Người lính Nhật cuối cùng đầu hàng

Kimtrong Lam  Lương Văn Can 75.

  Người lính Nhật cuối cùng đầu hàng

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Đầu tháng 2 năm 1974, một du khách Nhật Bản khi đang thám hiểm trên đảo Lubang ở Philippines bất ngờ phát hiện ra một người lính Nhật còn sống sót từ Đại chiến Thế giới lần thứ hai – trung úy Hiroo Onoda.

Sáng hôm ấy, khi du khách trẻ người Nhật Norio Suzuki đi sâu vào rừng rậm nhiệt đới để thám hiểm, anh chợt nhìn thấy một quái vật hình dạng người, râu tóc xồm xoàm, mình đầy vỏ cây đang ngồi ngấu nghiến ăn quả dại trên cành cây. Suzuki sợ quá nhảy thót lên. Quái vật nhìn thấy anh cũng vội trèo lên cao. Nhìn thấy động tác trèo cây của nó không giống động tác của loài khỉ, Suzuki đoán ra đây là người. Anh vội lại gần và hét to bằng tiếng Nhật: “Ai thế? Đừng sợ, tôi không làm hại ai đâu!” Suzuki bỗng nghe thấy quái vật kia hỏi lại cũng bằng tiếng Nhật: “Anh là người Nhật Bản hả?” Mừng quá, Suzuki thét to: “Tôi là người Nhật sang đây du lịch. Tại sao anh cũng biết tiếng Nhật? Anh là người nước nào?”

Một lát sau, quái vật kia nhảy từ trên cây xuống, miệng lắp bắp: “Người Nhật, người Nhật … thế là cuối cùng tôi đã nhìn thấy người Nhật rồi!”

Qua câu chuyện người ấy kể lại, Suzuki được biết đây là Hiroo Onoda, trung úy quân đội Nhật, sinh năm 1922, cách đây 29 năm từng phục vụ trong đội đặc nhiệm thuộc Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14 đóng trên đất Philippines; trong chiến đấu với quân Mỹ, đơn vị của anh bị tiêu diệt gần hết, anh cùng 3 người sống sót chạy vào rừng ẩn náu. Lính Mỹ đã lùng sục khắp vùng rừng núi này, sau đấy nhiều đợt quân đội và cảnh sát Philippines cũng vào rừng tìm kiếm và gọi hàng. Các bạn anh về sau một người đầu hàng, hai người bị bắn chết, riêng Onoda lẩn sâu hơn nên thoát được. Suốt từ năm 1945 tới nay, Onoda sống một mình trong rừng không hề ra ngoài gặp ai. Anh đoán đơn vị mình đã bị tiêu diệt, nhưng nước Nhật vẫn tồn tại và anh quyết sống đến ngày trở về.

Onoda sống nhờ ăn trái cây và các loại côn trùng, động vật nhỏ như chuột, sóc, chim, thỏ rừng bẫy được. Vì không có lửa nên anh phải ăn sống nuốt tươi mọi thứ. Bộ quân phục duy nhất đã rách hỏng từ lâu, mùa hè anh trần truồng như nhộng, mùa rét anh lấy vỏ và lá cây đan lại làm áo che thân. Tuy không có phương tiện xem ngày giờ, nhưng qua nhìn trăng tròn trăng khuyết, Onoda cũng đại khái biết được mình đã sống ở đây được 29 năm.

Đã nhiều lần Onoda gặp tai họa, như bị dã thú tấn công và bị ốm đau. Lòng dũng cảm và khôn ngoan đã giúp anh thắng được dã thú. Anh cũng dùng khẩu súng của mình bắn lại các binh sĩ Mỹ và Philippines vào rừng săn lùng lính Nhật lẩn trốn không đầu hàng. Trong ngót ba chục năm qua, Onoda đã bắn chết hơn ba chục và làm bị thương hơn 100 binh sĩ đối phương hoặc dân thường vào rừng sâu. Khẩu súng của anh hiện giờ vẫn tốt nguyên, luôn được lau chùi bóng loáng kèm túi đạn ngót 200 viên. Anh phải tự tìm các loại lá cây và rễ cây để chữa bệnh. Nhờ tinh thần kiên cường bất khuất, anh vượt qua mọi khó khăn, sống được đến ngày nay. Điều duy nhất Onoda khó chiến thắng nổi là cảm giác cô đơn u tịch.

Suzuki kể cho Onoda biết là nước Nhật đã thua trận và đầu hàng từ tháng 8 năm 1945, nhưng Onoda nhất định không tin. Mấy chục năm qua lính Mỹ và Philippines nhiều lần bắc loa gọi hàng cũng nói như vậy, nhưng anh đều cho đây là kẻ địch giăng bẫy. Anh nói: “Không thể được. Đại Nhật Bản không bao giờ thua ai cả!” Mặc cho Suzuki thuyết phục nên về Nhật sinh sống với đồng bào mình, Onoda kiên quyết ở lại trong rừng như cũ, tiếp tục cuộc chiến đấu vì niềm tin của mình. Thuyết phục mãi không có kết quả, Suzuki bèn chia tay ra về.

Trở về nước, Suzuki kể lại chuyện trên cho báo chí biết. Chính quyền Nhật bèn cử một viên chức tên là Isuzu sang tận cánh rừng Onoda ở để thuyết phục người lính già này từ bỏ ảo tưởng, trở về cuộc sống bình thường. Nhưng dù Isuzu trổ hết tài ăn nói, Onoda vẫn lắc đầu quầy quậy: “Tôi không bao giờ tin như vậy. Tôi khước từ mọi lời khuyến hàng và dụ hàng của bất cứ ai, trừ phi cấp trên cũ của tôi đến đây ra lệnh thì tôi mới tin đó là sự thật; nếu không tôi phải hết sức nêu cao cảnh giác và đấu tranh hết sức mình theo cách của tôi!”

Isuzu vô cùng thất vọng, chỉ còn biết hẹn với Onoda cách liên lạc lần sau, rồi ra về. Sau khi gọi điện về nước xin ý kiến, Isuzu viết thư báo cho Onoda biết Chính phủ Nhật sẽ cử cấp trên cũ của Onoda là thiếu tá Taniguchi thân chinh đến gặp Onoda để ra lệnh cho anh. Isuzu đặt lá thư này vào chỗ đã hẹn trước với Onoda. Và thế là đã diễn ra một nghi thức chấp nhận đầu hàng chưa từng có trong lịch sử loài người.

Quá trưa ngày 9 tháng 3 năm 1974, theo thư Isuzu báo trước, Hiroo Onoda đi đến chỗ hẹn thì trông thấy một chiếc lều vải có cắm cột cờ, trên đó lá quốc kỳ Nhật Bản bay phấp phới. Anh vô cùng xúc động vì đây chính là lá cờ đã cổ vũ anh kiên cường sống suốt 29 năm qua.

Isuzu ra đón. Onoda biết đã tới giờ phút gặp lại thủ trưởng năm xưa của mình. Anh vội bước đến, hướng về phía chiếc lều và hét to: “Báo cáo thiếu tá Taniguchi, trung úy Onoda có mặt!” Từ trong lều vang lên giọng nói quen thuộc: “Onoda hả, đúng là anh đấy chứ? Chờ một chút nhé, tôi đang mặc quân phục. Đây là lần cuối cùng tôi ra lệnh cho anh, cho nên phải làm đúng điều lệnh.”

Isuzu lấy máy ảnh chuẩn bị chụp lễ tiếp nhận đầu hàng cuối cùng của Đại chiến thế giới lần thứ hai. Taniguchi quân phục chỉnh tề bước ra. Onoda giơ tay chào theo kiểu chào của quân đội, dõng dạc nói: “Báo cáo trưởng quan Taniguchi, trung úy Onoda có mặt nghe lệnh ngài!”

Taniguchi chào lại và nói: “Onoda, anh giỏi lắm. Tôi rất mừng có một cấp dưới như anh.” Sau khi bắt tay Onoda, thiếu tá nghiêm giọng: “Lễ thụ hàng chính thức bắt đầu. Trung úy Onoda nghe đây! Lấy danh nghĩa là cấp trên của anh, tôi đọc mệnh lệnh như sau cho anh nghe.”

“Theo mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14 thuộc quân đội Hoàng gia Nhật Bản, 19 giờ ngày 10 tháng 9 năm 1945, đội đặc nhiệm Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân ra lệnh: ‘- Điều Một. Theo lệnh của Thiên Hoàng, Tập đoàn quân vùng 14 đình chỉ mọi hành động chiến đấu; – Điều Hai. Theo mệnh lệnh số A-2003 của Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14, đội đặc nhiệm của Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14 đình chỉ mọi hành động quân sự; – Điều Ba. Tất cả các đơn vị và cá nhân thuộc đội đặc nhiệm phải lập tức đình chỉ mọi hành động quân sự và quy tập theo sự chỉ huy của sĩ quan cấp trên nơi gần nhất. Trường hợp không tìm thấy sĩ quan cấp cao hơn thì phải đầu hàng quân đội Mỹ hoặc Philippines và nghe theo sự chỉ huy của họ.’ Mệnh lệnh đến đây là hết. Thiếu tá Taniguchi, đội đặc nhiệm Bộ tư lệnh Tập đoàn quân vùng 14.”

Đọc xong lệnh, Taniguchi nhìn Onoda nói: “Mệnh lệnh chỉ có thế. Mọi chuyện khác chúng ta sẽ nói sau.”

Onoda hỏi: “Đầu hàng thật ạ?”

Taniguchi trả lời: “Phải chấp nhận thực tế thôi. Toàn bộ Hoàng quân Nhật Bản 29 năm trước đã chấp nhận đầu hàng, cả tôi cũng thế.”

Onoda lặng người đi một lúc lâu, rồi quỳ xuống “Oà” một tiếng khóc váng lên: “Chúng ta thật sự thua trận ư? Quân địch đã làm gì thế ạ? Bao năm nay tôi chiến đấu như một chiến sĩ du kích của Hoàng quân là để làm gì hả trời? 29 năm nay tôi ôm ấp một niềm tin Nhật Bản không bao giờ thua trận, lẽ nào bây giờ lại phải nghe một mệnh lệnh như vậy chăng? Lẽ ra tôi không nên đến gặp các vị. Chấp nhận đầu hàng như vậy thì sao còn có thể chiến đấu đến cùng vì vinh dự của nước Nhật, vì vinh dự của Thiên Hoàng, vì vinh dự của một quân nhân Đế quốc Nhật Bản được nữa?”

Taniguchi thân mật vỗ vai Onoda: “Trung úy Onoda, mọi việc đã kết thúc. Chiến tranh, ngót 30 năm cuộc sống hoang dã của anh, và cả huyền thoại ‘Nhật Bản bất bại’, tất cả đều đã chấm dứt rồi!”

Sau nhiều lần cố gắng, cuối cùng Taniguchi và Isuzu thuyết phục được Onoda theo họ trở về nước Nhật. Dân chúng Philippines có người đòi trị tội Onoda vì đã vô lý chống lại lệnh đầu hàng và gây thiệt hại lớn cho binh sĩ và dân thường Philippines. Nhưng Tổng thống nước này đã ân xá cho anh và tiếp kiến anh. Khi Onoda về nước, dân Nhật đón anh như một anh hùng tượng trưng cho tinh thần yêu nước.

Phải nhiều năm sau, Hiroo Onoda mới quen dần với cuộc sống ở quê nhà. Ông viết và xuất bản cuốn tự truyện “Cuộc chiến 29 năm không đầu hàng của tôi”. Ông từ chối gặp Thiên Hoàng rồi sang Brazil (nơi có nhiều người Nhật di cư từ xưa) làm nghề chăn nuôi. Sau khi lấy vợ, ông lại về quê cũ và mở một vườn trẻ. Hiroo Onoda qua đời năm 2014, thọ 92 tuổi./.

Nguyễn Hải Hoành biên tập dựa trên tài liệu nước ngoài.

Hình: Hiroo Onoda trong lễ đầu hàng ngày 10/03/1974 in Lubang, Philippines. Nguồn: Asahi Shimbun/Getty Images.

Những Nén Hương Thắp Muộn Trên Đỉnh Tiền Đồn 5 – Phạm Tín An Ninh

Những Nén Hương Thắp Muộn Trên Đỉnh Tiền Đồn 5 – Phạm Tín An Ninh

Kỳ 2

Tháng 7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng trình bày về cái chết của cha và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm xuống của cha mình. “Tờ trình ủy khúc” cũng đã thất lạc sau ngày mẹ Vinh qua đời.

Vinh được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, vì Thuần là người bạn đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44 BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đã hy sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm lòng, tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH còn đang sống khốn khổ ở quê nhà.

Tôi liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết rõ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đã hy sinh tại Tiền Đồn 5 ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của Trung Tá Phạm Văn Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở Nghĩa Lộ. Trung Tá Như là người may mắn sống sót nhưng bị thương và bị bắt làm tù binh trong trận này.

Tôi còn nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nhìn xuống con đường đất nối liền Kontum – Quảng Ngãi, lúc ấy bỏ hoang vì chiến tranh, nhưng không biết ở quãng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đã quá lâu, hơn 45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi tìm cách liên lạc với một số sĩ quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, vì phản đối một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lý, chắc chắn sẽ đưa Chi đoàn của mình vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ.

Anh đã từng đóng quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng đã từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này rất chính xác.

Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh :

“Hai hôm nay, chú đã liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44 với ba cháu) và vài người khác, đã tham dự các trận chiến trong cùng thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đã hy sinh, đặc biệt trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu Kontum.

Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đã có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu.

Ba cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngãi (lúc ấy bỏ hoang, không sử dụng từ lâu vì chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24.

Tiền Đồn 5 này nằm cách Thị Xã Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh, giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không tìm thấy tên trên Google Map, có lẽ vì hai địa danh quá nhỏ).

Đặc biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến Kontum, cháu tìm đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon Se Tieu nằm ở đâu.

Riêng ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974, nhưng chú Sơn và chú Khanh đang tìm hiểu từ những bạn bè có tham dự trận đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn.

Tiếc quá, nếu cháu còn giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Trình Ủy Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không tìm thấy xác đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rõ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ (địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh.

Thời gian đã quá lâu, mọi sự đã thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không còn. Tuy nhiên tất cả đều để lại trong lòng những người còn sống như các chú và nhất là cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi.

Các chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu tìm lại được những điều mà cháu từng mong ước…”

Vinh nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn qua Viber:

-Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có gì cháu sẽ gọi chú qua Viber.

Trời đã không phụ lòng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng chút bụi bẩn của một xã hội kim tiền, vô cảm, Vinh đã được tất cả mọi người giúp đỡ tận tình, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận tình hướng dẫn và giúp Vinh đến Tiền Đồn 5.

Vinh kể:

“Cháu đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn đồi thấp hơn nằm chung quanh thì còn thấy thấp thoáng. Nhiều người dân nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên vì đường khó đi, nhưng lòng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc.

Với sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi.

Sau một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân đồi của Tiền Đồn 5 thì không còn đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút, cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5.

Những bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương vãi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới đất, phần ló lên trên… là những gì cháu nhìn thấy trên khoảng đồi trống của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn năm nào vẫn còn hiển hiện, phảng phất nơi đây.

Nhìn những gì còn sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ lúc lên đây sương mù đã phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đã nằm lại nơi này, thì trời lại bỗng dưng ló nắng”.

Cuối cùng thì Vinh cũng đã đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đã nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đã tan cùng tro bụi.

Quỳ giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đã chết cho quê hương và lý tưởng cao đẹp của mình. Bốn mươi lăm năm, đã trải qua biết bao chia lìa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đã vươn lên, vượt qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xã hội mà cả gia đình mình từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố tình xô đẩy ra bên lề xã hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không còn nhân tính.

Nhưng cuối cùng, nhờ dòng máu của người cha còn luân lưu trong huyết quản, Vinh đã chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của chính mình, mà cao cả hơn, cũng giống như cha mình và những đồng đội của ông, Vinh đã thắng được lòng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và bất diệt nhất.

Vinh đã được mời lên nói chuyện ở các đài truyền hình, tọa đàm trong các buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc giả cả nước bình chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đã góp hết vào ngân quỹ của gia đình Hướng Dương.

Trong cuốn tự truyện của mình, Nguyễn Thế Vinh cho biết: “Chính những ngày tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đã làm nảy nở trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ thiệt thòi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh thần tích cực và độc lập nhất”.

Một nhà phê bình đã viết về cuốn tự truyện của Vinh:

“Cuốn sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết sức hồn nhiên trong cõi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy mình sắp bị đời xô ngã sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời”

Một nhạc sĩ tên tuổi đã từng thổ lộ: “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”.

Hầu hết học trò của Vinh đều bảo “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân”

Vinh dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng đội của ông đã hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của lòng biết ơn và hy vọng.

Vinh cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp tìm cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đã cùng hy sinh với cha Vinh. Xin hãy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm đặc biệt này. Người đầu tiên đã nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đã nằm lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy.

Điều may mắn là cậu ta còn giữ được “Tờ Trình Ủy Khúc” trong đó có ghi rõ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha anh đã hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết. Sau đó Vinh cũng đã liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đình Chính ở Sài Gòn, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để có thể liên lạc với gia đình những tử sĩ khác.

Cuộc chiến đã kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng mãi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới tìm đến được nơi cha mình đã hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nhìn hình ảnh người con trai chỉ còn một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, lòng tôi lắng xuống.

Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến:

“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Chỉ có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không tàn ác và man rợ như kẻ thù đã chiến thắng chúng tôi, những người có cùng dòng giống nhưng không hề có trái tim người.

PHẠM TÍN AN NINH

Kỳ trước

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1058780504899609&id=335287627248904

==========

LỄ CẦU SIÊU VÀ CHIÊU LINH ĐÃ DIỄN RA TẠI TIỀN ĐỒN 5 VÀO NGÀY 26.12.2019

Trong hình, từ phải sang trái:

Chị Việt Ly (ân nhân về từ Mỹ)** – cháu Nguyễn Quang Minh (con của cố Th.tá Nguyễn Thạnh TĐT 280 ĐPQ) -Cháu Nguyễn Đức Hợp (con của cố Th. tá PB Nguyễn Đức Vinh) – cháu Nguyễn Thế Vinh – cháu Dương Đình Chinh ( con của cố Th.tá Dương Đình Chính)- anh Vũ Phương Điền + anh Yên (em của TS1 Vũ Phương Lâm – (Riêng con gái của cố Đại úy Nguyễn Văn Hiệp (ĐĐT/ ĐĐCH) thì không leo núi nổi, nên nhờ cháu Chinh cầm bài vị luôn.)

May be an image of 9 people, people standing and outdoors

SÀI GÒN

SÀI GÒN

Mười ba tuổi, tui xách túi ni lông đựng bốn bộ quần áo rách, nhảy lên xe đò, trốn mẹ, đi Sài Gòn. Trong túi quần chỉ đủ tiền vé một chiều và miếng giấy ghi địa chỉ nhà cô ruột ở quận tám. Anh em giang hồ gọi là bỏ nhà đi bụi.

Trời vừa đứng bóng thì xe lên tới bến xe miền Tây. Không biết móc ra móc vô kiểu gì mà tui kiếm hết túi này tới túi nọ hổng thấy miếng giấy ghi địa chỉ đâu. Nhớ mang máng trong đầu, tui hỏi thăm đường rồi lếch thếch đi bộ qua quận tám.

Sài Gòn mênh mông và quá đỗi ồn ào nhộn nhịp đối với một đứa nhỏ mười ba tuổi quê kiểng chưa biết hết đường xá của cái thị xã nhỏ quê nhà. Tui vừa đi vừa sợ. Ở quê, người lớn hay kể những câu chuyện về Sài Gòn, thường là những câu chuyện cảnh báo về sự lừa gạt. Rằng ở Sài Gòn người ta ít có qua lại với nhau, nhà nào biết nhà nấy. Trong trí tưởng tượng của tui Sài Gòn là một nơi khá đáng sợ và phải hết sức cảnh giác. Sài Gòn cũng hấp dẫn tui bởi những ổ bánh mì thiệt bự thiệt dài thơm nức mùi bơ mà thỉnh thoảng trong xóm có người đi Sài Gòn mua về làm quà đem cho nhà tui một ổ ăn lấy thảo.

Chiều xuống, xe cộ nườm nượp và mỗi lúc lại đông hơn, tui cứ đi một bên lề vì không dám băng qua đường. Cứ vừa đi vừa chút chút lại ngó các biển hiệu coi mình tới đâu rồi chứ cũng không dám hỏi thăm nhiều. Tui không nhớ chính xác được tên đường và số nhà, phường tổ, chỉ mang máng nhớ nhà cô ở gần chợ Xóm Củi, cạnh cầu Chà Và. Cả ngày không ăn không uống gì, đói khát và mỏi rả rời nên càng lúc tui đi càng chậm hơn. Thành phố lên đèn, tui tới được chợ Xóm Củi. Đứng trước cái nhà bự chảng có cái biển tên chợ trên nóc tui mừng lắm vì biết mình gần lắm rồi. Rồi ngay sau đó tui hoảng hốt vì không còn biết đi lối nào nữa. Từ trưa đến giờ ít ra tui còn có một cái tên chợ Xóm Củi để hỏi thăm, giờ không còn biết phải hỏi thăm như thế nào nữa. Tui ngồi ở dạ cầu Chà Và, hoang mang, sợ hãi tăng lên khi trời mỗi lúc mỗi tối hơn. Vài người chạy xe ngang ngó nghiêng tui càng làm tui thêm sợ. Tui ngồi co rút người lại nhỏ nhất có thể, lấy cái bọc ni lông che phía trước để mong người ta đừng để ý đến mình.

“Đụ mẹ mày, chơi xong hổng trả tiền hả? Tao uýnh chết cha mày, thằng chó đẻ, thằng chó đẻ, mày đứng lại..”

Tui giựt mình vì tiếng la hét. Ngó sang bên thì thấy người đàn ông cởi trần chạy ra từ cái hốc nhỏ khuyết sâu vào trong lòng của dạ cầu, theo sau là một chị lớn tuổi áo không cài nút rượt theo, la hét chói lói. Tui mất hồn mất vía vội xách cái bọc lên bỏ chạy.

Chừng ngừng lại, tui không còn biết mình đang ở chỗ nào. Không dám hỏi đường để quay lại dạ cầu vì tui cảm thấy nó không còn an toàn nữa, cũng không biết phải đi đâu, cũng không dám ngồi vỉa hè để nghỉ chân. Tui bước lang thang, vô định. Tui cứ đi như vậy và không còn để ý đến biển hiệu tên đường coi mình đang ở đâu nữa. Nỗi sợ hình như đã biến mất, tui trống rỗng. Khuya dần. Đường phố ít người hơn. Tui chọn đi những con đường nhỏ nhỏ vì sợ chỗ đông người. Lang thang mãi đến lúc gặp một cái chợ ngay cạnh đường. Các sạp đã dẹp hết, trống trơn, không một bóng người. Tui an tâm rẽ vô, leo lên một cái sạp, chắc ban ngày người ta dùng để bán thịt vì mùi thịt sống bốc lên nồng nặc, tui dựa lưng vô cái cột ở góc sạp ngồi nghỉ rồi ngủ thiếp đi.

“Em ơi, ê, nhỏ ơi, nhỏ ơi!”

Tui thấy bàn chân mình có ai đó nắm lấy và tai mơ hồ nghe giọng của một người đàn ông văng vẳng, lấy hết sức lực tui đạp mạnh.

“Á.”

Tui lồm cồm bò dậy, tay quơ tìm cái bọc, dụi mắt rồi nhảy phắt dậy đứng trên cái sạp thủ thế để sẳn sàng bỏ chạy hoặc chiến đấu.

Người đàn ông bị tui đạp té ngồi bệt dưới đất đang lồm cồm đứng dậy.

“Ây ây, hổng có gì đâu, hổng có gì đâu, đừng sợ, đừng sợ. Tui thấy em nằm ngủ ở đây nên tui kêu tui hỏi thăm thôi.”

Tui dáo dác nhìn quanh, không thấy ai ngoài tôi và người đàn ông. Tui trừng trừng mắt nhìn người đàn ông, rồi lại đảo mắt nhìn quanh để tìm đường bỏ chạy vì nhắm thấy mình nhỏ xíu, không thể chống cự nếu anh ta túm được tui lần nữa. Tui nhận ra mình mắc một sai lầm nghiêm trọng khi chọn cái sạp quá gần mặt đường. Chắc lúc nãy tui mệt quá, thấy cái sạp thì leo lên ngồi nghỉ mà không tính đến việc ngủ quên và bị phát hiện. Nhìn ra đường, tui mong có người qua lại để có gì còn kêu cứu nhưng không có ai, không một chiếc xe nào chạy qua, chỉ thấy một chiếc xe đạp cũ dựng gần lề, tôi đoán của người đàn ông.

“Tui đi ngang qua thấy em nằm ở đây, tui ghé vô coi em có làm sao không sao lại nằm ngủ ở đây.”

Người đàn ông phủi phủi đít quần, dưới ánh đèn đường hắt vào, gương mặt người đàn ông gày gò, tầm ba mươi tuổi, giãn ra với nụ cười rộng, như thể để trấn an tui. Bớt sợ hơn, nhưng tui vẫn cảnh giác không trả lời, tui nhảy xuống khỏi cái sạp định bỏ đi.

” Nhỏ đói không? Anh có ổ bánh mì.”

Người đàn ông chỉ tay ra cái xe đạp. Rồi không đợi tui trả lời, anh nhanh chân bước ra dắt luôn cái xe vô dựng gần cái sạp, gỡ bọc bánh mì và bọc nước sâm treo trên ghi đông xe xuống, đoạn anh thót lên ngồi trên mặt sạp, đưa bọc bánh cho tui. Anh vỗ vỗ xuống mặt sạp thịt, gọi.

“Ngồi đây nè. Nhỏ ăn đi.”

Lúc này cái bụng tui bắt đầu kêu lên ro ro. Tui nửa muốn leo lên sạp ngồi và ăn bánh, nửa muốn bỏ đi. Nỗi sợ quay lại. Mấy bà mấy chị ở quê hay kể trên Sài Gòn này người ta hay dụ người bằng cách bỏ thuốc mê vô trong thức ăn nước uống. Như đọc được suy nghĩ của tui. Anh lấy cái bánh mì ra, bẻ đôi, cắn một miếng rồi đưa tui nửa còn lại. Anh uống một ngụm nước trong cái bọc rồi cũng đưa luôn cho tui. An tâm hơn nhiều và cũng quá đói khát, tui nhận nửa cái bánh và bọc nước, leo lên góc kia của cái sạp, ngồi xa anh ra để đề phòng, miệng lí nhí cảm ơn, rồi rón rén đưa miếng bánh lên miệng cắn. Người tui tan ra theo miếng bánh và ngụm nước sâm thơm thơm, ngọt lịm. Ở quê, nhà nghèo, hổng có mấy dịp tui được ăn những thứ này. Đói khát lắm nhưng tui không dám ăn nhanh, cứ cắn từng miếng nhỏ và cũng không dám nhai nuốt vội. Anh ngồi cười cười nhìn tui ăn rồi đưa luôn nửa cái bánh mì còn lại cho tui. Tui làm bộ lắc đầu như thể mình ăn chừng này là đủ. Tui vẫn không mở miệng nói gì, cặm cụi ăn.

“Nay anh đi làm về khuya, bữa nào anh cũng đi ngang qua đây.”

Tui gật đầu dạ lí nhí, chắc chỉ mình tui nghe thấy. Từ nhỏ, tui đã hầu như không nói chuyện, suốt ngày chỉ loanh quanh làm việc nhà xong thì rúc vào một góc đọc sách. Tui không biết nói chuyện. Con nít trong xóm không chơi với tui. Trong nhà tui cũng không chơi với các anh chị nhiều. Tui không thích nói vì cứ mỗi lần tui mở miệng ra thì bị người lớn đánh, quát mắng hoặc với bạn thì bị chúng giận. Thế giới của tui là sách, sách và chỉ có sách. Văn học, tiểu thuyết, triết học, tâm lý học, khoa học, chính trị…đống sách của ba, tui đọc láng không sót một chữ kể cả phụ lục, đọc đi đọc lại. Tui thích đắm chìm trong đó với những suy nghĩ của riêng mình hơn là phải giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tui luôn bối rối không thể hiểu nổi người khác nghĩ gì, tại sao họ lại nói dối, tại sao họ lại cãi nhau, tại sao họ lại cử xử kỳ lạ, tại sao tui lại bị đánh bị ghét vì nói thật trong khi ai cũng dạy tui phải nói thật, tại sao những người quanh tui luôn nói dối và được tin, tại sao người ta nói một đàng làm một nẻo… Tui sợ chỗ đông người. Tui sợ luôn việc bị đụng chạm, sợ bị nhìn thấy. Tui chỉ muốn ở một mình và mơ ước lớn nhất là đừng ai nói gì hay đụng vô người tui.

“Nè, nhỏ ăn luôn đi.”

“Anh ăn đi. Em…no rồi.”

Mãi tui mới cất được một câu và đó là là lần đầu tiên tui nói dối. Cái bụng tui làm phản, nó lập tức sôi lên ót ót rất to, không giấu vào đâu được.

“Anh cũng chưa ăn tối, nhưng mà chắc là em đói hơn, nè ăn đi nhỏ.”

Tui xấu hổ, cầm nửa cái bánh mì, người giãn ra vì đã bớt sợ nhiều, nửa cái bánh mì thịt đã làm tui hồi sức.

Đợi tui ăn xong anh mới tiếp tục hỏi thăm tại sao lại ngủ ở thớt thịt, đi đâu, ở đâu để anh đưa về. Ngắc ngứ một hồi tui cũng nói được cho anh biết tui làm mất tờ giấy ghi địa chỉ và giờ thì không tìm được nhà cô mà cũng không biết đi đâu.

Anh nghe xong bèn lên kế hoạch.

“Giờ vầy, khuya lắm luôn rồi, em cứ ngồi đây nghỉ đi, anh ngồi đây với em. Chờ chút nữa trời sáng anh chở em về chợ Xóm Củi rồi đưa em đi mấy đường loanh quanh tìm thử coi có gặp nhà cô em không, hén?! Em có biết nhà cô em làm gì không? Có buôn bán gì không?”

Tui sực nhớ nhà cô có xưởng sản xuất bạc cây. Tui định lên nhà cô với hi vọng xin cô cho tui được làm việc ở xưởng. Có một người anh họ con chú bác ở gần nhà tui đã lên đây làm cho cô, thỉnh thoảng anh về mọi người nói chuyện tui nghe lỏm được.

“Sáng anh chở em đi vòng vòng khu đó hỏi thăm thì chắc là tìm được thôi. Nếu không tìm được anh sẽ chở em ra bến xe mua vé cho em về quê, nghen.”

Tui rụt người lại như bị điện giựt, lắc đầu, tự nhiên mắt ầng ậc nước. Tui ráng kềm để đừng sụt sịt đặng giấu đi không cho anh thấy mình sắp khóc.

“Nhỏ không cho anh lựa chọn. Nhiệm vụ của anh nặng hơn rồi. Anh sẽ kiếm được nhà cô cho em.”

Tui thở ra một hơi dài, nhẹ nhỏm. Hai anh em ngồi hai góc trên cái thớt thịt, thỉnh thoảng anh hỏi gì tui trả lời câu đó rồi lại im lặng cúi gằm mặt không dám nhìn.

Sáng, anh chở tui đi. Anh đưa tui đi ăn sáng ở một hẻm nhỏ. Tui ăn hết tô bún xào, uống một ly nước sâm mát lạnh, người tỉnh hẳn. Lúc này tui mới thấy đường xa vì chạy rất lâu mới tới được chợ Xóm Củi. Hết một buổi sáng thì anh chở tui tới một căn nhà trên một con đường nhỏ, phía trước nhà chất nhiều cây gỗ cao su đã được xẻ nhỏ, phía hè đối diện có phơi nhiều bạc cây. Anh và tui đều ngầm hiểu chắc là đúng chỗ rồi.

“Anh chờ ở đây. Em vô coi phải nhà cô em không.”

Tui ngần ngừ rồi bước vô nhà, cô tui và các anh chị em họ của tui đang cưa xẻ tiện bào gỗ giữa mịt mù bụi mạt cưa và tiếng máy ầm ĩ. Cô thấy tui thì giật mình xong hỏi thăm mấy câu rồi dắt tui lên căn gác xép bằng gỗ nhỏ xíu biểu tui nghỉ ngơi rồi nói chuyện sau. Tui cất bọc quần áo rồi xin phép cô chạy ra ngòai đường báo tin anh biết đã tìm đúng nhà rồi.

“Anh an tâm rồi, em ở đây hén, ít bữa anh ghé qua thăm.”

Quay vô nhà, cô tui đứng ở cửa nhìn ra, cau mày hỏi.

“Con nói chuyện với thằng nào vậy?”

“Dạ. Con lạc đường, ảnh chở con đi tìm về được tới đây.”

Cô không nói gì thêm. Trưa đó cô cho tui gọi điện thoại bàn về cho một nhà giàu trong xóm mà cô có số để nhờ báo tin cho nhà tui yên tâm. Tui ở lại làm việc ở xưởng, phụ xỏ bạc cây, học cưa, bào, tiện..

Sau một tuần, tui ngồi xỏ bạc cây ở hiên mà bụng cứ thắc thỏm trông anh ghé lại thăm tui như đã hẹn. Một buổi chiều muộn, tui đang loay hoay hốt mạt cưa, dăm bào vô bao tải thì cô vô kêu.

“Ngà, thằng hôm bữa nó qua kiếm.”

Tui mừng rỡ chạy ra. Anh ngồi trên cái xe đạp cũ ở lề đường, toe miệng cười khi thấy tui. Anh phủi phủi mớ mạt cưa dính trên đầu tui, hỏi thăm tình hình, luôn miệng cười biểu vậy tốt rồi tốt rồi. Nói chuyện chưa được mấy câu, cô tui nãy giờ vẫn đứng ở cửa ngó ra, kêu giật giọng.

“Ngà. Vô làm cho xong đi.”

Tui chào anh. Trước khi quay đi, tui khoe nhỏ với anh tui làm có lương, bữa sau anh ghé chắc tui có tiền mời anh ăn bún xào. Anh gật gật, hẹn tuần sau ghé qua thăm tui nữa. Tui chạy vô nhà thì cô tui nạt.

“Biết người ta là ai mà nói chuyện lâu vậy? Biết ở Sài Gòn này lừa gạt nhiều lắm không? Từ nay không có nói chuyện với người lạ nữa nghe hông.”

Tui quay đầu ra nhìn anh, biết chắc rằng anh đã nghe thấy, anh quay xe vội vã đạp đi. Tui muốn hét lên với cô rằng anh không phải người lạ. Anh không phải người lạ. Anh không như cô nghĩ. Nhưng một cái gì đó chặn ngang ngực tui, y hệt như những khi tui bị ông anh kế và đám trẻ con ở quê vu oan, làm tui không thể nói được thành câu. Tui ú ớ rồi cúi đầu. Tui muốn chạy theo anh nhưng anh đã chạy xa một đoạn. Lủi thủi quay vô nhà, tui thấy nước mắt mình rớt xuống đống mạt cưa hốt dở.

Anh không bao giờ quay lại thăm tui thêm lần nào nữa. Tui không biết tên anh.

….

Mình trích đăng một đoạn hồi ức trong cuốn sách đang viết dở. Như một lời tri ân những con người bình dị, nghèo khó mà đầy tình người ở Sài Gòn. Những con người dưới đáy xã hội thường xuyên bị những người khác luôn nhân danh một điều gì đó để xúc phạm, sỉ nhục và coi thường. Những ngày tháng này họ càng đang phải lắt lay, chịu đựng hơn bao giờ hết.

Mảnh đất này đã nuôi sống bao người và họ, chính những người ở tầng đáy xã hội lại là những người luôn xòe bàn tay mình ra khi gặp kẻ khó. Ai cũng dễ dàng bắt gặp cảnh một chị bán cà phê vỉa hè móc túi cho thằng nghiện hai chục ngàn mà không hề băn khoăn cân nhắc tiền mình cho nó sẽ đi về đâu. Họ bị coi là ít học, nhưng họ sống bằng đạo lý của đất trời chứ không phải bằng thứ đạo đức đầy khôn ngoan đã và đang được rao giảng khắp nơi. Phải hiểu đạo lý thì mới có thể hiểu được người Sài Gòn. Cái gì không hợp đạo lý thì chẳng tồn tại được mãi mãi. Đời người dài thăm thẳm chẳng phải mỗi một kiếp này.

Đêm qua ngồi thiền theo lời kêu rủ của đứa bạn qua Facebook, tui nguyện hồi hướng mọi công đức mà mình có cho tất cả, mặc dù tui không biết trong đời mình tui có mần được gì xứng đáng để gọi là công đức hay chưa. Đứa bạn đổ bệnh sau nhiều ngày chạy tới chạy lui chăm lo cho bá tánh. Nó bệnh vì nhiễm virus hay vì mệt hay vì mớ kẽm gai làm nó không còn đi được nữa? Có thể là vì tất cả. Nó vẫn ngồi thiền lúc chín giờ tối hằng ngày cho đến hết tháng để cầu nguyện bình an cho tất cả.

Nguyện cầu bình an và tỉnh thức cho tất cả.

Hai Phụ Nữ Độc Thân – Điệp Mỹ Linh

Kimtrong Lam Lương Văn Can 75.

Hai Phụ Nữ Độc Thân – Điệp Mỹ Linh

Đang sắp hàng trong tiệm Hamburgers Fuddruckers, bà Dung nghe giọng nữ từ phía sau, hỏi bằng tiếng Anh:

-Bà ơi! Tí nữa bà ngồi bàn nào bà làm ơn cho tôi ngồi cùng bàn với.

Quay lui, thấy một phụ nữ Á Đông mang “mask”, bà Dung – cũng mang “mask” – có vẻ lưỡng lự, phân vân. Phụ nữ nhìn vào mắt bà Dung với ánh nhìn thiết tha, tiếp:

-Bà đừng ngại, tôi chích ngừa Covid-19 rồi.

Vừa khi đó, đến phiên bà Dung “order”. Bà Dung lại quay lui, ra dấu cho người phụ nữ Á Đông cùng bước theo bà. Sau khi “order” phần của Bà, bà Dung chỉ phụ nữ Á Đông và nói với cô Mễ đang nhận “order”:

-Cùng một “bill”; trao “bill” cho tôi. Tên tôi là Dora.

Phụ nữ Á Đông ngăn lại:

-Cảm ơn bà đã có nhã ý trả tiền cho bữa ăn của tôi. Nhưng lý do tôi muốn ngồi ăn cùng bàn với bà là vì tôi cô đơn lắm! Tôi chỉ muốn được cùng ngồi ăn với một người chứ không phải tôi không thể tự đài thọ bữa ăn của tôi.

-Tôi hiểu. Nhưng bà cho phép tôi được mời bà hôm nay.

-Thế thì lần sau tôi xin được mời bà. Bà đừng từ chối, nha!

-Vâng.

Sau khi chọn bàn, ngồi, chờ nhà hàng gọi trên máy phóng thanh, bà Dung hỏi bà Á Đông:

-Bà là người nước nào?

-Tôi tên Trang, người Việt; còn bà?

Bà Dung nói tiếng Việt:

-Tôi tên Dung. Hồi còn đi làm, nhân viên cùng phòng gọi tôi là Dora. Hân hạnh được biết chị.

-Chị gì! Em nhỏ hơn chị mà! Chị ở gần đây không?

-Dạ, gần, trong Senior Living in Sugar Land,

-Anh đâu mà chị phải ở trong đó?

-Ông ấy “đi” lâu rồi.

-Sorry, chị!

-Cảm ơn chị. “Ông xã” của chị đâu?

-Dạ, em “dẹp” ổng rồi!

Không muốn tò mò, Bà Dung nhìn ra cửa sổ, nhớ những buổi chiều quạnh vắng trong phòng 212 của ngôi chung cư rất nhiều phòng; nhưng mỗi phòng như một “nhà tù” sang trọng, chỉ “giam giữ” một người có mứt lương hưu trí cao – không nhận “giam” người phải nhờ chính phủ phụ trả một phần. Những lúc đó Bà chỉ ước mong được thấy bóng dáng một người hoặc là nghe tiếng nói của bất cứ ai – người thật chứ không phải từ TV/radio/youtube – nhưng quanh Bà chỉ là sự câm nín! Cuối tuần các con của Bà thường mời Bà đi ăn. Bà ăn một cách chậm rải vì thói quen, vì tuổi tác và cũng vì muốn kéo dài thời gian bên các con. Các con có vẻ sốt ruột; bởi vì các con của Bà còn phải “làm phận sự” đối với bên suôi gia của Bà nữa! Bà thăm hỏi và khuyên các cháu nên chăm chỉ học hành. Các con của Bà bảo Bà đừng “làm áp lực”, để các cháu tự lo liệu cho quen. Bà khuyên các cháu nên ăn cái này, không nên ăn cái kia, các con của Bà bảo Bà nói như thế có nghĩa là Bà chê các cháu không đủ hiểu biết, không thể tự lo thân. Bà khuyên các cháu phải cẩn thận, đừng tin người lạ. Các con của Bà bảo Bà làm cho các cháu sợ, mất tự tin. Khi nào biết cháu nào được điểm “A”, bà Dung cũng kín đáo cho cháu đó ít tiền. Không hiểu tại sao con của Bà biết được, thế là con của Bà cấm Bà cho cháu tiền; vì con của Bà bảo cho tiền để đứa bé phải “cắm đầu” học là đồng nghĩa với mua chuộc, tạo áp lực! Hãy để đứa bé tự phát triển! Đôi khi con của Bà đem cháu đến gửi trong vài tiếng đồng hồ. Bà Dung vui hẳn lên, lăng xăng hâm món này, cắt bánh kia, gọt trái nọ cho cháu ăn. Khi con của Bà trở lại, “bắt được quả tang”, thế là Bà phải nghe: “Con nói Mẹ hoài mà Mẹ cứ ‘baby’ nó. Mẹ để nó lớn với chứ. Mai mốt nó đi học xa làm thế nào nó tự lo cho nó được!”

Cuối cùng, bà Dung phải giữ khoảng cách với con, cháu. Khi nào muốn ăn món gì, Bà tự lái xe đến nhà hàng. Hôm nào mưa, không dám lái xe, đành ăn thức ăn trong “nhà già”!

Đang thầm tủi thân, bà Dung chợt so sánh cuộc đời quạnh hiu của Bà và những tấm hình của các cụ già bên Việt Nam: Cụ nào miệng cũng móm, lưng cũng còng, đi chân trần, vai quảy gánh. Mỗi đầu gánh vài trái ổi, trái xoài; đầu kia vài trái bắp luột, vài trái chuối, v.v… Sau khi so sánh, bà Dung thầm tạ ơn Trời Phật và không còn tủi thân nữa!

Đang bị phân tâm, bà Dung chợt nghe tiếng Trang:

-Ăn đi, chị! Bộ nhớ ảnh hay sao mà trông chị buồn quá vậy?

Không muốn thố lộ chuyện gia đình, bà Dung nói khác đi:

-Vợ chồng mấy mươi năm chứ ít sao! Khi còn sống, cứ cay đắng, gây gổ nhau, hơn thua nhau từng lời nói; khi không còn nữa thì tiếc nhớ âm thầm!

-Mình đàn bà, đa cảm; còn đàn ông, thời buổi này, con gái bên Việt Nam “rẻ rề”, mấy ổng muốn cỡ nào, giá nào cũng có!

-Chị còn trẻ, nếu về Việt Nam, cũng có nhiều đàn ông theo để được qua Mỹ.

-Em biết. Nhưng em chỉ muốn lấy nhau vì tình; còn lấy nhau chỉ để lợi dụng nhau thì…

Trang nhún vai, bỏ lửng câu nói. Bà Dung hỏi:

-Có lẽ cuộc tình của anh chị đẹp lắm; thế mà đổ vỡ. Uổng thật!

-Em có mấy bà bạn cũng ly dị chồng; có người thì con của họ ly dị. Dường như từ ngày sang đây, người mình ly dị nhiều hơn, phải không, chị?

-Có thể cuộc sống ở bên này căng thẳng, ít thì giờ cho nhau, vì thế, người trẻ ly dị; cũng có thể mấy ông bây giờ già, thích “gặm cỏ non”, mấy bà cũng già, không còn kiên nhẫn nữa!

-Người Mỹ có câu “Cỏ bên kia hàng rào xanh hơn.” Đúng Thật!

-Chị muốn “ám chỉ” mấy ông già thích “gặm cỏ non” đó hả?

-Không. Em muốn nói trường hợp của em.

-Trường hợp của chị như thế nào?

-Hồi ảnh còn ở với em, ảnh “cà chớn”, em chịu không được! Thấy mấy bà bạn sống không chồng sướng quá, muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, em ham. Ai dè…

-Tôi nghĩ, sự đổ vỡ nào cũng đến từ hai phía.

-Ảnh “cà chớn”, làm mất mặt em, làm em đau khổ thì em phải cho ảnh biết cái giá của sự đau khổ chứ!

-Như vậy thì chị trả thù chứ chị đâu còn thương yêu anh ấy nữa.

-Em còn thương ảnh mà! Nếu không còn thương, ai đau khổ làm chi!

-Gặp phải ông chồng “cà chớn” – mà chị vẫn còn thương – tại sao chị không dùng tình cảm để chinh phục lại ông ấy? Tôi chỉ bỏ cái gì tôi không thương, không thích thôi.

-Ảnh phản bội em mà em chinh phục ảnh lại để làm gì?

-Nếu chị lấy một ông khác, ai bảo đảm với chị rằng ông này sẽ chung tình với chị trọn đời?

Trang như bừng tĩnh. Bà Dung tiếp:

-Đàn ông sa ngã là chuyện bình thường. Tôi nghĩ, chồng mình “phải như thế nào đó” thì người phụ nữ khác mới lưu tâm, mới chinh phục. Trong khi người chồng đang cố chống chọi với tình cảm và sự quyến rũ của một phụ nữ khác mà bà vợ lại “hào sản”, “tặng” ông chồng cho phụ nữ đó thì… vô lý quá! Đó là chưa kể, chồng mình còn là Cha của các con, mình có bổn phận và trách nhiệm để con của mình có Cha “một cách đúng nghĩa”!

-Ước gì em được gặp và quen chị sớm hơn.

-Tại sao?

-Chỉ vì tự ái mà em làm đổ vỡ mọi hàn gắn!

-Nghĩa là anh chị đã thử hàn gắn rồi?

-Dạ, không phải em. Ảnh trở về, xin lỗi em, xin em cho ảnh quay lại; nhưng em buộc ảnh phải xin lỗi các con em. Ảnh không chịu, đi luôn!

-Đàn ông mà, chị! Đừng dồn họ vào cuối đường! Đa số đàn ông – nhất là đàn ông miền Nam Việt Nam – thường quan niệm “Chết vinh hơn sống nhục”. Và, tôi nhớ, đã đọc đâu đó câu: “I’d rather die on my feet, than live on my knees”(1), cho nên, nếu còn thương yêu chồng, xin đừng tự ái, hãy mở rộng vòng tay. Mình giữ chồng không những mình giữ người mình thương yêu mà mình còn có bổn phận phải giữ người Cha cho các con của mình nữa!

Trang thật sự xúc động. Vừa khi đó, trên máy phóng thanh gọi “Dora”. Bà Dung cùng Trang vừa đi về phía quày nướng “Hamburgers” vừa thì thầm:

-Trong những người nổi tiếng trên thế giới có ba phụ nữ ghen rất cao thượng. Chính sự cao thượng của ba bà này đã “níu chân” được ba vị Tổng Thồng hào hoa của Hoa Kỳ.

-Ghen mà cũng có “ghen cao thượng” và ghen “hạ cấp” nữa sao, chị?

-Có chứ. Ghen hạ cấp như vụ cô Quờn đốt chồng và vũ nữ Cẩm Nhung bị tạc “acid”, bên Việt Nam.

-Em biết hai vụ đó. Còn ai ghen cao thượng?

Cả hai im lặng, nhận “Hamburgers”, quay sang lấy dao, nĩa rồi đến quày “xà- lách” lấy các loại rau. Vừa ngồi vào bàn, bà Dung vừa lấy “mask” ra vừa đáp:

-Bà Jacqueline Kennedy, bà Hillary Clinton và bà Melania Trump.

Trang cũng lấy “mask” cho vào ví, than:

-Vợ Tổng Thống mà cũng khổ vì tình!

-Phụ nữ nào yêu chồng cũng – không ít thì nhiều – khổ vì tình! Chị thấy, bà Jacqueline Kennedy con nhà gia thế, trẻ đẹp, trí thức mà hoàn cảnh đưa đẩy để Tổng Thống Kennedy gặp nữ minh tinh Marilyn Monroe rồi Marilyn Moroe “ỏng ẹo” hát bài Mừng Sinh Nhật để tặng Tổng Thống Kennedy. Báo chí và các phương tiện truyền thông quốc tế làm “rùm beng”.

-Rồi bà Jacqueline Kennedy phản ứng như thế nào?

-Bà Jacqueline chỉ im lặng, vẫn tươi cười, xinh đẹp, quý phái xuất hiện cạnh Tổng Thống Kennedy trong tất cả mọi sự kiện.

-Còn bà Hillary Clinton?

-Bà Clinton là một phụ nữ rất can đảm và “cao tay ấn”. Trong sự việc giữa Tổng Thống Clinton và Monica Lewinsky – nhân viên trong Tòa Bạch Ốc vào thời ông Clinton làm Tổng Thống – nếu bà Clinton không khôn khéo, có thể ông Clinton đã bị bãi chức hoặc phải từ chức rồi!

– “Ghê” vậy!

Vừa nói bà Dung vừa lấy iPhone ra:

-Để tôi tìm bài này, chị đọc qua cho vui.

Sau khi mở link, bà Dung trao iPhone cho Trang.

https://en.wikipedia.org/wiki/Hillary_Clinton…

Trang đoc và chú ý vài đoạn: “… After the evidence of President Clinton’s encounters with Lewinsky became incontrovertible, she issued a public statement reaffirming her commitment to their marriage…”

“…In her 2003 memoir, she would attribute her decision to stay married to a love that has persisted for decades…”

“…In October 2018, Hillary stated in an interview on CBS News Sunday Morning that Bill was right to not resign from office, and that Bill’s affair with Lewinsky did not constitute an abuse of power because Lewinsky ‘was an adult’.”

Trao iPhone lại cho bà Dung, Trang cười:

-Bà Clinton bản lĩnh thật! Em rất nể phục những phụ nữ biết giữ thể diện cho chồng con.

-Giữ thể diện cho chồng con hay giữ thể diện cho bất cứ ai cũng là một cách để giữ thể diện cho chính mình đó, chị!

Trang thoáng giật mình. Không biết bao nhiêu lần Trang muốn “ ‘làm’ con nhỏ đó một trận cho nó biết thân”, nhưng bị các con của nàng can ngăn. Vì bị các con ngăn cản, Trang nghĩ rằng các con “hùa” với Cha chứ không thương Mẹ, cho nên, Trang tự động xa lánh các con. Hậu quả, không những Trang mất chồng mà Trang cũng mất con! Để che giấu nỗi đau trong lòng, Trang chuyển đề tài:

-Còn bà Melania Trump thì sao, chị?

-Bà Melania Trump là một phụ nữ rất đáng thương! Nhiều người thấy rõ sự chịu đựng dai dẳng của Bà dành cho cựu Tổng Thống Trump và đức hy sinh của Bà dành cho Barron Trump – cậu con trai duy nhất của Bà ấy.

-Đúng đó, chị. Suốt bốn năm ông Trump làm Tổng Thống, chỉ một lần em thấy bà Melania “cười thật”; đó là khi Bà ấy và ông Trump rời tòa bạch ốc, bước về chiếc Marine One để rời Tòa Bạch Ốc trong ngày ông Trump hết nhiệm kỳ.

Trang vừa dứt lời, bà Dung nhìn đồng hồ tay, vội đứng lên:

-Sorry! Hôm nay tôi phải đi đón đứa cháu nội đang học Piano.

-Chị cho em số điện thoại của chị, được không?

Cả hai trao đổi số điện thoại, mang “masks” vào, rời bàn, cùng đi ra bãi đậu xe, nhưng về hai hướng khác nhau.

Đang bước chầm chậm, Trang chợt nghe tiếng ai “ngân nga” một tình khúc mà lúc nào vợ chồng giận nhau Huân – “Ex.” của Trang – cũng ôm Guitar, vừa “từng tưng” vừa “ngân nga” để nhớ thời chàng và Trang yêu nhau:

“…Ɲhớ hồi còn thơ,

Vai kề vai trong tiếng tơ.

Tuу xa vắng ta vẫn mong chờ,

Ϲhiều sao hờ hững lạnh lùng thờ ơ…” (2)

Trang nhìn quanh. Khu vực thương mại này của người Mỹ, tại sao lại có nhạc Việt Nam? Vừa khi đó, một người đàn ông tóc hoa râm xuất hiện giữa hai chiếc SUV đang đậu cạnh nhau, đi về phía cửa của Fuddruckers.

Trang hơi mất bình tĩnh, chưa biết phải hành động như thế nào thì Huân đã bước nhanh về phía nàng:

-Trang! Em khỏe không?

-Dạ, khỏe. Xe anh đâu?

-Anh bị tai nạn. Bảo hiểm thuê xe cho anh.

Trang thầm nghĩ: Hèn chi nghe tiếng hát mà không thấy xe của “ổng”; nhưng nói khác đi:

-Anh bị gì không? Mấy đứa nhỏ biết không mà sao không đứa nào cho em hay cả?

Nghe Trang xưng “em” và có vẻ quan tâm đến chàng, Huân thầm vui.

-Anh dặn các con đừng cho em hay.

-Tại sao?

-Xe bị “quẹt” bên hông thôi mà!

Trang chưa kịp nói gì, Huân tiếp:

-Em mới đến hay là em đã ăn xong rồi?

-Em ăn xong rồi.

-Anh mời em trở vào. Anh có nhiều điều muốn nói với em. Đi! Đi vào với anh.

Trang lẳng lặng bước cạnh Huân. Khi bước lên bậc cấp, Huân – theo thói quen của một người lịch lãm – đưa tay cho Trang vịn. Đang bước, Trang giả vờ mất thăng bằng, nghiêng người vào Huân. Huân vội choàng tay qua, giữ nàng thật chặt trong vòng tay. Trang vờ bẻn lẽn:

-Cảm ơn anh. Không có anh, em té rồi!

Nhìn Trang với ánh mắt nồng nàn, Huân vừa mỉm cười vừa bóp nhẹ bàn tay của nàng…

ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

1.- Bóng Chiều Tà của Nhật Bằng.

2.- Của Emiliano Zapata.

Tôi Đi Học – Thanh Tịnh

Nay chia sẽ toàn bài. Nếu không có dịch thì cũng sắp tựu trường rồi

No photo description available.

Huy Chiêu  K75 LƯƠNG VĂN CAN

Hồi học tiểu học chắc ai cũng có đọc bài ” Tôi đi học ” này, nhưng chỉ có một đoạn ngắn thôi ( vì cho học sinh tiểu học đọc mà )

Nay chia sẽ toàn bài. Nếu không có dịch thì cũng sắp tựu trường rồi 

Tôi Đi Học

Thanh Tịnh

Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.

Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.

Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.

Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.

Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.

Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước o sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.

Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:

– Mẹ đưa bút thước cho con cầm.

Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:

– Thôi để mẹ nắm cũng được.

Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.

Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.

Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.

Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.

Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.

Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.

Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.

Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.

Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:

– Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại).

Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.

Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:

– Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.

Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.

Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.

– Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.

Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.

Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.

Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.

Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:

 Truyện ngắn của nhà văn Thanh Tịnh.

Thương Chùm Hoa Khế

 Van Pham

Đọc chậm rãi, cảm nhận từng ý mới thấu hiểu vì sao người già thích sống trong vùng trời kỷ niệm mà đôi khi chúng ta cho là lẩm cẩm…. Nhà văn Nhã Ca (Giải Khăn Xô Cho Huế) sẽ dẫn dắt chúng ta quay trở lại với dĩ vãng của từng người…

TRUYỆN NGẮN CUỐI TUẦN CỦA NHÃ CA

***

Thương Chùm Hoa Khế

Ông cụ Hồi mở cửa tiễn khách. Cũng là bạn hàng xóm thôi, nhưng gần nhà mà xa cửa ngõ. Hai khu vườn đâu lưng, cửa ngõ thì nằm ở hai con đường khác, đi bộ cũng mất mười lăm phút.

– “Bác về nghe. Rảnh sang chơi.”

– “Lóng rày hai cái chưn yếu lắm rồi bác. Muốn nhờ con cháu nó đưa đi thì sợ phiền bác ơi. Mình qua đây nó khác bển nhiều lắm.”

– “Biết.”

Ông cụ Hồi cười buồn. Điều này thì ông hiểu sâu đậm lắm rồi. Mà đâu phải bây giờ, cách đây mười năm trước, khi còn bà, cả hai đều khoẻ, họ cùng đi tập thể dục ở một câu lạc bộ của người Mỹ nhưng có rất đông người Việt Nam.

Hồi đó ông còn lái xe được, chớ bây giờ, hai chưn của ông có khá gì hơn ông bạn. Hồi đó, ở chỗ tập, bạn già hay tâm sự với nhau:

– “Tui hồi mới qua, làm việc như trâu để mua cái nhà cho lớn, nhiều phòng cho các con ở. Vậy mà thoáng cái, chúng nó đi hết trơn, hai vợ chồng tui thu dọn chết luôn.”

– “Sao không bán đi, kiếm cái nho nhỏ mà ở.”

– “Nhiều lúc cũng nghĩ vậy. Nhưng hổng có chỗ thì tụi nó không về. Lâu lâu tụi nó về thăm, dẫn thêm cháu vui nhà vui cửa lắm. Tụi nó đi đâu, đem sấp nhỏ về gửi, mình được coi cháu.”

Lại khoe con, khoe cháu:

– “Mấy đứa nhỏ qua Mỹ mà không nhiễm Mỹ chút nào hết trơn. Ôi thôi, đi lấy chồng lấy vợ, tuần nào cũng về, mua sắm đổ đi hổng hết. Tôi cứ phải ngăn, chửi tụi nó hoài.”

– Chắc không? Chưa nhiễm chớ đâu phải là không nhiễm. Ông cụ Hồ nghĩ trong lòng vậy.

– “Con cháu ngoại của tui mới hết xẩy. Nói tiếng Mỹ như gió. Dễ thương lắm kìa, nói chuyện với ông ngoại thì nói tiếng Việt, quay sang ba nó thì nói tiếng Mỹ ào ào. Giỏi quá.”

Bà muốn khoe bà có rể ngoại quốc.

Cũng ông bà già đó, chừng ba năm sau gặp lại thấy khác hẳn. Hôm xưa ông mập mạp, mặt đỏ như quan công, râu dài và mướt như Lưu Bị, bây giờ choắt lại, xanh xao. Còn bà, già nhanh không tưởng được. Nhớ tuổi thì chưa tới bảy mươi mà tiều tuỵ, còm cõi như bà cụ trên chín mươi sắp xuống lổ.

Nụ cười tươi tắn hãnh diện về con cháu đâu mất rồi.

Hỏi thăm. Nhà sang tên cho thằng con để nó trả phụ tiền nhà. Con vợ lộng quá, em út văng ra hết. Rồi đứa dọn ra, tách rời. Ông bà nhớ con nhớ cháu, lặn lội đi thăm. Lũ cháu lớn lên không dễ thương như khi còn nhỏ. Bà sụt sùi:

– “Mình nói gì nó cũng hổng hiểu. Nó nói gì mình cũng hổng hiểu nốt. Miết rồi còn hơn người dưng xa lạ.”

– “Bác ơi, tụi nó bận chết bỏ. Mình tới, nó đón về rồi mạnh chồng chồng đi, mạnh vợ vợ đi, trẻ con thì đi học. Bác biết hôn, tụi nhỏ hễ về tới chẳng chào hỏi ai, rút vô phòng, mở nhạc, điếc tai nhức óc…”

Ông cụ nuốt nước miếng. Già, miệng mau khô lắm, làm như phải nuốt nuốt liên tục:

– “Vậy là chóc ngóc hai ông bà già ở nhà, riết rồi lo cơm nước cho chúng mà…”

Bà cụ nói hớt:

– “Mà cũng hổng yên với chúng bác ơi. Mấy đứa cháu chê nấu nướng kiểu Việt Nam hôi nhà hôi cửa, nhăn nhăn nhó nhó làm mình tủi lắm kìa.”

– “Vậy chúng có ăn hôn?”

– “Ăn chớ sao không ăn, nhưng cằn nhằn chê thì cứ chê. Buồn trong bụng lắm, bác.”

Ông cụ thở ra một hơi dài mà làm như nỗi ấm ức còn nhiều lắm, nặng lắm, hổng ra hết.

– “Hai vợ chồng tui giờ thuê một phòng gần phố Bolsa ở, ngay góc chợ, bà già đi bộ ra mua đồ ăn về, hai ông bà già hẩm hiu với nhau, còn đỡ. Bà chủ nhà goá chồng, còn trẻ, nhưng thông cảm lắm, cho mượn bếp nấu nướng. Mai mốt tui đi trước hay bả đi trước, còn lại một đứa già mới là khổ hết biết, bác.”

Bà cụ lau nước mắt. Đàn bà dễ khóc mà.

– “Bởi, mình bỏ quê, bỏ nhà bỏ cửa qua đây là hy sinh nhiều lắm, cũng vì nghĩ tới sấp nhỏ mà thôi…”

Ông cụ gạt phăng:

– “Bà nữa. Mình xong bổn phận làm cha làm mẹ rồi, nước mắt chảy xuống có bao giờ chảy trở ngược chưa? Thấy con đứa nào cũng nên thân là mình yên tâm nhắm mắt được rồi.

– Bà à nhe, bà muốn gì nữa, lúc nào bà cũng có tui một bên…”

Lâu rồi, cụ Hồi không còn gặp ông bà già này nữa. Họ còn không? Chết? Có lẻ đôi? Ra sao rồi. Ông vẫn hay thắc mắc.

Ông già hàng xóm đã đi được một chặng đường. Ông già cũng lẻ bạn, như ông cụ Hồi, lẻ bạn. Tội nghiệp, đi thui thủi một mình. Kìa, sao lại băng ngang đường. Muốn tới cái công viên ngồi nữa sao? Dư thì giờ vậy, không ở lại chơi thêm, thiếu gì chuyện để nói. Hồi nãy cũng có cầm chưn:

– “Còn sớm mà bác, ở chơi một lúc.”

– “Bữa khác bác. Bữa nay…”

À, thì ra bữa nay tới công viên nữa. Ở đó, có vài ông già ngồi, có vài đứa con nít chơi. Ông bạn già này thèm nhìn con nít. Ổng đâu có thiếu cháu nội cháu ngoại chớ, nhưng ông lại ở với thằng con trai có vợ không sanh con, hai vợ chồng nuôi đến bốn con chó đủ giống trong nhà. Ông cụ nói:

– “Ôi thôi, hai đứa nó cưng bốn con chó, chắc con đẻ cũng cưng tới vậy thôi bác ơi. Tui nhớ lũ cháu mà chịu, tụi ở xa quá. Gọi điện thoại có khi nào được nói chuyện với tụi cháu đâu, làm như tụi nó hổng biết mình là ai.”

– “Thì tại bác hổng đi thăm tụi nó. Thời này, mua một cái vé máy bay, chỗ nào hổng tới được.”

– “Tui, hổng tới được thiệt đó bác. Tiền già lãnh, tháng nào cũng chia cho hai đứa con còn ở Việt Nam. Tụi nó khổ lắm. Nè bác, bển tui cũng có cháu nội, cháu ngoại. Tụi nó năm nào cũng gửi hình qua, coi ngộ lắm.”

Ông cụ mở cái ví luôn luôn sau túi quần, lôi ra mấy tấm ảnh con nít.

– “Bác thấy hôn. Tụi nó có tình nghĩa lắm kìa. Đứa nào cũng đề sau ảnh, chắc con mẹ hay thằng cha nó cầm tay cho viết, nè, bác coi…”

Sau mấy tấm ảnh, tấm thì đề cháu nhớ ông ngoại lắm, tấm thì ông nội ơi, cháu thương ông nội nhất đời. Trong khi ông cụ Hồi lấy kính, lau cho sạch để đọc thì ông bạn già rơm rớm nước mắt.

– “Nhớ sao hổng mua vé về. Lóng rày người ta về hà rầm, sợ thằng tây đen nào chớ.”

– “Tui cũng hổng về được. Bác nghĩ coi, có mấy trăm bạc, nhớ con nhớ cháu cứ gọi về Việt Nam, phải chia cái biu điện thoại để khỏi nghe con dâu cằn nhằn, nựng chó mà chửi mình. Còn lại, gửi cho hai đứa, nuôi mấy đứa cháu ở bển ăn học.”

Ông cụ Hồi lắc đầu, nghĩ trong lòng mà không nói ra miệng. Hèn chi. Ông bạn già đời rồi mà vẫn còn ngây thơ, bị phỉnh như thường. Cũng còn đỡ, con cháu nó phỉnh chớ ai vô đó.

Ông cụ Hồi trở vô. Căn nhà vắng như chùa bà Đanh. Chùa bà Đanh vắng như thế nào, ông cụ chỉ nghe câu nói trong nhân gian đó thôi, chớ cái nhà của cụ đang ở vắng thì buồn khủng khiếp lắm. Có bà bạn già, ở goá hồi còn trẻ kìa, có bữa gặp trong đám ma một người trong họ, mừng lắm:

– “Mèn ơi, lâu ơi là lâu, hổng thấy bác đâu…”

Sao thấy được. May đám bà con trong họ, thằng con mới lấy ngày nghỉ, đưa đi. Mà cũng bỏ ông ở đây rồi dọt lẹ, hẹn giờ tới đón. Chuyện qua chuyện về, người sống sắp hết đời rồi thì còn chi vui nữa. Bà bạn:

– “Tui nghĩ cho cùng mình cũng hổng nên trách ai mà trách mình là một gánh nặng cho con cái. Cũng may mình biết phòng thân bác ơi. Giờ còn chút tiền gửi nhà băng, lấy ra xài dần.

– Tui vô chùa ở với mấy bà bạn già, làm công quả, sớm tối kinh kệ, ngày qua mau lắm.”

– “Thấy chị thong thả, phẻ phắn quá, tui ham.”

– ” Ý cha, già rồi mà ăn nói vô ý vô tứ quá vậy. Còn ham kí gì nữa mà ham chớ. Ông cười gượng gạo.

– “Xin lỗi, già rồi, lẩm cẩm phải hôn. Tui muốn nói thấy chị… tiếng Phật nói là gì đó, à từ bi tự tại, thấy chị hổng lý chuyện đời nên mặt ít nhăn, còn tui, giống trái cau khô không chị.”

Bà già cười. Ông bạn chồng này, thủa xa xưa cũng một thời, nghe đâu có nhiều hồng nhan tri kỷ, cũng làm khổ đờn bà không ít.

– “Bác cũng nên đi chùa mà rửa nghiệp rồi mới đi thong thả.”

– “Được như chị thì phúc rồi. Tui hoàn cảnh khác, chị ơi.”

– “Biết. Lúc đầu tui cũng đeo con đeo cháu mà không nghĩ ra là đến một lúc nào đó, con cháu nó hết cần mình nên khổ hoài. Mèn ơi, cả ngày ở trong căn nhà rộng, đi ra đi vô, tủi thân khóc ơi là khóc. Cũng may tui “ngộ” sớm… Bữa nào rảnh, bác tới chùa chơi, hổng phải chỉ có người già không đâu, mà mấy cô tre trẻ cũng tới tu, thương nhau và giúp đỡ nhau, như một gia đình.”

Ông có hứa. Nhưng không đến thăm bà bạn già được. Bữa đó, bà bạn già, cũng còn giữ được tính nghịch ngợm thời trẻ, nhắc tới một hai hồng nhan tri kỷ trước đây của ông. Còn đẹp còn xấu gì nữa, tất cả đã già. Ông cũng không hề nghĩ là tìm dịp gặp lại, kể cả nếu nghe tin đám ma, chắc cũng hổng nên tới thắp nhang. Đến tro cốt của bà vợ để trên chùa, thằng con nghĩ tới đưa đi thăm thì ông tới thắp nhang, còn không thì thôi, đâu dám nhắc, sợ làm phiền.

Nếu căn nhà trống vắng này mà có chút tro cốt của bà, hay cái bàn thờ để ông hương khói cũng còn ấm áp chút đỉnh.

– “Sấp nhỏ chúng nó không chịu được mùi nhang, với lại nhà có cái phòng khách nhỏ xíu, bày bàn thờ trông kỳ cục lắm. Thôi đem má lên chùa, con sẽ chở ba đi thăm, má ở chùa nghe kinh mới sớm siêu thoát. Để ở nhà, ba nhớ, sanh bệnh, khổ.”

Ứa lệ mà chùi lén. Ông có một phòng nhỏ, ngăn bớt ở garage ba xe. Chỉ kê được cái gường, cái bàn nhỏ xíu còn chừa cho lối đi. Ông để cái ảnh nhỏ của bà lên bàn. Lúc đầu ông có cái bát nhang. Nhưng thằng con lại nói:

– “Ba cứ đốt nhang khói um sùm. Phòng ba gần máy ga, máy nước nóng. Ba hay quên, dễ cháy nhà lắm. Để con mua cây nhang điện về cho ba, cháy đỏ ngày đêm như ngọn đèn, ha ba. Ba thấy hợp lý không ba?”

Nói thì vậy, nhưng mấy năm rồi, thằng con chưa mua. Ông cũng không nhắc. Bà chết rồi, thôi ông cứ khấn nguyện trong lòng cũng được.

Ông cụ nhà đâu vườn mà có phúc hơn mình. Còn hai ba đứa con ở quê nhà mà lo. Còn lũ cháu chưa biết mặt, phỉnh cho mà khoái. Chớ ông, đã đem hết các con qua đây, bây giờ chúng nó đã dọn mỗi đứa một nơi. Lúc còn khoẻ, ông cũng đã tới ở với từng đứa. Cũng được tiếp đón, nhưng đó là lúc ban đầu.

Sau cùng, ông thấy không phải con ông tệ, mà ông không còn là một người cha nhanh nhẹn, tháo vát nuôi các con mà chỉ là một gánh nặng. Mà hai vợ chồng thằng con này thì muốn giữ ông, cũng vì lớn nhất, còn vướng chữ hiếu khó rũ bỏ.

Ông cụ Hồi đi ra đi vô. Vườn tược ông đã chăm xong. Bởi ông ít ngủ, dậy từ sáng sớm là ra vườn. Ông còn phải chăm hai cây mà bà vợ, lúc còn sống nưng niu nhứt. Đó là một cây khế và một cây nhãn Việt Nam. Bà nói:

– “Thấy người ta trồng thì ham, tui cũng muốn trồng. Nhưng tui biết, tui hổng đợi được thấy nó lớn, có trái đâu. Lâu lắm.”

Phải. Bây giờ cây nào cũng có hoa có trái, còn bà, xương cũng không còn, chỉ còn nhúm tro.

Cũng không phải nhà vắng rồi cứ đi ra đi vô hoài đâu. Sáng sớm, hai đứa cháu ăn sáng xong, vội vã đi học. Còn đống chén đĩa ở bếp, ông phải thu dọn dùm chúng. Gì nữa, à nhớ ra, sáng đứa con dâu dặn:

– “Ba, con giặt quần áo mà không sấy kịp. Ở nhà, ba bỏ qua máy sấy dùm con chút, được không?”

– “Ườm.”

– “Chết cha. Thùng rác chưa lôi ra… Trễ giờ rồi, con phải đi… Ba đem ra giùm, được không?”

Lúc nào cũng hỏi câu được không làm gì chớ. Bắt buộc là phải được. Việc kéo thùng rác nặng nhọc, cứ đến ngày, ông cụ còn ì à ì ạch kéo ra đường, tối lấy thùng vô. Thằng con trai có thấy, nhưng lơ đi. Ông cụ còn làm được để cho ông làm, dãn gân cốt, đỡ bệnh tật.

Đứa con dâu, lúc vắng mặt chồng quăng thúng đụng nia:

– “Mệt ơi là mệt, đi làm cả ngày như trâu như chó, sao có những người sướng chỉ ăn không ngồi rồi.”

Nó nói trống lổng thôi, đâu chỉ ai. Ông cụ Hồi đắng cả họng.

Làm xong thì tới trưa trợt. Lại thêm một chuyện tệ hại. Đã dặn sáng ra lấy cục thịt đông lạnh trong tủ đá ra ngoài để trưa kho rim mặn ăn với cháo. Đã nói già, lẩm cẩm, quên. Ông đành làm một tô mì gói. Ăn xong, ông vô phòng. Ngồi trên cái gường nhỏ, ông nhìn ảnh bà vợ. Tấm ảnh chụp lúc bà lớn tuổi rồi, mới nhìn tưởng con mắt nheo nheo ngó nhưng kỳ thực không phải, đuôi mắt bà xếp nếp nhiều quá nên tưởng vậy. Thì cũng là nét duyên của người già.

– “Bà à, cây khế mùa nào cũng có hoa. Hoa khế đẹp lắm, tui biết bà rất thích, mai mốt…”

Phải rồi, mai mốt tới xuân, có hoa khế. Ông phải nhớ ngắt một chùm để trên cái dĩa, trước tấm ảnh của bà. Bữa nay ra vườn, thấy cây khế trơ trụi lá mà đã có những chồi non muốn nhú lên. Khi đông tàn, loại cây này nó vậy.

Nhớ mùa xuân ở quê nhà, trong dĩ vãng xa, nụ cười của bà bên cây khế sau vườn nhà đâu có vậy, đẹp lắm kìa. Hồi đó, ông còn là một chàng trai trẻ, thường nhìn trộm qua vườn bên cạnh… Vậy mà mấy chục năm qua cái vèo. Chuyện gì cũng đã quên tuốt luốt hết, chỉ có một chuyện nhớ.

Nhớ hoài, là bữa hẹn tân niên. Mùa Xuân. Buổi trưa yên ắng. Dưới gốc khế sau vườn nhà nàng. Cũng chỉ vì đôi môi chúm chím, còn ngậm chùm hoa khế làm duyên. Cầm lòng chẳng đậu. Vậy mà lỡ cho lỡ luôn. Nào dè, chưa kịp hoàn hồn, bỗng thấy tiếng chân đi nặng nề. Rồi ông già nàng cầm cái rựa xông tới. Lạ thật, lúc đó trời sập cũng hổng biết chớ đừng nói, vậy mà nàng thấy kịp, vùng đẩy ông bật dậy.

Thế là tá hoả, cũng không biết lúc đó làm sao chàng thanh niên có thể nhảy bay qua hàng rào mà về vườn nhà mình. Chuyện đâu dừng ở đó, cái bụng nàng chình ình ra, rồi đám cưới. Đứa con đúc có một lần dính liền là thằng con lớn bây giờ. Bà vợ từ trẻ tới già, vẫn lãng mạn kiểu vườn, ở đâu cũng muốn trồng một cây khế.

Đời người đàn ông kể cũng lạ. Biết bao người yêu qua đời, nhưng cuối cùng chỉ có một người đàn bà già nua, xấu xí nhứt thì vẫn mặn nồng bên cạnh. Đâu có ai hiểu lòng ông, dù bà còn nắm tro, ông vẫn thương, thương hoài thương huỷ.

***

Mấy bữa sau hai ông cụ bắt ghế nói chuyện với nhau qua bức tường ngăn vườn. Hai ông đứng ở khoảng tường thấp nhất, còn có bục xi măng chặn luống hoa, nên nhìn thấy mặt nhau.

– “Mấy ngày rồi, tụi có bụng ngóng, hổng thấy bác ra vườn.”

– “Tui. Bị bận quá bác ơi, đi lo mấy thứ giấy tờ, rồi còn chích đủ thứ.”

– “Phải. Mùa này cúm dữ lắm. Tui cũng chưa đi chích vì thấy tụi nó hổng rảnh, mà cũng… sợ phiền.”

Vậy đó, hồi còn nhỏ nhít, đang ăn chúng nó cũng phẹt phẹt ra, phải bỏ đũa dọn. Đang ngủ, chúng ọc sữa, đái dầm, phải thức giấc lo, khi mọc răng nóng đầu, khóc cả đêm không ai ngủ được, có làm phiền hôn chớ. Nhưng nói ra ngặt lắm, ai nuôi con mà kể công.

Ông cụ Hồi cũng vậy, nhắc bạn chớ ông cũng đã chích ngừa đâu. Năm ngoái có thằng cháu tới chở đi chích. Năm nay thằng cháu vô trường mới, ở xa, điện thoại hỏi thăm ông ngoại cũng thưa dần, rồi bặt. Hồi đó, ông hay khen có thằng cháu ngoại hiếu để biết thương ông, nay mới mắc cái quai sặc họng.

– “Tui mà đi trước, ông khổ lắm ông biết hôn?”

Lúc còn sống, bà lo vậy, mà chắc lo cho tới khi nhắm mắt rồi có còn lo không đây. Bữa đám ma bà xong, cả tháng ông không ngủ, ngồi mở mắt trừng trừng. Đâu biết cái bà già ngắt, lẩm cẩm, suốt đời như cái gánh nặng đeo bên hông mà lại quan trọng đối với ông đến vậy.

– “Bác thấy hôn, lật bật mà hết năm tới nơi rồi. Tui bữa nay ra coi lại hệ thống tưới tự động cho tụi nó rồi thôi, tui đi.”

Giật mình. Lời nói như trối trăng. Ở tuổi này còn đi đâu chớ, nếu không phải về dưới? Nhưng ông bạn già nói tiếp:

– “Tui về bển, bác.”

– “Bển.”

– “Phải. Đứa con gái đầu của tui bịnh nặng mà tụi nó giấu tui. Nghe nói không xong rồi mới báo cho biết. Thằng cháu ngoại gọi điện thoại qua, nghe giọng ông ngoại, khóc quá là khóc.”

– “Tội hôn.”

Ông cụ Hồi hơi ân hận trong lòng, thì ra lâu nay, ông hiểu lầm nhiều quá.

Vẫn ông bạn:

– “Mua vé lâu rồi, đang lo không ai giúp thì bữa có ông bạn già gọi điện thoại tới khoe um sùm là sắp về bển ăn Tết. Tui mới hỏi thăm, dò đường í mà. Thì ra, bây giờ dễ lắm, cứ lật tờ nhật trình ra là có số điện thoại để mình gọi, người ta đem xe đến tận nơi đưa mình đi. Vậy mà tui đi chích cúm, rồi đi chích các thứ thuốc ngừa. Bữa đi họ cũng đưa mình ra phi trường…”

Ông cụ Hồi buồn tênh. Sáng nào cũng có tờ báo Mỹ liệng trước sân, chính tay ông nhặt tờ báo vô nhà, nhưng chỉ nhìn được mấy tấm hình.

– “Bữa mua vé nhờ thằng con, nhưng cứ nhờ hoài sợ phiền. Bây giờ biết rồi, phẻ quá bác ơi. Để bữa tui đi về, tui với bác biểu xe tới đón tụi mình ra Phước Lộc Thọ chơi, ở đó có mấy lão tướng, đấu với nhau suốt ngày, coi vui lắm.”

– “Ừm.”

Cụ Hồi bần thần trong người, vụt miệng nói:

– “Tui mà biết, tui cũng đi với bác. Sao bác hổng nói sớm?”

– “Bác còn ai ở bển mà về chớ. Về bển, hỏi bạn cũ, muốn thăm đều phải ra nghĩa địa, họ nằm hết ở ngoải rồi. Còn đi đường thì sợ xanh mặt, xe cộ hồi đó đã ghê rồi, bi giờ còn ghê hơn, ổng hổng dám ra đường…”

– “Bác về bển cũng cẩn thận.”

Ông cụ Hồi nói cho có chuyện. Ông bạn già gật đầu:

– “Tui cũng biết. Tui đâu có ở thành phố, bác. Về đến là tụi nó rước xuống Cần Thơ, ở dưới với con cháu, cũng hổng muốn đi đâu. Chơi? Có gì mà vui, mà chơi, bác.”

Rồi kể:

– “Nghe lóng này đường phố, xe cộ chạy như mắc cưởi mà người nào người đó đeo khẩu trang, nghĩa là khăn bịt mặt nên đi ra đường là như thấy toàn quân ăn cướp, ghê rợn lắm kìa.”

– “Thiệt sao?”

Ông cụ Hồi không tưởng tượng ra được. Ông bỗng hắt xì liên tục một hơi, nước mắt nước mũi ràn rụa.

– “Thôi chết rồi, bác sắp cúm đó nha. Mặc thật ấm vào. Nhớ đi chích thuốc cúm, nhớ đó nha. Quên là nó vật mình toi củ tỏi luôn.”

Ông cụ Hồi cảm thấy một luồng ớn lạnh chạy khắp thân, rồi dồn ở ngực, bắt muốn ho. Ông ho khục khặc.

– “Vô nhà đi bác ơi. Vô đi. Tui cũng kiếu bác, bác ở lợi ăn Tết vui nhe. Tui còn lo đi một vài việc để về bển.”

– “Bác cho tui gửi lời hỏi thăm… hỏi thăm… ắt xì, ắt xì…”

Ông bạn già còn ráng đứng trên ghế chờ. Ông cụ Hồi hắt hơi xong thì mới chưng hửng. Đâu biết gửi lời thăm ai chớ. Ông lắc đầu:

– “Thôi bác, chúc bác về bển gặp con cháu… vui.”

– “Chào. Ráng uống thuốc mau lành, bữa về gặp lợi.”

Ông bạn già sẽ vắng mặt một tháng. Nhưng còn gặp lại nhau không, đó là chuyện của ngày mai, ai biết!

***

Lúc đầu chỉ vài cái hắt hơi, rồi ho. Ông cụ Hồi mỗi lần ho là gập người xuống, vì vậy, cái lưng càng còng hơn, càng gần mặt đất hơn.

– “Đã nói nhắc con đưa đi chích cúm, hổng chịu nhắc. Bịnh vậy đâu có đi chích được. Chờ qua khỏi, con đưa ba đi chích. Nghe nói năm nay cúm độc lắm.”

Ông cụ Hồi ầm ừ. Bữa sau, chắc con vợ tỉ tê sao đó, thằng con trước khi đi làm dặn:

– “Ba à, ba đang cúm, đừng ở nhà trên nhiều, rồi lây hết cả nhà khổ lắm.”

– “Hổng phải tụi bây chích ngừa hết rồi sao?”

– “Chích thì chích, cả trăm thứ cảm cúm, ngừa mấy thứ dữ thôi ba. Còn mấy đứa nhỏ đâu chịu chích, dễ lây lắm ba.”

Đứa con nói đâu có gì sai. Nhưng cứ ru rú ở dưới garage, nằm hoài cũng thấy nhức đầu lắm. Thằng con có mua thuốc đầy đủ, còn dặn:

– “Có cam vợ con mua để sẵn, ba vắt uống nhiều nhiều cho mau khoẻ. Ba nhớ uống thuốc.”

Đứa con dâu, sáng, trước khi đi làm cũng ráng bắc một nồi cháo trắng. Cũng có một nồi thịt kho tiêu. Có sự săn sóc chớ đâu phải không, nhưng tình cảm thì thiếu nhiều lắm, nó nhạt nhẽo làm sao!

Qua chiều ngày thứ ba thì ông cụ Hồi sốt. Ăn cơm chiều xong, đứa con trai xuống thăm, thấy ông trùm mền kín mít thì hoảng:

– “Ba sao vậy.”

Đứa con lật chăn lên, sờ trán thấy trán cha nóng hổi.

– “Ba có uống thuốc đều không đó. Chắc lúc nhớ lúc quên mới mau nặng vậy. Để sáng mai con đưa ba đi bác sĩ.”

Con dâu và cháu không dám đến gần, sợ lây bệnh. Đứa con sợ cha buồn, bệnh nặng thêm, nên gượng gạo bảo con:

– “Ông nội đau không đứa nào hỏi thăm một tiếng sao? Xuống thăm ông nội ngay.”

Hai đứa cháu mặt mày cau có, đứng lấp ló ở cửa hỏi vọng vô, tiếng Việt bập bẹ:

– “Ông nội, ông nội có khoẻ khôn. Chào ông nội.”

Vậy là biến. Ông cụ Hồi trong cơn sốt gần như mê sảng cũng nghe giọng hai đứa cháu, mừng đến ứa nước mắt.

Tối đó, hai vợ chồng gây gỗ nhau.

– “Anh một vừa hai phải thôi nhe. Ba bịnh nặng như vậy mà bắt tụi nhỏ xuống thăm. Mai mốt ba lành, muốn thăm nhiêu không được. Cả nhà thi nhau bịnh nằm một đống, khi đó ai thăm hỏi ai cho biết.”

Thằng con thấy vợ nói cũng phải, nhưng trong bụng đang tức. Công việc lu bu gì không đưa cha đi chích thuốc ngừa, lỡ có gì thì ân hận đến chết. Đời sống ở Mỹ này, đứng lại là thụt lùi, là thua kém, là nguy…

– “Em cũng quá lắm, anh thì bận, em chẳng để ý gì đến ba.”

– “Nói vậy mà nghe được. Tui cũng đi làm như anh chứ ở nhà đi ra đi vô sao? Còn nữa, chợ búa, cơm nước, làm con sen ở nhà này là ai.”

Thương ông già thì nổi cơn vậy, nhưng vợ lớn tiếng thì cũng phải nhịn. Đến đó thôi. Vừa đủ. Làm tới, nổ lớn.

– “Nói nhỏ tiếng chút được hôn, thôi mình, bỏ qua.”

Anh sợ sấp nhỏ nghe. Hai đứa con đứng về phe mẹ.

Chiều hôm sau, đứa con dâu đi làm về, chính tay nấu món cháu thịt bò bằm, chính tay bưng xuống cho bố chồng ăn. Chị hỏi thăm, có cười, nhưng nụ cười như mỗi lần phải xã giao, gượng gạo. Ông cụ Hồi đã có vẻ khá hơn, thấy không cần phải đưa đi bác sĩ khám. Anh tự hào với bạn bè là bố anh khoẻ mạnh, tuổi già mà ít làm phiền con cháu. Anh vui vẻ hứa:

– “Vài bữa ba khoẻ con đưa ba đi chích cúm.”

Ông cụ gật đầu, lòng vui, thấy cha con đã gần gũi quá. Nó đâu có gì chớ, có phải lâu nay ông đã hiểu lầm con?

Tối, ông cụ Hồi uống thuốc xong thì nằm nghỉ. Ông trôi vào giấc ngủ mau lắm, rồi thì có nhiều giấc mơ.

Giấc mơ đầu tiên, ông theo ông bạn già về Việt Nam. Thình lình thấy đứng trên đường phố có một mình, rồi ông thấy không biết bao nhiêu xe cộ ào ào nhắm ông mà phóng tới, người nào người nấy đều đeo khẩu trang màu đen. Ông la lên: “Cướp, cướp.” Đám cướp nhảy xuống xe vây lấy ông, kê súng vào tai ông sẵn sàng bóp cò. Sợ quá, ông van lạy, nhưng xung quanh ông, tiếng cười man rợ cất lên. Ông hoảng hốt tỉnh dậy, mồ hôi toát ra và sự hoảng hốt kéo dài cho tới lúc ông chìm vào giấc ngủ khác…

Nhiều giấc mơ vụn vặt, nối tiếp không đầu không đuôi, cho tới gần sáng, giấc mơ sau cùng… Giấc mơ kéo ông về thời niên thiếu, cậu học sinh vườn yêu cô gái quê. Ông được sống lại cảm giác ân ái vụng trộm với cô gái vườn bên, cả cái cảm giác hãi hùng, muốn trốn thoát lúc nhảy qua hàng rào ngăn hai nhà lúc bị lộ chuyện. Khi không lại nhớ một chi tiết kỳ cục nhứt lúc đó mà chỉ có hai ông bà già biết, về già còn nhắc nhở… Ông cười nấc lên.

– “Gì mà cười dữ vậy ông”

Chuyện hồi trai trẻ biến mất. Bà đã đứng bên cạnh. Ông nắm tay bà, vẫn nắm được. Vậy bà đâu đã chết.

-“Tui cười vì nhớ lại cái chiện hồi đó, bữa dưới gốc cây khế.”

– “Khỉ. Già mà còn khỉ. Kỳ quá hà.”

Bà vẫn còn bẽn lẽn, đỏ mặt. Khi bà đỏ mặt, những vết nhăn trên má hóp như có mờ bớt đi nên vẫn còn thấy duyên.

– “Cây khế, cây khế có bông chưa. Tui nhớ nó lắm.”

Ông cười:

– “Trùi lũi hà. Làm gì có.”

Tay bà giựt giựt trong tay ông, vẫn còn cái hơi ấm thủa nào.

– “Ông nhớ đó nha, khi nào hoa khế nở, ông hái một chùm đem về dưới cho tui.”

Bà cười. Hàm răng giả của bà đâu rồi mà cái miệng móm mém, trơ lợi, trông hết duyên nhưng hóm hỉnh, ngộ quá.

Chớp một cái, không thấy bà đâu nữa. Ông ra khỏi giấc mơ.

Mở mắt, trời mới mờ sáng, nhưng ông không thể ngủ tiếp được. Đầu óc cứ chờn vờn, lảng vảng bao nhiêu chuyện cũ, bao nhiêu kỷ niệm những ngày ở quê hương, từ lúc còn là cậu thiếu niên miệt vườn, cho tới lúc đưa vợ con lên tỉnh thành lập nghiệp. Một đời đủ chuyện, lúc lặng lúc sóng dồn biển dập, long đong cũng không ít.

Hai vợ chồng chống chỏi qua bao nhiêu cơn tưởng sạt nghiệp, hoặc tan vỡ gia đình. Lỗi cũng ở ông nhiều, cái số đào hoa, ra đường, người ta gặp, người ta thương, biết sao. Bà ghen tuông cũng dữ, tưởng mấy lần đứt gánh. Tội nghiệp, người thua thiệt, chịu đựng, nhịn nhục vẫn là bà, bởi thương con.

Biết bao đêm, ông bỏ nhà đi hoang, một mình bà lủi thủi với đàn con dại, ôm con mà nước mắt ướt mặt mũi.

Gái thương chồng đang đông buổi chợ,

trai thương vợ nắng quái chiều hôm.

Mà nắng đã quái, đã xế đâu còn bao nhiêu, vậy mà bà lại bỏ đi trước.

Đến giờ đi làm, người con đứng ở cửa, hỏi:

– “Ba sao rồi, thấy đỡ nhiều không?”

– “Đỡ.”

– “Có gì ba gọi điện thoại sở con. Số điện thoại con ghi để sẵn bên máy.”

Người con đi sau cùng. Nhà vắng ngắt. Ông thấy đến giờ uống thuốc, nhưng phải ăn chút gì, uống thuốc mà bụng đói nó cào chịu hổng thấu. Nhưng lạ, khi ông đứng dậy thì thấy choáng váng. Ông đưa tay ôm ngực, hai lồng ngực như đang bị xiết lại, trì nặng và nhịp tim đập tới tấp, loạn xạ.

Ông ngồi xuống giường, định thần lại. Nhưng thần trí ông bỗng lơ mơ. Điều ông muốn nghĩ thì nghĩ không ra, mà những ý nghĩ kỳ cục đâu đâu lại ào ào kéo tới. Cái đầu có vẻ chịu không thấu. Đâu chỉ đầu, cả cái ngực nữa. Có bàn tay ai đang bóp hai lá phổi của ông, kéo luôn mấy sợi gân đang co giật trong chân, trong tay. Phải chặn cái bàn tay quá đáng ấy lại. Ông muốn mà không còn sức làm.

Một phút nào đó, ông nghĩ tới điện thoại, muốn gọi cho đứa con, nhưng rồi ông quên ngay. Có cái gì đó đang nhẹ nhàng đung đưa, ngay trước mắt ông. Ông nhận ra nó rồi. Chùm hoa khế. Chùm hoa khế, bông nhỏ li ti, điểm nhuỵ vàng. Chùm hoa ấy đang vẫy gọi ông. Có cơn gió xuân làm chùm hoa đung đưa. Có cả tiếng cười khúc khích nữa. Chùm hoa khế. Hoa khế. Đừng giỡn mặt nhe. Ở đó đi. Ông tới.

Không hiểu sao bằng cách nào ông mở được cửa phòng, mở được cửa sau. Ông nhìn thấy vườn cây xanh mát. Ông đi qua cây nhãn, không dừng lại. Ông đi tới cây khế. Hoa khế nở rồi? Ông nhìn lên. Kìa, núp sau một tàn lá, có chùm hoa cánh tím nhuỵ vàng đang đung đưa. Nó muốn lẩn trốn ông. Cả cái hàng rào cao thế kia, ông còn thừa sức phi thân qua. Làm sao chùm hoa này trốn nổi. Ông vươn người, với tay, mỗi lúc một cao.

“Tui hái cho bà. Tui hái cho bà.”

Chùm hoa khế đã ở trong tay ông. Lạ thay, cùng lúc đó, ông bỗng thấy mặt ông đang dụi vào mặt đất. Đất. Phải, đó là chỗ của ông. Ông nghe tiếng bà dặn:

– “Khi nào hoa khế nở, ông nhớ hái một chùm đem về dưới cho tui.”

Bàn tay vẫn thận trọng nắm chặt chùm hoa, ông tiếp tục thì thầm: – “Tui hái cho bà. Tui hái cho bà.”

Chùm hoa tím ngát… nhoà dần trong mắt ông.

***

Buổi trưa, người con trai cụ Hồi không biết có linh tính gì, đang giờ ăn trưa, bỏ về nhà. Anh ta canh cánh trong lòng, hình như buổi sáng đi chưa tắt máy hít. Đến tối mịt cả nhà mới về, ông già bịnh, đôi khi không biết để tắt, hao điện lắm.

Về tới, máy hít đã tắt rồi, không biết do anh hay bà vợ trước khi đi làm. Anh tính khoá cửa đi, nhưng nghĩ giờ đi ăn, tới sở sẽ trễ, anh xuống bếp. Bếp ngắt lạnh tanh, nồi cháo vẫn y nguyên, chứng tỏ ông già chưa đụng tới. Anh đi xuống garage định hỏi ông già có ăn không để cùng ăn. Đây cũng là dịp anh bày tỏ nỗi lòng để cha con gần nhau trở lại. Không biết từ bao giờ, anh nghĩ lại, thương cha, hay chính mới đây, lúc sờ lên đầu cha sốt, trong hơi bốc nóng, lẫn một cái mùi già, ngái ngái như mùi lá vàng sắp rụng.

Anh không thấy ông già trong phòng. Anh đi tìm một vòng, cũng không thấy. Kỳ lạ chưa? Liệu có… Không đâu, ông cụ đã qua cơn sốt, có nhiều phần khoẻ lại, lẽ nào…

Nhìn cửa ra vườn thấy mở toang hoang. Anh vội vã ra tìm. Vườn mùa đông, cây lá trơ trụi. Tới gốc khế, anh thấy cha anh nằm sóng soài, mắt mở trừng, một tay nắm cái gì thật chặt.

Người con quỳ bên xác cha. Anh khóc. Rồi anh gọi 911. Lát sau xe cứu thương tới, có bác sĩ khám nghiệm, xác nhận ông già đã tắt thở mấy tiếng đồng hồ rồi, vì đứt mạch máu não, xuất huyết trong đầu. Khi mở bàn tay nắm chặt của ông ra coi, thì chỉ là một cành cây khô khốc, khẳng khiu, không ai hiểu tại sao!

Sau đám tang cụ Hồi, cái garaga được sửa lại đủ cho ba xe đậu. Từ nay, chiếc xe của thằng cháu nội có mái nhà, không phải đậu ngoài lề đường để chim nó iả dơ hầy nữa.

Tháng sau ông bạn già hàng xóm đi Việt Nam về, nhìn sang vườn bên. Không thấy ông bạn hơn hở bắt cái ghế lên để nhìn mặt nhau. Ông hỏi thăm, biết ông cụ Hồi đã chết, khi chết nằm dưới gốc cây khế.

Ông cụ thở dài, nhớ bạn. Nhớ ông cụ Hồi có lần chỉ cây khế:

– “Bởi, đi đâu bả cũng trồng cây khế, bả mê hoa khế lắm kìa. Mê như mê tui.” Đó là lần ông được ông cụ Hồi vui miệng, khoe thành tích chuyện tình thời trai trẻ miệt vườn.

Năm đó, cây khế ra hoa chi chít, từng chùm bông khế tím sậm, lấn cả lá. Có điều, hoa thì nhiều mà không đậu trái nào.

Ông bạn già hàng xóm còn lại cũng hẩm hiu lắm, đôi khi ông tự hỏi, lẽ nào ông cụ Hồi đã hái hết chừng đó hoa khế mang xuống dưới cho bà.

Mũ Đỏ Út Bạch Lan kể chuyện ‘tình người trong cuộc chiến’

Mũ Đỏ Út Bạch Lan kể chuyện ‘tình người trong cuộc chiến’

August 14, 2021

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

HOUSTON, Texas (NV) – Mũ Đỏ Trương Văn Út vào binh chủng Lượng Lực Đặc Biệt một thời gian thì giữa năm 1970, binh chủng này bị giải thể, ông chuyển sang binh chủng Nhảy Dù, và có mật danh Út Bạch Lan.

Cựu Đại Úy Trương Văn Út và vợ trong tiệc Tất Niên Gia Đình Mũ Đỏ 2018 tại Dallas, Texas. (Hình: Trương Văn Út cung cấp)

Cuối năm 1971, Sư Đoàn 320 Bắc Việt bắt đầu xâm nhập và gây áp lực cho Sư Đoàn 22. Lúc đó, căn cứ Đắc Tô là bộ tư lệnh tiền phương của Sư Đoàn 22 cũng bị Cộng Quân tấn công dữ dội. Đại Tá Lê Đức Đạt, tư lệnh Sư Đoàn 22, kêu cứu thì Bộ Tư Lệnh Nhảy Dù đưa Lữ Đoàn 2 Dù ra tiếp cứu.

Tham chiến mặt trận đồi Delta với quân Bắc Việt

Ông Út kể, khi đến Kon Tum, Đại Tá Trần Quốc Lịch, lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 2 Dù, mới quyết định thành lập căn cứ hành quân giả chiến Võ Định nằm giữa Kon Tum và Đắc Tô, hướng Tây có một rặng núi thuộc đuôi của dãy Trường Sơn, Sư Đoàn 22 thành lập căn cứ A và căn cứ B tại nơi này, và một căn cứ nữa, đó là căn cứ C tức Charlie.

Đồi Delta là một ngọn đồi nằm về hướng Nam Charlie, tại đây địch đã có một Tiểu Đoàn Phòng Không được Sư Đoàn 320 Bắc Việt bảo vệ.

Ông Út nhớ lại: “Ngày 17 Tháng Ba, 1972. Từ căn cứ Võ Định, Đại Đội Trinh Sát 2 Dù do tôi chỉ huy được lệnh đổ quân ngay trên đầu địch tại đồi Delta. Đơn vị đi đầu là Thám Sát thuộc Đại Đội Trinh Sát 2 Dù, gồm 14 chiếc trực thăng đổ quân, hai chiếc đầu là hai toán Viễn Thám, chiếc thứ ba có tôi và bảy quân nhân Mỹ; hai người mang máy truyền tin cùng một sĩ quan pháo binh (đề-lô).”

“Chiếc đầu tiên bay vô rồi lại bay ra, chiếc thứ hai cũng vậy, vì họ không phát hiện địch. Tôi đang ngồi chiếc thứ ba, rồi cũng không thấy gì ở dưới hết, tôi mới vỗ vai người phi công Việt Nam (Trung Úy Tấn) và nói ‘Bằng mọi giá, anh xuống liền cho tôi.’ Khi trực thăng hạ xuống còn cách mặt đất khoảng 3 mét, chúng tôi cùng nhảy xuống thì đã bị lọt vào ổ phục kích của Thượng Liên 12ly7 của địch,” ông kể thêm.

Cùng lúc, trực thăng đưa mấy toán Trinh Sát 2 vừa đến. Cộng Quân đã điều động một tiểu đoàn để bao vây Đại Đội 2 Trinh Sát. Lúc đó, ông Út vừa phân tán quân và vừa chiến đấu. Địch tràn lên, nhưng chỉ gặp những toán nhỏ của Trinh Sát 2 Dù. Những quân còn lại của Trinh Sát 2 đã bọc phía sau lưng địch để kích hoạt mìn Claymore vào bộ chỉ huy tiểu đoàn của địch. Trận này, địch bị tổn thất nặng. Đại Đội 2 Trinh Sát Dù bắt được đám tàn quân địch còn sống.

Ông kể tiếp: “Hôm đó, chúng tôi chiếm được ngọn đồi Delta, nhưng đến ngày hôm sau, Trung Đoàn 3 Bắc Việt điều động toàn bộ lực lượng bao vây đồi Delta. Lúc bấy giờ, Đại Đội 2 Trinh Sát cũng đã thấm mệt, đạn dược và lương thực gần cạn mà địch quân cư tấn công tràn ngập. Phi Đoàn Thần Tượng (Bạch Tượng) đã bay vào Đồi Delta tiếp ứng. Nhưng vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh, nên không thể tiếp tế đạn dược và lương thực cho Đại Đội Trinh Sát 2.”

Sau đó, Phi Đoàn Song Chùy đã anh dũng lách qua các ổ phòng không, và tiếp tế cho đại đội của ông Út được một chuyến duy nhất.

Khi Đại Đội 2 Trinh Sát Dù được Tiểu Đoàn 7 Dù vào thay thế ở đồi Delta, thì đơn vị của ông Út triệt xuất về căn cứ Võ Định. Lúc bấy giờ, Trung Úy Trương Văn Út được Trung Tướng Ngô Dzu, cựu tư lệnh Quân Khu II, gắn lon đại úy và cấp cho ông Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng tại mặt trận.

Tâm linh của người lính chiến

Sau mặt trận Delta, Đại Đội 2 Trinh Sát “đụng nặng” với một trung đội súng nặng của Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 320 Bắc Việt. Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Minh, trưởng Ban Truyền Tin của Đại Đội Trinh Sát 2, bị một tràng AK-47 trúng ngay lồng ngực chết tại chỗ.
Ông tâm tình: “Tối đến, mặt trận tạm yên. Tôi mệt lã chập chờn trong giấc ngủ, bàn tay trái vẫn còn trên poncho bó xác của Minh. Chợt tai tôi nghe tiếng nói của Minh, ‘Đại úy ơi, mở ba lô của em ra, lấy cái poncho light của em mà đắp và giữ nó bên mình của đại úy, rồi mở cái poncho của em ra lấy cái thẻ bài gửi cho mẹ em và con Nguyệt (em gái của Minh), còn sợi dây chuyền có cái thẻ ngà bằng nanh heo rừng, đại úy hãy mang vào cổ đừng bao giờ rời nó.’”

“Tôi choàng tỉnh ngồi bật dậy. Trời hãy còn tối đen như mực, nhìn quanh bên cạnh vài thước, một người lính của tôi vẫn còn ghìm súng trong phiên gác nửa đêm. Tôi tự hỏi, có thật linh hồn của Minh vẫn còn quanh đây để về báo mộng cho tôi, hay chỉ là hư ảo qua tình cảm tiếc thương đứa em cận kề thâm tình bấy lâu nay mà sinh chuyện mộng mị,” ông kể thêm.

Sau đó, ông Út làm theo lời của Minh, thì quả thật, tất cả hiện vật đều đúng như Minh đã về báo mộng cho ông Út. Sáng hôm sau, ông Út nhận được công điện từ hậu cứ thông báo là, sáng nay, mẹ và em gái của Minh có đến văn phòng hậu cứ khóc lóc thảm thiết. Mẹ của Minh cho biết là Minh đã có về báo mộng cho mẹ mình đêm qua.

Tham chiến trận cổ thành Quảng Trị

Ngày 17 Tháng Tư, 1972, Tiểu Đoàn 11 Dù bị tổn thất nặng ở đồi Charlie. Thiếu Tá Nguyễn Đình Bảo tử trận.

Giữa Tháng Năm, 1972, Lữ Đoàn 2 Dù, gồm các Tiểu Đoàn 7, 9, một Tiểu Đoàn Pháo Binh và Đại Đội Trinh Sát 2 Dù triệt xuất Kon Tum về hậu cứ. Sau đó, Lữ Đoàn 2 Dù được lệnh tăng cường ra Huế chuẩn bị tái chiếm Quảng Trị.

Quận Mai Lĩnh nằm ở phía Đông Nam cổ thành Đinh Công Tráng, cách gần một cây số về hướng Bắc là làng Trí Bửu, trên nữa là Hạnh Hoa Thôn, nơi đây, địch dùng nơi đóng quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 325 của Bắc Việt, trang bị nhiều chiến xa, hỏa tiễn phòng thủ dọc theo con đường Duy Tân.

Cựu Đại Tá Đỗ Ngọc Nhận (phải) và cựu Đại Úy Trương Văn Út (giữa) tại Đại Hội 21 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam 2018 tại San Jose, California. (Hình: Trương Văn Út cung cấp)

Toán Viễn Thám Trinh Sát 2 phát hiện địch quân đã nằm áp sát bên mình, gồm Bộ Binh và Thiết Giáp. Sau khi hai Tiểu Đoàn 11 và 5 Nhảy Dù về đến Quảng Trị, thì Tiểu Đoàn 11 và Pháo Binh Dù đã chiến thắng vẻ vang trên đồi Trần Văn Lý. Trong khi đó, một trung đội của Đại Đội 2 Trinh Sát có nhiệm vụ yểm trợ tản thương cho các thương binh của Tiểu Đoàn 11. Trung đội này không may bị ‘dính’ một trái mìn chống chiến xa của quân ta khiến cho một sĩ quan, một hạ sĩ quan cùng sáu binh sĩ chết tại chỗ và 17 bị thương nặng nhẹ. Chỉ năm ngày sau, quân số của trung đội này được cấp tốc bổ sung đầy đủ.

Sau đó, Lữ Đoàn 2 Dù vượt phòng tuyến bên bờ Nam sông Mỹ Chánh. Địch gồm ba Sư Đoàn Bắc Việt, cùng đại pháo 130 ly, hỏa tiễn phòng không, hoả tiễn chống chiến xa của Liên Xô. Địch đã điều nghiên chiến trường và chuẩn bị chu đáo để đối phó với Lữ Đoàn 2 Dù.

Chỉ trong vòng ba ngày đêm, đầu đội pháo, chân dẫm lên xác địch, tác xạ lao về phía trước vượt trên tuyến đường vài ba cây số ngập tràn máu lửa, đạn bắn như đan lưới. Hai Tiểu Đoàn 1 và 5 Dù đã tiến vào La Vang, Tiểu Đoàn 2 Dù đã vượt qua ngã ba Long Hưng áp sát vào vòng đai Cổ Thành Đinh Công Tráng, Trinh Sát 2 Dù có lệnh theo đuôi Tiểu Đoàn 7 Dù. Sau đó, Trinh Sát 2 đơn độc rẽ về hướng Đông để tiên phong xâm nhập vào quận Mai Lĩnh ban đêm. Tất cả ngụy trang tối đa, bảo toàn lực lượng để mở đường cho Tiểu Đoàn 7 và Đại Đội Trinh Sát 2 Dù tiến vào mục tiêu.

Hơn 21 ngày đêm Lữ Đoàn 2 Dù và Đại Đội Trinh Sát 2 đã đụng độ khốc liệt với quân Bắc Việt trên nhiều chiến trận, với sự yểm trợ của Pháo Binh, Bộ Binh, Thiết Giáp, Không Quân VNCH và Không Kỵ Hoa Kỳ (US First 1st Cavalry Division) để tái chiếm cổ thành Quảng Trị. Sau đó, Sư Đoàn Nhảy Dù được lệnh triệt thoái, và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) vào thay thế trong mặt trận này. Sư Đoàn Nhảy Dù tiếp tục hành quân sang hướng Tây Nam thành phố Quảng Trị, và bắt tay với Sư Đoàn 1 Bộ Binh để giữ tuyến từ La Vang xuống Ba Lòng kéo dài tận hướng Tây, Huế.

Đầu Tháng Chín, 1972, Sư Đoàn TQLC đã kiểm soát hoàn toàn thị xã Quảng Trị và cổ thành Đinh Công Tráng.

Những tháng năm cuối cùng trong cuộc chiến

Ông Út kể, Hiệp Định Paris ký kết vào 20 Tháng Giêng, 1973, toàn cả miền Nam được lệnh ngưng bắn. Đơn vị của Đại Úy Út không còn tham chiến trận nào đáng kể cả. Tháng Mười Một, 1973, ông bị tai nạn gãy ống quyển chân phải, nằm bệnh viện và dưỡng thương gần một năm.

Cuối năm 1973, Cộng Quân tiếp tục tấn công mạnh miền Nam. Đầu năm 1974, Cộng Quân bắt đầu gây áp lực đe dọa Quân Khu 1 (Đà Nẵng).

Ngày 20 Tháng Ba, 1975 Ban Mê Thuột bị thất thủ. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho Sư Đoàn Nhảy Dù khẩn cấp về Sài Gòn, còn Lữ Đoàn 3 Dù về tăng cường cho Quân Khu 2 ở mặt trận Khánh Dương. Sau đó, Lữ Đoàn 3 Dù tan hàng ở đây.

Ông Út chia sẻ: “Ngày 4 Tháng Tư, 1975, Lữ Đoàn 2 Dù được không vận ra Phan Rang, 10 ngày sau đó cũng tan hàng. Lúc đó, tôi được lệnh ở lại Sài Gòn để tiến hành thành lập Tiểu Đoàn 17 Dù (tân lập). Ngày 27 Tháng Tư, 1975, Tiểu Đoàn 17 Nhảy Dù tân lập được lệnh di chuyển từ căn cứ Long Bình về Sài Gòn để tăng cường lực lượng phòng thủ Phi Trường Tân Sơn Nhất, rồi có lệnh buông súng ba ngày sau đó. Lúc này, tôi là sĩ quan hành quân của Tiểu Đoàn 17 Nhảy Dù, tiểu đoàn trưởng đã rời khỏi đơn vị trước đó hai ngày.”

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, toàn miền Nam bị thất thủ. Cựu Đại Úy Trương Văn Út và nhiều sĩ quan của Quân Lực VNCH phải vào tù “cải tạo” của Cộng Sản. Sau một năm tù đày, Út Bạch Lan trốn trại “cải tạo,” ẩn náu về Mỹ Tho sống bằng nghề đạp xích lô để tìm đường vượt biên.

Tình người trong cuộc chiến

Ông Út nhớ lại: “Sau cuộc hành quân Hạ Lào 719, đơn vị của ông được lệnh thám sát vào Chiến Khu D của địch. Đại Đội Trinh Sát 2 Dù hợp cùng trực thăng võ trang Không Kỵ Hoa Kỳ đã tiêu diệt một số Cộng Quân tại Chiến Khu D; một số đã di chuyến về nơi khác. Trinh Sát 2 Dù đã khám phá một bệnh xá cấp trung đoàn của Việt Cộng, và bắt được ba nữ tù binh đều là y tá viên của Việt Cộng Miền Nam.”

Khi đọc tờ khẩu cung, thì ông mới biết tên y tá thứ nhất là Nguyễn Thị Yến, sinh quán ở Chợ Gạo, Mỹ Tho, cựu học sinh trung học bán công Thiên Hộ Dương, vào bưng cuối năm 1969 và hiện là y tá cho bệnh xá này cùng hai nữ ý tá Trần Thị Ánh và Ngô Thị Hạnh. Cả ba đều bị bắt trong lúc trốn ẩn nấp dưới hầm.

Sau khi điều tra về cô Yến thì ông Út mới biết, khi cô 10 tuổi, cha của Yến theo kháng chiến Việt Minh rồi bị bắt giam, sau hơn ba năm điều tra, ông được phóng thích và qua đời sau vài tháng vì bị bệnh. Gia đình Yến sống trong vùng “xôi đậu,” ban ngày với sự kiểm soát của Quốc Gia, ban đêm Việt Cộng về làng hoạt động.

Sau đó, Việt Cộng lợi dụng Yến còn ngây thơ đã tuyên truyền những oán hận là chính phủ VNCH đã gây ra cái chết ba của Yến. Vì thế, năm 1967, Yến vừa tròn 20 tuổi, cô bắt đầu hoạt động cho Việt Cộng với nhiệm vụ liên lạc với các tổ nội thành ở Chợ Hàng Bông Mỹ Tho.

Ông Út kể: “Lúc đó tôi mới hỏi Yến, cô đã bị chúng tôi bắt, cô có biết số phận của cô sẽ ra sao hay không? Thì Yến mới trả lời rằng, ‘Thưa anh, đã được sinh ra đời thì ai cũng cầu được sống, chớ chẳng có mấy ai cầu cho mình chết cả. Nhưng sống hay chết thì do định số đã an bày. Ngay lúc này, đối với các anh phía VNCH thì chúng tôi có tội, nay chúng tôi đã bị các anh bắt, thì mạng sống của chúng tôi, tùy các anh định đoạt.’”

“Tôi nghe Yến kể rất bình thản, bùi ngùi an phận theo nghiệp số của con người. Tâm tư tôi có chút xao động, vì không ngờ một cô gái còn son trẻ lại nghe theo lời tuyên truyền của Việt Cộng, mà theo tôi thì cô cũng có chút trình độ học vấn của chánh phủ VNCH. Tôi hỏi thêm thì cô trả lời là, cô đã học đến lớp Đệ Tam ban C (Hán văn),” ông kể thêm.

Sau đó, vì chưa báo cáo với cấp trên về vụ đơn vị đã bắt được ba nữ tù binh Việt Cộng, và cũng vì tình người trong cuộc chiến, nên Đại Úy Út đã thả ba nữ y tá Việt Cộng này với hình thức là cho tử hình ba cô, nhưng không bắn vào người mà chỉ bắn lên trời để cho ba cô chạy thoát.

Trong lúc đạp xích lô ở Mỹ Tho, thì tình cờ ông gặp lại cô Nguyễn Thị Yến. Lúc bấy giờ, Yến là phó giám đốc bệnh viện Mỹ Tho. Chồng của cô là cựu giáo sư văn chương của trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho.

Mũ Đỏ Út Bạch Lan (phải) đứng cạnh vợ chồng cựu Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. (Hình: Trương Văn Út cung cấp)

Cuộc đời đẩy đưa hai con người không cùng giới tuyến chính trị trong thời chiến, trở thành hai người bạn thân thiện phát xuất từ tấm lòng tình người trong cuộc chiến. Gặp nhau, tuy ngỡ ngàng, nhưng từ sự biết ơn và thân thiện của Yến đã cho cựu chiến sĩ Nhảy Dù Út Bạch Lan rất ấm lòng.

Tháng Ba, 1982, Út Bạch Lan được bằng hữu giúp đỡ xuống tàu vượt biên thành công, và được định cư tại Houston, Texas, ngày 12 Tháng Mười Hai, 1983.

Năm 2014, một cú điện thoại từ Boston, Massachusetts, gọi cho Út Bạch Lan, đầu dây bên kia là vợ chồng Yến và Tân. Họ định cư tại Hoa Kỳ theo diện bảo lãnh thân nhân. Câu chuyện “tình người trong cuộc chiến” đã trở thành tình đồng hương tại hải ngoại.

Cố nhạc sĩ Phạm Duy đã để lại cho đời qua câu nhạc “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai.” (Lâm Hoài Thạch) [qd]

Xem lại kỳ trước: Mũ Đỏ Trương Văn Út và mật danh hành quân Út Bạch Lan

ĐIỀU HỌC MÃI VẪN CHƯA BIẾT

Chau Nguyen Thi

ĐIỀU HỌC MÃI VẪN CHƯA BIẾT

Ba đi làm về rất muộn, mãi tới hơn 10h tối tiếng xe của ba mới dừng lại ở cổng. Người ra đón ba không phải là đám con chân dài vai rộng của ông bà, mà là mẹ tôi.

***

Tôi nghe mẹ trách yêu:

– Ông biết cả nhà lo lắng lắm không, sao không điện thoại về?

Ba không đáp, dẫn xe nhanh vào rồi mới thở hắt ra một hơi, giọng vừa bực vừa chán:

– Mất cha nó cái điện thoại di động rồi!

Tôi hỏi nhanh:

– Mất cái điện thoại ba hứa cho con hả?

Giờ ông mới nhếch môi cười:

– Cũng may, cái cũ.

Tôi tiu nghỉu:

– Thì cái đó, con định xin cái đó khi ba mua cái mới.

Ba vò đầu tôi:

– Cho con phải cho cái mới sao lại để cho con cái cũ được!

Rồi ông chuyển giọng bực tức:

– Mình vừa móc ra nghe, chỉ mới alo được một tiếng là nó chạy ngang giật cái vèo, nhanh như gió vậy.

Mẹ lo lắng:

– Ở ngoài đường hả, rồi có bị té hay bị gì không?

Ba lắc đầu:

– Cũng may lúc đó tôi dừng lại, tấp xe vào sát lề để nghe, nếu không thì…

Mẹ vẫn cái giọng thường khi:

– Thôi của đi thay người.

Nhưng ba vẫn còn chưa nguôi:

– Chuyện tiếp theo mới làm mất thì giờ. Thằng giật điện thoại của tui, bà biết bao nhiêu tuổi không?

Rồi không đợi mẹ hỏi, ba trả lời:

– Mới có 15 hay 16 gì đó.

Mẹ tò mò:

– Sao ông biết rõ vậy?

Ba thở dài

– Nó giật xong, chạy chưa được chục mét là tông vào chiếc taxi, bị ngã và vỡ đầu.

Nghe tới đó cả mẹ và tôi đều giật mình:

– Có sao không ông?

Ba buông lỏng một câu:

– Chết rồi!

– Trời ơi!

Đó là tiếng kêu thoảng thốt của mẹ, giọng mẹ hơi run.

– Rồi.. rồi làm sao?

Giọng ba chùng xuống:

– Lúc mới té nó chưa chết, nhưng chiếc điện thoại mới giật thì văng ra xa, bị một chiếc xe tải chạy tới cán nát ra. Mọi người bu lại đông nghịt, nhưng chẳng ai làm gì giúp nó cả, bởi họ chỉ lo chửi rủa nào là quân ăn cướp, quân lưu manh chết cho đáng đời! Lúc đó tôi quên cả chuyện mất của, gọi ngay chiếc taxi chở nó đi nhà thương.

– Rồi xe ông làm sao?

– Tôi chạy xe theo, trả tiền xe và đưa nó vào phòng cấp cứu. Nhưng chỉ khoảng 30p sau là nó tắt thở.

– Do vậy mà ông về trễ?

Ba gật đầu, nhưng vẻ ủ rũ vẫn còn và hình như nặng nề hơn. Mẹ là người hiểu ba hơn ai hết, nên lại nhỏ nhẹ hỏi:

– Còn có chuyện gì sao?

– Bà có còn nhớ cô Hà, người giúp việc nhà mình hồi mấy năm về trước không?

Câu hỏi bất ngờ của ba làm mẹ cau mày:

– Lại có chuyện gì với cô ấy? Hà là người mà hồi đó ông nghi là người lấy cắp chiếc đồng hồ mà ông bỏ quên ở nhà tắm, rồi ông nhất quyết đuổi cô ấy, mặc dù cô ta khóc lóc, năn nỉ gãy cả lưỡi để xin làm việc trở lại. Và về sau…

Ba tôi tiếp lời bằng giọng ăn năn:

– Sau khi cô ấy nghỉ việc được một tháng thì tôi tìm thấy chiếc đồng hồ rơi kẹt trong cái bồn rửa mặt. Tội nghiệp cô ấy bị nghi oan…

Mẹ tôi chép miệng:

– Chuyện cũ rồi dù gì ông cũng cho cô ấy hai tháng lương.

Tuy nhiên ba tôi chợt ôm đầu, nỗi khổ đau dường như không còn đè nén được nữa:

– Bà có biết thằng giật đồng hồ của tội và bị chết đó là ai không?

Nó là con của cô Hà.

***

P/S: Đời người ai cũng phạm sai lầm hết lần này đến lần khác. Sau mỗi lần phạm sai lầm ta đều tự nhủ ta sẽ rút kinh nghiệm cho lần sau. Nhưng có một bài học mà ta luôn mắc lại sai lầm giống hệt nhau, đó là bài học quá xốc nổi, quá nóng tính. Đó là bài học khiến ta thấy ta đúng là một học sinh tồi, chỉ một bài học mà mãi không bao giờ học thuộc.

Sưu tầm

May be an image of nature

Những đêm đen thay đổi cả cuộc đời.

 

Những đêm đen thay đổi cả cuộc đời.

Đời này có lẽ rất hiếm ai may mắn từ lúc sinh ra, trưởng thành, lập nghiệp, thành gia thất, nghỉ ngơi hưu trí… cho đến thời khắc trở về cát bụi mà cuộc đời phẳng lặng êm ả, an cư một nơi duy nhất không hề dời đổi bao giờ.

1/-

Ba tôi là con trưởng trong gia đình địa chủ miền Nam thuộc một làng nổi danh nghề dệt chiếu, đẹp trai học giỏi, nói năng lịch sự nhẹ nhàng nên nhiều cô gái đem lòng yêu thương. Một phần sợ ba “lạc lòng” trước bao cám dỗ, một phần cũng như tâm lý bao người ở thời kỳ đó luôn mong có cháu chắt nối dõi tông đường nên mới 21 tuổi ba đã được ông bà nội đã cưới vợ. Ông bà ngoại tôi chỉ có má tôi là con độc nhất, sống cách làng của ông bà nội khoảng năm cây số. Những năm 1930-1940, dù ông bà là nông dân thuần phác, nhưng tư tưởng tiến bộ nên đã cho má tôi đi học đến năm 16 tuổi. Khi ông bà nội mang trầu cau sang cưới má về làm dâu thì má mới ngưng học.

Làm dâu trưởng tuy vất vả vì phải lo quán xuyến việc nhà cho gần chục thành viên bên chồng, phải thức khuya dậy sớm nấu nướng phục vụ thợ ruộng… nhưng má được ông bà nội thương yêu như con ruột, nhất là bà nội. Tiếc thay, hơn một năm sau bà nội chưa kịp ôm cháu nội nào vào lòng thì đã qua đời bởi bọn lính Lê Dương (Légion Étrangere). Hôm ấy chúng vào làng càn quét tìm bắt Việt Minh. Đàn ông, đàn bà, trai gái đều chạy ra đồng hay sang làng khác lánh nạn, tưởng để người già cả ở lại trông nhà thì không sao, ngờ đâu chúng lục soát từng nhà, bắn giết tất cả những ai mà chúng gặp, trong đó có bà nội tôi. Nên mỗi năm ngày giỗ bà nội cũng là ngày giỗ chung của làng, nhà nhà đều vang tiếng dao thớt làm cỗ cúng người thân.

Hai năm sau chị Hai tôi ra đời, được ông nội bế bồng vài tháng thì Việt Minh nửa đêm đến bắt ông đem vào bưng đấu tố vì tội “dám chở lúa đem bán ra ngoài thành mà không xin phép”. Sau có người quen chứng kiến về kể lại: Chúng xử tội ông bằng cách cột hai ngón tay trỏ treo lên cây cho chết dần trong đau đớn.

Ba tôi nhậm chức Quận trưởng Th. B khi chưa đầy 27 tuổi, vùng thuộc cuối bản đồ Việt Nam, nơi cộng sản trà trộn ẩn náu dầy đặc. Má tôi lo sợ bất an nên nhân dịp quận Đông Yên đang thiếu chức Phó Quận, má khuyên ba nên nhận chức này vì nơi ấy tương đối gần nhà hơn. Dù đây cũng là vùng xôi đậu, ban ngày Cộng Hoà, ban đêm Cộng Sản. Lúc đó phương tiện đi lại đường bộ còn hạn chế, muốn ra tỉnh phải dùng tàu hoặc đò nhỏ luồn lách qua kinh rạch mới ra sông Cái. Tôi còn nhớ thỉnh thoảng chú tùy viên lái chiếc “bo-bo” (Bord-à-Bord) chở ba, má, chị em tôi về thăm ông bà ngoại hoặc các chú cô dịp giỗ nội, Tết…

Khi chị Hai được chín tuổi, chị Ba sáu tuổi, tôi bốn tuổi, em gái kế lên hai, em trai vừa ra đời được vài tháng, gia đình chưa thỏa mừng vui vì nhà toàn con gái giờ mới có cậu trai, thì ba gặp nạn. Ông phải vào tù oan bởi Cộng Sản dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà.

Số là, một đêm khuya mọi người đang ngon giấc bỗng nghe có nhiều tiếng chân rầm rập vang trên con đường độc đạo dẫn vào dinh Quận. Tiếp đó, giọng một người đàn ông hô to lời lẽ xấc xược rằng họ thuộc đoàn quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đến đây để giải phóng đồng bào thoát ách đô hộ của chính quyền Diệm Nhu và tìm bắt “những tên ác ôn nợ máu với nhân dân”. Họ nêu một loạt tên gồm có Quận Trưởng, Phó Quận Trưởng, Cảnh sát Trưởng, Chỉ Huy Lính Bảo An…

Lúc đó tôi còn quá nhỏ nên không nhớ gì nhiều, chỉ nghe Ba Mẹ và Chị Hai kể lại, tuy lính bảo vệ dinh Quận ít hơn nhưng vẫn oanh liệt chống trả, đến gần sáng thì đẩy lui Cộng quân. Phía Cộng Hoà nhiều chiến sĩ hy sinh, trong số ấy có ông Quận trưởng, còn ba tôi may mắn chỉ bị thương. Rồi sau đó ba cùng với toàn thể viên chức hành chánh quận bị bắt giam vì tình nghi nội gián.

Thế là má con tôi bồng bế nhau về nương nhờ ông bà ngoại. Nhà ngoại gồm hai căn. Một nhà sàn cao cách mặt đất một mét, cất theo kiểu vùng Cao Lãnh, để ngừa ngập lụt, làm toàn bằng gỗ quí, mái nhà lợp bằng lá dừa nước nên lúc nào trong nhà cũng mát mẻ. Các cánh cửa chạm khắc rất cầu kỳ, phần trên có ghi năm cất nhà “1940”. Căn thứ nhì cũng bằng gỗ, nền lót gạch tàu, chung vách căn kia, thông nhau bằng cánh cửa hông. Căn nhà này là ngoại cho đất ba má cất nhà để mỗi khi đưa chị em tôi về chơi có nơi ở rộng rãi thoải mái. Chung quanh hai căn nhà bao bọc bởi hàng rào dâm bụt. Mảnh vườn phía trước trồng xoài, lý, me, ổi, hoa nhài, hoa sứ. Phía sau và bên chái có hàng dừa bụi chuối trĩu nặng hoa trái quanh năm. Bà ngoại còn dựng giàn trầu nho nhỏ, cạnh bên là giậu mồng tơi quấn quýt xanh rờn. Nhờ vậy mà khi ba gặp nạn, mẹ con tôi về có sẵn chỗ trú thân êm ấm.

Để nuôi đàn con dại, má vừa mở các lớp dạy học tại nhà vừa nhận may quần áo cho láng giềng. Các kiểu trang phục nữ-nam má đều may rất khéo nên lúc nào cũng có khách.

Lớp học của má lúc đầu chỉ vài em bé trong xóm đã quá tuổi đi học mà cha mẹ chưa cho đến trường. Má chỉ lấy tiền tượng trưng vì biết đa số đều nghèo. Nhờ phương pháp dạy chữ dễ hiểu, kèm thêm dạy lễ nghĩa nên học trò của má mau biết chữ mà rất lễ phép. Tiếng lành đồn xa, dần dần những làng bên cũng có người mang con sang học. Lớp học có tới hơn bốn mươi cô cậu từ Vỡ lòng đến lớp Nhứt (tức lớp Năm bây giờ). Chị Hai, chị Ba phụ má viết chữ mẫu bằng bút chì cho lớp Vỡ lòng tô lại bằng mực tím.

Tuy thiếu vắng ba, cuộc sống thanh bần, nhưng nhờ có ông bà ngoại hết lòng yêu thương chăm sóc nên chị em chúng tôi vẫn được hưởng một thời ấu thơ hạnh phúc. Đó cũng là nơi ký ức tuổi thơ tôi in đậm nhất mà không lớp bụi thời gian nào có thể xoá nhoà được. Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn mơ thấy mình sống trong căn nhà gỗ thân yêu ấy.

Đầu năm 1964, vào một buổi chiều nắng vàng còn vương trên ngọn chuối cành dừa bên chái, gió từ sông thổi mát rượi, có chiếc xe chở khách ngừng xéo trước cổng nhà ngoại. Từ trên xe bước xuống là bóng dáng thân yêu quen thuộc của ba hiện ra. Cả nhà mừng vui khôn xiết, khóc cười ôm ba. Láng giềng hay tin đến chúc mừng tận khuya mới giải tán. Chính quyền trả tự do cho nhiều người bị tình nghi như ba mà không thể kết án vì không có bằng chứng.

2/-

Bị tù oan năm năm, ba chán chuyện đời, muốn tìm việc gì không dính líu đến công quyền để nuôi vợ con nhưng có lẽ số mệnh ba vẫn còn nặng nợ Công Hầu Khanh Tướng nên một người bạn chí cốt là Thiếu tá Ch. thuyết phục ba tham chính. Lúc đầu ba chối từ nhưng Bác Ch. không bỏ cuộc, thỉnh thoảng ghé thăm vẫn nhẫn nại nhắc lại lời đề nghị.

Năm sau, không thể tiếp tục làm Khương Tử Nha ngồi câu cá với chiếc cần không lưỡi không mồi bên bờ sông Vị chờ thời, trút gánh nặng cơm áo cho cha mẹ vợ và vợ… nên cuối cùng ba chấp nhận đi làm trở lại. Lần này đảm trách chức vụ Trưởng Ty Thông Tin tỉnh. Nhà lại thêm cô em út ra đời. Cuộc sống tưởng đâu bình yên phẳng lặng không còn gì phải lo lắng, ai ngờ lần nữa tai ương ập xuống không chỉ với gia đình tôi mà cho toàn thể dân miền Nam hiền hoà no ấm. Cuối Tháng Tư năm 1975, miền Nam bị cưỡng chiếm trong sự hãi hùng hoang mang tuyệt vọng của bao người. Ba tôi lại khăn gói vào Trại Cải Tạo, mà thực chất là tù khổ sai lao lực nặng nhọc trong rừng U Minh muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh.

Với lý lịch ba như vậy, nên chị Hai bị nghỉ việc thư ký. Chị Ba và tôi không được tiếp tục đến giảng đường đại học. Cô em thứ năm chưa kịp thi tốt nghiệp tú tài đôi cũng chung số phận. Cậu em thứ sáu hết lớp 10 rồi bỏ học chạy xe ôm phụ giúp gia đình. Cô em út chín tuổi tiếp tục học đến lớp 12 thi tốt nghiệp thứ hạng cao nhưng không được thi đại học, chấm dứt mộng theo ngành y khoa.

Chị em tôi đặt vài cái bàn trong sân nhà bán cà phê giải khát thu nhặt vài đồng sống tạm qua ngày. Thời gian đầu, ruộng chưa bắt vào Hợp Tác Xã nên ngoại tôi còn có vài mẫu đất canh tác. Khi lúa vào mùa gặt chị em tôi về đồng phụ ngoại, thuê thêm vài thanh niên khoẻ mạnh làm giúp… nên cả nhà chưa đến nỗi đói ăn.

Đến Giáng Sinh cuối năm 1977, một đêm khuya cả nhà đang ngon giấc bỗng nghe tiếng gõ cửa dồn dập, tiếng chân người lao xao cùng tiếng hét: “Mở cửa! chủ nhà mở cửa nhanh lên cho Công an vào xét nhà!”. Má tôi ra mở cửa, giật mình thấy chừng vài chục công an dầy đặc trước sân, họ xô má qua bên tràn vào khám xét, đi từ trước ra sau, từ ngoài phòng khách vào tận phòng ngủ lùa tất cả chị em tôi dậy bắt ra ngồi im một chỗ trên salon. Họ lục tung tủ, bàn, nhà bếp, gầm giường, leo cả vào bồ đựng mấy trăm giạ lúa ở nhà sau…

Má tôi cố gạt sợ hãi hỏi: Các ông làm gì nửa đêm vào lục soát nhà tôi vậy?

Một người có vẻ là chỉ huy nói:

“Có tin báo nhà thím chứa vũ khí âm mưu chống phá cách mạng!”

“Trời, các ông thấy nhà tôi có hai ông bà già, đàn bà con gái trẻ nít, chống các ông thế nào?”

Họ gầm gừ: “Thím im đi, rồi sẽ biết ngay thôi!”

Lát sau, một trong vài công an bươi móc xào xạc trên bồ lúa, la lên:

“Đây rồi, tìm được súng giấu trong lúa đây rồi!”

Như màn ảo thuật, hắn cầm khẩu súng nhỏ giơ lên cao vẻ mặt đầy vênh váo.

Súng? Súng ở đâu mà tự nhiên có trong bồ lúa nhà chúng tôi?

Thế là mấy mẹ con mỗi người được cho mang thêm hai bộ đồ, lướt thướt leo lên xe chở thẳng vào tù, kể cả đứa cháu mới 11 tháng con chị Ba.

Ông bà ngoại và cô em út lúc ấy 10 tuổi cũng bị tống ra cho ở trong cái túp lều hoang mục rỗng, chỉ lấy tay đẩy nhẹ cũng đổ sụp, cách căn nhà khang trang của chúng tôi chỉ một khoảnh sân vài mét.

3/-

Từ năm 1954, ở miền Bắc có hàng trăm ngàn người bị đấu tố đến chết vì gán cho danh địa chủ, hàng triệu người phải bỏ nhà cửa ruộng vườn, lìa nơi chôn nhau cắt rốn… vào miền Nam trốn hiểm họa cộng sản.

Sau năm 1975, lại lần nữa để chạy trốn cộng sản, một cuộc đại di tản của nhiều triệu dân tìm đường ra biển, vượt biên giới Lào, Campuchia… bất chấp nguy nan cướp bóc, giết hại, tù tội, hãm hiếp, hay bị vùi thây dưới lòng biển. Ngay cả giờ đây đất nước hết chiến tranh, vẫn còn nhiều người Việt tìm cách ra đi, chết ngạt trong container đông lạnh.

Gia đình tôi, nhiều đời dân miền Nam chính gốc. Ông nội chưa hề đặt chân đến Sài Gòn, làm sao hình dung được xứ Bắc với cảnh đấu tố xử tử rùng rợn ngay từ năm 1951. Thế nhưng, ông cũng đã phải chịu cách xử tử dã man của cộng sản, một cái chết treo từ không trung, hãi hùng đau đớn, lúc chưa đầy năm mươi tuổi.

Đến đời ba mẹ chị em tôi không phải chạy giặc xa xôi nghìn dặm từ miền Bắc, miền Trung, gồng gánh qua những đại lộ kinh hoàng đầy xác người, bom rơi đạn lạc; không phải mất nhiều ngày tháng lang thang đói khát, tìm đường xuống tàu hay bất cứ phương tiện nào để vào Nam… mà chỉ vài bước chân từ mảnh sân này qua mảnh sân kia, từ chỗ buổi tối còn quây quần cùng nhau thì sáng hôm sau hơn hai phần ba thành viên trong gia đình ngồi thu lu trong trại tù, một phần ba còn lại thành kẻ vô gia cư, ngơ ngác mất hồn trong căn chòi hoang rách nát, bàng hoàng chưa hiểu vì sao!

Mẹ con tôi ở tù hơn ba tháng thì chúng thả cho về với tội danh “vượt biên”. Còn cậu em trai 18 tuổi thì bị gán tội giấu vũ khí để mưu toan chống phá nên bị giam trong phòng kín cả năm trời. Rồi vì không khám phá thêm được điều gì, chúng chuyển em vào trại tù U Minh mà ba tôi đã từng ở đó trước kia. Thật ra, chúng bày chuyện giấu súng làm lý do để chiếm đoạt hai căn nhà do mồ hôi nước mắt của ông bà tôi tạo dựng.

Chế độ ấy muốn dìm gia đình chúng tôi xuống tận cùng như hàng triệu gia đình miền Nam khác nhưng nhờ sự độ trì của đấng thiêng liêng, nghị lực, ý chí, sự đoàn kết thương yêu của bốn thế hệ ”tứ đại đồng đường”, chúng tôi đã vượt qua mọi khốn khổ.

Em trai được tha về, em cùng nhóm mươi bạn trẻ hùn nhau mua dầu, lương thực bất chấp mùa biển động, chiếc ghe nhỏ liều chết ra đi. May mắn em cũng đến được bến bờ tự do sau khi trải qua hải tặc, bão táp. Hơn 40 năm nay, em đã có cuộc sống an lành nơi xứ lạnh tình nồng. Mấy năm sau, ba tôi cũng được tha về. Má không nỡ bỏ ngoại đã già yếu không người chăm sóc lúc cuối đời để ra đi. Ba thì không thể sống nơi nào thiếu má, nên rốt cuộc đành gác lại chương trình H.O. Các chị em tôi lần lượt lấy chồng, an phận.

Riêng tôi cũng đạt ước mơ thời đi học là được sống trên xứ sở bình yên, hiền hoà, phong cảnh đẹp như tranh – Thụy Sĩ. Tôi chọn nơi này là quê hương thứ hai để sống cho tới cuối đời…

Thụy Sĩ, August 2021

VƯỜN CHIM

VƯỜN CHIM

– Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích –

Tôi đang lui cui lau sàn nhà, bất chợt tiếng thắng xe kêu rít lên phía trước sân.

Ném nùi giẻ vào sô nước, tôi vội vàng bước ra ngoài hiên xem ai đến. Anh bạn Chu Tăng Mạnh ngồi trên yên chiếc xe Honda Nữ Hoàng đời mới bóng loáng nhìn tôi cười rạng rỡ. Mạnh khóa cổ xe rồi bệ vệ bước vào nhà.

Nhìn đôi giày da bóng lộn với những con đỉa dưới đế giày nện cộp cộp xuống nền nhà tráng xi-măng, tôi đoán chừng tay này hiện giờ được cả thần lẫn thế. Mạnh niềm nở bắt tay tôi :

– Mình được tin cậu về đã hơn một tháng rồi, mà bận quá không vào thăm được. Hôm nay, nhân tiện vào khám bệnh cho ông Chủ Tịch Huyện, mình ghé vào thăm cậu, bà xã đâu mà cậu phải lau nhà ?

– Thấy bà ấy vất vả quá, trông đau lòng. Mình mới ra tù chưa có việc gì làm nên giúp vợ được chút nào hay chút đó. À, chị Mạnh vẫn khỏe chứ ?

– Ma-đam tôi thời nào lại không khỏe, có làm gì động móng tay đâu. Mạnh tự tin trả lời.

Nhìn toàn thân tôi rồi đưa tay lật mí mắt theo thói quen nghề nghiệp của ông thầy thuốc chẩn đoán con bệnh, Mạnh than:

– Thiếu máu trầm trọng. Trông cậu có vẻ mập nhưng là mập nước đấy, triệu chứng của cơ thể thiếu chất khoáng và vi-ta-min. Hãy ăn nhiều thịt cá vào mới tránh được tình trạng cơ thể suy kiệt.

Tôi nhếch mép cười, gục gặc đầu, nghĩ thầm: “ Mới trong tù ra, thiếu dinh dưỡng là cái chắc. Giờ đây, được ăn no bụng là quý rồi, lấy đâu mà thịt với cá, ông tướng nầy như ở trên trời rơi xuống”

– Này, mình vào đây thăm cậu, nhân tiện mời ông bà đến tham dự tiệc kỷ niệm 15 năm ngày cưới của vợ chồng mình vào ngày 25 tháng 3 tới đây. Xin nhớ một điều là không được mang quà cáp gì hết. Tụi mình sẽ không nhận của ai một món nào. Nếu cậu không nghe là buộc phải mang về đấy. Ngày đó, mình sẽ biếu cậu một số thuốc bổ tổng hợp. Gởi lời thăm ma-đam của cậu, ô-rơ-voa nhé.

Mạnh đưa bàn tay trắng muốt, những ngón tay búp măng no tròn mịn màng nắm bàn tay tôi sần sùi chai cứng. Lật ngửa bàn tay tôi lên, Mạnh sững sờ nhìn vào đó như nhìn một vật lạ, kinh ngạc hỏi :

– Nầy, cậu lao động chân tay khổ nhọc đến thế sao? Những cục u trên bàn tay cậu rất khó biến đi đấy. Mạnh lắc đầu , ngậm ngùi từ biệt tôi.

Hắn vừa phóng xe ra khỏi ngõ thì vợ tôi cũng vừa đạp xe về nhà. Nàng lên tiếng hỏi:

– Ai như thầy Mạnh vừa trong nhà mình mới ra ?

Xách chiếc giỏ đựng đầy khoai lang trên boóc ba-ga xe đạp giúp vợ, tôi trả lời:

– Anh ấy đi khám bệnh cho người ta, sẵn dịp ghé thăm tôi.

Vợ tôi tiếp :

– Giàu có và đầy thế lực lắm đấy. Bác sĩ cách mạng mà. Ở thị xã, từ ông to đến dân hèn, ai mà không biết bác sĩ Mạnh.

Tôi ngạc nhiên hỏi :

– Mạnh đậu bác sĩ hồi nào vậy?

Vợ tôi xách túi rau, dựng xe vào tường, nhìn chồng trả lời cụt ngủn:

-Bác sĩ tự phong.

***

Năm 1968, Chu Tăng Mạnh đang là sinh viên năm thứ 3 Y khoa Huế nhưng nằm trong nhóm sinh viên hoạt động bí mật của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Qua hai mươi lăm ngày đêm VC đánh chiếm thành phố Huế trong Tết Mậu Thân , những hoạt động thiên tả của họ trở thành công khai. Khi tình hình ở Huế đã trở lại bình thường, Chu Tăng Mạnh bị loại ra khỏi trường Y. Anh trở về quê cưới vợ và xin giờ dạy môn Pháp văn cùng trường trung học tư thục với tôi. Ngày đó, Mạnh gắn trước cửa nhà cái tấm bảng nhỏ “ Chích thuốc theo toa Bác sĩ”. Vừa đi dạy vừa làm nghề chích thuốc tư, cuộc sống của gia đình Mạnh tương đối thong thả.

Trước ngày kỷ niệm 15 năm kết hôn, Mạnh cho người mang thư mời vợ chồng tôi. Ngày đó, chỉ mình tôi đến tham dự còn vợ tôi từ chối.

Chiếc xe lam cũ kỹ, chạy ọp ẹp trên con đường lở lói đến thị xã hơn mười cây số. Tôi xuống xe lội bộ đến nhà Mạnh. Trước 1975 nhà chỉ một căn, bây giờ mở rộng ra hai cánh tả hữu. Đập vào mắt của khách đi đường là tấm bảng nền xanh chữ trắng: “Bác Sĩ Chu Tăng Mạnh”. Có lẽ còn sớm nên phòng tiệc chưa có một ai. Mấy dãy bàn trải khăn nhựa in hoa, những đĩa chén mỏng loại đắt tiền được đặt bên trên bàn ngay hàng thẳng lối.

Nghe tôi đến, Mạnh từ trong phòng, hai tay còn đang thắt chiếc cà-vát đã vội vàng ra bắt tay tôi :

– Cậu thấy nhà mình khác xưa nhiều phải hông? Thân thế lắm mới mua liên tiếp được hai căn nhà hai bên. Căn bên trái là của một gia đình Tàu xuất cảnh chính thức, còn căn bên phải của một gia đình vượt biên.

Mạnh nắm tay tôi dẫn ra phía sau nhà. Một cảnh trí khiến tôi ngạc nhiên phải buột miệng ồ lên thích thú. Như một khu vườn bách thảo thu gọn giữa cái thành phố nghèo nàn nầy. Cây ăn quả xanh ngát một vùng. Đặc biệt là thú chơi chim của Mạnh.

Dọc theo bức tường ngăn cách với nhà hàng xóm từ trước ra đến tận cùng khu vườn đều có mái hiên che. Vô số các loại lồng chim treo bên dưới. Lồng to, lồng nhỏ, dưới thấp , trên cao , san sát, lủng lẳng. Chợt tiếng cu gáy nổi bật trong rừng chim đang hót líu lo. Tôi trực nhìn lên cây dừa cao thấy lồng chim cu cườm đang giương bẫy. Mạnh giải thích ngay :

– Nhà mình có đến chục con cu gáy nhưng con nầy quý nhất. Tiếng gáy của nó như có ma lực. Cậu để ý tiếng gáy có thể phân biệt làm năm âm tiết : Cúc – cù – cu – cú – cu… Mình có thể nói bất cứ con cu nào, dù đang có đôi bạn mà nghe được giọng “bổ ngũ”của nó là bỏ bầy tìm đến ngay. Mạnh ngưng một khắc, hít một hơi dài như để thưởng thức bầu không khí trong lành, mát rượi đầy bóng cây xanh của vườn nhà, rồi giải thích thêm:

– Điểm đặc biệt của con “bổ ngũ” nầy là gáy cả ban đêm (1). Tiếng gáy của nó đánh thức cả vườn chim của mình. Ngay cả lòng người cũng cảm thấy nao nao.

Tôi đi dọc theo khu nuôi chim như đi duyệt hàng quân. Phía sau có Mạnh như một cận vệ với sự niềm nở chân tình. Chim chóc nhiều vô kể. Con lớn, con nhỏ, con đen, con trắng, con vàng, con nâu chen chúc tíu tít. Nào chim cu gáy, sáo nghệ, sáo ngà, sáo sậu, kia là chích chòe, bìm bịp, chào mào, chèo bẻo, chim gi… Loại sang trọng và quý hiếm có họa mi, thiên thanh, công đất, chim trĩ đỏ.

Nghe nói loại trĩ đỏ nầy chỉ có ở Cao bằng, Lạng sơn và vùng thượng du Bắc Việt. Bộ lông của nó nhiều màu sắc rất đẹp, đầu và trước cổ xanh lục, thân mình màu nâu hung đỏ, nâu vàng với các chấm đen. Đuôi dài nhỏ, mắt nâu đỏ.

Mạnh húyt huýt vài tiếng sáo miệng, đưa tay búng nhẹ vào nan lồng, con trĩ quay đầu ngước nhìn về phía chúng tôi. Đôi mắt lóng lánh màu nâu đỏ, thoạt trông như hai viên hồng ngọc lồng trong mắt chim, Mạnh lên tiếng:

– Mình tậu được con trĩ đỏ nầy là cả một công trình khó nhọc trong chuyến đi tham quan với các cụ Cựu chiến sĩ. Mình chi đứt nửa chỉ vàng cho chủ nó. Như bất kỳ dân chơi nào cũng đều kiêu hãnh với cái thú của mình, Mạnh tỷ mẩn giới thiệu từng loại chim kể cả xuất xứ của nó :

– Đây, con két của ông Bí thư Huyện tặng. Nó đã bắt đầu bập bẹ vài ba tiếng người. Cái lồng nhốt con trĩ đỏ nầy là của Giám thị trưởng trại tù cải tạo Z do bàn tay khéo léo của tù nhân làm ra. Nhìn kỹ từng nan lồng cậu mới phục cái công khó của họ. Tất cả đều bằng loại nhôm của thân máy bay trực thăng rơi trong rừng rậm được cắt ra mài dũa, uốn cong thành vòm, đánh bóng rất công phu. Còn đây là con sáo nghệ chân đỏ, mỏ vàng của một bệnh nhân đem đến tạ ơn mình đã chữa lành bệnh lao. Nó bắt chước tiếng người rất chuẩn. Vừa nói, Mạnh vừa cho sáo trổ tài ngay: “ Mạnh, có khách ”.“Trộm vào nhà”. “Rượu, rượu Mạnh ơi”.

Tôi lập tức rời khỏi con sáo đang liến thoắng.

Tôi vốn dị ứng với loại chim lồng biết nói tiếng người từ khi xảy ra một vụ thương tâm tại trại tù cải tạo. Chuyện xảy ra như sau:

Anh em tù đi chặt lồ ô trên rừng cao bắt được con chim bách khứu mới chuyền cành. Loại chim nầy rất hiếm, chỉ sống trên những khu rừng già. Nó có nhiều giọng hót khác nhau, khi nhặt, khi khoan, khi trong, khi đục, lên bổng xuống trầm rất giàu nhạc điệu.

Vì không đủ điều kiện chăm sóc nên anh em giao cho nhà bếp nuôi. Loài chim khướu bắt chước tiếng người nhanh hơn loài sáo nghệ, chim két. Chỉ hơn một năm sau là khướu nói được nhiều từ dí dỏm. Đến giờ anh em tù đi lao động về, ùa xuống bếp lấy nước là từ trong lồng đã nổi lên tiếng khướu tía lia nhắc nhở : “Trật tự, trật tự…” “nước sôi, nước sôi…” Những lúc chỉ một vài người, khướu lịch sự : “Chào bạn, mạnh giỏi…” Vì là khu công cộng nên nhiều tù nhân đến nói chuyện với khứơu và dạy cho nó nói vài từ trêu chọc.

Khu trạm xá có chị cán bộ y tá mới đến nhận việc. Lần đầu tiên đến thăm khu nhà ăn, bất ngờ chị nghe giọng nói khàn khàn phát ra từ trong góc nhà :

– “Anh yêu em”.

Chị Cán bộ tưởng tù trêu ghẹo mình liền sừng sộ:

– Anh nào vừa nói đấy ?

Không ai trả lời, chỉ có tiếng lặp lại. Lần nầy với giọng lảnh lót :

– “Anh yêu em”.

Nữ cán bộ nhìn vào chiếc lồng mới phát hiện con chim khướu trêu mình. Bị hố, chị xấu hổ bỏ đi. Mấy anh tù nhà bếp bụm miệng cười. Con khướu còn biết huýt sáo, gọi tên con Vện, chó của cán bộ lẩn quẩn ở khu nhà bếp.

Một hôm, ông cán bộ Chính uỷ Sư đoàn ghé vào nhà bếp của tù kiểm tra. Bất chợt con khướu vừa đập cánh vừa hét to : “Vi xi, Vi xi”. Ông cán bộ kinh ngạc. Nhìn con chim, nhìn đám tù nhà bếp đang đứng nhìn nhau sau dãy chảo nấu cơm, người nào cũng sững sờ. Ông ra lệnh vệ binh mang lồng chim về ban chỉ huy trại.

Liên tiếp nhiều đêm, cả toán nấu bếp viết tờ kiểm điểm. Quản giáo buộc họ phải tìm cho ra người nào đã dạy con khướu nói những từ “phạm húy” đó. Cuối cùng không tìm được thủ phạm. Toán nhà bếp bị đuổi ra ngoài đi lao động sản xuất thay thế toán người mới. Lồng chim khướu bị vất trong chòi chất tranh không cho ăn, cho uống. Ba ngày sau khướu xủ cánh chết. Nhìn xác con khướu cắn mỏ vào nan lồng không chịu nhả ra cho đến chết, khiến lòng tôi quặn thắt.

***

Khách khứa, bè bạn đã bắt đầu tề tựu. Mạnh vào nhà tiếp khách, còn lại mình tôi đứng vẩn vơ giữa vườn chim. Tôi rưng rưng nước mắt nhớ về hình ảnh con chim khướu năm nào gục chết trong lồng, rồi liên tưởng đến các con tôi còn trong tuổi học ăn học nói. Tôi không dám nghĩ tiếp, bèn vội vàng bước vào nhà.

Tiệc bắt đầu, tôi chọn ngồi vào chiếc bàn khuất sau cây cột cùng với mấy người bạn láng giềng của chủ nhà. Mạnh lần lượt giới thiệu từng nhân vật danh dự trước khi vào tiệc. Toàn là chức sắc có uy quyền. Tôi thầm phục tay nầy thuộc loại “bắt mánh” vào hàng “thượng thừa”.

Gần mười năm, hôm nay tôi mới được ăn một bữa cơm thịt cá ê hề, có cả loại rượu mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và thuốc hút ngoại nhập. Tôi thật sự choáng váng trước lối sống vương giả giữa một xã hội khốn cùng.

Xong tiệc, Mạnh mời khách ra vườn thưởng thức khu nuôi chim. Vì không muốn gặp mặt mọi người nên tôi đứng chôn chân tại cuối góc vườn. Trước mặt tôi là lồng nhốt con cu cườm. Mạnh tưởng tôi thích con cu cườm nên đến vỗ vai tôi :

– Mình biết cậu “mết” chú cườm nầy rồi. Nó gù mồi độc đáo lắm, dai dẳng, lỳ đòn cho đến khi đối thủ vào bẫy. Biếu cậu đấy, nhớ mang nó về nhé.

Mạnh nào biết tôi rất ghét nuôi chim, chỉ thương hại chúng nó phải chịu thân phận chim lồng. Tôi nghĩ thầm : “Ừ thì cứu được con nào hay con nấy”. Tôi liền lên tiếng cảm ơn Mạnh .

Quan khách lớn nhỏ lần lượt ra về, người nào cũng được chủ nhà biếu một món quà kỷ niệm. Riêng tôi với chú chim cu gáy được người làm quây kín lồng bằng tấm vải đen. Ông cán bộ xã, chú vợ của Mạnh ở gần quê tôi được cháu rể tặng một đôi bìm bịp nhốt trong chiếc lồng khá lớn.

Mạnh xách lồng chim đồ sộ trao cho ông chú vợ :

– Khu chú ở có dòng sông, vườn cây và cánh đồng rất hợp phong thổ cho sự phát triển giọng hót của loại bìm bịp. Cặp chim nầy cháu nuôi từ lúc chưa mọc lông cánh. Cháu bảo đảm với chú không có cảnh nào thích thú hơn là vừa nhâm nhi ly rượu thuốc vừa nghe tiếng bìm bịp kêu khi chiều về trên dòng sông cuồn cuộn chảy trong mùa nước lên,.

Tôi mang lồng chim về đến nhà. Con tôi mở tấm vải ra, chú cu cườm sợ hãi chạy loanh quanh trong lồng, Vợ tôi lắc đầu bảo:

– Anh à, diện của mình mà chơi trò bẫy chim cu là bị ghép tội “Lười lao động, ngồi không ăn bám”. Biết đâu lại vào tù “cải tạo lao động”. Con tôi thì mừng rỡ vây quanh.

Không ai biết được thâm ý tôi là “phóng thích được con nào hay con nấy”.

Sáng sớm hôm sau, khi hừng đông chưa rựng đỏ, tôi mang lồng chim ra giữa đồng lúa đang chín tới. Tôi mở cửa lồng, chim đưa cặp mắt tròn xoe do dự. Một thoáng bất ngờ nó phóng ra khỏi lồng vỗ cánh bay bổng lên giữa khoảng trời xanh và cánh đồng lúa vàng mênh mông.

– Giã từ chim nhé, hãy vui với ngày tháng tự do.

Tôi nói vừa đủ cho chính mình nghe. Và tâm trạng của tôi chợt rộn ràng như ngày tôi cầm được giấy ra trại ung dung bước ra khỏi cổng nhà tù. Niềm hạnh phúc của nỗi vui đoàn tụ như nâng từng bước chân tôi, chẳng khác gì loài chim tung cánh bay lên giữa trời mây.

– Một tháng sau, tôi đạp xe vòng vòng tìm chòi đạp mía mua đường muỗng cho “mẹ bầy trẻ” nấu chè bán dạo. Bất ngờ, tôi gặp ông chú vợ của Mạnh trong lò đường của hợp tác xã Hiệp Phương. Nhận ra tôi hôm dự tiệc tại nhà cháu rể, ông vồn vã mời vào chòi uống nước chè hai (2). Ông tâm sư:

– Thằng cháu rể tôi, bác sĩ Mạnh theo Tây y nên dốt đặc cái món thuốc nam. Môn thuốc đã mấy mươi đời lưu truyền trong nhân gian. Cặp chim bìm bịp của nó cho tôi quý lắm. Đại loại, bìm bịp đạt đến mức mắt đỏ, tròng trắng, cổ cườm, đuôi xòe dải quạt là cực quý (3). Đâu phải dễ dàng bắt được đủ cặp trống mái. Bìm bịp mà ngâm rượu mạnh cả đôi, đúng một trăm ngày chôn dưới đất, xương sẽ tan ra trộn lẫn với thịt của nó, lọc lấy phần rượu trong uống mỗi ngày một ly là xương cốt cứng trở lại như tuổi hai mươi. Rượu bìm bịp thuộc loại trung tính chế được cả âm lẫn dương(4) Thằng Mạnh nó mê tiếng hót còn tôi thì quý cả thịt lẫn xương của giống chim bìm bịp.

Hai tháng, mười ngày nữa cậu ghé nhà tôi chơi, lúc đó hủ rượu ngâm bìm bịp đủ trăm ngày, tôi mời cậu dùng thử vài ly để chứng nghiệm món thần dược của ông bà ta để lại .

Tôi than thầm : “Thế là xong đời một đôi chim !”

Hai tháng sau đó, tôi vào đất Lâm Đồng làm công nhân gạch ngói trong tổ hợp của người anh cột chèo nên không có dịp đến nhà ông chú vợ của Mạnh để được uống rượu ngâm bìm bịp.

Những ngày tháng phải xa vợ, xa con vì sinh kế thật là ảm đạm nhưng tâm trí tôi lúc nào cũng thanh thản với cuộc sống tự do ngoài đời.

Vào cuối tháng chạp âm lịch, tôi về quê ăn Tết có mang theo một món quà đặc biệt tặng cho Chu Tăng Mạnh để gọi là tạ ơn người bạn dạy học cùng trường trước kia đã có tấm lòng hào hiệp biếu cho tôi mấy chục liều thuốc bổ và con chim cu cườm. Món quà là một pho tượng bằng đất sét nung mà tôi đã bỏ công mấy tháng trời nặn đi nặn lại theo bức hình chụp tượng trên một tấm bưu thiếp. Người lực sĩ hai tay nâng cao con chim bồ câu vươn đôi cánh chuẩn bị bay vút lên bầu trời. Bức tượng nói lên niềm khát vọng tự do và quyền sống.

Khách hàng đến mua gạch ngói nhận xét bức tượng có hồn. Xin được nói rõ ở đây, tôi chỉ là tay thợ làm gạch ngói bình thường nhưng tôi đã dành hết tâm lực và ước nguyện của mình trong khi nặn tượng. Niềm khao khát tự do tìm ẩn trong nội tâm đã truyền lực vào đôi tay tác động lên đường nét của tác phẩm. Tuy bức tượng còn nhiều chỗ ngây ngô thô kệch của người tay ngang nhưng không ngờ lại có thần như vậy.

Vừa đặt bức tượng lên bàn và nói với vợ tôi về ý định làm quà Tết cho Mạnh. Nàng lắc đầu bảo :

-Mạnh không còn ở đó nữa !

Tôi ngạc nhiên hỏi dồn :

-Chuyện gì đã xảy ra và anh ấy đi đâu ?

Vợ tôi trả lời gọn lỏn :

– Đi tù !

Tôi thật sự ngỡ ngàng. Chân tay tôi rịn ướt mồ hôi dù khí trời đang lạnh giá của tiết Đại hàn.

Rồi vợ tôi kể đầu đuôi câu chuyện mà nàng nghe được:

– Một hôm, thình lình toán công an kinh tế đến bao vây nhà Mạnh suốt đêm, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Sáng ngày, một phái đoàn thanh tra từ trung ương về lục soát nhà của Mạnh. Nghe nói một số thuốc tây ngoại nhập khổng lồ chứa bất hợp pháp trong nhà. Số thuốc giá trị nầy do Liên Hiệp quốc và các quốc gia Âu Mỹ viện trợ để phân phát cho các bệnh viện, trạm xá…Mạnh lại giả mạo bằng bác sĩ của chế độ cũ, hành nghề không giấy phép. Họ kết tội Mạnh hối lộ, móc ngoặc, âm mưu đầu độc cán bộ đảng viên bằng những cuộc chơi trác táng hầu làm mất dần phẩm chất đạo đức cách mạng. Đây là hình thức chiến tranh tâm lý của bọn làm gián điệp cho nước ngoài .

Nghe đến đây, cả người tôi nổi gai ốc. Vợ tôi tiếp:

– Ba căn nhà đều bị tịch thu. Vợ con anh ấy chỉ được ở tạm khu nhà bếp, theo lệnh tòa án.

Tôi thở dài ngao ngán :

“ Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”(5). Lời người xưa quả thật không sai. Bài học đầy nước mắt mà Mạnh đã nhận được ngày hôm nay đối với anh ta đã quá trễ, nhưng lại hữu dụng cho đời con cháu của anh sau nầy. Đó là gương trước mắt chúng cần phải tránh xa /.

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

(1)(3) (4)- Theo Phạm Ngọc Tiến TNVN
(2)-Nước mía nấu lần thứ hai trước khi thành mật
(5)-“Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí” = Vận may, phúc lành họa hoằn lắm mới có, không lặp lại nhiều lần, còn tai họa không chỉ đến một lần mà hay đến dồn dập,

Hình Như Là Định Mệnh…

Van Pham

TRUYỆN NGẮN – Phạm Ngọc

Hình Như Là Định Mệnh…

Tôi không tin ở tử vi bói toán. Nhưng mười mấy năm sống với mấy ông thần nửa người nửa ngợm bên nhà, tôi cũng như đa số bạn bè khác, không có gì bám víu để tin tưởng là sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn, nên cứ nghe chỗ nào có ông bà thầy bói nào hay là đến xem. Để biết số mình có được một sự đổi đời nào không?

Qua Mỹ, mấy năm đầu tiên, năm nào tôi cũng đợi đến gần Tết móc túi đem “cúng” hai chục đô la cho mấy ông bà thầy bói để mua một cuốn lịch tử vi. Mua riết hai, ba năm gì đó, thấy mấy sư phụ đoán mò trật lất 100%, hình như năm nào cũng đổi lời bàn từ con giáp nầy sang con giáp khác, sau khi kê khai ra hàng loạt những sao, hạp và không hạp với tuổi mình trong năm đó! Đố ai nhớ hết và biết được mấy sư phụ muốn nói gì với những sao như vậy? Ít khi mấy ổng nói con giáp nào thật xấu, thật xui. Con giáp nào cũng có cái xui cũng có điều hên! Nói theo kiểu “bù trất” ấy mà! Nên tôi “nghỉ chơi”, không thèm mua lịch bói toán tử vi nữa!

Đúng là bói ra ma, quét nhà ra rác như các cụ ta ngày xưa thường nói! Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng phải chăng có một định mênh đang ở đâu đó quanh chúng ta và có dịp là bủa vây và cột chặt đời chúng ta lại với nhau, cho dù chúng ta muốn hay không muốn? Phải chăng mỗi một người chúng ta đều có một phần số, không ai tranh dành số phần của ai được cả? Câu chuyện sau đây của gia đình người bạn thân chúng tôi đã chứng minh điều nầy. Vì chuyện thật mà nghe cứ như là tiểu thuyết.

Khi tôi xin phép anh chị được ghi lại nguyên văn câu chuyện, chị nói: “Thôi mà, mấy anh chị có thương tụi nầy thì nghe xong rồi bỏ qua đi. Coi như là “mua vui cũng đưọc một vài trống canh” thôi! Viết ra nhiều người lại tưởng mình biện bạch cho cái nầy cái nọ, nói là tụi mình qua đến đây rồi mà còn mê tin dị đoan! Và lại còn nghĩ tụi mình đề cao tử vi bói toán, quảng cáo cho ông thầy nào nữa thì khổ! Mấy Cha mà biết mình lại còn phải đi xưng tội nữa đó!”.

Nhưng người viết bài nầy đành xin lỗi anh chị vậy, vì câu chuyện anh chị lạ quá.

Sau đây là câu chuyện chị Phương đã kể:

“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo nên phải vừa đi học vừa bán bánh cam và thuốc lá nuôi mấy đứa em. Mẹ mất sớm, bố tôi lại là sĩ quan vừa đi tù về, nên không có công ăn việc làm. Thế là bố dọn một tủ thuốc lá, tôi ngồi kế bên, vừa học bài vừa bán phụ bố, vừa ghi sổ mấy người cùng xóm mua thuốc lá thiếu! Ban ngày đi học ở Gia Long (sau 1975 đổi thành Trường Nguyễn thị Minh Khai), vừa đi học vừa đem mấy bịch me hay cóc, ổi vào lén bán cho mấy đứa bạn thân cùng lớp con nhà khá giả muốn giúp đở tôi. Chiều về, sau khi mấy cha con ăn uống xong, tôi lại phụ dọn tủ thuốc ra đầu đường Cao Thắng gần nhà để vừa học bài dưới ánh đèn đường vừa phụ bán thuốc lá. Thi tốt nghiệp cấp ba xong tôi nộp đơn hai, ba trường Đại Học với ước mơ là sẽ đi xa hơn để có thể giúp gia đình nhiều hơn.

Đại học nào cũng từ chối vì lý do… lý lịch tôi xấu quá! Bố là sĩ quan ngụy, lại xuất thân từ trường Cây Mai nữa! Tôi không nản chí, tiếp tục nộp đơn vào các trường cao đẳng, ít ra thì vấn đề xét lý lịch ở các trường nầy cũng nhẹ hơn. Tôi được nhận vào học Cao Đẳng Sư Phạm. Lúc vào phòng tổ chức trường Sư Phạm hỏi khi học xong thì sẽ được dạy ở đâu thì họ trả lời sẽ được “điều” lên dạy ở các vùng sâu vùng xa với đầy đủ lương bổng (mấy chục đồng một tháng!) và mười mấy kí gạo tiêu chuẩn.

Bố tôi nói: “Con là con gái mà lên mấy chỗ đó thì chỉ có nước nộp mạng, trước hết là cho muỗi mòng sốt rét, sau là cho mấy thằng bộ đội răng nanh mã tấu!” Tôi năn nỉ xin bố cho đi học, vì như thế mới có mười mấy kí gạo để nuôi gia đình bảy người và được thêm mấy chục đồng để phụ vào đi chợ! Nhưng Bố tôi nhất định không chịu.

Tôi lại nộp đơn thi nữa, và chuyển qua học Trung Cấp Ngân Hàng. Tốt nghiệp xong, họ bảo tôi lên môt ngân hàng ở Thủ Đức để trình diện. Tôi mượn bố chiếc xe đạp cà rịch cà tàng mà bố vẫn đi mua thuốc lá sĩ về bán để đạp lên Thủ Đức. Đi từ sáng sớm, đạp mấy chục cây số đường trường, ngược gió và bụi mù trời, tôi vừa đạp vừa khóc. “Chúa ơi sao con khổ quá thế này?”

Đến nơi, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thở không ra hơi, tôi vừa mới leo lên tầng thứ 10 của toà nhà gặp họ thì họ bảo đã tuyển đầy đủ nhân viên, nói tôi về Ngân Hàng Nhà Bè, có thể ở đó đang cần người. Đến Nhà Bè họ lại nói đã đủ người, nên đi tìm chỗ khác. Ngân Hàng cuối cùng nhận tôi vào làm là Ngân Hàng Quận 5 sau khi đạp chiếc xe cà khổ đi khắp các chi nhánh trong mấy tháng trời để xin việc. Tôi làm ở đó, được tất cả mọi người thương mến, có lẽ do tính cần cù chăm chỉ và ít nói của tôi.

Kế bên nhà tôi ở lúc đó có chị Bích người Đà Nẵng vào mua một căn nhà nhỏ trong cư xá Đô Thành để các cháu của chị ngoài Trung vào Sài gòn học Đại Học có nơi cư ngụ. Chị Bích rất thương tôi và hay kêu tôi cùng hai cô bạn nữa, qua nhà ăn uống mỗi khi chi bán được món hàng gì đó có lời kha khá. Tụi tôi thường chọc phá chị, nói:” Hôm nay chi Bích mình dzô mánh rồi nhen !”

Năm 1990 có gia đình người thân của chị ở Đà Nẵng vào chuẩn bị phỏng vấn đi Mỹ theo diện đoàn tụ. Tuần nào chị cũng kéo tụi tôi qua nhà ăn uống “để đến khi qua Mỹ rồi tụi nó sẽ không quên chị em mình bên nầy được”.

Lúc đó thật tình tôi cũng chẳng quan tâm đến vần đề đi Mỹ của vợ chồng anh Phan và hai cháu. Lúc gặp mặt ăn uống chung, tôi chỉ nói chuyện với vợ anh, chị Bích và hai cô bạn. Trước ngày gia đình anh Phan lên máy bay, chị Bích nhắn với chúng tôi: “Ngày mai mấy đứa xin nghĩ buổi sáng để ra phi trường Tân Sơn Nhất đưa vợ chồng con cái thằng Phan đi Mỹ nghe chưa? ” Tôi từ chối vì không thể nào xin nghỉ ở Ngân Hàng được vì đang mùa cao điểm của mấy tổ hợp đem tiền đến trả nợ. Chị Bích có vẽ giận: “ Mi mà không đi là tau từ mi luôn đó nghe chưa Phương?” Tôi nghe nói hoảng hồn, vì chưa bao giờ chị gọi tôi bằng mi cả! Phải biết là chị đang giận ghê gớm lắm.

Sáng hôm sau tôi đành phải năn nỉ mấy bà xếp ở ngân hàng xin nghĩ buổi sáng để tiễn gia đình một người bạn đi Mỹ. Giống những cuộc đưa tiễn khác, cũng có chụp hình, có chia tay bịn rịn… Tôi đứng nói chuyện với vợ con anh Phan cho đến lúc gia đình họ bước vào phòng cách ly để lên phi cơ.

Những năm tháng sau đó, thỉnh thoảng chị Bích có gọi tôi và mấy cô bạn qua nhà nhận mấy món quà nho nhỏ từ Mỹ gửi về. Liên lạc giữa chúng tôi chỉ có thế. Mười năm sau, tôi được tin chị Phan bị bệnh nan y, đã vô phương cứu chữa. Chị Bích gọi chúng tôi đến nhà và nói: “Tội nghiệp thằng Phan, mới qua Mỹ chưa được bao lâu…” Ngày được tin chị Phan qua đời, chị em chúng tôi có gọi phone qua chia buồn. Anh chỉ nói cám ơn rồi khóc.

Vài năm sau đến lượt hai cô bạn của tôi cũng được gia đình bảo lãnh. Cô bạn ở Cali, một hôm đi chợ tình cờ gặp anh Phan và hai đứa con. Mừng quá trước cuộc gặp gở bất ngờ, anh Phan mời cô bạn tôi về apartment của 3 cha con nói chuyên cho vui rồi sau đó cùng đi ăn. Trong câu chuyện rôm rả, cô bạn tôi bỗng hỏi: “Anh Phan còn nhớ nhỏ Phương, bạn cùng nhóm của tụi em mà anh đã gặp tại nhà chị Bích không? Bây giờ chỉ còn một mình nó ở lại Sàigòn. Em sẽ đưa địa chỉ nhà và email của nó để khi nào rãnh anh liên lạc với nó nói chuyên cho vui.”

Một hôm đi làm về tôi mở computer ra thấy một địa chỉ email lạ không biết là ai. Tôi đọc: “Một cô bạn của cô Phương vừa cho tôi địa chỉ email nầy nên liên lạc thử. Nếu đúng, và nếu không có gì trở ngại, xin cô Phương liên lạc với tôi cho vui. Tôi vẫn còn nhớ những lần họp mặt ăn uống tại nhà chị Bích, chị họ của tôi. Bà xã tôi mất cách đây ba năm, hai đứa con tôi, một đứa đã lên Đại Học, còn cô con gái đang học lớp 10. Từ hồi qua Mỹ đến giờ tôi làm đủ thứ nghề nhưng chẳng có nghề nào liên can đến chữ nghĩa cả! Bây giờ tôi đang vừa làm thợ, vừa đi học lại ở một trường Đại Học Cộng Đồng gần nhà. Học để đỡ buồn thôi, và để khỏi quên chữ nghĩa !”

Thế là chúng tôi liên lạc lại với nhau. Cho đến một hôm tôi gần như lặng người đi khi đọc những giòng chữ của anh: “ Cuộc sống bên nầy khó quá cho một người đàn ông góa vợ. Đi làm về lủi thủi một mình, lo cơm nước cho ba cha con ăn, tôi như muốn điên lên. Nếu Phương không cho là tôi quá già so với Phương và con cái đã quá lớn thì mong Phương chấp thuận cho tôi được bảo lãnh Phương qua Mỹ với cha con tôi để giúp tôi quán xuyến gia đình”

Cả tuần lể sau đó tôi không biết phải trả lời email cho anh như thế nào. Vào ngân hàng, tôi như người mất hồn. Một chị bạn, cũng là xếp lớn của tôi, hỏi lý do, và sau khi nghe tôi kể chuyện, nói: “Tau thấy mi cũng tội nghiệp. Mười mấy năm nay đi làm chỉ biết lo cho Bố và mấy đứa em của mi học Đại Học. Bây giờ Bố đã mất, mấy đứa em cũng đã học xong, có công ăn việc làm rồi thì mi cũng phải lo cho thân mi nữa chớ? Đâu, mai mốt mi đưa hình thằng chả tau coi xem sao! Có xứng với mi không? Rồi tụi tau sẽ cho mi ý kiến. Nhưng tau nói thật, và chỉ nói riêng với mi thôi nghe chưa? Mấy ổng mà biết được là tau bay chức đó! Mi cũng nên tìm đường đi qua đó cho rồi. Ở đây suốt đời mi cũng chỉ lên được cùng lắm là chức phó phòng thôi. Mi biết tại sao rồi đó.”

Tháng sau, tôi lại nhận được email cho biết là anh sẽ về thăm tôi trong dịp Tết. Tôi tá hỏa tam tinh, vì chưa kịp chuẩn bị tinh thần gì cả. Khi không từ chỗ hai người chẳng có liên hệ tình cảm gì bỗng nhiên đòi về thăm nhau! Và còn muốn tính chuyện xa hơn nữa!

Anh cho tôi biết ngày giờ anh đến phi trường và dặn tôi ra đón.

Cũng may là phi cơ đáp xuống phi trường vào buổi tối nên mặt mày tôi lúc đó chắc cũng không đến nổi nhợt nhạt lo sợ và khó coi cho lắm! Anh vẫn như ngày nào lúc chúng tôi đưa tiễn anh cùng gia đình ra đi. Chỉ hơi ốm, phong trần và buồn hơn. Anh lầm lũi đẩy hành lý ra cửa, đưa mắt tìm tôi. Tôi cũng định bụng là để xem “ người ta” có còn nhìn ra tôi sau hơn mười năm xa cách không mà “dám cả gan” đòi bảo lảnh tôi qua Mỹ lo cho anh và hai con?

Đi qua chỗ tôi đứng không thấy anh dừng lại, tôi thấy vừa buồn cười vừa giận. Vậy mà cũng đòi về thăm người ta! Tôi định quay đi thì nghe tiếng gọi sau lưng: “Phương, Phương! Anh đây cơ mà! Em tìm ở đâu vậy?” Lên taxi đưa anh về khách sạn mà tôi đã đặt chỗ trước xong, tôi đưa anh đi ăn ớ một quán nhỏ gần nơi anh ở rồi về nhà.

Hai tuần lễ đầu tiên anh ở Sài gòn, tôi vẫn đi làm bình thường vì thời điểm đó gần Tết không thể nào xin nghĩ được. Chỉ sau Tết tôi mới xin nghỉ hai tuần để đưa anh đi chơi đây đó. Chúng tôi chụp rất nhiều hình ảnh: “Để làm bằng chứng cho em sau nầy khi đi phỏng vấn. Anh còn về một lần nữa, có lẽ trong dịp Hè”

“Ông này tham ghê vậy đó. Chưa xong Tết đã lo đến Hè. Bộ không sợ chị ở trên đó buồn hay sao mà gấp rút dữ vậy ông anh ?”

Tháng 7 năm đó anh lại về một lần nữa, và đòi tôi đưa vào ngân hàng “để chào bạn bè và mấy xếp của em”. Sau nầy anh mới tiết lộ cho tôi biết là anh muốn vào để xem có ai đó “đổ lệ khi sắp đưa em sang sông qua Mỹ không?”

Sau chuyến về thăm tôi lần thứ hai đó, anh đem tất cả giấy tờ của tôi qua Mỹ để bắt đầu làm thủ tục bảo lãnh. Tôi vẫn nhẩn nha đi làm, vì cứ tưởng rằng sẽ lâu lắm, ít ra phải hai, ba năm! Nhưng chưa đầy một năm sau, tôi đã được gọi đi bổ túc hồ sơ, giấy tờ xin nghỉ việc và chờ đợi ngày được phỏng vấn. Lần nầy tôi như con lật đật, chạy hết chỗ nầy qua chỗ khác, từ văn phòng nầy đến văn phòng khác.

Ngày phỏng vấn, tôi kéo theo cả một vali nhỏ đầy hồ sơ, hình ảnh, giấy tờ. Trước tôi đã có gần cả chục người bị bác hồ sơ đang đứng xớ rớ trong phòng, mặt mày buồn xo. Tôi hoảng quá, đọc kinh thầm trong miệng để lấy lại bình tĩnh. Nhân viên phỏng vấn hỏi đủ điều về sự quen biết giữa hai chúng tôi và về gia đình anh.

Lúc đưa tấm hình chụp tôi đang nói chuyện với chị Phan và cô con gái, họ hỏi đây là ai? Tôi chỉ từng người một và trả lời rành rọt. Câu tiếp theo, nhân viên di trú hỏi “Cô còn nhớ ở thời điểm cô đưa gia đình nầy đi vào lúc tháng mấy không? Buổi sáng hay chiều, tối?” Tôi đáp đó là vào buổi trưa khoảng cuối tháng 5.

Sau đó họ hỏi thêm về công viêc làm của anh và của con cái anh bên Mỹ. Thời gian phỏng vấn kéo dài như vô tận! Mồ hôi tôi chảy ròng ròng trên trán và trên mặt! Tôi than thầm: “Chúa ơi, sao đi Mỹ khổ quá vầy nè?”

Cuối cùng rồi cũng xong! Nhân viên di trú bắt tay tôi, chúc mừng tôi đã đậu phỏng vấn. Họ còn dặn tôi về xúc tiến những công việc còn lại trước khi đi nhận Visa và mua vé máy bay. Tôi mừng quá, đưa tay làm dấu Thánh Giá cảm tạ Chúa rồi chào cám ơn nhân viên di trú. Tôi kéo chiếc va li nhỏ chạy như bay ra khỏi Tòa Lãnh Sự.

Lại mất thêm một tháng nữa để đi mua vé, vào Ngân Hàng xin giấy nghỉ việc để xuất cảnh. Hôm lên máy bay qua Mỹ, tôi chỉ còn cân nặng có 37 kg!

Nhưng đoạn trường vẫn chưa hết!

Gần hai chục tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay, thêm mấy tiếng quá cảnh ở Hồng Kông, tôi muốn ngất xỉu vì trên phi cơ tôi không ăn uống gì được cả! Bước xuống phi trường Los Angeles, kéo hành lý đi qua cưả khẩu để làm thủ tục nhập cảnh, một nhân viên di trú người Mỹ hỏi tôi bằng tiếng Việt: “Bà có biết bà qua đây theo diện gì không ?” Tôi tưởng là mình đang bị lùng bùng lổ tai nghe không rõ ông ta hỏi cái gì, nên hỏi lại: “Pardon?” Ông ta cười cười và lặp lại câu hỏi bằng tiếng Việt.

Tôi lại than thầm:” Trời đất! Mỹ mà nói tiếng Việt giỏi như thế nầy làm tui chuẩn bị trả lời bằng tiếng Anh cùng với động từ “tu quơ” chớ!” Tôi nói: “Thưa ông, tôi biết. Tôi qua đây theo diện Fiancée”. Nhân viên di trú tiếp: “Vậy trong vòng 90 ngày bà phải nói với ông tiến hành làm thủ tục kết hôn tại một tòa án hôn phối của Mỹ. Nếu không bà sẽ bị trục xuất về nguyên quán. Chúc bà may mắn trên đất Mỹ.”

Cung cách ăn nói quá lịch sự, cách tiếp xúc và cư xử với những người vừa nhập cư như tôi, kèm theo nụ cười luôn nở trên môi của các nhân viên Sở Di Trú từ Tòa Lãnh Sự ở Sàigòn cũng như tại phi trường Los Angeles đã để lại trong lòng tất cả chúng ta, những người di dân Việt Nam và các di dân khác một ấn tượng đẹp đẽ khó quên.

Nếu không có những buổi ăn uống tiễn đưa tại nhà chị Bích, nếu không có mặt tôi hôm đưa tiễn gia đình anh chị và hai cháu tại phi trường Tân Sơn Nhất vào buổi trưa cuối tháng 5 năm đó thì sẽ không có tấm hình tôi nói chuyện với chị Phan và cô con gái. Tấm hình mà nhân viên di trú đã căn cứ vào đó hỏi tôi lúc phỏng vấn, tôi cũng không biết là ai trong gia đình anh đã chụp và đã gửi cho anh từ khi nào để anh còn nhớ kèm vào hồ sơ xin bảo lãnh.

Và nếu anh Phan đi chợ không gặp cô bạn của tôi thì anh sẽ không có địa chỉ tôi để liên lạc email. Rồi cũng đã quên luôn tôi chứ đừng nói gì đến chuyện bảo lãnh.!

Những buổi ăn do chị Bích đãi, buổi tiễn đưa tại phi trường, buổi gặp gỡ thật tình cờ trước chợ giữa anh Phan và bạn tôi,và tấm hình đưa tiễn, tất cả đúng là những mắc xích đan vào nhau như một sự an bài của số mệnh để đưa tôi qua Mỹ, cột chặt đời anh Phan và tôi để tôi lo cho anh và hai cháu thay chị Phan!

Và hình như cũng đã có một sự sắp xếp nào đó của Ơn Trên để cho tôi được qua Mỹ chữa căn bệnh phụ khoa hiểm nghèo mà tôi đã vướng phải từ những năm tháng sống nghèo khổ và thiếu thốn cùng cực tại quê nhà.

Nếu không được qua Mỹ, nếu không có nền y khoa tuyệt vời cùng các Bác Sĩ tài hoa, những thiên thần áo trắng của bệnh viện UCI thì chắc chắn tôi không còn giữ được mạng sống mình cho đến ngày hôm nay.

Xin cám ơn đời, cám ơn người, cám ơn định mệnh, và nhất là cám ơn nền Y Khoa cùng các bác sĩ, những thiên thần áo trắng của Bệnh Viện UCI đã cứu tôi!

Và xin cám tạ Chúa đã ban cho con lại mạng sống hôm nay.”

Tôi Có Người Chồng Tuyệt Vời… TRUYỆN NGẮN – Hà Linh…

 TRUYỆN NGẮN – Hà Linh…

Tôi Có Người Chồng Tuyệt Vời…

Tôi đã ngẫm nghĩ rất lâu khi viết câu chuyện hạnh phúc bằng chính cuộc đời tôi, để những ai đang bất hạnh ở trên đời, xin mọi người hãy tin và chờ đợi. Hạnh phúc là cái có thật và luôn hiện hữu.

Tôi sinh ra bình thường như bao đứa trẻ an lành khác. Tôi là một cô bé hoàn thiện, xinh đẹp và thông minh. Nhưng số phận đã đem đến cho tôi những tai ương dữ dội. Mười hai tuổi, bố mẹ tôi ly hôn. Mẹ tôi đã đi ra nước ngoài theo tiếng gọi của tình yêu mới.

Mười hai tuổi, tôi đã trở thành một cô bé câm lặng trong nỗi đau ê chề của một người đàn ông bị bỏ rơi, bị phụ bạc là cha tôi. Tôi vô cảm, chai lỳ trong sự hành hạ về tinh thần và thể xác của một người cha yếu đuối không vượt qua được mặc cảm thân phận. Cha tôi chìm trong rượu, triền miên trong những cơn say. Cha bỏ bê công việc, suốt ngày quán xá nợ nần.

Tôi một buổi đi học, một buổi đi tìm cha lúc say khướt ở một xó xỉnh nào đó, khi thì lê la tơi tả trên đường làng. Khu dân cư nơi tôi ở không ai không ném ánh mắt thương hại nhìn cha con tôi. Những ánh mắt thương hại và ghẻ lạnh. Tôi đã lớn lên trong một mặc cảm chua xót.

Năm tôi tròn 18 tuổi, một bất hạnh khủng khiếp lần nữa giáng xuống số phận. Trước ngày tôi chuẩn bị đi thi đại học thì cha tôi vì say rượu ngã xuống chiếc giếng cổ đầu làng và bị chết đuối. Tôi nhận tin dữ khi đang làm thủ tục ở trường. Tôi chạy như điên dại trở về nhà. Tôi chạy trong một trạng thái gần như vô cảm, không hiểu, không hình dung được chuyện gì đang xảy ra bởi tai ương phía trước quá lớn, quá đột ngột.

Trong lúc hoảng tinh thần ấy, tai nạn khiếp đảm đã xảy ra. Tôi chạy qua đường tàu trong khi đoàn tàu đang lao tới ầm ầm. Tôi không nhìn thấy, không hề biết mặc cho người hai bên đường la lên cố ngăn cản tôi lại. Tôi chạy trong vô thức, và đôi chân của tôi đã bị đoàn tàu cán lìa.

Rất lâu sau đó tôi nằm im lìm và bất động trên giường bệnh. Ngay cả khi vết thương bị cưa hai chân đã liền sẹo, sức khỏe đã có thể hồi phục, tôi vẫn không nghĩ đến việc sẽ tiếp tục sống. Tôi suy sụp và trầm cảm nặng. Tôi gần như một người sống mà đã chết hoàn toàn về mặt ý thức trên giường bệnh, không đau khổ, không tuyệt vọng, không cảm xúc. Tôi muốn chết, muốn vĩnh viễn rời bỏ cuộc sống này.

Mẹ tôi từ nước ngoài về thăm tôi. Tôi nhìn bà ấy như nhìn một người xa lạ. Sau lần duy nhất cho phép mẹ vào thăm, tôi từ chối không gặp mẹ, không liên hệ với mẹ. Mẹ tôi quay trở lại cuộc sống của bà ở nước ngoài sau khi đã cạn khô nước mắt vì sám hối trước tôi. Thứ duy nhất níu giữ tôi lại như một sợi dây mong manh neo giữ con thuyền sắp quật vào bão tố đấy là bà nội tôi. Bà đã ở bên cạnh tôi, chăm sóc cho tôi trong nỗi đau tột cùng. Vì bà mà tôi không thể dứt bỏ bà để ra đi vĩnh viễn.

Tôi không còn nhớ tôi đã sống như thế nào cho đến ngày tôi gặp một phép nhiệm mầu. Ngày đó, một người con trai đã bước vào cuộc đời tôi vô cơn cớ. Ngày mà tôi không thể lý giải nổi, tại sao ông trời sau khi đã lấy đi của tôi tất cả lại mang đến cho tôi một báu vật. Anh không phải là người sinh ra ở quê tôi.

Sau này khi đã cởi mở lòng mình với anh, tôi mới biết anh chính là người có mặt trên chuyến tàu định mệnh đã nghiền nát đôi chân xinh đẹp của tôi.

Hôm đó anh lên Hà Nội chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Ngồi bên cửa sổ toa tàu, anh chứng kiến từ đầu chí cuối cảnh tôi như một chú chim tuyệt vọng lao về phía trước. Anh đã la lên hốt hoảng khi nhìn thấy tôi bay vào gầm tàu, gương mặt chết sững, miệng mấp máy gọi cha ơi.

Tôi cũng không hề biết hôm ấy, anh đã xuống tàu, đã cùng với mọi người gọi xe ôm đưa tôi cấp cứu ở bệnh viện. Chính anh, một người xa lạ đã chạm vào cuộc đời bất hạnh của tôi từ những ký ức đầu tiên ấy. Và sau 1 năm tu nghiệp ở nước ngoài, lần đầu tiên về nước, anh đã về tận miền quê nơi tôi ở để tìm tôi.

Anh đã khóc khi nhìn thấy tôi sống mà như đã chết. Lần ấy đến thăm tôi, anh đã ở lại bên tôi một tuần. Anh đã vực tôi trở dậy với cuộc sống, mặc cho tôi phản kháng quyết liệt. Một tuần liền, anh kiên trì trò chuyện và thuyết phục tôi vui sống và học tập trở lại. Anh nói với tôi, em không thể trở thành người tàn phế, như thế là quá hèn. Tôi đã im lặng, đã chối từ, nhưng khi anh trở về nhà, tôi biết tôi đã sống lại một cuộc sống khác.

Lúc này tôi đã tạm quên đi cái chết trong một vài khoảnh khắc. Một vài khoảnh khắc nhỏ, tôi không chìm trong cảm giác u ám vô vị, tôi nghĩ đến anh. Anh mang cho tôi những cuốn sách dịch về những câu chuyện đời có thật trên thế giới. Những câu chuyện cảm động về những tấm gương vượt qua số phận. Tôi đã đọc những câu chuyện ấy trong những ngày u ám nhất của cuộc đời mình, đã ném nó vào góc nhà, xé bỏ nó trong nước mắt, và rồi lại tìm nhặt nó lên, ghép những trang sách rách nát lại để đọc. Tôi đã khóc rất nhiều, rất nhiều và luôn luôn muốn chết.

Sau lần gặp đó, anh trở lại nước Anh để tiếp tục học. Anh luôn viết thư động viên tôi vượt qua hoàn cảnh để sống có ích cho xã hội. Anh đã kiên trì vực tôi dậy, trao cho tôi tình yêu cuộc sống. Tôi đã gạt bỏ ý định kết thúc cuộc sống của mình. Tôi đã tự học và thi vào trường cao đẳng sư phạm nơi phố huyện. Tôi đã kiên trì học tập trong 3 năm liền và tốt nghiệp xuất sắc. Tôi được về dạy học ở trường dành cho trẻ em khuyết tật ở tỉnh nhà.

Ngày tôi về nhận công tác cũng là lúc anh lấy xong bằng thạc sỹ kinh tế ở Anh. Trở về nước, anh đã một mạch về quê tìm tôi. Anh ngỏ lời yêu tôi và xin được cưới tôi làm vợ. Anh nói số phận của anh đã thuộc về tôi kể từ ngày anh nhìn thấy tôi như con chim nhỏ tuyệt vọng lao về phía trước. Tôi đã khóc rất nhiều, và thêm một lần nữa tôi thấy mình rơi vào tuyệt vọng và đau khổ. Tôi không thể không rung động trước sự chân thành của anh. Tôi không thể không yêu anh, mơ tưởng tới anh từng giờ từng phút kể từ khi anh đến tìm tôi. Anh đẹp trai, trẻ trung và quá hoàn hảo. Anh là niềm mơ ước, nỗi khát khao của bao nhiêu người con gái khác. Anh đâu thể sinh ra để dành cho đứa con gái khiếm khuyết và bất hạnh như tôi. Tôi bàng hoàng trước lời cầu hôn của anh và tôi đã chạy trốn.

Tôi, người con gái tật nguyền, suốt ngày đi lại bằng xe lăn, chân giả, sao có thể làm vợ một người con trai hoàn hảo như anh. Tôi đã trốn chạy anh, trốn chạy mối tình lớn nhất của đời mình bằng cách gật đầu một lời cầu hôn khác. Tôi đồng ý đi đến hôn nhân với người đàn ông cũng bị cụt hai chân trong một tai nạn lao động. Anh là giáo viên dạy nghề mộc ở cùng trường.

Tôi không nói cho anh biết chuyện tôi sẽ làm đám cưới trong nay mai. Cuối tuần nào anh cũng vượt mấy chục cây số đi ôtô về quê thăm tôi. Lần ấy, anh biết chuyện tôi có ý định đi lấy chồng, lấy một người đàn ông tật nguyền khác. Không thể tưởng tượng được là anh đã làm tất cả để bảo vệ tình yêu của mình. Anh đã ôm chặt lấy tôi, đã cầu xin tôi suy nghĩ lại. Anh nói rằng tôi không yêu cái người tôi định lấy làm chồng, và anh đã đến gặp chồng sắp cưới của tôi để nói chuyện sòng phẳng về tôi. Anh không biết rằng sau những mất mát, bất hạnh và nếm trải, tôi biết tôi cần điều gì, tôi cần phải làm gì để được bình yên. Nhưng tôi đã không thể làm theo ý tôi được vì anh là người đàn ông quá tuyệt vời. Anh biết cách giành lấy người anh yêu, giành lấy hạnh phúc mà không để tuột mất.

Tôi đã mặc nhiên cho cổ tích đậu xuống cuộc đời mình, mặc nhiên hưởng những phép nhiệm mầu. Sau này, khi cưới nhau xong rồi, tôi mới biết bố mẹ anh vì phản đối cuộc hôn nhân của anh mà từ mặt anh. Đám cưới của chúng tôi, bố mẹ anh không có mặt. Nhưng điều đó không làm cản trở anh đi đến hạnh phúc với tôi. Cuộc đời tôi là cả một câu chuyện cổ tích, mà phần đẹp đẽ nhất, có hậu nhất là do anh viết nên. Sau đám cưới, anh đưa tôi ra nước ngoài sinh sống trong thời gian anh tu nghiệp lấy bằng tiến sỹ. Lấy bằng xong, anh tiếp tục làm việc ở nước ngoài. Tôi sinh cho anh hai cô con gái xinh đẹp. Chúng tôi đã có một cuộc hôn nhân hơn cả hạnh phúc.

Hai con gái tôi lớn lên ở nước ngoài. Ngày các con tôi vào đại học và đã tự lập được cuộc sống phía trước, tôi và anh quyết định trở về quê hương sinh sống. Nhưng cuộc đời luôn trớ trêu, số phận luôn trớ trêu khi một lần nữa thử thách lòng kiên nhẫn của tôi. Trên chuyến bay trở về Việt Nam, một cơn đột qụy đã mang anh đi khỏi cuộc sống này, mang anh đi khỏi cuộc đời tôi khi anh mới 43 tuổi. Tôi tưởng như mình lại chết thêm một lần nữa.

Giờ đây cuộc sống của tôi bình yên và lặng lẽ. Tôi trở lại nước ngoài để cố quên đi những kỷ niệm đau buồn, để giữ những ký ức về anh luôn xanh mãi trong ngôi nhà hạnh phúc của tôi. Dù anh không còn nữa, nhưng tôi đã rất hạnh phúc. Tôi đã hàm ơn số phận đã mang anh đến cho tôi như mang một phép nhiệm mầu. Dù tôi và anh chỉ được sống bên nhau hạnh phúc 20 năm, nhưng tôi nghĩ, 20 năm là khoảng thời gian quá dài cho một hạnh phúc vĩnh cửu.

Tôi không buồn đau vì mất anh. Trái lại tôi nhớ anh nhiều hơn, sống có ý nghĩa hơn bên các con, và không lúc nào tôi không nhớ đến anh với những cảm giác hạnh phúc quá dịu ngọt.

Hạnh phúc thường rất ngắn ngủi nhưng với tôi, hạnh phúc mà anh mang đến cho tôi kéo dài trong suốt cả cuộc đời này.

May be an image of 1 person and standing