Điếu Thuốc Ba Tôi …- Văn Mỹ Lan

Van Pham

Câu Chuyện Cuối Tuần – Bạn nhận ra điều gì trong câu chuyện ngắn và giản dị này?

***

Điếu Thuốc Ba Tôi …

Văn Mỹ Lan,

Mấy em tôi gọi điện thoại qua mét, giọng bực bội:“Chị nói với Ba. Ổng bệnh vậy mà cứ lén hút thuốc hoài.”

Ba tôi đã trên 85 và đang bị ung thư gan. Ai cũng nói ung thư gan sẽ đi rất nhanh. Ba tôi đã chuẩn bị tinh thần. Má tôi và chị em tôi cũng đã chuẩn bị tinh thần cả rồi nhưng ba vẫn kiên cường trụ được hơn ba năm dù lâu lâu phải cấp cứu. Bản thân tôi đã hơn ba lần bay về để tiễn biệt ba.

Tụi nó mét tôi vì nghĩ rằng tôi là chị lớn, lại là người cung cấp tài chánh cho ông cụ mấy chục năm nay. Chúng tin là tôi có uy tín với ông nhất.

Tôi hỏi lại:” Lén hút là sao?”

– Thì tụi em không cho ba hút thuốc sợ ông ho mà ông cứ lén hút hoài. Đã vậy má còn đồng loã, bả còn canh tụi em cho ổng hút nữa.

Tôi bật cười. Bà già tôi luôn có lối suy nghĩ và hành xử không giống bà già nào trên cõi đời. Tôi khoái bà chỗ đó! Tôi hỏi:

– Ba hút thuốc gì?

– Ổng khoái nhất là Marlboro á. Ổng cứ nói thuốc này nhẹ hều, hút chút có sao .

Tôi gọi điện về cho má, vừa cười vừa hỏi:

– Bộ má canh tụi nó cho ba hút thuốc hả?

Nghe tiếng cười đồng loã của tôi, bà mạnh dạn nói:

– Ờ. Thì tao hỏi bây ổng đã gần chín mươi rồi. Nếu ổng không bệnh thì cũng không biết ổng” đi” ngày nào. Gần chết tới nơi rồi còn bày đặt kiêng cử làm gì. Còn sống ngày nào cứ để cho ổng sướng ngày đó đi.

Tôi về thăm ba sau lần nói chuyện với má, quà cho ông là hai cây thuốc lá mua ở phi trường. Má tôi vội đem thuốc vô phòng dấu. Ba tôi nhìn thấy hai cây thuốc lá cười rạng rỡ cứ như tôi ngày nào còn bé, được ông mua cho chiếc xe đạp mini đi học.

Sướng nhất với ông là tôi để ông hút thoải mái, không cần phải giấu đút. Mà tôi đã không cự nự thì đố đứa nào dám nói. Từ hôm đó ông cứ hút công khai, chẳng cần phải dụi ngang điếu thuốc khi có đứa con nào bất chợt xuất hiện.

Mấy em biết được chị cho ba hút thuốc, có đứa bất mãn ra mặt. Có đứa còn dám nghĩ tôi mong ông cụ đi sớm để khỏi phải nuôi.

Rồi có lần ông rất khoẻ, ông đòi đi tắm biển. Ông muốn nghe tiếng sóng biển ầm ì,hương biển tanh tanh mùi cá, vị biển mằn mặn trong gió.

Lần đó bọn tôi mướn một nhà sát biển ở. Sáng sớm khi con cái còn say giấc, ông cụ cởi trần ra biển bơi. Mấy đứa con lại la ầm lên: “Ba ra biển bơi sớm vậy, rủi có gì rồi ai hay?”

Ba tôi nói: “Có gì thì vớt xác ba lên chôn. Có chi mà ầm ĩ”.

Má tôi bênh chồng: “Ổng đang bơi, đang sướng mà “đi luôn” là sướng tới chết rồi còn gì. Có chi đâu mà ầm ĩ.”

Cứ đụng tới cách hành xử hơi trái khuấy của ba tôi là nhà tôi chia hai phe. Tôi với má cùng phe. Mấy đứa con ít chăm sóc trực tiếp hay nuôi dưỡng lại cùng một phe.

Má tôi nói: “ Mấy đứa không thức đêm thức hôm chăm ông già, không nặng gánh cơm áo gạo tiền thuốc men thì tụi nó phải la to hơn để thể hiện sự quan tâm, thể hiện cái lòng hiếu thảo. Nói đại một câu cho sướng miệng lại được tiếng quan tâm tới cha mẹ thì ngại gì không nói.

Tao bảo ổng cứ kệ tụi nó, thích làm gì thì cứ làm, muốn ăn mặn ngọt thế nào thì cứ ăn. Không cần kiêng cử gì cả nhưng ông cứ sợ đứa này la, đứa kia nói. Phải nói là cha mẹ già lại thích sợ con hơn ngày xưa con sợ cha mẹ nha. Khi bị con rầy la, cái miệng các cụ thì than chứ cái bụng cũng thấy sướng sướng. Nó la vẫn còn hơn nó không thèm nói đụng tới, ngó ngàng tới.

Ông cứ kể thằng Khanh nó không cho tôi đi chụp hình, muốn đi là phải trốn mà đi. Con Lan không cho ăn nhiều mỡ sợ khó tiêu, con Liên bắt phải vận động sợ cứng khớp…

Ba tôi hút thuốc nên ho nhiều hơn. Mấy em tôi nhờ bác sĩ khuyên can ông nhưng bác sĩ nói :’ Hút nhiều là ho nhiều cụ nhá.” Ông trả lời: “Ho cũng khổ mà nhịn cũng khổ bác sĩ ơi. Ho thì khổ lúc ho thôi, nhịn thì khổ suốt ngày đó bác sĩ à”.

Bác sĩ cười, chịu!

Rồi một ngày ba tôi đi nhẹ nhàng không phải vì ung thư, cũng không phải vì thuốc lá hay bơi sớm mà chết đuối dưới nước. Ông đi vì ông đã như một cây đèn cạn dầu nên thôi không cháy nữa. Vậy thôi!

Trên bàn thờ ông lúc nào cũng có một cây Marlboro. Mấy đứa con hay cấm ông hút thuốc giờ hay đến đốt một điếu thuốc lá cắm lên bàn thờ cho ông. Má tôi nhìn mà không nói gì!

ÔNG ĐẠI TÁ SAY (tức Ông Đại tá ở Cao Bằng, Chú tôi!)

Diep Nong

ÔNG ĐẠI TÁ SAY (tức Ông Đại tá ở Cao Bằng, Chú tôi!)

Kim Chi

Ba tôi một mình lạc vào trong Nam làm việc từ năm 1948. Tất cả dòng họ bà con, đại tộc bên nội lúc ấy đều sống ở miền Bắc. Đến 1954, khi hiệp định Genève ký chia đôi đất nước, ba tôi mua vé tàu tất tả chạy ngược ra Bắc để níu kéo gia đình nhưng không kịp nữa vì dòng họ nội đều ở Cao Bằng, quá xa Hà Nội, không có đủ phương tiện để đi và về kịp… Ba đành phải đau khổ lên tàu quay về lại Sài Gòn…

Thế là bắt đầu từ đấy, ba tôi quay quắt nhớ cha mẹ, nhớ đàn em tám đứa hãy còn nheo nhóc, nhớ núi, đồi, làng xóm…

Khi vào Nam làm việc cho Pháp, cũng có vài bác cùng quê ở Cao Bằng, Lào Cai, cùng học và ra trường với ba tôi chung khoá một Quốc Gia Hành Chánh, khoá đầu tiên của Pháp đào tạo, và cũng vào Nam làm việc như ba tôi. Ba và các bác chơi rất thân thiết với nhau. Khi gặp nhau, ba và các bác hay phì phèo điếu xì-gà, nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày, là ngôn ngữ của sắc dân Tày ở Cao Bằng. Khi ấy, tôi loáng thoáng, mơ hồ đoán ba tôi có những nỗi niềm mà chỉ có các bác mới chia sẻ được với ba… Đến khi biến cố 1975 ập đến, chúng tôi mới biết chúng tôi còn có một… ông anh cùng cha khác mẹ sống bao nhiêu lâu nay ở Cao Bằng, thiếu hoàn toàn hơi ấm với những săn sóc, thương yêu của người cha mà chúng tôi ở SG đã được hưởng trọn vẹn…

Ba và cả má của tôi lúc ấy đang là công chức trong Tòa Hành Chánh ở Bình Dương. Tháng 6/75, như bao công chức khác, ba tôi được lệnh phải đi học tập MỘT tháng để biết “đường lối của nhà nước mới”. Chúng tôi, cũng như tất cả người miền Nam lúc ấy, đã ngây thơ soạn cho ba chỉ vỏn vẹn một ba lô gồm ít quần áo, vật dụng cá nhân, một cái chiếu với cái gối bằng gỗ bọc da màu đỏ đã đi theo ba tôi cả cuộc đời của ông.

(Má của tôi sau đó cũng bị đi học tập, nhưng chỉ học tại BD sáng đi chiều về trong ba tháng!)

Trước ngày ba đi học tập một ngày, trưa ấy chỉ có tôi và má tôi ở nhà để lo thức ăn cho ba sáng hôm sau lên đường. Bỗng có tiếng chuông ngoài cỗng reo. Ôi! Tiếng chuông như đã bị quên lãng sau cái ngày tang thương 30/04/75, chẳng ai dám thăm viếng ai cả, nhất là những gia đình Mỹ Nguỵ như gia đình của tôi, họ đều ngó lơ đi khi chạm mặt chúng tôi ngoài đường…

Tôi nhìn ra cổng, thấy anh bạn học cùng trường với chị Hai của tôi, có mái tóc quăn tít, đi với một người cán bộ Việt Cộng. Cả hai cùng mang dép râu, cùng kẹp nách đầy sổ sách giấy tờ…

Tôi và má tôi đoán rằng họ muốn bổ túc giấy tờ trước khi ba đi học tập, nên tôi đã ra mở cổng…

Nhưng không phải như chúng tôi đoán! Cái người bạn học của chị tôi là… điềm chỉ viên cho tên cán bộ, đến nhà chúng tôi để… kiểm kê và tịch biên nhà !

Họ ghi xuống tất cả những gì đang có trong nhà của chúng tôi. Từ chiếc ghế đẩu, đến cái chuồng gà…; từ cái nồi cơm điện, bộ ấm trà, đến các… toilet bowls! Cuối cùng, trước khi ra về, họ đã bắt má tôi ký vào. Trong tờ kiểm kê dài cả chục trang giấy này, họ bảo rằng vì ba và má của tôi đã làm việc cho Mỹ Ngụy tức là thuộc thành phần phản động, vì chị Hai của tôi làm việc cho…C.I.A, một thành phần “cực kỳ nguy hiểm”! (Chị tôi đang du học môn… Kinh Doanh và Kế Toán tại Nhật mà cái tên bạn học của chị tôi đã cố tình chụp mũ gia đình tôi!), vì các cậu, các dì, và chánh yếu là vì ông anh rễ của má tôi là một Tổng Trưởng của guồng máy Tổng Thống Thiệu đến ngày 29/04/1975 nên chúng tôi có quá nhiều …tội với nhân dân, phải… trả nợ lại cho nhân dân! Và, cái câu quan trọng, khủng khiếp nhất trong văn bản này là: “Phải ra khỏi nhà trong vòng một tháng mà không được đem theo những thứ đã liệt kê…”, có nghĩa là phải để lại hết tất cả của cải vật chất đã oằn lưng dành dụm cả đời để cho bọn họ chia chát, rồi ra đi với hai bàn tay trắng!

Ba tôi đi “trình diện học tập” ngày hôm sau với cõi lòng tan nát, không biết rồi gia đình sẽ dọn đi đâu? Không biết rồi vợ con mình sẽ làm sao mà sống? Nhìn ba tôi rưng rưng lệ, bước chân thiểu não mà tôi thật đau lòng. Phải chi họ đến kiểm kê trễ hơn một ngày, chỉ một ngày thôi, thì có lẽ ba tôi đi … “học” mà không đau khổ và lo lắng như vậy.

Các cậu, các dì, các bà con của má tôi cũng đi học tập khắp các trại cải tạo hẻo lánh, đều bị kiểm kê, đều bị lấy nhà, khổ không thua gì chúng tôi. Gia đình năm người của chị Hai Ng, (con của dì Ba tôi) vì lên tàu ra sông Sài Gòn ngày 30/4/75, đã bị đạn bắn theo. Chiếc tàu Hải Quân chở các sỹ quan viên chức cao cấp cùng gia đình đi chuyến di tản cuối cùng đã nổ và cháy tan tành, nhấn chìm những đứa con VN da vàng, những tương lai và tuổi trẻ xuống dòng nước oan khiêng, tanh tưởi mùi máu của gia đình chị Hai Ng. Các cháu của tôi, từ hai đến tám tuổi, chưa kịp lớn để hiểu chiến tranh là gì, miệng hãy còn ngậm nắm vú, tay hãy còn ôm con búp bê có đau không khi những mảnh đạn xé nát thân thể của các em? Đã thế, họ còn hăm hở đến tịch thu nhà và tiệm bán đồ dùng điện tử của chị Hai Ng. Một tên cán bộ có gò má hóp cao, mắt thâm quầng, tím đen như bị ai đấm, cầm cái máy cạo râu lên ngắm nghía, rồi áp vào tai nghe ngóng… Hắn ngờ nghệch hỏi chúng tôi:

– “Này, có phải đây là cái… đài không?”

Tôi cảm thấy thương hại cho sự khù khờ, quê mùa của hắn quá. Thời ấy, cái máy cạo râu hơi to và thô thiển, nhưng không thể nào nhầm với cái “đài” được.. Chúng tôi chỉ xin nhặt lại các quyển albums hình của gia đình chị Hai Ng mà thôi. Đứng lật và xem sơ hình các cháu cùng anh chị Hai tươi cười rất hạnh phúc trong các albums, chúng tôi nghẹn ngào, không cầm được nước mắt. Nâng những quyển albums hình lên như chúng tôi đang nâng thân thể lạnh lẽo của các cháu bé bỏng thơ ngây lên. Một đám tang của gia đình năm người, không có lấy một quan tài, không kèn trống, không nhang khói, không bóng người đưa tiển….

Sáng hôm sau, tôi chở ba tôi đi xuống một trường trung học công lập để tập trung và điểm danh. Có đông người lắm… Tôi cố gắng tìm xem các bác làm việc trong Toà Hành Chánh tỉnh của ba má tôi ai còn ai mất. Tôi mừng thầm cho… sự vắng mặt của các người ấy. Họ thật là may mắn hơn chúng tôi… Sau vài giờ chờ đợi và điểm danh, họ chất những khuôn mặt ủ dột, buồn bả lẫn lo âu của những người chiến bại lên xe cam nhông, chở các quân nhân, công chức đi mà không cho biết là đi đâu cả! Thật tâm tôi lúc ấy chỉ muốn chạy cái xe Honda theo đoàn cam nhông kia, để biết họ sẽ đem ba tôi đi đâu…

Ba tôi đi được hơn mười ngày, má tôi chạy đôn chạy đáo lên xuống Sài Gòn, Cai Lậy, Biên Hòa, Bình Dương.. để năn nỉ bà con xa gần cho ở nhờ. Cho đến hôm ấy, vẫn chưa biết chúng tôi sẽ dọn đi đâu ở! Và má tôi cũng phải chạy đôn chạy đáo để bán nữ trang (để có tiền đi chợ!) mà má tôi nhanh tay giấu kịp…Thời ấy, vàng vòng bán không ai muốn mua cả. Nếu mua thì họ mua với giá rẻ mạt…

Hôm ấy, tôi và má tôi đang ở nhà tém dẹp đồ đạc. Ngoài cổng lại có tiếng chuông! Từ trong cửa sổ nhà nhìn ra, tôi thấy có một chiếc xe jeep đậu ngay trước cổng. Có hai người bộ đội đang đứng chờ mở cửa. Một người trẻ, một người trung niên, dáng dấp to lớn. Trên cổ áo của cả hai người loáng thoáng những sao vàng và huân chương đầy tràn trên ngực, lại còn dắt súng lục bên hông nữa! Tôi nấp vào trong nhà, người tôi run lên, tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực…

Tôi đoán họ đến lấy nhà sớm hơn ngày ghi trên giấy tờ! Tôi khẽ bảo má tôi hãy trốn vào trong! Mặc cho họ bấm chuông liên tục, tôi và má tôi cuống quít trong nhà như những con gà đang tìm ổ, chạy vội lên lầu, rồi lại quýnh quáng chạy ngược xuống lầu… Má tôi rưng-rức khóc, không biết phải giấu cái gì vào người, phải làm sao với hai ông tướng tá bộ đội ngoài kia… Còn tôi thì sững sờ và chết điếng cả người khi nghĩ rằng phải giao nhà cho họ ngay bây giờ… Tôi rùng mình hình dung ngay cảnh tượng gia đình anh chị em tôi sẽ chui rúc dưới một gầm cầu nào đó để sống tối nay… Phản xạ, tôi vơ vội một bộ đồ rồi mặc chồng vào, để nếu ra khỏi nhà thì tôi cũng có thêm một bộ quần áo…

Có lẽ vì thấy thấp thoáng bóng chúng tôi ở trong, người bộ đội dáng dấp to lớn mới nói thật to vọng vào trong nhà bằng giọng Bắc Cao Bằng như của ba tôi:

– Chị ơi! Em là em họ của anh Ch đây! Em ở Cao Bằng vào Nam tìm anh đây. Chị ơi, em là người nhà ngoài Bắc vào đây, chị mở cửa đi nào… Em là người nhà đây chị ạ…

Tôi và má tôi nhìn nhau… Nghe thật là lạ lùng quá, lạ… tai quá! Chúng tôi chưa bao giờ biết đến bất cứ một người thân nào ở bên nội. Chưa nghe! Chưa thấy! Chưa biết bao giờ… Ôi! Ngạc nhiên quá, lạ quá….

Tôi đi từ từ lại cửa sổ để lén nhìn kỹ họ lần nữa. Trên cổ áo của họ có nhiều sao vàng lấp lánh, nhưng cả hai có vẻ rất thân thiện. Má tôi hỏi từ trong nhà ra vài câu rồi mới bảo tôi mở cửa cổng.

Người trẻ tuổi tên Thuỵ, có chức vụ quân đội là trung uý (hai sao). Còn người to lớn, đấy là em rể họ của ba tôi. Chú tên là Phan Ninh.

*

Chú Phan Ninh cao lớn, phải trên 1 mét 70, da dẻ trắng và hồng hào y hệt người Dalat. Trên ngực áo của chú đeo dày đặc huân chương. Cổ áo của chú gắn hai gạch với ba ngôi sao. Lần đầu tiên sau ngày 30 tháng 4, tôi mới được thấy một người bộ đội đeo nhiều… sao như thế! Và cũng là lần đầu tiên, tôi được thấy một người bộ đội cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai, phương phi, dáng dấp như Tây Phương chứ không… quê mùa, đen đủi, răng hô mã tấu như những bộ đội mang dép râu lúc ấy!

Thật là vô cùng thú vị khi nghe câu chuyện của chú kể nhờ đâu mà chú tìm được chúng tôi…

Sau khi tốt nghiệp đại học, chú đăng ký đi bộ đội để… giải phóng miền Nam! Chú rời Cao Bằng cả hơn sáu tháng nay để vào “Giải Phóng miền Nam”. Khi rời Cao Bằng, cả dòng họ đại tộc đã đặt hết tất cả hy vọng vào chú. Bằng đủ mọi cách, chú phải tìm cho ra người cháu, người anh Cả, người bác, người chồng và người cha đã mất tông tích mấy chục năm qua!

Chú kể, chú nằm dưới hầm hố ngay trong… tỉnh BD đã ba tháng trời trước ngày 30/4! Sau đó, chú lên chức Đại tá. Nhưng vì chưa tìm được tông tích của ba tôi nên chú không thể về Cao Bằng.

Mà làm cách nào để tìm ba tôi đây? Biết mặt mũi ba tôi thế nào! Biết ba tôi ở đâu mà tìm! Biết bắt đầu tìm từ đâu!

Chú cùng Thuỵ, người cận vệ của chú, hay đi ăn phở Pasteur ở Saigon. Một hôm, trong quán phở đông đúc, đa số là dân Sài Gòn, nên chú và Thuỵ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày..

Chú băn khuăn tâm tình với Thuỵ:

– Công tác GPMN đã xong rồi. Nhưng còn công tác tìm anh Ch thì chưa xong, nên ta không thể về quê bây giờ được. Cả cái miền Nam rộng lớn thế này, biết đi đâu mà tìm anh Ch bây giờ?! Ngay cả nếu anh Ch đang ở Sài Gòn này, cũng không biết làm cách nào mà tìm anh đây?! Chưa thể về Bắc được, khi chưa tìm được anh Ch….

Ngồi ở cái bàn sát bên chú Linh là bác Cược. Bác Cược là bạn thân thiết nhất của ba tôi, cũng là người Tày ở Cao Bằng. Bác cùng học Quốc Gia Hành Chánh khóa một chung với ba, cùng rời Cao Bằng và cùng vào Nam chung với ba tôi. Nhưng bác lại làm việc cho Tòa Lãnh sự Pháp trực thuộc chính phủ Pháp nên bác không bị đi học tập. Tất cả bạn của ba đều cùng số phận như ba tôi, ngoại trừ có một mình bác Cược!

Bác Cược lắng nghe hai người bộ đội bàn kế bên nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày. Và bác quyết định bắt chuyện ngay với hai người bộ đội cũng bằng tiếng Tày:

– Hai anh có phải đi tìm anh Ch người quê Hà Quãng, Cao Bằng đấy không? Anh ấy có tám người em tất cả, có bố làm Chánh Tổng ở… mẹ tên là….., có cậu em Út tên là… Các em gái tên là….

Chú Ninh cùng Thuỵ và cả bác Cược đập bàn reo ầm ĩ lên, vô cùng mừng rỡ. Thế là nhờ vào cái tiệm phở, nhờ vào câu chuyện bằng tiếng Tày, nhờ bác Cược không đi học tập, và nhất định là phải có bàn tay của trời đất ơn trên sắp xếp cho gia đình tôi gặp được một đại ân nhân, chú Phan Ninh, người đã cứu và cưu mang chúng tôi rất nhiều…

Sau khi kể sơ chuyện gia đình ngoài Bắc, và hỏi thăm tình hình gia đình chúng tôi trong Nam. Chú Phan Ninh ngỏ ý muốn đi tìm thăm ba tôi ngay lập tức, để chú có thể giúp ba được gì chăng? Chú đã chở má tôi cùng Trị, (em trai Út của tôi), đi tìm ba tôi ngay trưa hôm đó. Chú đi hỏi hết tất cả các cơ quan công an đến các cơ quan hành chánh để biết ba tôi đang ở trại học tập nào. Họ đã dời ba tôi ra, vào nhiều trại. Và bấy giờ thì ba đang ở trại tù Long Khánh. Vì quá bất ngờ, nên má tôi chỉ kịp ngừng xe dọc đường mua cho ba tôi ít chôm chôm và hộp sữa Ông Thọ mà thôi!

Khi đến trại Long Khánh khoảng hai giờ trưa, chú Phan Ninh đã vào văn phòng của thủ trưởng trại cải tạo nói chuyện. Chỉ mươi phút sau, loa phóng thanh gọi tên ba tôi ra ngoài cổng, bảo rằng có người cần gặp. Tất cả các trại cải tạo thời điểm ấy, chưa có ai được gặp người nhà bên ngoài, mà thân nhân bên ngoài cũng chưa có ai được vào thăm nuôi người nhà đang học tập cả. Cho nên, khi ba tôi được tên cán bộ dẫn ra, ba đã đứng khựng lại, sững sờ, gần như muốn ngất xỉu khi thấy má tôi và emTrị bị hai tên… tướng tá bộ đội kè sát! Ba tôi đã nghĩ rằng, bọn họ đã bắt luôn cả má và em trai Út của tôi vào học tập chung! Từ xa, ba thiểu não bước về hướng cổng trại tù, những bước chân lê lết… Đôi mắt trũng sâu, đôi lông mày đen thật rậm ngày xưa của ba đổi thành màu bạc trắng, quần áo mặc rộng thùng thình như mặc đồ khính… Chỉ mới mười mấy ngày trong tù thôi mà ba tôi tiều tụy thấy rõ…

Chú Phan Ninh đoán được nỗi lo sợ của ba tôi. Chú dùng tiếng Tày nói trấn an ba tôi ngay tức khắc:

– Em là em họ của anh đây. Em từ Cao Bằng vào tìm anh. Anh yên tâm, chị và gia đình không sao cả. Anh đừng sợ, có em vào Nam lo cho anh và các cháu…

Họ cho thăm ba tôi độ nửa tiếng. Chú Ninh cố gắng xen vào ít câu tiếng Tày để dạy ba cách khai lý lịch như thế nào, nên khai cái gì và không nên khai cái gì… Ba tôi kể cho chú biết rằng ba phải khai lý lịch… mỗi ngày! Phải kể hết tất cả tên tuổi những người bà con xa gần, họ làm gì, ở đâu… Nếu khai không rõ điều gì là họ bắt lên tra khảo mãi tới đêm khuya! Và cho đến hôm ấy, ba vẫn còn đang viết lý lịch vì họ chưa… vừa lòng!

Thế là chú điện báo tin ngay cho ngoài Bắc biết đã tìm được ba tôi rồi. Cả họ hàng ngoài Bắc vô cùng mừng rỡ, mọi người chuyền tin cho nhau, cả dòng họ lẫn xóm làng vui hơn cả ngày Tết.

Và việc cần kíp phải làm là làm sao giữ lại được căn nhà đang gần ngày phải dọn ra! Chú rất thông minh. Chú nói má tôi viết một tờ giấy bán nhà cho… chú! Cái ngày má tôi “bán” nhà là cái ngày trước ngày của hai tên cán bộ đến kiểm kê!

Sau đó, chú cùng Thuỵ, người cận vệ của chú, cả hai cùng nai nịt súng ống, đeo huân chương đầy tràn trên ngực, cầm tờ giấy “mua bán nhà “đi thẳng lên UBND tỉnh BD. Ông đại tá Phan Ninh để tờ giấy mua bán nhà trên bàn của tên cán bộ tỉnh ủy rồi gằn giọng:

– “Đây là nhà của tôi, tôi đã mua trước rồi. Ai muốn lấy nhà này cứ đến tìm tôi nói chuyện. Có ai thắc mắc gì không?!”

Không ai “thắc mắc” cả! Và chúng tôi ở yên ổn trong căn nhà luôn 15 năm trời, cho đến ngày đi ra khỏi VN. Chú cũng chở các dì của tôi đi các trại học tập để thăm nuôi chồng. Người thì bị học tập ở miền Trung, người thì miền Tây. Phải đi ghe xuồng, băng rừng, phải ngủ tạm trên xe hơi ban đêm mới đến được những nơi khỉ ho gà gáy ấy. Nếu không có chú xông xáo vào từng ty Công An để hỏi cho ra tông tích của các dượng, các cậu, thì có lẽ các cậu, các dượng đã bỏ xác trong trại rồi. Ban ngày, những kẻ chiến bại này phải khai phá rừng. Ban đêm thì làm kiểm điểm và nghe họ o ép hài tội Mỹ Ngụy! Họ nhục mạ những kẻ chiến bại trong trạng thái bần cùng khánh kiệt. Họ cũng không cần phải đánh đập gì cả, chỉ… bỏ đói thôi! Đói lắm, không có gì để ăn hết, phải ăn cả… giun dế ngoài đồng, phải ăn sống khoai mót khoai sùng… Rừng thiêng nước độc, rất nhiều người bị bệnh sốt rét rừng, kiết lỵ và chết vùi xác vì không có đến một viên thuốc, hay là chết vì đói, chết gục ngay trên luống khoai chính mình đã trồng.

Thời ấy, tranh tối tranh sáng, nhiều xã trưởng, ấp trưởng, chỉ là bọn vô lại mới lên… Chú dắt chúng tôi đi “chơi” khắp mọi nơi để họ không còn ức hiếp chúng tôi nữa. Mỗi lần từ Sài Gòn lên Bình Dương thăm chúng tôi, chú cứ đi rễu rễu ngoài đường, gặp ai chú cũng “vui vẻ” bắt chuyện không sót một người. Chú không quên tự giới thiệu là chú RUỘT của chúng tôi!

Gia đình tôi có một miếng đất trống khoảng nữa mẫu ở Gò Đậu, cách nhà chúng tôi chừng hai cây số. Chúng tôi phải xuống đó trồng khoai lang và đậu phộng để sinh sống tạm thời như bao gia đình quân nhân công chức phải làm thời ấy, và cũng để hàng xóm nhìn vào thấy chúng tôi đã giống… nông dân lắm rồi! Anh em chúng tôi đã cật lực cuốc cỏ lột cả da tay, bật cả máu để hiểu thật sâu sắc… “lao động là vinh quang”! Chúng tôi trồng đậu phộng, khoai lang từ sáng sớm, đến chiều tối mịt mới về nhà. Ngôi nhà có vườn hoa đẹp nổi tiếng của khu phố ngày xưa đã gần như mất hẳn dấu tích, má tôi bảo tôi phải chặt bỏ các bụi hoa hồng nở quanh năm, bỏ rác hết các giò Lan…, chỉ còn thấy chăng là cuốc, xẽng nằm la liệt chung với mớ khoai, đậu ngỗn ngang trên sân xi-măng, nhìn thảm thương không thua gì chủ nhân của nó…

Cái tên chăn trâu ở cạnh đấy biết gia đình tôi là người của chế độ cũ bị đi học tập, nên mỗi ngày sau khi chúng tôi về, nó nhổ ăn cắp từ từ những cái cọc hàng rào bằng sắt để… bán lấy tiền. Hắn nhổ đều đặn, nhổ mỗi ngày hầu như công khai mà má tôi chẳng biết kêu gào với ai đây?! Chẳng những thế, rào kẽm gai cũng mất từ từ…

Chú Phan Ninh đến nói chuyện bâng quơ với hắn:

– Này! Anh để ý hộ cháu và chị tôi nhá. Thấy đứa nào nhổ cọc với ăn trộm hàng rào thì báo cho tôi biết, tôi bắn bỏ mẹ cả nhà nó… nát óc, chết tươi ngay….

Từ đấy, tuyệt nhiên không bị mất cọc với hàng rào nữa…

Chú Phan Ninh là chỗ dựa của chúng tôi thời ấy. Chú vạch rõ đường đi cho chúng tôi. Chú chở tôi đi xin học, lăn xả đi tìm việc làm. Tôi nhớ, khi công ty Shell cần tuyển người, chú từ Sài Gòn chạy xe jeep về Bình Dương, và chở tôi vội vàng đi ngược về Saigon nộp lý lịch để xin việc. Hỡi ơi, người đông như kiến, không có cách chi mà chen vào chỉ để nộp cái đơn thôi. Chú Ninh bèn vẹt mọi người ra, đẩy tôi đến ngay trước cái bàn nhận đơn. Rồi chú đứng cung tay ra, không cho ai xô đẩy, chen lấn tôi cả. Đợi mãi cả tiếng đồng hồ, họ gọi tên tôi lên để.. trả đơn lại! Tôi cũng đã đoán trước rồi! Tôi nào có tha thiết gì lúc ấy. Ai giở cái lý lịch của tôi ra mà không …choáng váng?! Họ ghi chú thật thậm tệ bên trong, một loạt hàng chữ ngoệch ngoạc chụp mũ và cố dìm chết chúng tôi… Nào là “Thành phần xấu”, “Gia đình có người làm cho CIA..”, “Gia đình là tay sai của Thiệu và đế quốc Mỹ”, “Gia đình thuộc thành phần phản động”…Ai sẽ mướn tôi? Ai sẽ chứa tôi? Ai cho tôi ghi danh học Đại học, Cao Đẳng, hay bất cứ ngành nghề gì khi thấy cái lý lịch như thế này?

Chú Ninh giận lắm khi bị trả cái đơn lại. Chú to giọng lên hỏi:

“Sao lại không nhận cháu của tôi? BÁC và ĐẢNG ta đã có chủ trương rõ ràng là ai làm thì người ấy chịu cơ mà? Cháu tôi chỉ là một đứa học trò trung học thôi. Nó nào có tội tình gì? Các người sai bét nhè cả rồi…”

Khi đi ra cửa, chú rất giận dữ, vẫn cứ tiếp tục văng tục “ĐMTS” , chửi thề ỏm tỏi cả lên…

Tôi còn nhớ, chú đã mắng xối xả vào tên ấp trưởng của gia đình tôi khi họ bắt má tôi phải đi học tập, rồi họp ngày, họp đêm mãi… Chú bảo họ:

“Gia đình chị của tôi đã có anh tôi đi học tập rồi. Chị và các cháu cũng đã… học tập… tốt rồi. Gớm! Cả nhà 7, 8 miệng ăn mà suốt ngày cứ bảo người ta hội với họp, học với tập. Bộ nói họp là … xách cái quần đi họp được ngay à? Thế các anh nuôi các cháu tôi đi nhé để chị tôi mới rảnh rỗi mà đi họp!”

Chú cũng dẫn tôi đến “thăm” một tên thư ký của xã nơi gia đình cư ngụ. Tên này đã “mời ” tôi làm một tờ kiểm điểm vì tôi mặc một cái quần…Tây! Thời 75, quần Tây được cắt rất rộng rãi, ống xì gà. Hắn đã hăm dọa tôi mà còn mặc các loại quần áo Mỹ Ngụy như thế này nữa thì hắn sẽ… cắt ngay. Chú chỉ nói với hắn ta có một câu thôi:

– “Cháu của tôi nó dại khờ lắm nên mới bị người ta… ăn hiếp thôi. Chú xem cháu có gì cần dạy bảo cứ… mách thẳng tôi nhá”.

Chú cũng dạy cho chúng tôi biết thế nào là chế độ Cộng Sản. Tôi nhớ mãi câu nói để đời của chú:

– “Cộng Sản là cái chế độ giống cái mặt bàn này đây. Ở trên đánh vẹc-ni bóng loáng, nhưng ở dưới nhám xịt, sờ vào sướt da đau lắm đấy cháu ạ!….”

Bằng một giọng nói u uất, chú kể cho chúng tôi nghe, trước khi vào Nam để thực hiện công tác “giải phóng miền Nam” chú đã bị gạt rằng trong miền Nam rất đói khổ, bọn Mỹ Nguỵ hành hạ và ức hiếp dân đen thật ghê gớm… nên chú càng hăm hở làm nhiệm vụ GPMN với tất cả nhiệt huyết con tim… Đến khi chú vào tới miền Nam rồi, ngày thì chú trốn dưới hầm, đêm chú trốn ra, đi chơi bên ngoài lẫn lộn với dân chúng. Chú đã choáng váng, thật ngỡ ngàng khi biết chú và tất cả dân miền Bắc bị gạt…. Nỗi bàng hoàng kéo dài cả tháng trời vì chú thấy ra chủ nghĩa Cộng Sản là một trò lừa bịp, nhưng chú không còn đường thối lui nữa… Thật cay đắng, chú nói với chúng tôi, chú và thân nhân ngoài Bắc đã để dành khá nhiều tiền để vào Nam cho ba tôi (!) vì họ bảo dân miền Nam làm việc nhiều mà… lương rất ít, rất nghèo và rất đói khổ, không mua sắm được gì cả!

Anh Ba của tôi lúc ấy vừa học Luật vừa học Đại học Khoa học để lấy chứng chỉ SPCN chuẩn bị thi Y Khoa. Chú Phan Ninh đã giả lả, mon men, la cà với ban lãnh đạo trường. Cuối cùng, chú đã khuyên anh Ba rằng:

“Cháu không vào được các ngành ấy đâu. Ngay cả cháu có học giỏi cách mấy cũng vậy. Họ chắc chắn sẽ đánh rớt cháu đấy… Cháu nên đổi qua Nông Nghiệp thì hoạ may họ còn cho cháu đậu! Mà cháu phải đổi ngay trong năm nay, chứ sang năm sau sẽ không được đâu…. Cả dòng họ mình ngoài Bắc chỉ vì có một mình ba cháu vào Nam, mà các chú, thím, các em… đều có lý lịch xấu ba đời không được học hành hay có chức tước gì cả đấy cháu ạ! “

Anh Ba của tôi thật buồn, mộng làm bác sĩ bay theo mây khói! Nhưng cũng nhờ chú hướng dẫn, nên anh đã đậu môn mục súc trong đại học Nông Nghiệp ở Thủ Đức để tốt nghiệp làm Bác Sĩ Thú Y. Anh đã học ngày học đêm vì rất sợ bị đi nghĩa vụ quân sự như số đông các bạn bè của anh bị chết mất xác bên Campuchia…

Sau nầy, khi ba tôi bị dời về học tập ở Bình Phước, ba tôi “được ” phân công gánh… phân xanh để tưới rau! Ông không chịu làm, bị làm kiểm điểm, bị chửi bới, phạt kỷ luật! Chú Phan Ninh phải vào trại dàn xếp cho ba tôi. Cuối cùng ba tôi được làm anh… nuôi! Tức là người..nấu cơm.. (Từ bé, tôi chưa bao giờ thấy ba tôi vào bếp cả! Sau này, ba tôi kể, ba chỉ đi tìm củi và phụ việc vặt trong bếp mà thôi!)

Kế sát nhà tôi là nhà ông bà Trưởng Ty Điền Địa. Rồi đến nhà ông bà bác sỹ R Ông bà Trưởng Ty lúc ấy phải trên dưới bảy mươi tuổi rồi. Bỗng dưng nhà ông bà để đèn suốt ngày đêm cả tuần lễ, rồi sau đó Hội Phụ Nữ đến đóng đô! Lúc ấy chúng tôi mới biết ông bà đã… đi vượt biên! Và rồi lại đến nhà ông bà bác sỹ R!

Chú Phan Ninh đi dò la tin tức, trầm tư suy nghĩ, rồi nghiêm giọng bảo chúng tôi:

– “Hai ông bà hàng xóm… già thế kia mà còn đóng tàu đi vượt biên được. Ông bà đã qua tới Mỹ rồi. Có khi các cháu phải đi vượt biên thôi … Các cháu không thể nào chịu nổi chế độ Cộng Sản đâu… Chị cố gắng gói ghém lại và tìm cách cho các cháu đi càng sớm càng tốt chị ạ. Hay! Thật hay! Em mà còn trẻ và không vướng bận gia đình, chắc em cũng phải đi vượt biên thôi chị ạ. Nhất định là phải lo cho các cháu đi vượt biên nhé chị. Hay lắm! Thật là hay đấy chị!”

Chúng tôi đã nhận ra những lời chú nói đều đúng như thế. Trị, em trai Út của tôi thi vào Đại Học Nông Nghiệp. Em học giỏi, bài thi làm trôi chảy. Nhưng lại không có tên trên danh sách thí sinh đậu dán trên văn phòng Ty Giáo dục tỉnh BD. Đi hỏi các thầy chấm bài, thì các thầy đều nói bài của em phải đậu, mà phải đậu hạng cao. Chắc có sự nhầm lẫn?! Má tôi đạp xe lên Ty Giáo Dục tỉnh để hỏi. Khi về má tôi khóc nức nở… Họ đã mắng như tát nước vào mặt của má tôi rằng:

– “Bà đi về đi! Các con của bà đến ba đời cũng không học đại học được đâu. Bà đừng mơ tưởng….”

Chú Ninh giận dữ, đùng đùng lái xe jeep đi đến Ty Giáo Dục tỉnh, chú đứng chống nạnh và chửi họ không ngớt miệng:

– “Các anh chị làm công tác giáo dục mà các anh chị sao có thể nào lại ăn nói lỗ mãng thua cả thằng chăn trâu chăn bò thế kia?! Các anh các chị dốt nát nên sợ người khác khôn hơn mình à?! Nên đánh gạt hết những người tài giỏi, chỉ để lại toàn một lũ… dzòi bám đít các anh chị, thối tha, ngu xuẩn… Rồi tương lai nước ta sẽ có những lãnh đạo… thối…địt! Mẹ kiếp! Con “người ta ” chỉ muốn học có cày cấy thôi mà cũng gạt bỏ, không cho học… Chả trách có những thằng bác sĩ không biết… cầm tiêm, thằng kỹ sư thì không biết làm toán… chia! Và các anh chị làm ngành giáo dục mà chẳng biết trọng nhân tài. (ĐMTS…!) Hãy dẹp… mẹ cái biển Ty Giáo Dục xuống đi…”

Chú về Bắc rồi chú lại vào Nam thêm vài ba lần. Mỗi lần vào trong Nam là chú dẫn theo các chú, các cô hay các cháu ở Cao Bằng vào Nam thăm ba tôi trong trại học tập. Chú ở lại trong Nam cho đến khi cả họ ngoại tôi đi thăm nuôi thân nhân đều đặn, chú giúp các dì lấy lại đất đai, nhà cửa đã bị mất. Chú đi săn tin từ trong… công an ra, và biết ba tôi hay các cậu sắp bị chuyển trại, là chú về báo cho chúng tôi hay ngay tức khắc. Rồi chú chở từng thùng xăng, từng bao gạo sấy mà trại lính Mỹ đã bỏ lại, để chúng tôi bán lấy tiền thăm nuôi ba tôi và sinh sống. Ngày chú phải trở về Bắc luôn, tôi rất buồn vì mất đi một người chú xốc vác, nương tựa. Chú dặn chúng tôi không được nói cho ai biết là chú về Bắc luôn vì sợ họ sẽ ăn hiếp gia đình chúng tôi nữa. Và chú nhắc nhở chúng tôi phải tìm đủ mọi cách để phải đi…. vượt biên! Quà mang về Bắc, chú chỉ xin chiếc máy ảnh Nikon cũ của ba tôi để kỷ niệm và cũng để về quê chụp hình, có thể kiếm thêm chút ít cho những ngày hưu trí.

Tôi đã nghe lời chú, tôi trầy vi tróc vảy đi vượt biên bốn, năm lần. Tôi bị công an rượt đuổi ở Phan Thiết, trốn chạy trong ruộng mía cả ngày y hệt như đóng phim trinh thám! Xã hội đảo điên, tôi cũng bị lường gạt sạch túi vài lần. Tôi đi vượt biên bị bắt và bị cả tù cùm chân…(*) Sống dưới chế độ CS, tôi như con thú phải sống trong rừng sâu, không thể ra ngoài ánh sáng. Nhưng cuối cùng, trời đất ơn trên đã phù hộ cho tôi đến được xứ sở tự do.

Tôi ước ao được một lần về thăm quê nội, thăm hằng trăm người bà con của tôi vì có ba tôi vào Nam mà họ đã không ngóc đầu lên được cả mấy đời con cháu. Thăm lại ông anh một cha khác mẹ thật đáng thương của chúng tôi. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của ba và anh trong trại cải tạo, anh đã khóc rưng rức khi thấy dáng Ba từ xa, rồi oà lên khóc tồ tồ, khóc như chưa bao giờ được khóc. Hầu như đây là lần đầu tiên trong cuộc đời của anh Cả được gọi tiếng BA, được biết cái bàn tay, cái gương mặt, cái tướng đi của mình giống Ba như thế nào khi tuổi của anh đã gần bốn mươi. Còn ba tôi, tóc bạc muối tiêu, tay run lẩy bẩy, vai nấc lên, mắt ràn rụa, ướt nhòe nhoẹt…

Bây giờ, tôi thật thấm câu chú Phan Ninh đã nói với tôi khi tôi chưa tròn mười tám tuổi:

– “Người dân ở miền Bắc tội nghiệp không thua gì dân ở miền Nam bây giờ. Họ cũng cùng số phận như người miền Nam, cùng bị chế độ độc tài Cộng Sản cai trị… Chỉ khác có một điều là người miền Bắc đã bị bọn Cộng Sản cai trị trước người miền Nam thôi!”

Chú Phan Ninh đã thấy quá rõ đời sống trước và sau ngày 30/4 /75 của người dân miền Nam và của gia đình tôi như thế nào, ngược hẳn với những gì mà chú bị tuyên truyền và nhồi sọ! Chú đã nhìn thấy sự đau khổ của chúng tôi khi bị.. đổi đời như thế nào! Chú sững sờ lặng ngắt người, đau đớn không thua gì gia đình chúng tôi khi nghe tin em trai út Trị của tôi đã mất tích trong lòng đại dương lạnh lẽo…

Chú về lại Cao Bằng, người ta thẳng tay cho chú về hưu! Chanh đã vắt kiệt, họ vất ngay cái vỏ, mà là cái vỏ đầy… gai góc. Trước khi về hưu, họ đã bắt chú tường trình những gì chú đã làm cho chúng tôi, chú đã đi đâu, đã thấy những gì từ cái gia đình Mỹ Nguỵ kia. Họ trông đợi một tố giác của chú, mà chú đã không đáp ứng như ý họ… Chú PN càng nổi điên lên, càng chửi bới nhiều hơn. Chú uống rượu giải sầu, cũng là để mượn rượu mà chửi “thiên hạ”. Khi say, dân làng, hàng xóm được nghe người Đại tá say này kể rất nhiều chuyện “phản động” mà họ đã bị giấu bưng bít!

***

Chú ơi! Hôm nay cháu ngồi nhỏ nước mắt gõ lộc cộc trên phím của computer, bồi hồi ôn lại chuyện chú cháu mình đúng tháng ngày này của 45 năm về trước. Cháu đang mang một kiếp lưu vong với những vinh nhục, vui buồn trên xứ lạ quê người. Ôm cái computer, mỗi ngày cháu mỗi thờ thẫn bàng hoàng vì những tin tức đen tối bên trời Nam… Cái án tử nặng ngàn cân đang cứa vào cổ dân mình rồi chú ạ! Quê hương và dân tộc VN đang lâm vào cảnh khốn đốn, tồi tệ nhất trong lịch sử. Nếu chú còn ở dương gian này, chú sẽ chỉ bảo cháu làm gì để cứu lấy Bản Giốc, cứu những tôm cá nuôi cả triệu đồng bào VN, cứu quê hương chúng ta thoát khỏi chế độ CS độc tài độc ác đây? Hay chú cũng chỉ làm người lưu vong tủi nhục như cháu, cái mầm lưu vong đã nhú lên ngay từ 45 năm về trước, để cây lưu vong mọc ngay trên dãi đất hình chữ S cong quẹo đau thương này, không biết khi nào mới ngẫng mặt đứng thẳng với thế giới và lịch sử mai sau…

Cháu không còn trẻ để vẫy vùng được như 20, 30 năm trước nữa. Ai cũng phải bước tới cái ngày nhắm mắt lìa đời… Nhưng chú ơi, cháu đau lòng lắm nếu ra đi mà không giúp ích gì được cho quê hương và dân tộc mình…

Có phải cũng cái đau này đã canh cánh, đeo đẳng chú về tận bên kia thế giới không, thưa chú Phan Ninh kính yêu…

Kim Chi

(*) KChi có viết truyện Đứa Con Trong Tù kể chuyện bị cùm chân trong tù.

Đừng dùng đôi mắt để đánh giá tâm hồn

 May be an image of text

Một người làm nghề bảo vệ, làm thuê cho một gia đình giàu có, công việc không quá áp lực chỉ đơn giản là mở cửa xe cho chủ nhà và gác cổng, nhưng thái độ của ông chủ luôn khiến anh cảm giác như mình bị hắt hủi. Mỗi sáng, khi xe ông chủ đi đến cổng, anh đều gập đầu cúi chào và chiều về cũng vậy; nhưng anh chưa bao giờ nhận lại từ ông một cử chỉ đáp lại.

Cứ chiều về, anh thường tranh thủ chạy ra bên ngoài tìm kiếm đồ ăn thừa trong túi rác bên ngoài biệt thự. Có lần, anh bị ông chủ bắt gặp, nhưng ông cũng không biểu hiện một thái độ nào trên nét mặt. Sự lạnh lùng của ông chủ khiến anh có một cảm giác khó chịu nổi lên trong tâm mình.

Cũng kể từ ngày đó,anh thường hay thấy một túi giấy sạch sẽ, bên trong đựng rất nhiều thức ăn ngon được gói bọc cẩn thận đặt tại nơi mà anh vẫn lui đến tìm đồ ăn. Hôm đầu, anh nghĩ có lẽ ai đó đi siêu thị về để quên nên rất vui vẻ xách về cho mấy đứa con ở nhà.

Nhưng nhiều hôm về sau, ngày nào anh cũng bắt gặp túi thức ăn ngon được đặt sẵn ở đó.anh bảo vệ bắt đầu thắc mắc việc này thật kì lạ, sao ngày nào cũng lại có một túi thức ăn ngon được đặt ở đây nhỉ? Nghĩ miên man một hồi, rồi anh lại tự nhủ, chắc Đức Phật thương tình nên ban lộc cho mình, còn không thì anh cũng chẳng cần quan tâm nó từ đâu đến, miễn sao ngày nào vợ con anh cũng không đói là được rồi.

Cho đến một ngày, ông chủ qua đời. Hôm đó, có rất nhiều người qua lại, vì bận việc đón khách nên anh cũng chẳng còn thời gian nhớ đến túi đồ ăn nữa. Mấy ngày qua đi, khi công việc quay trở lại bình thường, anh lại đến tìm thức ăn như mọi khi. Chỉ có điều là, lần này anh không còn thấy túi thức ăn ngon được đặt sẵn ở đó nữa.

Ngày thứ nhất, anh bảo vệ nghĩ chắc ai đã nhìn thấy nó và nhặt rồi. Tuy nhiên, qua ngày thứ hai và ngày thứ ba, anh cũng không còn thấy túi thức ăn như ngày xưa đâu. Dần dần, bữa ăn gia đình của anh bảo vệ lại trở nên khó khăn khi thiếu những túi đồ ăn đó. Cuối cùng, anh nghĩ chỉ còn cách đề xuất tăng lương với bà chủ, nếu như bà không đồng ý chắc anh phải đi tìm một công việc mới có thể nuôi sống gia đình được.

Bà chủ của anh bảo vệ là một người phụ nữ có vẻ mặt phúc hậu và thánh thiện; đôi lúc, anh nghĩ thầm đúng là ông chủ chẳng xứng với bà. Khi nghe xong câu chuyện của anh, bà chủ tỏ ra rất ngạc nhiên, bởi vì trong suốt một thời gian dài, bà chưa bao giờ nghe anh phàn nàn về lương thấp hay thiếu thốn.

Thấy bà chủ như vậy, anh bảo vệ cũng không muốn giấu diếm gì; anh đem hết câu chuyện về túi thức ăn kể lại cho bà. Bằng chất giọng từ tốn và điềm tĩnh, bà chủ hỏi anh: “Từ khi nào anh không còn nhận được túi đồ ăn đó nữa?” Rất nhanh, anh bảo vệ đáp: “Dạ, từ khi ông chủ mất, thưa bà!”…

Suy nghĩ của anh ngừng lại khi thấy bà chủ đang cố che đi những giọt nước mắt. Một cảm giác day dứt cuộn lên trong anh bảo vệ, anh xin lỗi bà vì đã làm bà phải buồn lòng, anh hứa rằng sẽ tiếp tục ở lại làm việc và không đòi hỏi thêm bất cứ điều gì. Bà chủ chậm rãi bước đến gần anh bảo vệ và nói: “Tôi khóc bởi cuối cùng tôi đã tìm được anh. Tôi biết chồng tôi mỗi ngày đều mua thức ăn cho 7 người, tôi đã tìm được 6 người và cho đến hôm nay, tôi đã tìm được người thứ 7”.

Anh bảo vệ về nhà với những cảm xúc khó nói thành lời. Giờ đây, ngày ngày anh lại được nhận một túi thức ăn giống như trước, nhưng anh không phải chạy đến thùng rác bên đường nữa mà có một người đem đến tận nơi cho anh, đó chính là con trai của ông chủ. Lần nào nhận thức ăn, anh cũng “Cảm ơn” cậu ấy, nhưng cậu ấy giống y như cha mình, chưa một lần đáp lời với anh.

Có một hôm, anh cố ý nói thật to, bỗng dưng cậu chủ quay lại nói “Cảm ơn!” đáp lại. Lại một lần nữa tim anh như nghẹn lại, khi anh biết được một sự thật, cậu chủ bị bệnh nặng tai, giống y ông chủ đã quá cố của anh…

Có câu rằng: “Để hiểu được một người, cần cả một đời. Để hiểu được sự cố gắng của người đó, cần cả một quá trình”.Cuộc đời của người khác đang trải qua khó khăn và trắc trở gì; nếu chỉ dùng đôi mắt bình thường và cảm xúc cá nhân của mỗi người để nhìn, thì nhìn thế nào cũng vĩnh viễn không thấu được.

Đôi mắt có thể giúp bạn cảm nhận cuộc sống này nhiều mầu sắc đẹp đẽ hơn. Nhưng cũng đôi mắt đó với cái nhìn ích kỷ làm ta không thấy được sự khó khăn, sự đau khổ, sự mất mát… hay lòng tốt của người khác. Bởi vậy, hãy nhớ rằng đừng dùng đôi mắt để đánh giá tâm hồn hay nhân phẩm người khác, đó cũng là một nghĩa cử cao đẹp…

Nguồn : Sưu tầm

Ảnh : Minh Hoạ

“TÌNH ĐỒNG CHÍ”… !!!

“TÌNH ĐỒNG CHÍ” … !!!

Cuối năm 2020, tôi được hãng phái vào Việt Nam để khảo sát công trình Clean Up Hóa Chất phi trường Đà Nẵng. Sau một tuần công tác hoàn tất, tôi bay vào Saigon vào dịp Giáng Sinh rất nhộn nhịp vui vẻ và gặp lại các bạn thân còn ở lại sau 30 tháng 4 năm 1975. Tôi và đám bạn được ông sĩ quan công an Trưởng Phòng Hình Sự Quận “10” vốn là người thân tình với bạn tôi mời đãi một chầu nhậu tại nhà hàng Hoa Viên – Quận 1 trung tâm Saigon. Trong bữa tiệc, ông kể thuật lại câu chuyện có thật đã xảy ra và đố chúng tôi, ai có thể trả lời được đó là thứ tình gì?

Câu chuyện là: Trước 1954, ông Ba Liêm gốc Nghệ An vào miền Nam công tác gây dựng các tổ cách mạng miền Nam tại Mỏ Cày, Ba Liêm kết hôn với một thiếu nữ và khi vợ mang thai thì ông nhận được lệnh tập kết ra Bắc cho tới sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ba Liêm vào Saigon và làm Thủ Trưởng Kinh Tế Quận, ông ta phải lòng một thiếu nữ tuổi ngoài đôi mươi và lén lút tuôn hàng quốc cấm như cà phê, gạo, đường, thuốc lá … cho cô ta buôn bán lấy lời và chia chác đầy đủ cho các cán bộ trong ngành.
Sau vài năm làm ăn khấm khá, cô thiếu nữ chịu ân tình và ưng lấy Ba Liêm làm chồng tuy tuổi tác của ông đáng bậc cha chú và sinh đặng đứa con trai kháu khỉnh…
Vào dịp cuối năm, gần tết Nguyên Đán, Ba Liêm nghe lời vợ mua sắm quà cáp để cùng với vợ con lái xe “ô tô con” về thăm và ra mắt gia đình bên vợ mà từ khi lấy vợ tới bây giờ ông chỉ nghe vợ kể loáng thoáng rất ít về gia cảnh của vợ mình, chỉ còn người mẹ ở góa và vài người họ hàng đang sinh sống tại quận Mỏ Cày.

Ba Liêm đậu xe ở đầu ngõ, khệ nệ ôm xách quà cáp đi theo vợ tay đang đắt con tới căn nhà trong khu phố mới xây dựng theo qui hoạch “ấp văn hóa”. Bà mẹ vợ dáng người gầy guộc mộc mạc trong chiếc áo bà ba tuổi trạc chừng xấp xỉ với ông nhưng trông già hơn có lẽ vì kham khổ tần tảo nuôi con bấy lâu… Lần đầu tiên bà gặp lại con gái sau nhiều năm từ khi “nó” lên Saigon buôn bán làm ăn và nay đi với chồng con về sum họp và ăn tết với bà rất đỗi vui mừng…! Nhưng bà và ông con rể có chút ngờ ngợ như đã từng quen biết nhau ở đâu đó và linh cảm bất an không lành trong cuộc hội ngộ trùng phùng này! Bất chợt bà hỏi nhỏ:
-Ông … ông có phải là anh Liêm… Ba Liêm… Nguyễn Thanh Liêm trước ở Mỏ Cày này…?

Ông cố hình dung bà mẹ vợ và nửa vui mừng như gặp lại người xưa, nửa lại có gì không ổn trong linh tính mơ hồ … Ông run giọng hỏi bà:
-Huệ … em … bà là Huệ phải không …?

Bỗng bà bật tiếng khóc thống thiết bi ai … “Trời ơi… oan nghiệt… Ba Liêm ơi, con Thủy là con ông đó …”! Bà ngã quị xuống với tiếng khóc nức nở đoạn trường. Ông Ba Liêm ôm đầu, tất tả đi ra khỏi nhà như người điên loạn! Hàng xóm nghe chuyện, có người bất bình lên tiếng:” Chỉ có thứ heo chó mới lấy con gái ruột của mình làm vợ và đẻ con …”!

Ông sĩ quan Công An Hình Sự kể xong câu chuyện và hỏi tất cả mọi người trong bàn tiệc: ”Người đàn bà đó là vợ của Ba Liêm, cô con gái cũng là vợ của Ba Liêm, đứa con trai của Ba Liêm cũng là cháu ngoại của Ba Liêm… Vậy đây là loại tình gì và tôi đố các bạn trả lời cho hợp lý và chính xác”?

Không ai trong bàn tiệc trả lời được và ông ta tự kết luận:

Đó là “TÌNH ĐỒNG CHÍ” !!!

From: Anh Dang & KimBang Nguyen 

Giọt Hạnh Phúc Trong Đáy Ly! – Tràm Cà Mau

Giọt Hạnh Phúc Trong Đáy Ly! – Tràm Cà Mau

Ông già Nam chống hai cái nạng, khấp khểnh lê từng bước chậm chạp và khó khăn trên hè phố đông người tấp nập. Đầu ông nghiêng về một phía, vì cái cổ không đỡ nổi chiếc đầu hói láng bóng tóc lưa thưa. Mỗi bước đi tới là kết quả của nỗ lực cố gắng liên tục. Thế nhưng miệng ông đang huýt sáo vang vang bài hát “Cầu sông Kwai” và ánh mắt lóe sáng tia vui cười. Ông cứ kiên nhẫn ì ạch từng bước đi tới. Một người bạn cũ chận ông lại hỏi:

– ”Có chuyện gì không, mà trông có vẻ hân hoan vui thú vậy?’”

– “Có chứ! Trời đất hôm nay ươm nắng vàng tươi đẹp, không khí dịu dàng, mát mẻ ôn hòa. Được sống thêm một ngày như thế nầy, mà không hân hoan vui thú, thì có phải là phí của trời đất cho hay không?”

– ”Lãng xẹt. Thế mà tôi cứ tưởng ông trúng số độc đắc, hay vừa có tình yêu mới.”

Ông Nam cười ha hả và nói:

– “Nầy, sao anh mau quên thế? Nhớ cái thời còn đi tù cải tạo, ước mơ được một lần đi trên con đường phố, bước vài bước trên đường ngoài trại tù, như một ước mơ hoang đường trong truyện thần tiên. Bây giờ có tự do, thân thể không bị quản thúc, có no ấm, không còn đói khát thèm thuồng từng củ khoai, miếng sắn. Lại sống trong một thế giới tự do, có an toàn, sinh mạng không bị de dọa, nhân phẩm không bị chà đạp. Nghĩ đến thế thôi, cũng đã vui lắm rồi.”

Bạn ông Nam ngần ngại hỏi:

– “Thế thì hồi nầy ông hết bệnh rồi sao?”

– “Bệnh kinh niên, làm sao mà hết được? Nhưng cứ chấp nhận cái bệnh như một phần của đời sống, thì thấy dễ chịu. Dẫu cho mắt đã mờ, nhưng vẫn còn thấy được cảnh vật, sinh hoạt, tai đã lãng, nhưng vẫn còn nghe được lời nói của bà con, bạn bè, nghe được tiếng chim hót, tiếng nhạc du dương, chân què cụt, nhưng còn lê bước đi đây đi đó, và xương cốt đau đớn, nhưng còn chịu được, thì phải vui, và biết ơn trời đất, cho mình còn như hôm nay. Không nhận thức được điều nầy, là một thiếu sót lớn.”

Người bạn nhìn ông với ánh mắt thương hại nói tiếp:

– “Sao mà ông lạc quan quá đáng. Có lẽ vì ông không phải chịu những rắc rối, khó khăn, muộn phiền, khổ đau của cuộc đời đang đè nặng, nên mới lạc quan như vậy chăng?”

– “Ai mà không có những khó khăn, rắc rối, âu lo hàng ngày? Ai mà không có một niềm đau âm ỉ trong lòng. Nhưng bên cạnh những bất hạnh đó, còn có nhiều phước hạnh khác. Cứ nhìn vào bất hạnh, mà không nhìn vào phước hạnh nên mới khổ. Ông chưa nghĩ kỹ thôi, chứ tàn tật như tôi, so với nhiều người khác, thì còn được may mắn lắm lắm.

Có những người không còn thấy ánh sáng, ước mơ một phút mở mắt ra nhìn được người thân thương, có người nằm bẹp dí trên giường không di chuyển được, họ thèm một phút trên đường phố như chúng ta, có những người đang đói khát, tù tội, họ thèm được một phần ngàn cái hoàn cảnh hiện tại của chúng ta hôm nay. Mình có, có hết, mà không biết hân hoan, không biết đón nhận và cám ơn trời đất, thì có tội, và tội lớn lắm. Một ngày kia mất đi những thứ nầy, sẽ tiếc quay quắt và ân hận sao ngày xưa mình có mà không biết sung sướng.”

Ông Nam kéo bạn vào quán cà phê bên góc đường, kêu hai ly cà phê đen và nói chuyện đời. Ông bạn nói:

– “Nếu ai cũng nghĩ như ông, thì đời nầy không có đau khổ, không có muộn phiền. Ông quan niệm cái hạnh phúc giản dị quá.”

– “Đúng, hạnh phúc là cái giản dị nhất, khi nào cũng có thể tìm được, cảm được, nếu mình muốn. Ông có thấy hôm nay chúng ta được ngồi đây với nhau như thế nầy là hạnh phúc hay không? Hạnh phúc quá đi chứ. Những niềm vui nhỏ nhoi, những hạnh phúc đơn giản, gom góp lại thành ý nghĩa của cuộc sống. Chứ ông quan niệm thế nào là hạnh phúc?”

Ông bạn cười đáp:

– “Được giàu sang tột đỉnh, được danh vọng ngất trời, được quyền uy quán thế.”

– “Thế thì ông sẽ không bao giờ có được hạnh phúc cả. Giàu sang, danh vọng, quyền uy, hầu như ai cũng mong muốn. Nhưng đó là ngọn nguồn của khổ đau, của bất hạnh, cho chính người muốn có các thứ đó. Và là nguyên nhân gây tai họa cho con người chung quanh. Đó, ông thấy không, vì tham vọng mà gây ra chiến tranh, cả ông và tôi phí mất tuổi thanh xuân trong cuộc chiến triền miên, và phí cả thời sung sức trai tráng trong tù đày. Bao nhiêu người chết chóc, bao nhiêu nhà tan cửa nát, bao nhiêu người thành tàn tật như tôi.”

Hớp một ngụm cà phê, ông Nam nhìn bạn cười và nói tiếp:

– “Ông hãy nhìn thiên hạ hấp tấp, vội vã như đang chạy đuổi thời gian, những khuôn mặt căng thẳng như đang nặng ưu tư lo lắng vì cuộc sống bình thường, vì cơm áo. Uổng quá. Mọi người đáng ra phải cảm được cái sung sướng, cái hạnh phúc mà họ đang có, và có thực, và tạm quên đi những khó khăn, những bực bội, để tận hưởng cái ân sủng trời đất ban cho. Thể xác họ lành lặn, nhưng tâm thần họ có thể đang tật nguyền, vì nếu không tật nguyền, thì sao mà nét sầu muộn, lo lắng hiện rõ ra trên mặt, không che giấu được. Có phải người dân trong xứ nầy chưa chịu nhiều bất hạnh, nên chưa biết quý những hạnh phúc bình thường chăng?”

Người bạn ông Nam không muốn nghe những điều lạc quan đó, ông kiếu từ, vì còn nhiều việc phải làm, phải thanh toán gấp hôm nay.

Ngồi trong quán, ông Nam nhìn những giọt cà phê thong thả rơi, thời gian cứ lặng lẽ chuyển đi, và nắng vàng lên cao dần dần, hơi ấm hắt lên hè phố. Ông mở tờ báo, lướt qua các tin tức chính, rồi lật vào các trang trong, xem biếm họa, chuyện cười, thỉnh thoảng ngước mắt, nhìn ra hè phố, nơi có hàng trăm cái chân đang loang loáng, tất tả ngược xuôi ngang qua. Dù xương cốt đang đau nhức, và ngồi không vững trên ghế, ông Nam thật sự thấy sung sướng, thảnh thơi, nhẹ nhàng, và thấy mình đang hạnh phúc hơn nhiều người khác trên quãng phố nầy. Ông không có gì để lo lắng cả, cũng không hò hẹn ai, không có một chương trình gì quan trọng, không một việc làm cấp bách. Ông đang có hạnh phúc, cảm được hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn giản, nhưng tràn đầy và có thực. Ông ngửa cổ hớp ngụm cà phê, vị ngon chạy qua cổ họng, hương ngọt ngào mềm lưỡi. Mỉm cười, ông nhìn một gã thanh niên mặt mày tối sầm như mây ám ngồi bên kia, vướng vất cả một trời ưu tư, khổ sở. Tội chi mà như thế nhỉ, ông muốn nói với qua bên kia bàn cho cậu thanh niên, cái ý nghĩ của ông, mà ngại, không dám.

Khi cửa thư viện mở, ông khoan thai lê chân nạng lọc cọc bước ra khỏi quán. Cẩn thận gói cái bánh ngọt trong giấy, khi đi ngang qua một kẻ không nhà tóc tai bờm xờm, hôi hám đang ngồi ở góc đường, ông dừng lại chào hỏi, và đưa cái bánh mời ăn. Ông nói:

– “Bánh còn nóng ông bạn ơi. Hôm nay tôi mua cho ông một cái, mai mốt có tiền ông nhớ đãi tôi lại nghe!”

– “Cám ơn. Nhưng tôi cần thêm một đồng để mua ly cà phê buổi sáng”

Ông Nam lục túi, đưa cho ông già không nhà một đồng bạc nhàu nát. Ông cười thầm lão già ăn mày, là đã xơ xác đến vậy, mà còn giữ thói phong lưu. Cả hai ông đều vui cười. Làm được một việc thiện nho nhỏ trong ngày, đem lại cho ông già ăn mày lang thang một chút vui, ông Nam thấy lòng ông cũng vui hớn hở. Ông mua một chút hạnh phúc riêng cho chính ông. Mua rất rẻ. Ông nghĩ rằng, cho đôi khi còn sướng hơn nhận. Ông Nam thầm nhận thức, ông còn may mắn hơn nhiều người trong thành phố nầy.

Vào thư viện, ông ngồi xuống bên khung máy vi tính, lùng tìm sách mới, sách lạ. Với ông, tìm sách trên máy dễ dàng hơn, vì ông không cúi thấp, hoặc với lên cao được. Khi chọn được một số sách, ông ngồi nán lại đọc thoáng qua từng cuốn, chọn lọc thêm lần nữa. Sách nào đáng mượn, mới bõ công mang về nhà. Mỗi tuần ông ghé thư viện một lần mượn và trả sách, băng nhựa phim tài liệu, dĩa nhạc. Ông xem thư viện như tủ sách của nhà. Ông nghĩ rằng, đọc cho đến chết, cũng chưa hết kho sách nầy. Sách, băng nhạc, dĩa nhạc chứa đầy trong cái túi vải làm người ông càng nghiêng hơn về một phía.

Ông đi ngược lên đường số 9, nơi có nhiều tiệm tạp hóa, tiệm bán thức ăn Á Đông. Ông vào từng tiệm, thong thả nhìn và quan sát những món hàng mới, hàng cũ, và so sánh giá cả với các tiệm trong vùng. Nhiều bà nội trợ phải giật mình mỗi khi nghe ông Nam bàn chuyện giá cả, đắt rẻ của từng tiệm trong thành phố nầy. Ông mua thêm một ít trái cây, mùa nào thức đó, chỉ khi nào giá thật rẻ, ông mới ăn.

Xế trưa, ông Nam đón xe buýt đi về nhà. Khi ngang qua công viên thành phố, thấy hoa anh đào nở rộ, nắng vàng lung linh, cỏ cây xanh mướt, ông đổi ý xuống xe, vào công viên chơi. Ngồi bệt trên thảm cỏ xanh tươi mềm như nhung, trong bóng mát, dưới gốc anh đào hoa đang nở rộ ngợp trời, ông nhìn ngàn vạn cánh hồng rơi rụng như mưa hoa bay, hồng trời hồng đất. Ông nằm xuống trên tấm thảm cỏ xanh, cho hoa rơi phủ dầy người. Dễ chi có được một ngày sung sướng thảnh thơi, nhàn nhã, khoan khoái và đẹp đẽ như thế nầy? Đàn chim biển cánh trắng, bay ngang trời kêu nhau khản giọng, liệng sà xuống bên bờ hồ nước trong xanh tìm mồi. Nằm trên cỏ, ông Nam móc ổ bánh mì trong cái bị vải, xé vụn, chia cho lũ chim một phần. Đàn chim ào ào xao xác bay đến bao quanh ông đớp mồi. Ông Nam cứ nghĩ như đang sống trong truyện thần tiên của thời thơ ấu. Sung sướng xẻ chia ân điển cùng trời đất vạn vật. Ông quên mất cái nhức nhối của xương cốt kinh niên hành hạ ông, và cất tiếng hát nho nhỏ, vừa đủ cho riêng ông nghe mà không làm lũ chim sợ hãi. Nắng lăn tăn thả xuống thảm cỏ ngàn vạn vòng tròn lốm đốm lung linh. Mắt ông Nam nặng trĩu, bỗng chợp đi một giấc ngắn, rất ngắn mà vô cùng say và ngon. Gió mát dượi từ dưới lòng hồ đưa lên. Ông Nam gọi là của trời cho, phước phần của thiên nhiên ban cho trong một ngày đẹp trời. Không biết tận hưởng là phí phạm. Ông có điều kiện để tận hưởng, và biết cái hạnh phúc đơn sơ để hưởng. Nhiều người thương hại ông Nam, vì thấy ông tật nguyền, họ tưởng ông khổ sở, than thân trách phận vì thiếu may mắn, vì thiếu sức khỏe. Nhưng họ không biết ông đang thực sự cảm thấy sung sướng hơn họ. Vì ông thấy được cái hạnh phúc, cái ân huệ của trời cho. Ông biết chấp nhận cái phần không may mắn, cái sức khỏe yếu kém, như một điều không thể thay đổi được. Cứ vui, được sống thêm một ngày là vui rồi. Nhất là một ngày bình an, không đói lạnh, không bị đe dọa, không bị tù đày. Ông không sá gì cái bệnh nhức xương kinh niên, xem nó thân thiết như một phần của cuộc sống. Có than vãn, kêu ca thì cũng cứ bệnh, cứ đau, cứ nhức, mà chấp nhận và vui sống, thì thấy đời đẹp hơn, vui hơn. Vài ba người đang tập thể dục theo lối chạy bộ ngang qua, ông Nam cất tiếng chào, và họ chào lại vui vẻ. Có đủ chân mà chạy bộ cũng sướng, vui, mà thiếu chân để chạy, thì cũng khỏe, nằm phè ra đây, nhìn cái hạnh phúc của thiên hạ, và hưởng lây cái vui của người khác. Gió mát vẫn mơn man trên da thịt.

Ông Nam lững thững chống nạng ra về, đón xe buýt. Ra chưa đến trạm thì chiếc xe đã trờ tới. Ông không muốn hấp tấp, mà muốn hấp tấp cũng không được, ông khoát tay cho chiếc xe đi, vì không muốn làm phiền đám hành khách đông đảo trên xe phải chờ đợi, phải chịu cái chậm chạm lê từng bước ngắn của ông. Ngồi xuống trên ghế chờ, ông Nam lấy nón đội, và mở sách ra đọc. Đọc sách ở đây, cũng vui như ngồi trong thư viện, cũng thong thả như nằm trên giường trong nhà. Thỉnh thoảng ông ngững đầu nhìn bộ hành đi qua, nhìn nét mặt thơ ngây của các em bé đi bên mẹ, nhìn cánh tay trần gợi cảm căng tròn thịt da của cô gái đương thì. Cũng là những nét đẹp trong đời. Khi thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, trắng như cước đi qua, ông nói lớn: “Bác ơi, râu tóc bác đẹp quá, trông bác thật là tiên phong đạo cốt”. Ông cụ sung sướng cười ha hả, ghé lại ghế ngồi cùng ông Nam, hỏi han chuyện trò thân mật cho đến khi chuyến xe buýt kế đến.

Về đến nhà, đứng lại trước ngõ, ông nói qua bên kia hàng rào với bà cụ láng giềng:

– “Hoa hồng vườn cụ đua nhau nở rộ đẹp hơn cả vườn hồng công viên, ai đi ngang qua cũng khen và đứng lại ngắm nhìn. Hoa nở nhiều, chắc báo điềm lành, thế thì cụ mua vé số đi. Cụ trúng số độc đắc tôi cũng được nhờ.””

Bà cụ hả dạ, vui vẻ, cắt cho ông Nam mấy cành hoa. Ông cắm vào bình, để lên bàn tiếp khách.

Ông Nam thuê một căn phòng trong cái nhà của người quen, vợ chồng chủ nhà mở sạp hàng ở chợ trời. Họ ra đi từ khi trời đất còn tối đen, trước bốn giờ sáng, và trở về khi mặt trời vừa tắt. Đứa con gái đã lớn, đi học xa, mỗi năm về vài ba lần. Phòng ông Nam có lối đi riêng, nhưng ông thích dùng lối vào bằng cửa chính hơn, vì khỏi phải chống nạng cực khổ đi quanh. Bếp dùng chung. Ông Nam thường nói đùa với hai vợ chồng chủ nhà rằng, ông mới thực sự là chủ căn nhà, vì suốt ngày ông sống trong nhà, hưởng dụng tiện nghi nhiều hơn. Vợ chồng chủ nhà xem ông như anh em, có cái gì ngon, cũng để dành cho bác Nam. Khi ông Nam cần đi đâu, mà đường xe buýt không thuận lợi, hai vợ chồng vui vẻ chở ông đi ngay. Có ông Nam ở chung, họ cũng thấy đời sống vui hơn.

Ông Nam vào bếp, lục rau, thịt, tôm trong tủ lạnh, nấu một tô hủ tiếu lớn. Trong tô có cua, tôm, sò, cá mực, thịt, rau cải. Một tô đầy vun, có nước màu đỏ, có hành xanh, mùi thơm bốc ngát mũi. Ông vặn nhạc êm dịu, vừa ăn vừa nghe trong tiếng đàn tiếng hát nhẹ nhàng vang vang. Ông biết tận hưởng cái ngon của thức ăn, và tự làm lấy mới vừa ý. Sau bữa ăn, ông lên giường đánh một giấc ngon lành, có tiếng nhạc từ máy thâu thanh êm ái vọng vang như lời ru riêng cho ông ngủ. Thời gian vẫn êm đềm trôi đi. Ông vẫn nằm ngáy, và mỉm cười trong giấc mơ. Khi đã no giấc, ông thức dậy, với tay lấy cuốn sách trên đầu giường đọc. Ông là con mọt sách của thư viện, bao nhiêu sách mới của thư viện đều có bàn tay ông sờ mó vào. Ông Nam ít khi mua sách, vì ông cứ nghĩ rằng, hai cái thư viện gần nhà trong thành phố nầy, là các tủ sách riêng của ông. Muốn đọc khi nào cũng được, sợ không đủ thì giờ mà thôi.

Ông Nam thường tự hào là đã đi du lịch toàn thế giới, ông đi du lịch hàm thụ, qua các phim tài liệu, qua các đài du lịch trên truyền hình. Dù chỉ du lịch hàm thụ, nhưng ông còn biết nhiều, thấy rõ và thấy chi tiết hơn cả những người đi du lịch thật sự. Người ta đi cực khổ, xa xôi, tốn tiền, quay phim, lựa chọn, tìm hiểu; ông chỉ nằm nhà duỗi người ra mà hưởng cái phần công khó của kẻ đi quay phim, tìm hiểu. Ông cho là còn vui hơn được đi thật. Vừa nằm xem phim, vừa ăn bánh ngọt, uống cà phê, vừa có nhạc nhẹ nhàng văng vẳng, ông Nam thấy mình sung sướng, nhàn nhã hơn cả các bậc phú gia thế giới.

Khi mặt trời đã nghiêng bóng về phương Tây, ông dậy, vui vẻ chuẩn bị cho bữa cơm chiều. Ông hát những lời vu vơ như em bé. Buổi chiều rơi nhè nhẹ. Ông Nam thích ăn ngon và thích nấu nướng. Ông thường theo dõi, học cách nấu ăn trên đài truyền hình, và ông nấu được những món cầu kỳ, đặc biệt. Qua lời dạy của đầu bếp, ông suy nghĩ làm sao ngon thêm, cho hợp với khẩu vị của ông hơn, và ông biết chế biến theo hương vị của món ăn cho thêm đậm đà, hoàn hảo. Đã chịu tàn tật như thế nầy rồi, ông không cần kiêng cữ chi nữa. Cứ ăn ngon, cứ hưởng cái béo, bùi, ngọt, mặn, cho sướng. Không tội chi liêng cữ, sống mà thiếu vui, thiếu sướng. Cái gì cũng kiêng cữ cả, thì uổng lắm. Mà có chết thì cũng vui, vì đã đã tận hưởng cuộc đời.

Lâu lâu đi qua chợ, thấy lòng heo ngon, ông mua về, tỉ mỉ công phu cạo rửa sạch sẽ, cắt, ướp từng miếng, rồi nấu một nồi cháo lớn. Ông kêu điện thoại cho vợ chồng chủ nhà, vui vẻ bảo chiều nay đừng mua thức ăn vì đã có cháo. Ông hăng hái mời thêm vài người bạn thân thiết nữa.

Thế là chiều hôm đó, năm bảy người ngồi quanh một nồi cháo lớn, và hai dĩa lòng vun, có đủ màu sắc của tim, gan, cật, ruột, dồi trường, phổi. Một dĩa rau, hai tô nước mắm pha theo lối riêng của ông Nam. Trên bàn còn có cả chục lon bia đã ướp lạnh. Hai vợ chồng chủ nhà, ông Nam, và vài bạn bè tận hưởng cái tài nấu cháo lòng có một không hai của một tài hoa nấu ăn. Cháo của ông nấu công phu và vệ sinh. Những miếng lòng bỏ vào miệng nhai giòn tan, mà mềm, hương vị ngon ngọt đậm đà. Nước cháo thanh. Hạt gạo còn nguyên. Bà vợ chủ nhà thường khen: “Cả nước Mỹ nầy, không ai nấu cháo lòng ngon bằng cháo bác Nam, mà có lẽ cả bên Việt Nam mình nữa” Nghe vậy, ông Nam cười sung sướng, giải thích tỉ mỉ cách làm lòng, cách rửa, ướp lòng, và phải nêm nếm, canh ngọn lửa, canh thời gian nấu, không để cho chín quá, thành dai nhách, hoặc làm hạt cháo ra nhựa, mất bớt cái ngon. Nghe lời khen, ông Nam cũng thấy trong lòng vui, hăng hái, lạc quan hơn. Một buổi chiều có bạn bè chung quanh, có món ăn ngon, và mọi người vui vẻ, là đủ cho ông Nam cảm thấy hạnh phúc tràn đầy. Không cần mơ ước những thứ xa xôi chưa có. Ông biết nắm bắt lấy cái hạnh phúc ít oi, nhỏ nhất trong hiện tại, mà vui hưởng.

Trước khi đi ngủ, ông Nam nằm xem truyền hình, ông thích những chương trình du lịch, khám phá, y khoa và vạn vật thiên nhiên. Đôi lúc, nếu có phim hay, thì ông theo dõi, thưởng thức. Thường ông chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết, và để đèn sáng cho đến khuya.

Buổi sáng khi nắng vàng xuyên song, chiếu lên giường, đánh thức ông dậy. Nghe xương cốt đau nhức mà ông mừng vì biết hôm nay còn sống. Ông học được điều nầy trong một cuốn sách Mỹ. Nằm yên nghe lũ chim ríu rít kêu trên tàn cây bên hè nhà. Lòng ông cũng mở rộng theo tiếng chim ca đón bình minh. Nằm đây, ông thấy chính ông hoàn toàn tự do, thong dong, không hò hẹn chi ai, không có việc chi gấp gáp cần làm, không bổn phận, không trách nhiệm, không lo lắng gì cả. Hoàn toàn thoải mái, thong dong, tự tại. Trong lúc mọi người, ai cũng vùi mình trong cơm áo, ai cũng có nỗi khổ riêng, có mối âu lo riêng, có hoài bão, ước vọng chưa thành, mà ông thì hoàn toàn bằng lòng với cái hiện tại, sung sướng với những gì đang có, không mơ ước xa hơn, không tham vọng. Có người cho rằng ông Nam còn thoát tục hơn cả những vị cao tăng, vì những vị nầy còn ước vọng được đắc đạo, được về cõi lạc phúc, miền miên viễn. Đồng thời, họ còn có rất nhiều thứ lo lắng nực mùi trần tục, đó là cái tình trạng tài chánh của ngôi chùa đang tu, còn phải chiều chuộng nịnh nọt khách thập phương. Phần ông Nam, với cái trợ cấp tàn phế của chính phủ cho hàng tháng, ông thấy quá đủ, dư ăn dư tiêu. Lúc nào ông cũng có một số tiền mặt để dự phòng khi khẩn cấp. Ông ăn tiêu thoải mái, không hà tiện. Mỗi lần đi chợ, ông đủ sức mua những loại thịt ngon nhất, rau ráng tươi nhất, mùa nào thức đó. Ông không thích ăn những món trái mùa, vừa đắt vừa không ngon. Khi có ai mời ông một món mà ông nghĩ là không ngon, ông thường lắc đầu từ chối, và nói rằng không ăn vì sợ uổng cái miệng. Để miệng, để bụng mà ăn các thứ ngon hơn. Những khi chợ có đợt bán rẻ các loại sò, tôm hùm, cua, ông mua về, làm thức nhắm, mời một người bạn đến nhà, cụng ly, nhâm nhi, nói chuyện đời chơi. Cùng một số tiền trợ cấp đó, nhiều người than van thiếu thốn, ngặt nghèo, buồn khổ, tủi thân, thì ông Nam thấy ông phong lưu dư dả. Ông Nam thường nói: “Bao nhiêu cũng dư, mà bao nhiêu cũng thiếu. Cái dư và cái thiếu nó nằm trong tâm, chứ không phải tính trên con số. Muốn được thật nhiều, thì không bao giờ đủ. Bằng lòng với cái mình có, thì khi nào cũng dư. Nhiều tiền mà vẫn cảm thấy thiếu, tức là khổ, ít tiền mà thấy dư, thì là sướng.”

Mỗi sáng thứ Bảy, ông Nam dậy sớm, đón xe buýt ra chợ trời đi dạo chơi xem thiên hạ mua bán, và tham dự vào cái sinh hoạt hỗn độn muôn màu của thứ chợ trao đổi hàng hóa của đám dân nghèo. Vào chợ trời, ông không cần mua vé, thường thường khi đi ngang qua cổng vé, ông đưa bàn tay ra, người gác cổng vỗ mạnh vào lòng tay ông, cả hai cùng cười, và ông bước vào. Như con rùa chậm chạp nặng nề, ông đi vòng quanh các sạp bán hàng. Ông để ý nhìn những món hàng đặc biệt, và ông có đủ kinh nghiệm để đánh giá các món hàng hiếm quý, có giá, mà thiên hạ ưa chuộng. Ông mua cái đồng hồ Thụy Sĩ cũ không chạy được, chừng một hai đồng, mua món nữ trang cũ năm đồng, mua vài thứ khác nữa mà ông biết có giá, bỏ vào cái bị đeo bên hông. Khi đi ngang qua sạp của anh chàng bán và sửa chữa đồng hồ cũ, ông chìa cái đồng hồ vừa mua được ra cho xem và hỏi:

– “Sao, cái đồng hồ nầy chừng bao nhiêu thì mua được?”

Anh chàng bán và sửa đồng hồ cũ cầm nghiêng cái đồng, nheo mắt nhìn, xem xét kỹ càng, rồi nói:

– “Chừng hai chục đồng thì mua được.”

Ông Nam cười khà khà:

– “Tôi mua được với giá hai đồng thôi.”

– “Bán lại cho tôi hai chục đồng đi!”

– “Không” Ông Nam trả lời ngắn gọn.

– “Thế thì ông muốn bao nhiêu?””

– “Giá vốn, hai đồng thôi.”

Anh chàng bán đồng hồ mừng rỡ, vui vẻ, nhận cái đồng hồ, đưa bàn tay đánh vào bàn tay ông Nam một tiếng bốp, rồi móc hai đồng trả. Cả hai cùng cười vui vẻ. Ông Nam thấy trong lòng hớn hở, vui lắm, vui hơn là bán được với giá năm, bảy chục đồng. Mấy tuần sau, anh bán đồng hồ thì thầm với ông Nam rằng, cái đồng hồ đã được lau chùi sạch sẽ, chạy tốt, và đã bán được cho người quen hai trăm đồng. Người ta năn nỉ quá, nên mới bán với giá đó.

Cũng trong ngày ấy, ông Nam mang chiếc nhẫn mua được, đến cho bà người Mỹ bán nữ trang trong chợ trời, và nói đùa:

– “Tôi đem chiếc nhẫn nầy, đến xin hứa hôn với em gái bà đây!”

– “Xong rồi, em tôi sẽ nhận lời cầu hôn của anh. Anh định bán bao nhiêu đây?”

– “Năm đồng, tôi mua được bên kia với giá năm đồng. Rẻ hay đắt?”

– “Tôi trả cho anh mười đồng”

– “Không, năm đồng thôi, tôi lấy lại giá vốn. Không lấy lời.”

Bà bán nữ trang cố nài ép, nhét mười đồng vào túi áo ông Nam, ông cứ gạt đi, và nhất định bán năm đồng thôi, nếu bà không chịu thì phải trả lại chiếc nhẫn.

Ông lại khấp khểnh chống gậy đi, đến gian hàng bán đồ điện tử, dừng lại, đưa tay đánh chập vào bàn tay anh chàng Mỹ gốc Phi Châu đang bán hàng, cả hai cùng cười ha hả vui vẻ, ông hỏi:

– “Nếu có một cái hộp đổi đài, nối với máy truyền hình, bán với giá ba đồng thì anh nghĩ sao?”

– “Chớp liền ngay chứ, đâu để cho người khác mua mất!”

– “Thế thì anh xuống dưới hàng thứ ba, bên góc trái, có ông Tàu bán hàng, đội nón rộng vành mà mua. Tôi hỏi, ông ta nói không biết là cái hộp gì, đòi bán ba đồng thôi.”

– “Nầy, anh làm ơn đứng đây trông hàng cho tôi chạy xuống mua cái hộp nghe.”

Không cần chờ ông Nam chịu hay không, anh Mỹ hấp tấp chạy đi mua hàng. Khi về, anh hớn hở khoe là mua được với giá hai đồng thôi. Anh nói cho ông Nam biết là cái hộp có thể bán được năm chục đồng, rất nhiều người cần mua.

Cứ thế, ông đi quanh chợ, mách mối cho ông nầy, bà kia, để họ mua đi bán lại kiếm lời. Nhờ đó mà ông quen biết với đông đảo bạn hàng bán chợ trời. Hầu như người nào cũng có chút ân nghĩa với ông Nam. Ông đi mua niềm vui, mua hạnh phúc, mua sự tử tế, mua tình thân thiết, mà không tốn một xu nhỏ. Ông nói với một người bạn thân rằng, mình mua đi bán lại, có thể kiếm được ít chục đồng, nhưng không quý bằng cái tình mua được trong đám dân tứ xứ nầy.

Đi đến gian hàng của một ông người Mỹ già, bán đủ thứ lặt vặt. Hàng hóa đủ loại chất đầy trên tấm vải lớn trải trên sân. Ông Nam chào hỏi vui vẻ. Ông Mỹ cho biết từ lâu rồi, hàng hóa bán ế ẩm, cứ mang đi, chuyển về, tốn tiền thuê chỗ, tốn tiền xăng di chuyển, tốn thì giờ, ngồi ngáp hoài mỏi miệng, chán quá, muốn đem đống hàng nầy đổ vào thùng rác cho khỏe. Ông cười Nam hỏi:

– “Ông có muốn bán hết cái đống hàng nầy trong buổi sáng nay không?”

– “Muốn chứ! Làm cách nào? Chỉ có phép lạ mới bán hết mà thôi.”

– “Ông hãy để bảng, một đồng một món hàng, và rao lên cho thiên hạ nghe. Cứ thử xem sao.”

Sau khi thu giấu bớt mấy món hàng có giá trị cao, ông bán hàng kiếm được miếng bìa lớn, ghi một đồng mỗi món, và cùng ông Nam ngoác miệng rao inh ỏi:

– “Một đồng mỗi món hàng, một đồng thôi, rẻ lắm. Mua vô, mua vô!”

Khách chợ trời ùn ùn đổ lại, lục lọi đống hàng hóa trên sân. Ông bán hàng thu tiền không kịp, ông Nam phải phụ giúp, thu tiền những khách hàng khác. Trong vòng vài tiếng đồng hồ, đống hàng hóa trước kia chất đầy vun trên sân, bây giờ chỉ còn lưa thưa những cuốn sách, những đồ dùng rách nát, không ai muốn rước về cho thêm rác trong nhà. Ông Mỹ bán hàng chạy ra, ôm lấy ông Nam mà cười, gọi đùa ông là ông thầy. Ông bán hàng chia tiền bán được hàng hóa cho ông Nam, ông gạt đi và nói rằng:

– “Không nhận, tiền nầy là của ông. Tôi không có quyền nhận.”

– “Nhưng nếu ông không cho ý kiến, thì chắc tôi phải giữ ba cái thứ quỷ quái nầy mãi đầy trong xe. Thôi, hôm nào rảnh, tôi mời ông đi ăn nhé.”

– “Được, đi ăn cho vui thì được”

Ông Nam la cà trong chợ trời, từ gian hàng nầy qua gian hàng khác suốt buổi sáng. Nói vài câu bông đùa với người nầy, người kia. Có khi khách hàng tưởng ông là người bán, hỏi giá, ông cứ ra giá mà không cần hỏi người chủ bán hàng. Những khi bán được giá, chủ gian hàng rối rít cám ơn ông. Có khi gặp người quen đi mua hàng, chủ gian hàng bảo rằng: “Người nhà ông Sam thì chỉ bán nửa giá thôi”. Ông Nam tự đặt cho ông cái tên Mỹ là Sam, chú Sam, cho thiên hạ dễ nhớ. Từ lâu, ông Nam thành một người khách hàng đặc biệt của khu chợ trời nầy, những người bán hàng, xem ông như một người bạn vui vẻ, thân thiết và có nhiều tình nghĩa. Có khi ông mua hàng, người bán không nhận tiền, bảo rằng, nếu mua cho chính ông, thì họ biếu, mà mua cho người khác, thì họ chỉ lấy đúng giá, khỏi mặc cả.

Ông Nam đến Mỹ theo diện tù binh chính trị tị nạn. Được trợ cấp tàn phế ngay từ đầu, nhiều người khuyên ông nên ở nhà, nghỉ ngơi cho khỏe, nhưng ông vẫn ghi danh theo học khóa huấn nghệ sử dụng máy vi tính. Thấy ông đi học, có người nhìn ông với ánh mắt thương hại, họ nghĩ là ông phí công, phí sức vì tuổi đã cao, thân thể lại tàn tật, học để làm chi. Sau khi tốt nghiệp, ông nộp đơn xin việc nhiều nơi mà không hy vọng, nhưng cứ gởi đơn đi. Có vài nơi kêu ông đi phỏng vấn, họ thấy tình trạng tàn tật của ông, cứ tìm cách từ chối khéo. Người ta bảo là luật lệ xứ nầy, chủ nhân không được kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, tuổi tác, tàn tật. Ông cứ gắng tin như vậy để mà hy vọng. Trong một lần được phỏng vấn để xin việc, ông nói:

– “Nếu quý ông tìm một người lao động có sức lực, thì đừng thuê tôi. Nhưng nếu quý ông tìm người ngồi bên máy vi tính, thì tôi là người đáng được lựa chọn. Sao các ông không thử tôi đi. Nếu tôi không làm được như các ông mong muốn, thì cứ cho nghỉ việc. Hãy cho tôi một cơ hội. Tôi nghĩ, tôi sẽ đem lại lợi lộc cho công ty quý ông bằng khả năng làm việc của tôi.”

Nhờ nói vậy mà ông được tuyển dụng. Ông đã không làm phụ lòng người tuyển ông. Họ rất bằng lòng với lối làm việc chăm chỉ, cẩn thận và chịu khó tìm hiểu, học hỏi thêm trong nghề của ông. Làm việc chưa được hai năm, thì công ty phá sản, ông bị thất nghiệp. Ông vẫn tin tưởng, còn có thể kiếm ra công việc khác, nhưng ông vẫn chưa tìm được một cơ hội may mắn khác.

Từ nhiều năm trước, vì một chuyện xích mích nhỏ, bà vợ đã bỏ ông ra đi. Ông nghĩ rằng, khi hết giận bà sẽ quay về. Ông tìm bà để hàn gắn, nhưng bà nhất quyết không chịu. Ông chợt nhận ra rằng, nguyên nhân gia đình gãy đổ không phải vì chuyện nhỏ kia, mà đó chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn ly. Bà đã chịu đựng, đã cực khổ vì ông quá lâu, quá nhiều, vì cơ thể tàn tật, vì tài chánh yếu kém, và tương lai khó khăn trước mắt. Ông hiểu, phải có thứ tình yêu thâm đậm nào đó, mới đủ hy sinh cho nhau, đồng cam chịu khổ khi hoạn nạn. Ông không buồn giận bà, ông cũng không buồn tình đời, cũng không đau đớn vật vã than van. Mỗi khi nghĩ đến vợ, ông ôm đàn gảy tưng tưng mà hát, lời hát ông tự đặt:

– “Lầm to. Em tưởng ta nghèo. Bỏ đi như ngọn gió vèo thu bay. Trong ta châu báu chất đầy. Kho tàng hạnh phúc, tháng ngày thư an…”

Nhờ nghe lời khuyên của một người bạn, rằng sau khi gia đình đổ vỡ, phải biết vui vẻ làm lại cuộc đời mới, đẹp hơn, tươi vui hơn, và hạnh phúc hơn cuộc đời cũ, không tội chi mà buồn phiền và làm hư hỏng những tháng ngày còn lại. Ông đứng dậy, mạnh dạn làm lại cuộc đời, làm cho mỗi ngày sống có chan hòa niềm vui, có thanh thản trong tâm hồn, tạo niềm vui cho chính mình, cho người chung quanh.

Mỗi tuần, ông vào viện dưỡng lão thăm viếng, chuyện trò với những người già cả, bệnh hoạn không có thân nhân, hoặc thân nhân quá bận rộn cơm áo, không có thì giờ lui tới. Ông thường đem báo, sách cho họ mượn, tặng các cụ già một món quà nhỏ đẹp, lạ, dễ thương, mua mấy chục xu ngoài chợ trời. Thế là các cụ hớn hở, vui sướng suốt ngày. Hoặc ngồi nghe các cụ kể chuyện quá khứ huy hoàng. Mỗi khi ông ghé viện dưỡng lão, mấy cụ quen ông lao xao kêu gọi, chào đón niềm nở. Lòng ông hân hoan, biết mình còn đem lại chút vui nhỏ nhoi cho các cụ cô đơn nầy. Ông thấy rõ, trong tương lai, chính ông cũng sẽ vào sống ở nhưng nơi tương tự như thế nầy.

Nhiều đêm thức giấc, quàng tay qua không có vợ nằm bên, ông giật mình, lòng chợt nhói đau. Nhưng rất mau sau đó, ông lại cám ơn bà đã bỏ ông ra đi, nhờ bà bỏ đi, ông mới có được cái an nhiên tự tại, cái sung sướng nhàn nhã và thong dong như bây giờ. Nhiều bạn bè đã ví ông với một ông tiên nho nhỏ. Nếu còn bà, thì bây giờ, dù có tàn tật, bệnh hoạn, khó khăn, ông cũng phải đi làm, vì là bổn phận, để nuôi dưỡng cái hạnh phúc mong manh của gia đình. Ông ý thức rằng, trong cái mất, cũng có cái được. Trong cái rủi có cái may. Chấp nhận cái không thể thay đổi được trong đời. Những lúc nầy, lòng ông vui sướng, mỉm cười và ngủ lại trong giấc an bình. Ông lầm bầm hát, không biết hát thật hay hát trong giấc mơ: “Lầm to. Em tưởng ta nghèo. Bỏ đi như ngọn gió vèo thu bay. Trong ta châu báu chất đầy. Kho tàng hạnh phúc, tháng ngày thư an…”.

Tràm Cà Mau

NGƯỜI BẠN CỦA CHA – VietBF

NGƯỜI BẠN CỦA CHA – VietBF

Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg.

Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh ! Mỗi lần muốn gọi, chỉ cần: “Êu, Êu” là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương !

Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.

Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó.. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.

Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no.

Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi ?” – Mẹ tôi bảo thế.

Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người ? Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín.

Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra ! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng !…

Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt… Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy ? Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi ! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng….

Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm…

Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa.. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm ? Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò ?

Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về ! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau.

Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn.

Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại… Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.

Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.

Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà !

Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay.

Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.

Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi.

Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống ! Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão !

Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm.

Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.

Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào.

Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời ! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người !

Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.

Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm !.

Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn ! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời ! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa.

Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt.
Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà ?

Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm…

Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về ?

Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.

Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.

Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt…

Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi… Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi: Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người…

VietBF@sưu tập

TÌNH YÊU BẤT TỬ

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

Hoàng Huyền  

TÌNH YÊU BẤT TỬ

Câu chuyện xảy ra ở một bệnh viện nhỏ ở vùng quê hẻo lánh. Ở khoa hóa trị có một phụ nữ trẻ đang trong giai đoạn cuối của căn bệnh ung thư. Tuy luôn bị những cơn đau hành hạ nhưng chưa bao giờ người phụ nữ ấy quên trao cho chúng tôi một nụ cười biết ơn sau những lần điều trị. Những khi chồng cô tới thăm, mắt cô rạng ngời hạnh phúc.

Đó là một người đàn ông đẹp trai, lịch thiệp và cũng thân thiện như vợ mình. Tôi rất ngưỡng mộ chuyện tình của họ. Hằng ngày anh mang đến cho cô những bó hoa tươi thắm cùng nụ cười rạng rỡ, anh đến bên giường nắm lấy tay cô và trò chuyện. Những lúc quá đau đớn, cô khóc và trở nên cáu gắt, anh ôm chặt cô vào lòng, an ủi động viên cho đến khi cơn đau dịu đi. Anh luôn bên cô mỗi khi cô cần, anh giúp cô uống từng ngụm nước và không quên vuốt nhẹ đôi chân mày của cô. Mỗi đêm, trước khi ra về anh luôn đóng cửa để hai người có những giây phút bên nhau. Khi anh đi, chúng tôi thấy cô ấy đã ngủ say mà trên môi vẫn phảng phất nét cười.

Nhưng đêm ấy mọi chuyện đã thay đổi. Khi nhìn vào bảng theo dõi, kết quả cho thấy người vợ trẻ ấy sẽ không qua khỏi đêm nay. Mặc dù rất buồn nhưng tôi biết đó là cách tốt nhất cho cô ấy, từ nay cô sẽ không chịu những cơn đau thêm nữa.

Để bảng theo dõi trên bàn, tôi muốn đến phòng bệnh. Khi tôi bước vào phòng, cô mở mắt nhìn tôi hé môi cười một cách yếu ớt, nhưng hơi thở của cô nghe thật khó nhọc. Chồng cô ngồi bên cô mỉm cười nói: “Cho đến bây giờ món quà tuyệt vời nhất tôi dành cho cô ấy chính là tình yêu của tôi”.

Và tôi đã khóc khi nghe điều đó, tôi nói nếu họ cần bất cứ điều gì thì đừng ngại. Và đêm ấy cô đã ra đi trong vòng tay người chồng yêu dấu. Tôi không biết làm gì hơn ngoài việc cố an ủi và chia sẻ nỗi đau này cùng chồng cô. Với khuôn mặt đẫm nước mắt, anh nghẹn ngào: “Xin hãy cho tôi ở bên cô ấy thêm một lúc”.

Bỗng nhiên từ trong phòng vọng ra một giọng hát trầm ấm mà tôi chưa từng được nghe. Không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đều bị cuốn hút bởi giọng hát của anh khi anh cất lời bài “Beautiful brown eyes”. Rồi giai điệu khúc ca nhỏ dần, anh mở cửa gọi tôi đến, nhìn sâu vào mắt tôi, ôm chầm lấy tôi rồi nói: “Tôi đã hát bài này mỗi đêm cho cô ấy nghe kể từ ngày chúng tôi quen nhau. Mọi ngày tôi vẫn thường cố giữ cho giọng mình thật nhỏ để khỏi làm phiền bệnh nhân khác. Và tôi chắc rằng đêm nay trên thiên đường cô ấy cũng vẫn nghe tôi hát. Tôi xin lỗi đã quấy rầy mọi người. Tôi chỉ không biết sống ra sao khi thiếu vắng cô ấy, nhưng mỗi đêm tôi vẫn tiếp tục hát. Chị có nghĩ rằng cô ấy nghe thấy tiếng tôi không?”.

Tôi khẽ gật đầu mà nước mắt vẫn tuôn. Anh ôm tôi một lần nữa và cảm ơn tôi cùng tất cả mọi người. Đoạn anh quay bước, cúi đầu khẽ huýt sáo giai điệu thân quen.

Khi anh bước đi, tôi nhìn theo, thầm cầu nguyện cho cô ấy, cho anh và cho tôi một ngày nào đó cũng tìm được một tình yêu như thế.

St

May be an image of prairie gentian, rose and indoor

Bố Ơi Con Đã Hiểu Rồi…

 May be an image of 2 people and text that says 'Há»i bé, thích rạ khỏi nhà vì ở nhà chán lắm. Lớn lên, lại thích quay về nhà vì ngoài đời chán lắm.'

Bố Ơi Con Đã Hiểu Rồi…

Mình không thích nói về cái nghèo, nhưng phải công nhận là khi còn nghèo đói, hầu như con cái nhà nào cũng ngoan ngoãn, biết nhường nhịn, đùm bọc lẫn nhau. Rất lạ.

Trẻ con bây giờ được ăn ngon, mặc đẹp. Vậy nhưng xem ra chúng rất ích kỷ, lười biếng, thậm chí vô cảm và hiếm khi nghe lời. Mình không vơ đũa cả nắm, nhưng dám chắc có nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh này.

Trong nhà, mình cố gắng làm gương để con cái noi theo, như dậy sớm, tập thể dục, gấp chăn gối gọn gàng, giúp vợ làm vài việc vặt như đổ rác, phơi quần áo, quét nhà, nhặt rau, và nhắc trẻ làm theo.

Làm gương mãi nhưng không đứa nào chịu học theo. Đứa đang nghỉ hè thì ngủ đến gần trưa. Đứa đi làm thì giờ làm là 8h30, gần 8h00 mới dậy. Nó ăn uống vội vàng rồi ra đi, không làm tý việc nhà nào. Những khi mình nhắc nhở, vốn rất chiều con nên vợ mình thường im lặng, thành ra con cái vẫn cứ nghĩ là chúng cứ như thế là đúng, còn mình thì xem ra…quá đáng (!).

Nhắc bao nhiêu cũng chẳng ăn thua. Khi kể lại chuyện thời còn bé mình phải chịu khó chịu khổ thế nào, tự lực cánh sinh ra sao để “giáo hóa” thì chúng nó “dẹp” ngay, bảo thời nay khác, thời xưa khác, bố kể để làm gì?.

Một hôm, sau một thời gian dài nói mãi không được, mình quyết định “phát xít” hơn, chuyển từ “khuyến khích” sang “bắt buộc”. Mình gọi đứa đã đi làm dậy sớm hơn và bảo, bố đã nhắc nhở con nhiều lần chuyện không dậy muộn quá, gấp chăn gối, quần áo gọn gàng rồi tập thể dục hoặc giúp mẹ vài việc vặt, nhưng con không nghe. Hôm nay nếu không thực hiện, bố không đồng ý cho con đi làm.

Trước sức ép, con bé gượng làm được vài bữa rồi đâu lại vào đó.

Tiếp theo, mình lại bảo vợ rằng con đã có lương, phải đóng tiền cơm cho mẹ, mỗi tháng một triệu. Vợ mình can, bảo nhà có thiếu gì lắm sao bắt con đóng tiền. Mình nói chỗ tiền đó thấm gì, chỉ là hình thức, nhưng để cho con hiểu được trách nhiệm.

Mấy hôm sau, khi đi tập thể dục về, thấy vợ mếu máo, con nó bảo bố “độc tài” quá, cứ đòi hỏi làm những thứ mà thanh niên bây giờ không đứa nào muốn làm (!), rồi lại còn bắt đóng tiền ăn, coi nó như…người ngoài. Nó thấy bị mất tự do (!), quá nên đã xách vali ra ngoài ở trọ với bạn bè rồi…

Mình bảo em cứ bình tĩnh. Những việc anh bảo nó làm đều muốn tốt cho nó thôi, không có bất cứ điều gì quá đáng cả. Mình không yêu cầu nó ra ngoài ở mà nó tự đi, thì cứ để nó đi, chắc chắn nó sẽ học được nhiểu điều bổ ích…

Hai tháng trôi qua. Thỉnh thoảng ngồi buồn, vợ lại càu nhàu, anh đúng là thô bạo quá, cả nhà đang vui, lại sinh chuyện để con bỏ đi, con nó còn dại, có làm sao lại khổ. Bị vợ than phiền nhiều, có lúc mình cũng tự hỏi hay là mình thô bạo thật?

Khi đứa lớn bỏ đi, vì được chiều từ nhỏ nên đứa bé và vợ mình bỗng dưng trở thành “một phe” riêng và mình trở nên lạc lõng. Có hôm vì quá lo lắng cho con và giận mình, vợ còn bắt ra nằm sofa cho bõ tức!

Thế rồi một hôm, mình vừa đi tập thể dục về thì thấy hai mẹ con đang thủ thỉ với nhau ở phòng trong. Bên cạnh là cái…vali to tướng. Mình đã đoán ra được sự việc, nhưng để giữ thể diện cho con, mình không nói gì.

Gần tới bữa cơm, biết không thể tránh được, con gái mới chạy ra xin lỗi mình, nước mắt ngắn, dài nói rằng con đã hiểu sai về những yêu cầu của bố, đó chỉ là những yêu cầu tối thiểu, làm được dễ dàng. Việc ở riêng không đơn giản chút nào. Khi ở nhà, con được phục vụ đầy đủ “một cách tự động” thì cứ nghĩ là chuyện thường.

Ra ở riêng không tự làm thì chẳng có cái gì hết. Không nấu, không có cơm ăn. Không giặt, hết quần áo mặc. Nước lọc không đun không có mà uống. Tất cả những việc đó con chưa được chuẩn bị để sẵn sàng…

Mình bảo thôi con không cần giải thích nhiều đâu. Con thử nói một câu ngắn gọn xem nào. Nó bảo, bây giờ con mới hiểu được câu mà bố nhắc nhở. Đó là “cho đến trước 18 tuổi thì con nghĩ là con khôn hơn bố, đến 25 tuổi thì con thấy bố cũng chỉ…khôn bằng con, và đến 30 tuổi con mới nhận ra rằng bố…khôn hơn con”.

Mình bảo câu này có phải của bố đâu, nhưng bố rất mừng vì con đã nhận ra được điều đó sớm hơn nhiều so với mong đợi.

Trong không khí trầm lắng của cả nhà, có lẽ mình là người vui nhất, một niềm vui khó tả!

Đang nằm sofa và mải nghĩ về những chuyện vừa xẩy ra thì có tiếng thì thào của vợ, đi ngủ thôi anh, muộn rồi. Hôm nay trời nóng, em…bật điều hòa nhé!

Lượm trên mang…

Câu truyện một con chó

Câu truyện một con chó

Có một lần, tôi gọi taxi để đưa con chó đi khám bệnh. Vì con chó ho rất nặng tiếng nên gây chú ý đến người tài xế. Anh ta quay lại hỏi: “con chó bị cảm lạnh à?”

Tôi đáp: “Đúng vậy, nó ho liên tục từ hôm qua đến giờ.”

Người tài xế thở dài hỏi:”Chà, sao ho giống người vậy.”

Rồi anh ta bắt đầu câu chuyện. Anh ta kể về những trải nghiệm đau khổ khi anh ta nuôi con chó của mình. Nhiều năm trước đây, anh ta nuôi một con chó berger. Nó có thân hình cao lớn, ăn rất khỏe, tiếng sủa của nó rất vang.

Một hôm, anh cảm thấy mình không còn đủ sức để nuôi nó, anh cho nó vào bao tải và chở đi vứt.

Vì sợ nó quay về nhà, anh đã lái xe đến một vùng núi cách nhà hơn 100km rồi thả nó ở đó.. Sau khi thả con chó, anh lái xe thật nhanh, con chó đuổi theo mấy cây số rồi biến mất.

Một tuần lễ sau, vào lúc nửa đêm anh nghe ngoài cửa có tiếng lạch cach. Mở cửa ra nhìn thì hóa ra con chó quay về. Thân hình của nó gầy còm, dáng vẻ bối rối, rõ ràng là nó đã trải qua một thời gian tìm kiếm khá lâu.

Tuy rất ngạc nhiên nhưng anh ta chẳng nói câu nào, lẳng lặng vào trong nhà lấy ra một chiếc bao tải và cho con chó vào, vứt nó đi một lần nữa.

Lần này anh đi theo đường quốc lộ số 1. Dọc đường đi anh nghe thấy tiếng con chó khóc thúc thít. Khi đến nơi, anh ta mở chiếc bao tải ra, thì thấy toàn là máu.

Ở khóe miệng của con chó, máu vẫn tiếp tục trào ra. Anh dùng tay banh miệng con chó ra thì thấy lưỡi nó đã đứt làm đôi. Hóa ra con chó đã cắn lưỡi tự tử.

Khi người tài xế kể xong chuyện, một không khí im lặng lạ thường bao trùm chiếc xe. Từ chiếc kính chiếu hậu, tôi nhìn thấy khóe mắt của anh ta đỏ lên.

Một lát sau, anh ta mới nói: “Mỗi lần nhìn thấy chó của người khác, tôi đều nhớ đến con chó đã cắn lưỡi tự tử của tôi. Sự việc này khiến cho tôi đau khổ suốt cả một đời. Tôi không phải con người. Tôi không phải con chó.”

Nghe xong câu chuyện của người tài xế, trước mắt tôi như hiện ra cảnh tượng: con chó ấy chạy lang thang giữa núi sâu, giữa những cánh đồng hoang, giữa những thành phố ngoại ô. Để trở về nhà gặp lại chủ nhân, nó đã chạy hàng trăm cây số. Khó khăn lắm mới tìm được đường về nhà, vậy mà chủ nhân không những không mở cửa, không một lời động viên nào còn lập tức vứt nó đi lần nữa.

Đây là một cú sốc lớn chừng nào đối với một con chó trung thành và tình nghĩa. Để khỏi bị chối bỏ lần nữa, con chó đã tự kết liễu đời mình.

Người tài xế kể tiếp. Anh đã mang con chó về chôn cất ở trong vườn, thường xuyên cầu nguyện cho nó. Vậy mà đến nay anh vẫn chưa gạt bỏ được nỗi ân hận trong lòng. Vì thế anh thề rằng, phải kể cho những người nuôi chó nghe câu chuyện này, khuyên mọi người hãy yêu quý con chó của mình nhiều hơn.

Anh hy vọng việc này sẽ giúp anh chuộc lại phần nào tội lỗi của mình.

Một con chó có tình có nghĩa nhưng lại bị vứt bỏ một cách vô tình, điều này khiến cho người tài xế đau khổ suốt cả cuộc đời.

Chó còn như thế huống hồ là con người.

Khi ai đó bỏ mặc một người có tình có nghĩa, liệu anh ta có thể sống yên ổn suốt cả cuộc đời hay không?

Với những kẻ làm cha làm mẹ chối bỏ con cái mình, với những kẻ làm con nhưng lại bỏ mặc cha mẹ tuổi già sức yếu thì tội ác lớn biết chừng nào.

Khoai Lang Sưu tầm.

From: Do Tan Hung & KimBằng Nguyễn

 HIẾU THẢO

May be an image of sculpture, outdoors and monument

 HIẾU THẢO

Sưu tầm

Có một ông gần 70 tuổi, góa vợ. Ông có năm người con hiếu thảo và sống rất hòa thuận với nhau. Đứa nào cũng có gia đình riêng khá giả và thành đạt. Ông rất hài lòng, tin tưởng, tự hào về con cái mình.

Xét thấy tuổi cao sức yếu, ông muốn chia toàn bộ gia sản cho con cái để chúng có thêm điều kiện phát triển cơ nghiệp. Ông nghĩ con mình ngoan, hiếu thảo thì mình sống với bất cứ đứa nào cũng tốt.

Căn nhà đang ở, giao cho vợ chồng đứa út và ông sống cùng nó.

Phần tài sản lớn được chia gần như đều nhau cho các con.

Được vài tháng, không khí trong nhà trở nên ngột ngạt. Vợ chồng nó hay xì xào điều gì mà ánh mắt không mấy thiện cảm. Vợ nó hay đụng thúng đá nia, chửi chó mắng mèo những chuyện đâu đâu làm ông nghe, cảm thấy chạnh lòng. Vợ chồng nó thường xuyên cãi nhau, ai cũng trở nên nóng nảy. Con vợ la to: của cải chia đều mà mình phải nuôi ổng thật là không công bằng.

Ông buồn, bỏ sang ở với vợ chồng thằng thứ hai, con thứ ba, thằng thứ tư, con thứ năm, mỗi nhà cũng chỉ được vài tuần là có chuyện.

Chúng hành xử như thể ông là người ở đậu, là của nợ. Chúng họp nhau căng thẳng phân chia nhiệm vụ nuôi báo cô ông. Chúng bốc thăm theo tháng, đứa trúng tháng 2 (28 ngày) cười vui vẻ, đứa trúng tháng 31 ngày, méo mặt. Cứ đến chiều cuối tháng, chúng đẩy ông ra cổng. Ông ôm bọc quần áo, ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ, đứa kế mới đến đón.

Quá buồn và thất vọng, ông hay ngồi trước mộ bà, nước mắt chảy dài, chỉ biết tâm sự cùng với bà cho khuây khỏa, trông mong một ngày sẽ đi cùng bà, được sống mãi những tháng ngày hạnh phúc và kiếp sau không mong có những đứa con này.

Thấy tình cảnh bi đát của ông, bạn ông (cũng khá giàu có) tổ chức một bữa tiệc, mời tất cả 5 người con của ông đến dự. Trong men say là đà, ông rỉ tai từng đứa, dẫn đến căn phòng kín, chỉ vào chiếc rương to với nhiều ổ khóa và nói: đây là một nửa gia sản của ba tụi con gửi và ủy quyền cho chú, sau này sẽ chia cho tụi con. Di chúc đã lập chỉ chờ điền % cho từng đứa vào là xong.

Lạ thay, ngày hôm đó chúng tranh nhau chăm sóc ông, đứa nào cũng muốn ông ở với nó. Tình thương đối với cha lai láng còn hơn lúc trước khi chia tài sản.

Ông hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cảm động rơi nước mắt và nghĩ: đây mới chính là những đứa con thân yêu, những dâu hiền, rể thảo của mình.

Ông được sống những ngày tháng hạnh phúc nhất cuộc đời mình.

Thời gian màu hồng cứ thế trôi đi thêm hơn mười năm nữa thì ông ngã bệnh, tiên lượng không qua khỏi trong vài ngày tới.

Chúng khóc lóc, nắm tay cha không nỡ buông ra, giây phút âm dương chia biệt ngậm ngùi.

Chiếc rương được bạn ông tức tốc chở đến đám tang và được đặt trịnh trọng cạnh quan tài, dưới hàng chục ánh mắt đau đáu nhìn vào.

Tang lễ được cử hành trang trọng, đầy tốn kém, phần mộ uy nghi bên cạnh mộ bà và ước nguyện theo bà của ông cũng đã thành.

Sau phần tang lễ là chiếc rương được chúng nhanh chóng bật nắp mà trong lòng ai cũng hy vọng mình được phần lớn trong di chúc do công chăm sóc, tình thương và hiếu thảo của mình với cha. Nắp rương được mở… một rương đầy cát, một tờ di chúc với nét chữ thân thuộc xiêu vẹo và chữ ký của cha:

CHỈ CÓ NHỮNG KẺ NGỐC MỚI CHIA HẾT GIA TÀI CHO CON MÌNH KHI CÒN SỐNG.

Nguồn Tuấn Mai Sai gòn

Tâm sự người về hưu

Van Pham

Tạo hóa tạo dựng nên muôn loài … Loài nào cũng thương yêu, chăm sóc và nuôi dưỡng con cái trưởng thành (trừ Tu Hú), rồi sau đó để chúng tự lập. Chúng vẫn tiếp tục sinh sôi nẩy nở thế hệ này tiếp diễn thế hệ khác.

Riêng con người tự ru ngủ mình bằng “tình thương con cháu” rồi ôm lấy chúng làm như không có mình chúng không khôn lớn được. Để rồi than van, kể khổ hoặc đời người chỉ biết quanh quẩn trong bốn bức tường & con với cháu?!

*****

Tâm sự người về hưu.

Ông Minh khi đi tị nạn tới Úc thì đã bốn mươi tuổi đời, cái tuổi mà theo người Âu Mỹ là cái tuổi khởi đầu cho công danh sự nghiệp nên cũng không muộn màng lắm đối với một kẻ tị nạn bắt đầu làm lại cuộc đời nơi xứ người như ông. Sau hai mươi lăm năm trời, một phần tư thế kỷ làm việc trả nợ công dân góp phần xây dựng nước Úc, ông về hưu lúc sáu mươi lăm, đúng tuổi hưu trí mà chính phủ đã quy định cho tất cả mọi người dân.

Trước ngày ông thôi việc, nhân viên làm lương tính sổ cho ông thấy ông còn dư tới 146 ngày sick leave (nghỉ bệnh) và ba tháng holiday cộng thêm long service leave (nghỉ thâm niên ba tháng) vị chi là sáu tháng. Theo lụât công đoàn, “sick leave” hằng năm không lấy thì kể như bỏ, chỉ có holiday mới được để dồn năm này qua năm nọ nghỉ chừng nào cũng được.

Vì vậy khi lãnh tiền hưu trí, ông không được lãnh khoản tiền sick leave, bạn bè tiếc hùi hụi cho ông, nói sao lúc đi làm ông không kiếm bệnh để nghỉ, bây giờ không lấy được đồng nào thiệt uổng. Ông Minh nói trời thương cho tôi không bị bệnh là có phước rồi, khi không khai bệnh lấy ngày nghỉ ở nhà chơi thấy quấy lương tâm quá, chừng nào bệnh thiệt hẳn hay. Một con người có bản tính ngay lành chân chỉ như ông vậy dĩ nhiên là không thích ăn không ngồi rồi bởi vì “nhàn cư vi” có ngày sẽ sinh “bất thiện”.

Do đó, trước khi nghỉ làm, ông cứ băn khoăn lo lắng cho thời gian sắp tới ở nhà không có việc gì làm chắc sẽ trở thành bất đắc chí buốn chán sanh tật họăc phát điên lên được. Ông đi kiếm mấy người quen đã về hưu trước mình hỏi thăm coi họ làm gì để đốt thời gian cho hết khoảng đời còn lại. Nghĩ cũng trớ trêu buồn cười thật. Người đi làm thì học hỏi kinh nghiệm là phải, đằng này về hưu cũng phải tìm người vấn kế thọ giáo để noi theo. Khổ thiệt!

Có người bày cho ông Minh đi làm việc thiện nguyện giúp đời tùy theo khả năng và sức khỏe của mình. Có người thì nói:

– Gắn cái internet chơi đi, rất hữu ích, mọi chuyện trên thế giới đều thu gọn trong đó, biết bao nhiêu chuyện cho mình học hỏi nghiên cứu. Còn không thì đi thư viện mượn sách về đọc, nếu có hứng thì dịch bài tiếng Anh gởi đăng báo cho vui. Ôi! Thiếu gì công chuyện, lo gì. Sợ là sợ làm biếng không chịu làm, chớ muốn làm thì biết bao chuyện để làm.

Có người lại cho ý:

– Ông từ trong bộ ra, đã rành rẽ đường đi nước bước như trong lòng bàn tay, hay là mở một văn phòng di trú tư làm chủ, “có ăn’’ lắm đó, nhất là ông được nhiều người biết đến, chắc người ta sẽ ủng hộ ông lắm.

Ông Minh cười lắc đầu nói:

– Tôi “có ăn’’ đủ quá rồi nên giờ đây muốn nghỉ. Nếu muốn làm thì tôi vẫn có thể làm tới bảy mươi. Big boss tôi hỏi mà tôi từ chối đây nè, tội gì lại đút đầu vô nữa cho thêm mệt. Tôi hòng ra khỏi chớ chẳng mong bước vào. Làm cho nhiều chết cũng có mang theo được đâu. Ở nhà hủ hỉ với vợ con cho ấm tuổi già. Từ khi qua Úc tới giờ tôi chưa có dẫn bả đi chơi đâu hết. Cứ lo làm không hà. Tội nghiệp bả cũng không đòi hỏi phàn nàn gì.

Tại tánh ông Minh hay lo xa sợ hờ như vậy chớ ông có hai thằng cháu ngọai, một thằng mới sanh và một thằng một tuổi rưởi. Rồi đây ông mặc sức mà bận rộn bù đầu thở không kịp chớ vợ con đâu dễ gì cho ông ở không mà ông sợ thất nghiệp.

Và cuối cùng thì ngày hưu cũng tới với ông. Ông gác bút, “sayonara” đồng nghiệp bạn bè một đi không trở lại. Về phụ bà xã babysit hai thằng cháu cho con cho rể đi làm. Tưởng đâu out of work thì sẽ có nhiều giờ rảnh rỗi lắm, ai dè nghỉ ở nhà rồi ông mới biết trong nhà ông cái gì cũng có nhưng kiếm không ra chữ “nhàn”.

Bây giờ ông bận tối mặt tối mũi vì công việc nhiều gấp mấy lúc đi làm. Ông chẳng khác nào một Mister Mom, rành sáu câu công việc chăm sóc baby như thay tã, cho bú, bồng bế, hát ru vv…

Mỗi khi cho bú xong bình sữa, ông còn biết ẵm đứng thằng nhỏ lên vuốt vuốt lưng cho tới khi nó ợ được một cái cho tiêu thì mới để nó xuống nằm chơi hay trườn, bò, lăn lết gì đó mặc sức chớ không “ợ” thì một hồi sau nó sẽ ọc sữa tùm lum.

Mỗi khi phải chở bà xã và hai thằng cháu ra ngoài đi shopping hay đi công chuyện, ông đều mặc cái quần cargo kaki sáu túi, hai túi trước, hai túi sau và hai túi hai bên đầu gối. Ông “cụ bị” nào là bình sữa, bình nước, “tù và’’ (núm vú cao su), khăn giấy, mobile phone, chìa khóa xe, chìa khóa nhà… Lung tung như là một anh biệt kích commando trong tư thế sẵn sàng ứng chiến. Có khác chăng là cảm tử quân người ta trang bị vũ khí súng ống, lựu đạn cay, hơi ngạt, dao găm, dây nhợ, vv… Còn ông thì trang bị baby stuff và toys đầy mình.

Người quen nào tình cờ gặp lại ông chắc không tránh khỏi ngạc nhiên lẫn buồn cười không ngờ ông “xuống đời” tới như vậy bởi vì:

Ngày nào cà vạt sơ mi

Bây giờ quần thợ kaki loàng xoàng

Ngày nào cặp táp đường hoàng

Bây giờ bao bị đẩy pram lè phè

Nhưng đối với ông thì ông rất happy với cái job giữ cháu này vì hồi xưa có con, ông bận đi làm suốt, không mấy khi có thời gian enjoy con cái như bây giờ. Về hưu có cháu, hằng ngày được theo dõi mọi biến chuyển của chúng từ tiếng cười tiếng nói bi bô tới những bước chân chập chững đầu tiên té lên té xuống. Hoặc đến khi bọn chúng lên ba lên bốn, ông thường xuyên phải chơi puzzle, leggo hay làm batman, superman, transformer đấu với bọn chúng, ông cảm thấy thích thú làm sao!

Con nít ở xứ giàu có văn minh thật là sung sướng, hồi ông cỡ tuổi bọn chúng bây giờ, quê hương ông giặc giã chiến tranh triền miên, cái ăn còn khó lọ là cái chơi. Ông chỉ có một món đồ chơi duy nhứt là một con trâu được nắn bằng đất sét mà ông đã mừng rỡ đi khoe đầu trên xóm dưới cùng làng.

Khi bọn chúng tới tuổi đi học, ông lại thêm cái job đưa rước hai cháu đến trường. Job này có thời khóa biểu hẳn hoi đúng giờ đúng khắc nhất định cho nên ông càng alert như nhà binh.

Từ ngày bút gác việc thôi

Thân tôi như thể thiên lôi xuống trần

Sớm mai rửa mặt ra sân

Quơ qua quơ lại giãn gân tỉnh người

Rồi vô uống tách sữa tươi

Dông xe ra tiệm mua bao bánh mì

Qua nhà con gái liền khi

Đưa con đưa rể tức thì xuống ga

Chở hai thằng cháu về nhà

Bà cho ăn sáng ông đưa đến trường

Sau khi chở vợ shopping

Về nhà đọc báo xem tin nghe đài

Ăn trưa quấy quá sơ sài

Ra vườn thơ thẩn rồi vào nghỉ lưng

Độ hai giờ rưỡi khoảng chừng

Chạy đi rước cháu về trông tới chiều

Chờ khi điện thoại reo kêu

Ba ơi ra rước, con yêu tới rồi

Cơm chiều chuẩn bị xong xuôi

Cháu, cơm, con, rể về đầy một xe

Đó là mục chánh chủ đề

Còn bao nhiêu chuyện nhiêu khê bên lề

Ngày hơn chục bận đi, về

Chạy xuôi chạy ngược tứ bề gần xa

Lại thêm giúp vợ chuyện nhà

Để bà được chút gọi là xả hơi

Việc nhà là việc chẳng ngơi

Trăm công ngàn việc vừa vơi lại đầy

Giúp cho bà đỡ hao gầy

Kẻo bà đi trước còn ai sớm chiều….

Ngày tháng dần trôi, năm nay hai thằng cháu ngọai ông đã học lớp hai và lớp ba nên đi học về đứa nào cũng có homework (bài làm ở nhà). Ông Minh lại có cơ hội trở về nghề cũ là thầy giáo, dạy kèm hai cháu, chỉ khác là hồi xưa ông dạy lớp tú tài, bây giờ dạy con nít, nhất là hai thằng cháu cưng nên rất khó dạy vì bụt nhà không linh.

Mỗi lần kêu làm homework là ông cháu có cái màn kèo nài trả giá. Cháu thì xin chơi game một chút trước, còn ông thì nói làm bài trước rồi mới được chơi sau. Hai thằng cháu mè nheo mãi rốt cuộc bà phải làm trọng tài phân xử:

– Thôi mới đi học về mà bắt học nữa học sao vô. Cho tụi nó ăn snack (ăn lót bụng), uống nước, nghỉ ngơi coi TV nửa giờ rồi mới học. Học xong thì cho chơi game trong lúc chờ ba má tụi nó về.

Bọn nhỏ nghe vậy thì OK ngay nhưng cũng không bỏ được cái tật được cưng chìu dể ngươi cho nên vừa làm bài vừa chơi, lát lát vẽ bậy vẽ bạ lên giấy họăc khều móc rồi thụi nhau hay có khi làm biếng nằm dài trên bàn làm ông ngoại cứ phải la rầy không ngớt.

Suốt một buổi chiều từ 2 giờ rưỡi cho tới khi ba má bọn chúng về, ông Minh mệt bở hơi với tụi nhỏ; nhiều khi ông phải nhờ bà xã ông kèm một thằng phụ ông. Mà bà xã ông thì đa đoan công chuyện, buông cái này bắt cái kia không hở tay, vừa nấu nướng vừa dọn rửa lau chùi, rồi phải vô hộp sẵn cho con cháu take away mang về ăn chiều, lại phải vừa dòm chừng hai thằng nhỏ không biết lúc nào bọn nó nổi điên đánh nhau chí mạng. Thằng em thì cắc cớ hay chọc cho thằng anh đổ quạu rượt đánh xà ngầu cho đã nư, mà khổ nỗi hai thằng là võ sinh Karate nên nhiều lúc bà ngọai nhào vô can bị bọn nó xuất chiêu té nhào.

Chiều tối sau khi giao trả tụi nhỏ cho ba má chúng, về nhà ăn tối xong thì đã hơn tám giờ. Ông còn giúp bà xã ông hút bụi lau nhà, coi như vừa exersice cho tiêu cơm vừa làm sạch nhà cửa theo thói quen. Sau đó ông ra sau vườn đi tới đi lui nửa giờ tĩnh tâm cầu nguyện, trong lúc bà xã ông chạy đi tắm thì “lội” vô internet coi email. Cứ như vậy ngày này qua ngày nọ, ba cái tạp chí tiếng Anh như Time Magazine hay National Geographic ông đặt mua chất đống cao nghều nghệu mà còn không có thời giờ mở cái bao ra để coi cái tựa nữa nói chi tới chuyện dịch bài. Bây giờ thì ông mới thấy buồn cười cho sự lo lắng thái quá của ông trước kia.

Nỗi băn khoăn của ông trước kia đã có câu giải đáp và bao nhiêu dự tính thực hiện trước khi về hưu giờ đây đã không còn cần thiết hay ý nghĩa gì nữa mà quan trọng nhất đối với ông là hai thằng cháu ngọai yêu quý, niềm vui tuổi già. Không biết lớn lên chút nữa, rời khỏi vòng tay ông để theo chân bạn bè hay lăn vào đời sống, bọn chúng có còn biết tới ông không; nhưng chẳng hề gì, xưa nay nước mắt chảy xuôi, tình thương miễn được trao ra là đã mãn nguyện rồi. Có được đáp lại hay không cũng không cần thiết.

Ông giờ tuổi đã bảy mươi

Còn cháu chỉ mới tuổi mười mà thôi

Cách hơn nửa thế kỷ đời

Cháu cười răng ngọc ông cười răng long

Răng long chẳng phải răng rồng

Mà vì sắp rụng sắp xong kiếp này

Tóc xanh cháu dệt tương lai

Còn ông tóc trắng chờ ngày ra đi

Ra đi ông chẳng để gì

Chỉ mong hai cháu nhớ ghi một điều

Đừng nên tham lắm muốn nhiều

Hãy vui biết đủ những gì trời ban

Ông thương hai cháu vô vàn

Quý như bảo vật trời ban đời này

Đời ông công chức thẳng ngay

Làm lành tích đức để mai cháu nhờ

Cuộc đời hung hiểm không ngờ

Có cây phước đức sẵn chờ chở che

Dù mưa dù nắng không e

Tai qua nạn khỏi thuận ghe xuôi đường

Đời người biết mấy nhiễu nhương

Cầu cho hai cháu trọn đường bình an

“Bình an’’ lời Chúa chúc ban

Bình an thể xác bình an tinh thần

Bấy nhiêu đã đủ phước phần

Để mà vững bước vững tâm vào đời

Gia tài ông chỉ mấy lời

Dù bao phú quý ơn trời vẫn hơn

Bây giờ nếu có ai hỏi ông chớ “out of work” (hết việc làm) ở nhà có buồn chán không thì ông sẽ cười tít mắt nói rằng: “Có rảnh chút nào đâu mà buồn, lo mấy thằng cháu, chăm sóc vườn tược và phụ chút chuyện nhà với bà xã đã hết ngày, không có giờ nghỉ lấy đâu mà chán. Nếu mình đừng nghĩ đến mình nhiều quá mà hãy nghĩ tới những người thân của mình đang rất cần mình thì sẽ thấy mình cũng còn hữu dụng lắm chớ chưa phải “hết xài’’ đâu.

Ông cứ hưu trí đi rồi sẽ biết”.

Nửa đời trả nợ công dân

Tháng năm còn lại đỡ đần cháu con

Một mai nằm xuống yên lòng

Gia đình xã hội không còn nợ ai… chán…!