chương, nghệ thuật…
Biết em gái nhút nhát chưa quen thầy cô, bạn mới, nên chị Ba thỉnh thoảng buổi trưa giờ tan trường hay đến đón tôi cùng đi về cho vui. Hôm ấy, đi đến đoạn công viên Tao Đàn, trong lúc hai chị em còn mãi ngắm cảnh vật bên đường, bỗng xuất hiện hai chàng sĩ quan Hải Quân trong bộ quân phục trắng, cỡi hai chiếc Lambretta trắng từ hướng ngược chiều chạy đến. Họ ngang qua chúng tôi, rồi mấy phút sau lại chạy ngược lên, chầm chậm vượt qua mặt chúng tôi một đoạn rồi… quanh lại. Chị em tôi không thể không chú ý thái độ của hai anh chàng nên thầm thì:
– Hai ông nầy đảo tới đảo lui mấy bận, chắc định làm quen với tụi mình đây!
Quả như chúng tôi đoán. Sau khi lượn lờ mấy vòng, hai chàng quyết định dừng xe cạnh lề đường trước mặt chúng tôi vài mét, chờ chúng tôi đi tới, rồi một trong hai người bắt chuyện làm quen.
Tôi vốn nhút nhát, hay mắc cỡ. Lúc ở nhà, có họ hàng hay khách khứa đến chơi, mới nghe tiếng họ ngoài cổng là tôi trốn mất dạng. Khi học tôi cũng nổi tiếng rụt rè, nhiều năm sau gặp lại các bạn vẫn còn nhắc. Vì vậy khi được hai chàng Hải Quân hỏi chuyện tôi run lắm, tim đập mạnh, nhường hết cho chị Ba trả lời. Thấy đứng giữa đường nói chuyện không tiện, nên sau khi tự giới thiệu, H., một trong hai người hỏi xin số nhà chúng tôi để đến thăm.
Trường hợp H. làm quen với tôi giống một coup de foudre – tình cờ hai ánh mắt thoáng giao nhau trên đường mà anh đã quyết định làm quen ngay lập tức. Có lẽ anh nghĩ nếu không nắm ngay lấy cơ hội thì sẽ chẳng còn dịp nào nữa. Khách quan mà nói, có lẽ chúng tôi rất đẹp đôi. Chàng là trung úy trẻ tuổi đẹp trai, lịch lãm, giọng “Bắc 54” nhẹ nhàng truyền cảm; còn nàng là cô nữ sinh 17 tuổi, xuất thân từ gia đình công chức ở một tỉnh xứ biển, hiền ngoan, xinh xắn. Nhưng tôi, ở tuổi non nớt đó, lại có cái nhìn khác về chính bản thân. Tôi nghĩ về tôi quá khắc khe, tự đánh giá thấp và mặc cảm là mình không xứng với H.
So với H., tôi thấy mình chỉ là một nữ sinh nhà quê vừa lên thành phố, ăn nói vụng về, cư xử ngượng ngập, còn anh là người lịch lãm, tự tin, đôi bàn tay rất đẹp, đẹp hơn cả bàn tay tôi (!). Điểm nào tôi cũng thua anh, ngoại trừ chiều cao thì tôi lại hơn anh, oái oăm là vậy. Phải như thuở ấy tôi đừng quá câu nệ chuyện chiều cao, đừng lo sợ sự phán xét của thiên hạ “ví dầu chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho bằng” mà giữ vững quan niệm tình yêu là sự hòa điệu giữa hai tâm hồn và trái tim, thì hẳn tôi đã giữ được cho mình một mối tình đẹp.
Qua những lần trò chuyện, chúng tôi nhận ra có nhiều điểm tương đồng: đọc cùng loại sách, thơ, văn, yêu mến cùng văn, thi, nhạc sĩ, thưởng thức cùng loại âm nhạc, cùng yêu thích thiên nhiên… Tôi nói rất ngưỡng mộ tiếng hát Thái Thanh, anh tán thành ngay, khen nữ ca sĩ có giọng hát tuyệt vời cùng vóc dáng cao ráo, xinh đẹp. Nghe thế tôi nhủ thầm: thì ra anh thích những phụ nữ dáng cao, thảo nào anh thừa biết tôi cao hơn mà vẫn quyết định làm quen. Tôi luôn mặc cảm việc mình cao hơn H. nên nhiều lần anh ngỏ ý mời tôi đi chơi ngày Chủ Nhật, tôi đều kiếm cớ chối từ, để tránh sánh vai cùng anh ra đường.
Tự xét lòng, tôi biết mình có cảm tình với anh. Nhưng hỡi ơi, vì quan niệm cao thấp vô cùng ngốc nghếch ấy mà tôi đã tự bóp chết đóa-hoa-tình vừa chớm nụ bằng một lời nói dối có chủ ý. Dối với chính lòng và dối với anh. Mỗi lần anh đến thăm, trong tôi có hai tâm trạng trái ngược nhau: vừa vui vì được gặp anh, người bạn trai tế nhị đáng mến, vừa nơm nớp lo sợ anh sẽ khám phá những điểm yếu của mình rồi sẽ thất vọng mà xa lánh. Bây giờ hồi nhớ lại, tôi chắc chắn với sự tinh tế lịch lãm khi ấy anh đã nhận biết tính cách của tôi rồi, nhưng có khi chính những vụng về ngây thơ đó mà anh lại càng thích tôi chăng?
Nhân một dịp lễ, trường cho nghỉ học vài hôm tôi cùng chị Ba về quê thăm gia đình. Vài hôm sau tôi trở lại Sài Gòn thì buổi trưa anh đến thăm. Hôm đó cũng là cơ hội hiếm hoi chỉ chúng tôi với nhau để có thể trao đổi chuyện riêng tư. Anh hỏi tôi:
– Chắc hồi ở Kiên Giang, TH có nhiều người theo đuổi lắm phải không? Và TH đã có người yêu rồi?
Nghe vậy, như từ vô thức, tôi bỗng trả lời ngay:
– Dạ, vì TH lớn lên và đi học ở đó nên TH đã có người yêu rồi anh ạ.
Anh nhìn tôi bằng ánh mắt buồn thiu, thất vọng. Không khí ngưng đọng. Tôi sững sờ, nghe như có gì đó vừa đổ vỡ trong hồn. Sao tôi có thể nói dối dễ dàng như vậy? Một lời nói dối nặng nề nhất – dối gạt người, dối gạt với chính mình.
Khi anh từ giã ra về, tôi muốn gọi anh lại để đính chính là tôi không hề có bạn trai nào hết, khi mà ba má tôi rất nghiêm khắc với năm cô con gái ở tuổi thiếu nữ. Nhưng tôi đã không thể cất lời. Với ý nghĩ non dại, tôi tự nhủ: thôi thì cứ để anh tưởng tôi đã có người yêu rồi xa tôi lúc tình cảm chưa sâu đậm, ít ra anh còn lưu giữ hình ảnh đẹp về tôi hơn là gần gũi nhau lâu ngày thì anh sẽ phát giác những khuyết điểm của tôi rồi thất vọng nhiều hơn.
Từ đó tôi không bao giờ gặp lại H. Theo thời gian, tôi trưởng thành, có cuộc sống an vui bên chồng con, đôi lúc cũng nhớ về quãng đời thanh xuân nhiều mơ mộng, nhưng chỉ thoáng bâng khuâng, rồi quên ngay.
Nhưng có một ngày, như hôm nay, quá khứ tưởng đã nằm yên dưới lớp bụi thời gian, bỗng trồi lên chiếm lấy tâm hồn tôi ào ạt. Có những kỷ niệm đẹp tươi, có những kỷ niệm ray rức. Nghĩ về H., tôi giật mình chợt nhận thức lời nói dối thuở xưa hẳn đã làm tổn thương anh biết bao nhiêu. Tôi muốn gặp anh một lần để đính chính, nhưng biết tìm nơi đâu? H. ơi, bây giờ anh có mạnh khoẻ, hạnh phúc bên vợ hiền con ngoan, hay đã nằm xuống trong trận chiến nào đó, hoặc vùi thây trong trại tù cải tạo, hoặc dưới lòng biển sâu khi vượt biên, di tản?
Tôi mong rằng trời đất sẽ khiến xui để anh đọc được bài viết này. Biết rằng không thể nào thay đổi quá khứ, nhưng giãi bày được nguồn cơn một lời nói năm xưa tôi đã lỡ, thì lòng tôi cũng nhẹ nhàng thanh thản hơn là cứ ôm nỗi ân hận đeo mang suốt đời.
– Hình Minh họa…
– Tác giả Thanh Hà (ảnh tác giả gửi)







