Phi Công & Máy Bay Bà Già -Truyện Ngắn – từ FB Nguyễn Ngọc Bích.

 May be an image of text that says '7 F-15'

Truyện Ngắn – từ FB Nguyễn Ngọc Bích.

***

Phi Công & Máy Bay Bà Già

Lần đầu gặp mặt, Hân ngỡ ngàng khi “đối tượng” là một thanh niên mặt búng ra sữa. Thế nhưng, hắn luôn mồm xưng anh và gọi cô là em.

Hân quen Khương trên một trang web hò hẹn online. Tất cả khởi đầu từ một đoạn giới thiệu mang đầy tính khiêu khích: “Trần Lê Ngọc Hân, viết lách tự do, sinh năm 1974, tuổi Dần. Ai không sợ bị thịt thì cứ nhào vô”.

Ba ngày sau khi đăng hai câu giới thiệu ấy. Hân nhận được rất nhiều thư nhưng cô khá ấn tượng trước một lá thư khiêu khích không kém trong hộp mail: “Nguyễn Đăng Khương, thiết kế nội thất, tuổi Mèo. Mèo là chú của cọp nên không sợ bị thịt, sẵn sàng nhào vô”. Đọc e-mail, Hân khinh khỉnh: “Nhỏ hơn một tuổi à? Cũng không đến nỗi”. Thế nhưng, Khương chỉ mới 20 xuân xanh, thua Hân 13 tuổi, vẫn đang học đại học. Cũng là Mèo nhưng đi sau Hân hơn một con giáp.

Buổi hẹn hò offline đầu tiên ở Hands, quán cà phê yêu thích của Hân nhìn khuôn mặt búng ra sữa của Khương, Hân suýt té ghế. “Em trêu tôi đấy à?”, Hân gằn giọng. Khương tỉnh queo: “Ban đầu định là vậy nhưng bây giờ thì không. Chị đẹp hơn em nghĩ”, Hân xô ghế đứng dậy, quay đi không thèm ngó lại.

Thế nhưng Khương không dễ bảo như Hân nghĩ. Một tháng sau buổi hẹn hò thất bại ấy, Khương xuất hiện trước mặt Hân, cũng tại Hands, với dáng vẻ hoàn toàn khác. Tóc húi cua, hàm râu quai nón gọn gàng, vóc dáng cao ráo, săn chắc nổi bật trong chiếc áo pull màu đỏ vang và quần bò bạc thếch. Trước ánh mắt sững sờ của Hân, Hương nhe răng: “Sao? Bây giờ tôi xưng anh với Hân được chưa?”.

Hân tự rủa sả mình sao lại tiết lộ quán cà phê Hands và cả thói quen ngồi đồng ở đây để Khương biết đường mò đến. Cô đốp chát ngay: “Trừ khi em tẩy được cả giấy khai sinh”.

“Giấy tờ không quan trọng, một người làm việc tự do, chẳng bao giờ ký hợp đồng như em hẳn phải hiểu điều đấy chứ”, Khương đốp chát lại.

“Nhưng như vậy không có nghĩa em có thể lớn lên bằng tôi”, Hân phản bác.

Khương gân cổ cãi: “Cũng không có nghĩa là anh nhỏ hơn em, phải không? Thôi thì em cứ xem anh như là một con mèo, còn em là một con cọp, bỏ qua chuyện tuổi tác, được không?”. “Chị không rảnh để chơi với em, nhóc à!”. “Vậy có rảnh để yêu không?”. “Không, chỉ rảnh để cưới thôi”.

Khương im lặng. Hân vẫn giữ gương mặt điềm tĩnh nhưng trong bụng hò reo chiến thắng . Đàn ông nào cũng vậy, nghe đám cưới là rụt vòi, huống chi Khương chỉ mới 20 tuổi, còn thích bay nhảy. Thật tình, Hân cũng thấy tiếc cậu, chàng đẹp trai này nhưng giá 20 nhân thêm cho hai thì còn có cơ may…

Đột ngột, Khương lên tiếng: “Em hứa đấy nhé, rảnh để cưới, ghi cho anh địa chỉ nhà em, mai anh sang nhà hỏi cưới”.

Hân sa sầm nét mặt: “Đùa đủ rồi đấy, cậu làm tôi bực rồi đấy!”.

Khương vẫn kiên nhẫn: “Người ta bảo con gái tuổi Dần thường muộn chồng. Nếu lấy chồng sớm thế nào cũng goá bụa. Em bây giờ lấy chồng được rồi, anh cũng không sợ bị em khắc chết”.

Hân bật cười, không thể nghĩ ra thêm lý do để xua đuổi con mèo si tình từ trên trời rơi xuống này. Vậy là yêu nhau!

Một ngày mưa, Hân nằm cuộn tròn tấm chăn mỏng, gối đầu lên ngực Khương, thì thầm: “Em muốn sinh con”, Khương ngái ngủ: “Bao giờ?”. Ngay bây giờ, em muốn làm tình không dùng bao cao su”. Khương giật mình, tỉnh cả ngủ, mắt mở to: “Em đùa à?”.

“Không, em nói thật. Em đã hơn 30 tuổi rồi, cũng đã đến lúc sinh con”. Khương im lặng. Hân lại tiếp: “Anh không cần lo. Em tôn thờ chủ nghĩa độc thân nên chỉ muốn sinh con chứ chẳng ràng buộc trách nhiệm gì ở anh cả. Nếu thích, anh có thể đến thăm con, không thì thôi, em chẳng mang con đến mè nheo hay làm phiền anh đâu”.

Khương vẫn im lặng.

“Chắc lại sắp vùng ra khỏi chăn và bỏ chạy. Rồng hay mèo hay ngựa thì cũng nhát như nhau cả, ôi đàn ông”. Hân nghĩ một cách ca thán. Trải qua vài ba mối tình, Hân không còn ngạc nhiên hay đau lòng trước phản ứng hiện giờ của Khương. Những người tình trước của cô có say đắm đến mấy cũng bỏ chạy khi nghe đến chuyện sinh con.

Khương bước ra khỏi chăn thật nhưng không khoác áo và rời khỏi phòng như những anh chàng khác.

Anh lặng lẽ rít thuốc hồi lâu rồi bảo: “Mình cưới nhé!”. Hân tưởng mình nghe lầm: “Sao?”. Khương quay lại nhìn cô, cười dịu dàng: “Đám cưới, anh nói là mình làm đám cưới”. Đến lượt Hân im lặng, cô chưa lường trước tình huống này.

Nhìn vẻ mặt của Khương, Hân biết anh không đùa. Hân khinh khỉnh: “Anh không cần vì đứa con mà cưới cả con vợ già đâu. Em nói rồi, em tôn thờ chủ nghĩa độc thân”.

Khương bật cười, dụi đầu vào ngực Hân: “Anh không vì đứa con mà cưới em. Anh muốn dùng đám cưới để hợp thức hoá mong ước sinh con của em, không được sao? Bỏ quách cái chủ nghĩa độc thân của em đi, cũng đã đến lúc em cần một gia đình đúng nghĩa rồi đấy cưng” và anh hôn cô thật nồng nàn.

Khương nói là làm nên ngay tuần sau, anh đưa cô về ra mắt mẹ và xin cưới. Bố Khương mất từ khi anh còn nhỏ, nhà chỉ có hai mẹ con. Mẹ Khương đón Hân bằng ánh mắt sắc sảo pha chút lạnh lùng.

Khương chỉ mới hơn 21 tuổi, chưa đến lúc lập gia đình, bà tự hỏi ở cô gái này có điều gì khiến con trai mình say mê đến vậy. Hân rợn người khi mẹ Khương đưa mắt “chiếu tướng” cô từ đầu đến chân mình. Cô chưa từng biết sợ ai hay điều gì nhưng giờ đây, tim cô đang đập mạnh. Rõ ràng, mẹ Khương không như những trở ngại mà Hân từng đối đầu.

Sau mấy phút căng thẳng, bà tằng hắng hỏi: “Cháu là người ở đâu?”. “Dạ, cháu sinh ra ở Sài Gòn nhưng cả nhà cháu đã qua Mỹ định cư, chỉ còn mình cháu ở đây thôi ạ”.

“Sao cháu không đi theo họ?”.

“Dạ, tại vì cháu thích ở Việt Nam”, Hân đáp hơi khiên cưỡng, không lý nào lại nói với mẹ chồng tương lai rằng mình ở lại Việt Nam lúc ấy chẳng qua vì mối tình đầu với một anh chàng kiến trúc sư.

“Cháu bao tuổi rồi?”.

Hân lúng túng. Yêu Khương đã hơn năm nhưng cô vẫn ngại khi thú nhận với ai đó cô hơn anh 13 tuổi, dù sau khi Khương nỗ lực thay đổi ngoại hình, trông cô chẳng đến nỗi già hơn anh.

Ngay lập tức, Khương đỡ lời cho người yêu: “Dạ, cô ấy tuổi Dần ạ”.

Gương mặt mẹ Khương bỗng biến sắc, bà gằn giọng: “Tuổi Dần thì không được, không cưới xin gì cả”. Khương thảng thốt: “Sao vậy mẹ?”.

Sao trăng gì? Con gái tuổi Dần lấy chồng sớm có số sát phu, con thừa biết mà”.

Trời ơi, đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Sao mẹ tin được”.

“Không vớ vẩn, nếu muốn, hai đứa chờ mười năm sau, bước qua tuổi 30 rồi cưới”. Mẹ Khương nói với giọng đắc thắng, bà thừa biết chẳng đứa con gái nào chịu điều kiện vô lý này.

Khương cũng đắc thắng đáp ngay mà quên mất điều mình đang cố giấu: “Cô ấy đã qua ba mươi rồi mẹ ơi”. Nhìn đôi mắt mở to của mẹ Khương lúc ấy, Hân rên thầm trong bụng: “Thôi rồi”.

Sau ngày hôm ấy, sóng gió phủ chụp lên mối tình của họ. Mẹ Khương kiên quyết phản đối, thậm chí lấy cái chết để doạ con. Khương cố gắng thuyết phục mẹ nhưng vô ích. Sợ Hân buồn, anh khuyên cô kiên nhẫn cho anh thêm thời gian.

Trước mặt Khương, Hân luôn tỏ ra điềm tĩnh nhưng đêm về, cô ôm gối khóc. Đã lâu lắm rồi từ sau mối tình đầu tan vỡ cũng bởi định kiến tuổi Dần, Hân mới khóc vì một người đàn ông.

Nửa năm sau, mẹ Khương tìm gặp Hân. Cô hẹn bà ở Hands vào ngày 28 Tết, ngày làm việc cuối cùng trước Tết Nguyên Đán của Hands. Năm nào cũng vậy, Hands luôn đóng cửa vào 28 Tết và khai trương lại vào mùng Bốn. Hân vẫn còn nhớ ngày đầu tiên mình lồng tay vào tay Khương cũng là 28 Tết.

Hands nằm cuối một con hẻm nhỏ yên tĩnh giữa trung tâm thành phố sầm uất. Người không biết khó có thể tìm ra Hands giữa những con đường ngoằn ngoèo và chi chít như bàn cờ. Hands nhỏ, có chưa đến năm cái bàn nhưng nhờ vậy mà tuyệt đối yên tĩnh. Hân vẫn thường một mình đến Hands với chiếc laptop, ngồi vào chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng và gõ lóc cóc viết bài. Và giờ đây, cô cũng đang ngồi ở chiếc bàn ấy, đối diện với mẹ Khương.

Mẹ Khương mở đầu chuyện một cách nhẹ nhàng: “Cháu có thật sự muốn làm con dâu của bác không?”.

Hân im lặng, cân nhắc hồi lâu và khẽ đáp: “Cháu thật sự muốn làm vợ Khương và cháu mong bác đồng ý”.

Vẫn giữ vẻ tự nhiên, bà hỏi: “Cháu nghĩ Khương muốn cưới cháu vì điều gì?”. Hân im lặng, cô muốn trả lời vì tình yêu nhưng không hiểu sao không thể thốt nên lời. Mẹ Khương mỉm cười ý nhị: “Cháu không đủ can đảm để trả lời vì tình yêu, đúng không?”. Hân mím chặt môi: “Bác muốn nói gì?”.

Mẹ Khương vẫn điềm tĩnh: “Bác muốn cháu chủ động rời xa Khương trong một năm, không liên lạc và không giải thích bất kỳ điều gì cả. Nếu nó thật sự yêu cháu, nó sẽ vượt qua khoảng thời gian ấy và sẵn lòng chờ cháu quay về. Khi ấy, bác sẽ không phản đối chuyện đám cưới nữa. còn ngược lại, tình cảm hiện giờ nó dành cho cháu chỉ là đam mê nhất thời và hai đứa nên kết thúc. Bác cũng đang thắc mắc liệu cháu có thật sự tin là Khương yêu mình không hay chỉ đang say mê một phụ nữ từng trải và có chút nhan sắc. Sao? Cháu có tự tin để thử không?”.

Bằng những nhận xét tinh tế của mình, bà thừa hiểu Hân là cô gái ngang tàng và có lòng tự tôn rất cao. Bà biết mình đã đánh trúng đòn và chắc chắn Hân sẽ đồng ý. Một cách chậm chạp, Hân khẳng định lại điều bà đang nghĩ: “Quyết định như vậy, bác nhé!”.

Một năm trôi qua, Hân đang ngồi trên taxi đến Hands. Cây kim giờ trên tay của cô đang nhích dần đến số 11. Đêm đã khuya nhưng Sài Gòn vẫn chưa muốn ngủ. Hôm nay là 28 Tết. “Lại là ngày 28, không biết nên yêu thương hay nguyền rủa nó đây?”, Hân vừa nghĩ vừa nhìn mông lung.

Không khí hội hè phủ khắp nơi nhưng lòng Hân trống rỗng. Cô vừa mong gặp lại Khương vừa sợ mình sẽ thất vọng.

Một năm qua, giữ đúng lời hứa vời mẹ Khương, Hân bẻ sim điện thoại, thay đổi chỗ ở, đóng cửa Facebook, không đến Hands và bất cứ nơi nào khác mà Khương có thể tìm đến. Cô vác ba lô đi khắp nơi, từ Đà Lạt, Nha Trang đến Hà Nội, Sa Pa… Cô đi vừa để viết bài vừa để quên đi nỗi cô đơn đang giày vò mình.

Hân biết ở Sài Gòn, Khương đang điên cuồng tìm cô. Hân đau lòng khi nghĩ đến gương mặt hốc hác và đôi mắt trũng sâu của anh. Ngày nào, Khương cũng gửi e-mail cho Hân và giăng trên Facebook lời van xin tha thiết: “Hân, em đang ở đâu? Đừng tránh mặt anh nữa!”. Hân đọc hết, biết hết nhưng im lặng. Cô chỉ biết động viên chính mình và đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua.

Đã có lúc Hân tưởng mình bỏ cuộc khi những lá e-mail của Khương thưa dần rồi mất hẳn. Dòng chữ tha thiết trên Facebook đã được thay bằng những câu cập nhật cuộc sống thường ngày của anh.

Thỉnh thoảng, Khương lại khoe những tấm ảnh anh chụp khi đi du lịch đâu đó, vây quanh anh luôn có những cô gái xinh đẹp và trẻ trung. Hình ảnh đó làm Hân vừa ghen vừa có cảm tưởng mình như bị xóa sổ khỏi cuộc đời của Khương.

Những lúc ấy, Hân ngồi lặng câm trước laptop và nhếch mép: “Đàn ông…” nhưng nước mắt lại rơi trên má cô nóng hổi. Hân quệt đi ngay, dù gì, đây cũng không phải lần đầu tiên cô không được lựa chọn. Là con gái tuổi Dần, Hân đã khá quen với điều này. Người tình đầu của Hân cũng đã không thể vượt qua định kiến của gia đình và bỏ rơi cô chỉ vì hai chữ “tuổi Dần”. Với những người tình sau, Hân chẳng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào họ. Rồi cũng như nhau cả thôi!

Thế nhưng lần này khác, Hân biết mình yêu Khương, yêu thật sự kể từ sau mối tình đầu nên cô không thể dễ dàng bỏ cuộc. Máy bay bà già thì đã sao? Tuổi Dần thì đã sao? Chẳng lẽ cô không được quyền yêu như bao người phụ nữ khác? Và Hân vẫn ôm ấp một hy vọng nhỏ nhoi, vẫn đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua. Cô chờ ngày được gặp lại Khương.

Chiếc taxi đỗ xịch trước con hẻm nhỏ cắt ngang những dòng suy nghĩ của Hân. Cô thanh toán cước phí rồi lặng lẽ gõ chân trên con đường lồi lõm quen thuộc. Bây giờ là 11 giờ rưỡi đêm 28 Tết và cô đang đến Hands. Nếu thật sự yêu và còn nhớ Hân, Khương chắc chắn đang đợi cô ở Hands, ít nhất là qua 12 giờ đêm nay.

Hands không khác một năm trước là mấy. Vẫn một mảng tường trắng in đầy những dấu tay bằng sơn đủ màu của các vị khách, vẫn những chiếc bàn gỗ mộc mạc được lau chùi sạch sẽ đến bóng loáng, vân những cây mai giả nhỏ xíu đặt trên bàn và những phong bao lì xì đỏ đính lục lạc đong đưa reo vui bên ô cửa sổ…

Hân đưa mắt tìm kiếm chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng. Tim cô như rơi tõm xuống. Chiếc bàn trống không. Hân đưa mắt nhìn quanh. Hands vẫn còn lác đác dăm vị khách nhưng tuyệt nhiên không có người cô muốn tìm.

Hân tưởng như mình không đứng vững. Một cơn khó thở dâng lên khiến tim Hân đau thắt. Cô ôm lấy lồng ngực, lê chân khó nhọc về phía chiếc bàn quen thuộc và gọi một ly cappuchino. Mọi vật trước mắt cô nhoè đi. Hân biết mình đang khóc. Cô quệt nước mắt và cố gượng cười với cô phục vụ, nhưng nụ cười của cô phản chiếu xuống vệt nước trên mặt bàn trông méo mó và thảm hại như nụ cười của anh hề vào ngày rạp xiếc vắng khách.

Cô phục vụ ái ngại hỏi: “Chị không sao chứ?”. Hân lắc đầu, cố pha trò: “Không, chỉ là tôi có hẹn một người quan trọng nhưng lại bị cho leo cây”.

Cô phục vụ cợt vỗ tay lên trán: “à, thì ra là chị” rồi quày quả đi về phía quầy bar. Cô gái trở lại với một chiếc máy MP3 và bảo: “Sáng nay, có một anh chàng cũng nói câu tương tự như chị vậy. Anh ấy nhờ tôi trao lại thứ này cho cô gái nào ngồi ở chiếc bàn kê sát cửa sổ và cũng bị người ta cho leo cây”.

Hân đón chiếc máy từ tay cô phục vụ, tim cô đập mạnh liên hồi. Tay run run, cô gắn tai nghe và nhấn nút play. Giọng Khương vang lên trầm ấm như đang ở thật gần: “Em đang khóc vì anh đã không đến, có phải không? Anh đã chờ em suốt một năm qua ở Hands và lần nào, anh cũng thất vọng ra về. Anh liên lạc với em bằng mọi cách nhưng vô ích. Anh biết em vẫn quan sát anh từng ngày, anh van xin em rồi khiêu khích em trên Facebook để em xuất hiện nhưng tất cả đều công cốc”.

“Anh tự hỏi mình đã làm gì sai để em phải xa lánh anh như vậy? Sáng nay, anh đến Hands từ rất sớm và chờ em đến tận trưa. Em vẫn mất hút. Anh thật sự không đủ kiên nhẫn nữa. Khi em nghe được những lời này, anh đã ngồi trên máy bay sang Pháp. Anh sẽ làm việc ở đó trong ba năm và có thể lâu hơn. Có lẽ chúng ta không còn gặp lại nhau. Chúc em mạnh khoẻ và hạnh phúc”.

Những lời cuối của Khương như nhoè đi. Hai tai Hân lùng bùng, cô ngồi phỗng như tượng rồi đột ngột đứng bật dậy. “Không thể như thế! Mình phải ra sân bay”, Hân hốt hoảng vùng chạy. Cô va mạnh vào chiếc bàn và đánh đổ ly cappuchino. Dòng cà phê nóng rẫy đổ trên tay cô nhức buốt nhưng Hân không quan tâm. Cô luýnh quýnh chạy đi nhưng vấp phải chiếc ghế và ngã sõng soài. “Mình và Khương không thể kết thúc như vậy, không thể”, Hân bật khóc ngon lành như một đứa trẻ.

Chợt một đôi tay mạnh mẽ nâng cô dậy và ôm siết cô vào lòng. Mùi da thịt quen thuộc khiến Hân như bừng tỉnh. Trước khi Hân kịp nhận biết điều gì đang xảy ra, một nụ hôn nồng nàn gắn chặt lên môi cô và giọng Khương thầm thì: “Em là cọp mà sao mít ướt thế? Anh mới trêu một tí đã khóc, vậy mà nỡ bỏ anh đi suốt một năm trời?”.

Hân lắp bắp:”Anh… anh… không phải là anh…”. Khương mỉm cười dịu dàng: “Anh chẳng đi đâu cả, có đi cũng phải tha con cọp này cùng đi. Anh chờ em ở đây suốt một năm qua. Em ác lắm, thoả thuận với mẹ mà chẳng nói với anh câu nào”.

“Anh biết hết rồi sao?”.

Sáng nay, mẹ đã kể hết cho anh nghe và dặn anh phải đến đây đón em. Mẹ biết chúng ta yêu thương nhau thật lòng nên không phản đối nữa. Về nhà thôi em, mẹ đã làm thức ăn khuya, chờ con dâu tương lai về đó”.

CHỊ HAI…!

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

Đinh Trực  

CHỊ HAI…!

Hôm nay đám giỗ Cha. Chị Hai lọ mọ từ dưới quê lên thật sớm, tay xách nách mang nào là chuối nào là rau và con gà, nào là gạo nếp mới…, vừa bước tới cổng thì thấy vợ thằng Út đi ra. Chị Hai cất tiếng:

– Tui mới lên…., Mợ út khỏe không?

Không trả lời trả vốn, vợ thằng Út đi thẳng ra cổng, chị Hai tiu nghỉu đi thẳng vô trong nhà, thấy Má đang ngồi xếp giấy tiền vàng mã, chị Hai ôm sà lấy má:

– Thưa Má, con mới lên…!

Má xoa đầu chị Hai .

-Ừhm. . . Hai mới lên đó hả con….?

Mùa màng lúc rày sao rồi, cả tháng nay không thấy bây lên chơi, má nhớ quá chừng… Thôi con Hai đi rửa mặt rồi xuống phụ mọi người một tay….

Thằng Út nãy giờ đứng đó, không thèm nhìn lấy chị Hai một cái, lên tiếng.

– Hổng còn bộ đồ nào tươm tất nữa sao mà ăn bận lôi thôi lết thết vậy…? Cứ ở yên dưới đó, rảnh tui chở Má xuống thăm, chứ lên đây chi vậy….

Chị Hai lủi thủi đi thẳng xuống bếp, Má nhìn theo, thở dài….!

Đang loay hoay dọn bàn thờ, nghe tiếng còi xe bin bin, thằng Út nhìn ra thấy hai chiếc xe ô tô mới toanh đậu trước sân, liền hối hả mừng rỡ

– Wow! anh Ba, chị Tư qua kìa má…!

Thằng Út chạy ra sân niềm nở, phụ anh Ba, chị Tư bê đồ vô nhà.

Buổi trưa khách khứa đến rất đông, Thằng Út là một giám đốc công ty nước ngoài nên nó mời toàn quan chức, đại gia, người nào người nấy đều mập mạp, ăn mặc cực sang.

Buổi tiệc bắt đầu, chủ khách cụng ly rôm rả. Má nhìn quanh không thấy chị Hai đâu, vội vã lên tiếng:

– “Con Hai đâu rồi, làm cái gì mà lụm cụm mãi dưới bếp vậy, lên đây ngồi ăn với Má…”*

Chị Hai rón rén đi lên, thằng Út đứng phắt dậy đi tới chặn chị Hai lại .

– Chị ngồi ăn với sắp nhỏ dưới bếp đi…. Chứ trên này ngồi bàn, quan khách họ nhìn vào thì tui cất cái mặt đi đâu.

Chị Hai khựng lại, lau vội giọt nước mắt sém trào ra ngoài, lầm lủi đi xuống bếp. Má nghe thằng Út nói vậy, buông đũa đi vào phòng…

Tiệc tàn, Thằng Ba, con Tư vào phòng chào Má về, thấy đôi mắt Má đỏ hoe, hai đứa xúm vào hỏi lo lắng.

– Má sao vậy? Sao Má khóc? Má nhớ ba hay bịnh gì nói cho tụi con biết…

Má giọng khản đặc….

– Bây khoan hãy về, nán lại đây một chút…. Con Tư ra gọi thằng Út và con Hai vào đây Má có chuyện muốn nói….

Bốn đứa con ngồi bên, má chậm rải nói.

-Bây có biết không, từ khi Ba của bây mất, con Hai phải bỏ học nửa chừng đi ở đợ cho người ta để kiếm tiền phụ má lo cho bây ăn học, bao nhiêu tủi nhục, cực khổ con Hai nó gánh hết… !

Có lần, chủ nhà mất chỉ vàng nghi ngờ con Hai lấy, rồi họ xúm vào đánh con Hai tả tơi, nó chạy về nhà mặt tím bầm, tóc tai rối bời, quần áo rách tả tơi, nó khóc tức tưởi. Má ôm nó vào lòng mà cảm thấy đứt từng khúc ruột…!

Từ đó, nó nguyện với lòng là không để cho bây khổ cực nên nó cày thuê gánh mướn, ai thuê gì làm nấy, miễn đủ tiền lo cho tụi bây ăn học, quên cả tuổi thanh xuân để cho bây được như ngày hôm nay….

Thằng Ba bây giờ là giám đốc bệnh viện, con Tư là một doanh nhân thành đạt, thằng Út là giám đốc của một tập đoàn nước ngoài. Còn con Hai, nó hy sinh cả đời, không chồng, không con, vì lo cho em mình, bây giờ nó nhận được cái gì đây…?

Nó nhận được sự hắt hủi của mấy đứa em mình, nó nhận được sự khinh bỉ của chính mấy đứa em của nó…!

Thằng Ba, con Tư, thằng Út, tụi bây phải biết thương yêu con Hai, má thì gần đất xa trời, mà thấy cảnh như thế này, má có nhắm mắt xuôi tay cũng không yên lòng.. Má buồn lắm các con ơi…, nhìn thấy chị hai của bây như vầy, má không chịu được, cứ mỗi lần nhìn thấy nó là má không cầm được nước mắt…!

Nếu lúc xưa nó không lo cho bay thì bây giờ nó cũng có chồng có con có cái như người ta… Má còn nhớ hoài, lúc xưa có thằng đó yêu nó quá chừng chừng, cái hôm mà thằng đó đến xin hỏi cưới, con Hai nó mới nói:

“Tui theo anh về nhà anh, rồi ai lo cho tụi em tui…!”. Từ đó, thằng bồ nó bỏ đi biệt xứ, nửa đêm thức giấc thì lúc nào ta cũng thấy con hai cầm tấm hình thằng đó mà thở dài thở ngắn, nó thầm nuốt cái đau buồn vào tận trong lòng, âm thầm chịu đựng một mình mà lo cho bây đó…

Thằng Ba, con Tư thằng Út nghe má nói, chợt hiểu ra, đứa nào cũng mắt đỏ hoe, chúng đã hiểu ra là mình có lỗi với chị Hai quá nhiều, ba đứa tụi nó nhào tới ôm chặt lấy chị Hai, mà khóc…!

Bỗng dưng nhà bên cạnh vang lên bài hát “Chị tôi”, khiến mọi người càng khóc thêm, khóc vì không phải buồn mà khóc là để mừng vì mấy đứa em đã tìm được Chị Hai sau những năm trời bị ruồng bỏ…!

“… Nhà tôi trên bến sông có chiếc cầu nhỏ cong cong.

Hàng cau dưới nắng trong lá trầu không

Chị tôi trông dễ thương bán rau chợ cầu Ðông í a.

Chị tôi chưa lấy chồng.

Thời con gái lưng ong có bao người thầm mong theo.

Mẹ dục con gái yêu lấy chồng đi.

Chị thương hai đứa em thương mẹ già con đau í a.

Chị tôi chưa lấy chồng….!”.

(Đinh Trực sưu tầm)

 

 

 

MỐI TÌNH KHÔNG CHIẾN TUYẾN

May be a black-and-white image of one or more people

Lê Văn Hòa

“MỐI TÌNH KHÔNG CHIẾN TUYẾN

Tác giả của bài viết này từng là một sĩ quan QLVNCH, đang cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20. Ông nhớ về một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp của chính mình:

Có một nữ chiến binh VC bị thương trong một trận chiến đẫm máu đã được ông cứu chữa. Sau chiến tranh, người nữ chiến binh VC ấy đã vào tận trại cải tạo tìm thăm người cựu sĩ quan QLVNCH. Khi được tự do, 2 người đã thành vợ chồng và họ sang Mỹ sinh sống…

Câu chuyện của 2 người lính từng một thời là “kẻ thù” của nhau, ngỡ như chỉ có trong tiểu thuyết, thật cảm động, đầy tính nhân văn và vượt qua những bất đồng về lý tưởng. Nó chứng minh một điều không phải ta dễ dàng nhận ra: Trong chiến tranh, trái tim yêu thương sẽ chiến thắng sự hận thù, dù ở bên kia chiến tuyến …

“Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với đối phương, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu. Một đơn vị VC thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng đơn vị của chúng tôi cũng bị thiệt hại nặng nề không kém!

Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của đối phương. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ.

Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ.

Chợt Kính giơ tay ra hiệu:

– Sếp ơi! Coi chừng, hình như có người trong lùm cây đàng kia.

– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng trái nổ gài lại đó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất. Khẩu M16 lên đạn sẳn sàng. Kính theo kế bên hông…

Những tiếng rên nho nhỏ từ trong lùm cây rậm rạp, ngày càng nghe rõ dần…

– Một nữ “Vi xi”! – Kính nói nhỏ.

Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống. Có thể đối phương gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại.

Giơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái còn rất trẻ trạc độ 18 – 19 tuổi, tóc tết đuôi sam, nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:

– Nước… Nước… Cho tôi miếng nước.

Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của cô địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu. Tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương. Đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người, tôi đoạn bảo Kính:

– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ!

– Ông nhân từ quá, gặp em đi một mình là con nhỏ này tiêu đời! – Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì. Thằng Kính cũng có lý. Những người lính ra trận làm sao tránh khỏi thương vong. Liệu VC có nhân từ với những người anh em của tôi không?

– Nước… Cho tôi xin miếng nước.

– ĐM… Câm miệng lại!

Kính văng tục và gầm ghè giận dữ. Tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.

– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp chết, mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi!

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo (dấu hiệu nhận diện của đơn vị) thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của nữ địch quân: khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc. Dù trắng xanh vì mất máu, nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt…

Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:

– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.

Cô gái ngoan ngoãn nghe lời như một em bé, rồi thều thào:

– Cám ơn ông nhìều – Giọng cô nói yếu ớt và mệt mỏi.

– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.

– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi. Vả lại tôi cũng sắp chết…

– Tầm bậy, vết thương này đâu có gì nguy hiểm!

– Xin ông đừng an ủi như vậy. Hồi nãy ông nói tôi sắp chết…

– Tại vì… Tại vì… Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy…

Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói. Lâu lắm cô lại thều thào:

– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi? Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cấp trên của ông…

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:

– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước này. Ba má tôi đều đã chết vì bom đạn Mỹ. Hãy để thân xác tôi cũng vùi xuống đất mẹ quê hương. Ông đừng giao tôi cho ai hết. Tôi xin ông…

– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã, đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà. Tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:

– Cô cũng là lính, đã đánh trận bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô rên rỉ, nhăn nhó như…

– Sao không đau, ông muốn nói tôi như… khỉ chứ gì?

Cô cướp lời. Tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi đứng dậy lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:

– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô. Những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại cô VC đang nằm.

– Này… Ông tên là gì vậy?

– Có quan trọng lắm không?

– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.

– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này!

Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:

– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó. Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giữ được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.

Đất nước hoà bình, tiếng súng lặng im, những người từng là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác dù không bị trả thù, “tắm máu”, nhưng đều phải ra trình diện, rồi tập trung đi trại cải tạo…

Một ngày đẹp trời, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ Quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.

– Trần Hoài Lam có thư!

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ.

Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.

– Trần Hoài Lam có thư!

Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.

Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.

– Có thật là của tôi không anh Đan?

– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được. Thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng.

Tôi hồi hộp đến run rẩy mở ra đọc:

“Anh Lam! Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai: Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra…

“Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện đã chiến. Sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị thành phố để họat động…

Chính hành động của anh đã làm thay đổi quan niệm của em.

Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với “kẻ thù”. Dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của đối phương, mà có thể trong đó có cả em từng bắn ra…

Hòa Bình tái lập, nhưng em không vui vì nhiều người còn tư tưởng hận thù. Em rất buồn vì biết anh đang đi cải tạo… Nhưng em không thể nào quên anh. Vì thế, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ gĩa ra đi không: Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tránh được mũi tên hòn đạn”.

Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên”.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo.

Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi, cho tới khi tôi được tự do và làm thủ tục sang Mỹ sinh sống…

Tôi đã cầu hôn với Quyên và em đồng ý.

Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:

– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.

– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.

– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác.

– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:

– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cỡ muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Tôi cảm động hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương mình đến như vậy:

– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu. Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao. Có lẽ bị chết không chừng…

Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:

– Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Tình yêu và hạnh phúc của chúng tôi đã đi qua chiến tranh như thế!”

(ST)

Vụng Đường Tu – TRUYỆN NGẮN 2 KỲ – VŨ CÔNG YNH

TRUYỆN NGẮN 2 KỲ – VŨ CÔNG YNH

Truyện kể về một chàng tị nạn Việt đã quyết chí đi tu, nhưng rồi vướng món nợ… tóc vàng

***

Vụng Đường Tu

  1. Tên Mỹ nghe quen mà khó nhớ

Hắn ra trường tại một đai học ở Texas, rồi đi kiếm việc vào lúc mà nền kinh tế nước Mỹ đang xuống dốc, mà kinh nghiệm cũng như vốn liếng tiếng Anh chuyên môn của hắn thì chưa đủ khá, để có thế cạnh tranh với những sinh viên khác, nên việc kiếm job đầy gian nan vất vả.

Nhớ hồi còn trong nước, dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, học sinh phải phấn khởi để học tiếng Liên Xô hay Trung Quốc cho thức thời, thì mấy thằng “ngụy” con như hắn lại đi học tiếng của “đế quốc” Mỹ. Sau mấy năm trung học, cứ tưởng trong đầu đã đầy những chữ của đế quốc, vậy mà hắn, thằng con trai 17 tuổi, được cha mẹ kiếm đường cho đi vượt biên đến trai tị nạn, lúc phỏng vấn xếp lớp Anh văn, lại chỉ được bà giáo người Mỹ cho vào Cấp Một vì giọng đọc sai bét của mình. Nghĩa là chỉ hơn một bậc, so với mấy ông bà già và đám còn nít chẳng biết tí gì về tiếng Anh.

Đáng buồn, nhưng hắn vẫn không dám trách mấy ông thầy giáo ở Việt Nam vì “…nửa chữ cũng là thầy.” Phải thông cảm cho thầy, khi mà nghề dạy học chủ yếu là để bán ô mai, cóc, ổi, bánh kẹo trong lớp, hầu kiếm thêm thu nhập. Chính hắn cũng đã nhiều lần phụ thầy cô giáo mang những túi bánh kẹo vào lớp rồi chuyền tay nhau mua giúp thầy cô. Học tiếng Mỹ, vừa ngậm kẹo, vừa tập đọc theo giọng hờ hững của cô giáo đang lẩm nhẩm đếm tiền lẻ, thì giỏi được như hắn bây giờ cũng là khá rồi, tự trách làm gì. Thôi! Coi như học lại từ đầu cho chắc ăn!

Vậy nên những ngày trên đảo, chẳng những hắn yên tâm học Anh văn, mà còn nghe lời khuyên của bà giáo, hắn tình nguyện đi làm không công cho văn phòng Cao Ủy Tị Nạn. Quét dọn và thu xếp hồ sơ, để có dịp nghe tiếng Mỹ cho thủng lỗ tai. Nhưng càng nghe, hắn càng thấy chữ nghĩa nhảy múa lung tung, đến nhức cả đầu!

Ấy vậy mà khi đến Mỹ, rồi liều mình vào đại học nộp đơn, nói chuyện bằng tay quơ quào thế nào mà hắn cũng được nhận, và được gọi đi học vào một buổi sớm mùa xuân có nắng hanh vàng phủ trên những thảm cỏ xanh rì trên sân trường. Hắn thấy cuộc đời quả là thần tiên!

Mà thần tiên hơn nữa, là hắn cũng từ từ qua được những môn học cần đến nhiều tiếng Anh như English Composition, U.S. Politics, History…, là những môn khó gặm cho một thằng con trai tị nạn như hắn. Cũng may, nhờ những lớp học về toán và khoa học, mà hắn trụ được cho tới ngày tốt nghiệp. Và rồi, để bảo đảm cho vị thế của một công dân trong xã hội, hắn nộp đơn xin vào quốc tịch Mỹ. Nghe lời khuyên của những đàn anh ra trường đang có việc làm, hắn đã lấy tên Mỹ, để khi đi phỏng vấn xin việc, những ông chủ hãng không phải méo miệng mà gọi hắn bằng tên Việt Nam, như vậy dễ có cảm tình hơn!

Colin Do – Nghe cũng có vẻ Mỹ đấy! Đang lúc hắn rất tự hào về cái tên vừa dễ đọc, dễ viết, mà lại dễ nhớ…, thì Đông, một trong những thằng bạn chung phòng, không đồng ý:

– Mẹ…! Đang không lấy tên Mỹ làm gì, Cô Lìn với chả Cô Lèo… Tao mà làm sếp đi phỏng vấn mấy thằng Á Châu, cứ thấy tên Mỹ họ Việt là tao loại… Ai kiện, cho là kỳ thị thì tao chịu… Tên cha ông đặt cho, lại bỏ đi là làm sao?

Thằng bạn nó nói cũng có lý, nhưng tên Mỹ hay Việt thì cũng chỉ để gọi thôi! Hắn gãi gãi đầu…, mình tóc đen, mũi tẹt thế này, dù có gọi bằng tên Mỹ cả chục lần thì cũng chẳng khác Việt Nam được, chắc tổ tiên bất chợt hiện lên cũng vẫn nhận ra…! Hắn nhủ lòng như thế, để yên tâm mà đi xin việc.

Hắn gửi resume đi các nơi. Cũng hên là nước Mỹ chỉ có năm mươi tiểu bang, chứ nếu một trăm tiểu bang thì hắn còn tốn khối tiền gởi hồ sơ, để rồi toàn nhận được phúc đáp là những sự từ chối. Bạn bè có đứa lên giọng dọa nạt là bằng kỹ sư điện của hắn, chỉ có nước bỏ đi nếu như một năm mà chưa xin được việc, khiến hắn thở dài lo lắng! Rồi đứa khác lại cười cười cho rằng nước Mỹ, quả là u mê, nên vẫn chưa nhận ra được một con người tài năng như hắn…

Chẳng biết tụi nó nói thật hay nói chơi!

Đến gần nửa năm trời, sau khi thấy hắn vẫn ngày ngày nhai mì gói, thằng bạn chung phòng tội nghiệp, nhờ quen biết, xin cho hắn vào làm trong một hãng sản xuất bóng đèn, giúp hắn có tiền mà share tiền phòng. Tám tiếng một ngày, làm việc dây chuyền, đếm đủ 20 bóng cho vào một thùng, rồi đếm đến thùng khác…

Được cái hắn giỏi toán nên đếm chả mấy khi sai! Hắn gật gật đầu, “làm” bóng đèn, nghe cũng có vẻ dính dáng ít nhiều về…điện, điện tử, hy vọng bằng cấp của mình nhờ vậy mà không đến nỗi bỏ đi như lời thằng bạn độc miệng.

Xem ra, trời chẳng phụ lòng người, một buổi chiều, hắn nhận được thư gọi đi phỏng vấn technician job từ hãng Boeing, mà vì gởi nhiều đơn quá, hắn cũng chẳng nhớ là mình đã xin việc này khi nào! Technician cũng tốt thôi, được phỏng vấn là may rồi, hắn tự khuyến khích, ít ra là có cơ hội học hỏi kinh nghiệm phỏng vấn như thế nào. Boeing mà, máy bay bay đầy trời chứ dở sao!

Vậy mà hắn lại được nhận ngay. Bắt tay tạm biệt ông supervisor, hắn mừng rối rít.

Thế rồi, chẳng biết nhờ ai mách nước là trong resume, nếu khai vừa đi học vừa đi làm thì dễ “câu” job kỹ sư hơn. Cũng giống như bán một món hàng mà chứng tỏ được món hàng đó sẽ có giá, thì người mua dễ để mắt đến. Nghe cũng xuôi tại, nên hắn đi thi lấy cái GRE test, rồi xin vào trường, học tiếp Master bằng tiền trợ cấp của hãng.

Hình như hắn đã đoán đúng, đi học lại chưa được một năm, “tiếng tăm” cần cù siêng học của hắn đã đến được tai của management trong hãng. Cũng đúng thôi, hãng trả tiền học, nhưng có mấy đứa còn kém cỏi để vừa đi học vừa đi làm như hắn đâu, nên tên của hắn thường xuyên nằm chình ình trên phòng Tài Chánh của Human Resources chờ ký giấy nhận tiền. Cũng vừa lúc hãng đang cần một kỹ sư cho ca làm buổi chiều, bà Mỹ già Julie – Engineering Manager – 20 năm kinh nghiệm để mướn những “nhân tài” với số lương rẻ mạt cho hãng, nghĩ đến đơn của thằng Việt Nam ốm nhách, nhưng chăm chỉ…, bà cho ngay tên của hắn vào Promotion List.

Ôi, cuộc đời quả là đáng sống. Đường quan lộ sáng chói như ánh đèn 100 watts trong đêm tối mênh mông, vì vừa được đi học, vừa được làm đúng nghề như hằng mơ ước.

Hắn đậu xe vào parking-lot rồi nhanh nhẹn khoác backpack lên lưng, tất bật phóng vào lớp học.

Bữa nay trong lớp chia nhóm để làm project cuối khoá. Hắn chọn lớp này, Biomedical Instrumentation and Robotics, làm môn học lựa chọn để hy vọng dễ đậu điểm cao. Môn học được học chung với những sinh viên năm chót của ngành Biomedical Engineering.

Nhìn danh sách các nhóm được dán trên của lớp, hắn mong được xếp chung với những đứa nổi tiếng siêng học, như những du sinh đến từ Ấn Độ thì đỡ quá, hắn sẽ có cơ hội phát huy tính dựa dẫm của mình. Những hắn bỗng giật mình khi thấy tên của mình chung nhóm với hai đứa con gái. Vậy là mệt rồi! Chung với ai chứ với con gái thì hắn đã có kinh nghiệm nhiều lần. Cố nài lưng ra mà làm bài, làm programs, làm projects… Đúng thì xong nợ, mà sai thì cũng chỉ có mình hắn bỏ thời giờ ra sửa lại.

Thực ra, cũng có những đứa con gái giỏi, siêng năng, nhưng số hắn hình như lận đận với đám bạn…làm biếng. Nghĩ lại, từ năm thứ nhất vào trường đến giờ, hắn đã chẳng may mắn để vào được nhóm nào có mấy đứa siêng học cả. Nếu hên, được “lọt sàng” mấy đứa con gái, thì lại “xuống nia” với mấy trự con trai mà lấy sự nghiệp ngồi hành lang cafeteria là chính. Nơi có những ly cà phê với điếu thuốc cháy dở, và ánh mắt trần tục ngắm nghía con gái qua lại, như một hobby trong cuộc sống… Hắn thở dài, mùa học này quả là xui cho một thằng đi học part-time như hắn!

Ừ, hắn chỉ lấy hai lớp học trong niên khóa này vì còn phải đi làm.Cũng nhờ bà sếp tốt bụng, không giao cho những việc nặng nhọc nên hắn có thời gian đi học. Nghĩ đến khuôn mặt hiền lành nhưng không kém phần cương nghị của bà, hắn thấy mình thật may mắn được là một trong những nhân viên có bà sếp như thế.

– Hi…!

Đang suy nghĩ cách nào, xin với bà sếp già, cho thêm giờ rảnh để làm project ở trường, hắn quay lại vì nghe có giọng con gái gọi phía sau… “Hừ…! Làm mình giật bắn cả người, cứ tưởng bà sếp Mỹ hiện ra…” Nhưng không phải. Trời ạ! Trước mắt hắn là đứa con gái xinh đẹp trong lớp, mà hắn chẳng biết tên, hay nói đúng ra là chẳng có cơ hội biết tên.

– Are you Colin…?

Hắn gật gật.

Vì chẳng biết tên nàng là gì, lại bản tính chậm chạp, hắn cứ trân trân nhìn đứa con gái tóc vàng, mắt nâu, đang ban phát những lời nhỏ nhẹ chào hỏi. Chắc tội nghiệp thằng học sinh Á Châu ngớ ngẩn, đứa con gái giơ tay cho hắn bắt:

– Im Jackqueline… Very glad to join your group!

À thì ra vậy! Hắn đương thắc mắc tên những đứa con gái chung nhóm, thì con nhỏ co-worker này lại tự động dẫn xác tới. Bàn tay mềm ấm của cô làm hắn thấy tự tin hơn:

– Good, so am I..! Jack… Jack…!

Hắn lắp bắp tên của nàng, làm đứa con gái phải nhắc lại:

– Jackqueline! Nhưng “mày” cứ gọi là Jackie được rồi!

Danh xưng của Mỹ quả là bình đẳng, chẳng phải nghĩ ngợi, anh, em… lôi thôi như Việt Nam. Cứ “you, you, me, me…” mà lại tiện. Hắn thở phào:

– Yeah! I am pleasure…, rất hân hạnh…!

Vậy là hắn quen nàng, rồi được quen luôn cả Teresa, em Mễ đen đen, lùn lùn, có cái bụng tròn quay, cùng chung nhóm ba đứa với nhau.

Coi như xong, phận trai mười hai bến nước, hắn trôi dạt vào nhóm với hai em, một Mỹ, một Mễ. Em Mễ tóc đen, và nàng, tóc mây vàng óng ả! Hắn phân biệt như vậy cho dễ liên tưởng. Việt, Mỹ, Mễ…, vậy ra nhóm của hắn là một pha trộn đặc chế đấy. Trời đôi khi có vẻ bất công, chẳng hiểu sao lại lơ đãng nặn ra một đứa con gái tròn tròn, ngăm ngăm như em Mễ, bên cạnh một đứa thon gọn, hồng hào như nàng thế kia, lại còn bắt hai đứa chung một nhóm với nhau. Hắn lắc đầu, ngầm đưa mắt nhìn hai em group-mates để cố tìm hiểu ý nghĩa khôi hài của Thượng Đế.

Ấy vậy mà em Mễ lại có vẻ siêng và học giỏi. Sau khi bàn bạc, biết hắn đang làm cho Boeing, em Mễ sốt sắng, tình nguyện thu thập bài vở, liên hệ với các nhóm khác lấy tin tức, và học hỏi kinh nghiệm qua lại. Em đề nghị giao cho hắn công việc lắp ráp và thực hiện đề án, còn em Mỹ trắng phụ trách phần trình bày.

Đáng khâm phục! Em Teresa, Mễ đen… nhưng đầu óc thật là thông minh sáng suốt, quả là một nhân tài trong làng quản trị! Phần mình, hắn thấy như vậy là đúng lắm. Hắn chỉ chờ con nhỏ soạn bài vở, tài liệu. Phần lắp ráp, thực hiện thì quá dễ đối với hắn. Hắn sẽ mang vào phòng thí nghiệm trong hãng, nối nối, ráp ráp, rồi thử ngiệm vài ba bữa là xong… Phần nàng, em Mỹ trắng, hắn tin là nàng cũng chẳng có gì trở ngại, vì vừa trắng trẻo, cười tươi, lại nói tiếng Mỹ giỏi hơn cả Mỹ, thì phần trình bày của em ăn đứt các nhóm khác là cái chắc. Hắn thấy yên tâm để lấy điểm “A” cho môn học này!

Ngày nộp project, đúng như dự đoán, nhờ tài khéo trình bày của em Mỹ trắng, nhóm hắn được điểm tối đa. Thực là giỏi, hắn tự động mời hai em đi McDonalds để mừng chiến thắng! Em Mễ đen thoái thác vì bận công việc. Em Mỹ trắng nháy mắt “méc” với hắn là Teresa muốn đi chơi với bạn trai. Vậy sao, em Mễ có bạn trai! Hắn không biết là tai mình có nghe lộn không? Thì ra, Thượng Đế hằng chí công vô tư, để người ta mất cái này, thì sẽ cho cái khác đền bù. Hắn thầm cám ơn em Mễ. Ừ, cứ đi đi, để mình hắn với nàng được rồi…!

Ngồi vào trong xe, lấy tay hất mái tóc vàng, nàng hỏi hắn:

– Bữa nay “you” không phải về đi làm à?

Hắn gật gật đầu:

– Có, nhưng “tao” xin đi làm trễ, để được đưa người đẹp đi ăn McDonalds, tưởng thưởng tài khéo của cô ấy!

Chẳng biết sao mọi ngày vụng về, mà bữa nay hắn lại nói được một câu tài hoa như vậy! Đứa con gái lấy làm hài lòng:

– Okay, chiều nay “tao” rảnh, mình có thế đi lâu một chút.

Mặc dù được nàng “cho phép” đi lâu, nhưng trong đầu hắn cũng chỉ nghĩ đưa nàng vào McDonalds, ăn xong rồi còn về làm việc. Thực ra, hắn cũng chẳng biết đi đâu ngoài tiệm fast food này của Mỹ. Đã bảo hắn là thằng quê mùa lắm mà! Qua Mỹ gần 10 năm trời, mà có biết một quán ăn sang trọng nào đâu! Quanh đi quẩn lại cũng chỉ mấy món ăn bình dân, nếu không là phở ở quán Việt Nam thì cũng hamburgers, hotdogs…hay pizzas nơi những tiệm Mỹ.

Nhưng nàng lại có vẻ sốt sắng vì được đi ăn với hắn ở cái tiệm bình dân này. Thật là chân tình! Chắc là đang vui vì qua được một môn học, hay vì trời còn đang Xuân mát mẻ, nàng hạ cửa xe xuống, chỉ vào những bụi hoa được cắm trồng thẳng hàng trên những ngôi mộ trong một nghĩa trang:

– Oh! “Mày” coi kìa, hoa nghĩa trang đẹp quá…! I really like to be here…!

Nghe mà phát ớn! Ở đâu không ở, lại thích ở nghĩa trang. Hắn thì không, mặc dù phải công nhận, nghĩa trang bên Mỹ quả là đẹp như lời nhận định của nàng, hắn cười cười:

– Yeah! Đẹp lắm, nhưng “tao” không thích vào “nằm” ở đây…! Vậy nên lúc nào cũng cầu Chúa cho được sống lâu.

Nàng cười lớn tiếng vì câu khôi hài của hắn, rồi nhìn nắng hồng lung linh trên những đóa hoa ra vẻ thích thú…

Cũng chỉ hơn nửa giờ để ăn, mà nàng hỏi về cuộc đời, công danh, và sự nghiệp của hắn còn hơn cả bà manager phỏng vấn đơn xin việc của hắn trước đây. Ăn xong, hắn đưa nàng về lại sân trường. Đứa con gái chia tay hắn với một tiếng cám ơn ngọt như giọng nói của nàng. Đã tới giờ phải đến hãng, hắn tự nhủ là sẽ nói chuyện với nàng sau:

– Bye Jen…! À không phải…, Jackie ạ!

Hắn chẳng biết tên của học sinh trong lớp nhiều, nhất lại là tên con gái Mỹ, nghe thì quen mà khó nhớ. Dù vừa ăn trưa, nói chuyện với nhau, nhưng đến tên của nàng hắn vẫn còn mại mại, lúc nhớ lúc không…

Gọi lại tên em một lần nữa

Để chắc rằng ta đã không sai

Tên Mỹ nghe quen mà khó nhớ

Lần này, lần trước sớm phôi phai…

Sở dĩ hắn phải lẩm bẩm tên nàng, vì hồi nào đến giờ, con gái, nhất là tên con gái, đối với hắn là một cái gì như dị ứng, rất khó nhớ trong đầu… Chắc một phần vì nhát gái, phần nữa, dù có vẻ mơ hồ nhưng lại quan trọng hơn, là trong thâm tâm sâu thẳm, hắn muốn…đi tu.

Vâng. Đi tu!

Chẳng biết sao lúc nhỏ, 7, 8 tuổi, những dịp theo mẹ vào thăm cha xứ. Ông cha già vuốt tóc hắn, hỏi xem có muốn đi tu không, thì hắn lắc đầu quầy quậy. Dù vẫn biết đi tu sẽ được nhiều kẹo như những hũ kẹo xanh đỏ trên bàn của cha, những hắn vẫn sợ phải vào nhà Chúa…!

Thế nhưng, chỉ từ hồi qua Mỹ đến giờ, tư tưởng đi tu, dâng cuộc đời cho Chúa lại vẩn vơ trong đầu. Chẳng phải vì hắn sợ đàn bà con gái đến độ không dám đến gần, hay vì hắn… chỉ thích con trai?

Không, chẳng thế thế được! Đôi lúc vui chơi uống cà phê với đám con trai, lỡ có đứa nào ôm vai, hay lỡ đặt tay lên đùi hắn, hắn vội hất tay ra, rùng mình vì thấy kì cục… Như vậy chắc hắn không thế là “gay”, như báo chí hay sách vở diễn tả rồi. Lại nữa, một bằng chứng chắc chắn hơn, là khi nhìn một đứa con gái đẹp như nàng, hắn thấy tâm hồn mình có chút rung động rõ ràng mà! Quái lạ, vậy sao giờ lại có tâm tình muốn đi tu mà trước đây không có nhỉ. Hắn lẩm bẩm thắc mắc như thế!

Để rồi một lần, hắn đánh bạo đi gặp một bác sĩ tâm lý xin ý kiến. Biết đâu trong một gene sâu thẳm nào đó của tâm hồn, do ông bà truyền lại, có liên hệ đến một… tu sĩ nào đó thì sao? Sau khi khám bệnh, hỏi thăm, trò chuyện tỉ mỉ, vị bác sĩ tâm lý, nổi tiếng nhiều thân chủ nhất trong thành phố, phán một câu rất an tâm là hắn… bình thường, chỉ vì chưa gặp người con gái, đúng tần số trái tim, để cùng rung động đó thôi!

Ra thế đấy, chắc là ông nói đúng! Vì từ hồi qua Mỹ đến giờ, hắn đã gặp ai “tương xứng” để thương yêu đâu. Vốn rụt rè, lại bận rộn học hành, hắn chưa quen được đứa con gái nào thì cũng không có gì là lạ! Hắn an tâm và tin vào Chúa sẽ sắp xếp cuộc đời cho riêng mình.

***

  1. Gặp lại nhau, ngờ ngợ tên em

Hắn thường lại một nhà nguyện nhỏ, trong khuôn viên trường học, để đi lễ vào mỗi buổi chiều thứ Bảy thay cho lễ Chúa Nhật. Cũng nhờ đi lễ mà hắn quen được cha Joe! Chẳng nhớ last-name của cha là gì, chỉ biết cả bọn Việt Nam như hắn vẫn thích gọi cha bằng first-name cho dễ – Father Joe – Cha đúng là một gương mẫu về đạo đức và khiệm nhượng…! Hàng tuần vẫn đều đặn và sốt sắng làm lễ trong ngôi nhà nguyện nhỏ, mà đia phận thuê cho, đến cả chục năm rồi cũng nên.

Cha nghèo quá, vì khả năng tài chánh của cha chỉ có vậy. Bổng lộc giáo phận cấp phát chỉ là một chếc xe Printo cũ kỹ, chẳng biết được sản xuất từ năm nào, mà sơn trên mui xe đã tróc loang lổ như một gã trọc đầu ghẻ lở… Tiền xin lễ thì chẳng có! Học sinh chừng hơn chục đứa, siêng thì đi lễ, làm biếng thì ngủ khì. Con chiên học sinh của cha đi lễ lơ phơ lất phất như vậy, lại nghèo nữa, tiền đâu mà xin lễ, để cha có thêm được một hai chục bạc đổ xăng? Nghèo vậy, nhưng thấy cha lúc nào cũng vui vẻ trong bộ áo lễ vàng ố, đã sờn mòn nhiều nơi. Tội nghiệp và khâm phục một vị chân tu, hắn bỗng thấy cuộc sống dâng mình cho Thiên Chúa như ông thực là vĩ đại.

Cha có biệt tài làm những học sinh ngoại quốc, nhất là những thằng tị nạn như hắn dễ hiểu với giọng giảng hay và rõ ràng của ông. Hắn bị cuốn hút dễ dàng bởi những bài giảng này. Có thể vì sẵn mến mộ ông cha nghèo khó, mà những lời dạy của cha đã lọt được vào tai của hắn không chừng! Nên sau mỗi buổi lễ, hắn dành ra đôi ba phút chuyện trò cùng ông, coi ông như một cha linh hướng, và xin cha một lời khuyên về ý định đi tu của mình.

Vi cha nhân từ, sau vài lần trò truyện, nhìn sâu vào mắt thằng con tị nạn…

Cuộc đời phụng sự Thiên Chúa thì chẳng lúc nào là quá muộn. Khuôn mặt xương xương, khắc khổ, nhưng hiền hiền của hắn làm cha nhớ lại những khuôn mặt, và những ánh mắt, mà cha đã có dịp gặp gỡ khi đến phục vụ tại một trai tị nạn ở Á Châu. Cha đã hiểu thế nào là nỗi chết trên gương mặt những thuyền nhân, lảo đảo như vẫn còn say sóng, khi đặt chân lên đất liền. Những đôi mắt thăm thẳm, thẫn thờ và vô vọng như đang mong chờ một phép lạ nào đó, đưa người thân của họ, từ vũng biển đen sâu trở về. Rồi cũng chính những ánh mắt vô vọng này, đã chạy đến cùng cha, cầu khẩn lời cứu rỗi trong lúc tuyệt vọng vì bị từ chối quyền tị nạn. Người Việt Nam, đáng là một dân tộc được Chúa cứu vớt nhất, bởi những đau thương mà chế độ cộng sản đã đày đọa họ.

Vì sẵn có cảm tình với người tị nạn, nên khi nghe tâm sự và ước muốn của hắn là trở thành một tu sĩ, cha đã sốt sắng hứa sẽ bảo trợ hắn về tinh thần, và liên lạc với tòa Giám Mục để giúp hắn dễ dàng hơn trong việc chấp thuận vào Seminary. Khi được nhận, ông sẽ cho hắn biết ngay. Tuy nhiên, ông vẫn muốn có thêm thời gian để tìm hiểu về hắn, nên khuyên hắn hãy tiếp tục học hành, lấy cho xong mảnh bằng Master. Và quan trọng nhất là tiếp tục cầu nguyện, cố gắng tìm hiểu ý đinh đi tu của mình trong một thời gian nữa. Cứ giữ liên lạc tốt với ông. Vâng lời cha, hắn chờ đợi, để một dịp nào đó, nghe được tiếng Chúa gọi rõ ràng hơn.

Chưa nghe được tiếng Chúa gọi thiết tha, thì một lần nữa, hắn lại gặp nàng nơi nhà nguyện cha Joe. Đôi mắt tròn, màu hổ phách ngỡ ngàng của nàng, như rất ngạc nhiên khi thấy hắn ở đây. Không chờ hắn lên tiếng, nàng bước lại, cầm tay hắn lắc lắc:

– Oh my God…! Youre here, Colin? You… cũng Công Giáo à!

Hắn từ từ buông bàn tay nàng ra, cười vui vẻ:

– Yeah! “Tao” đi lễ ở đây mỗi chiều thứ Bảy…

Đứa con gái ngạc nhiên:

– Really! Gặp “mày” ở đây “tao” mừng quá Colin à…!

– Cám ơn “mày”…Jen…, Jenny…!

Cô lắc lắc đầu:

– Jackqueline… Jackie!

– Hà hà, sorry…! “Tao” cũng mừng lắm khi gặp “mày”.

Hắn cười với đứa bạn mà mấy tháng rồi, từ khi hết học chung, bây giờ mới gặp lại. Cái con nhỏ Mỹ này thực là có tâm hồn Á Đông, nó làm cho thằng tị nạn như hắn, đỡ mang mặc cảm thua thiệt của một đứa chậm chạp khi đặt chân qua Mỹ. Nhìn nụ cười, và cái lắc đầu của đứa con gái làm rung những sợi tóc nhuộm nắng chiều, hắn thầm cám ơn tính vui vẻ và thân mật mà nàng dành cho hắn…

Vài tháng sau,

Mình gặp lại nhau

Ngờ ngợ tên em câu nói chuyện

Lắc đầu, em nhắc ta lần nữa

Bằng tóc hong vàng nắng thiên thâu…!

Trong khi đó, đứa con gái nhìn điệu bộ như một thầy tu của hắn mà tức cười. Hắn vừa nghiêm trang, sợ nghiêm trang còn hơn cả cha Joe lúc chuẩn bị lên làm lễ, lại vừa ngồ ngộ, hay hay vì những câu nói thật thà. Quả là một run rủi tình cờ, vì nàng ít bước chân đến nhà thờ. Nếu như hôm qua, không vì lục lại đống sách vở, để vô tình thấy hình ảnh người mẹ nuôi trong cuốn album, thì đã chẳng có một phút đạo đức bất ngờ như hôm nay, đi lễ mà gặp hắn. Nàng không hỏi, nhưng chắc là hắn ở apartment gần đây. Nàng chợt cười lên một tiếng nhỏ, khi nghĩ có lần nào, thằng con trai này mời nàng về phòng chơi? Nhìn cái mặt khờ khờ của hắn, thì chắc là không rồi! Một cảm giác vui vui chợt đến, nàng nghĩ nếu sau mùa học tới, tốt nghiệp, mà vẫn còn sinh sống gần khu vực trường học này, nàng sẽ đi lễ thường xuyên hơn để có dịp gặp nhau.

Quả thực, căn phòng hắn ở thì gần trường học, nhưng lại không tiện để cho một nữ lưu nào đến thăm, vì tính bừa bộn của ba gã con trai độc thân. Từ lúc bắt được cái job làm trong Boeing, hắn đã có dự định dọn đi chỗ khác, thuê riêng cho mình một căn phòng cho xôm tụ. Hắn không muốn mua nhà, vì ý định đi tu mãnh liệt trong đầu, tuy nhiên một chỗ ở gọn gàng cũng tốt cho cuộc sống. Những hắn lại cảm thấy buồn khi phải xa hai thằng bạn chung phòng… Thôi, ở đây cho tới lúc tất cả ra trường, cho có tình có nghĩa những ngày cơm nguội, mì gói với nhau…

Rồi con nhà Đông cũng tới ngày tốt nghiệp. Anh chàng vẫn giữ vững lập trường, không thèm lấy tên Mỹ, vẫn Đinh Văn Đông, mà đọc theo lối Mỹ không dấu là Dong Dinh, cái tên nghe chắc chắn như đinh đóng cột, chẳng sợ té. Không thân nhân, Đông chỉ có hắn là bạn. Ngày lễ ra trường, hắn có nhiệm vụ mang máy ảnh chụp cho thằng bạn thân tình vài pô hình, như lời Đông đề nghị, để gởi về Việt Nam, vì bà mẹ Đông muốn đi khoe hàng xóm, có thằng con bên Mỹ đang đứng ngang hàng với những khoa học gia thế giới!

(còn tiếp 1 kỳ)

May be an image of text

Vụng Đường Tu – (tiếp theo và hết)

TRUYỆN NGẮN 2 KỲ – VŨ CÔNG YNH

Truyện kể về một chàng tị nạn Việt đã quyết chí đi tu, nhưng rồi vướng món nợ… tóc vàng

***

Vụng Đường Tu – (tiếp theo và hết)

. . . . . . . . . . . . . . .

Hắn cố tình đến sớm một chút để kiếm ngoại cảnh chụp vài ba pô trước khi cả bọn kéo nhau vào hội trường làm lễ mãn khóa. Bất chợt, cũng một giọng con gái phía sau:

– Hey! Colin, Colin…!

Quay đằng sau, thì ra… lại là nàng. Con bé nhảy lên mừng rỡ, chạy đến bên hắn. Hắn thấy vui vì bất ngờ gặp lại nàng ở đây, cũng tung tăng áo mão ra trường như ai!

– Hi Julia… Oh! No… Jennete…

Đứa con gái tròn đôi mắt trong veo nhìn hắn, rồi vừa cười vừa nhắc:

– Jackqueline… Jackie…!

Hắn thân mật vỗ vai nàng:

– Sorry…! Hi Jackie…

Congratulations!

Hắn muốn nói thêm vài câu cho đỡ ngượng về sự quên tên nàng của hắn, và cũng muốn cho nàng được vui hơn trong ngày ra trường của cô, nhưng với bản tính khá kín đáo, và khả năng chuyện trò của hắn, nhất là bằng tiếng Mỹ, chỉ khéo được đến như vậy, nên hắn cảm thấy lúng túng. Đứa con gái hình như không để ý đến sự lúng túng đó, nó tự nhiên:

– Thank you!

Rồi đưa má ra cho hắn, chờ một nụ hôn

chúc mừng

… Nhưng quả là thất vọng! Hắn quê mùa quá để biết hành xử một cách văn minh như vậy! Con nhỏ chờ một chút không thấy cái hôn của thằng con trai, đành giơ tay khoác tay hắn:

– Come with me, my dear…!

Hắn thoái thác:

– No, no! Im with friends today…

Con nhỏ kéo dài đuôi mắt, cười thông cảm:

– Okay, chờ “tao” ở đây… Right here – Please! Sau ceremony… Có chuyện hay lắm!

Hắn nhìn sâu vào đôi mắt nâu tròn của nàng, gật gật đầu.

Đứa con gái vụt trở lại đám bạn cùng di. Phần hắn, quay lại tiếp tục nhiệm vụ chụp hình, mà trong ngực trái tim vẫn còn đập rộn rã, và hơi mắc cở với bạn bè vì sự thân tình của đứa con gái. Nàng không đi cùng gia đình, mà đi chung một đám bạn bè. Ừ phải, đã có lần nàng kể cho nghe là mẹ nuôi nàng mất ngay sau khi nàng bước chân vào đại học. Không nói về cha, nhưng hắn hiểu là nàng đang chỉ có một mình trên đời.

Tới giờ hành lễ, hắn theo thằng bạn ra xếp hàng chuẩn bị vào hội trường mà trong đầu vẫn vảng vất một đôi mắt nâu, to tròn long lanh…

Một năm sau,

Mình gặp lại nhau

Chào em, tên đánh mất đâu rồi?

Nhìn ta, em nhắc thêm lần nữa

Nâu mắt màu hổ phách chơi vơi…!

Sau buổi lễ, hắn theo Đông cùng đám bạn đến một nhà hàng Việt Nam để

chúc mừng

nhau. Đến hơn 9 giờ đêm, hắn mới giật mình về lời hứa chờ đợi nàng sau buổi lễ ra trường. Hắn hối hận quá, vì đã không nhớ ở lại để xem nàng có gì muốn chia sẻ. Lại càng ân hận hơn vì từ hồi nào đến giờ, chẳng giữ số phone của nàng trong bóp. Làm sao để gọi đến nàng một lời xin lỗi? Thôi đành chờ có dịp gặp lại, hắn sẽ nói lời tạ lỗi sau.

Nhưng không có dịp nào cho hắn nói lời xin lỗi, vì đến cả mấy năm rồi, hai đứa chẳng gặp lại nhau!

Ngày tháng qua đi, hắn dường như đã quên cô bạn chung lớp, để vẫn đều đều làm việc, đi lễ hàng tuần, và chờ tin tức của father Joe. Hắn đã may mắn lấy xong mảnh bằng Master như lời cha khuyên nhủ, và mỗi tối trước khi đi ngủ, đều thầm thì cầu xin Chúa như lời cha hướng dẫn, chỉ còn chờ nơi cha một tin mừng là hắn mãn nguyện.

Nhưng chưa nhận được tin mừng của cha để nhập Chủng Viện, thì đã nhận được những lời vàng ngọc, của mấy ông già tị nạn trong hãng, khuyên… lấy vợ. Chẳng là, hàng ngày hắn đi xuống cafeteria trong hãng, ghé bàn mấy ông già Việt Nam cùng ăn với nhau, để có dịp nghe mấy ông kể chuyện đánh giặc ngày trước.

Già Bảo, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà chính hiệu, cả gia đình chạy khỏi Việt Nam vào ngày 30/4/75. Đi làm lúc nào ông cũng măc sơ mi, được phủ ngoài bằng chiếc áo len, không xanh thì đỏ, dù trời nắng hay mưa. Ông thấy hắn ăn lunch mà chẳng thèm hâm nóng cái hambuger được mua từ ban sáng, nên tội nghiệp, lên tiếng:

– Lấy vợ đi chú, có vợ đỡ lắm, thích lắm…!

Hắn hỏi lại ông:

– Thích cái gì hả bố…?

Rồi hắn chọc ghẹo thêm:

– Để được vợ đan áo len cho mặc phải không ạ…?

Ông không giận vì biết tính hắn vui vẻ, nên cố giải thích:

– Chú chẳng biết gì cả, ngoài cái được an ui về tinh thần, lại còn được ăn uống đầy đủ, ấm áp cả thế xác nữa đấy…!

Hắn cười:

– Chắc chắn rồi, bố thì lúc nào mà chẳng có cơm canh nóng sốt mà ăn, có phải nhai hambuger nguội ngắc bao giờ…!

– Ấy, chỉ được cái nói nhảm… Không tin à, cứ lấy vợ đi thì khắc biết. Hà hà…, bây giờ cho tôi lấy vợ nữa, tôi vẫn sẵn sàng…!

Hắn cười theo câu nói của ông:

– Vâng, vậy thì thích nhỉ…?

Ông hăng hái giải thích thêm:

– Không thích mà khối ông có vợ lớn vợ bé đấy, chú không thấy à.

Hắn ngừng nhai miếng bánh trong miệng để đồng ý với ông:

– Vâng, đúng rồi.

Thấy hắn vui vẻ, một ông khác hỏi:

– Thế cậu qua Mỹ lâu chưa…?

Hắn vừa đặt lon coke xuống mặt bàn, vừa trả lời:

– Cũng được gần mười năm rồi bác ạ.

– Thế… đằng ý… chưa có vợ thực đấy à? Để tớ làm mai cho…!

Tí nữa thì hắn phì cười vì cái giọng Bắc kỳ, giống hệt kiểu cách mà bố hắn vẫn thường nói ở Việt Nam.

– Không bác ơi…! Cháu muốn đi tu…!

Mấy ông già cười hinh hích cho cái tính khôi hài của hắn. Ừ phải, chẳng ai tin là hắn sẽ đi tu đâu. Thời buổi này, nhất là bên Mỹ, sống ở ngoài đời chẳng đầy đủ và thích thú hơn là đi tu à? Mà có phải như ở Việt Nam cấm đoán, để không cho hắn hàng ngày đến nhà thờ đọc kinh đâu? Hay nếu muốn phục vụ tha nhân thì hắn có thể vào bệnh viện xin làm thiện nguyện cơ mà. Vậy thì đi tu làm gì cho…uổng!

Câu chuyện chỉ quanh đi quẩn lại như vậy, nhưng hắn thấy rất thích thú để được nói chuyện với mấy ông già “ôm chân đế quốc” này. Một ngày không được nói chuyện với mấy ông, hắn thấy buồn buồn như thiếu thốn cái gì. Vừa được nghe và nói chuyện bằng tiếng Việt, vừa được tìm hiểu những chuyện chính trị, quân sự… mặc dù những trận đánh mà mấy ông kể, hắn chẳng biết có từ đời nào…!

Cũng vì chăm chú học hỏi, nghe chuyện, mà hắn rất được lòng mấy ông. Có ông còn hăng hái hứa sẽ gả con gái cho hắn nếu hai đứa hợp nhau… Già Bảo sốt sắng hơn, mang cả hình con gái út đang học lớp 8 ra khoe. Đứa con gái, mà hai vợ chồng đã cố đẻ “vớt” sau ngày qua Mỹ, để được làm bố mẹ công dân Mỹ mới sanh.

Nhưng tội nghiệp! ông nào biết ý định đi tu của hắn. Mà thật, đứa con gái lớp 8, con ông, biết đâu, lại chẳng có dịp chờ hắn làm linh mục, rồi về làm lễ trong ngày đám cưới của nó. Lúc ấy già Bảo chắc sẽ cám ơn hắn lắm. Bây giờ thì chẳng ai tin là hắn muốn đi tu…!

Thôi đành gật đầu cho mấy ông già vui vẻ, trước khi tạm biệt nhau, vì hắn phải đi Seattle cho chương trình huấn nghiệp của hãng trong một tháng.

III. Phải rồi. Tên Em Ta Đã Nhớ

Phi cơ dừng và đổi chuyến tại phi trường Denver, hắn lấy hành lý từ ngăn đựng đồ, rồi đi vào hành lang phi trường để đến chuyến bay kế tiếp. Trước mắt hắn là một thiếu nữ tay dắt đứa con khoảng 3, 4 tuổi, tay kia kéo theo chiếc roller, trên lưng còn đeo thêm một backpack. Cái backpack khá lớn đủ để che mất tấm lưng và mái tóc của cô. Một món đồ chơi rơi xuống thảm hành lang từ tay thằng bé. Người thiếu nữ dắt con, trong khi mắt vẫn mải nhìn số gate của hãng máy bay, không để ý đến thằng bé đang cố vụt khỏi tay mẹ để nhặt món đồ chơi lên. Hắn nhặt lên giùm và đưa vào tay nó. Người thiếu nữ quay lại, rồi dường như… nhận ra hắn là một người quen, nàng dừng hẳn lại, tròn mắt:

– You! You… again… Colin… Arent you…? Thank goodness!

Đang chú ý đến nét mặt biết ơn của thằng bé lúc nhận lại món đồ chơi, hắn giật mình khi thấy người con gái gọi đúng tên mình. Mái tóc cắt ngắn của cô làm hắn chưa thế xắp sếp hình ảnh trong đầu để biết đã gặp người này ở đâu. Nhưng ánh mắt của nàng làm hắn chợt cười lên vì đã nhận ra đứa con gái chung lớp mấy năm trước… Bất ngờ, bất ngờ quá, lại bất ngờ hơn nữa khi gặp lại nàng đi cùng đứa con trai 3, 4 tuổi. Hắn cứ đinh ninh là không còn thấy nhau nữa. Bây giờ tại một tiểu bang xa xôi này, hai tâm hồn “cô đơn” gặp lại nhau. Hắn cười vì chữ “cô đơn” vụt lên trong đầu. Cô đơn đâu mà cô đơn…! Vì hắn đã có Chúa, còn nàng thì đã có thằng con đi theo đây.

Hắn lấy tay đập đập vào trán để tìm tên nàng:

– Chính…hắn… Colin đây! Jeannette…Ah… Jenny…, “mày” khoẻ không?

Nàng phì cười vì cái tên mới mà hắn đặt cho cô:

– Not Jenny…, Jackqueline… Jackie!

– “Tao” sorry! Thực có lỗi với “mày”, Jackie! Mừng quá “tao” quên…!

Qủa là hắn cũng có tài lấp liếm.

Đứa con gái vui vì bất ngờ gặp lại hắn ở đây. Nàng nhìn vào mắt hắn, rồi lấy bàn tay mềm mại, vỗ vỗ vào ngay chỗ trái tim trên ngực hắn:

– “Jackie”… okay! Keep me here…, memorize it by here!

Hắn có vẻ cảm động, vì sự nhắc nhở một cách dễ mến của nàng, nên thấy tự nhiên trở lại:

– Không ngờ được gặp lại “mày” ở đây… Is this your son!

Người con gái cười tươi:

– Yeah! My son… Andy!

Rồi nhìn vào ngón tay không đeo nhẫn của hắn, nàng tiếp:

– Youre not yet married… Hah?

– No… Never!

Hắn vừa cười vừa trả lời cô. Nàng nhăn nhăn mũi rồi cười lớn hơn:

– Youre…“chicken”, Colin…!

Ha ha, hắn phì cười vì câu nàng chê hắn là đồ chết nhát. Phải! “Tao” nhát như “gà”, “tao” sợ có người nào đó nhốt “tao” trong chuồng, nên không tài như “mày” để có con dắt theo… Hắn

chúc mừng

đứa con gái:

Congratulations

! “Mày”… đã lập gia đình!

Đúa con gái lắc lắc đầu:

– Uh…uh! Im single… Single mom!

Ừ phải, cứ nhìn một đứa con gái Mỹ dắt con, mà tưởng là nó có chồng, thì tầm bậy hết sức. Thằng bé nãy giờ, theo dõi mẹ nói chuyện với người đàn ông lạ, xen vào:

– Ive no…daddy!

Bây giờ hắn mới để ý hơn đến thằng bé, mái tóc vàng giống mẹ dài phủ quá tai, nhìn nó trông giống như một đứa con gái nghịch ngợm… Hắn giơ tay ra với nó:

– Hi… Im Colin… Give me a five…!

Thằng bé đập vào tay hắn, rồi rụt tay lại khoe món đồ chơi:

– Ive new Superman!

Hắn vờ ngạc nghiên với cái game nhỏ có hình Superman bên trên:

– Wow! I like it! Did your mom buy it?

Thằng bé gật gật đầu:

– Yeah!

Vậy là hắn gặp lại nàng nơi đây, để biết nàng làm engineer cho một công ty ở Denver đã mấy năm rồi. Bữa nay, hết contract, nàng trở về Dallas để nhận việc mới thì bất ngờ gặp lại nhau tại phi trường này… Trái đất quả là tròn!

Jackie bỗng im lặng, nhìn thằng con trai Việt Nam vừa gần gũi vừa xa lạ này. Thật chẳng biết sao nàng lại có cảm tình với hắn, chắc tại vì hắn có nét gì đó chân thật, đem đến cho nàng sự an tâm khi tiếp xúc. Nghĩ lại, những lúc cùng hắn làm bài, những buổi gặp gỡ, đi ăn…, Jackie chưa hề thấy hắn có một cử chỉ nào tỏ ra để ý đến sắc đẹp của nàng…

Cô thắc mắc và cố tìm hiểu về hắn nhưng đành chiu thua, chỉ biết công nhận một điều là hắn nice, hắn tốt với nàng. Có thể hắn là người tốt thứ hai sau mẹ nuôi của nàng. Người mẹ nuôi mà Jackie hết sức thương yêu. Người đã lãnh nhận nàng từ một Adoption Center nào mà nàng chẳng hình dung ra được vì còn quá nhỏ. Bà đã chết sau khi nàng vào đại học được hơn một năm.

Đi học, sống vào tiền Grants trợ cấp và tiền làm Work-Study, Jackie có bản tính rất tự lập. Kinh nghiệm “single mom” của người mẹ nuôi trước đây, làm nàng cố cứng rắn với mình trong việc liên hệ trai gái. Chẳng phải vì nàng Công Giáo, coi chuyện đó là tội lỗi, cũng chẳng phải là nàng không thiết đến những thèm khát xác thịt, nhưng Jackie ngần ngại về sự chân thành từ những đứa con trai chung quanh, và cũng ưu tư chuyện học hành sợ mất thời gian về những giao tiếp đó. Nên nàng vẫn tự nhủ, sẽ chỉ có bạn trai khi xong đại học, và cố gắng chỉ có sex với đứa con trai sẽ là chồng của nàng. Bởi vậy mà đám bạn classmates luôn bảo nàng cổ điển như một cây phong cầm cũ trong góc nhà thờ, nhưng kệ, Jackie cố đặt ra cho mình một nguyên tắc sống như vậy…!

Nhớ lại buổi chiều ngày ra trường gặp hắn, Jackie đã có ý đinh nhờ thằng kỹ sư tóc đen này làm partner cùng đi chơi trong một bar rượu, với nhóm bạn của nàng. Rồi có thể sau đó sẽ rủ hắn về phòng mình. Nhưng đáng tiếc là hắn đã quên, hay từ chối không đến chỗ hẹn. Jackie thực không biết có phải buồn vì hắn lỗi hẹn không, mà đã uống nhiều rượu quá! Sau đó, cả bọn kéo nhau về nhà một đứa bạn. Lần đầu tiên vui chơi của một đứa con gái biết hạn chế như nàng, không ngờ kết cuộc lại đến như vậy! Say quá, Jackie chẳng còn biết gì hơn là vùi đầu chung chạ với đám bạn trai gái! Chắc chắn hắn chẳng biết được nàng đã có một đứa con ngay đêm hôm đó, chỉ sau vài tiếng đồng hồ từ khi hắn thất hẹn với nàng.

Ra trường, Jackie được nhận ngay vào một hãng sản xuất dụng cụ y khoa. Từ đó nàng cắm cúi đi làm nuôi con, và cũng đã có một hai mối tình hờ hững, quen rồi thôi. Đã hơn bốn năm rồi bây giờ mới gặp lại nhau, thấy hắn chững chạc và tự tin hơn. Jackie mơ hồ chẳng hiểu sao lại thấy vui vui khi biết hắn còn độc thân. Nhưng thôi, thắc mắc làm gì, chỉ biết rằng có lúc nàng đã thấy thích hắn, thích được đi chơi, ăn uống, và ngay cả có lúc muốn được cùng hắn lên giường!

Jackie cười một mình khi nghĩ nếu như đêm đó đi với nhau, thì cuộc đời của nàng đã như thế nào nhỉ? Và đứa con, nếu có, chắc sẽ không giống như đứa con trai của nàng hôm nay. Đứa bé, mà đến giờ này, Jackie vẫn chẳng biết được cha nó là ai trong đám bạn bè ngày ra trường đó. Nàng đã có lần nói với con, khi nó hỏi về daddy.

Thằng bé ngước đôi mắt trong xanh lên hỏi mẹ:

– “Sao vậy…?”

Nàng không muốn gợi vào đầu con một câu chuyện rắc rối, nên trả lời:

– “Mẹ giận “him”…”

Thằng bé năn nỉ mẹ:

– “Cho daddy về đi – Mom…!”

Nàng cười cười vuốt tóc con:

– “Chỉ khi nào daddy khóc trước mặt, mẹ mới cho về…”

Thằng nhỏ tưởng thật, yên tâm, quay mặt vào tường, ngủ tiếp.

Đáng thương cho nó, chắc nó muốn có một daddy như những đứa trẻ khác. Phần nàng, gặp lại nhau hôm nay, nàng có vẻ an tâm vì biết hắn vẫn ở Dallas. Như vậy là có dịp gặp lại nhau. Jackie tự nhủ, từ giờ, sẽ chủ động và biểu lộ sự quan tâm hơn đến gã “cố nhân” này… Cô thấy phấn khởi với ý nghĩ đó, cũng vừa lúc chuyến bay chuẩn bị cất cánh. Jackie hỏi số phone để sẽ gọi hắn sau. Gã con trai đưa cho nàng cái business card…

Vài năm sau,

Mình gặp lại nhau

Tên em, ta vỗ trán đi tìm

Em cười, nhắc ta thêm lần nữa

Răng trắng muôn đời… sữa bình nguyên…!

Hắn giơ tay vẫy mẹ con nàng, đang chuẩn bị bước vào khung hành lang hẹp dẫn đến cửa máy bay, trong nụ cười xinh đẹp của người con gái!

Về lại Dallas, cũng vừa lúc hắn nhận được giấy báo của cha Joe cho biết đã được nhận vào trường Seminary. Tội cho cha, chắc không gặp được hắn trên phone, lại không thấy hắn đi lễ, nên đã gởi thư này. Cha hẹn vài ba tuần lễ nữa, cha đi cấm phòng và vacation về, hắn sẽ đến gặp cha ký giấy tờ, và những dặn dò cần thiết, để chuẩn bị vào chủng viện cho khóa học mùa tới.

Ôi! Niềm mơ ước của hắn bây giờ đã thành sự thực! Chúa đã đáp ứng lời cầu xin của hắn. Hắn xúc động vì tin được nhận vào Chủng Viện cũng mãnh liệt như nỗi xúc động lúc được tầu Mỹ với lên, từ chiếc thuyền mong manh lênh đênh, ngày vượt thoát khỏi Việt Nam trước đây. Hắn cúi đầu cầu nguyện… “Vâng, Chúa đã cứu vớt con một lần trên đại dương gầm thét, bây giờ lại cứu vớt con lần nữa, đang lúc lênh đênh cuộc đời giữa trần thế này. Xin cám ơn Ngài…!”

Tiếng chuông điện thoại reo, hắn liên tưởng đến vị linh mục hiền lành. Chắc là cha gọi mình đây. Nhấc lên, tiếng nói đầu giây bên kia có vẻ gấp rút:

– Đây là Bệnh Viện St. Paul… May I speek with Mr. Do…please!

Hắn giật mình như linh tính có điềm gì chẳng lành:

– Vâng… chính tôi!

– Ông có quen Jackie không? Jackqueline Thompson?

Hắn lẩm nhẩm nhắc lại:

– Jackie… Jackie… Ah, vâng, tôi là bạn cô ta…!

Tiếng đầu giây bên kia:

– Hãy đến bệnh viện, bác sĩ cần nói chuyện với ông!

Khi đến bệnh viện, thì hắn được cho biết nàng đã chết vì một tại nan xe trên đường đón con đi học về. Nàng nằm kia, còn thằng Andy, con nàng, cũng đang được điều trị tại bệnh viện vì một vết cắt ở tay. Vì nàng không còn ai là thân nhân, mà chỉ có tấm danh thiếp của hắn trong túi xách, nên hắn là người được gọi đến, gặp gỡ ban chung sự nhà thương để bàn về cái chết của nàng. Thực là sững sờ, hắn không thế tưởng tượng nổi, sao có sự bất ngờ đau thương như vậy đến với mẹ con nàng…!

Nàng nhắm mắt như đang ngủ, khuôn mặt bình thản. Hắn liên tưởng đến những lời nói, đến bàn tay mềm ấm đặt trên ngực của hắn, cũng như những cử chỉ chân tình của nàng trước kia, để cảm nhận được nỗi ngậm ngùi, xót thương cho người con gái, dâng lên từ trái tim hắn…

Rồi lần này,

Kìa em, gặp lại

Nằm khép hoa môi giấc quan tài

Đôi môi lần chót gặp ta nhắc

Nghe nhớ bằng tim…, chớ bằng tai!

Bệnh viện dành quyền cho hắn, nếu muốn, đứng ra để chôn cất nàng, hay để sở Xã Hội lo việc ma chay, coi như xác chết vô thừa nhận. Nhà quàn cũng cho hắn biết về số tiền chi phí để chôn cất, vì gia tài của nàng lúc này, ngoài cái xe móp méo, mà bảng số vẫn còn là Denver, thì tài khoản, như statement nhà bank trong ngăn của túi xách, chỉ còn gần ngàn bạc. Điều đáng buồn là bảo hiểm xe đã hết hạn hai hôm mà nàng chưa đóng tiền đáo hạn, và xui hơn nữa, kẻ đụng nàng là một gã Mỹ đen say xỉn mà cả năm rồi chẳng biết đến bảo hiểm xe là gì!

Thương cho nàng, hắn không nỡ để nàng ra đi như một kẻ vô thừa nhận như thế. Ít ra trên đời này, nàng còn có hắn. Rồi chợt nghĩ đến thằng Andy đang nằm bệnh viện, nó cũng cần được săn sóc, vỗ về, nhưng hắn chưa biết phải lo cho nó như thế nào? Hắn nghĩ đến số tiền mấy năm nay đi làm dành dụm được. Hắn không tiếc vì nghĩ rằng đồng tiền Chúa ban, nên trả lại cho Chúa qua những người anh em bất hạnh chung quanh… Vâng, xin Chúa giúp con trong cơn khó khăn này! Hắn đồng ý đứng ra chôn cất nàng, và ưu ái hơn, còn chọn cho nàng đúng mảnh đất nghĩa trang mà nàng mơ ước trong một lần hai đứa chạy xe qua.

Sau tang lễ, hắn đến thăm Andy xem tình trạng nó ra sao. Cũng giống như me, nó giờ chỉ còn hắn là thân nhân độc nhất trên cõi đời. Hắn ghé vào Toys R Us mua game cho thằng bé, rồi đến nhà thương, đi thang máy lên phòng bệnh. Dường như nó nhận ra hắn là người quen mà đã có lần nói chuyện với mommy, nên mở đôi mắt xanh tròn nhìn hắn:

– Wheres mom!

Hắn lấy tay vuốt mái tóc vàng của đứa trẻ tội ngiệp:

– Shes being in rest…!

Thằng bé không hiểu là mẹ nó đã chết:

– Take me to mom… Please!

Hắn phân vân không biết có nên cho nó biết là mẹ nó chết hay không? Cũng không biết là nhân viên bệnh viện có cho thằng bé biết là nó đã mồ côi mẹ không…? Hắn kiếm cách an ủi nó:

– I will…!

Tiếng bật khóc của thằng bé làm hắn mủi lòng. Lau mắt cho nó, hắn dỗ dành:

– Mom… đã về nghỉ bên God, nhưng giờ vẫn còn ta! My son…, Andy!

– No…! Youre not my…daddy!

Sau câu nói, nó lại khóc rống lên. Một nhân viên bệnh viện đến cho nó uống thuốc. Thằng bé vùng vằng nắm áo hắn. Tội nghiệp thằng nhỏ mồ côi, hắn bế xốc nó lên dỗ dành. Nhưng dỗ con nít không phải nghề của hắn. Thằng bé nhoài người ra:

– No…. Please…Let me be with mom…!

Hắn vỗ vỗ lưng nó:

– Okay…Okay…Andy, I promise…!

Thằng bé có vẻ nín khóc vì lời hứa của hắn, nó ngước đôi mắt còn ướt sũng những giọt nước:

– O…k…ay…!

Lấy tay không bị băng quệt nước mắt, nó chịu uống miếng thuốc màu đỏ, rồi tiếp tục:

– Im hungry…now!

“Gà trống nuôi con…!” Đây là lần đầu tiên hắn bận rộn với con nít là thằng Andy bên cạnh. Đặt nó xuống giường, rồi lấy phần ăn trong bệnh viện, hắn đút một miếng nhỏ vào miệng nó. Thằng bé lắc đầu:

– I wanna go to McDonalds.

Hắn dỗ dành:

– Okay, well be there…!

Hơn tuần sau, thằng bé được xuất viện. Hắn theo nhân viên Xã Hội đến Child Protective Services, để ký giấy chứng nhận được đi thăm nó tại một nhà trẻ thuộc sở Xã hội, cho đến khi sở kiếm được cho nó một cha mẹ nuôi chính thức.

Hắn quyết định sẽ gởi đơn xin thôi việc ở hãng sau ngày đến gặp cha Joe, ký giấy vào Chủng Viện. Cám ơn cha, một vị bề trên nhân từ và đáng kính. Hắn cũng dự trù mua biếu cha bộ áo lễ, thay cho bộ áo cũ đã sờn rách, mong rằng cha sẽ vui. Trước khi đi thăm Andy, hắn lấy là thư của cha ra xem lại cho chắc ăn, rồi tiện tay, nhét lá thư của cha vào túi áo, nhẹ bước ra khỏi phòng.

Hôm nay thứ Bảy, hắn sẽ đưa Andy đi thăm mẹ nó như lời hứa. Mà có thể, đây là lần chót gặp nó trước khi hắn đi tu. Hắn đang suy nghĩ, sau này không biết ai sẽ là người đến thăm, và ai sẽ là cha mẹ nuôi của nó. Hắn nhẹ lắc đầu, tội nghiệp thằng bé mồ côi!

Trong đầu hắn chợt có ý tưởng làm cha nuôi cho Andy. Ừ phải, hắn có đủ điều kiện và công việc như đòi hỏi của sở Xã Hội. Andy là một đứa bé ngoan hiền, dễ thương, nhất là nó lại là con của nàng.

Thực tốt đẹp cho cuộc đời đứa bé, nếu như Andy được sống với hắn. Hắn đã may mắn được nước Mỹ đùm bọc, nuôi dưỡng, giáo dục, và tạo cho công việc, được hưởng mọi quyền tự do, và nhất là được sống trong một xã hội đầy tình người, nên bây giờ có cơ hội để đền đáp lại xã hội nhân bản đó, làm sao nỡ ngoảnh mặt khước từ?

Nhưng cuộc đời hắn, đã nuôi ý định tận hiến cho Thiên Chúa từ lâu, bây giờ mới được toại nguyện. Còn gì trên đời hơn nữa mà không đón nhận? Hắn sẽ từ giã công việc và những vị tiền bối ở Boeing, từ giã bạn bè, từ giã những buổi chiều đi lang thang sân trường đai học, và buồn hơn, là bây giờ sẽ phải từ giã Andy, không thể hàng tuần đến thăm nó được nữa.

Hắn lại nghĩ đến số tiền để dành, dù không còn nhiều, nhưng chẳng biết luật lệ Chủng Viện có cho tu sinh quyền giữ tiền riêng không? Dù được hay không, hắn nghĩ, sẽ chia số tiền, một nữa cho thằng Andy vì nó còn nhỏ quá, cần được đền bù vì những bất hạnh của một đứa trẻ mồ côi. Hắn cũng gởi về Việt Nam cho cha mẹ một ít, còn lại sẽ đặt hết dưới sự quản lý của Chủng Viện. Nghĩ được như vậy hắn cảm thấy yên tâm.

Hắn ghé vào McDonalds mua cho thằng bé phần Happy Meal, vì nó thích những đồ chơi nho nhỏ trong phần ăn này. Tiện tay, hắn lấy thêm vài tờ napkins nhét vào túi áo. Sau đó hắn dừng xe trước chợ mua một bó hoa tươi cho nàng. Vậy là đủ, hắn sẽ cùng thằng bé dắt tay nhau đi thăm mẹ của nó.

Đường vào nghĩa trang vắng lặng vào một buổi chiều thứ Bảy, có nắng lung linh bao phủ trên những đóa hoa như nàng vẫn mơ ước. Hắn xuống xe, cầm theo bó hoa và tay kia dắt theo thằng bé. Nếu không vì mái tóc vàng giống mẹ của nó, thì người ta sẽ nghĩ đó là hai cha con thực sự. Thằng bé hớn hở vì được đi chơi. Đến bữa nay, dường như nó đã phần nào quên được mẹ, vì có nhiều bạn mới cùng tuổi, và nhiều đồ chơi trong nhà trẻ của sở Xã Hội.

Đến trước mộ của nàng, hắn lặng lẽ cắm hoa vào khay được gắn trước mộ bia. Thằng Andy rụt rè, nắm chặt tay hắn. Trong đầu óc bé nhỏ của nó mường tượng ra được là từ nay sẽ không còn được gặp mẹ nữa. Mắt nó đỏ hoe chực khóc. Hắn cúi xuống, ôm và vỗ về nó, thằng bé dụi dụi mắt vào cổ áo của hắn:

– Mama nằm đây hả…?

Hắn vỗ vỗ lưng nó:

– Ừ, nằm đây, và mama happy lắm khi thấy mình đến đây hôm nay…!

Thằng bé xụi xùi:

– I miss mama…!

– Me too, Andy! Mama cũng nhớ Andy…, và muốn Andy là một good kid. Lets pray…

Hắn lặng lẽ cúi đầu. Nhưng thằng bé chẳng yên lặng được lâu, nó vụt ra khỏi tay hắn để đi nhặt những cánh hoa cỏ nhỏ bé chung quanh, trong khi hắn lâm râm những lời kinh nguyện.

Hắn quỳ gối, lấy tay sờ vào tấm hình trên mộ bia. Vẫn mái tóc, vẫn đôi mắt, vẫn nụ cười… đã đi vào tâm hồn hắn. Hắn chạm tay vào nét chữ khắc bên dưới rồi chợt thở dài, vì nghĩ lại những lúc nàng phải nhắc tên của nàng cho hắn. Ôi đầu óc của gã tị nạn Việt Nam, sao mà kém cỏi và vô tình!

Bây giờ thì nàng yên tâm rồi, vì không còn phải nhắc tên cho hắn nữa. Tên của nàng đã rất rõ nét trên mộ bia và ngay cả trong trái tim của hắn. Nhìn vào ánh mắt, dù nàng đang cười với hắn, nhưng có một nét gì như là trách móc!

Hắn ngậm ngùi, cầu mong nàng thứ lỗi, và hứa sẽ săn sóc Andy với tất cả khả năng của mình. Nghĩ tới đó, hắn thấy mắt mình cay cay! Hắn thầm thì nhắc lại tên nàng, mà đây là lần đầu tiên hắn đã không quên và không bị vấp váp…

Phải rồi,

Tên em, ta đã nhớ

Âm hưởng mang máng giọt cô liêu

Di ảnh long lanh lòng ta khóc

Tên em…rõ nét… mộ bia chiều…!

Thằng bé chợt nhìn thấy người đàn ông khóc. Nó nhớ lại những lời mẹ nói trước đây… À, đây đúng là daddy của nó…, là người đàn ông khóc trước mặt mẹ! Vậy mà bấy lâu nay nó không nhận ra… Nó hấp tấp chạy lại ôm lấy cổ hắn:

– “Daddy…Daddy…, mình về nhà đi …!”

Tiếng gọi của thằng bé làm hắn xúc động. Hắn gục đầu xuống mái tóc vàng của nó, rút tờ napkin lau nước mắt, lá thư của cha Joe rơi theo xuống đất. Hắn thẫn thờ, nghĩ ngợi…, rồi cuối cùng nhặt thư của cha lên, thở dài:

– Ừ mình về, từ nay con sẽ ở với daddy!

Hắn dự định sẽ đến gặp cha Joe, kể chuyện về Andy như một lời xin lỗi vì không còn ý định đi tu nữa, và mong cha vẫn tiếp tục cầu nguyện cho cuộc đời trần tục của hai cha con hắn, được bắt đầu từ ngày hôm nay…

Xem đầy đủ trong:

https://maybienvh.wordpress.com/2016/02/24/vung-duong-tu/

Từng bị đuổi học vì cầm dao, nhờ cha mẹ, cô gái gốc Việt trở thành nhà giáo

  Nếu bạn có một đứa con ngỗ ngáo hay làm một việc gì đó vi phạm pháp luật và bi cảnh sắt bắt hay bị đưa ra Tòa. Là cha mẹ bạn sẽ xử trí ra sao? Bạn cứ để pháp luật trừng trị, mà không thèm quan tâm? Hay bằng mọi giá phải cứu và đưa nó về với gia đình? Hãy đọc qua câu chuyện này để lấy kinh nghiệm hay góp ý nếu bạn có biện pháp nào hay hơn?…

***

Từng bị đuổi học vì cầm dao, nhờ cha mẹ, cô gái gốc Việt trở thành nhà giáo

Tâm An

GARDEN GROVE, California (NV) – Gặp Tiffany Nguyễn, cô gái gốc Việt 32 tuổi, hiện đã tốt nghiệp cao học ngành giáo dục và đang là giáo viên tại một trường Trung Học Đệ Nhất Cấp (Middle School) với mức lương khá cao, không ai có thể ngờ cô đã từng bị đuổi học vì cầm dao tới trường, khiến cha mẹ cô một phen điêu đứng.

“Bố tôi là người tuyệt vời. Ông là người luôn chủ động giải quyết sự việc, nhờ vậy mà tôi đã vượt qua lỗi lầm để có được ngày hôm nay,” Tiffany tâm sự như vậy, nhân lúc ghé thăm cha của cô, tại nơi ông làm việc miệt mài suốt mấy chục năm qua, để nuôi cô nên người.

“Mẹ cũng rất yêu thương và luôn đồng hành với tôi nhưng bà là người dễ xúc cảm. Bố đã giúp tôi trở nên mạnh mẽ tự tin hơn,” cô nói thêm.

Mang dao tới trường vì bị bắt nạt

Câu chuyện xảy ra vào khoảng 18 năm về trước, lúc Tiffany mới bước vào năm đầu tiên trung học.

“Năm đó tôi mới quen biết một anh chàng là họ hàng của bạn tôi. Anh ta đã có bạn gái nhưng lại thú nhận với cô này là anh ta thích tôi. Thế là ngay lập tức có một ‘đàn chị’ thuộc hàng ‘gangster’ học lớp 12, là bạn của cô bạn gái đó, đòi gặp tôi để hẹn một cuộc ‘đánh ghen.’ Mặc dù tôi đã giải thích với chị ta rằng tôi không hề có tình cảm gì với anh chàng đó hết, nhưng chị ta vẫn không chấp nhận làm hòa, vẫn muốn đánh nhau với tôi,” Tiffany kể lại câu chuyện.

“Tôi đã nói với giáo viên nhưng họ lại nói nếu tôi còn bị đe dọa nữa, hãy nói với giám thị của trường. Ngày hôm sau, chị ta lại hối thúc tôi để hẹn một cuộc đánh nhau. Tôi đành hẹn chị ta vào trưa ngày hôm sau,” Tiffany kể tiếp.

“Tôi không dám nói với cha mẹ mình vì sợ họ lo lắng. Tôi hỏi một người bạn trong trường hợp này nên làm gì để chống đỡ đây? Người bạn khuyên tôi nên cầm một con dao để phòng khi chị ta kéo nhiều người tới vây đánh tôi một lúc,” cô kể thêm.

Thế là cô bé 15 tuổi đã lặng lẽ lấy con dao từ bếp của nhà mình, loại dao dùng để cắt thịt bò bít tết, cho vào ba lô tới trường. Mặc dù cô biết rằng một học sinh có thể bị phạt rất nặng khi mang vũ khí tới trường, nhưng “lúc đó tôi không quan tâm tới điều gì khác ngoài tự vệ bản thân,” Tiffany kể lại.

“Sau giờ học, chúng tôi gặp nhau ở bãi đậu xe tại trường. Chị ta có xe hơi riêng còn tôi thì không. Mới chỉ bắt đầu đánh nhau, con dao vẫn nằm trong cặp, thì đã thấy giám thị đang từ xa đi tới. Chắc có ai đó gọi ông. Thấy thế, chị kia vội vàng nhảy lên xe hơi chạy vụt mất còn trơ lại mình tôi. Tội sợ quá lấy con dao vứt vào bụi rậm gần đó rồi chạy. Cuối cùng, tôi bị giám thị bắt lại, cùng với con dao họ tìm ra trong bụi,” cô kể.

Bài thơ ông viết cho con gái Tiffany. (Hình: Nhân vật cung cấp)

Khi ấy, nhà trường lập tức gọi cảnh sát tới, đồng thời họ cũng gọi điện thoại để báo tin cho cha mẹ cô.

“Các giáo viên không bao giờ hỏi lý do vì sao tôi phải cầm dao tới trường. Họ chỉ quan tâm tới việc có một học sinh dao (được coi là cầm vũ khí) tới trường, điều này vi phạm nghiêm trọng luật lệ của trường và cần phải trừng phạt,” Tiffany kể tiếp.

Phản ứng của cha mẹ

Khi nhận được cuộc gọi từ ban giám hiệu thông báo về việc con gái “cầm vũ khí tới trường đánh nhau,” ông Thi Nguyễn, cha của Tiffany, hết sức “bàng hoàng.”

“Lúc đó, tôi có cảm giác như chính tôi đang vướng vào rắc rối, chứ không phải con tôi. Tôi đi ngay tới trường muốn xem chuyện gì xảy ra. Tôi muốn biết lý do vì sao con tôi lại làm như vậy,” ông bồi hồi nhớ lại.

Trên đường tới trường, ông thầm nghĩ: “Sao tính con gái mình nó giống cái tính ‘không biết sợ ai’ của mình đến thế! Lỗi cũng tại mình một phần, mình đã mải làm việc quá, không có thì giờ theo sát con.”

“Có đôi lần nó nói với tôi là nó bị ăn hiếp ở trường, nhưng tôi lại chủ quan không cho đó là vấn đề nghiêm trọng. Tôi nói vui với nó: Ai ăn hiếp con, con ăn hiếp lại nó. Nếu nó đánh con, con đánh lại nó, nhưng đừng bao giờ đánh nó trước,” người cha tâm sự.

Lời nói đó của cha lại khiến cô bé 15 tuổi nhớ mãi tới bây giờ, bởi cô rất thần tượng cha và luôn xem lời cha như là một chân lý.

Tại buổi họp hội đồng kỷ luật, với hành động cầm dao tới trường, bất kể với lý do gì, Tiffany đã bị đuổi học một năm trên toàn học khu. Trong khi kẻ gây hấn là cô học sinh lớp 12 kia lại không hề bị trừng phạt, vẫn tiếp tục được học ở đó.

Khi nhà trường hỏi về suy nghĩ của mình tại hội đồng kỷ luật, trái với suy nghĩ của mọi người, Tiffany không hề tỏ ra hối hận, cô bé trả lời: “Tôi mang dao là để tự bảo vệ mình. Nếu như có gặp cảnh tương tự, tôi sẽ làm y chang như vậy nữa!”

Không ai quan tâm, cô bé vẫn bị trừng phạt.

Không một lời trách mắng con, ông Thi tỏ ra rất bình tĩnh và ấm áp. Ông đưa con gái về nhà, trong đầu ông chỉ nghĩ một điều duy nhất: “Làm sao để giúp con vượt qua rắc rối này, làm sao giải quyết?”

“Mẹ tôi khóc ngất, bà như điên lên. Bà hỏi tại sao tôi lại làm như vậy, bất kể là tôi có giải thích thế nào,” Tiffany nhớ lại.

Người cha tuyệt vời

Thông thường, những học sinh bị đuổi học, sẽ phải tới một trường học đặc biệt dành riêng cho họ, tương tự như trường Hare High School ở Garden Grove hay trường Harbor Learning Center ở Fountain Valley.

Ông Thi bàn với vợ: “Chúng ta bằng mọi giá, dù có phải tốn rất nhiều tiền bạc, cũng không thể để con mình vào môi trường như thế được.”

Hai cha con đã đi tới hàng chục trường học ở Orange County và khu lân cận để xin cho Tiffany tiếp tục học lớp 9. Nhưng tất cả các trường đều bị từ chối nhận con ông vào học, vì đó là lệnh trừng phạt trên phạm vi toàn học khu, không phải chỉ ở mỗi trường trung học hiện tại.

“Cuối cùng, có một trường tư ở bên Công Giáo đã chịu nhận con tôi vào học, với một điều kiện: Con tôi phải học Kinh Thánh,” ông Thi kể.

Tiffany tỏ ra rất chán nản khi học ở ngôi trường mới vì nhà cô không phải đạo Công Giáo. Trường cách nhà khá xa, nhưng cha cô luôn đưa đón con mỗi ngày. Ông đi mua những cuốn Kinh Thánh cho cô học. Mỗi khi nhìn thấy con buồn, người cha lại động viên: “Con ráng một năm thôi, chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác. Con thấy đấy!”

Đọng lại nhất trong câu chuyện này là hình ảnh người cha tuổi xế chiều, ngồi yên lặng nhìn ra mặt hồ xa xăm, cô con gái duy nhất đang tuổi trăng tròn, thấy thế, bèn lại gần hỏi cha: “Bố buồn à? Con hư nên bố không còn thương con nữa phải không bố?”

Người cha vẫn nhìn xa xăm, chậm rãi trả lời: “Con ngoan bố cũng thương. Con hư, bố cũng vẫn thương. Chỉ có điều… nếu con ngoan, thì bố vui, còn con hư, thì bố buồn! Vậy thôi.”

Câu nói đó đã khiến Tiffany yên tâm và có động lực để cố gắng không làm cha mẹ buồn lần nữa. Sau hai tháng học ở trường Công Giáo, cô đạt điểm cao nhất cả lớp bài kiểm tra về Kinh Thánh và các môn khác.

Sau khi một năm học tại trường Công Giáo, cô được trở lại trường trung học công lập để học lớp 10 như những bạn bè khác. Nhưng cha cô đã chọn trường khác, ông không muốn cô trở lại trường học cũ để bị ám ảnh những ký ức buồn.

Chia sẻ kinh nghiệm làm cha của mình, ông Thi cho biết: “Tôi luôn lắng nghe những điều con tôi chia sẻ và không đánh giá hay cấm cản. Tuổi trẻ cũng có lúc nó đòi đi chơi khuya, đi quán bar, đi tiệc, tôi vẫn cho con đi thoải mái, chỉ với một điều kiện là tôi sẽ chở nó đến nơi, rồi chừng nào về thì tôi sẽ ra đón về.”

“Tiffany có phòng riêng từ khi rất nhỏ. Tôi nói với nó rằng ‘ba mẹ sẽ yên tâm khi thấy con ở trong phòng luôn được bình an.’ Vì thế nó luôn mở cửa phòng, để chúng tôi yên lòng,” ông nói.

Học bổng $10,000 cho cô học trò từng bị đuổi học

Tiffany đã tốt nghiệp lớp 12 với học lực giỏi và nhận được học bổng trị giá $10,000 cho bốn năm học đại học. Tuy vậy, vì học lớp 9 tại trường Công Giáo không được chấp nhận, cô đã không đủ tiêu chuẩn để được tuyển thẳng vào đại học University of Irvine (UCI).

Cũng may vẫn còn một lựa chọn khác, đó là học hai năm tại trường Orange Coast College (OCC) sau đó mới chuyển tiếp lên đại học.

Cô cho biết: “Điều làm tôi thay đổi nhiều nhất là khi tôi được bố mẹ mua cho chiếc xe hơi để đi làm thêm. Tôi đi làm 40 giờ/tuần , người ta chỉ trả tôi có $6/giờ, trừ tiền đổ xăng đi cũng không còn bao nhiêu. Tôi nhận ra rằng kiếm đồng tiền nếu không có học hành, thì không hề dễ dàng.”

“Từ đó tôi thấm thía câu nói của bố tôi ‘con muốn thích làm cái gì cũng được, ngay cả việc bố không thích như xăm mình hay đi quán bar, mua sắm… nhưng trước hết con phải học, để có nghề nghiệp, có tiền lương cao, rồi thì con mới có được những thứ con thích,” cô nói thêm.

Với sự dìu dắt của người cha, sự dạy dỗ nghiêm khắc của người mẹ, Tiffany luôn cố gắng học để “không làm cha mẹ buồn” và để “có tiền làm những thứ mình thích.”

Cô đã tốt nghiệp OCC với kết quả học tập tuyệt đối 4.0, và tốt nghiệp UCI, đồng thời sau đó tốt nghiệp cao học ngành giáo dục tại đại học Chapman University.

Tiffany chia sẻ: “Nếu như không có được người cha tuyệt vời như vậy. Nếu như cha mẹ đều chỉ biết trách mắng tôi, không nghe tôi giải thích, không đồng hành cùng tôi, có lẽ tôi sẽ cảm thấy cả thế giới quay lưng lại với mình. Có thể một đứa trẻ như tôi sẽ bỏ nhà ra đi, gặp những người bạn xấu và không biết tương lai sẽ đi về đâu.”

Khi đã “đủ lông đủ cánh,” chính ông Thi đã đề nghị con gái phải dọn ra ngoài, mặc dù ông bà rất nhớ con vì Tiffany là đứa con duy nhất. “Tôi nghĩ mình không nên ích kỷ cho bản thân, phải để nó có cuộc sống riêng của nó. Mặc dù con tôi là đứa sống tự lập từ nhỏ,” ông nói.

“Hồi Tiffany 2-3 tuổi, bác sĩ khuyên chúng tôi nên có đứa con thứ hai, vì bé bị một căn bệnh chỉ có 10% khả năng sống sót,” ông Thi tâm sự.

“Tôi đã trả lời bác sĩ rằng: nếu có đứa con nữa, thì khác gì là chấp nhận từ bỏ đứa con này? Tôi sẽ không làm vậy. Hoặc là có nó hoặc là không,” người cha già ngoài 70 tuổi kể về lý do vì sao ông bà chỉ có một đứa con. Có lẽ vì sự quyết tâm của ông mà cô bé đã khỏi bệnh một cách kỳ diệu.

Giờ đây khi đã trở thành một cô giáo dạy các em học sinh đang tuổi mới lớn, giống mình 18 năm về trước, Tiffany bày tỏ: “Tôi nói với học sinh của mình, nếu mình muốn bạn khác đối xử tốt với mình ra sao, hãy làm tương tự như vậy với họ. Nếu gặp ai ăn hiếp mình thì phải nói ngay với thầy cô và giám thị cũng như cha mẹ mình.”

Cô cho biết: “Luật pháp hiện nay đã thay đổi rất nhiều, chẳng hạn như bắt buộc nhà trường và thầy cô phải có trách nhiệm trước pháp luật để các học sinh không bị ăn hiếp. Có nghĩa là cha mẹ có thể kiện nhà trường nếu như con họ rơi vào tình cảnh như tôi ngày xưa. Ngoài ra, một em học sinh bị ăn hiếp, nếu lỡ cầm dao tới trường tự vệ, thì có thể chỉ bị trường đó cho ngừng học một năm, chứ không phải bị ‘expel’ toàn học khu như vậy. Điều đó công bằng hơn, giúp ngăn chặn được vấn nạn bị ăn hiếp trong trường học hơn.”

Tiffany chia sẻ: “Tôi chọn nghề giáo viên vì tôi thích dạy học và muốn có một nghề thu nhập ổn định để sau này lo cho ba mẹ lúc tuổi già.”

Nghe được câu này từ đứa con trưởng thành, chắc hẳn cha mẹ cô rất hạnh phúc!

HÌNH:

– Bài thơ ông viết cho con gái Tiffany. (Hình: Nhân vật cung cấp)

– Lá thư của trường Orange Coast College cho thấy Tiffany là một trong 478 sinh viên đạt điểm tối đa 4.0 trong khi trường có 24,000 sinh viên. (Hình: Nhân vật cung cấp)

– – Tiffany cùng cha mẹ hạnh phúc trong lễ tốt nghiệp cao học ngành giáo dục tại đại học Chapman University. (Hình: Nhân vật cung cấp)

Đám Cưới, Khi Thầy Tu Cưới Vợ – Người Phương Nam

Kimtrong Lam  Lương Văn Can 75.

Đám Cưới, Khi Thầy Tu Cưới Vợ –

Người Phương Nam

Tuesday, August 24, 2021

Nói tới đám cưới thì người ta sẽ nghĩ ngay đến hai bên gia đình, một bên là đàng trai và một bên là đàng gái, gia tộc đàng trai sẽ qua đàng gái rước dâu và gia tộc nhà gái phải đưa con gái về nhà chồng. Nhưng ở đây, cái đám cưới này không có chuyện rước dâu, không có chuyện “cô dâu từ giã mẹ cha, bước đi một bước lệ sa mấy hàng” như những cô dâu khác mà vẫn ở nguyên nhà cha mẹ ruột như từ khi mới lọt lòng mẹ chào đời. Ngược lại chàng rể tạm thời phải theo về nhà vợ ở rể bởi vì chưa tìm đâu được một túp lều lý tưởng hay một mái thảo trang thơ mộng ưng ý để rước nàng “về dinh” như bao chàng rể trên đời.

Chuyện là như vầy. Chàng rể tên Nguyên, nguyên là một thầy tu xuất, một môn đệ Ki tô đã đánh mất niềm tin phụng vụ đang tập tễnh làm quen với tục lụy đời trần. Vốn liếng vào đời chỉ có mớ văn bằng chữ nghĩa còn tiền của thì một xu dính túi cũng không bởi vì thầy đã nguyện làm tôi tớ Chúa sống khó nghèo từ bao nhiêu năm qua. Sở dĩ thầy hòan tục là vì căn tu thầy đã hết hay nói đúng hơn ở trong chăn mới biết chăn có rận. Thiên hạ bên ngòai, có lẽ ai cũng tưởng rằng tu viện, giáo đường là nơi truyền bá đức tin, là nền tảng căn bản của đạo đức, bác ái và công bằng nhưng có biết đâu thực tế bên trong thì lắm chuyện phũ phàng, chướng tai gai mắt chỉ vì những kẻ bề trên đã lạm quyền ỷ thế bất công trong cách hành xử đối đãi với sư huynh đệ dưới trướng. Thầy đã quá bất mãn chán chường nên quyết định dẹp quách chiếc áo nhà tu nhập cuộc với đời thường cưới vợ cho xong. Thầy có thể hy sinh dâng cả cuộc đời mình cho Chúa nhưng không cam lòng bị hiếp đáp triền miên tháng này qua năm nọ. Thà làm người thế gian sống cuộc đời bình thường như bao nhiêu người trần tục khác, miễn sao lương thiện ngay lành giữ trọn mười điều răn là đã đẹp ý Chúa chớ cần chi khóac áo tu hành sớm kinh chiều kệ nhưng trong bụng một bồ dao găm luôn nghĩ cách hãm hại người, miệng nói giáo lý giáo điều nhưng lòng dạ hẹp hòi thâm độc như rắn rít.

Cô dâu là Kim Châu, con gái lớn của ông bà tài phú nhà máy lúa gạo người Tiều minh hương. Cô không thuộc lọai người đẹp, chỉ được cái là mặt mày sáng láng trắng trẻo dễ thương nên đã làm xao xuyến trái tim côi của ông thầy dòng xưa nay vốn chỉ biết một lòng yêu mến trung thành thờ phượng Chúa. Cô gặp thầy rất ngẫu nhiên như định mệnh dun rủi khi vào học trường dòng nam bốn năm về trước. Lúc ấy thầy dạy môn sinh ngữ Pháp lớp cô. Suốt niên học, mỗi giờ Pháp văn, người trên bục giảng, kẻ dưới bàn học, cả hai thường bắt gặp ánh mắt trìu mến len lén gởi trao nhau. Lời tuy chưa tỏ nhưng lòng đã nghe cảm giác thân quen từ kiếp nào để rồi kịp lúc tan trường thầy đã thề ước chuyện trăm năm, hẹn vài năm sau sẽ trở về xin cưới cô làm vợ. Chuyện tình lúc bắt đầu tưởng đã ngang trái bất thành bởi đạo đời ngăn cách nhưng kết cuộc định mệnh đã cho hai người một happy ending bằng một cái đám cưới “một chiều” không giống ai thời bấy giờ.

Lúc rời khỏi nhà dòng, thầy Nguyên như một vị quan liêm chính hồi hưu không của cải, không cửa không nhà, chỉ võn vẹn một túi xách tay đựng vài bộ quần áo với mấy quyển sách học làm người đắc nhân tâm (có lẽ vì trong nhà dòng thầy chỉ biết nếm mùi thất nhân tâm) và 5000 đồng (thuở đó lương giáo sư cấp hai khỏang ba mươi lăm ngàn đồng một tháng) của bề trên ban cho làm vốn vào đời. Trong lúc thất sở thân sơ đó, thầy phải tá túc nhà bà chị cả vài tuần đầu trong thời gian chờ nộp đơn xin về quê vợ lập nghiệp, cái nghề dạy học cố hữu của thầy nhưng phen này đi dạy nhứt định là lãnh lương hẳn hoi chớ nếu “dạy chùa” thì lấy gì mà nuôi sống bản thân và đồng thời còn phải dành dụm để sắm sửa cưới vợ mua nhà.

Khi ấy là đang mùa nghỉ hè, nếu như còn trong dòng thì thường khi học trò bãi trường, các thầy tu phải đi cấm phòng, cầu nguyện, tịnh tâm ở một nơi nào đó tùy bề trên giám tỉnh chỉ định cũng kiểu như những cao thủ võ lâm tới thời kỳ nhập thất bế môn luyện công vậy. Nhưng bây giờ thì thầy đã hòan tòan tự tại thong dong như chim được xổ lồng, như cá được thả về sông mặc tình bay lượn theo ý muốn, không còn lo sợ bề trên áp bức, bề dưới sàm tấu thưa gởi gì nữa. Thầy xuống vườn trái cây mấy chục mẫu của bà chị ở Cái Mơn nghỉ ngơi một tuần, trèo lên cây hái trái chín ăn cho thỏa thích, họăc cùng mấy đứa cháu đi câu tôm tát đìa bắt cá, hít thở không khí tự do bỏ những khi bị gò bó buộc mình tuân theo những quy luật khắt khe quá đáng của nhà dòng. Vườn nhà bà chị trồng đủ lọai trái ngon giống tốt, cam, dâu, xòai, mít, sầu riêng, măng cụt, bòn bon, chôm chôm nhãn. Mỗi mùa trái cây thu họach mấy chục triệu đồng đến nỗi không dám gởi ngân hàng mà phải dấu vào những hộp biscuits treo trên ngọn cây dừa.

Kế đó thầy xuống Sóc Trăng thăm cô bồ và luôn tiện tìm nhà trọ để mai mốt khi về đây dạy mới có nơi ăn chốn ở. Thầy tìm đến dì Sáu, bà bếp nấu ăn trong trường dòng khi xưa nhờ tìm một nơi trú ngụ. Dì Sáu giới thiệu thầy với dì Ba, chị của dì. Dì Ba có hai người con đã lớn, con gái thì đã theo chồng ra riêng, còn con trai đi lính đóng quân ở tận Bảo Lộc nên nhà cửa rộng rãi dư phòng. Có người xin ở trọ, kiếm thêm được chút lợi tức, dì Ba vui vẻ chấp thuận ngay vô điều kiện.

Tưởng rằng mọi việc sẽ suông sẻ diễn tiến theo dự tính của thầy, nào ngờ đâu thầy dọn vào ở nhà dì Ba chưa nóng chỗ nằm thì một buổi chiều dì Ba nhận được tin con tử trận. Dì vật vã khóc lóc thảm thiết và dị đoan cho rằng chính thầy Nguyên đã đem cái xui xẻo đến cho gia đình dì khiến con dì mất mạng. Thật là phi lý hoang đường! Con người sinh ra ai cũng có sẵn số mệnh đặt để, một khi đã tới số thì cho dù có trốn trong nhà cũng nhào lăn ra chết bất đắc kỳ tử huống chi mang thân làm lính vào sanh ra tử nơi chiến trường đạn lạc tên bay. Súng đạn đâu có mắt có tròng, trúng ai thì người đó nấy chịu. Cái chết của con dì đâu có mắc mớ tới thầy mà chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng dì Ba đã nghĩ vậy thì thầy cũng không còn lòng dạ nào ở lại nhà dì thêm nữa.

Cạnh nhà dì Ba là nhà một anh chàng thiếu úy văn phòng. Anh thiếu úy này tên Lộc còn độc thân, con một gia đình khá giả quê quán Cần Thơ nhưng vì nhiệm sở ở Sóc Trăng nên phải đóng đô ở Sóc Trăng. Biết tình cảnh của thầy Nguyên, Lộc hào hiệp rủ qua ở chung cho có bạn. Hai tuần sau khi thầy Nguyên dọn vào, nhân được ngày phép cuối tuần, Lộc rủ thầy thứ bảy tới đi tắm biển ở bãi Mỏ Ó (bãi biển có hình dạng mỏ ó) với nhóm bạn của anh ta. Thầy Nguyên đã nhận lời, hẹn sau khi đi Saigon bổ túc hồ sơ hõan dịch xong trong vòng ba ngày sẽ về đi chơi với Lộc. Nhưng không hiểu số mạng khiến xui thế nào mà thay vì nghỉ phép ngày thứ bảy như đã nói với thầy, Lộc lại nghỉ ngày thứ năm trong lúc thầy còn đang lo giấy tờ ở Saigon. Do vậy, Lộc và mấy người bạn gồm ba anh sinh viên và một ông thầy chùa trẻ kéo nhau đi tắm biển trước ngày dự định.

Chiều tối thứ sáu, thầy Nguyên trở về từ Sàigòn, về tới nhà thầy muốn mở cửa vào tắm rửa nghỉ ngơi nhưng không mở được. Lấy làm lạ, thầy chạy qua tìm bà hàng xóm kế bên dọ hỏi:

– Bác Hai à, làm ơn cho tôi hỏi thăm. Anh Lộc có nhắn gì với bác không? Sao tôi mở cửa nhà không được, hình như có ai đã thay ổ khóa rồi thì phải?

Bác Hai rầu rầu nói :

– Cậu mới ở Saigon về nên không hay thiếu úy Lộc đã chết rồi. Sáng hôm qua cậu ta ra cửa còn gặp tôi chào vui vẻ nói bữa nay được nghỉ phép đi tắm biển xả hơi một bữa. Vậy mà hồi sáng này, người nhà của cậu ta đã tới lấy hết đồ đạc đem về Cần Thơ và đổi ổ khóa nhà. Tôi chạy qua hỏi có chuyện gì thì họ cho tôi biết cậu Lộc đã bị Việt cộng phục kích bắn chết hôm qua ngòai bãi biển Mỏ Ó. Thiệt không ngờ, tội nghiệp hết sức! Còn trẻ quá mà.!

Thầy Nguyên không tin nổi những gì mình nghe, hỏi lại như hỏi chính mình:

– Có thật không bác? Anh Lộc có hẹn với tôi ngày mai mới đi biển mà sao lại bỏ đi trước như vậy chớ.

Bác Hai thở dài lắc đầu bảo :

– Phần số con người biết sao mà nói cậu ơi! Nếu biết trước thì cậu ấy đã không chết. Chắc nhờ mạng cậu lớn nên trời xui đất khiến Lộc thất hẹn với cậu đi trước để cậu khỏi chết chung đó mà, hay đúng hơn là số của cậu Lộc chỉ hưởng dương tới đây thôi. Người nhà đã đem xác cậu ấy về quê chờ chôn cất. Cậu có muốn đi thăm cậu ấy lần cuối thì ngày mai cũng còn kịp. Thôi, tối nay nếu cậu không vào nhà được thì qua ở tạm nhà tôi đi rồi sáng mai hãy tính.

Sáng sớm hôm sau, sau khi cám ơn lòng tốt của bác Hai cho ngủ nhờ qua đêm, thầy Nguyên vội vã đi Cần Thơ tìm đến gia đình Lộc chia buồn và hỏi thăm tự sự. Người nhà của Lộc kể lại rằng hôm sáng thứ năm Lộc cùng ba anh bạn sinh viên và một ông thầy chùa đi chơi biển Mỏ Ó. Sau khi tắm xong nhảy lên xe jeep đề máy định về thì máy xe không nổ vì bình xăng đã bị ai đổ cát vào. Liền khi ấy Việt cộng núp gần đâu đó trong những lùm cây rậm rạp bắn ra hàng lọat súng xối xả khiến ba người chết liền tại chỗ là Lộc, một anh sinh viên và một ông thầy chùa . Còn hai anh bạn kia may mắn nhanh chân phóng xuống biển lội trối chết mới thóat thân còn mạng trở về báo tin cho gia đình Lộc.

Thầy Nguyên bùi ngùi đến trước linh cữu của Lộc thắp lên ba nén nhang khấn nguyện cho vong linh người bạn vắn số sớm được siêu thóat yên nghỉ, người bạn tuy chỉ sơ giao nhưng rất phóng khoáng nhiệt tình đã giúp đỡ thầy trong cơn lỡ bước bơ vơ không nơi tá túc. Hình ảnh trẻ trung với nụ cười ngạo đời của Lộc còn hiển hiện rành rành trước mắt như mới hôm qua mà giờ đây đã âm dương cách biệt khiến thầy không khỏi xúc động bi ai. Quả thật vô thường!

Thôi thế thì anh trước tôi sau

Lẽ tử sinh ai tránh được nào

Anh đi trước có tôi đưa tiễn

Tôi đi sau ai tiễn ai chào

Thế là thầy Nguyên lại trở về tình trạng cù bơ cù bấc không cửa không nhà. Thầy kể lại mọi việc với gia đình cô Châu. Ba má cô Châu nghe vậy mới bàn tính với nhau hay là cho thầy về ở chung trong nhà mình cho rồi, chớ mà cứ để thầy đi lang bang hết chỗ này đến chỗ nọ, đi tới đâu người ta chết tới đó, đành rằng là do số mạng nhưng rủi thay lại nhè lúc thầy đang ở trọ trong nhà họ, nếu đồn ra ngòai thì chắc sẽ mang tiếng là sát chủ chớ chẳng chơi.

Riêng cô Châu, cô cũng nơm nớp lo sợ người yêu của cô nếu cứ đi lòng vòng bên ngòai, nay tắp nhà này mai đậu nhà kia, với bản chất thật thà dễ tin, không biết gì là cạm bẫy cuộc đời, biết đâu có ngày thầy bị người ta “vớt” hay gài cho một cái bầu như anh chàng Điệp trong chuyện tình Lan và Điệp thì cô chỉ có nước đi tu như Lan mà thôi. Thế nên, thấy ba má dễ dãi cô mạnh dạn nói tọac ra nỗi lo âu của mình, đôn đốc ba má cô đem thầy về “cất” ở nhà mình luôn cho chắc ăn. Nhưng mà thầy với cô chưa có lễ nghi gì chính thức ra mắt bà con chòm xóm, nếu để thầy khơi khơi vào nhà thì e rằng sẽ bị thiên hạ đàm tiếu dị nghị. Do đó, ba má cô mới bảo thầy về quê mời người lớn trong gia đình tới làm lễ hỏi ra mắt bà con ở đây chiếu lệ trước rồi từ từ mới coi ngày lành tháng tốt làm đám cưới cho danh chánh ngôn thuận sống chung nhà.

Trong lúc thầy Nguyên về quê mời người nhà qua hỏi vợ thì ở đây ba má cô Châu lo đặt thèo lèo, bánh mứt và chuẩn bị sẵn những lễ vật mà đáng lẽ phía nhà trai cần phải “đi mâm” mang qua nhà gái cầu hôn. Nhưng vì biết chắc trăm phần trăm là thầy Nguyên không thể nào hiểu nổi ba cái tập tục rình rang phiền phức này nên hai ông bà phải sắp xếp dàn dựng mọi thứ giùm cho thầy. Đồng thời hai ông bà cũng đi mời bà con thân tộc và xóm giềng chung quanh đến dự lễ hỏi của con gái mình. Chỉ là một tiệc trà đơn sơ, bánh bao xíu mại, cà phê sữa nóng để trình làng chàng rể tương lai với họ hàng là thầy Nguyên có thể ung dung xách đồ đạc dọn vào ở chung một nhà mà không sợ thiên hạ dèm pha.

Và cũng sau đám hỏi thì ngày tựu trường cũng đã tới để thầy từ đây có thể bắt đầu tạo lập cuộc đời của riêng mình. Với mớ văn bằng và kinh nghiệm sư phạm bao năm, thầy tin rằng mình sẽ làm nên một tương lai tươi sáng, hạnh phúc hơn sau những tháng năm dài dấn thân phụng vụ cho một lý tưởng thiêng liêng mà tới đây thầy nhận thấy đã đủ để chuyển hướng đời. Hai hôm đầu đi dạy, vì chưa đủ tiền mua xe nên thầy phải đi bộ hoặc nếu nhằm giờ dạy ở trường quận thì phải đón xe lam. Ông già vợ tương lai thấy vậy “coi không được” nên mới mua liền cho thầy một chiếc Honda 50 cc làm chân để thầy chạy tới chạy lui cho khỏi tủi thân với đồng nghiệp bạn bè. Nhờ vậy mà thầy mới có thể đi dạy hai ba trường kịp giờ trong cùng một ngày. Thời gian đó, cũng nhờ ăn ở trong nhà vợ sắp cưới, tiền lương mỗi tháng của thầy dư trọn vẹn không mẻ một xu nào cho nên mỗi tháng thầy mua một cây vàng để lên. Tích trữ thứ gì khác thì cũng có thể hư hao phá giá chớ vàng y thì bốn mùa tứ quý đều thích dụng, bất cứ lúc nào cũng dễ mua dễ bán. Tính như thầy vậy thiệt là chắc cú an tòan.

Rồi một ngày đẹp trời, gia đình cô Châu tổ chức lễ cưới cho hai người. Dù đám cưới này không có rước dâu nhưng ông cậu bà con đang trấn nhiệm chức vụ tỉnh trưởng Sóc Trăng thời bấy giờ cũng hào sảng cho mượn chiếc xe riêng của ông làm xe hoa đưa cô dâu chú rể đến nhà thờ. Sau nghi thức hôn phối ở nhà thờ, về nhà là tới cái màn nhóm họ đàng gái, đãi đằng bà con chị em phía cô dâu. Tiếng là nhóm họ đàng gái chớ thật ra là hai đàng nhập một bởi vì chú rể đã ở trọ trong nhà hằng mấy tháng. Nhà cô dâu hôm nay được che lều dựng rạp treo đèn kết hoa và đặt bàn ghế ra tận giữa đường lộ để bà con khách khứa có đủ chỗ ngồi ăn uống chung vui. Bữa tiệc nhóm họ đêm đó có nhiều món lai rai như bì cuốn, bún chả giò, bánh mì cà ri, cháo gà xé phay do mấy chị em bạn dì giúp làm rất hợp khẩu mấy ông bợm nhậu, nhứt là những ông đồng nghiệp của thầy Nguyên, uống sao mà như hũ chìm. Nhà ba má cô Châu ở cạnh bên Ty cảnh sát nên mấy ông cảnh sát trực đêm hôm đó cũng được chủ nhà chơi đẹp mời nhấm nháp vài ly hả hê phê đời.

Và ngày kế tiếp hôn lễ mới chính thức cử hành trong gia tộc. Thầy Nguyên rời nhà đi tu từ khi còn rất nhỏ nên đã bị người nhà lãng quên theo thời gian, cả đời không ai đếm xỉa tới thầy đang làm gì, ở đâu hay sống ra sao. Anh chị em thầy cộng lại có hơn một tá nhưng chẳng ai bận tâm tới chuyện thầy ra dòng cưới vợ. Vì thế bên nhà gái phải chủ trì mọi việc từ A tới Z, từ đôi bông tai, chiếc nhẫn cưới cho đến sính lễ mâm quà, nhứt nhứt đều do đàng gái sắp đặt. Thiệt tình! cũng vì thông cảm cho hòan cảnh đon chiếc của thầy, có người nhà như không, không ai lo giúp chỉ dẫn cho nên bên nhà gái phải gánh hết trong việc hợp thức hóa cuộc chung sống cho con mình. Mình tốt với rể thì sau này nó sẽ tốt lại với con mình chớ có lỗ lã gì đâu. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, quan trọng là tình nghĩa một đời chớ sá gì vật chất chi ly trước mắt.

Bà dì và má cô Châu cũng khéo tính, đã mượn nhà một bà hàng xóm thân tình làm nhà đàng trai để từ đó bưng mâm qua nhà đàng gái chiếu lệ. Lễ vật cả thảy là tám mâm gồm có heo sữa quay, trầu cau, bốn chai rượu, bốn hộp trà, hai mâm trái cây, một mâm bánh bía, một mâm biscuits hiệu Lu của Pháp. Đàng gái nhận lễ vật và mời đàng trai (cũng do đàng gái đạo diễn) vào nhà, lên đèn cưới rồi chào ra mắt bà con từ già tới trẻ cho dù đã biết rành nhau quá xá nhưng cũng phải diễn tuồng cho đủ lễ bởi vì:

Thói đời hay chuộng bề ngòai

Làm cho đẹp mặt đẹp mày mới cam

Làm lễ xong, cả đám kéo nhau đến nhà hàng dự tiệc. Ba cô Châu là người làm lúa gạo nên đa số khách mời là bạn làm ăn. Bên thầy Nguyên thì chỉ cần một bàn là đủ cho các thầy giáo chung vui quắc cần câu với thầy. Ai uống rượu uống bia gì thì uống, còn thầy chỉ uống nước ngọt hay nước lã cầm cự chớ xưa nay chưa từng uống giọt rượu hay biết đến điếu thuốc bao giờ. Người thì nói cô dâu có phước gặp được người chồng có học thức lại đàng hòang chân chỉ không biết rượu chè bài bạc hút sách chi chi. Người thì cho là chàng rể tốt số cưới được con nhà tử tế hiền lành nề nếp. Và mọi người đều xúm nhau cụng ly chúc phúc cho đôi tân nương tân lang. Ôi thôi! Biết bao là lời tán tụng đẹp đẽ ngọt ngào đầu môi không ngớt. Tốt số hoặc có phước hay không thì phải về lâu về dài mới biết chớ bây giờ trước mắt mọi người thì hẳn nhiên là một họat cảnh hạnh phúc nhứt trong các màn kịch của cuộc đời.

Hôn nhân là một cuộc hành trình lâu dài suốt kiếp mà đám cưới chỉ là bước khởi đầu cho cuộc hành trình đó. Và rủi thay, “hôn nhân là mồ chôn ái tình”, là phản diện của tình yêu. Sau ngày cưới, sau tuần trăng mật, chung sống bên nhau hằng ngày mới biết chân tướng của nhau. Đường dài thăm thẳm, tương lai ai biết được, là một con đường được trải thảm hoa êm ả đẹp như trong truyện cổ tích hay đầy đá sỏi gập ghềnh, đất bằng dậy sóng?! Có đi trọn đường tình được hay không còn tùy ở sự nhẫn nhịn hy sinh và biết chia sẻ cảm thông với nhau của mỗi cặp vợ chồng…

Người Phương Nam

MÙI CỌP

Thanh Hương  Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

MÙI CỌP

– Anh ơi!

Tôi giả vờ ngủ.

Chúng tôi còn giận nhau. Thực ra tôi biết nàng trở về nhà vào lúc 12 giờ khuya. Nàng cởi bộ áo lấp lánh kim tuyến treo lên móc. Nàng vào phòng tắm. Tôi nghe tiếng chiếc gương xen nước chảy rào rào. Tôi nghe cả tiếng cửa phòng tắm mở. Nàng nhẹ nhàng lên giường nằm cạnh. Tôi nghe tất cả, nhưng tôi thấy lúc chưa phải để giải hòa. Chúng tôi đã giận nhau hơn một tuần nay.

– Anh đi ngủ gì sớm thế? – Nàng khẽ chạm vào vai tôi rồi nói nghe như một lời mời mọc.

– Mình ơi em vừa tắm xong – Nói xong nàng đột ngột lôi hẳn tôi quay lại. Nàng nói:

– Hôm nay em sẽ dành cho anh một sự ngạc nhiên !

Nàng ôm lấy tôi, mùi hương rất lạ thôi thúc tôi. Đó là mùi hoa hồng tôi chưa thấy nàng dùng đến bao giờ. Tôi tỉnh ngủ hẳn. Trong lòng tôi hiện tại là một cô gái mềm mại, dịu dàng và đặc biệt khác mọi lần là một mùi hương vô cùng quyến rũ. Mùi thơm đánh thức mọi giác quan. Nàng biến thành một phụ nữ hoàn toàn mới đối với tôi, và có lẽ đối với cả nàng. Tôi thấy trong cử chỉ của nàng một niềm vui thầm kín. Mấy ngày hờn trách nhau trước đây như tan biến đi cả.

Cuộc làm lành diễn ra như thế. Luôn luôn nàng tỏ ra là kẻ biết điều, còn tôi bao giờ cũng vẫn là một người cố chấp. Một tuần nay chúng tôi giận hờn nhau. Sự việc khá đơn giản.

Tôi bảo nàng bỏ nghề. Nàng không chịu. Tôi là giáo sư dạy toán tại một trường đại học danh tiếng. Còn nàng là một diễn viên và là người dạy thú. Nàng chuyên huấn luyện và biểu diễn với cọp. Kể về tiếng tăm nàng lừng lẫy hơn tôi rất nhiều. Thu nhập của nàng cũng gấp bội tôi. Nhưng tôi không chịu nổi cái nghề kỳ dị của nàng. Nàng nói:

“Em yêu lũ cọp. Chúng nó yêu em và em yêu nghề. Bỏ nghề này ra em biết làm gì? Thư ký hay bán hàng ư? Tìm một chỗ làm khó lắm. Nhưng còn tìm một thư ký thì dễ, còn tìm một người dạy thú như em thì rất khó. Em yêu cái không khí của gánh xiếc. Em sống quen trong cái khung cảnh này rồi”.

Nàng nói gì thì nói, tôi vẫn thấy cái nghề này nó kỳ quái thế nào.

Kể cũng lạ cho cuộc hôn nhân này. Chúng tôi có nghề nghiệp và tính cách hoàn toàn khác hẳn nhau. Trước khi thành hôn, đã có người bảo chúng tôi không làm sao được hạnh phúc bên nhau lâu dài được đâu. Lúc đó cả tôi và nàng bất chấp mọi lời khuyên. Nàng có một ý tưởng ngộ nghĩnh mà khi đó tôi cũng cho rằng vô cùng thú vị. Nàng nói con chúng ta sẽ dũng mãnh như hổ và thông tuệ như anh!

Tôi xin kể lại buổi đầu gặp nhau. Lúc đó tôi chếnh choáng men say vì mấy cốc rượu của sinh viên trong buổi lễ phát thưởng cuối năm học. Có một sinh viên đưa ý kiến và được các bạn tán thành ngay: hay là chúng ta kéo nhau đi xem xiếc. Lần cuối cùng trong đời tôi đến rạp xiếc là lúc tôi lên chín. Từ đó đến nay tôi không để ý gì về loại hoạt động này.

Chúng tôi bước vào rạp xiếc vừa đúng lúc một tràng pháo to hào hứng nổi lên. Nhiều người đứng lên tặng hoa cho một cô gái đang rực sáng trong bộ áo xiếc đầy kim tuyến. Một ngọn đèn rất sáng từ trên cao chiếu thẳng vào nụ cười rạng rỡ của nàng. Cạnh nàng là ba con cọp to lớn nằm phủ phục. Thú thật cả đời tôi chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng hùng tráng đến thế. Một cô gái nhỏ nhắn khuất phục được ba chúa sơn lâm! Bỗng một sinh viên ấn vào tay tôi bó hoa cẩm chướng màu huyết dụ nó đẩy tôi: lên tặng hoa người đẹp đi thầy. Lúc đó thực tình tôi như một cái máy. Lần đầu tiên trong đời tôi lên sân khấu tặng hoa cho một diễn viên, mà lại là diễn viên dạy thú.

Có lẽ nàng thấy bộ mặt ngờ nghệch và cặp mắt kính cận thị quá dày của tôi hoàn toàn lạc lõng giữa một khung cảnh ồn ào đầy sự kích động nên nàng tặng cho tôi một nụ cười:

“Chắc đây là lần đầu tiên ông đến xem chúng tôi biểu diễn?”

Lại gần, tôi thấy nàng rất đẹp. Một khuôn mặt thanh tú, mái tóc mềm óng ả như tơ. Có một điều mà tôi cho là khác thường là khuôn mặt nàng rất tươi nhưng hoàn toàn không một chút phấn son. Có lẽ nàng còn ánh lên trong ánh hào quang rực rỡ của sự thành công. Phải thú nhận rằng nghề nghiệp của tôi dù thành công đến mấy tôi cũng không bao giờ hy vọng có những giây phút được nhiều người ngưỡng mộ như thế này. Định mệnh đã xui khiến tôi nói với nàng một câu mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thốt ra với một người phụ nữ nào.

“Tôi vô cùng hâm mộ tài nghệ của cô. Sau buổi diễn, nếu cô vui lòng, – chúng ta sẽ gặp nhau tại…”.

Nàng nói rất khẽ: “Xin hân hạnh”.

Sau đó chúng tôi còn gặp nhiều lần. Chúng tôi thích nhau vì cảm thấy trong việc này có cái gì là lạ. Theo cách nói của nàng thì đấy là một cuộc kết hợp vô tiền khoáng hậu giữa sức mạnh và trí tuệ. Cuối cùng chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân. Lễ kết hôn của chúng tôi thật đáng nên kể lại. Bạn phía tôi gồm toàn thượng lưu trí thức. Mấy ông bà này rất tiết kiệm nụ cười và lời nói đùa. Trái lại phía nàng là cả một rừng náo nhiệt. Họ uống rượu, nói cười và phá phách như điên. Tôi bắt đầu yêu mến cái thế giới xiếc từ buổi gặp gỡ này. Anh chàng làm hề tung hứng lấy bốn chiếc đũa biểu diễn ngay trên bàn tiệc. Anh chàng ảo thuật lấy chiếc khăn ăn đậy lên tô xúp rồi hô: biến. Chẳng có cái gì biến ra cả. Chỉ có biến ra một trận cười hào hứng. Mấy chàng hề tha hồ chọc cười. Quý vị giáo sư lần hồi cũng trút bỏ bộ áo đạo mạo tham gia vào cuộc vui. Rượu chảy như suối. Một ông giáo sư cao hứng đứng lên hát tặng cô dâu và chú rể một bài. Bài hát Người đẹp và quái vật. Ông này muốn ám chỉ quái vật là tôi? Tôi thật xấu trai và có thể bảo quê mùa.

Một phụ nữ chuyên diễn màn nhào lộn hát thực to: “Đêm động phòng ông giáo coi chừng bị hổ vồ!”

Anh chàng biểu diễn trên lưng ngựa cũng gào to: “Cô dâu nhớ mang roi dạy hổ và phòng. Nếu “nó” làm ăn bôi bác thì quất cho mấy roi!”.

Đêm tân hôn cũng không bị hổ vồ cũng không bị quất roi nào. Nàng cao lớn và hùng dũng trên sàn diễn bao nhiêu, lại nhỏ nhắn và mềm mại trong lòng tôi bấy nhiêu. Tôi cũng không ngờ rằng tính tình nàng lại dịu dàng đến thế. Nàng bảo: “Người dạy thú cần nhất là phải yêu thương và dịu ngọt với chúng”. Có lẽ tôi hiện là một con thú được nàng yêu thương chiều chuộng đây.

Có một điều mãi mãi còn lại trong tôi sau đêm tân hôn là từ thân thể nàng và rõ nhất là trong mái tóc nàng có một mùi nồng hăng hắc. Sau này tôi mới biết đó là mùi cọp. Một mùi không thể nào quên được.

Thời kỳ trăng mật và những năm tháng qua đi. Chúng tôi sống với nhau khá hạnh phúc. Chúng tôi có rất ít thời gian gần nhau. Mùa đông nàng lưu diễn. Tôi thường đi đây đó dự hội nghị, hội thảo, có khi ở nước ngoài. Vì thế giây phút gặp nhau trong ngày đối với chúng tôi hết sức quý giá. Còn nghề của nàng không bao giờ hết những chuyện lý thú. Có hôm nàng kể chuyện con gấu Tô Tô không chịu ra diễn. Chẳng ai hiểu vì lẽ gì. Sau mới biết hôm đó đúng là ngày loài gấu ngủ đông. Chuyện con Đác Lắc, một con cọp cái dài hơn hai mét và nặng hơn một tạ rưỡi mà theo nàng là một con vật duyên dáng nhất là vừa sinh lứa con đầu lòng. Có hôm nàng kể một chuyện cảm động. Một con ngỗng trong khi trình diễn rủi ro bị con ngựa dẫm phải. Trước lúc chết nó dang đôi cánh rộng ôm lấy chủ nó. Chủ nó khóc sướt mướt thề rằng suốt đời không bao giờ huấn luyện một con ngỗng nào nữa. Có hôm nàng trao cho tôi xem một bức thư tỏ tình của một anh chàng nào đó giấu trong bó hoa trao tặng nàng…

Không biết các bạn đồng diễn có ai chế nhạo nàng về việc chọn một ông giáo làm chồng hay không. Còn tôi thì bị không ít lời chế diễu. Cô thư ký trẻ đẹp và chưa chồng ở trường tôi hỏi rằng có bị vợ bắt nhảy qua vòng lửa hay không? Có cô càng sỗ sàng thách thức hỏi tôi con cọp cái đó mỗi khi lên giường ngủ nó có cào xé và kêu gào hay không. Đôi khi chúng tôi ra phố, thiên hạ nhìn vợ chồng chúng tôi với cặp mắt tò mò. Tôi rất khó chịu. Về sau tôi không đi đâu với nàng nữa.

Chỉ có một lần tôi thấy nàng tỏ ra khổ sở, lúng túng về cái nghề đặc biệt của mình. Đó là lần chúng tôi đi dự sinh nhật một người bạn. Con chó của nhà chủ tỏ ra thân thiện với mọi người chỉ trừ có nàng. Nó sủa vang và còn muốn cắn xé. Quý bà nhìn nhau như thầm bảo: kìa xé mãnh hổ đang địch quân hổ! Lần đó tôi thấy nàng rất khó chịu và giục tôi về sớm.

Đến nhà nàng nói:

“Chắc anh khổ vì cái mùi cọp của em lắm phải không?”

Đây là lần đầu tiên tôi nghe đến đúng tên cái mùi hăng hắc này. Tôi trả lời để an ủi nhưng chắc không thực với lòng mình.

“Không, hoàn toàn không, anh yêu em và yêu luôn cái mùi cọp này”.

Nàng cười bảo: “Anh nói dối. Em biết anh không thích. Tháng trước anh viện cớ giường chật đòi ngủ riêng. Mọi người đàn bà được phép thơm tho còn em thì không”.

Tôi hỏi tại sao, nàng nói “Con vật, nhất là cọp, nó không nhận biết bằng mắt mà bằng mũi. Một mùi lạ có nghĩa là một kẻ thù!”. Nàng nói với một giọng ân hận và buồn buồn: “Em biết anh rất khó chịu vì em đem cái mùi của ác thú vào tận phòng ngủ…”

Đêm hôm sau cái đêm nàng làm lành với tôi, nàng gặp nạn. Tôi đến nơi thì nàng đã qua đời. Tôi đau đớn cùng cực ôm lấy nàng. Trong làn tóc nhung mượt và đen thẫm, tôi còn nghe thoang thoảng một mùi hương hoa hồng mà nàng đã tắm hôm qua! Dưới ánh đèn thật sáng và trong bộ áo xiếc thấm đầy máu, khuôn mặt nàng yên tĩnh như đang trong một giấc mơ. Tôi khóc. Cả đời tôi không bao giờ khóc như hôm nay. Tôi thét lên thật to: “Tại sao em biết rõ hơn ai hết mà em vẫn làm thế? Vì sự ích kỷ của tôi đấy ư?”. Tôi muốn gieo mình xuống chín tầng địa ngục để ăn năn.

Ngày hôm sau ông chủ gánh xiếc cho tôi biết tất cả sự việc diễn ra trong cái đêm hãi hùng ấy: “Con cọp Đác Lắc mấy ngày qua nó bệnh hoạn và trở tính hung dữ. Hình như nó thấy chồng nó bị đem nhốt qua chuồng một con cọp cái khác. Tôi có một linh cảm về một chuyện gì đó nên dặn cô ấy: hay là tối nay bỏ tiết mục xiếc cọp. Nhưng cô ấy cương quyết và rất tự tin nói với tôi: “Không, nhất định không. Người dạy thú không cho phép mình nhút nhát!” Rồi nàng kiêu hãnh tiến ra sàn diễn trong một tràng pháo tay cỗ vũ nồng nhiệt. Ba con thú tỏ ra phục tùng tuyệt đối dưới làn roi điều khiển của nàng. Theo đúng kịch bản. Con Đác Lắc chuẩn bị nhảy qua vòng lửa. Nàng đứng trước mặt nó và quất một roi vào không khí, con thú nhảy lên chiếc ghế cao. Nàng bước tới giơ cao vòng lửa. Bỗng nhiên tôi thấy con thú thu mình lại. Nó nhìn nàng bằng cặp mắt kỳ lạ. Tôi cho tay vào cây súng dưới áo mở nắp bao da. Thật là nhạy bén và bình tĩnh đến rợn người. Cô ấy nhận ra tất cả. Cô ấy biết con thú sắp sửa tấn công mình. Cô ấy cũng đã nhận ra việc tôi định dùng súng giết con thú. Cô thét lên: “Đừng bắn!” Cũng là lúc con Đác Lắc lao vào người cô như một khối đá. Trễ rồi, cô ấy đỗ xuống sàn diễn. Con ác thú say máu quay lại. Tôi nổ súng. Tôi nhào đến. Chiếc áo trắng lấp lánh kim tuyến loang máu. Cả rạp như đông cứng lại trong sự hãi hùng, tôi chỉ kịp nghe cô ta thì thào rất yếu: “Con Đác Lắc chết rồi sao? Tội nghiệp nó, nó còn bốn con dại. Không phải lỗi tại nó. Lỗi tại tôi…”

Qua giây phút hãi hùng đó, ban nhạc sực tỉnh, chơi một khúc quân hành rời rạc. Theo truyền thống nghề xiếc, bất cứ lâm vào tình trạng nào vẫn tiếp tục trình diễn. Nhưng không còn ai muốn xem, không còn ai muốn diễn. Cuối cùng ban nhạc cũng ngừng. Rồi thì cả rạp yên lặng như một nhà mồ. Mọi người đều trông tin từ bệnh viện. Một giờ sau nàng qua đời. Tôi lê ra sàn diễn nghẹn ngào báo tin. Khán giả không ai chịu ra về. Bao nhiêu là hoa đặt vào nơi nàng đã ngã xuống. Mấy anh hề hai mắt đỏ hoe thất thểu ra sân…

(Quý Thể)

Người lính Nhật cuối cùng đầu hàng

Kimtrong Lam  Lương Văn Can 75.

  Người lính Nhật cuối cùng đầu hàng

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Đầu tháng 2 năm 1974, một du khách Nhật Bản khi đang thám hiểm trên đảo Lubang ở Philippines bất ngờ phát hiện ra một người lính Nhật còn sống sót từ Đại chiến Thế giới lần thứ hai – trung úy Hiroo Onoda.

Sáng hôm ấy, khi du khách trẻ người Nhật Norio Suzuki đi sâu vào rừng rậm nhiệt đới để thám hiểm, anh chợt nhìn thấy một quái vật hình dạng người, râu tóc xồm xoàm, mình đầy vỏ cây đang ngồi ngấu nghiến ăn quả dại trên cành cây. Suzuki sợ quá nhảy thót lên. Quái vật nhìn thấy anh cũng vội trèo lên cao. Nhìn thấy động tác trèo cây của nó không giống động tác của loài khỉ, Suzuki đoán ra đây là người. Anh vội lại gần và hét to bằng tiếng Nhật: “Ai thế? Đừng sợ, tôi không làm hại ai đâu!” Suzuki bỗng nghe thấy quái vật kia hỏi lại cũng bằng tiếng Nhật: “Anh là người Nhật Bản hả?” Mừng quá, Suzuki thét to: “Tôi là người Nhật sang đây du lịch. Tại sao anh cũng biết tiếng Nhật? Anh là người nước nào?”

Một lát sau, quái vật kia nhảy từ trên cây xuống, miệng lắp bắp: “Người Nhật, người Nhật … thế là cuối cùng tôi đã nhìn thấy người Nhật rồi!”

Qua câu chuyện người ấy kể lại, Suzuki được biết đây là Hiroo Onoda, trung úy quân đội Nhật, sinh năm 1922, cách đây 29 năm từng phục vụ trong đội đặc nhiệm thuộc Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14 đóng trên đất Philippines; trong chiến đấu với quân Mỹ, đơn vị của anh bị tiêu diệt gần hết, anh cùng 3 người sống sót chạy vào rừng ẩn náu. Lính Mỹ đã lùng sục khắp vùng rừng núi này, sau đấy nhiều đợt quân đội và cảnh sát Philippines cũng vào rừng tìm kiếm và gọi hàng. Các bạn anh về sau một người đầu hàng, hai người bị bắn chết, riêng Onoda lẩn sâu hơn nên thoát được. Suốt từ năm 1945 tới nay, Onoda sống một mình trong rừng không hề ra ngoài gặp ai. Anh đoán đơn vị mình đã bị tiêu diệt, nhưng nước Nhật vẫn tồn tại và anh quyết sống đến ngày trở về.

Onoda sống nhờ ăn trái cây và các loại côn trùng, động vật nhỏ như chuột, sóc, chim, thỏ rừng bẫy được. Vì không có lửa nên anh phải ăn sống nuốt tươi mọi thứ. Bộ quân phục duy nhất đã rách hỏng từ lâu, mùa hè anh trần truồng như nhộng, mùa rét anh lấy vỏ và lá cây đan lại làm áo che thân. Tuy không có phương tiện xem ngày giờ, nhưng qua nhìn trăng tròn trăng khuyết, Onoda cũng đại khái biết được mình đã sống ở đây được 29 năm.

Đã nhiều lần Onoda gặp tai họa, như bị dã thú tấn công và bị ốm đau. Lòng dũng cảm và khôn ngoan đã giúp anh thắng được dã thú. Anh cũng dùng khẩu súng của mình bắn lại các binh sĩ Mỹ và Philippines vào rừng săn lùng lính Nhật lẩn trốn không đầu hàng. Trong ngót ba chục năm qua, Onoda đã bắn chết hơn ba chục và làm bị thương hơn 100 binh sĩ đối phương hoặc dân thường vào rừng sâu. Khẩu súng của anh hiện giờ vẫn tốt nguyên, luôn được lau chùi bóng loáng kèm túi đạn ngót 200 viên. Anh phải tự tìm các loại lá cây và rễ cây để chữa bệnh. Nhờ tinh thần kiên cường bất khuất, anh vượt qua mọi khó khăn, sống được đến ngày nay. Điều duy nhất Onoda khó chiến thắng nổi là cảm giác cô đơn u tịch.

Suzuki kể cho Onoda biết là nước Nhật đã thua trận và đầu hàng từ tháng 8 năm 1945, nhưng Onoda nhất định không tin. Mấy chục năm qua lính Mỹ và Philippines nhiều lần bắc loa gọi hàng cũng nói như vậy, nhưng anh đều cho đây là kẻ địch giăng bẫy. Anh nói: “Không thể được. Đại Nhật Bản không bao giờ thua ai cả!” Mặc cho Suzuki thuyết phục nên về Nhật sinh sống với đồng bào mình, Onoda kiên quyết ở lại trong rừng như cũ, tiếp tục cuộc chiến đấu vì niềm tin của mình. Thuyết phục mãi không có kết quả, Suzuki bèn chia tay ra về.

Trở về nước, Suzuki kể lại chuyện trên cho báo chí biết. Chính quyền Nhật bèn cử một viên chức tên là Isuzu sang tận cánh rừng Onoda ở để thuyết phục người lính già này từ bỏ ảo tưởng, trở về cuộc sống bình thường. Nhưng dù Isuzu trổ hết tài ăn nói, Onoda vẫn lắc đầu quầy quậy: “Tôi không bao giờ tin như vậy. Tôi khước từ mọi lời khuyến hàng và dụ hàng của bất cứ ai, trừ phi cấp trên cũ của tôi đến đây ra lệnh thì tôi mới tin đó là sự thật; nếu không tôi phải hết sức nêu cao cảnh giác và đấu tranh hết sức mình theo cách của tôi!”

Isuzu vô cùng thất vọng, chỉ còn biết hẹn với Onoda cách liên lạc lần sau, rồi ra về. Sau khi gọi điện về nước xin ý kiến, Isuzu viết thư báo cho Onoda biết Chính phủ Nhật sẽ cử cấp trên cũ của Onoda là thiếu tá Taniguchi thân chinh đến gặp Onoda để ra lệnh cho anh. Isuzu đặt lá thư này vào chỗ đã hẹn trước với Onoda. Và thế là đã diễn ra một nghi thức chấp nhận đầu hàng chưa từng có trong lịch sử loài người.

Quá trưa ngày 9 tháng 3 năm 1974, theo thư Isuzu báo trước, Hiroo Onoda đi đến chỗ hẹn thì trông thấy một chiếc lều vải có cắm cột cờ, trên đó lá quốc kỳ Nhật Bản bay phấp phới. Anh vô cùng xúc động vì đây chính là lá cờ đã cổ vũ anh kiên cường sống suốt 29 năm qua.

Isuzu ra đón. Onoda biết đã tới giờ phút gặp lại thủ trưởng năm xưa của mình. Anh vội bước đến, hướng về phía chiếc lều và hét to: “Báo cáo thiếu tá Taniguchi, trung úy Onoda có mặt!” Từ trong lều vang lên giọng nói quen thuộc: “Onoda hả, đúng là anh đấy chứ? Chờ một chút nhé, tôi đang mặc quân phục. Đây là lần cuối cùng tôi ra lệnh cho anh, cho nên phải làm đúng điều lệnh.”

Isuzu lấy máy ảnh chuẩn bị chụp lễ tiếp nhận đầu hàng cuối cùng của Đại chiến thế giới lần thứ hai. Taniguchi quân phục chỉnh tề bước ra. Onoda giơ tay chào theo kiểu chào của quân đội, dõng dạc nói: “Báo cáo trưởng quan Taniguchi, trung úy Onoda có mặt nghe lệnh ngài!”

Taniguchi chào lại và nói: “Onoda, anh giỏi lắm. Tôi rất mừng có một cấp dưới như anh.” Sau khi bắt tay Onoda, thiếu tá nghiêm giọng: “Lễ thụ hàng chính thức bắt đầu. Trung úy Onoda nghe đây! Lấy danh nghĩa là cấp trên của anh, tôi đọc mệnh lệnh như sau cho anh nghe.”

“Theo mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14 thuộc quân đội Hoàng gia Nhật Bản, 19 giờ ngày 10 tháng 9 năm 1945, đội đặc nhiệm Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân ra lệnh: ‘- Điều Một. Theo lệnh của Thiên Hoàng, Tập đoàn quân vùng 14 đình chỉ mọi hành động chiến đấu; – Điều Hai. Theo mệnh lệnh số A-2003 của Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14, đội đặc nhiệm của Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14 đình chỉ mọi hành động quân sự; – Điều Ba. Tất cả các đơn vị và cá nhân thuộc đội đặc nhiệm phải lập tức đình chỉ mọi hành động quân sự và quy tập theo sự chỉ huy của sĩ quan cấp trên nơi gần nhất. Trường hợp không tìm thấy sĩ quan cấp cao hơn thì phải đầu hàng quân đội Mỹ hoặc Philippines và nghe theo sự chỉ huy của họ.’ Mệnh lệnh đến đây là hết. Thiếu tá Taniguchi, đội đặc nhiệm Bộ tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14.”

Đọc xong lệnh, Taniguchi nhìn Onoda nói: “Mệnh lệnh chỉ có thế. Mọi chuyện khác chúng ta sẽ nói sau.”

Onoda hỏi: “Đầu hàng thật ạ?”

Taniguchi trả lời: “Phải chấp nhận thực tế thôi. Toàn bộ Hoàng quân Nhật Bản 29 năm trước đã chấp nhận đầu hàng, cả tôi cũng thế.”

Onoda lặng người đi một lúc lâu, rồi quỳ xuống “Oà” một tiếng khóc váng lên: “Chúng ta thật sự thua trận ư? Quân địch đã làm gì thế ạ? Bao năm nay tôi chiến đấu như một chiến sĩ du kích của Hoàng quân là để làm gì hả trời? 29 năm nay tôi ôm ấp một niềm tin Nhật Bản không bao giờ thua trận, lẽ nào bây giờ lại phải nghe một mệnh lệnh như vậy chăng? Lẽ ra tôi không nên đến gặp các vị. Chấp nhận đầu hàng như vậy thì sao còn có thể chiến đấu đến cùng vì vinh dự của nước Nhật, vì vinh dự của Thiên Hoàng, vì vinh dự của một quân nhân Đế quốc Nhật Bản được nữa?”

Taniguchi thân mật vỗ vai Onoda: “Trung úy Onoda, mọi việc đã kết thúc. Chiến tranh, ngót 30 năm cuộc sống hoang dã của anh, và cả huyền thoại ‘Nhật Bản bất bại’, tất cả đều đã chấm dứt rồi!”

Sau nhiều lần cố gắng, cuối cùng Taniguchi và Isuzu thuyết phục được Onoda theo họ trở về nước Nhật. Dân chúng Philippines có người đòi trị tội Onoda vì đã vô lý chống lại lệnh đầu hàng và gây thiệt hại lớn cho binh sĩ và dân thường Philippines. Nhưng Tổng thống nước này đã ân xá cho anh và tiếp kiến anh. Khi Onoda về nước, dân Nhật đón anh như một anh hùng tượng trưng cho tinh thần yêu nước.

Phải nhiều năm sau, Hiroo Onoda mới quen dần với cuộc sống ở quê nhà. Ông viết và xuất bản cuốn tự truyện “Cuộc chiến 29 năm không đầu hàng của tôi”. Ông từ chối gặp Thiên Hoàng rồi sang Brazil (nơi có nhiều người Nhật di cư từ xưa) làm nghề chăn nuôi. Sau khi lấy vợ, ông lại về quê cũ và mở một vườn trẻ. Hiroo Onoda qua đời năm 2014, thọ 92 tuổi./.

Nguyễn Hải Hoành biên tập dựa trên tài liệu nước ngoài.

Hình: Hiroo Onoda trong lễ đầu hàng ngày 10/03/1974 in Lubang, Philippines. Nguồn: Asahi Shimbun/Getty Images.

Những Nén Hương Thắp Muộn Trên Đỉnh Tiền Đồn 5 – Phạm Tín An Ninh

Những Nén Hương Thắp Muộn Trên Đỉnh Tiền Đồn 5 – Phạm Tín An Ninh

Kỳ 2

Tháng 7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng trình bày về cái chết của cha và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm xuống của cha mình. “Tờ trình ủy khúc” cũng đã thất lạc sau ngày mẹ Vinh qua đời.

Vinh được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, vì Thuần là người bạn đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44 BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đã hy sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm lòng, tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH còn đang sống khốn khổ ở quê nhà.

Tôi liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết rõ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đã hy sinh tại Tiền Đồn 5 ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của Trung Tá Phạm Văn Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở Nghĩa Lộ. Trung Tá Như là người may mắn sống sót nhưng bị thương và bị bắt làm tù binh trong trận này.

Tôi còn nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nhìn xuống con đường đất nối liền Kontum – Quảng Ngãi, lúc ấy bỏ hoang vì chiến tranh, nhưng không biết ở quãng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đã quá lâu, hơn 45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi tìm cách liên lạc với một số sĩ quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, vì phản đối một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lý, chắc chắn sẽ đưa Chi đoàn của mình vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ.

Anh đã từng đóng quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng đã từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này rất chính xác.

Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh :

“Hai hôm nay, chú đã liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44 với ba cháu) và vài người khác, đã tham dự các trận chiến trong cùng thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đã hy sinh, đặc biệt trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu Kontum.

Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đã có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu.

Ba cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngãi (lúc ấy bỏ hoang, không sử dụng từ lâu vì chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24.

Tiền Đồn 5 này nằm cách Thị Xã Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh, giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không tìm thấy tên trên Google Map, có lẽ vì hai địa danh quá nhỏ).

Đặc biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến Kontum, cháu tìm đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon Se Tieu nằm ở đâu.

Riêng ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974, nhưng chú Sơn và chú Khanh đang tìm hiểu từ những bạn bè có tham dự trận đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn.

Tiếc quá, nếu cháu còn giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Trình Ủy Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không tìm thấy xác đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rõ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ (địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh.

Thời gian đã quá lâu, mọi sự đã thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không còn. Tuy nhiên tất cả đều để lại trong lòng những người còn sống như các chú và nhất là cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi.

Các chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu tìm lại được những điều mà cháu từng mong ước…”

Vinh nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn qua Viber:

-Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có gì cháu sẽ gọi chú qua Viber.

Trời đã không phụ lòng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng chút bụi bẩn của một xã hội kim tiền, vô cảm, Vinh đã được tất cả mọi người giúp đỡ tận tình, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận tình hướng dẫn và giúp Vinh đến Tiền Đồn 5.

Vinh kể:

“Cháu đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn đồi thấp hơn nằm chung quanh thì còn thấy thấp thoáng. Nhiều người dân nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên vì đường khó đi, nhưng lòng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc.

Với sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi.

Sau một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân đồi của Tiền Đồn 5 thì không còn đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút, cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5.

Những bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương vãi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới đất, phần ló lên trên… là những gì cháu nhìn thấy trên khoảng đồi trống của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn năm nào vẫn còn hiển hiện, phảng phất nơi đây.

Nhìn những gì còn sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ lúc lên đây sương mù đã phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đã nằm lại nơi này, thì trời lại bỗng dưng ló nắng”.

Cuối cùng thì Vinh cũng đã đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đã nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đã tan cùng tro bụi.

Quỳ giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đã chết cho quê hương và lý tưởng cao đẹp của mình. Bốn mươi lăm năm, đã trải qua biết bao chia lìa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đã vươn lên, vượt qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xã hội mà cả gia đình mình từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố tình xô đẩy ra bên lề xã hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không còn nhân tính.

Nhưng cuối cùng, nhờ dòng máu của người cha còn luân lưu trong huyết quản, Vinh đã chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của chính mình, mà cao cả hơn, cũng giống như cha mình và những đồng đội của ông, Vinh đã thắng được lòng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và bất diệt nhất.

Vinh đã được mời lên nói chuyện ở các đài truyền hình, tọa đàm trong các buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc giả cả nước bình chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đã góp hết vào ngân quỹ của gia đình Hướng Dương.

Trong cuốn tự truyện của mình, Nguyễn Thế Vinh cho biết: “Chính những ngày tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đã làm nảy nở trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ thiệt thòi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh thần tích cực và độc lập nhất”.

Một nhà phê bình đã viết về cuốn tự truyện của Vinh:

“Cuốn sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết sức hồn nhiên trong cõi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy mình sắp bị đời xô ngã sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời”

Một nhạc sĩ tên tuổi đã từng thổ lộ: “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”.

Hầu hết học trò của Vinh đều bảo “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân”

Vinh dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng đội của ông đã hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của lòng biết ơn và hy vọng.

Vinh cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp tìm cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đã cùng hy sinh với cha Vinh. Xin hãy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm đặc biệt này. Người đầu tiên đã nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đã nằm lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy.

Điều may mắn là cậu ta còn giữ được “Tờ Trình Ủy Khúc” trong đó có ghi rõ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha anh đã hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết. Sau đó Vinh cũng đã liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đình Chính ở Sài Gòn, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để có thể liên lạc với gia đình những tử sĩ khác.

Cuộc chiến đã kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng mãi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới tìm đến được nơi cha mình đã hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nhìn hình ảnh người con trai chỉ còn một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, lòng tôi lắng xuống.

Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến:

“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Chỉ có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không tàn ác và man rợ như kẻ thù đã chiến thắng chúng tôi, những người có cùng dòng giống nhưng không hề có trái tim người.

PHẠM TÍN AN NINH

Kỳ trước

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1058780504899609&id=335287627248904

==========

LỄ CẦU SIÊU VÀ CHIÊU LINH ĐÃ DIỄN RA TẠI TIỀN ĐỒN 5 VÀO NGÀY 26.12.2019

Trong hình, từ phải sang trái:

Chị Việt Ly (ân nhân về từ Mỹ)** – cháu Nguyễn Quang Minh (con của cố Th.tá Nguyễn Thạnh TĐT 280 ĐPQ) -Cháu Nguyễn Đức Hợp (con của cố Th. tá PB Nguyễn Đức Vinh) – cháu Nguyễn Thế Vinh – cháu Dương Đình Chinh ( con của cố Th.tá Dương Đình Chính)- anh Vũ Phương Điền + anh Yên (em của TS1 Vũ Phương Lâm – (Riêng con gái của cố Đại úy Nguyễn Văn Hiệp (ĐĐT/ ĐĐCH) thì không leo núi nổi, nên nhờ cháu Chinh cầm bài vị luôn.)

May be an image of 9 people, people standing and outdoors

SÀI GÒN

SÀI GÒN

Mười ba tuổi, tui xách túi ni lông đựng bốn bộ quần áo rách, nhảy lên xe đò, trốn mẹ, đi Sài Gòn. Trong túi quần chỉ đủ tiền vé một chiều và miếng giấy ghi địa chỉ nhà cô ruột ở quận tám. Anh em giang hồ gọi là bỏ nhà đi bụi.

Trời vừa đứng bóng thì xe lên tới bến xe miền Tây. Không biết móc ra móc vô kiểu gì mà tui kiếm hết túi này tới túi nọ hổng thấy miếng giấy ghi địa chỉ đâu. Nhớ mang máng trong đầu, tui hỏi thăm đường rồi lếch thếch đi bộ qua quận tám.

Sài Gòn mênh mông và quá đỗi ồn ào nhộn nhịp đối với một đứa nhỏ mười ba tuổi quê kiểng chưa biết hết đường xá của cái thị xã nhỏ quê nhà. Tui vừa đi vừa sợ. Ở quê, người lớn hay kể những câu chuyện về Sài Gòn, thường là những câu chuyện cảnh báo về sự lừa gạt. Rằng ở Sài Gòn người ta ít có qua lại với nhau, nhà nào biết nhà nấy. Trong trí tưởng tượng của tui Sài Gòn là một nơi khá đáng sợ và phải hết sức cảnh giác. Sài Gòn cũng hấp dẫn tui bởi những ổ bánh mì thiệt bự thiệt dài thơm nức mùi bơ mà thỉnh thoảng trong xóm có người đi Sài Gòn mua về làm quà đem cho nhà tui một ổ ăn lấy thảo.

Chiều xuống, xe cộ nườm nượp và mỗi lúc lại đông hơn, tui cứ đi một bên lề vì không dám băng qua đường. Cứ vừa đi vừa chút chút lại ngó các biển hiệu coi mình tới đâu rồi chứ cũng không dám hỏi thăm nhiều. Tui không nhớ chính xác được tên đường và số nhà, phường tổ, chỉ mang máng nhớ nhà cô ở gần chợ Xóm Củi, cạnh cầu Chà Và. Cả ngày không ăn không uống gì, đói khát và mỏi rả rời nên càng lúc tui đi càng chậm hơn. Thành phố lên đèn, tui tới được chợ Xóm Củi. Đứng trước cái nhà bự chảng có cái biển tên chợ trên nóc tui mừng lắm vì biết mình gần lắm rồi. Rồi ngay sau đó tui hoảng hốt vì không còn biết đi lối nào nữa. Từ trưa đến giờ ít ra tui còn có một cái tên chợ Xóm Củi để hỏi thăm, giờ không còn biết phải hỏi thăm như thế nào nữa. Tui ngồi ở dạ cầu Chà Và, hoang mang, sợ hãi tăng lên khi trời mỗi lúc mỗi tối hơn. Vài người chạy xe ngang ngó nghiêng tui càng làm tui thêm sợ. Tui ngồi co rút người lại nhỏ nhất có thể, lấy cái bọc ni lông che phía trước để mong người ta đừng để ý đến mình.

“Đụ mẹ mày, chơi xong hổng trả tiền hả? Tao uýnh chết cha mày, thằng chó đẻ, thằng chó đẻ, mày đứng lại..”

Tui giựt mình vì tiếng la hét. Ngó sang bên thì thấy người đàn ông cởi trần chạy ra từ cái hốc nhỏ khuyết sâu vào trong lòng của dạ cầu, theo sau là một chị lớn tuổi áo không cài nút rượt theo, la hét chói lói. Tui mất hồn mất vía vội xách cái bọc lên bỏ chạy.

Chừng ngừng lại, tui không còn biết mình đang ở chỗ nào. Không dám hỏi đường để quay lại dạ cầu vì tui cảm thấy nó không còn an toàn nữa, cũng không biết phải đi đâu, cũng không dám ngồi vỉa hè để nghỉ chân. Tui bước lang thang, vô định. Tui cứ đi như vậy và không còn để ý đến biển hiệu tên đường coi mình đang ở đâu nữa. Nỗi sợ hình như đã biến mất, tui trống rỗng. Khuya dần. Đường phố ít người hơn. Tui chọn đi những con đường nhỏ nhỏ vì sợ chỗ đông người. Lang thang mãi đến lúc gặp một cái chợ ngay cạnh đường. Các sạp đã dẹp hết, trống trơn, không một bóng người. Tui an tâm rẽ vô, leo lên một cái sạp, chắc ban ngày người ta dùng để bán thịt vì mùi thịt sống bốc lên nồng nặc, tui dựa lưng vô cái cột ở góc sạp ngồi nghỉ rồi ngủ thiếp đi.

“Em ơi, ê, nhỏ ơi, nhỏ ơi!”

Tui thấy bàn chân mình có ai đó nắm lấy và tai mơ hồ nghe giọng của một người đàn ông văng vẳng, lấy hết sức lực tui đạp mạnh.

“Á.”

Tui lồm cồm bò dậy, tay quơ tìm cái bọc, dụi mắt rồi nhảy phắt dậy đứng trên cái sạp thủ thế để sẳn sàng bỏ chạy hoặc chiến đấu.

Người đàn ông bị tui đạp té ngồi bệt dưới đất đang lồm cồm đứng dậy.

“Ây ây, hổng có gì đâu, hổng có gì đâu, đừng sợ, đừng sợ. Tui thấy em nằm ngủ ở đây nên tui kêu tui hỏi thăm thôi.”

Tui dáo dác nhìn quanh, không thấy ai ngoài tôi và người đàn ông. Tui trừng trừng mắt nhìn người đàn ông, rồi lại đảo mắt nhìn quanh để tìm đường bỏ chạy vì nhắm thấy mình nhỏ xíu, không thể chống cự nếu anh ta túm được tui lần nữa. Tui nhận ra mình mắc một sai lầm nghiêm trọng khi chọn cái sạp quá gần mặt đường. Chắc lúc nãy tui mệt quá, thấy cái sạp thì leo lên ngồi nghỉ mà không tính đến việc ngủ quên và bị phát hiện. Nhìn ra đường, tui mong có người qua lại để có gì còn kêu cứu nhưng không có ai, không một chiếc xe nào chạy qua, chỉ thấy một chiếc xe đạp cũ dựng gần lề, tôi đoán của người đàn ông.

“Tui đi ngang qua thấy em nằm ở đây, tui ghé vô coi em có làm sao không sao lại nằm ngủ ở đây.”

Người đàn ông phủi phủi đít quần, dưới ánh đèn đường hắt vào, gương mặt người đàn ông gày gò, tầm ba mươi tuổi, giãn ra với nụ cười rộng, như thể để trấn an tui. Bớt sợ hơn, nhưng tui vẫn cảnh giác không trả lời, tui nhảy xuống khỏi cái sạp định bỏ đi.

” Nhỏ đói không? Anh có ổ bánh mì.”

Người đàn ông chỉ tay ra cái xe đạp. Rồi không đợi tui trả lời, anh nhanh chân bước ra dắt luôn cái xe vô dựng gần cái sạp, gỡ bọc bánh mì và bọc nước sâm treo trên ghi đông xe xuống, đoạn anh thót lên ngồi trên mặt sạp, đưa bọc bánh cho tui. Anh vỗ vỗ xuống mặt sạp thịt, gọi.

“Ngồi đây nè. Nhỏ ăn đi.”

Lúc này cái bụng tui bắt đầu kêu lên ro ro. Tui nửa muốn leo lên sạp ngồi và ăn bánh, nửa muốn bỏ đi. Nỗi sợ quay lại. Mấy bà mấy chị ở quê hay kể trên Sài Gòn này người ta hay dụ người bằng cách bỏ thuốc mê vô trong thức ăn nước uống. Như đọc được suy nghĩ của tui. Anh lấy cái bánh mì ra, bẻ đôi, cắn một miếng rồi đưa tui nửa còn lại. Anh uống một ngụm nước trong cái bọc rồi cũng đưa luôn cho tui. An tâm hơn nhiều và cũng quá đói khát, tui nhận nửa cái bánh và bọc nước, leo lên góc kia của cái sạp, ngồi xa anh ra để đề phòng, miệng lí nhí cảm ơn, rồi rón rén đưa miếng bánh lên miệng cắn. Người tui tan ra theo miếng bánh và ngụm nước sâm thơm thơm, ngọt lịm. Ở quê, nhà nghèo, hổng có mấy dịp tui được ăn những thứ này. Đói khát lắm nhưng tui không dám ăn nhanh, cứ cắn từng miếng nhỏ và cũng không dám nhai nuốt vội. Anh ngồi cười cười nhìn tui ăn rồi đưa luôn nửa cái bánh mì còn lại cho tui. Tui làm bộ lắc đầu như thể mình ăn chừng này là đủ. Tui vẫn không mở miệng nói gì, cặm cụi ăn.

“Nay anh đi làm về khuya, bữa nào anh cũng đi ngang qua đây.”

Tui gật đầu dạ lí nhí, chắc chỉ mình tui nghe thấy. Từ nhỏ, tui đã hầu như không nói chuyện, suốt ngày chỉ loanh quanh làm việc nhà xong thì rúc vào một góc đọc sách. Tui không biết nói chuyện. Con nít trong xóm không chơi với tui. Trong nhà tui cũng không chơi với các anh chị nhiều. Tui không thích nói vì cứ mỗi lần tui mở miệng ra thì bị người lớn đánh, quát mắng hoặc với bạn thì bị chúng giận. Thế giới của tui là sách, sách và chỉ có sách. Văn học, tiểu thuyết, triết học, tâm lý học, khoa học, chính trị…đống sách của ba, tui đọc láng không sót một chữ kể cả phụ lục, đọc đi đọc lại. Tui thích đắm chìm trong đó với những suy nghĩ của riêng mình hơn là phải giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tui luôn bối rối không thể hiểu nổi người khác nghĩ gì, tại sao họ lại nói dối, tại sao họ lại cãi nhau, tại sao họ lại cử xử kỳ lạ, tại sao tui lại bị đánh bị ghét vì nói thật trong khi ai cũng dạy tui phải nói thật, tại sao những người quanh tui luôn nói dối và được tin, tại sao người ta nói một đàng làm một nẻo… Tui sợ chỗ đông người. Tui sợ luôn việc bị đụng chạm, sợ bị nhìn thấy. Tui chỉ muốn ở một mình và mơ ước lớn nhất là đừng ai nói gì hay đụng vô người tui.

“Nè, nhỏ ăn luôn đi.”

“Anh ăn đi. Em…no rồi.”

Mãi tui mới cất được một câu và đó là là lần đầu tiên tui nói dối. Cái bụng tui làm phản, nó lập tức sôi lên ót ót rất to, không giấu vào đâu được.

“Anh cũng chưa ăn tối, nhưng mà chắc là em đói hơn, nè ăn đi nhỏ.”

Tui xấu hổ, cầm nửa cái bánh mì, người giãn ra vì đã bớt sợ nhiều, nửa cái bánh mì thịt đã làm tui hồi sức.

Đợi tui ăn xong anh mới tiếp tục hỏi thăm tại sao lại ngủ ở thớt thịt, đi đâu, ở đâu để anh đưa về. Ngắc ngứ một hồi tui cũng nói được cho anh biết tui làm mất tờ giấy ghi địa chỉ và giờ thì không tìm được nhà cô mà cũng không biết đi đâu.

Anh nghe xong bèn lên kế hoạch.

“Giờ vầy, khuya lắm luôn rồi, em cứ ngồi đây nghỉ đi, anh ngồi đây với em. Chờ chút nữa trời sáng anh chở em về chợ Xóm Củi rồi đưa em đi mấy đường loanh quanh tìm thử coi có gặp nhà cô em không, hén?! Em có biết nhà cô em làm gì không? Có buôn bán gì không?”

Tui sực nhớ nhà cô có xưởng sản xuất bạc cây. Tui định lên nhà cô với hi vọng xin cô cho tui được làm việc ở xưởng. Có một người anh họ con chú bác ở gần nhà tui đã lên đây làm cho cô, thỉnh thoảng anh về mọi người nói chuyện tui nghe lỏm được.

“Sáng anh chở em đi vòng vòng khu đó hỏi thăm thì chắc là tìm được thôi. Nếu không tìm được anh sẽ chở em ra bến xe mua vé cho em về quê, nghen.”

Tui rụt người lại như bị điện giựt, lắc đầu, tự nhiên mắt ầng ậc nước. Tui ráng kềm để đừng sụt sịt đặng giấu đi không cho anh thấy mình sắp khóc.

“Nhỏ không cho anh lựa chọn. Nhiệm vụ của anh nặng hơn rồi. Anh sẽ kiếm được nhà cô cho em.”

Tui thở ra một hơi dài, nhẹ nhỏm. Hai anh em ngồi hai góc trên cái thớt thịt, thỉnh thoảng anh hỏi gì tui trả lời câu đó rồi lại im lặng cúi gằm mặt không dám nhìn.

Sáng, anh chở tui đi. Anh đưa tui đi ăn sáng ở một hẻm nhỏ. Tui ăn hết tô bún xào, uống một ly nước sâm mát lạnh, người tỉnh hẳn. Lúc này tui mới thấy đường xa vì chạy rất lâu mới tới được chợ Xóm Củi. Hết một buổi sáng thì anh chở tui tới một căn nhà trên một con đường nhỏ, phía trước nhà chất nhiều cây gỗ cao su đã được xẻ nhỏ, phía hè đối diện có phơi nhiều bạc cây. Anh và tui đều ngầm hiểu chắc là đúng chỗ rồi.

“Anh chờ ở đây. Em vô coi phải nhà cô em không.”

Tui ngần ngừ rồi bước vô nhà, cô tui và các anh chị em họ của tui đang cưa xẻ tiện bào gỗ giữa mịt mù bụi mạt cưa và tiếng máy ầm ĩ. Cô thấy tui thì giật mình xong hỏi thăm mấy câu rồi dắt tui lên căn gác xép bằng gỗ nhỏ xíu biểu tui nghỉ ngơi rồi nói chuyện sau. Tui cất bọc quần áo rồi xin phép cô chạy ra ngòai đường báo tin anh biết đã tìm đúng nhà rồi.

“Anh an tâm rồi, em ở đây hén, ít bữa anh ghé qua thăm.”

Quay vô nhà, cô tui đứng ở cửa nhìn ra, cau mày hỏi.

“Con nói chuyện với thằng nào vậy?”

“Dạ. Con lạc đường, ảnh chở con đi tìm về được tới đây.”

Cô không nói gì thêm. Trưa đó cô cho tui gọi điện thoại bàn về cho một nhà giàu trong xóm mà cô có số để nhờ báo tin cho nhà tui yên tâm. Tui ở lại làm việc ở xưởng, phụ xỏ bạc cây, học cưa, bào, tiện..

Sau một tuần, tui ngồi xỏ bạc cây ở hiên mà bụng cứ thắc thỏm trông anh ghé lại thăm tui như đã hẹn. Một buổi chiều muộn, tui đang loay hoay hốt mạt cưa, dăm bào vô bao tải thì cô vô kêu.

“Ngà, thằng hôm bữa nó qua kiếm.”

Tui mừng rỡ chạy ra. Anh ngồi trên cái xe đạp cũ ở lề đường, toe miệng cười khi thấy tui. Anh phủi phủi mớ mạt cưa dính trên đầu tui, hỏi thăm tình hình, luôn miệng cười biểu vậy tốt rồi tốt rồi. Nói chuyện chưa được mấy câu, cô tui nãy giờ vẫn đứng ở cửa ngó ra, kêu giật giọng.

“Ngà. Vô làm cho xong đi.”

Tui chào anh. Trước khi quay đi, tui khoe nhỏ với anh tui làm có lương, bữa sau anh ghé chắc tui có tiền mời anh ăn bún xào. Anh gật gật, hẹn tuần sau ghé qua thăm tui nữa. Tui chạy vô nhà thì cô tui nạt.

“Biết người ta là ai mà nói chuyện lâu vậy? Biết ở Sài Gòn này lừa gạt nhiều lắm không? Từ nay không có nói chuyện với người lạ nữa nghe hông.”

Tui quay đầu ra nhìn anh, biết chắc rằng anh đã nghe thấy, anh quay xe vội vã đạp đi. Tui muốn hét lên với cô rằng anh không phải người lạ. Anh không phải người lạ. Anh không như cô nghĩ. Nhưng một cái gì đó chặn ngang ngực tui, y hệt như những khi tui bị ông anh kế và đám trẻ con ở quê vu oan, làm tui không thể nói được thành câu. Tui ú ớ rồi cúi đầu. Tui muốn chạy theo anh nhưng anh đã chạy xa một đoạn. Lủi thủi quay vô nhà, tui thấy nước mắt mình rớt xuống đống mạt cưa hốt dở.

Anh không bao giờ quay lại thăm tui thêm lần nào nữa. Tui không biết tên anh.

….

Mình trích đăng một đoạn hồi ức trong cuốn sách đang viết dở. Như một lời tri ân những con người bình dị, nghèo khó mà đầy tình người ở Sài Gòn. Những con người dưới đáy xã hội thường xuyên bị những người khác luôn nhân danh một điều gì đó để xúc phạm, sỉ nhục và coi thường. Những ngày tháng này họ càng đang phải lắt lay, chịu đựng hơn bao giờ hết.

Mảnh đất này đã nuôi sống bao người và họ, chính những người ở tầng đáy xã hội lại là những người luôn xòe bàn tay mình ra khi gặp kẻ khó. Ai cũng dễ dàng bắt gặp cảnh một chị bán cà phê vỉa hè móc túi cho thằng nghiện hai chục ngàn mà không hề băn khoăn cân nhắc tiền mình cho nó sẽ đi về đâu. Họ bị coi là ít học, nhưng họ sống bằng đạo lý của đất trời chứ không phải bằng thứ đạo đức đầy khôn ngoan đã và đang được rao giảng khắp nơi. Phải hiểu đạo lý thì mới có thể hiểu được người Sài Gòn. Cái gì không hợp đạo lý thì chẳng tồn tại được mãi mãi. Đời người dài thăm thẳm chẳng phải mỗi một kiếp này.

Đêm qua ngồi thiền theo lời kêu rủ của đứa bạn qua Facebook, tui nguyện hồi hướng mọi công đức mà mình có cho tất cả, mặc dù tui không biết trong đời mình tui có mần được gì xứng đáng để gọi là công đức hay chưa. Đứa bạn đổ bệnh sau nhiều ngày chạy tới chạy lui chăm lo cho bá tánh. Nó bệnh vì nhiễm virus hay vì mệt hay vì mớ kẽm gai làm nó không còn đi được nữa? Có thể là vì tất cả. Nó vẫn ngồi thiền lúc chín giờ tối hằng ngày cho đến hết tháng để cầu nguyện bình an cho tất cả.

Nguyện cầu bình an và tỉnh thức cho tất cả.

Hai Phụ Nữ Độc Thân – Điệp Mỹ Linh

Kimtrong Lam Lương Văn Can 75.

Hai Phụ Nữ Độc Thân – Điệp Mỹ Linh

Đang sắp hàng trong tiệm Hamburgers Fuddruckers, bà Dung nghe giọng nữ từ phía sau, hỏi bằng tiếng Anh:

-Bà ơi! Tí nữa bà ngồi bàn nào bà làm ơn cho tôi ngồi cùng bàn với.

Quay lui, thấy một phụ nữ Á Đông mang “mask”, bà Dung – cũng mang “mask” – có vẻ lưỡng lự, phân vân. Phụ nữ nhìn vào mắt bà Dung với ánh nhìn thiết tha, tiếp:

-Bà đừng ngại, tôi chích ngừa Covid-19 rồi.

Vừa khi đó, đến phiên bà Dung “order”. Bà Dung lại quay lui, ra dấu cho người phụ nữ Á Đông cùng bước theo bà. Sau khi “order” phần của Bà, bà Dung chỉ phụ nữ Á Đông và nói với cô Mễ đang nhận “order”:

-Cùng một “bill”; trao “bill” cho tôi. Tên tôi là Dora.

Phụ nữ Á Đông ngăn lại:

-Cảm ơn bà đã có nhã ý trả tiền cho bữa ăn của tôi. Nhưng lý do tôi muốn ngồi ăn cùng bàn với bà là vì tôi cô đơn lắm! Tôi chỉ muốn được cùng ngồi ăn với một người chứ không phải tôi không thể tự đài thọ bữa ăn của tôi.

-Tôi hiểu. Nhưng bà cho phép tôi được mời bà hôm nay.

-Thế thì lần sau tôi xin được mời bà. Bà đừng từ chối, nha!

-Vâng.

Sau khi chọn bàn, ngồi, chờ nhà hàng gọi trên máy phóng thanh, bà Dung hỏi bà Á Đông:

-Bà là người nước nào?

-Tôi tên Trang, người Việt; còn bà?

Bà Dung nói tiếng Việt:

-Tôi tên Dung. Hồi còn đi làm, nhân viên cùng phòng gọi tôi là Dora. Hân hạnh được biết chị.

-Chị gì! Em nhỏ hơn chị mà! Chị ở gần đây không?

-Dạ, gần, trong Senior Living in Sugar Land,

-Anh đâu mà chị phải ở trong đó?

-Ông ấy “đi” lâu rồi.

-Sorry, chị!

-Cảm ơn chị. “Ông xã” của chị đâu?

-Dạ, em “dẹp” ổng rồi!

Không muốn tò mò, Bà Dung nhìn ra cửa sổ, nhớ những buổi chiều quạnh vắng trong phòng 212 của ngôi chung cư rất nhiều phòng; nhưng mỗi phòng như một “nhà tù” sang trọng, chỉ “giam giữ” một người có mứt lương hưu trí cao – không nhận “giam” người phải nhờ chính phủ phụ trả một phần. Những lúc đó Bà chỉ ước mong được thấy bóng dáng một người hoặc là nghe tiếng nói của bất cứ ai – người thật chứ không phải từ TV/radio/youtube – nhưng quanh Bà chỉ là sự câm nín! Cuối tuần các con của Bà thường mời Bà đi ăn. Bà ăn một cách chậm rải vì thói quen, vì tuổi tác và cũng vì muốn kéo dài thời gian bên các con. Các con có vẻ sốt ruột; bởi vì các con của Bà còn phải “làm phận sự” đối với bên suôi gia của Bà nữa! Bà thăm hỏi và khuyên các cháu nên chăm chỉ học hành. Các con của Bà bảo Bà đừng “làm áp lực”, để các cháu tự lo liệu cho quen. Bà khuyên các cháu nên ăn cái này, không nên ăn cái kia, các con của Bà bảo Bà nói như thế có nghĩa là Bà chê các cháu không đủ hiểu biết, không thể tự lo thân. Bà khuyên các cháu phải cẩn thận, đừng tin người lạ. Các con của Bà bảo Bà làm cho các cháu sợ, mất tự tin. Khi nào biết cháu nào được điểm “A”, bà Dung cũng kín đáo cho cháu đó ít tiền. Không hiểu tại sao con của Bà biết được, thế là con của Bà cấm Bà cho cháu tiền; vì con của Bà bảo cho tiền để đứa bé phải “cắm đầu” học là đồng nghĩa với mua chuộc, tạo áp lực! Hãy để đứa bé tự phát triển! Đôi khi con của Bà đem cháu đến gửi trong vài tiếng đồng hồ. Bà Dung vui hẳn lên, lăng xăng hâm món này, cắt bánh kia, gọt trái nọ cho cháu ăn. Khi con của Bà trở lại, “bắt được quả tang”, thế là Bà phải nghe: “Con nói Mẹ hoài mà Mẹ cứ ‘baby’ nó. Mẹ để nó lớn với chứ. Mai mốt nó đi học xa làm thế nào nó tự lo cho nó được!”

Cuối cùng, bà Dung phải giữ khoảng cách với con, cháu. Khi nào muốn ăn món gì, Bà tự lái xe đến nhà hàng. Hôm nào mưa, không dám lái xe, đành ăn thức ăn trong “nhà già”!

Đang thầm tủi thân, bà Dung chợt so sánh cuộc đời quạnh hiu của Bà và những tấm hình của các cụ già bên Việt Nam: Cụ nào miệng cũng móm, lưng cũng còng, đi chân trần, vai quảy gánh. Mỗi đầu gánh vài trái ổi, trái xoài; đầu kia vài trái bắp luột, vài trái chuối, v.v… Sau khi so sánh, bà Dung thầm tạ ơn Trời Phật và không còn tủi thân nữa!

Đang bị phân tâm, bà Dung chợt nghe tiếng Trang:

-Ăn đi, chị! Bộ nhớ ảnh hay sao mà trông chị buồn quá vậy?

Không muốn thố lộ chuyện gia đình, bà Dung nói khác đi:

-Vợ chồng mấy mươi năm chứ ít sao! Khi còn sống, cứ cay đắng, gây gổ nhau, hơn thua nhau từng lời nói; khi không còn nữa thì tiếc nhớ âm thầm!

-Mình đàn bà, đa cảm; còn đàn ông, thời buổi này, con gái bên Việt Nam “rẻ rề”, mấy ổng muốn cỡ nào, giá nào cũng có!

-Chị còn trẻ, nếu về Việt Nam, cũng có nhiều đàn ông theo để được qua Mỹ.

-Em biết. Nhưng em chỉ muốn lấy nhau vì tình; còn lấy nhau chỉ để lợi dụng nhau thì…

Trang nhún vai, bỏ lửng câu nói. Bà Dung hỏi:

-Có lẽ cuộc tình của anh chị đẹp lắm; thế mà đổ vỡ. Uổng thật!

-Em có mấy bà bạn cũng ly dị chồng; có người thì con của họ ly dị. Dường như từ ngày sang đây, người mình ly dị nhiều hơn, phải không, chị?

-Có thể cuộc sống ở bên này căng thẳng, ít thì giờ cho nhau, vì thế, người trẻ ly dị; cũng có thể mấy ông bây giờ già, thích “gặm cỏ non”, mấy bà cũng già, không còn kiên nhẫn nữa!

-Người Mỹ có câu “Cỏ bên kia hàng rào xanh hơn.” Đúng Thật!

-Chị muốn “ám chỉ” mấy ông già thích “gặm cỏ non” đó hả?

-Không. Em muốn nói trường hợp của em.

-Trường hợp của chị như thế nào?

-Hồi ảnh còn ở với em, ảnh “cà chớn”, em chịu không được! Thấy mấy bà bạn sống không chồng sướng quá, muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, em ham. Ai dè…

-Tôi nghĩ, sự đổ vỡ nào cũng đến từ hai phía.

-Ảnh “cà chớn”, làm mất mặt em, làm em đau khổ thì em phải cho ảnh biết cái giá của sự đau khổ chứ!

-Như vậy thì chị trả thù chứ chị đâu còn thương yêu anh ấy nữa.

-Em còn thương ảnh mà! Nếu không còn thương, ai đau khổ làm chi!

-Gặp phải ông chồng “cà chớn” – mà chị vẫn còn thương – tại sao chị không dùng tình cảm để chinh phục lại ông ấy? Tôi chỉ bỏ cái gì tôi không thương, không thích thôi.

-Ảnh phản bội em mà em chinh phục ảnh lại để làm gì?

-Nếu chị lấy một ông khác, ai bảo đảm với chị rằng ông này sẽ chung tình với chị trọn đời?

Trang như bừng tĩnh. Bà Dung tiếp:

-Đàn ông sa ngã là chuyện bình thường. Tôi nghĩ, chồng mình “phải như thế nào đó” thì người phụ nữ khác mới lưu tâm, mới chinh phục. Trong khi người chồng đang cố chống chọi với tình cảm và sự quyến rũ của một phụ nữ khác mà bà vợ lại “hào sản”, “tặng” ông chồng cho phụ nữ đó thì… vô lý quá! Đó là chưa kể, chồng mình còn là Cha của các con, mình có bổn phận và trách nhiệm để con của mình có Cha “một cách đúng nghĩa”!

-Ước gì em được gặp và quen chị sớm hơn.

-Tại sao?

-Chỉ vì tự ái mà em làm đổ vỡ mọi hàn gắn!

-Nghĩa là anh chị đã thử hàn gắn rồi?

-Dạ, không phải em. Ảnh trở về, xin lỗi em, xin em cho ảnh quay lại; nhưng em buộc ảnh phải xin lỗi các con em. Ảnh không chịu, đi luôn!

-Đàn ông mà, chị! Đừng dồn họ vào cuối đường! Đa số đàn ông – nhất là đàn ông miền Nam Việt Nam – thường quan niệm “Chết vinh hơn sống nhục”. Và, tôi nhớ, đã đọc đâu đó câu: “I’d rather die on my feet, than live on my knees”(1), cho nên, nếu còn thương yêu chồng, xin đừng tự ái, hãy mở rộng vòng tay. Mình giữ chồng không những mình giữ người mình thương yêu mà mình còn có bổn phận phải giữ người Cha cho các con của mình nữa!

Trang thật sự xúc động. Vừa khi đó, trên máy phóng thanh gọi “Dora”. Bà Dung cùng Trang vừa đi về phía quày nướng “Hamburgers” vừa thì thầm:

-Trong những người nổi tiếng trên thế giới có ba phụ nữ ghen rất cao thượng. Chính sự cao thượng của ba bà này đã “níu chân” được ba vị Tổng Thồng hào hoa của Hoa Kỳ.

-Ghen mà cũng có “ghen cao thượng” và ghen “hạ cấp” nữa sao, chị?

-Có chứ. Ghen hạ cấp như vụ cô Quờn đốt chồng và vũ nữ Cẩm Nhung bị tạc “acid”, bên Việt Nam.

-Em biết hai vụ đó. Còn ai ghen cao thượng?

Cả hai im lặng, nhận “Hamburgers”, quay sang lấy dao, nĩa rồi đến quày “xà- lách” lấy các loại rau. Vừa ngồi vào bàn, bà Dung vừa lấy “mask” ra vừa đáp:

-Bà Jacqueline Kennedy, bà Hillary Clinton và bà Melania Trump.

Trang cũng lấy “mask” cho vào ví, than:

-Vợ Tổng Thống mà cũng khổ vì tình!

-Phụ nữ nào yêu chồng cũng – không ít thì nhiều – khổ vì tình! Chị thấy, bà Jacqueline Kennedy con nhà gia thế, trẻ đẹp, trí thức mà hoàn cảnh đưa đẩy để Tổng Thống Kennedy gặp nữ minh tinh Marilyn Monroe rồi Marilyn Moroe “ỏng ẹo” hát bài Mừng Sinh Nhật để tặng Tổng Thống Kennedy. Báo chí và các phương tiện truyền thông quốc tế làm “rùm beng”.

-Rồi bà Jacqueline Kennedy phản ứng như thế nào?

-Bà Jacqueline chỉ im lặng, vẫn tươi cười, xinh đẹp, quý phái xuất hiện cạnh Tổng Thống Kennedy trong tất cả mọi sự kiện.

-Còn bà Hillary Clinton?

-Bà Clinton là một phụ nữ rất can đảm và “cao tay ấn”. Trong sự việc giữa Tổng Thống Clinton và Monica Lewinsky – nhân viên trong Tòa Bạch Ốc vào thời ông Clinton làm Tổng Thống – nếu bà Clinton không khôn khéo, có thể ông Clinton đã bị bãi chức hoặc phải từ chức rồi!

– “Ghê” vậy!

Vừa nói bà Dung vừa lấy iPhone ra:

-Để tôi tìm bài này, chị đọc qua cho vui.

Sau khi mở link, bà Dung trao iPhone cho Trang.

https://en.wikipedia.org/wiki/Hillary_Clinton…

Trang đoc và chú ý vài đoạn: “… After the evidence of President Clinton’s encounters with Lewinsky became incontrovertible, she issued a public statement reaffirming her commitment to their marriage…”

“…In her 2003 memoir, she would attribute her decision to stay married to a love that has persisted for decades…”

“…In October 2018, Hillary stated in an interview on CBS News Sunday Morning that Bill was right to not resign from office, and that Bill’s affair with Lewinsky did not constitute an abuse of power because Lewinsky ‘was an adult’.”

Trao iPhone lại cho bà Dung, Trang cười:

-Bà Clinton bản lĩnh thật! Em rất nể phục những phụ nữ biết giữ thể diện cho chồng con.

-Giữ thể diện cho chồng con hay giữ thể diện cho bất cứ ai cũng là một cách để giữ thể diện cho chính mình đó, chị!

Trang thoáng giật mình. Không biết bao nhiêu lần Trang muốn “ ‘làm’ con nhỏ đó một trận cho nó biết thân”, nhưng bị các con của nàng can ngăn. Vì bị các con ngăn cản, Trang nghĩ rằng các con “hùa” với Cha chứ không thương Mẹ, cho nên, Trang tự động xa lánh các con. Hậu quả, không những Trang mất chồng mà Trang cũng mất con! Để che giấu nỗi đau trong lòng, Trang chuyển đề tài:

-Còn bà Melania Trump thì sao, chị?

-Bà Melania Trump là một phụ nữ rất đáng thương! Nhiều người thấy rõ sự chịu đựng dai dẳng của Bà dành cho cựu Tổng Thống Trump và đức hy sinh của Bà dành cho Barron Trump – cậu con trai duy nhất của Bà ấy.

-Đúng đó, chị. Suốt bốn năm ông Trump làm Tổng Thống, chỉ một lần em thấy bà Melania “cười thật”; đó là khi Bà ấy và ông Trump rời tòa bạch ốc, bước về chiếc Marine One để rời Tòa Bạch Ốc trong ngày ông Trump hết nhiệm kỳ.

Trang vừa dứt lời, bà Dung nhìn đồng hồ tay, vội đứng lên:

-Sorry! Hôm nay tôi phải đi đón đứa cháu nội đang học Piano.

-Chị cho em số điện thoại của chị, được không?

Cả hai trao đổi số điện thoại, mang “masks” vào, rời bàn, cùng đi ra bãi đậu xe, nhưng về hai hướng khác nhau.

Đang bước chầm chậm, Trang chợt nghe tiếng ai “ngân nga” một tình khúc mà lúc nào vợ chồng giận nhau Huân – “Ex.” của Trang – cũng ôm Guitar, vừa “từng tưng” vừa “ngân nga” để nhớ thời chàng và Trang yêu nhau:

“…Ɲhớ hồi còn thơ,

Vai kề vai trong tiếng tơ.

Tuу xa vắng ta vẫn mong chờ,

Ϲhiều sao hờ hững lạnh lùng thờ ơ…” (2)

Trang nhìn quanh. Khu vực thương mại này của người Mỹ, tại sao lại có nhạc Việt Nam? Vừa khi đó, một người đàn ông tóc hoa râm xuất hiện giữa hai chiếc SUV đang đậu cạnh nhau, đi về phía cửa của Fuddruckers.

Trang hơi mất bình tĩnh, chưa biết phải hành động như thế nào thì Huân đã bước nhanh về phía nàng:

-Trang! Em khỏe không?

-Dạ, khỏe. Xe anh đâu?

-Anh bị tai nạn. Bảo hiểm thuê xe cho anh.

Trang thầm nghĩ: Hèn chi nghe tiếng hát mà không thấy xe của “ổng”; nhưng nói khác đi:

-Anh bị gì không? Mấy đứa nhỏ biết không mà sao không đứa nào cho em hay cả?

Nghe Trang xưng “em” và có vẻ quan tâm đến chàng, Huân thầm vui.

-Anh dặn các con đừng cho em hay.

-Tại sao?

-Xe bị “quẹt” bên hông thôi mà!

Trang chưa kịp nói gì, Huân tiếp:

-Em mới đến hay là em đã ăn xong rồi?

-Em ăn xong rồi.

-Anh mời em trở vào. Anh có nhiều điều muốn nói với em. Đi! Đi vào với anh.

Trang lẳng lặng bước cạnh Huân. Khi bước lên bậc cấp, Huân – theo thói quen của một người lịch lãm – đưa tay cho Trang vịn. Đang bước, Trang giả vờ mất thăng bằng, nghiêng người vào Huân. Huân vội choàng tay qua, giữ nàng thật chặt trong vòng tay. Trang vờ bẻn lẽn:

-Cảm ơn anh. Không có anh, em té rồi!

Nhìn Trang với ánh mắt nồng nàn, Huân vừa mỉm cười vừa bóp nhẹ bàn tay của nàng…

ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

1.- Bóng Chiều Tà của Nhật Bằng.

2.- Của Emiliano Zapata.