Tuổi Già Nghĩ Gì? Chuyện phiếm – PHẠM THÀNH CHÂU

Tuổi Già Nghĩ Gì? Chuyện phiếm

Tác giả: PHẠM THÀNH CHÂU

Mấy ông bạn già, gặp nhau là hỏi “Sao? Khỏe không?”. Có ông trả lời “Vẫn như tuổi đôi mươi!” – “Ồ! Sao ông hay quá vậy?” – “Cũng bình thường thôi. Ở tuổi hai mươi, tôi không nhấc nổi 20 kí lô. Bây giờ tôi cũng không nhấc nổi 20 kí lô”.

***

Bài này viết về những suy nghĩ của bọn già lẩm cẩm chúng tôi. Đa số trong chúng tôi, ở thời điểm này (2022) vốn là cựu quân nhân, công chức, qua Mỹ theo chương trình nhân đạo (HO) Đã một thời là (quan quyền) rường cột của nước Việt Nam Cộng Hòa, đã trải qua hàng chục năm tù Cộng Sản nên đầu óc không giống ai. Các bạn trẻ và những vị lớn tuổi nhưng còn sáng suốt, thông thái, xin đừng để mắt đến bài này, vì sẽ bị bực mình mà thở dài “Quả thật, càng già suy nghĩ càng lung tung, toàn là sản phẩm của tưởng tượng, chuyện hồn ma bóng quế, chưa từng nghe ai nói. Thể chất và tâm trí của mấy ông già này đã rã rệu, “mơ màng” rồi, chỉ đáng cho vào nhà bảo tàng để chờ phế thải”.

Nhưng quí vị có biết. Ngày xưa, ở Việt Nam, nơi thôn quê, người cao tuổi rất được kính trọng. Họ là quyển tự điển sống, nhờ đã trải qua bao biến động của thời cuộc, tích lũy bao kinh nghiệm trong suốt một đời người. Ngày đó, mỗi thôn làng là một ốc đảo trong lũy tre xanh, như một quốc gia bị cô lập, không giao tiếp với bên ngoài nên khi có biến cố hay tranh chấp giữa các tổ chức hay cá nhân, ban hội tề (lãnh đạo của làng) đem “Hương ước” (lệ làng) ra áp dụng rồi nhờ những “Lão làng” (Các bộ tộc miền núi gọi là Già làng) phán quyết. Để ổn định chính trị, triều đình thường tôn trọng Hương ước khi phân xử nên mới có câu “Phép vua thua lệ làng”. Thời trước, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn, con người thường chết sớm, cho nên ai sống đến năm mươi tuổi thì được xem là Lộc Trời ban cho tuổi thọ, gọi là “Thiên tước” (Tước lộc Trời ban. “Thưa cụ. Năm nay Thiên tước cụ được bao nhiêu?”). Khi được tôn lên “Lão làng” thì được ngồi “mâm trên”, là nơi tôn quí trong các buổi hội hè đình đám.

Các quan, ngày xưa, hưu trí về lại nơi bản quán, rất được trọng vọng vì là người lớn tuổi, trí thức, đã từng làm quan “Phụ mẫu chi dân”. Địa phương rất hãnh diện có được những vị hưu quan đó trong làng, cả đến dòng họ cũng được thơm lây. Người ta gọi đó là “Nhân tước” (tước lộc vua ban). Các vị hưu quan nầy thông hiểu luật lệ, thường là cố vấn của ban hội tề. Các vị còn đảm trách việc dạy chữ nghĩa, bồi đắp kiến thức, giáo dục cho tuổi trẻ hiểu đạo lý của thánh hiền. Chúng là thành phần tinh hoa sẽ ra ngoài xã hội, ganh đua với đời. “Tiến vi quan, thối vi sư”. Thôn quê rất quí trọng người đỗ đạt. Có những làng, dân trí thấp vì nghèo khó, ít được học hành, nên trong làng có người chỉ đậu tú tài (còn gọi là sinh đồ, trong kỳ thi hương) cũng được làng đem võng lọng, long trọng đón rước.

Thời nay, người già không còn được coi trọng. Các ông (tù cải tạo) thường yểu mệnh, chết trước quí bà cùng tuổi. Ở hải ngoại, trong gia đình, vợ chồng đều về hưu, con cái đã trưởng thành, có gia đình riêng, chỉ còn lại ông bà già, lại thêm Covid – 19, người già chết như rạ, không đi đâu được, mà cũng chẳng cần nhau như trước đây, nên chán nản, không muốn nhìn mặt nhau. Lũ con được ăn học nên người, làm nhiều lương, chê cha (đi HO, đem chúng qua) ngày trước không biết tiếng Mỹ, làm lương chết đói, (để nuôi chúng) nay đã lẩm cẩm, nên coi thường, mà người già rất dễ bị tổn thương. Đó là ở nhà của mình. Nếu ở chung với con thì thành cái gai trước mắt chúng, mong thời gian đến đem ông, bà đi cho sớm

Lớn tuổi, bà càng khó tính, xét nét, phê bình thì ông càng phớt lờ, vợ nói gì cũng chẳng để vào tai. (Hơn thua gì với vợ con!) Vợ thêm bực tức, xúc phạm, nặng lời. Chồng rút vào im lặng. Vợ cũng im lặng. Có hỏi thì trả lời nhát gừng, như sủa! Họ sống âm thầm, tự lo cho bản thân. Các ông thường nhiều bịnh. Khi bịnh nặng, nằm một chỗ, mọi sinh hoạt phải nhờ đến nhân viên xã hội, vợ có phụ tay vào thì mặt nặng như chì. Có ông, bực mình, bỏ nhà đi biệt. Nhiều ông bị ung thư, vợ con chẳng biết, bịnh nhân lặng lẽ chịu đựng, vào bịnh viện để rồi được đưa qua nhà xác. Dĩ nhiên, đây chỉ là những trường hợp hiếm hoi. Nhưng vì sao nên nông nỗi này? Nguyên nhân sâu xa là, trước đây, một trong hai người, hoặc có thể cả hai đã vi phạm ‘Nghĩa vụ chung thủy’ trong cuộc sống vợ chồng, đó là tội ngoại tình. Lớn tuổi hay quên, nhưng chuyện xưa lại nhớ rất rõ, nhất là chuyện người kia đã có lần phản bội mình. Nó như cây đinh đã đóng vào vách, cây đinh có nhổ đi, lỗ đinh vẫn còn, như một ám ảnh suốt đời. (Người đàn bà tha thứ nhưng không hề quên, người đàn ông không tha thứ nhưng lại hay quên!). Nó âm ỷ như than hồng dưới đống tro tàn, không thể dập tắt được! Thỉnh thoảng, hễ có xích mích là bà đem chuyện xưa ra đay nghiến, ông thì nhắc lại để mỉa mai.

Có trường hợp, cả hai vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau dù dĩ vãng có thế nào đi nữa. Đó là những đôi “rỗ rá cạp lại”. Nghĩa là họ đã có cuộc tình hoặc gia đình tan vỡ trước khi đến với nhau. Làm sao trách được những gì đã xảy ra của người kia mà trong đó mình không hề can dự đến? Miễn là họ biết chôn những kỷ niệm đẹp đẽ hay đau thương vào nấm mồ dĩ vãng. Vĩnh viễn quên đi. Không nhắc đến bao giờ!

Cũng có trường hợp, vì sĩ diện, sợ dư luận, họ thỏa thuận ngầm là xem nhau như bạn, nên nhìn bề ngoài, họ rất hạnh phúc. Đã là bạn thì không nhắc lại, không thắc mắc chuyện quá khứ để làm phiền nhau.

Vợ chồng trẻ Việt ở hải ngoại không bao giờ chịu đựng nhau, gặp trục trặc là chia tay liền, nhất là khi chưa có con cái.

Cũng không phải tất cả những đôi vợ chồng già đều gặp khó khăn khi sống với nhau. Nếu vợ chồng đã chung thủy với nhau thì thương yêu nhau rất mực. Họ sống bằng kỷ niệm. Họ thường nhắc lại chuyện xưa cho bạn bè, con cháu nghe từ lúc họ gặp nhau, yêu nhau, cho đến khi về sống với nhau. Họ âu yếm, săn sóc người bạn đời từng chút một, không rời nhau nửa bước. Nhà chỉ có hai ông bà già, thỉnh thoảng, bà làm nũng, giận hờn như thời mới yêu nhau. Ông dỗ dành như với em bé, tìm cách cho bà cười. Người ngoài nhìn vào, rất xúc động với hạnh phúc cuối đời của họ. Khi một người ra đi, người kia bơ vơ, nhớ nhung, suy sụp. Điển hình như cặp nhạc sĩ Văn Phụng và ca sĩ Châu Hà. Khi Văn Phụng đi vào thiên thu, Châu Hà thương nhớ chồng đến nỗi bị khủng hoảng tinh thần hơn ba năm. Thường thì sau một thời gian ngắn, người còn lại cũng đi theo với người bạn đời vào cõi hư vô.

Trở lại chuyện mấy ông già. Nếu còn đi lại được, họ thường rủ nhau ra quán cà phê, khề khà tán dóc.

Bạn biết họ thường nói về chuyện gì không? Chuyện bịnh hoạn và lúc từ giả cõi đời. Đó là chuyện đáng sợ mà nhiều ông bà già không dám nghĩ đến.

Bịnh hoạn thì mỗi ông có sẵn năm, bảy bịnh trong người. Trong nhóm bạn già chúng tôi, có một ông tự xưng mình là “Cửu bịnh thành lương y” (Có chín bịnh trong người nên thành thầy thuốc giỏi). Ai có bịnh gì, ông ta có đủ. Ông ta nói vanh vách nguyên nhân, cách chữa trị, thuốc men của từng bịnh. Ông khuyến cáo “Trước 1975, ở Việt Nam ta, khi bị bịnh nhẹ như ho, cảm, nhức đầu, sổ mũi… cứ ra tiệm thuốc tậy, (Có cả “Nhà thuốc gác” mở cửa 24/7) nói bịnh là dược sĩ bán cho mấy viên thuốc về uống, năm ba ngày mà không khỏi mới đi bác sĩ. Ở Mỹ các pharmacy cũng có các loại thuốc bán tự do, bày sẵn trên các kệ, mình bị sổ mũi, nhức đầu, nhức mỏi chân tay thì chọn thuốc mua về uống, năm ba hôm, không hết mới đi bác sĩ. Khi đi khám bịnh, nên mở Google, gõ tên bịnh, sẽ biết rõ mà khai cho chính xác với bác sĩ. Chỉ có mình mới biết được nguyên nhân, triệu chứng, bịnh nền, thuốc men đang uống để trình bày, bác sĩ mới tìm phương cứu chữa. Được toa thuốc cũng mở Google xem cho kỹ công dụng, cách uống thuốc, chỉ định, chống chỉ định… Bịnh quỉ có thuốc tiên. Đừng hoảng sợ khi mắc phải một bịnh mới, như đau cột sống, chẳng hạn. Đau khủng khiếp, tưởng chết đến nơi, nhưng chỉ uống vài viên Tylenol hoặc ibuprofen sẽ bớt ngay. Điều cần lưu ý là đau ngực, đau đầu thình lình thì gọi cấp cứu ngay. Không uống Aspirin, vì có thể đã bị vỡ mạch máu não, uống nó, máu loãng, ra nhiều, càng mau chết. Tôi không là bác sĩ, nói tào lao cho vui, đừng để bụng”. Bọn già chúng tôi, nghe vậy cũng yên tâm phần nào. Rồi thì ai cũng tặc lưỡi “Giày dép còn có số! Có ai không chết đâu?”

Nhưng rồi mấy ông lại phân vân. “Sau cái chết. Còn gì nữa?”

Thời may, chúng tôi vừa kết bạn được với một ông “Trên thông thiên văn, dưới thông địa lý”. Ông ta rành nhất là những chuyện không thể thấy được. Đó là những chuyện ma, chuyện siêu hình nên được chúng tôi gọi là nhà “Tâm Linh Học”. Hỏi gì, ông ta cũng giải thích được, (Làm sao biết đúng, sai? Chuyện tâm linh mà!) ông nói rất lưu loát, trơn tru như miệng có bôi mỡ.

Sau đây là mấy câu đối đáp giữa ông ta với mấy lão già chúng tôi.

Một buổi sáng mùa xuân, trong sân sau nhà, với ly cà phê, với hoa cỏ xanh tươi, chim hót véo von, người nào cũng vui vẻ, yêu đời, một ông bạn cao hứng hỏi nhà Tâm Linh Học.

– Tôi đọc trong Bồ Tùng Linh, có kể những chuyện về hồn ma của cây cỏ, của chồn, cáo và cả chuyện người chết hiện về với người sống. Ông có tin chuyện đó là thật không?

– Đó là những chuyện bịa đặt. Nhưng cách nay mấy trăm năm, dân trí chưa mở mang nên tin là thật. Ngày nay, nhờ khoa học, người ta có thể suy đoán rằng, từ cây cỏ cho đến súc vật đều có cái hồn của nó. Cây có sinh hồn. Thú vật có giác hồn. Con người có linh hồn.

– Sinh hồn là gì? Cây có sinh hồn là như thế nào? Tôi chưa từng nghe bao giờ.

– Nhà bác học Cleve Backster, là người phát minh ra máy dò nói dối (Lie Detector), kể rằng. Một hôm, ông cắm hai đầu dây của một điện kế (galvanometer) cực nhậy vào một cái lá to và dày của một cây cảnh, rồi ông làm như có ý định quẹt diêm để đốt chiếc lá đó. Đột nhiên, kim điện kế nhảy vọt lên. Lần khác, ông cũng gắn hai cực của máy đo vào lá nhưng chỉ nghĩ đến tưới nước cho cây, điện kế đứng yên. Như thế thực vật đã cảm nhận được ý nghĩ của người. Nó phản ứng vì sự sống của nó, có thể xem như nó có “Sinh hồn”.

Tôi hỏi.

– Tôi trồng hoa. Cả một vườn hoa rực rỡ. Sao có người cũng trồng hoa nhưng ít lâu là héo chết?

– Vì ông yêu thương hoa, để ý, chăm sóc, tưới bón, xem như con nên có giao cảm giữa người và hoa. Người yêu hoa, hoa yêu người. Nhiều người, có tâm sự buồn, thường chỉ thổ lộ với hoa. Phải “Yêu hoa”, chứ không chỉ “Thích hoa”. Thấy người ta trồng hoa đẹp, cũng mua về, săn sóc, ngắm nghía ít bữa rồi quên bẵng, chúng bơ vơ, tàn tạ, héo úa.

Ngày xưa, ở Việt Nam, khi chủ nhà chết, phải cột một giải khăn trắng như để tang cho cây cối trong vườn, cũng là cách báo tin cho chúng biết rằng chủ đã chết, đừng buồn! Cây sẽ hiểu, vì nếu không thấy chủ, cây sẽ khô héo rồi chết.

– Còn về súc vật thì sao? Giác hồn nó như thế nào?

– Người chủ nuôi con chó, người giúp việc cho ăn hằng ngày, xem là bổn phận chứ chẳng thương yêu gì nó. Người chủ không cho ăn nhưng khi đi làm về, con chó vui mừng đón chủ mà không thân thiện với người cho nó ăn. Nó biết chủ yêu thương nên quấn quýt với chủ.

Báo đăng, lúc 22 giờ ngày 3 tháng 1 năm 2022, trên xa lộ liên bang 89 ở Lebanon, thành phố New Hampshire, Mỹ, cảnh sát thấy một con chó, tưởng nó đi lạc, định đến bắt nhưng con chó chạy trước rồi dừng lại chờ. Nghĩ có chuyện gì xảy ra nên cảnh sát đi theo. Được một quãng xa, nó dẫn đến một hàng rào bị hư hại và một xe bán tải nát bét, nằm lật ngửa, có hai người bị thương nặng. Trực thăng đến chở vô bịnh viện, cứu sống. Con chó, tên Tinsley, đã cứu chủ nó. Súc vật cũng có hiểu biết (Giác hồn) nhưng kém hơn con người.

Tôi hỏi ông.

– Con người có số mệnh không?

– Khổng Tử bảo “Con người có số mệnh nhưng không nên đứng dưới bức tường sắp đổ”. Có câu chuyện về một người chưa đến số chết. Sáng ngày 15 tháng 11 năm 1884, bà Keyse bị phát hiện chết trên sàn phòng nhà bếp vì bị dao đâm. John Lee bị bắt và bị buộc tội giết người, bị kêu án treo cổ. Tháng giêng năm 1885, Lee được đưa vô phòng treo cổ. Khi cần gạt được kéo lên, cửa sập dưới chân tử tù không hoạt động. Lee được đưa qua phòng chờ. Chuyên viên đến sửa chửa, thử đạp, cửa sập vẫn mở. Lee lại được đưa vô phòng treo cổ, cần gạt được kéo, cửa sập vẫn không mở. Lee lại ra chờ. Chuyên viên lại tìm hiểu, thử kéo cần gạt, cửa sập vẫn mở. Lần thứ ba, Lee lại bước vào. Cửa sập lại không mở. Việc thi hành án bị ngưng lại. Cuối cùng, William Harcourt, bộ trưởng nội vụ Anh ra quyết định, đổi án tử hình thành chung thân.

22 năm sau, Lee được trả tự do.

Tôi lại hỏi.

– Vậy thì con người chết là do số trời đã định, phải không? Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki (năm 1945), hàng trăm nghìn người chết cũng là do số trời?

– Có một bài báo viết rằng, trước năm 1945, một ông thầy tướng bên Tàu, đi ngang qua hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, thấy khí sắc người dân nào cũng u ám, thành phố đầy sát khí. Ông về nước đăng báo với lời khuyên dân Tàu không nên đến hai thành phố đó. Có lẽ họ bị nạn “bất đắc kỳ tử”, giống như người bị tai nạn xe cộ, rơi máy bay, bị mìn bẩy, pháo kích… chết thình lình. Linh hồn họ không biết rằng mình đã chết nên không chịu rời khỏi xác (để siêu thoát vào cõi âm), mà thành ma, quỉ, lang thang, lẫn lộn trong cõi đời của người sống, kiếm ăn vào các dịp cúng kiếng, giỗ tết. Người ta bảo “Chó sủa ma”. Chó thấy được ma? Có thể lắm.

Tại sao có người mạnh khỏe lại chết sớm? Có người bịnh, nằm liệt cả chục năm mà vẫn sống?

– Là do di truyền (gene). Cha mẹ, ông bà bị bịnh gì thì con cháu có bịnh đó, cha mẹ mù, các con có thể mù. Họ sống đến bao nhiêu tuổi thì con cháu sống cỡ đó. Nếu dinh dưỡng đầy đủ, y tế tốt thì cộng thêm vài chục năm nữa mới chết. Vì thế, có những người trẻ, khỏe mạnh lại chết sớm, ngược lại, có người bị ung thư mấy mươi năm vẫn cứ sống bình thường, nhờ cái tuổi thọ di truyền của cha mẹ.

– Có nguyên nhân nào khác nữa không?

– Người mình thường nói “Hồn lìa khỏi xác” là chết. Trong kiếm hiệp Tàu, khi bị tung đòn “điểm huyệt” là đối phương chịu thua. Cơ thể con người, ngoài cấu trúc vật chất, còn có một cấu trúc tâm linh vô hình có thật, qua hệ thống huyệt đạo. Khi châm kim hoặc kích thích một huyệt đạo thì nó tác động lên cơ thể. Ví dụ Tây y dùng thuốc tê làm tê liệt các dây thần kinh rồi mới mổ xẻ. Đông y chỉ cần châm vào một số huyệt đạo là đủ. Tây y thử mổ chỗ huyệt đạo, vẫn không thấy gì khác lạ. Họ tin rằng, có một đời sống vô hình ẩn nấp đâu đó trong con người.

Khi ta nói “Tâm hồn” là nói. Trong “Quả tim” (tâm) mỗi người đều có một cái “Hồn” ẩn tàng trong đó. Khi cắt rời quả tim khỏi thân, tim và hồn vẫn sống tự lập được một thời gian. Trong quả tim có một định vị (cơ quan) tự điều hành nhịp đập của chính nó, gọi là “Tùng”. Nó như bình điện của hồn. “Tùng” hết điện, tim ngừng đập, và hồn rời khỏi xác, dù người đó vẫn mạnh khỏe, không cao áp huyết, cao mở hay tiểu đường. Nhiều người đang ngồi, gục chết, có người ngủ không thức dậy. Tây y gọi là “heart attack” (trụy tim). Ngược lại, có người bịnh nặng trong thời gian dài mà vẫn lây lất sống vì tim còn đập. Có một tài liệu y khoa nghiên cứu về trường hợp tim tự đập như sau “Cứ sau một khoảng thời gian nhất định, nút xoang nhĩ lại tự phát xung điện. Xung điện lan ra khắp cơ tâm nhĩ làm tâm nhĩ co, sau đó lan đến nhĩ thất, đến bó His rồi theo mạng Puôckin lan ra khắp cơ tâm thất làm tâm thất co…”. Nghĩa là quả tim tự nó có năng lượng cung cấp cho hệ thống kinh mạch (Kinh mạch không phải thần kinh và mạch máu!). Người sống có hồn và vía (phách). Linh hồn là sự sống của mỗi người. Tim ngừng đập, con người chết, hồn rời khỏi xác, đi vào cõi âm. Vía (Phách) tan theo với thân xác. Ông bà xưa chúng ta tin rằng. Xác chết chưa tan rã thì vía vẫn còn quanh quẩn bên xác. Trường hợp có người đi đường đứng lại xem một tai nạn hoặc đi viếng đám ma, nếu vía người chết hợp với vía người nào thì nó sẽ theo về nhà người đó. Vía ám vào người thành hai nhân cách, chuyện trò với nhau (ma nhập, lầm bầm với ma), lúc đầu hoang tưởng, sau đâm ra thù ghét người khác (Y học gọi là Tâm thần phân liệt). Dĩ nhiên, chỉ cần uống thuốc (củng cố hệ thần kinh) hoặc khi nào xác chết dưới mồ tan rã thì cái vía cũng tan theo. Cho nên người xưa nhắc chừng rằng. Khi đi viếng đám ma về, nhớ ghé vào nhà ai hoặc quán hàng, uống miếng nước hay mua món gì đó, vía người chết tưởng đã đến nhà, nó ở lại trong nhà đó mà không ám theo người kia nữa.

– Còn chuyện người chết sống lại, kể rằng hồn của họ bị người cõi âm đuổi về dương thế, có thật không?

– Tôi chưa chết đi sống lại nên không quả quyết điều gì. Nhưng có tờ báo thuật lại chuyện một người mù bẩm sinh sống lại, diễn tả sự việc theo cách riêng của anh ta, nhưng người nghe hiểu được, về những gì xảy ra lúc đó, như chuyện anh ta “thấy” bác sĩ, y tá đang cấp cứu xác anh ta, thấy người thân ngồi khóc trong phòng bên cạnh ra sao.

Bây giờ qua chuyện mấy ông bà già thường tự hỏi “Khi mình chết rồi, chuyện gì sẽ xảy ra?”

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.

(Đến như nước chảy, như gió thoảng.

Không biết ta từ đâu đến, rồi về đâu?)

Hỏi nhà Tâm Linh Học.

– Như vậy, ông tin có linh hồn?

– Đa số các dân tộc tin rằng, con người có linh hồn. Việc mai táng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc ra đi của linh hồn. Thế nên mỗi quốc gia, mỗi tôn giáo, có những cách mai táng khác nhau. Người Ấn Độ đốt (hỏa táng) hoặc vất xác chết xuống sông Hằng (thủy táng), người Tây Tạng bằm xác chết cho chim kênh kênh ăn (thiên táng). Theo Hồi giáo. “Người chết không có quan tài, xác được bó vải, đặt nằm nghiêng về phía bên phải, đối mặt với Qibla (thánh địa Mecca)”. Người mình thì chôn hoặc thiêu.

– Người Việt mình chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Họ nghĩ về cái chết như thế nào?

– Nhìn chung, quan niệm về cuộc đời, sống, chết, người Trung Hoa, và cả người Việt nữa, chịu ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo nhất là Phật giáo.

Về Đạo giáo (Lão giáo). Lão Tử không bàn đến Thượng Đế, linh hồn, thiên đàng hay địa ngục mà chỉ nói tổng quát rằng. Con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, cuối cùng lại trở về Đạo, hòa với Đạo “Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường danh” (Đạo mà có thể nói ra được, không phải là đạo thường hằng vĩnh cửu. Tên mà có thể gọi ra được không phải là tên thường hằng bất biến). Nguồn gốc con người và vạn vật từ Đạo mà ra, và cuối cùng về với Đạo, hòa với Đạo. “Sống, chết là do khí tụ lại hay tan mà thôi” (Trang Tử).

Theo Nho giáo thì chết chỉ là hình hài, còn cái khí tinh anh lại về với chỗ sáng tỏ của vũ trụ. Đạo Nho chỉ quan tâm về những vấn đề nhân sinh, xiển dương phương châm “Kính nhi viễn chi” (kính trọng quỉ thần nhưng nên tránh xa), dụng đạo thần minh làm phương tiện giáo hóa mà không bàn về khía cạnh siêu hình. (Chưa biết rõ chuyện sống, sao biết được chuyện chết?)

Tôi giễu cợt.

– Ông tin rằng, người có linh hồn. Vậy theo ông, khi con người chết đi, linh hồn về đâu?

– Về cõi âm. Cõi của bóng tối. Khoa học khám phá ra rằng. Vũ trụ có hai thế giới. Thế giới của ánh sáng, là những gì chúng ta thấy được như các vì sao, các hành tinh, tinh vân… nửa kia là thế giới của bóng tối. Các “sinh vật linh hồn” này không còn là cơ thể vật chất nên sinh hoạt không cần ánh sáng. Họ vẫn thấy nhau, giao tiếp nhau bình thường trong xã hội cõi âm (âm phủ). Giống như khi ta ngủ, nhắm mắt mà vẫn mơ thầy rõ mọi sự vật. Khoa học đã tìm thấy “Lỗ Đen”. Nó hút (whirl) vật chất sáng vào bóng tối. Hiện nay Trung Cộng phóng vệ tinh nghiên cứu bề tối của mặt trăng, cũng có thể để tìm cái gì đó trong bóng tối?

Tôi lại hỏi.

– Tôn giáo có ảnh hưởng gì đối với linh hồn người chết?

– Lấy ví dụ thế nầy để phân biệt người theo một tôn giáo nào đó với những người thờ cúng ông bà. Sau 1975, có hai chương trình đi Mỹ. Người đi theo chương trình ODP thì có thân nhân bảo lãnh, ra phi trường đón về. Người đi HO không có thân nhân thì có các hội đoàn tôn giáo rước về. Tương tự như vậy. Người chết, (như đi HO) thì có đạo hữu (của tôn giáo mình) đón về. Còn người theo “Đạo ông bà” thì khi chết đã có thân nhân (quá cố) đến đón (như đi ODP). Nhiều người bịnh nặng, ngay ban ngày, cũng thấy cha mẹ, anh em (những người đã khuất) đứng chờ sẵn trước cửa.

Đừng bận tâm, khi nhắm mắt, ta về đâu? Một thế giới an bình vĩnh cửu, hạnh phúc vĩnh cửu, đầy yêu thương đang chờ đón. Không còn hận thù, khủng bố, chém giết, lừa lọc… Chỉ có tình yêu bao la.

Thời còn trẻ, chúng ta thường đi cắm trại. Tối đến, có lửa trại. Ngồi quanh đống lửa giữa trời đêm, cùng hát hò rồi bày trò diễn kịch, kể chuyện. Khi vở kịch hoặc chuyện kể vừa dứt, cả bọn vừa vỗ tay vừa hát “Hay hay quá là hay! Xin thưởng cho tràng pháo tay. (vỗ tay 3 cái, rồi hát tiếp) Hay hay quá là hay! Xin thưởng cho một nụ cười” (Ha, ha, ha!)

Đọc xong bài này, cũng xin bạn một tràng pháo tay và hát “Hay hay quá là hay!…”

Xin cám ơn nụ cười của bạn.

Phạm thành Châu

LỜI CUỐI CHO CUỘC TÌNH !

LỜI CUỐI CHO CUỘC TÌNH !

Chuyến xe cuối cùng sắp rời bến mà hai người già tóc bạc trắng vẫn dùng dằng bên nhau. Giọng bà nghẹn ngào.

– Anh vào trong đó nhớ giữ gìn sức khỏe, đừng làm việc cố sức nhé!

Ông buồn bã nắm bàn tay chai sần của bà.

– Em nhớ điều trị dứt bệnh ho, để lâu ngày phổi bị hỏng đó.

Hành khách ngồi trên xe nhìn xuống ai cũng nghĩ “vợ chồng già mà thương nhau quá, thật là hiếm có”

Nhưng thật ra họ không phải là vợ chồng.

30 năm về trước bà là cô giáo dạy trẻ góa bụa, một nách hai con thơ phải thuê quán để bán nước nuôi con, còn ông thì bị vợ chê nghèo bỏ đi theo người khác, để lại ba đứa con lít nhít cách nhau năm một. Ông thuê cái chòi cạnh quán nước của bà để sửa xe. Cùng khổ như nhau nên hôm nào nấu món ngon bà nói con gái lớn đưa qua cho mấy bố con, còn nhà bà có gì hỏng hóc là ông lại xắn tay áo lên sửa giùm. Vì quá hận người vợ cũ nên ông không thể mở lòng với bất cứ ai, nhưng dần dần lòng tốt của bà, sự chăm chỉ chịu khó của bà đã làm ông dịu lại. Thỉnh thoảng trong những giấc mơ của ông thấp thoáng bóng dáng duyên dáng, mặn mà của bà. Ngặt một nỗi họ nghèo quá và ai cũng mang gánh nặng to tướng trên vai với bao nhiêu nỗi niềm nên đành nhủ lòng chờ con lớn rồi tính. Sau khi đứa con gái lớn đi lấy chồng thì thằng út lấy được vợ giàu nó đưa bà đi mất. Cùng ở trong thành phố nhưng có khi vài tháng bà mới về lại chốn xưa thăm ông được. Con dâu bà đẻ dày, mới chục năm đã ba đứa. Mỗi lần ông ghé thăm thấy bà tất bật cơm nước, giặt giũ, chạy đuổi theo cháu đút từng muỗng cơm ông đau lòng lắm. Con dâu bà mỗi lần thấy ông đến thì đá thúng, đụng nia, khua bát đĩa loảng xoảng. Có lần ông nghe thấy nó vừa cười mỉa vừa hỏi bà:

Mẹ già rồi còn ham hố gì nữa?

Bà đứng cúi đầu như trẻ con phạm lỗi, nước mắt dân dấn. Ông muốn gào lên là ông bà đâu có ham hố gì, nhưng nếu có ông bên cạnh thì những khi bà ho như xé ruột, ông sẽ vỗ lưng cho bà bớt ho chứ không phải nằm vò võ một mình ho suốt đêm rồi sáng phải lo dậy sớm hầu hạ gia đình nó.

Ông thương bà lắm, thương người phụ nữ sống với ai cũng chân tình, có trước có sau như bát nước đầy. Biết bao lần ông rủ bà về sống với ông mà bà không đành bỏ mấy đứa cháu, rồi lại sợ thằng con đay nghiến. Nó bóng gió xa xôi rằng nếu bà đi với ông về già có đau ốm gì thì đừng trông chờ vào nó. Còn đứa con gái thì nói với bà, nhà chồng nó khó khăn, ưa soi mói lắm nên bà cứ ở với vợ chồng thằng em, cho chị em nó được yên thân.

Lần này ông đến báo với bà chỗ ở của ông bị giải tỏa, con gái ông lấy chồng trong Nam có mảnh vườn to lắm, biết bà thích trồng trọt, chăn nuôi nó nói ông đưa bà vào hai người già hủ hỉ với nhau.

Bà đau lắm, buồn lắm, 70 tuổi rồi chả còn biết sống được bao nhiêu năm nữa, nhưng bà không dám bước chân theo ông. Lần gặp này là lần cuối vì sau này Nam Bắc nghìn trùng xa cách.

Xe chạy rồi chỉ còn mình bà ôm gối ngồi trong sân, nước mắt giàn giụa. Ba mươi năm trước khi chồng bà mất sớm bà đã nghĩ rằng cuộc đời mình thế là hết. Nếu không có ông âm thầm giúp đỡ, chăm sóc, che chở cho bà suốt bao năm qua thì bà làm sao có thể lo cho các con chu đáo được.

Đời này, kiếp này bà thương ông nhiều lắm!

Đời này, kiếp này bà đành lỗi hẹn với ông!…

Chu Thị Hồng Hạnh

Cái Muỗng // Văn Quang

Cái Muỗng // Văn Quang

Nhà văn Văn Quang, cựu Trung Tá VNCH, từng là  Đài Phát Thanh Quân Đôi, mất sáng thứ ba, 3/15/2022, tại Saigon, thọ 89 tuổi.

Ông dân Quỳnh Côi, Thái Bình.  1954, vào Nam, thân lập thân.  Sau 4/1975, ông bị tù hơn 12 năm trong nhiều trại giam ngoài Bắc.  Bạn rất thân với nhà văn Hoàng Hải Thủy, được HHT yêu thương gọi là “Thuyền Trưởng Hai Tầu,” vì ông có hai vợ.  Ông từ chối không sang Mỹ theo diện HO, vì lý do gia đình.

Chúng ta thường nhớ về nhà văn Phan Lạc Phúc với một bút ký ngắn cuả ông. Đó là đoản văn “Người Tù Kiệt Xuất,” ca ngợi phong cách khẳng khái cuả Đại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện khi còn trong tù. Sau 1975, Văn Quang viết nhiều loạt phóng sự trong “Lẩm Cẩm Saigon Thiên Hạ Sự,” đăng trên nhiều báo hải ngoại.  Nhưng có một đoản văn rất cảm động mà ông viết cách đây khoảng 10-15 năm.  Hôm nay, để tưởng nhớ ông, xin kính mời các anh chị đọc đoạn truyện này – “Cái Muỗng.”

Thân kính

Nam Hà

***

Cái Muỗng // Văn Quang

Ảnh VĂN QUANG tại Sài Gòn năm 2011.

Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng khi ấy trong chúng tôi đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u miền Bắc. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, trên những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.

 

Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được vài cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra đóng vào.

Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả người tù đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ síu cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– hay bị đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.

Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.

Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chờ gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào những phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.

Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” mà trại đã quy định tù không được dùng.

Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự thô bạo của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi “mưu đồ”.

Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được vài anh tù nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó lòi ra một vài cái “tội”. Ðội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Ði làm suốt ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.

Thời điểm “căng” thì vào tù phạm tội vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những vụ tù kết hợp thành tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.

Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người tù “chẳng còn có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.

Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng còn có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Ðôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “Tù Caritas” như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người tù chẳng có ai thăm nuôi.

Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người tù còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó và đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.

Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Ðó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Ðây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ Tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng tôi chẳng có gì để mất, hay cái vật tôi mất chẳng có gì quan trọng.

Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất với người tù chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu mới được ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.

Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tên người tôi đã gặp ở tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.

Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng bo bo ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.

Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, múc nước tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.

Ðây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.

Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, anh “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh, phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.

Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “Cậu Huyện Nhụ nằm ở đó”.

Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói anh là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.

Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở Tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ Huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải tạo” cụ Huyện Nhụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.

Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ dãi hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…

Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi mới gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.

Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:

“Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”

Tôi nằn nì:

“Ðấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển. Nhưng tôi không cần, tôi chỉ cần cái muỗng thôi.”

Dực nhìn tôi nghi ngại:

“Mày giấu cái gì trong đó?”

Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó hắn gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.

“Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu cái gì trong nó được?”

Dực nửa đùa nửa thật:

“Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”

“Ðúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”

“Vậy sao mày chỉ đòi lấy lại cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”

Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn Tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng tôi sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng giam và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.

Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó, hay tôi cần cái muỗng để làm việc gì đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:

“Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng cho vào túi xách để tôi mang đi. Ðứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “Con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.

Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả con. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!

Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái tôi, bên những người thân yêu của tôi. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.

Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:

“Thôi được, nếu là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi cậu ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa kho vào mà tìm, nhưng có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”

Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.

Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.

Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải làm thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “Con có ở xa bố hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường”.

Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi vài ngày rồi bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng, khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”. Thoát nạn!

Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.

Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Ðó chính là mùa xuân của tôi.

Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.

Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò.

Anh bạn nhảy dù, la lên:

“Bộ ông điên sao?”

Tôi điên thật, tôi muốn mò tìm cái muỗng của tôi. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút, anh khom người xuống, thò một tay vào cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi cái muỗng. Ðôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:

“Tôi biết ông mất cái gì rồi. Tôi tìm được nó cho ông nè.”

Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi trở về, nhưng tôi chưa trả lại cái muỗng cho con gái tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, đã định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa một lần được gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu lập gia đình ở Miami, Florida.

Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới nó. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sài Gòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái tôi. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sài Gòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.

Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái Tình. Cái Tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi mạnh và sâu hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật  trên đời không gì có thể so sánh được.

Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 khi tôi được tin cháu lập gia đình. Nhưng nhiều lần muốn viết tôi cứ ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Ðúng là chuyện của người thì làm xong nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.

Văn Quang

Tuổi Già Mất Người Phối Ngẫu-Nguyễn Thị Phi Phượng (Việt Báo)

Tuổi Già Mất Người Phối Ngẫu

18/03/2022

 

Chương trình Việt Báo Viết Về Nước Mỹ khởi sự từ Tháng Năm năm 2000. Ngay trong những ngày đầu tiên đã có bài “Gia Đình Tôi Tới Mỹ” của Nguyễn Thị Phi Phượng. Tác giả ngày ấy vừa định cư Mỹ 4 tháng. Bài viết có in trong sách Viết Về Nước Mỹ, tuyển tập I, ấn hành lần thứ nhất tại California, tháng 11 năm 2000. Tác giả thắng giải đặc biệt 2017 và giải danh dự 2018. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.

 ***

Tôi biết:

Đất trời có bốn mùa: hết Xuân thì tới Hạ , rồi Thu và tới Đông …

Con người: có Sinh thì ắt có Tử…

Biết là một chuyện, chấp nhận và bằng lòng với quy luật đó là một chuyện khác.

Cho dù thế nào thì tôi cũng phải làm quen và tập sống với thực tế: cuộc đời của tôi đã thay đổi từ khi người chồng đáng kính của tôi đi xa. Anh đã sang qua một thế giới khác.

Trong 53 năm, chúng tôi kề cận, nhường nhịn, yêu thương và chăm sóc nhau để cùng xây dựng cuộc sống riêng sau khi cả hai chúng tôi học xong đại học. Chúng tôi đã có một gia đình nhỏ an vui với hai con trai. Và từ khi chúng tôi đem hai cô con gái nhà người dưng, mang về làm hai con gái ruột nhà mình thì gia đình chúng tôi có thêm ba đứa cháu. Nay, các con đã thành nhân, các cháu thì đã có đứa chuẩn bị vào đại học. Hai con trai của chúng tôi đã có nghề nghiệp vững vàng, chúng đã có nhà riêng. Chúng tôi già dặn hơn cùng với sự trưởng thành của con cháu. Hai chúng tôi đã về hưu, vẫn cùng có nhau, tiếp tục nhường nhịn, chăm lo cho nhau trong những năm tháng cuối đời…

Nhờ duyên lành, tôi được học Phật khi tôi còn ở bậc trung học đệ nhất cấp. Tôi rất lí thú nghe Pháp và thực tập theo cách sống Bi – Trí – Dũng của Phật từ lúc còn rất trẻ đó. Tôi biết, thông hiểu và chấp nhận sự vô thường của muôn loài.

Nhưng, khi chồng tôi nằm xuống vĩnh viễn, người bạn đời của tôi đã bỏ tôi, tôi mới chợt nhận ra bấy lâu nay tôi như con vẹt,  lập lại và nhìn mọi vật, có đó rồì mất đó – trong cái vô thường của đất trời – nó tự nhiên, nó nhẹ nhàng như tôi đang thở, nay, không phải như thế nữa. Với chính thực tế mất mát của bản thân, mọi suy nghĩ trước đây của tôi về sự vô thường của một kiếp nhân sinh đã bị đảo lộn, rồi quay cuồng…. Đây có phải là một tổn thất quá lớn trong cuộc đời mà từ trẻ cho tới bây giờ tôi chưa hề trải qua, tôi chưa hề có kinh nghiệm? Tôi hụt hẵng, tôi níu kéo và cố bám vào ảo tưởng: “Ông nhà tôi đi đâu đó rồi Anh sẽ về thôi mà…”

Tôi đợi Anh trở về, hết ngày rồi tới đêm… Một tuần, rồi hai tuần …và tôi thất vọng…

Tôi không chấp nhận sự thật.

Tôi đang sống thời gian khó khăn nhất.

Nguyễn Thị Phi Phượng và cố tác giả giám khảo VVNM Bồ Tùng Ma

Thế rồi, tôi cũng phải ráng tập lối sống mới: một mình , tự lo thân, tự quyết định mọi việc… Mà sao khó quá, tôi không cảm thấy dễ chịu chút nào… Bất chợt , trong tiềm thức của tôi, hiện lên qui luật mới: học nhớ dễ hơn học quên vạn lần!… Với tôi, không nỗi đau nào hơn nỗi đau của tuổi già bị mất người phối ngẫu. Không có sự trống vắng nào hơn ở tuổi xế bóng bị mất người chồng( hoặc người vợ), người đã đồng hành, đã cùng mình vượt qua bao khổ nhọc của cả một đời. Tôi không còn ai để nói hết, nói thật… nói tất cả… những lo toan, những vui buồn tôi đang gặp phải. Không còn ai để tôi “cằn nhằn”! Tôi vẫn thường nghe câu nói đầu môi từ vài người bạn: “Vợ chồng tôi không cải nhau bao giờ”. Tôi không bao giờ tin những lời nói này. Với tôi,  chuyện vợ chồng tranh cải vì khác ý kiến trong một vấn đề, đó cũng là bình thường. Ông bà mình vẫn luôn nói: chén dĩa trong sóng còn khua thay.

Hai năm cuối đời, ước lượng được sức khoẻ của mình, Anh đã nói với thằng cháu lớn nhất 17 tuổi: “ Ông Nội ráng đợi ngày Con tốt nghiệp đại học, Ông sẽ có mặt trong ngày Con ra trường. Con nhớ dẫn Ông đi ăn một bữa thịnh soạn rồi Ông Nội sẽ đi xa.” Tội nghiệp thằng cháu không rành tiếng Việt và cũng không hiểu “đi xa” là Ông Nội sẽ đi đâu thế mà ngày Ông Nội nằm xuống, Cháu cũng biết tại sao Ông không thể giử lời hứa với Cháu. Và bữa ăn thịnh soạn ngày Cháu tốt nghiệp sẽ mãi mãi không bao giờ có mặt Ông Nội nữa…

Năm nay, mùa đông California rét buốt hơn mọi năm. Trời lạnh, cái nhà của tôi càng lạnh hơn vì chỉ một mình tôi lẻ loi…

Nhớ lời dặn: “Anh chết rồi, buồn lắm, em ơi. Hãy về một đứa con mà ở.”

Tôi tới nhà con trai út ở thành phố San Francísco – đứa con gần tôi nhất – ở chơi vài hôm. Ở đó, có con cháu vây quanh, tôi nguôi ngoai phần nào mà sao tôi vẫn nhớ, vẫn thích trở về cái nhà nhỏ quen thuộc của tôi. Trong ngôi nhà xưa thân quen, hằng ngày,  tôi “nói chuyện” với Anh như Anh vẫn còn đó. Tôi cảm thấy Anh vẫn loanh quanh đâu đây, bảo vệ và mang về sự bình yên cho tôi. Tôi tự do khóc, tự do ăn, tự do ngủ… bất cứ khi nào… theo “thời dụng biểu bất thường”  trong lúc này của tôi. Và điều quan trọng mà vợ chồng tôi đã nhận thấy từ lâu, nay, càng rõ ràng hơn, đó là: các con – các cháu của tôi, chúng có suy nghĩ của chúng. Chúng nó trẻ. Chúng say mê công việc và theo đuổi sự nghiệp. Chúng lo làm việc để trả nợ nhà, nợ xe… và nhất là lo việc nuôi dạy con cái. Chúng không có cùng cách giải quyết vấn đề như thế hệ già của chúng tôi. Làm sao tôi có thể bộc bạch hết những tâm tư sâu kín của tôi với chúng nữa.

Chồng tôi đã có chỗ ở mới, chắc chắn rất an vui. Còn lại tôi, bơ vơ, chới với. Người đi trước sao mà ấm áp, được mọi người lo cho đầy đủ, chu toàn.

Tôi bắt đầu ganh tỵ với chồng tôi.

Hồi tưởng lại vài năm sau này, khi hai chúng tôi đã về hưu và nhờ có con vi rút covid , chúng tôi có nhiều thì giờ ngồi bên nhau. Không biết tìm đâu ra, chồng tôi thường đọc cho tôi nghe bài thơ xưa ( không biết tên tác giả) của người chồng già viết tặng vợ:

…Mất gì thì mất Bà ơi,

Xin Trời để lại còn Tôi, còn Bà

Nếu mà có phải đi xa

Để Tôi đi trước còn Bà đi sau

Mong Bà đừng ốm đừng đau

Để Tôi có bát cơm rau sáng chiều

Càng già, càng quí, càng yêu

Bâng khuâng lại nhớ ít nhiều ngày xưa ….

Mất gì thì mất Bà ơi,

Xin Trời để lại còn Tôi, còn Bà

Tôi – Bà nay tuổi đã già

Mà Tôi vẫn sợ còn Tôi, mất Bà…

Thế là ước muốn “ xin được đi trước” của chồng tôi đã được thỏa theo ý nguyện.

Chồng tôi, cả đời là một nhà giáo đạo hạnh. Anh có chánh nghiệp. Anh có một đời sống viên mãn. Nay, nghiệp đã trả xong, Anh ra đi nhẹ nhàng. Anh được thay cái xác mới. Tôi tin: nhất định Anh đã đến được cõi an lành.

Rồi thì ai cũng sẽ phải theo con đường của Anh thôi mà. Tôi cũng sẽ như thế.

Hai tháng, … rồi ba tháng, …

Tôi không thể nào khoẻ mạnh trong tình trạng sống đau buồn mãi được.

Tôi bắt đầu đọc sách nhiều hơn, nghe giảng Pháp nhiều hơn. Tôi thiền định lâu hơn. Tôi làm vườn, công việc này chồng tôi phụ trách trước đây, tôi nào biết tới. Và tôi tiếp tục lại các việc đang dang dở mà thời gian qua vì phải chăm sóc Anh bịnh tôi đã xin tạm nghỉ. Tôi có Chùa Phổ Từ ở Hayward, gần nhà. Tôi có Camp Metta ở Los Gatos. Tôi có nhiều bạn đạo rất thành thật ở hai nơi đó. Tôi có những bạn thiện tri thức của hai nhóm Gia Đình Phật Tử Chánh Tâm và Chánh Hòa, nơi tôi đang dạy thiện nguyện Tiếng Việt cho các em đoàn sinh và nhất là hằng ngày tôi được tu tập qua những câu viết ngắn dưới đề mục  “Morning Coffee” của Sư Bhante . Dần dà, tôi đã lấy lại sự quân bình trong suy nghĩ. Niềm vui và sự tin tưởng vào Chánh Pháp đã vực tôi đứng lên . Tôi nhận ra thế nào là Chơn Thường trong Vô Thường của sự vậ , của cuộc sống. Đã có sẵn Chánh niệm và Chánh Tư Duy, tôi cảm nhận được sự sống đang có mặt trong từng giây phút của hiện tại. Sự tiếc nuối và suy nghĩ về mất mát trở về lại với tôi nhẹ nhàng như tôi đang thở.

Tôi đăng ký học vẽ ở Chabot College – Hayward. Tôi tập vẽ trên giấy canvas để áp dụng vẽ trên áo dài, niềm say mê nhất của tôi từ khi còn trẻ nhưng vì quá bận rộn phải xếp qua một bên.

Tôi đang suy nghĩ để xem tôi có còn thích hợp để học khiêu vũ không. Đây là môn thể dục lý thú của tuổi già.

Tôi sẽ tiếp tục gặp lại học trò qua hai lớp dạy thiện nguyện Tiếng Việt của tôi sau thời gian dài dạy chúng qua zoom.

Tôi sẽ tiếp tục dịch sách chương trình “Early Childhood Education” ( Ngành Mẫu Giáo Nhà Trẻ). Sách tôi dịch, in ra, đã và sẽ giúp các cô giáo dạy chương trình này ở Việt Nam làm giàu thêm kiến thức nghề nghiệp của họ.

Cám ơn Phật pháp đã giúp Con sáng ra và chấp nhận thực tế đúng như tính chất vô thường nó đang là.

Cám ơn Anh đã cùng Em đi hơn nửa cuộc đời. Anh đã giúp Em hiểu được sự chịu thương chịu khó, sự hy sinh cho một tình yêu đích thực. Anh đã để lại cho Em quá nhiều kỷ niệm, Em chẳng thể nào quên. Em sẽ chuyển nỗi đau thành niềm thương nhớ. Anh ơi, hãy chờ Em bên kia sông, vài năm nữa mình sẽ gặp lại, nhé Anh.

Mẹ cám ơn hai Con Trai của Mẹ. Các Con đã giúp Mẹ tiếp tục giữ cuộc sống an nhàn như khi Ba Mẹ có nhau.

Bà Nội cám ơn ba Cháu yêu. Các Cháu rất ngoan, nghe lời dạy bảo của cha mẹ, học giỏi. Cám ơn các Cháu luôn báo tin vui về việc học của các Cháu cho Bà nghe.

DT – Th H ơi , Nh – Ng ơi ! Các Em đang đủ đôi . Đó là hạnh phúc quý báu nhất Thượng Đế ban tặng cho riêng các Em và cho cả loài người. Các Em hãy yêu thương – chăm sóc nhau với tất cả những gì có thể để rồi mai kia, khi một người đi xa trước, người ở lại không có gì để hối hận…

Tôi cũng vậy.

Tôi đã là người vợ tốt.

Tôi đã là người mẹ tốt.

Tôi đã hết lòng chăm sóc chồng tôi khi Anh bịnh hoạn.

Tôi không có gì để hối hận.

Tôi phải vui lên để được sống khỏe mạnh. Cầu mong tôi giử được sức khoẻ này lâu dài cho tới khi nào quá yếu. Khi đó, tôi sẽ về sống cùng với con cháu.

Tôi đang bước vào khúc quanh mới của đoạn cuối con đường và tôi sẽ thanh thản đón hoàng hôn./.

Hayward – California

Tháng Hai, 2022.

Nguyễn Thị Phi Phượng 

 Cây Huê Xà – Sơn Nam

 Cây Huê Xà

 Sơn Nam

Cây Huê Xà là thứ cây gì? Hình dáng ra sao? Có thiệt hay là bịa đặt? Nó có lợi hay là có hại cho loài người? Bao nhiêu câu hỏi ấy dồn dập, lẩn quẩn trong trí thằng Lợi hằng năm nay mà nó không tài nào trả lời nổi.

Cây huê xà vốn là vị thuốc chánh trong toa thuốc trị rắn cắn của ba nó. Nhờ đó mà đi đến đâu người ta đều khâm phục; ba nó nổi danh là thầy Hai Rắn. Ðược nổi danh là một chuyện khó vì lẽ ở vùng U Minh (Rạch Giá, Cà Mau), thầy thuốc rắn xưa nay cũng nhiều người tài. Họ có thể cứu sống nạn nhơn, bảo đảm trăm phần trăm, nếu người bị cắn không để lâu quá hai giờ đồng hồ. Họ dùng toàn thuốc Nam dễ kiếm như gừng, cỏ ống, vôi, trầu, nhựa ống điếu, trứng rệp… Họ lại còn dám nuôi trong nhà vài con rắn để bắt chuột. Lúc họ uống nước trà, rắn nằm vắt vẻo trên đòn dông nhà, nhìn xuống gục gặc đầu. Ðêm nào có trăng thì rắn đi ngao du, lên tận trên đọt lá dừa để bắt chim trong ổ hoặc rình mổ mấy con dơi rượt muỗi bay qua chớp nhoáng.

Ba thằng Lợi nổi danh hơn các thầy thuốc rắn vừa nói trên. Thuốc của ba nó vò viên sẵn, khỏi tốn thời giờ tìm kiếm. Thuốc ấy mạnh lắm, trừ tuyệt nọc, nghĩa là một hai năm sau đi nữa bịnh nhơn không cảm thấy nhức xương sống mỗi khi lập đông trở về. Phi thường nhứt là có toa thuốc khi thoa vào tay, rắn không bao giờ dám mổ.

Hồi mới xuống rạch Thuồng Luồng này, ba nó đã có lần thí nghiệm cho các thầy thuốc rắn trong xóm coi thử.
Ba nó – thầy Hai Rắn – loan tin:

-Tôi có bùa bắt rắn. Bùa này của Phật Thầy Tây An đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ở núi Sam, Châu Đốc truyền lại.

Ai nấy phản đối:

-Nói dóc! Chân ướt chân ráo mới tới xứ này mà không để cho người ta thương! Đức Phật Thầy Tây An xưa kia bao giờ làm bùa bắt rắn. Ngài lo giữ mối giềng đạo lý, sao cho ai nấy ăn ngay ở phải, đừng vì tiền tài mà nói dóc với chúng sinh.

Mỉm cười, thầy Hai Rắn mời bà con đúng giờ Thìn sáng mai đến cây thị, trước Miễu Ông Tà. Cây thị này hồi năm ngoái bị trời đánh tét làm hai. Thiên hạ đồn rằng: Có điềm trời! không vậy sao trong ruột cây có cái bộng đen ngòm. Dưới đáy bộng, một đống đất khô… Ngạc nhiên làm sao! Ðất nhút nhích từng cục, một con rắn hổ ốm nhom vùng ngóc đầu lên cao, phùng mang chồm tới, giống hình cái bàn nạo. Rắn nhìn người chung quanh, hút gió rồi rúc xuống đất vụn để ẩn mình.

Sáng hôm đó, đúng giờ Thìn, thầy Hai Rắn lại gốc cây thị với mọi người. Lấy tay vỗ mạnh vào gốc cây, thầy nói:

-Ông xà ơi! Ra đây nói chuyện chơi.

Ai nấy trố mắt, ngạc nhiên. Có tiếng hút gió như đáp lại rồi từ miệng bộng cây, cái bàn nạo lần lần nhô lên.

Thầy Hai lấy tay vạch vòng tròn dưới đất, vỗ xuống mạnh:

-Tôi muốn mời ông xà lại đây, ngồi trong vòng này với tôi.

Rắn nọ bò xuống, men vào vòng đã vẽ. Thầy xòe tay ra, để cách miệng rắn chừng một tấc mà thét:

-Cắn thử coi!

Rắn không nhúc nhích.

Thầy thét lớn hơn:

-Áp khẩu tay tôi nè! Cắn ngay đó thì tôi chết liền. Tôi đố ông dám cắn!

Ai nấy phập phồng chờ đợi. Rắn cục cựa, thối lui, ngóng mỏ lên cao, day qua day lại. Thầy Hai trợn mắt, đưa tay xít lại gần hơn nữa. Bỗng nhiên, rắn hút gió một tiếng rồi quay mình phóng vào bộng cây, mất dạng.

Thầy đứng dậy, vấn điếu thuốc. Vừa hút phì phà, thầy giảng rằng:

-Chém ruồi ai dụng gươm vàng làm chi! Nói thiệt cho bà con thương, tôi đây cực chẳng đã mới ra nghề. Tôi biết trong số bà con đây có người tài giỏi hơn tôi nhưng giỏi về môn khác. Thứ bùa này ít ai biết… Lúc ban sơ, tôi dùng nhân lực để kêu rắn ra khỏi bộng cây. Kế đó vẽ vòng tròn tức là tôi dùng thần lực. Ðến khi chuyển qua thiên lực, rắn nọ phải chạy trối chết… Nhân lực, thần lực, thiên lực, đó là ba chặng đường mà tôi đã trải qua. Phần đông, bà con mình xưng là thầy nhưng chỉ mới bước tới nhơn lực.

Tài của thầy Hai Rắn, ai lại chẳng phục. Ngặt thầy kiêu hãnh quá nên hôm đó không ai muốn thụ giáo, họ bực tức ra về. Trong số đó có Năm Ðiền là thầy rắn bấy lâu lừng danh ở xóm Thuồng Luống này. Năm Ðiền cảm thấy bị sỉ nhục. Về nhà chú nằm suốt đêm không ngủ được, tâm trí bận rộn, cố nhớ lại mấy toa thuốc. Chú biết đây là một mưu mô của thầy Hai Rắn. Nhứt định thầy Hai có thoa vào tay một thứ thuốc đặc biệt. Ngửi nhằm mùi đó, rắn chịu không nổi, phải mờ mắt hoặc ê răng mà chạy trốn. Ăn cắp cái toa đó là diệu kế nhứt. Nghĩ vậy, chú sực nhớ tới con Lài, đứa con gái khá nhan sắc của chú.

Bấy lâu nay, chú thường để ý: Thằng Lợi, con thầy Hai Rắn, thường bén mảng lại đây để trò chuyện với con Lài.

Năm Ðiền bèn kêu đứa con gái vào:

-Lài à!

-Dạ.

Nhìn trước cửa thấy không có ai, chú nói nhỏ với con:

-Bấy lâu cha sống ở rạch rày cũng là nhờ nghề trị rắn. Bây giờ, thầy Hai Rắn tính đập bể nồi cơm của cha con mình!

Con Lài hỏi, ngây thơ:

-Sao vậy ba, người ta lạ, mới tới…

-Bởi vì nếu trời đã sanh Châu Do thì không có Gia Cát Lượng.

-Gia Cát Lượng là ai vậy ba?

Năm Ðiền đổ quạu:

-Không biết gì hết. Ngu quá! Mày biết thầy Hai Rắn là cha của ai không?

-Dạ… của anh Lợi.

-Thằng Lợi tới lui đây hoài. Ðiều đó ba biết hết. Ba nào cấm cản. Nó nói gì với con…

Con Lài bẽn lẽn:

-Ảnh nói muốn làm quen.

-Ừ! Ba nói thiệt với con, làm thân con gái phải giữ gìn thân thể. Không khéo, lỡ bề gì nhơ nhuốc danh giá dòng họ. Con thương nó thì phải cho ba hay để bắt buộc nó thương con…

Con Lài buột miệng:

-Ðừng… Tội nghiệp người ta.

-Không sao đâu. Chiều mai, con rủ nó lại ăn cơm… Sẵn dịp ba mời nó uống rượu, thứ rượu “rắn giao đầu”.

Nghe đến rượu “rắn giao đầu”, con Lài liếc nhìn chai rượu thuốc để trên bàn thờ. Trong chai, ngâm hai con rắn mà ba nó lượm được hồi năm ngoái! Con rắn nước nuốt con rắn trun, có lẽ nuốt không vô nên hai con đều chết. Ba nó lượm đem về ngâm rượu.

Nó hỏi:

-Uống chết không ba? Con sợ quá.

-Gì mà sợ. Rượu đó làm cho trai với gái thương nhau như rắn. Uống vô, thằng Lợi không bao giờ bỏ con được. Trăm sự, nó đều thiệt tình. Con nhớ gạn hỏi nó một điều này mà thôi…

-Ðiều gì ba?

-Cái toa thuốc thoa vô tay mà rắn không cắn của ba nó xài hôm trước, đằng cây thị trước Miễu Ông Tà: Nhớ hỏi cho kỳ được. Bằng không, ba giết chết cả hai đứa như giết rắn. Từ nay hai đứa bây là hai con rắn… Vì chất rượu này…

oOo

Lá rụng ơi lá rụng!

Từng chiếc lá tràm bay lả tả như bươm bướm mỏi cánh, đáp nhẹ xuống mặt nước từ trong ngọn rạch trôi dài ra.

Con Lài nhìn dòng nước uốn khúc qua doi, qua vịnh như con rắn bò, thứ rắn có khoang màu vàng, con rắn hổ sơn. Nó vụm mặt lại để che cái hình ảnh đó. Nhưng nào được! Kìa chiếc xuồng của thằng Lợi bơi lướt tới, vạch ra hai làn bọt nước lốm đốm trắng như con bạch hoa xà… Lập tức nó xuống bến, bơi theo, mãi đến khi xuồng thằng Lợi ghé bên bờ đìa, kế gốc cây bình bát.

Thằng Lợi day lại cười:

-Ði đâu vậy cô Hai… Rắn bông súng?

Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc.

Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:

-Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười em làm chi.

-Rắn đâu dám cười rắn. Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài.

Con Lài rút tay ra cho có lệ. Nó bước qua xuồng, ngã vào lòng thằng Lợi.

-Anh à!

-Cái gì đó, hở rắn!

-Thiên hạ thấy, họ cười chết.

-Ai thấy mà cười? Chung quanh đây cái gì cũng là rắn như hai đứa mình. Thí dụ như mấy sợi dây choại, dây bòng bong kia…

Con Lài gật đầu:

-Phải, dây choại, dây bòng bong giống như rắn lục, nó xanh tươi. Còn đám cỏ bồn bồn đằng kia, nó dẹp lép quả thật là rắn lá… Nhánh củi khô, kế đó, anh thấy không anh Lợi?

-Nó là con rắn nẹp nia, da nó xù xì…

-Em suy nghĩ thấy sao kỳ quá, anh à. Rắn có thù oán gì với loài người, cớ sao loài người thù oán rắn. Như dây choại, cỏ bồn bồn, nhánh củi khô rất ích lợi cho con người.

Thằng Lợi vuốt mái tòc con Lài:

-Vậy nên rắn mới buồn bực trong lòng, tụ họp lại. Con rắn này tìm con rắn kia làm bạn với mình cho vui. Rắn với rắn thương nhau lắm.

-Nó có cắn nhau không anh?

-Ðâu có. Mà nó cũng không muốn cắn loài người. Người nào biết điều thì rắn không cắn.

-Biết điều là sao?

-Là biết nói chuyện với rắn. Nói chuyện bằng hơi tay, thí dụ như ba của anh…

Con Lài cố giữ trầm tĩnh, biết rằng nãy giờ nó đã nói chuyện nhảm vì uống rượu rắn giao đầu, nhưng nó nhớ lời ba nó căn dặn…

-Hơi tay của ba anh có gì mà nói chuyện được. Anh có cái hơi đó không? Tay anh đâu rồi.

Thằng Lợi xoa tay rồi đưa trước mặt con Lài?

-Phải có “ngải mọi”. Em biết thứ ngải đó không? Múc bột nó làm bánh ăn ngon lắm. Ăn bánh ngải rồi uống nước chanh. xong xuôi, nằm xuống hút một điếu á phiện với cái dọc tẩu làm bằng sừng “con dinh”.

Con Lài lắng nghe từng tiếng rồi hỏi tiếp:

-Hút á phiện rồi làm gì nữa?

-Rồi thì vợ chồng dắt tay nhau dạo kiểng, ngắm cái bông huê xà…

-Bông huê xà là thứ gì?

-Huê xà là huê xà. Ba của anh nói lại sau rốt.

Con Lài lẩm bẩm:

-Ngải mọi, nước chanh, á phiện, sừng dinh, huê xà. Toa này năm vị. Mình nhớ đủ hết.

oOo

Năm Ðiền với đứa con gái bỗng nhiên chết ngã lăn tại nhà.

Tin đó truyền ra nhanh chóng. Cả rạch Thuồng Luồng, ai nấy chưng hửng. Mấy ông thầy rắn xúm lại khám nghiệm rồi quả quyết:

-Chết vì rắn. Dấu răng rắn hổ. Chắc chắn có rắn hổ nuôi trong nhà, nó phản lại chủ.

Chờ cho thưa khách, thầy Hai Rắn tới, cầm bàn tay của hai nạn nhân nọ mà ngửi. Nước mắt của thầy bỗng dưng tuôn xuống. Chợt nhìn chai rượu thuốc “rắn giao đầu” trên bàn thờ, thầy lắc đầu, thở dài.

Ðêm đó, thầy kêu thằng Lợi ra sân mà nói:

-Mai này cha phải đi. Con ở lại một mình. Cha buồn lắm. Họ dụ dỗ con để khám phá bí mật, cha biết vậy. Nhưng trăm sự cũng vì toa thuốc nọ thiếu cây huê xà nên không linh nghiệm. Cây đó khó kiếm lắm. Cha con Năm Ðiền tưởng là cha nói gạt chớ sự thật nó có: dây đó tròn bằng mút đũa, vằn vện như da rắn. Phải tìm ở chót núi ông Cấm, tìm cả tháng mới gặp một cây. Con Lài chết, có lẽ vì Năm Ðiền không tin con gái nên cho rắn cắn nó trước. Chừng thấy con chết, y buồn quá nên tự tử theo, không muốn chuyện đổ bể ra e mất thể diện với bạn đồng nghề. Nghề rắn nó nghiệt như vậy đó!

Ðêm sau, thầy Hai Rắn trốn xóm riềng, trốn đứa con trai mà đi mất.

Còn thằng Lợi ở lại. Tội nghiệp biết chừng nào! Nó nào hiểu tại sao loài người bày đặt ra thuốc rượu “rắn giao đầu” để dụ dỗ lẫn nhau, trong khi cái tình yêu tự nhiên còn keo sơn hơn gấp mấy! Nó không hiểu sở dĩ ngày nay nó cô độc, vắng cha, vắng tình nhân như vậy chỉ vì mối ganh tị giữa hai người đồng nghề là cha nó với cha con Lài.

Nó thơ thẩn như mất hồn, khóc không ra nước mắt mỗi khi ra thăm nấm mộ của người tình xưa, thấy mấy dây rau muống bò lan bên cạnh.

Cây huê xà là gì? Có thiệt hay không? Lắm đêm, nó nằm chiêm bao thấy một thứ dây lốm đốm trắng mọc cheo leo ở chót núi ông Cấm, tiếp với trời xanh. Trên cảnh xa vời không nhơ bợn đó, dây huê xà nhởn nhơ uốn éo với gió núi. Giữa lòng từng chiếc lá, hiển hiện kia trăm ngàn gương mặt của con Lài, tươi tắn, cười riêng với nó, trẻ mãi không già…

Sơn Nam
Trích từ tập truyện “Hương Rừng Cà Mau”

From: TU-PHUNG

Nhật Ký Vượt Biên – Lê Minh

Van Pham

Gần đến ngày 10-03 khởi đầu từ TP. Banmêthuột cho đến ngày 30-4-1975 toàn bộ miền Nam bị cộng quân tấn chiếm. Kể từ ngày này bao tang tóc đau thương phủ trùm lên dân tộc, mà thảm cảnh “Vượt Biển” vẫn hằn sâu trong tâm khảm hàng triệu người Việt cả hải ngoại lẫn trong nước…

***

Nhật Ký Vượt Biên

Lê Minh

Gia đình tôi đông anh em và nghèo lắm! Muốn gom đủ 3 lượng vàng để lo cho một người vượt biển không phải là dễ. May sao nhờ nhà ở mé sông, nên có người tổ chức vượt biên họ cho tôi đi không với điều kiện ba mẹ tôi phải chứa chấp 8 người mà họ dắt mối từ Sài Gòn về chờ ngày ra tàu. Công việc nầy cũng rất nguy hiểm, lỡ mà công an biết được là đi tù cải tạo.

Nhà nội tôi kế bên nhà tôi nên ba má tôi gởi bên nội 6 người còn nhà tôi chỉ chứa 2 người. Người tổ chức sắp xếp là đến ngày đi họ sẽ có thuyền nhỏ đậu dưới bến sông nhà nội tôi để đưa người ra tàu lớn đã đậu sẵn ngoài khơi.

Vào một đêm 30 tối đen như đêm cả miền Nam lọt vào tay Cộng sản, một chiếc thuyền đánh cá nhỏ trên thuyền phủ đầy lưới tấp vào bờ sau hè nhà nội tôi, họ nói phải chuyển người thật nhanh, “cá lớn” – có nghĩa là tầu lớn- đang đợi.

Tiếng xì xào to nhỏ làm nội tôi tuy đã già, 2 mắt đã mờ cũng giật mình thức giấc, ông hỏi:

-Thằng Minh đâu rồi?

– Dạ con nè nội!

Trong bóng đêm, ông mò mẫm lấy tay rờ đầu tôi rồi nói nhỏ:

– Con ra đi lần nầy là chắc ông cháu mình sẽ không còn có dịp gặp nhau nữa đâu! Nơi đất khách quê người con ráng lo học hành và tự lo cho bản thân mình.

Ông nhét vào tay tôi 2 miếng gì hơi mỏng và cứng, rồi như không nén nổi sự xúc động, ông bỏ đi vào trong phòng. Sau đó tôi mới biết là ông đã gói ghém cho tôi 2 chỉ vàng, là gia tài dành dưỡng già của ông để tôi phòng thân.

Khi tôi ngồi viết bài nầy nhớ đến nội đã ra đi vĩnh viễn mà không có dịp nhìn mặt ông lần cuối cùng, là nước mắt tôi tuôn tràn…

Ngày Đầu Tiên: qua trạm biên phòng

Sau khi 9 người chúng tôi đều xuống khoang thuyền, người đưa khách lấy lưới phủ lên trên người chúng tôi để ngụy trang như là một ngư phủ sửa soạn ra khơi đánh cá.

Nằm dưới đống lưới cá còn ướt đẫm mùi tanh của cá, mùi nước biển, hơi thở khó khăn làm tôi muốn ói nhiều lần.

Gần tới trạm công an biên phòng, người đưa khách nói:

– Các anh chị ráng giữ bình tĩnh, đừng nhúc nhích và nói gì hết! Qua khỏi trạm nầy là kể như đã đi được nửa đường.

Chiếc thuyền bớt máy, chậm lại rồi ngừng hẳn. Tôi nghe có người nói:

– Giờ nầy còn đi đâu đó?

– Đi làm mẻ lưới sáng chớ anh! Nước triều đang lớn hy vọng sẽ trúng mánh.

– Có chở gì khác không?

– Trời! Anh biết tôi ngày nào cũng ra khơi đánh cá mà, đâu có chở gì! Anh muốn xuống coi không? Thôi lấy vài tờ uống cà phê nghe! Bữa nay trúng lưới, mai về bọn mình nhậu cho đã.

– Thôi, đi đi!

Tiếng máy nổ và thuyền lại rời bến. Người đưa khách cất tiếng:

Chúc mừng các anh chị đã qua khỏi cửa biên phòng. Bây giờ có thể bỏ lưới qua một bên cho dễ thở.

Tôi tung lưới ra, ngước mặt nhìn về những dãy dừa xanh, những cây mắm mọc sát bờ biển và xa xa những mái nhà nhỏ của xóm ngư phủ… Đó là hình ảnh quen thuộc của quê nhà tôi cố ghi nhớ để nhớ mãi mảnh đất quê hương lần cuối cùng trước khi đi không hẹn ngày trở về.

Ngày Thứ 2: đem trứng cho ác

Chiếc thuyền nhỏ ra khơi trong cơn mưa phùn đầu tháng Mười. Quần áo ướt át, thêm gió biển rồi từng đợt sóng biển đánh vào khoang thuyền làm tôi lạnh run người. Thuyền chạy gần một tiếng thì tôi nhìn thấy xa xa có một chiếc tàu khá lớn đang đậu gần một hòn đảo nhỏ, hình như là Hòn Tre thì phải.

Người đưa khách cho thuyền cặp vào chiếc tàu nầy rồi ra lệnh:

– Các anh chị leo lên tàu nầy. Lẹ lên!

Chiếc tàu cao quá so với thuyền nhỏ và những đợt sống làm lắc lư con tàu, khiến tôi nhảy mấy lần mà cũng chưa lên được. Cả hai chân bị rớm máu vì bị cắt bởi những con hà đóng quanh thành tàu. Rốt cuộc thì tất cả đều lên được tàu. Người đưa khách vẫy tay chào chúng tôi rồi quay thuyền chạy thẳng về đất liền.

Trên tàu đã có một số người đến trước. Họ nói phải chờ cho đủ số người và tài công ra rồi mới bắt đầu cuộc hành trình. Vậy là tiếp tục chờ đợi, căng thẳng. Thuyền nhỏ cứ lâu lâu lại chở thêm 9- 10 người lên tàu. Gần chật cả khoang dưới lẫn trên boong tàu mà sao vẫn chưa thấy người chủ tàu, tài công hoặc người tổ chức?

Trời gần sáng thì có một chiếc thuyền nhỏ chở chủ tàu, tài công và người tổ chức. Họ lên tàu, tiền trao cháo múc, thanh toán tiền mua tàu còn lại bằng những thỏi vàng óng ánh, nói vài lời chúc may mắn đến chúng tôi rồi trở về thuyền đi về, chỉ để lại người tài công.

Chiếc tàu với sức chứa 70 người giờ đây đã có tất cả là 139 người. Coi lại lương thực thì trời ơi! Chỉ có một khạp nước với một khạp gạo. Làm sao có thể đỡ cảnh đói khát cho suốt cuộc hành trình vượt biển?

Trên tầu có nhiều người chửi rủa là “đem trứng cho ác, lấy vàng của người ta rồi tổ chức như vậy đó!” Nhưng chửi rủa gì cũng đã muộn rồi, chỉ còn quyết định là có nên tiếp tục đi hay là quay trở lại để chịu cảnh tù đày!

Cuối cùng tất cả đành quyết định ra đi, hy vọng khi ra được hải phận quốc tế sẽ có tàu buôn hoặc chiến hạm của Mỹ cứu vớt.

Ngày Thứ 3: tài công không biết lái tàu

Người tài công nổ máy tàu và loay hoay với chiếc hải bàn. Ông tự giới thiệu là đại úy Hải Quân, cùng đi với người bạn gái. Thấy ông lây quây mãi với cái hải bàn, có người hỏi:

– Sao không bắt đầu chạy đi mà ở đó coi cái gì vậy?

– Nói thiệt nghe! Tôi đi hải quân nhưng hồi đó đâu có lái tàu, làm sao biết đường nào đến Thailand!

– Trời đất! Dzậy sao ông nhận làm tài công cho tàu?

– Thì phải nói là tài công họ mới cho đi không lấy tiền! Bây giờ tôi cũng không biết tọa độ nào để lái tàu đến bờ biển Thailand!

Cả tàu xôn xao. Thiệt là đem con bỏ chợ mà! Tính sao bây giờ?

– Để tôi lái cho!

Từ phía sau mũi tàu có anh thanh niên vóc dáng vạm vỡ, nước da ngâm đen lên tiếng và đi lại buồng lái.

– Có gì khó đâu! Tôi nghe người ta nói cứ giữ hải bàn ở tọa độ 260 là sẽ đến hải phận quốc tế và đến Thailand.

Cả tàu thở ra. Anh thanh niên cho máy nổ rồi cầm tay lái cứ hướng 260 độ mà cho tàu chạy! Con tàu băng băng. Mặt trời đã lên cao rọi những tia màu đỏ nhạt trên mặt nước biển.

Ngày Thứ 4: máy chết, tàu lủng

Con tàu chật ních người vẫn lướt trên biển cả mà chưa thấy bờ bến. Cơn nóng biển VN hòa lẫn với hơi người ngột ngạt. Bắt đầu đói khát lả người. Người ta nấu một nồi cơm lớn rồi chia phần cho mỗi người một muỗng cơm trắng với chút nước lã đo lường bằng cái nắp can để cầm cự, hy vọng sớm ra được hải phận quốc tế. Trời về chiều, ở cuối chân trời hiện lên một vầng mây đen như báo trước bão tố sẽ chụp lấy con tàu nhỏ bé. Biển mênh mông không bờ bến, biết đâu là hải phận quốc tế, đâu là bờ biển Việt Nam?

Mọi người chợt hướng mắt nhìn về phía trước, một chiếc tàu buôn ngoại quốc đang chạy song song cách thuyền rất xa. Gương mặt mọi người đều hiện lên vẻ mừng! Chỉ trong hải phận quốc tế mới có tàu buôn ngoại quốc thôi!

Nhiều người cởi áo trắng ra vẫy vẫy làm dấu SOS với hy vọng chiếc tàu kia sẽ thấy mà quay lại cứu giúp. Tất cả dán mắt theo dõi nhưng cái tàu buôn vẫn làm ngơ. Có người đề nghị đục tàu cho chìm để họ thấy emergency thì bắt buộc phải vớt.Một số người đồng ý, phần còn lại thì không. Rủi họ không thấy thiệt thì chết cả đám. Thôi thì hy vọng có chiến hạm Mỹ hay gặp dàn khoan dầu là hay nhất!

Trời đã về đêm, gió bắt đầu đẩy những ngọn sóng bạc đầu thật lớn đánh vào thành tàu. Cơn mưa lớn chợt nổi lên. Con tàu của chúng tôi như nhào lộn trong lòng biển, lúc thì sóng đưa lên thật cao, lúc thì như chìm vào biển cả.

Cạch… cạch… cạch…Tiếng máy tàu nổ thêm 3 tiếng rồi tắt hẳn!

– Chết rồi! Tàu phá nước ngập cả máy rồi, bà con ơi xúm lại tát nước!

– Trời ơi! Vậy là chắc chết hết!

Tôi nghe tiếng khóc la hòa lẫn tiếng cầu kinh, niệm Phật cộng với tiếng gió rú mưa rơi giữa biển khơi mịt mù đen tối! Đời người chỉ chết một lần! Tôi nhủ mình hãy cố bình thản trước cái chết gần kề.

Đọc xong kinh ăn năn tội thấy mình không sợ cái chết nữa, dù thấy nó sẽ xảy đến trong giây lát. Trong số 139 người trên tàu, có những cụ già từng trải, những thanh thiếu nữ tương lai đầy hứa hẹn và những mái đầu xanh vô tội chưa từng nếm mùi đời. Tất cả đã đem sinh mạng mình ra để đánh đổi 2 chữ “Tự Do”.

Ngày thứ 5: kề cái chết, thấy lòng người

Đêm giông bão tưởng như dài vô tận. Quá nửa khuya, đã sang ngày Thứ 5 nhưng trời vẫn chưa rạng. Con tàu nhỏ bé bắt đầu từ từ chìm xuống lòng đại dương.

– Trời ơi! Tàu sắp chìm rồi, thẩy bớt đồ trên tàu cho nhẹ bớt đi! Ai biết bơi lội thì nhảy xuống biển giùm!

Chúng tôi thẩy bỏ tất cả những gì có thể thẩy. Mấy cái can chứa đầy dầu, máy tàu không còn chạy nữa thì để nó làm gì! Chúng tôi đổ bỏ hết dầu rồi cắt thùng ra làm đôi để làm thùng tát nước.

Nhiều người nhảy xuống biển, nhưng đêm tối mịt mù, không thấy bờ bến biết bơi về đâu! Đành vịn vào thành tàu cho khỏi chết chìm.

– Kiếm được chỗ bể rồi bà con ơi! Cởi áo ra! Cởi áo ra để tôi nhét chỗ bể lại.

May mắn làm sao có một anh nhảy xuống biển, tay vịn vào thành tàu, cái chân chòi chòi lại thọt ngay vô chỗ bể mới biết mà la lên!

Mọi người giành nhau cởi áo đưa cho anh ta rồi xúm lại tát nước với hy vọng nhỏ bé là tàu đừng có chìm. Có anh chàng thanh niên quá hăng say tát nước, anh tát quá nhanh, hết sức mình đến nỗi ngã xỉu bên thành tàu mà 2 tay vẫn còn đưa ra như muốn tát thêm một thùng nữa. Có những cụ già, em bé lấy hai tay bụm từng bụm nước cố đem ra khỏi tàu nhưng khi đem ra khỏi tàu thì không còn được bao nhiêu!

Chúng tôi tát nước suốt đêm hôm đó dưới cơn mưa gió bão bùng. Tay chân bị vọp bẻ vì lạnh cóng nhưng vẫn cố gắng hết mình. Có cận kề cái chết mới thấy được lòng người! Chúng tôi là dân tứ xứ không hề quen biết nhau, giờ đây cùng chung chiếc thuyền định mệnh. Tất cả đều coi như anh em ruột thịt trong nhà, tất cả đều tận lực không phân bì ai làm nhiều làm ít! Sau cơn mưa trời bắt đầu rạng dần! Ở cuối chân trời vầng hồng thái dương chiếu sáng, biển lặng như tờ. Chúng tôi vẫn tát nước, con tàu càng lúc càng nổi lên và trôi theo dòng nước biển. Trôi về đâu… đành phó mặc cho số trời!

Ngày Thứ 6: hải tặc đợt một

Con tàu nhỏ cứ trôi lững lờ trên biển vắng. Trời đã vào trưa. Cơn nóng biển, sự mệt nhọc tát nước suốt đêm và cơn đói khát hoành hành làm cho mọi người rã rời! Trên tàu có khoảng 60 người là thanh niên trai tráng, phần còn lại là phụ nữ, trẻ em và người già. Chúng tôi bàn nhau chia những thanh niên thành 20 tổ, mỗi tổ 3 người để thay phiên nhau tát nước 24/24 hầu những người khác có thì giờ nghỉ ngơi.

Nguyên cả ngày không thấy bóng một chiếc tàu lạ nào và cũng không biết tàu của mình đã trôi về đâu! Trời đã gần chiều, hoàng hôn từ từ lặn ở phía chân trời xa! Một chấm đen hiện trên biển xa càng lúc càng lớn dần, mọi người đều mừng rỡ: “Có tàu đến gần, được cứu rồi!

Một chiếc tàu đánh cá Thailand cặp vào tàu tôi. Hai ngư phủ Thailand nhảy qua dùng dây cột tàu chúng tôi tôi vào tàu họ rồi kéo đi! Đâu có ai biết nói tiếng Thái. Chúng tôi chỉ xí xô, xí xào… Thailand, Thailand rồi ra tay làm dấu ý nói là muốn đi Thailand.

Hai người ngư phủ Thái không nói một lời nào. Chúng tôi bàn với nhau ai có tiền bạc, vàng vòng gì thì bỏ ra chút ít để gom góp lại đưa cho họ nhờ họ kéo đi Thailand.

Chết đi sống lại thì ai đâu còn để ý chút ít tiền bạc làm gì! Chúng tôi gom góp được khá nhiều đồng hồ, vàng bạc để vào cái nón rồi đưa cho 2 ngư phủ Thái. Họ cầm lấy rồi nói tiếng Thái với mấy người của họ còn ở trên tàu.

Tàu của họ kéo tàu của chúng tôi được đâu hơn 2 tiếng thì dừng hẳn, cặp sát vào tàu của chúng tôi, họ lấy dây cột tàu lại rồi nhảy qua thêm 5 người nữa. Trên tay có 2 người có súng, họ lục xét từng người để tìm vàng bạc, nữ trang.

Trời ơi! Chúng tôi gặp hải tặc mà ngỡ là người làm ơn!

Sau khi lục xét và gom thêm được chút vàng bạc, họ nhảy qua tàu của họ và thẩy sang mấy gói mì khô rồi chặt dây chạy mất tiêu. Trước khi đi chúng tôi có nghe là có thể gặp hải tặc, nhưng đâu có ngờ họ là dân đánh cá chuyên nghiệp và cũng là hải tặc! Thôi cũng là một kinh nghiệm cho những ngày kế tiếp…

Ngày Thứ 7: tang lễ giữa biển

Đêm mùng 7 tháng 9 âm lịch, biển lặng như tờ! Bầu trời đầy sao, xa xa ánh trăng lưỡi liềm chiếu ánh sáng mờ ảo xuống khoang tàu. Mọi người đang nằm sắp lớp, thiêm thiếp trong cơn nóng và đói khát cả ngày trời. Cảnh vật im lìm chỉ còn nghe tiếng xào xạc tát nước của 3 người thanh niên đến phiên trực.

Giờ nầy chắc ba mẹ tôi lo lắng lắm rồi! Người ta đi chỉ có 4- 5 ngày là có điện tín báo tin, còn tôi đã 7 ngày rồi mà vẫn nằm đây, trên chiếc tàu định mệnh không biết sống chết lúc nào! Mệt mỏi vì đói khát tôi gần thiếp đi trong giấc ngủ thì bổng nghe tiếng la thất thanh:

– Trời ơi! Con gái tôi chết rồi! Con ơi sao nở bỏ mẹ mà ra đi!

Mọi người đều giật mình mắt hướng về tiếng la. Một người đàn bà đang ôm đứa con gái 8 tuổi mà nước mắt lưng tròng. Chúng tôi xúm lại xem coi còn có thể cứu chữa em bé không! Hai môi em bé đã nứt nẻ chảy máu và đã chết cứng tự lúc nào! Mọi người dùng lời an ủi người mẹ và đề nghị: Con tàu không biết đến bao giờ cặp bến, chắc là không thể đem được em lên bờ để mà chôn cất. Thôi thì lấy đại dương làm nơi em yên nghỉ cuối cùng.

Tang lễ cho em bé diễn ra theo nghi thức của 2 tôn giáo. Không nhang, không đèn. Giữa biển khơi mịt mù tăm tối tiếng tụng kinh bằng Phạn ngữ của một vị sư đi cùng tàu sao thấy quá xót xa! Rồi bài kinh Vực Sâu thánh thót vang lên giữa tiếng khóc nức nở “Từ vực sâu u tối con cầu xin chúa, chúa ơi!….”

Một người thanh niên cởi chiếc áo khoác cuối cùng quấn vào thi thể em bé như muốn cho em thêm chút hơi ấm dưới lòng đại dương.

Chúng tôi thả thi hài em xuống biển, em nổi lên trôi lẩn quẩn bên thành tàu mấy phút như còn luyến tiếc những mối tình thâm, rồi chìm sâu vào lòng biển cả.

Em bé ơi! Nếu linh hồn em có linh thiêng xin hãy theo che chở cho chúng tôi, những người còn lại trên con tàu khốn khổ….

Ngày Thứ 8: cầu mưa

Tàu vẫn trôi bềnh bồng trên sóng biển. Đã mấy ngày không có giọt nước thấm giọng. Ở cuối chân trời vầng mây đen càng lúc càng lan rộng, cơn sóng biển càng lúc càng to báo hiệu thêm một cơn mưa. Nghĩ càng đau lòng. Người ta đi biển chỉ cầu mong biển lặng sóng yên. Còn chúng tôi trên tàu thì đang cầu có mưa. Mưa bão có thể làm chìm con tàu nhỏ bé, nhưng trước hết, có mưa mọi người thấy mình đỡ chết khát.

Mây đen phủ kín trời, con tàu nhấp nhô trên những đợt sóng bạc đầu khổng lồ. Rồi những giọt mưa nặng trĩu trút xuống khoang tàu. Tất cả há miệng ra để hứng từng giọt nước trời cho. Có người còn lo xa hơn, lấy những cái can đựng dầu mà chúng tôi cắt ra để hứng nước mưa phòng bị cho những ngày sắp tới.

Cơn lo chết khát đã qua đi! Cơn lạnh của đám mưa ướt đẫm cả người làm cho cơn đói càng thêm dữ dội hơn! Tôi thấy có người cạo rong xanh đóng vào thành tàu đưa vào miệng để ăn.

– Cái nầy có bổ dưỡng gì đâu mà ăn!

– Nó không bổ dưỡng nhưng để cho bao tử mình có cái gì làm việc. Đến khi được cứu, ăn đồ ăn vào sẽ không bị đứt ruột mà chết!

Nghe cũng có lý! Mọi người xúm lại cạo những vệt rong biển để ăn lót dạ. Chiếc tàu đóng đầy rêu xanh chỉ lát sau đã được mọi người cạo sạch như lau. Cơn đói cơn khát lại tiếp tục dầy vò, không biết đến bao giờ…

Ngày thứ 9-11: Ba ngày đêm bị hải tặc

Đây là ba ngày đen tối nhất trong hành trình vượt biển của chúng tôi! Ngày thứ 9: Thêm một tàu hải tặc xuất hiện. Hải tặc thay phiên nhau cướp bóc, hãm hiếp. Tôi không biết lấy lời gì để kể! Sang ngày thứ 10. Cùng vậy! Đoàn người trên tàu hoàn toàn kiệt lực rồi! Hải tặc muốn làm gì thì làm! Thêm ngày Thứ 11: Tôi chịu hết nổi!

Nhìn những em gái 14-15 tuổi quằn quại dưới bàn tay đen đúa của đám hải tặc Thailand. Những người vợ trẻ cặp mắt đau đớn nhìn chồng, và những người chồng ngoảnh mặt nhìn nơi khác mà đôi mắt lưng tròng! Tôi muốn lén đục bể chiếc tàu để cho mọi người cùng chìm sâu dưới lòng biển, để khỏi nhìn cảnh xót xa nầy! Nhưng mạng sống của hơn một trăm người còn lại, không cho phép tôi làm chuyện nầy!

Trời ơi! Chết không ra chết! Sống không ra sống! Biết bao lâu nữa chúng tôi mới tìm được bến bờ?

Ngày Thứ 12: Con rắn biển

Biển sao yên lặng quá! Không một bóng tàu. Lòng người thật mâu thuẫn. Cơn hãi hùng vì hải tặc cướp bóc, hãm hiếp mới đó, vậy mà bây giờ lại trông cho có bóng tàu.

Thấy tàu Thailand thì chúng tôi sợ, không thấy gì hết thì chúng tôi lo. Lo là không biết con tàu đã trôi vạt về đâu! Lỡ mà trôi ngược về hải phận VN thì thôi thà chịu cảnh cướp bóc, hãm hiếp trên biển Thái còn đỡ khổ và có chút hy vọng về tương lai hơn.

Mấy giọt nước mưa hứng từ cơn mưa bão mấy hôm trước giờ cũng đã cạn khô. Chúng tôi đã ăn tất cả những gì có thể ăn được, những rong rêu trôi lềnh bềnh cạnh tàu, mấy con sứa biển sống mặn đắng hôi tanh.

Có con rắn biển bằng ngón chân cái lội ngoằn ngoèo cạnh thành tàu. Một anh thanh niên nhảy ùm xuống biển, nắm đuôi đập đầu rắn vào thành tàu rồi ngắt bỏ đầu ăn sống không chừa một giọt máu.

Trời đất! Nó là con đèn cườm rất độc, nó mà cắn thì cho dù có ở trên đất liền cũng chưa chắc gì có thuốc chữa huống chi trên chiếc tàu lênh đênh trôi dạt như vầy! Tôi nghe kể là trước đây có chuyến tàu lạc trên biển lâu ngày, quá đói khát, có người đã ăn thịt người chết để mà cầm hơi. Lạy trời! Đừng để con tàu của chúng con lâm vào cảnh nầy.

Có con cá nút nhớt to hơn bắp chuối chân đang lội quanh quẩn chiếc tàu để nút chất dơ. Kiếm được một lưỡi câu sét và sợi dây gân ở dưới hầm tàu, tôi tớm lưỡi câu rồi lấy cái đầu rắn biển của anh thanh niên bỏ móc vào hy vọng sẽ câu được con cá.

Cá ơi! Làm ơn cắn mồi. Cắn mồi mầy sẽ chết, nhưng chúng tôi sẽ có thêm chút sự sống để chờ đợi phép lạ!

Con cá nhào lại táp mồi, dính câu! Mọi người la lên:

– Hay quá!

– Để em làm cá rồi lượt lên chia cho mọi người nghe!

Trời ơi! Con cá có bao lớn làm sao chia đủ cho 138 người? Tôi nghĩ không còn bao lâu nữa mọi người sẽ ngã gục vì đói khát trên con tàu vô phước nầy rồi!

Ngày Thứ 13: Lại tàu Thái nữa

Nhiều người đã lả vì đói nằm sắp lớp trên khoang tàu! Đêm về, gió mát và sương đêm làm cho mọi người cảm thấy đỡ hơn lúc ban ngày.

Từ đàng xa một chiếc tàu đánh cá Thái đèn đuốc sáng trưng cặp vào. Trên tàu đầy tôm cá còn nhảy tung tăng vì mới đổ một mẻ lưới cào. Hai người ngư phủ nhảy sang tàu và cột tàu của chúng tôi vào tàu họ! Thôi rồi! Lại bị cướp bóc hãm hiếp nữa! Nhiều người đói quá nhẩy sang tàu Thailand quơ những con tôm, con mực còn sống mà ăn. Đói quá rồi! Ăn trước cái đã rồi muốn sao thì sao.

Đùng! Đùng! Đùng! Ba tiếng súng nổ vang trời. Một anh thanh niên vừa đứng lên định nhẩy lên tàu Thái chợt ngã sấp xuống vĩnh biệt cõi đời!?

Trời! Ăn có mấy con tôm cá sống mà nỡ bắn chết người sao? Mọi người chết lặng không dám nhúc nhích.

Người thuyền trưởng một tay cầm cây súng shot gun bắn chỉ thiên, một tay ra dấu đừng có ăn mấy thứ đó và dùng tiếng Phổ Thông nói với mọi người hãy trở về tàu mình, ông đã kêu ngư phủ nấu cơm, chiên cá chút nữa sẽ phân phát cho tất cả mọi người!

Chúng tôi thiệt là hồ đồ: Kẻ cướp trước đây thì ngỡ là người ơn, kẻ làm ơn thì chút nữa đã đổ oan cho họ là kẻ cướp.

Chúng tôi vội trở về tàu của mình. Còn anh thanh niên hóa ra không phải chết vị súng bắn, mà chắc vì đói khát, sức lực chỉ còn đủ để đứng lên rồi ngã quỵ hoặc là quá sợ hãi vì tiếng súng rồi đứng tim mà chết!

Lại phải cử hành lễ an táng cho anh ta dưới lòng đại dương, nhưng lần nầy anh có được chút may mắn hơn em gái nhỏ đã ra đi là vì có người thuyền trưởng Thái tốt bụng thắp cho ba nén hương tàn!

Ngày thứ 14: Vị thuyền trưởng Thái

Bất cứ dân tộc nào cũng vậy! Có người tốt, người xấu, kẻ dữ, người hiền. Vị thuyền trưởng người Thái gốc Hoa sau khi kêu đám ngư phủ phân phát cơm nước cho chúng tôi ông ngồi nói chuyện, kể lại là trước đây có lần ông đi đánh cá, tàu bị hỏng trôi dạt vào hải phận Việt Nam, được những người lính Hải Quân VNCH giúp đỡ kéo tàu về đảo Phú Quốc để sửa dùm máy móc sau đó mới chỉ hướng cho ông ta lái tàu về hải phận Thailand. Ông ta nói từ đó lòng ông rất cảm động và biết ơn.

Sau khi nghe tin miền Nam VN thất thủ và có nhiều thuyền nhân vượt biển tìm tự do, tàu của ông thường luôn chuẩn bị thêm gạo, nước để có dịp gặp thuyền nhân là ông tiếp tế!

Ông không thể nào vớt người vượt biển được vì chính phủ Thailand có lệnh cấm nếu ông làm trái lệnh sẽ bị đi tù, nhưng ông có thể đợi đến gần sáng sẽ kéo tàu của chúng tôi vào vùng biển có nhiều tàu đánh cá qua lại hơn, hy vọng sẽ có những người ngư dân tốt bụng khác giúp đỡ hoặc là gặp tàu buôn, chiến hạm cứu giúp!

Nghe ông nói trong lòng chúng tôi gợi lên chút ánh sáng hy vọng… Người ngư phủ lấy giây cột mũi tàu của chúng tôi vào sau lái tàu đánh cá của họ. Vị thuyền trưởng mở máy chạy rồi kéo đi từ từ, ông không dám chạy nhanh vì thấy chiếc tàu của chúng tôi đã quá cũ kĩ và đang rỉ nước. Kéo nhanh lỡ nó chịu không nổi, phá nước thì nguy!

Đúng 10 ngày con tàu của tôi mới được rẽ sóng biển mà lướt đi mặc dù nó phải nhờ chiếc tàu khác kéo giúp! Nhìn con tàu rẽ sóng lướt đi mà lòng tôi chợt nao nao! Không biết lần nầy nó có rẽ đúng hướng để đi về một nơi có chút hy vọng hay là lại đưa chúng tôi vào cảnh khốn cùng như những ngày đã qua!

Kéo cả ngày trời, đến khi trời sắp tối vị thuyền trưởng mới ngừng lại tại một vùng biển mà ông cho là sẽ có nhiều tàu đánh cá hơn. Ông kêu 2 ngư phủ đem qua tàu của chúng tôi một thau lớn cơm nếp, cá muối chiên, một cái phi bằng plastic đổ nước đầy, một bao gạo 50 lbs.

Có người quá cảm động với tấm lòng tốt của ông, moi móc trong cái nón nỉ tờ $100 USD, số tiền mà cho dù đám cướp biển ghìm dao, chĩa súng trước đây ông cũng không chịu đem ra mà đưa cho vị thuyền trưởng để tỏ lòng cám ơn. Ông không chịu lấy và nói là “ráng cất giữ nó đi, nếu may mắn được đến bến bờ của trại tỵ nạn thì số tiền đó cũng rất cần cho đời sống của người tha hương”!

Trước khi từ giã, ông còn không quên đưa cho mấy cái diêm quẹt, nói lời chúc may mắn rồi mới tháo dây tiếp tục cho chuyến đánh lưới tôm cá ngoài biển khơi. Thì ra, bên cạnh những hải tặc Thailand độc ác không có tánh người cũng còn có những người ngư phủ, hiền hòa chất phác thi ân không cần đền đáp.

Đêm hôm đó chúng tôi ngủ rất ngon với niềm hy vọng là mình sẽ gặp được nhiều ngư phủ giống như vị thuyền trưởng mới quen và chắc cũng không bao giờ có dịp gặp lại lần thứ 2!

Ngày Thứ 15-23: bềnh bồng không người lái

Xin rút ngắn chuyện trong những ngày nầy vì bài đã quá dài! Dài như cuộc hành trình gian khổ của những người mất nước đi tìm tự do.

Con tàu không người lái chở sinh mạng của 137 người còn lại vẫn trôi bềnh bồng trên sống biển. Mặc dù chúng tôi có thêm được chút nước và gạo nhưng cũng không dám ăn uống nhiều vì không biết đến bao giờ mới được cứu giúp.

Thỉnh thoảng cũng thấy có một hai chiếc tàu đánh cá ghé ngang đưa mắt nhìn, có tàu đưa qua một thau cơm, mấy gói mì khô, một can nước rồi bỏ đi!

Có thêm chút thức ăn nước uống thì chúng tôi lại phải vất vả làm việc hơn! Chỗ bể của con tàu giờ đây rỉ nước nhiều hơn, phải 6 người thay phiên nhau tát nước suốt ngày đêm để cho mực nước trong tàu đừng dâng cao. Sự sống của chúng tôi sao chẳng khác gì những con kiến bám vào cành cây trên dòng nước lũ, không biết sẽ bị dòng nước cuốn đi lúc nào?

Ngày Thứ 24: kéo tàu đi núp bão

Vùng biển thỉnh thoảng có tàu đánh cá Thái hôm nay sao vắng lặng như tờ? Ở cuối chân trời mây đen che kín một vùng, lâu lâu một tia sét chớp sáng hiện lên như báo trước một cơn bão khủng khiếp sắp xảy ra.

Các tàu đánh cá chắc đã nghe tin tức khí tượng báo bão nên đã trở về đất liền hoặc là kiếm nơi ẩn núp. Chỉ còn con tàu vô định của chúng tôi giữa đại dương mênh mông. Chúng tôi thừa biết là con tàu chắc chắn sẽ chìm đắm trong cơn bão sắp tới nầy!

Từ đàng xa một chiếc tàu đánh cá Thái chạy thật nhanh đến bên tàu của chúng tôi. Trên tàu chỉ có 2 người, một tài công và một ngư phủ. Người ngư phủ nhảy sang tàu của chúng tôi, lấy 2 sợi dây thừng thật to cột chặt vào mũi tàu rồi nói xì xào gấp rút với chúng tôi bằng tiếng Thái. Cảm thấy chúng tôi không hiểu gì, anh móc trong túi áo ra miếng giấy và vẽ vào đó một hòn đảo nhỏ nằm chơi vơi giữa biển khơi rồi ra dấu là họ sẽ kéo dùm tàu của chúng tôi vào đó!

Anh nhảy sang tàu đánh cá, người tài công mở máy thật lớn kéo con tàu của chúng tôi đi! Hai sợi dây thừng căng thẳng, chiếc tàu kêu lên răng rắc, chỗ bể lòng tàu bị sức ép càng tràn nước vào nhiều hơn!

Chúng tôi xúm lại tát nước! Cơn mưa đã bắt đầu rơi hạt, gió thổi mạnh, những đợt sóng biển càng lúc càng to làm lắc lư cả hai con tàu. Mạng sống của 137 người như chỉ mành treo chuông. Chắc chắn con tàu sắp bể tan từng mảnh.

Trong mưa bão, bỗng thấy hiện lên một khối to đen. Hòn đảo nho đây rồi. Trong tàu chúng tôi nước càng dâng cao, sức người tát nước ta không kịp. Người tài công cho máy nổ thật lớn lấy trớn đưa con tàu chúng tôi đến gần đảo hơn, rồi chặt dây thừng quây tàu mình chạy ngược về đất liền.

Con tàu lảo đảo, nước tràn vào gần đầy, mọi người nhảy xuống biển. May quá bờ biển chỉ sâu ngập chưa tới đầu người. Chúng tôi dìu dắt, ôm nhau lội vào bờ. Con tàu vài phút sau đó thì an phận chôn sâu dưới lòng biển.

Người ngư phủ Thái vô danh ơi! Anh đã làm một việc thiện để rất nhiều ơn đức cho con cháu sau nầy! Anh đã cứu một lần 137 mạng người trong cơn thập tử nhứt sanh!

Chúng tôi ùa vào đảo tìm những hang đá, bụi cây để tránh cơn mưa như thác lũ. Gió rít nghe rợn người, ngoài khơi tiếng sóng vang rền. Không biết ngày mai sẽ ra sao trên hòn đảo hoang không một bóng người này. Cũng chưa ai trong chúng tôi biết đây chính là đảo Kra, một hòn đảo hoang cách tỉnh Songkhla khoảng một ngày tàu. Hải tặc Thailand thường dùng nơi nầy để tránh những cơn bão và lên đảo kiếm thuyền nhân lạc vào để cướp bóc và thỏa mãn thú vui xác thịt, từ đó nó có thêm cái nickname là Đảo Hải Tặc.

Do sự kể lại của các thuyền nhân đã đến nơi nầy trước đây nên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ thường cho máy bay ra đảo nầy để tìm kiếm người vượt biển. Con tàu của chúng tôi tới đảo vào những ngày mưa bão, sẽ phải gánh chịu bao cảnh hãi hùng nữa?! Đâu có máy bay nào dám bay trong thời tiết mưa bão cấp 5?!

Ngày thứ 25: Đảo Hải Tặc

Sau một đêm chui rúc trong những hang đá, bụi cây mình mẩy ướt như chuột lột, sáng hôm sau, dù cơn mưa vẫn như trút nước, chúng tôi vẫn đi ra khỏi hang đá, bụi cây coi trên đảo có những thứ gì.

Ngay khi vừa nhìn ra biển thì trời ơi! 15 chiếc tàu hải tặc đang bỏ neo song song với nhau! Hơn 30 chục tên hải tặc trên mình chỉ có chiếc quần lót giắt dao găm, mã tấu lội vào bờ. Bộ muốn giết chết hết chúng tôi hay sao? Sau 24 ngày đói khát chúng tôi chỉ còn da bọc xương, sức lực yếu sùi chỉ cần xô nhẹ cũng đủ ngã rồi, đâu cần phải dùng dao búa! Trong cơn mưa bão, bọn hải tặc tràn vào, bắt người đem đi chỗ khác cướp bóc hãm hiếp…

Cho phép tôi đừng kể những cảnh hãi hùng nầy!…

Đảo Hải Tặc, Ngày Thứ 2:

Cơn mưa bão quả nhiên dữ dội và kéo dài! Đã qua đến ngày thứ 2 rồi mà mưa vẫn to, sóng vẫn lớn. Đám hải tặc vẫn thay phiên nhau lội vào bờ bắt người đi vào những bụi cây cướp bóc hãm hiếp!

Trốn trong hang đá bên cạnh tôi có đứa em gái chưa đầy 14 tuổi, thân hình ốm nhom chỉ còn da bọc xương, vậy mà hải tặc cũng xóc nách lên đòi đem đi. Tôi đưa tay cản lại, không phải là tôi muốn làm anh hùng rơm mà ý của tôi là em còn nhỏ quá, ốm yếu đâu có sức lực gì, thôi tha cho em bé đi!

Tên hải tặc tưởng tôi có ý chống đối, rút trên lưng quần lót ra chiếc mã tấu, nhá nhá vào tôi làm tôi cũng hết hồn. Thôi thì… Tên hải tặc xóc nách em bé, em giẫy giụa, la khóc! Rồi không hiểu sao hắn bỏ em xuống đi tìm người khác!

Em bé trong hang đá xưa bây giờ chắc đã thành một người vợ, người mẹ. Bao năm qua, tôi vẫn nhớ sự bất lực của mình và hằng cầu mong cho em được hạnh phúc.

Đảo Hải Tặc, ngày Thứ 3: thêm 2 cô gái trẻ.

Những chiếc tàu hải tặc vẫn còn bỏ neo trên bờ biển! Cơn mưa bão vẫn tiếp tục nên chúng nó không cần phải sợ là có máy bay LHQ bắt gặp nên càng ra sức lộng hành! Từ ngoài khơi một chiếc tàu hải tặc khác chạy vào thả neo rồi bỏ 2 cô gái trẻ ôm phao lội vào bờ.

Hai cô nầy đã bị chiếc tàu hải tặc bắt đi cả tuần rồi! Bây giờ cũng không biết chiếc tàu và những người trên tàu của hai cô ra sao? Thì ra, đâu phải chỉ có riêng con tàu vượt biển của chúng tôi là gặp cảnh khốn đốn! Biết bao nhiêu ngàn người đã bỏ thây nơi biển cả mà không một ai biết tới.

Vậy là chuyến tàu của tôi trở thành con tàu không số KG139 (137 người còn sống sót trên tàu và 2 người bị hải tặc bắt đi rồi thả vào đảo)!

Đảo Hải Tặc, ngày Thứ 4: Máy bay!

Cơn giông bão đã qua. Mặt trời đã ló dạng ở chân trời. Ngoài bờ biển không còn một bóng tàu hải tặc nào. Chắc họ biết là cơn bão đã qua sợ máy bay LHQ nhìn thấy rồi chụp hình nên bỏ đi hết.

Chúng tôi kéo ra ngoài bờ biển để hít thở không khí trong lành của biển sau bao ngày trốn chui, trốn nhủi trong hang đá! Có người đói bụng quá thấy mấy cây đậu ma bẻ hạt ra ăn, trúng thực ói ra mật xanh, không chết là may!

Đến trưa thì chúng tôi nghe có tiếng máy bay vòng quanh hòn đảo nhỏ. Mọi người mừng rỡ chạy ra bờ biển, cởi áo ra quơ lên trên cốt ý cho viên phi công thấy. Chiếc máy bay đảo lại nhiều vòng rồi bay thật thấp như có ý nói là họ đã thấy chúng tôi, rồi cất cánh bay cao về đất liền. Mọi người hân hoan tay bắt mặt mừng. Cái giá quá đắt của 2 chữ Tự Do của chúng tôi sắp sửa được đền bù!

Ngày Cuối Cùng: Chết sau khi có ăn

Trời hừng sáng là chúng tôi đã thấy một chiến hạm thật lớn của hải quân Thailand do Cao Ủy Tỵ Nạn mướn đậu ở ngoài khơi! Họ thả hai chiếc ca nô xuống rồi chạy vào đảo nhỏ. Từng người dìu nhau ra ca nô mỗi lần 10 người, phụ nữ, trẻ em đi trước, sau đó thì mới tới đàn ông, thanh niên.

Trên tàu họ đã nấu cháo thật nhừ với cá muối chiên phân phát cho mỗi người chúng tôi. Họ biết chúng tôi đói khát lắm rồi nên không dám cho ăn nhiều chỉ phát cho mỗi người một chén cháo lỏng và nửa ly nước cam, bảo là nên ăn từ từ cho bao tử quen với cơn đói nhiều ngày.

Thật không may mắn cho một anh thanh niên, ăn uống xong anh ta ngã ra nằm thở hổn hển mặt mày nổi đen rồi trút hơi thở sau cùng!

Anh bạn ơi! 29 ngày gian nan, đói khát trên biển cả anh vẫn chịu đựng nổi, sao chỉ còn vài giờ để nhìn thấy bến bờ tự do thì anh lại vội bỏ ra đi! Người thủy thủ lấy tấm vải trắng che thân thể anh ta mà nước mắt lưng tròng!

Xa xa những hàng dừa xanh, những căn nhà hiện lên lờ mờ của bến cảng Songkhla! Từ đây, chúng tôi biết mình đã sống lại, như sang một kiếp khác.

* * *

Nhiều năm đã qua. Những người sống sót trên con tàu mỏng manh năm xưa không biết nay ra sao. Tại vùng Little Saigon, có lần trong một ngôi chợ VN rồi sau đó trong Home Depot, tôi được thấy lại một bóng hồng quen, đó là cô bạn gái của chàng Trung Uý Hải Quân đóng vai tài công trong chuyến tầu năm xưa. Nhớ lại 29 ngày đêm cùng chung một con tàu đầy sóng gió, khi gặp lại cô tôi có mở lời chào nhưng rồi cả hai lần đều cảm thấy cô nhìn đi chỗ khác. Có lẽ cô không còn nhớ, hoặc không muốn nhớ!…

Biết bao khổ nhục. Quên đi là phải. Gợi lại làm gì.

Tôi biết vậy mà vẫn viết lại những trang nhật ký này để tưởng nhớ đến 138 người bạn đã cùng tôi trải qua 29 ngày đêm lênh đênh trên biển cả, những người bạn đã may mắn đến được bến bờ tự do, và những người bạn đã gởi nắm xương tàn dưới lòng đại dương.

Chuyện của một tài xế taxi tại New York

Chuyện của một tài xế taxi tại New York

Một tài-xế taxi tại New York viết:

Tôi đến địa chỉ của khách hàng và nhấn kèn. Chờ vài phút sau, tôi lại nhấn kèn lần nữa. Vì đây là cuốc cuối cùng trong ngày, nên tôi định bỏ đi, nhưng rốt cuộc tôi đậu xe chờ, tôi bước tới cửa và gõ.

Một giọng nói của người lớn tuổi: “Một phút thôi.”

Tôi nghe vật gì đó kéo lê trên sàn nhà.

Khá lâu sau, cửa sịch mở. Một bà lão khoảng 90 tuổi, nhỏ con, đứng nhìn tôi. Bà mặc áo đầm in hoa, với chiếc mũ có rèm che, tựa như nhân vật trong những phim hồi thập niên 1940.

Bên cạnh bà là chiếc vali nhỏ bằng nylon. Căn hộ giống như chẳng có ai ở từ nhiều năm rồi. Tất cả đồ đạc đều được phủ bằng những tấm ‘ra’. Trên tường không có đồng hồ, trên các quầy không có những món đồ mỹ nghệ linh tinh hay dụng cụ nào. Trong góc có chiếc hộp đầy những hình chụp và vài món trang sức bằng thủy tinh.

“Ông có thể mang giúp hành lý ra xe được không?” bà hỏi, và tôi mang vali ra xe, xong trở lại giúp bà. Bà tựa vào tay tôi, chúng tôi đi chầm chậm tới phía lề đường. Bà không ngớt cảm ơn lòng tốt của tôi.

Tôi nói “Chẳng có gì đâu bà ạ, đơn giản là tôi cố gắng đối xử với hành khách giống như tôi muốn người khác đối xử với mẹ tôi vậy.”

“Ô, cháu là đứa trẻ tốt.”

Ra tới xe, bà cho tôi địa chỉ, rồi hỏi xem liệu tôi có thể băng qua trung tâm thành phố được không. Khi tôi bảo rằng lộ trình ấy không phải là ngắn nhất, bà nói “Không sao cả, bà không vội, bà tới trung tâm săn sóc tạm thời.”

Nhìn qua kiếng chiếu hậu, tôi thấy mắt bà long lanh. Bà nhẹ nhàng nói “Bà không có gia đình, bác sĩ bảo rằng bà chẳng còn bao lâu nữa.” Tôi lén thò tay tắt đồng hồ tính tiền, rồi hỏi “Bà muốn cháu đi đường nào?”

Suốt hai giờ đồng hồ sau đó, chúng tôi loanh quanh khắp thành phố, bà chỉ tôi tòa cao ốc, nơi trước đây bà làm người phục vụ trong thang máy. Chúng tôi đi qua khu phố, nơi mà xưa kia vợ chồng bà từng ở, khi họ mới kết hôn. Bà bảo tôi dừng xe trước một nhà kho đồ nội thất, mà nhiều năm về trước, là một phòng khiêu vũ, mà hồi con gái, bà từng đến. Đôi lúc, bà bảo tôi chạy chậm qua một tòa nhà, hoặc góc phố nào đó, trong khi bà ngồi im trong bóng tối, tia nhìn xa xăm.

Khi trời ngả về chiều tối, bà bảo là hơi mệt, và muốn tới nơi cần tới. Chúng tôi im lặng hướng tới địa chỉ ghi trên tờ giấy. Đó là tòa nhà nhỏ, giống như nhà phục hồi sức khoẻ, có hàng hiên dẫn vào lối đi nội bộ. Dường như biết trước bà sẽ tới, hai người điều dưỡng bước tới xe, ân cần giúp bà.

Tôi mở cốp xe và lấy vali mang tới cho bà, bà đã ngồi vào xe lăn.

Vừa mở túi xách, bà vừa hỏi “Bà gởi cháu bao nhiêu?”

– Không có gì đâu, bà ạ.

– Cháu phải sinh nhai mà.

– Vẫn còn khách khác, bà ạ.

Bỗng dưng tôi cúi xuống ôm hôn bà, bà xiết tôi thật chặt: “Cháu đã giúp cho một bà già có được những giây phút vui vẻ, bà cảm ơn cháu.”

Tôi xiết tay bà và quay đi. Sau lưng tôi, tiếng cánh cửa khép lại, đó là âm thanh của một cuộc đời đang chấm dứt.

Trên đường về, tôi không rước thêm khách nào nữa, miên man suy nghĩ, lái xe không định hướng, và chẳng mở miệng nói lời nào suốt buổi tối hôm ấy.

Liệu bà sẽ ra sao nếu trước đó đã gặp phải một tài-xế quạu quọ, hoặc đang vội vàng, không kiên nhẫn? Và nếu trước đó, tôi đã từ chối cuốc của bà, đã nhấn kèn nhiều lần rồi bỏ đi?

Sau khi suy nghĩ rất lâu, tôi cho rằng trong đời mình, cho tới buổi tối đó, tôi chưa bao giờ làm được điều gì quan trọng hơn nữa.

From: Phong Dương

Made In Việtnam – TRUYỆN NGẮN – TIỂU TỬ…

Van Pham

TRUYỆN NGẮN TIỂU TỬ…

Made In Việtnam

Lẽ ra bữa nay bác sĩ Lê không nhận bịnh nhân vì là ngày nghỉ trong tuần của ông. Nhưng hôm qua, trong điện thoại, nghe giọng cầu khẩn của người bịnh ông không nỡ từ chối. Người đó – ông đoán là một cô gái còn trẻ – nói chuyện với ông bằng tiếng Mỹ.

Cô ta hỏi ông nhiều lần:

– Có phải ông là bác sĩ Lee không?

Tên ông là Lê. Cái tên Việt Nam đó ở xứ Mỹ này người ta viết là ” Lee “, nên ông được gọi là ” ông Lee ” (Li). Ông ôn tồn trả lời nhiều lần:

– Thưa cô, phải. Tôi là bác sĩ Lee đây.

– Phải bác sĩ Lee chuyên về châm cứu và bắt mạch hốt thuốc theo kiểu á đông không?

– Thưa cô phải.

– Có phải phòng mạch của bác sĩ ở đường Green Garden không ?

Bác sĩ Lê, đã ngoài sáu mươi tuổi, tánh rất điềm đạm, vậy mà cũng bắt đầu nghe bực! Tuy nhiên, ông vẫn ôn tồn :

– Thưa cô phải. Xin cô cho biết cô cần gì?

Giọng cô gái như reo lên:

– Vậy là đúng rồi ! Con Cathy bị bịnh suyễn nói bác sĩ chữa bịnh hay lắm. Cả nhà nó, kể luôn ba má ông bà nó đều đi bác sĩ hết.

Đến đây thì ông bác sĩ già đó không kềm được nữa, ông xẵng giọng:

– Cám ơn cô. Bây giờ xin dứt khoát cho tôi biết coi cô muốn cái gì?

Giọng bên kia đầu dây như lắng xuống:

– Tôi xin lỗi bác sĩ. Xin lỗi. Tôi muốn xin bác sĩ cái hẹn cho ngày mai. Tôi bịnh…

– Mai là ngày nghỉ trong tuần, phòng mạch không có mở cửa. Ngày khác vậy.

– Ngày mai cũng là ngày nghỉ của tôi nữa, bác sĩ à.

– Cô đã bịnh thì cứ xin nghỉ để đi bác sĩ, ngày nào lại không được !

Một chút im lặng ở đầu dây bên kia rồi giọng người con gái bỗng nghe thật buồn :

– Họ đâu có cho nghỉ, bác sĩ. Họ nạt vô mặt :” Mầy muốn nghỉ thì mầy nghỉ luôn đi. Thiếu gì đứa muốn vào làm chỗ của mày. Mày biết không?”

Giọng nói như nghẹn ngang ở đó, rồi tiếp:

– Không có việc làm là chết, bác sĩ à…

Ông bác sĩ già làm thinh, suy nghĩ. Đầu dây bên kia, cô gái van lơn :

– Xin bác sĩ thông cảm. Tôi sợ bịnh nặng hơn, không đi làm nổi nữa là mất việc. Xin bác sĩ thông cảm. Xin thông cảm.

– Ờ thôi, để tôi ráng giúp cô. Sáng mai, chín giờ. Phòng mạch của tôi ở số…

– Cám ơn bác sĩ. Cám ơn ! Con Cathy có chỉ phòng mạch của bác sĩ rồi.

– Xin lỗi. Cô tên gì?

– Kim. K, I, M.

Bác sĩ Lê vừa ghi vào sổ hẹn vừa nghĩ:” Tội nghiệp ! Chắc lại đi làm lậu nên mới bị người ta hâm he như vậy. Theo cách phát âm thì cô này có vẻ là người Á đông. Tên Kim chắc là Đại Hàn. Để mình phải phone lại cô Cathy hỏi cho chắc ý kẻo gặp thứ lưu manh thừa dịp ngày nghỉ không có cô phụ tá, nó ‘su’ mình thì khổ ! “

***

Đúng chín giờ, chuông cửa phòng mạch reo. Ông bác sĩ già bước ra mở cửa. Đứng trước mặt ông là một cô gái á đông còn trẻ, ăn mặc theo kiểu ” punk “: quần áo có tua có tụi, tóc dựng đứng hỗn loạn như con gà xước, đeo nhiều vòng sên bằng bạc to như dây lòi tói, đầy cổ, đầy hai cườm tay, mang cái xắc đỏ cũng có tua có tụi. Bác sĩ Lê, quá đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi gì, thì cô gái nói bằng tiếng Mỹ rất lưu loát:

– Chào bác sĩ. Tôi là Kim, bịnh nhân đã gọi điện thoại cho ông hôm qua. Tôi có làm cho bác sĩ chờ không?

Bác sĩ Lê chưa hết ngạc nhiên, trả lời một cách máy móc:

– ” Không! Không!”.

Rồi ông bước tránh qua một bên:

– ” Mời cô!”

Vào phòng mạch, ông đưa cho cô cái áo blouse trắng ngắn tay :

– Cô đến phía sau bình phong bỏ hết quần áo chỉ mặc quần lót thôi, rồi khoác ngược áo blouse này, lưng áo nằm về phía trước.

Trong lúc cô gái loay hoay làm theo lời dặn, ông bác sĩ già gọi phone về nhà, nói bằng tiếng Việt:

– Bịnh nhân của anh tới rồi, đang thay đồ. Chắc một giờ nữa là xong. Em đợi anh về rồi mình đi chợ.

Cô gái bỗng ló đầu ra khỏi bình phong mỉm cười nhìn ông, gương mặt thật rạng rỡ, định nói gì nhưng rồi không nói, thụt đầu vào tiếp tục cởi quần áo.

Một lúc sau cô ta bước ra, mắt ngời lên sung sướng, nói bằng tiếng Việt, giọng như reo lên:

– Bác sĩ là người Việt Nam mà con cứ tưởng là người Tàu ! Tên ” Lee ” nghe Tàu trân!

– Ủa ! Vậy mà tôi cứ nghĩ cô là người Đại Hàn chớ!

Rồi cả hai cùng cười, cái cười rất sảng khoái. Tình đồng hương trên đất khách bỗng thấy thật ấm, thật đầy…Ông bác sĩ già nhìn cô bịnh nhân trẻ mặc áo blouse trắng đứng trước mặt ông mà không còn thấy cô gái ” punk” hồi nãy nữa!

Ông đưa cho cô cái dĩa, rồi vừa chỉ cái giường cao vừa nói :

– Cô cởi hết đồ nữ trang để vào đây, rồi lên nằm trên này để tôi chẩn mạch.

Cô gái làm theo như cái máy.

Phòng mạch được trang trí rất đơn sơ, nhưng thật yên tịnh. Trong không khí có mùi thơm dìu dịu của moxa (ngải cứu, đốt lên để hơ huyệt). Cái giường khám bịnh cao ngang tầm tay của bác sĩ. Ở một đầu giường có gắn thêm một vòng bằng da để chịu cái đầu của bịnh nhân, và khi bịnh nhân nằm sấp để châm cứu trên lưng thì mặt người bịnh nằm trọn trong vòng da. Như vậy, người bịnh không cảm thấy khó chịu nhờ khoảng trống ở giữa vòng da giúp người bịnh vẫn thở đều đặn và mắt được nhìn thoải mái xuống sàn nhà.

Bác sĩ đặt hai bàn tay lên cánh tay trần của cô gái, ôn tồn hỏi :

– Cô bịnh làm sao ? Nói tôi nghe.

– Con ngủ không được, đêm nào cũng trằn trọc tới khuya. Hay bị chóng mặt. Đang đứng làm việc, tự nhiên muốn sụm xuống làm sợ toát mồ hôi. Con lo quá, bác sĩ. Mất việc làm chắc con chết quá, bác sĩ!

Ông Lê bóp nhẹ cánh tay bịnh nhân:

– Cô yên tâm. Có tôi đây. Mà…cô có uống rượu không ?

– Không. Dạ thưa không.

– Cô có hút thuốc không?

– Dạ thưa có. Hút cũng nhiều…

– Cô có xì ke ma túy gì không? Nói thiệt tôi nghe.

– Mấy thứ đó con không dám rớ. Hồi ở bên nhà thằng anh con chết vì ba cái thứ ôn dịch đó, bác sĩ à. Vì vậy, con sợ lắm!

– Cô le lưỡi tôi coi.

– Ùm. Được rồi. Bây giờ cô nằm yên, để hai tay xuôi theo thân mình, nhắm mắt, thở đều đặn.

Ông bác sĩ già đứng cạnh giường đặt mấy đầu ngón tay lên cườm tay cô gái, chăm chú bắt mạch. Một lúc sau, ông bước vòng qua phía đối diện bắt mạch tay bên kia. Bộ mạch nói lên một sự rối loạn tâm thần. Cô gái này chất chứa quá nhiều ẩn ức nên sanh bịnh.

Ông nhìn cô gái đang nhắm mắt thở đều : gương mặt Việt Nam đó, bỏ đi món tóc “punk”, vẫn toát ra nét nhu mì dễ thương. Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại.

Ông nói:

– Bây giờ, cô nằm sấp xuống để tôi châm trên lưng.

Cô gái mở choàng mắt nhìn ông, mỉm cười, một nụ cười đầy tin tưởng. Ông bác sĩ nói tiếp :

– Cô đừng sợ. Châm không có đau. Còn nhẹ hơn kiến cắn nữa.

Cô gái trở mình nằm sấp, hai vạt áo blouse rớt xuống hai bên, bày ra cái lưng thon thon với nước da ngà ngà. Theo thói quen, trước khi châm, bác sĩ vuốt lưng bịnh nhân vài lần để bịnh nhân đỡ bị stress. Lần này, khi vuốt xuống thắt lưng, ông để ý thấy dưới làn vải mỏng của quần lót có một vết bầm nằm vắt ngang phía trên của mông. Ngạc nhiên, ông hỏi :

– Cô bị ai đánh hay sao mà bầm vậy ?

Cô gái cười khúc khích :

– Bác sĩ coi đi !

Ông già kéo quần lót xuống một chút, thì ra không phải vết bầm mà là hàng chữ xâm màu chàm : Made In VietNam ! Ông bật cười, vừa kéo lưng quần lót lên vừa nói :

– Cha… Bạo quá há !

Cô gái hơi rút cổ cười khúc khích vài tiếng nữa rồi im. Chắc cô đang sống lại với một vài kỷ niệm nào đó. Ông bác sĩ già áp hai lòng bàn tay lên lưng bịnh nhân, nhưng bây giờ sao ông không còn thấy cười được nữa. Hàng chữ ” Made In VietNam” nhắc cho ông rằng con người nằm đây là sản phẩm của quê hương ông, cái quê hương đã mấy chục năm xa cách, cái quê hương mà ở đó ông không còn ai để nhớ, nhưng ông còn quá nhiều thứ để nhớ. Những thứ cũng mang dấu ấn ” Made In VietNam “, từ con trâu cái cày, từ mảnh ruộng vườn rau, từ hàng cau rặng dừa, từ con đường đất đỏ đến con rạch nhỏ uốn khúc quanh quanh…Chao ơi ! Bỗng nhiên sao mà nhớ thắc thẻo đến muốn trào nước mắt…

Ông bác sĩ vuốt lưng cô bịnh nhân thật chậm để cho niềm xúc động lắng xuống tan đi. Ông có cảm tưởng như ông đang sờ lại được quê hương, có chỗ cao chỗ thấp, có phù sa đất mịn…Tự nhiên, ông muốn nói lên một tiếng ” cám ơn “. Ông muốn cám ơn cô bịnh nhân đã mang quê hương đến với ông bằng hàng chữ nhỏ xâm trên bờ mông, chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ nhỏ.

Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi :” Tôi cũng made in VietNam đây !”. Nhưng rồi ông làm thinh tiếp tục vuốt lưng người bịnh. Ông biết rằng cô gái không thể nào hiểu được ông, một bác sĩ già vừa quá sáu mươi, đã gần nửa tuổi đời lưu vong trên xứ Mỹ, có đầy đủ tiền tài danh vọng mà cũng xâm hàng chữ ” Made In VietNam”, xâm ở trong lòng…

Bác sĩ im lặng dò huyệt châm kim. Bỗng cô bịnh nhân nói, giọng buồn buồn, làm như cô vừa xem lại hết một đoạn phim đời nào đó

– Thằng bồ của con xâm cho con để làm kỷ niệm hồi tụi này còn ở Louisiana. Ảnh là thợ xâm…

– Ủa ! Rồi sao bây giờ cô ở đây ?

– Con theo ba má con dọn về Cali, ổng bả nói ở Cali bạn bè nhiều làm ăn dễ.

– Ờ…người Việt mình thích ở miền nam Cali lắm.

Ngừng một chút bác sĩ lại nói, trong lúc hai tay vẫn tiếp tục châm kim :

– Ở Cali khí hậu tốt hơn nhiều tiểu bang khác. Mà…ba má cô làm gì ?

Cô gái làm thinh một lúc mới trả lời, giọng ngang ngang :

– Qua đây rồi ổng bả đá đít nhau. Bả lấy thằng Mễ chủ pressing , còn ổng thì chó dắt ổng ôm được một bà Mỹ goá chồng có tài sản.

– Vậy rồi cô ở với ai ?

– Với ba con. Bà Mỹ cho con đi học college, ba con lái xe đưa rước.

– Vậy mà sao hôm qua, trong phone, cô nói cô đi làm ?

Giọng cô gái như nghẹn lại :

– Khổ lắm bác sĩ.

Cô ngừng một chút để nén xúc động rồi nói tiếp :

– Ba con ỷ có bà Mỹ nuôi, không chịu đi làm. Tối ngày cứ đi nhậu với bạn bè, rồi nay đổi xe, mai đổi xe…Con nói ổng, chẳng những ổng không nghe mà còn chửi con: “Tiên Tổ mày ! Tao đem mày qua đây đặng mày dạy đời tao hả !”

Lại ngừng một chút mới nói được, nói như trút hết ẩn ức còn lại :

– Có lần ổng xáng cho con mấy bạt tay đau điếng…

Rồi nghẹn ngào :

– Lần đó, con bỏ nhà đi hoang…

Nói xong, hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra một cái như vừa làm xong một việc gì thật khó !

Ông bác sĩ im lặng, tiếp tục châm, mà nghe thương hại cô bịnh nhân vô cùng. Cô ta cỡ tuổi con gái út của ông. Con gái út của ông đang học đại học, còn cô này thì đang sống trong hoàn cảnh quá bấp bênh. Cả hai đều Made In VietNam hết !

Châm xong, ông đặt tay lên cánh tay trần của bịnh nhân, vuốt vuốt như vuốt tay một đứa con đang cần được vỗ về an ủi :

– Cô cứ nằm yên như vầy độ mười lăm phút, nghen.

Tiếng ” dạ ” bỗng nghe như đầy nước mắt.

***

Sau khi gỡ kim, ông bác sĩ bóp tay bóp chân bịnh nhân một lúc rồi nói :

– Bây giờ thì cô mặc quần áo vào được rồi.

Cô gái ngồi lên nói ” cám ơn ” mà đôi mắt vẫn còn mọng nước. Cô bước vào sau bình phong, chậm rãi mặc quần áo, làm như cô muốn những xúc cảm hồi nãy có thời gian để thấm sâu vào lòng…

Khi cô bước ra, gương mặt cô đã trở lại rạng rỡ. Cô mỉm cười nhìn ông bác sĩ, rồi, vừa mở cái xắc đỏ vừa hỏi :

– Bao nhiêu vậy, bác sĩ ?

– Không có bao nhiêu. Chừng chữa xong rồi cô hãy trả.

– Bác sĩ cho con trả mỗi lần, chớ đợi hết bịnh, tiền đâu con trả. Cái thứ đi làm lậu như con…

– Cô yên tâm. Rồi mình tính.

Ông bác sĩ đưa dĩa nữ trang :

– Cô đừng quên mấy thứ này.

Cô gái phì cười, không đeo vào người mà trút hết vào xắc, rồi hỏi :

– Chừng nào con trở lại nữa, bác sĩ ?

– Tuần tới, cũng ngày này giờ này.

Bác sĩ mở tủ thuốc, chọn lấy ra hai chai có dán nhãn sẵn, trao cho bịnh nhân :

– Trên nhãn có ghi liều lượng: mỗi ngày, cô uống sáng trưa chiều, mỗi thứ hai capsule.

Ra đến cửa phòng mạch, ông bác sĩ già cầm bàn tay cô bịnh nhân trong hai bàn tay của ông, lắc nhẹ :

– Bớt hút thuốc đi, nghen ! Từ từ rồi tôi sẽ chữa cho cô vụ ghiền thuốc nữa.

Ngập ngừng một chút rồi ông nói, giọng ôn tồn :

– Tôi muốn nói với cô điều này…

Cô gái chớp chớp mắt chờ. Chắc là lần đầu tiên cô được một ông già cầm tay một cách ân cần như vậy. Bác sĩ nói :

– Mình là người Việt Nam, ăn mặc theo ” punk ” không hạp với con người với bản chất của mình chút nào hết. Cô đâu có xấu mà cô làm cho xấu đi, uổng lắm ! Mình phải xứng đáng là Made In VietNam, chớ cô.

Cô gái nhìn vào mắt ông bác sĩ, không nói gì hết, chỉ siết tay ông già một cái thật mạnh, rồi bước ra xe, một chiếc xe hơi cũ mèm phải đề tới bốn lần mới nổ máy !

***

Ông bác sĩ Lê ngồi uống cà phê với tôi ở khu Phước Lộc Thọ (Orange County – Nam Cali ). Ông kể tiếp :

– Anh biết không, lần sau cô Kim đến phòng mạch, ăn mặc chải gỡ rất dễ thương. Chẳng có chút gì ” punk ” hết ! Lần khám bịnh đó, tôi có hỏi cổ sao không về sống với thằng bồ ở Louisiane có phải hơn là sống cù bơ cù bất ở Cali. Cổ nói như mếu :” Ảnh có vợ rồi “. Tôi biết : như vậy là cổ kẹt thiệt. Tôi đem chuyện này kể cho vợ tôi nghe. Bả cảm động lắm nên đề nghị giúp tiền cho cổ học một cái nghề gì đó, uốn tóc, làm nail chẳng hạn, để có công ăn việc làm vững chắc hơn là đi làm lậu tầm bậy tầm bạ.

Tôi nói chen vào :

– Chắc gì cổ chịu. Nghe anh kể, tôi đoán chị này cũng tự ái lắm.

– Anh nói đúng. Cổ từ chối hoài. Sau nhờ vợ tôi mời cổ về nhà khuyên nhủ, coi như là trong thân tình, cổ mới chịu. Hôm đó, cổ ôm vợ tôi vừa khóc vừa nói :” Con cám ơn ông bà. Cám ơn ông bà “.

– Sau đó cổ có đi học thiệt không ?

– Có. Học làm nail. Học giỏi nữa là khác.

– Cổ bây giờ ra sao rồi ?

– Mới đầu làm thợ, làm công cho người ta. Bây giờ vừa làm thợ vừa làm chủ. Khá lắm !

– Mừng cho cổ, há !

– Cổ xách đồ nghề tới làm nail cho vợ tôi, con út và hai con dâu tôi thường lắm. Làm không lấy tiền. Cổ cứ nói với mấy con tôi :

– ” Tôi chịu ơn ông bà bác sĩ biết đời nào mới trả cho hết, mấy cô biết không ? Tôi không dám nói ra, chớ mỗi lần tôi cầm bàn tay của bà bác sĩ để làm nail, tôi vẫn nghĩ không có bàn tay này thì làm gì tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh của tôi hồi đó để có những gì tôi có hôm nay…”

– Dễ thương quá!

– Noel, ngày Tết… cổ đều mang quà đến tặng vợ chồng tôi.

– Con người ở có tình có nghĩa quá, anh há!

– Đã hết đâu ! Cổ còn nhớ đến ngày giỗ của ba má tôi nữa. Mấy ngày đó tụi con tôi có đứa quên chớ cô ta không bao giờ cô ta quên. Ngày đó, cô đem đồ tới cúng và ở lại phụ vợ tôi nấu nướng dọn giẹp nữa. Cho nên vợ tôi quí cô ta lắm !

Nói xong, bác sĩ Lê vỗ vai tôi, cười :

– Anh thấy không ? Cô ta mới đúng là ” Made In VietNam ” đó ! Còn nguyên chất, hè !

Ông Lê vui vẻ cầm tách cà phê vừa nhâm nhi vừa nhìn quanh. Người Việt Nam đi đầy trong thương xá. Cung cách có hơi khác nhưng nói năng thì y hệt như ở bên nhà. Một vài tiếng chửi thề rơi rớt đâu đó, nghe rất tự nhiên. Bỗng ông quay sang hỏi tôi mà nghe như ổng tự hỏi ổng :

– Không biết ở xứ Mỹ, ở hải ngoại này, đồng hương lưu vong, có ai lâu lâu nhớ lại rằng mình “Made In VietNam “, không ?

– Có chớ anh ! Nhưng cũng có người chẳng những không nhớ mà còn tự đóng cho mình con dấu ” Made In USA ” nữa, anh à. Thứ đó bây giờ thấy cũng nhiều!

Tôi đưa tách lên môi uống ngụm cà phê cuối cùng, bỗng nghe cà phê sao mà thật đắng…

CHUYỆN TRÊN CHUYẾN BAY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

CHUYỆN TRÊN CHUYẾN BAY

Tôi không có thói quen giao lưu với người ngồi cạnh trên máy bay nhưng vẫn thường để ý một chút, lúc vừa ngồi xuống… trưa nay, cạnh tôi là một anh Tàu sồn sồn, bụng to, đầu hói. Anh đi với một cô gái trẻ, đẹp vô hồn, có lẽ người Việt. Tôi chẳng nghe họ trò chuyện gì. Đang thiu thiu, tôi giật mình vì mấy cái vỗ nhẹ. Là cô gái. Nhìn qua, tôi thấy ghế cạnh mình đang trống. Với vẻ mặt căng cứng, em chồm qua đưa tôi cái gì đó giấu trong tay và thì thào:

– Anh là Việt Nam phải hôn?

Đúng rồi em.

-Anh làm ơn cầm giùm em cái này đi. Cầm lẹ đi anh.

Nhìn ánh mắt và nghe giọng nói khẩn cầu, tôi cầm. Là tiền. 200 đô Mỹ. Cái gì vậy em?

-Anh cất vô liền đi. Em đọc số điện thoại của má em. Anh nhớ rồi chuyển nó cho má em giùm nha anh.

Tôi lấy điện thoại ra và làm theo như một cái máy rồi quay sang em tôi thắc mắc: Sao không đợi qua đến Hong Kong rồi nhờ dịch vụ chuyển về.

– Hổng được anh ơi, em khổ lắm. Em lấy thằng này là Tàu Mã Lai, nó đi đâu cũng bắt em theo. Ở nhà em cũng không ra ngoài được đâu, như ở tù vậy đó. Nó ghen lắm. Đ.ánh đ.ập em hoài. Nè, anh nhìn tay em còn bầm nè. Nó mới qua Saigon công tác rồi kêu má em lên, cho chỉ có được một triệu bạc. Tiền hai trăm này là em mới ăn cắp của nó đó…

Tôi ngóng về phía restroom rồi quay sang em: trời ơi, nó biết rồi làm sao?

– Em liệu được anh ơi.

Sau khi kéo kỹ khoá chiếc túi xách, tôi hỏi em thêm một câu, sao em không bỏ về Việt Nam đi?

Em nghèn nghẹn:

-“Bỏ nó thì dễ nhưng em đâu bỏ con mình được anh? Nhiều lúc em muốn ôm con nh.ảy l.ầu luôn”.

Thôi em ơi, không được, không được nghĩ vậy. Em nhớ là còn ba má.

Nói tới đây, thoáng thấy cái đầu hói vừa lú ra khỏi cửa buồng vệ sinh, tôi liền nhắm mắt lại..

Bạn nghĩ sao?? Khi tôi vừa tiếp tay cho một vụ ăn cắp Nhưng… hai trăm, hai chục ngàn hay hai ngàn cũng không bù đắp nổi những đòn roi và nhục nhằn em đã và đang gánh chịu. Em có thể đòi công bằng cho mình, bằng bất cứ cách nào…và tôi biết, hàng ngàn những cô gái Việt Nam cũng đang ngập ngụa trong những đắng chát này, như em…

Cuộc sống là dòng sông, đời người là dòng chảy. Chỉ có dòng chảy mới biết đáy của dòng sông chỗ nào có thắc có gềnh. Không phải ai cũng có thể soi trước cái bến mình sắp cập vào, không phải cuộc hy vọng đổi đời hoặc báo hiếu cha mẹ nào cũng toại thành…

…Trách ai đây??…

Chi Nguyen sưu tầm.

#Ncctvnet

Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu

Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu

Taberd75 (FB Victor Đoàn)

LGTBài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…. Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….

Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.

 Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.

 Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

 Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.

 Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.

 Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị

 Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….

 Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.

Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:

– Ông bà từ đâu tới.

– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.

– Thưa ông bà tôi từ Texas.

 Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.

– Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.

– Thưa ông tôi là người Việt Nam.

 Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.

– Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.

 Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.

 Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.

 Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.

 Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.

 Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.

 Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.

 Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.

Gặp lại nhau tôi lên tiếng:

– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này…

Ông ôn tồn giải thích:

– Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.

Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:

– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?

– Con trai tôi tên là Mikes Wright, tử trận ở Việt nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…

 Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.

– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.

– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.

 Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.

– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…

– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.

– Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.

 Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:

– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mikes Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.

 Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.

– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.

– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.

 Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.

– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.

– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?

– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.

– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa. 

Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.

– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!

– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.

– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.

– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.

 Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không.

 Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.

Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:

– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.

 Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.

– Đúng là chị tôi rồi.

 Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.

Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

 Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.

– Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!

 Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

 Taberd75 (FB Victor Đoàn)

From: thanhlamle.le & ThuNNguyen

GẶP LÀNH

GẶP LÀNH

Năm 2020 tôi có đăng một bài tựa đề là “Thầy Tôi” trên group “Phước Tuy quê hương tôi” viết về người thầy dạy môn Pháp Văn của mình : thầy Trần Ba. Tôi viết về thầy bởi vì vào năm 1977, có một câu chuyện buồn mà thầy là nhân vật chính, nói đúng hơn thầy là một nạn nhân của sự thù hận của bên thắng dành cho bên thua. Một lý do khác, tôi mong qua bài viết, hy vọng có ai đó sẽ đọc được và cho tôi biết tin tức của thầy.

Nhắc lại câu chuyện buồn này một chút, vào một ngày của năm 1977, cả trường đang trong giờ học, có 2 người bộ đội hay công an gì đó vào thẳng văn phòng giáo viên bắt thầy Trần Ba và giải thầy từ văn phòng ra sân trường trước sự chứng kiến của nhiều học trò và thầy cô. Hôm đó tôi ngồi cạnh cửa sổ nên đã nhìn thấy rõ mọi việc, thầy còn dắt theo chiếc xe đạp cũ không có cạc te đi giữa 2 tay công an. Lúc đó, tôi đã lờ mờ đoán được thầy bị bắt vì cái tội gọi là “phản động” hay “xê i a” gì đó. Những năm đầu sau 75, người dân bị bắt không có gì lạ, có thể bị bắt vì một lý do vu vơ nào đó, không cần trác toà hay công tố. Công an bao luôn công việc của ngành tư pháp. Trong chuyện này, chỉ có một điều làm tôi ưu tư mãi là tại sao người ta không bắt thầy ở một địa điểm nào khác, chẳng hạn như bên ngoài trường hoặc tại nhà riêng, mà lại bắt một người giáo sư trung học trước mặt các học trò của mình trong sân trường? Không lẽ người ra lịnh bắt thầy chưa bao giờ đi học và chưa bao giờ có thầy cô? Vô lý, không học sao làm sếp được! Chỉ còn một lý giải nghe có lý : lòng thù hận.

Trước khi đăng bài “Thầy Tôi” lên group Phước Tuy, tôi chưa có tin tức gì của thầy Trần Ba kể từ ngày thầy ra tù năm 1982, sau 5 năm bị giam cầm ở Biên Hoà. Ngày thầy ra tù, tôi và 2 người bạn có đến thăm thầy nhưng không dám nói chuyện nhiều vì …sợ công an theo dõi. Sau lần gặp đó, tôi không còn cơ hội gặp thầy lần nào nữa vì ai cũng phải lo đi tìm kế sinh nhai. Một thời gian sau, nhờ bài đăng trên group Phước Tuy, tôi nhận được tin nhắn của một người thuộc thế hệ đàn anh cùng quê Phước Tuy, anh nhắn cho tôi số phone và nơi ở của thầy thuộc tiểu bang Oregon bờ tây nước Mỹ. Mừng quá, tôi vội vàng gọi ngay cho thầy. Thật may mắn, người bắt máy hôm đó chính là thầy. Thầy nhớ ra tôi ngay, vì lúc đi học thầy trò chúng tôi thường đi lao động, ăn cơm và nói chuyện với nhau. Hồi đó thầy hay gọi tôi bằng tiếng “con” nghe rất thương, bây giờ thầy cũng gọi tôi như vậy.

Hôm đó thầy trò chúng tôi nói chuyện với nhau hơn 2 tiếng đồng hồ. Thầy kể lúc bị bắt, thầy hoàn toàn không biết vì lý do gì, phạm tội gì. Nhưng sau này thầy biết có một người đã báo cho công an là thầy làm “xê i a” cho đế quốc Mỹ. Họ đã điều tra thầy suốt 5 năm trời mà không tìm ra một bằng chứng nào để kết tội, cuối cùng đành phải thả thầy ra. Sau khi ra tù, dù vô tội, thầy vẫn không được đi dạy lại nên phải làm nghề “buôn chuyến” để kiếm sống. Các con của thầy vì mang “lý lịch xấu” do có cha “phản động” ở tù nên cũng không thể học hành và xin việc làm được. Cuộc sống của gia đình thầy thời gian đó rất khó khăn. Trong một lần đi buôn chuyến, thầy bị một người học trò cũ ở Đất Đỏ làm cán bộ thuế vụ tịch thu hết hàng hoá. Hết vốn, thầy đành phải trở về Đất Đỏ làm rẫy. May mắn thay, đến năm 1997 thầy và vợ thầy được sang Mỹ theo diện di dân do người em vợ của thầy bảo lãnh, nhưng các con của thầy vẫn còn ở lại.

Thầy trò thường nhắc lại kỷ niệm cùng đi lao động ngày xưa, dù thiếu ăn nhưng ai cũng phải ráng cuốc nhằm đạt thành tích “lao động tiên tiến” để lấy điểm. Thời đó lao động là vinh quang, chỉ có đào bới xới cuốc đổ mồ hôi hột mới được gọi là “lao động”, còn những nghề khác như y tá, bác sĩ, dạy học…đều là “phi lao động”.

Tết vừa rồi, thầy cho tôi biết các con của thầy đã được sang Mỹ, cả gia đình đoàn tụ và có cuộc sống ổn định. Thầy còn nói cho tôi biết tên của tay công an huyện đã đến trường bắt thầy ngày hôm đó. Tôi nghe xong giựt mình. Thì ra tay công an đó có bà con họ hàng với bên ngoại của tôi, tôi gọi ông ta là cậu. Sau khi bắt thầy vào tù chỉ một thời gian ngắn, tay công an này đã bị tai nạn xe mất mà chưa kịp hưởng thành quả cách mạng của mình.

Cứ mỗi lần nói chuyện phone với thầy, câu cuối cùng trước khi từ giã mà thầy hay nói với tôi là :”Ở hiền gặp lành nhen con”. Tôi nghĩ thầy đã trải qua một khoảng đời tựa như một bi kịch, nhưng cuối cùng lại là một kết thúc có hậu : GẶP LÀNH.

(Hình các giáo sư trường trung học Đất Đỏ, Phước Tuy năm 1968. Thầy Trần Ba đứng thứ 3 từ trái sang)

KỶ YẾU MỘT “H O”

 

KỶ YẾU MỘT “H O”

PHƯỚC AN THY.

Cha Mẹ tôi vốn là phú nông, còn buôn bán thêm từ Huế ra Vinh.

Hồi nhỏ, tôi học trường Don Bosco tại Quảng Trạch – Quảng Bình, do các Cha và các Thầy dòng dạy.

Tháng Bảy 1954, hiệp định Genève ngừng bắn, gia đình tôi Di cư vào Nam lập nghiệp tại Kim Long – Huế.

Vào Nam tôi học các trường Nguyễn Công Trứ – Phan Thanh Giản

– Sao Mai.

Ra trường đi làm và tự lập.

Năm 1959, Cha Mẹ từ Huế vào cưới vợ cho tôi tại Ðà Nẵng.

Ðến năm 23 tuổi, tôi được động viên học khóa 12 Trần Hưng Ðạo – Sĩ quan Thủ Ðức.

Tháng Tám 1960 ra trường với cấp bậc Chuẩn úy.

Ðược tuyển chọn một trong số 10 người trên 1250 sinh viên, về ngành An Ninh Quân Ðội ANQĐ – Bộ Quốc Phòng.

Ðậu thủ khoa trên 25 Sĩ quan và trên 100 Hạ sĩ quan, tôi được Ðại tá Ðỗ Mậu – Giám đốc Nha ANQÐ – Bộ Quốc Phòng, sau là Thiếu tướng thông tin, trao bằng Danh dự cùng quà tặng trước sự hiện diện của Quân nhân, gia đình binh sĩ và ban Văn nghệ bậc nhất thời bấy giờ.

Ra trường, tôi được Ðại úy Dương Tiến, sau là Trung tá Chánh Sở I ANQÐ, giới thiệu về làm việc ở Sở I ANQÐ.

Tôi được chỉ định làm Trưởng Ban I/ Phòng Nhân viên, theo dõi điều chỉnh hồ sơ, vẽ sơ đồ..

Sau một thời gian, tôi nhận được công điện thuyên chuyển về cục ANQÐ tại Saigon, được “bố trí” trưởng ban I, phòng bảo vệ do Ðại úy Phạm Thành Kiếm làm Trưởng phòng.

Tại Cục ANQÐ, tôi được yêu cầu huấn luyện cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan về đề tài bảo vệ Cơ sở.

Sau đó lại được hoán đổi về Sở I ANQÐ tại Ðà Nẵng, Sở yêu cầu tôi tổ chức liên tục các khóa An ninh căn bản cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan An ninh trong đơn vị, trong số học viên khóa tu bổ tại Ðà Nẵng có Trung tá Tài là cấp bậc lớn nhất.

Mỗi khóa học một tháng, số học viên từ 40 đến 50 người, bằng cấp do Trung tá chánh Sở ký, với kiến thị của Trung tướng Tư lịnh Quân đoàn I.

Sau đó tôi được theo học hai khóa cấp I và cấp II tình báo tại trường Quân báo Cây Mai, rồi Du học tại trường phản tình báo Okinawa – Nhật Bản, tốt nghiệp hạng ưu.

Ðại tá Chu Văn Sáng về làm Chánh Sở I ANQÐ, gia đình tôi được cho ở trong dãy nhà Sĩ quan tại sở.

Trong 17 năm làm việc tại Sở I ANQÐ, tôi đã giữ các chức vụ:

Phụ tá Trưởng ty ANQÐ Quảng Trị, phụ tá Trưởng Phòng An Ninh Quân đoàn cho Thiếu tá Hồ Văn Thống, Trưởng phòng Ban Khai Thác, Chánh văn phòng.

Ngày 1 tháng 3, Ðại tá Sáng vào Nha Trang nhận chức Chánh Sở II ANQÐ, tôi vào nhận chức Trưởng chi ANQÐ Ninh Hòa.

Sau đó tôi làm Trưởng ban phản tình báo Cam Ranh – Khánh Hoà cho tới ngày “mất nước”, thầy trò dắt nhau đi ở tù “cải tạo.”

Sau 30/4/1975, vợ và các con tôi không nhà, không nơi nương tựa phải đi “kinh tế mới”.

Mấy mẹ con lên kinh tế mới được một năm thì vợ tôi bị bịnh sốt rét, và qua đời tại bịnh viện Khánh Hòa.

Cha Mẹ tôi đưa xác về chôn cất tại Cam Ranh.

Một người vợ hiền lành, mảnh mai, lâm cảnh cơ hàn, chết bơ vơ trong cảnh đổi đời.

Các con mồ côi, đào bới đất đá nơi núi rừng mà sống.

Còn tôi trong trại tù, lao động cực khổ, sắn ăn cầm hơi. Tôi lãnh “ba nhiệm kỳ”, chín năm tù, ra trại bị quản chế tại kinh tế mới ở Khánh Hòa ba năm.

Ở trại tù miền Bắc, tôi được cho đi làm ngoài, toán sáu người đi chặt nứa. Anh em lo chặc nứa phần của tôi, để tôi vào nhà dân mua bán đổi chác giùm anh em. Anh em đưa áo quần cho tôi nhờ đổi con gà luộc hoặc ký đường cát.

Nhờ vậy mà mỗi ngày tôi có điều kiện luộc sắn cho anh em ăn, còn đem về trại cho một hai anh em bạn thân khác, trong số có người bạn quê Lệ Thủy là ưu tiên.

Về sau, hắn đổi qua láng khác, tôi vẫn cho đồ ăn, nhưng hắn ghen tỵ nên báo cáo để cán bộ bắt quả tang.

Thật ra, mua bán đổi chác chỉ nhốt năm ba bữa, nhưng tôi bị xui là buổi sinh hoạt đêm qua, tôi phát biểu về mánh khóe bớt xén gạo nhà bếp của Thượng úy Tẩu làm hậu cần, quê ở Quảng Nam.

Tên này, do tôi tố cáo với Thượng úy Huệ, Sĩ quan thanh tra liên trại, nên bị sa thải tại chỗ. Tuy nhiên đêm trước đó, hắn đã ra lệnh nhốt tôi phòng cách biệt, phòng cách biệt rộng khoảng 1 thước vuông, làm bằng nứa, đổ đất ở giữa.

Đêm đến hắn cho lính canh vào đánh tôi, may là tụi lính canh thương hại nên chỉ đánh đá vào vách tường.

Tuần đầu tôi bị nhốt, do Trung sĩ Phát trông coi rất dễ chịu. Tuần thứ hai, tên Trung sĩ Minh đổi toán thay cho Trung sĩ Phát. Bàn giao xong, tên Trung sĩ Minh đi một mình xuống trại giam, bắt trói hai tay tôi ra sau, vào cột nhà.

Hắn đánh đập vào đầu, đá vào ngực tôi liên tục nhiều giờ.

Biết tên này hung dữ, lỡ đánh chết mình thì oan, hắn mang lòng thù oán vì có hai người anh tử trận ở miền Nam, tôi giả vờ nói:

“Qua một tuần lễ suy nghĩ, tôi biết việc làm sai trái, cán bộ để tôi cung khai, cả người mua lẫn người bán”.

Hắn tin, đưa tôi lên bàn ăn ngoài láng, đưa bút giấy cho tôi khai. Hắn giao cho tên Ngọc là Tàu lai đứng trên chòi, canh chừng tôi. Hết giờ làm việc, tên Ngọc quay mặt ra ngoài, chậm rãi đánh kiểng.

Đây là giờ khởi sự cho việc trốn trại của tôi.

Tôi vội chạy vào trại thay bộ đồ đi rừng, chụp cái nón lá, đạp hàng rào ra ngoài, rồi lẻn quay ngược lên khu vệ binh riêng biệt cạnh trại để trốn.

Bọn chúng không ngờ tôi còn ở trong trại, nên rải quân hàng ngang từ lính chí quan, lần lượt từ đồi sắn này đến đồi sắn khác, cán bộ dùng loa kêu gọi bảo lãnh tánh mạng cho tôi.

Ðến khoảng 2 giờ, mệt lả, đói bụng, chúng kéo nhau về.

Tôi xuống đồi, đến nhà anh Triệu Mai Tân, vợ anh người Tày tên Nghĩa. Anh cho tôi bộ bà ba đen, một dao phay và một cái nón cối. Trước giờ chia tay, tôi nhờ anh lên đồi đốn cho năm cây nứa cỡ bằng cườm chân để vượt hồ Thác Bà rộng chừng hai cây số.

Trời tối đen, tôi vượt hồ Thác Bà.

Ra giữa hồ tôi phải tránh né những bè mảng của dân câu cá. Trong lúc đó, trại cũng cho đốt đuốc truy lùng.

Tôi lên núi, đi bốn ngày đêm, ăn sắn tươi, bắp sống.

Công an, du kích, dân làng các xóm truy lùng tôi ngày đêm. Khi họ cầm đèn bão, bao vây chỉ còn cách nơi tôi trốn khoảng 50 mét, tôi biết mình sẽ bị bắt và sẽ bị đánh đến chết, tôi đọc kinh cầu nguyện dọn mình chịu chết. Bỗng trời đổ cơn mưa gió dữ dội, chịu không nổi vừa mưa gió vừa lạnh, nên họ từ từ rút dần xuống đồi.

Cảm tạ ơn Chúa, Mẹ đã cho tôi thoát chết.

Qua một ngày lội theo ven suối, vào khoảng sáu giờ chiều, tôi vào trình diện liên trại. Tôi được mấy ông Trung tá, Thiếu tá ở liên trại chỉ thị nhà bếp cho tôi một dĩa cơm.

Ăn xong, Thượng úy Huệ dùng đèn pin dẫn qua cánh đồng đưa đến trại 4. Ông này lấy thêm lời khai của tôi vụ Thượng úy Tẩu bớt xén gạo nhà bếp, chi tiết do anh Châu đầu bếp cho tôi biết.

Anh này bị lật mảng, chết đuối tại hồ Thác Bà khi mang cơm cho anh em lao động ăn trưa tại chỗ.

Trung tá Luyện ở trại cũ mang tư trang lên cho tôi, có tên Ngọc gác cổng dẫn đi. Tên Ngọc đi lên với hy vọng đánh tôi vài báng súng. Thiếu úy Huệ ở liên trại bảo hắn ra ngoài chờ bàn giao nên tôi thoát bị đòn.

Tôi được chuyển về trại 3 Tân Kỳ – Nghệ Tĩnh, được chỉ định làm tổ trưởng tổ chuyển vận gồm 10 người từ năm 1982.

Đến năm 1984 tôi được thả về.

Tôi về, ở cùng các con vùng kinh tế mới làm ruộng rẫy, chặt lồ ô về chẻ hom đem ra chợ bán.

Cuộc sống cha con khổ cực, cơm độn khoai sắn, mắm muối qua ngày.

Tại đây, người ta tổ chức một cuộc tập trung nhân dân toàn xã, bắt tôi đọc tiểu sử.

Trưởng công an huyện nói:

“Tiểu sử của anh rất huy hoàng, nhưng anh sống trên xương máu của nhân dân”.

Tôi trả lời:

“Sống chế độ nào, phục vụ chế độ đó, chính phủ trả lương, tôi chẳng bóc lột xương máu nhân dân bao giờ”.

Kết luận, hắn khuyên tôi hòa mình với nhân dân, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa.

Tôi bị trưởng Công an huyện, tù ở đảo về, coi “trọng” vì tôi là Sĩ quan ngành An ninh phản tình báo. Hắn buộc tôi phải ghi vào một quyển sổ những gì đã học tập, lao động, sinh hoạt hằng ngày… Trình diện, báo cáo cho Công an xã hàng tuần, Công an huyện hàng tháng, suốt ba năm.

Mấy năm sau, nhiều người lo thủ tục giấy tờ đi Mỹ diện “H.O”.

Cái khó khăn bấy giờ của chúng tôi là tiền đâu để lo thủ tục và ở ngoài Trung xa Saigon.

Tôi chạy đến anh em, bà con họ hàng xin xỏ vay mượn, được chừng nào thì lo chừng đó.

Thật tình thì cha con chúng tôi cũng không hy vọng gì mấy, làm hồ sơ thì làm chứ không có đủ tiền để lo lót đến nơi đến chốn, chỉ cầu may.

Chờ đợi mấy năm, chúng tôi nhận được giấy báo, rồi giấy phỏng vấn. Chúng tôi lại chạy vay tiền bạc vào Saigon phỏng vấn, khám sức khỏe. Cuối cùng, chúng tôi cũng tới được ngày được đi Mỹ.

Từ chốn núi rừng đói rách, đặt chân lên đất Mỹ văn minh, nhà cao, đường lớn, tâm trạng chúng tôi thật háo hức và cũng đầy âu lo.

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1994.

Sau 16 năm định cư tại Hoa Kỳ, các con tôi ai cũng từ độc thân, tay trắng, nay đều đã có gia đình, con cái, nhà cửa, xe cộ.

Cuộc sống chúng tôi mọi sự thật đầy đủ, hạnh phúc, duy chỉ có điều buồn là tôi sắp lìa xa các con cháu vì tôi bị ung thư giai đoạn cuối.

Nằm nhà thương, như cây đèn cạn dầu, tôi thở, ăn uống bằng những ống dây, không nói được lời nào đã gần hai năm nay.

Thân xác tôi ốm yếu, nhỏ thó như một đứa con nít thiếu ăn, tinh thần yếu kém, mọi chăm sóc cá nhân đều nhờ người khác.

Bác sĩ nói, tôi không còn sống được bao ngày nữa.

Thế là hết một kiếp người.

Cảm tạ ơn trên đã quan phòng, che chở cho gia đình tôi bình yên.

Cám ơn các ân nhân đã giúp cha con tôi được định cư tại Hoa Kỳ.

“H.O” – 26, viết trên giường bệnh trước khi từ giã gia đình và bằng hữu…..

Phuoc An Thy