MẠNH THƯỜNG QUÂN

MẠNH THƯỜNG QUÂN

Người ta đã quen dùng từ Mạnh Thường Quân để chỉ những nhà tài trợ hảo tâm, từ thiện. Tuy nhiên nguồn gốc của nó thì không phải ai cũng hiểu rõ.

Mạnh Thường Quân tên thật là Điền Văn, con trai của Tướng quốc Điền Anh, người nước Tề thời Chiến Quốc. Sau khi thân phụ qua đời, ông cũng được phong làm Tướng quốc, ăn lộc ở đất Tiết.

Vốn là người nghĩa hiệp, thích kết giao, Mạnh Thường Quân có lúc nuôi tới 3000 người trong nhà. Phàm là những người tìm đến Mạnh Thường Quân xin tá túc đều được ông cung phụng đầy đủ, ít nhất cũng có cơm ăn, áo mặc. Những người này được gọi với một cái tên là “thực khách”. Danh tiếng của Mạnh Thường Quân nhờ thế vang khắp thiên hạ. Môn khách kéo đến với ông mỗi lúc một nhiều. Do đó, ở nước Tề, ông trở thành nhân vật có sức ảnh hưởng lớn nhất, thậm chí còn vượt quá cả vua Tề.

Trong số 3000 thực khách của Mạnh Thường Quân có một người tên là Phùng Hoan. Người này bình thường không có tài gì nổi bật nhưng vốn tính trung hậu, đáng tin.

Nguyên trong nhà Mạnh Thường Quân nuôi đến hàng ngàn thực khách, chi tiêu, ăn uống cũng là một vấn đề. Mạnh Thường Quân đành phải cho dân ở ấp Tiết (đất phong của mình) vay nợ lãi để lấy thêm thu nhập. Một hôm, quản gia dâng sổ sách lên báo với Mạnh Thường Quân rằng số tiền trong nhà chỉ còn đủ chi dùng trong 1 tháng. Mạnh Thường Quân gọi Phùng Hoan đến, giao cho đi lấy nợ lãi ở ấp Tiết. Trước khi đi Phùng Hoan hỏi: “Lần này thu nợ về xong, chủ nhân có cần mua thêm gì về không?”. Mạnh Thường Quân trả lời vu vơ: “Ngươi thấy trong nhà còn thiếu thứ gì thì cứ mang về đây vậy!”.

Phùng Hoan đến nơi, thấy rằng những người mắc nợ đều là dân nghèo bèn ra lệnh đốt sạch sổ sách ghi nợ. Dân chúng nghe xong đều sụp xuống lạy tạ, tôn Mạnh Thường Quân như cha mẹ. Phùng Hoan trở về yết kiến Mạnh Thường Quân. Nghe chuyện ông tự tiện đốt văn tự ghi nợ, Mạnh Thường Quân giận lắm, nói: “Nay mấy nghìn thực khách ăn không đủ cung ứng. Ông lại đem hết giấy tờ ghi nợ đốt bỏ đi. Vậy ý là làm sao?”.

Phùng Hoan bình thản nói: “Trước khi đi, chủ nhân có dặn nhà thiếu thứ gì thì mua về. Nay tôi thấy trong nhà tiền bạc, mỹ nữ đều có đủ cả, chỉ thiếu nhân nghĩa mà thôi. Chuyến này tôi đi là dùng số tiền nợ kia mua về nhân nghĩa cho chủ nhân vậy!”. Mạnh Thường Quân nín lặng, đành bỏ qua nhưng trong lòng vẫn còn cảm thấy không thoải mái lắm.

Về sau, có người gièm pha Mạnh Thường Quân với vua Tề. Vua Tề bèn cách chức ông, thu ấn tướng quốc, chỉ cho về ấp Tiết ăn lộc. Lúc này, môn khách của Mạnh Thường Quân cũng tản mát đi cả. Duy chỉ có Phùng Hoan vẫn ở lại bên cạnh, cầm cương đánh xe cho Mạnh Thường Quân.

Khi vừa trở về ấp Tiết, dân chúng không quản ngại, lặn lội ra ngoài trăm dặm đón Mạnh Thường Quân, lại còn dâng cơm rượu, chúc tụng, nhắc đến chuyện nhân nghĩa xưa kia. Mạnh Thường Quân khi ấy mới hiểu được điều mà Phùng Hoan làm ngày trước, quay lại nói: “Ta thực quá hồ đồ, khi xưa còn trách móc ông. Giờ mới hiểu được nhân nghĩa mà ông mua cho ta nghĩa là thế nào”.

Bài chia sẻ từ Điển tích

Mùa Cỏ May – TRUYỆN NGẮN – CAO THỊ NGA

Van Pham

TRUYỆN NGẮN – CAO THỊ NGA

***

Mùa Cỏ May

Tôi đánh rơi mất “cái ngàn vàng” năm mười tám tuổi, sau khi gia đình nhà anh đã có cơi trầu sang nhà tôi để dạm ngõ. Nếu không có gì thay đổi thì cuối năm ấy chúng tôi sẽ cưới nhau.

Bấy giờ đang độ giữa thu, tính đến cuối năm thì cũng có bao lâu nữa đâu… Đằng nào chả là vợ chồng, thôi thì… Giữa cái nôn nao của mùa thu se se, bờ đê ngập tràn cỏ may tím mờ dưới ánh trăng non, tôi đã trao cho anh tất cả những ngọt ngào trinh nguyên của tuổi mười tám.

Nhưng rồi đám cưới đã không diễn ra như dự định.

Cuối năm ấy, bà nội anh qua đời. Tuổi già như ngọn đèn trước gió, bà mất ở tuổi tám mươi hai cũng không phải là quá đường đột đối với gia đình. Tôi đến chịu tang như dâu con trong nhà, và đám cưới đành hoãn lại để qua năm mới tính tiếp.

Thế nhưng khi qua giêng, anh bắt đầu chán tôi và tìm cách ngãng ra như cái lẽ thông thường: cái gì dễ dàng có được thì sẽ không còn trân quý nữa. Cuối năm đó, anh cưới vợ nhưng cô dâu không phải là tôi….!

Ở cái làng này, thiếu gì đứa từng cho “ma ăn cỗ”. Nhưng chúng nó hơn tôi là có một đám cưới đàng hoàng. Tờ hôn thú như có một phép mầu, nó có thể hóa giải mọi điều tiếng cho một cô gái đã từng “dễ dãi”. Và đàn ông đôi khi tồn tại giống như một “đấng cứu rỗi” vậy.

Tôi không có được phép mầu ấy. Anh đã cưới người khác rồi. Hành trang còn lại của tôi chỉ là một cơi trầu héo và tấm áo thanh xuân găm đầy hoa cỏ may.

Ở thôn quê ngày đó, con gái đã nhận trầu của nhà trai rồi lại bị hủy hôn thì cũng coi như đã qua một đời chồng nên “mất giá” ghê lắm. Dù cho có khỏe mạnh, đảm đang và xinh đẹp thì cũng khó có cơ hội để kiếm được một tấm chồng tử tế.

Cái món “tiết trinh” chả hiểu nó ngon lành đến thế nào, no béo được bao lâu mà đôi khi kẻ đánh mất nó bỗng trở thành một kẻ ăn mày suốt cả cuộc đời…?

Tôi cam phận là một cô “gái ế” ngót hai mươi năm. Cũng không phải là không còn ai đến với tôi nữa nhưng yêu đương thì có mà cưới xin thì không. Tất thảy bọn họ đều không ai dám bước qua hàng rào của định kiến. Và cứ sau mỗi lần có một kẻ đến rồi lại đi thì cái tai tiếng về tôi lại dày thêm một chút….!

Tuấn người cùng xã tôi nhưng thoát ly gia đình đã lâu. Anh định cư ở nước ngoài cùng cô vợ người bản xứ và hai cô con gái. Tôi cũng chỉ biết anh sơ sơ qua những lần sinh hoạt đoàn thể ở thôn xã thuở thiếu thời.

Năm đó anh về nước để làm cái lễ sang áo mới cho bố anh đã mất từ ba năm trước đồng thời thu xếp việc nhà. Các chị gái anh đều lấy chồng xa, mẹ sống một mình, tuổi cao sức yếu, nói dại… chả biết thế nào. Bảo mẹ về ở với ai cũng không chịu vì bà lo nếu bà đi thì sẽ rất lạnh lẽo bàn thờ tổ tiên.

Cuối cùng, chả biết nghe ai bày vẽ, Tuấn nhờ người mai mối cho một cô “vợ chui”, cưới về để đấy có người chăm lo mẹ già. Thật trớ trêu, tôi cũng là một trong số những cô gái được bà mai nhắm đến. “Chòng chành như nón không quai…” Đàn bà quá lứa lỡ thì, sống cùng với em trai và em dâu đôi khi nó cứ như cái gai trong mắt. Thôi thì đưa chân, dù sao cũng có một tấm chồng.

Đám cưới diễn ra khá rình rang. Nhà anh và nhà tôi cách nhau một quãng đê dài. Nhìn qua cửa kính xe hoa, tôi bắt gặp bạt ngàn hoa may tím chạy suốt dọc triền đê, bất giác hai hàng nước mắt lại ứa dài không thể nào ngăn được.

Sau đám cưới, Tuấn chỉ ở nhà thêm được một tháng rồi đi nhưng vẫn kịp để lại cho tôi một giọt máu. Trong lòng tôi bắt đầu thấy vui và mơ hồ hy vọng ngày anh trở lại vì cái mối dây ràng buộc này.

Trời cũng thương, tôi sinh mẹ tròn con vuông, bé trai 3,5 kg kháu khỉnh. Ôm con vào lòng, nước mắt tôi lại chảy dài, cảm giác lần đầu tiên được làm mẹ thật khó tả. Giữa niềm hạnh phúc lâng lâng là nỗi tủi hờn xen lẫn khi Tuấn đã không thể ở bên tôi trong giờ khắc đó.

Mẹ chồng tôi rất thương quý tôi. Mẹ con, bà cháu quấn quýt bên nhau trong ngôi nhà thiếu vắng đàn ông. Khi thằng bé đầy năm, Tuấn mới trở về nhưng mang theo cả bầu đoàn thê tử. Ngoài anh ra, chẳng ai biết nói tiếng Việt ngoài mấy câu: “Chào bà”, “chào mẹ” hay “cảm ơn”.

Không hiểu anh đã giải thích với họ như thế nào về sự có mặt của tôi. Chỉ thấy cô vợ tây của anh nhìn tôi không biểu lộ cảm xúc gì còn hai cô con gái của họ thì cưng nựng cậu bé con tôi bằng thứ ngôn ngữ xa lạ nhưng với vẻ rất trìu mến. Có lẽ tình máu mủ đã vô tình khiến chúng có cảm giác gần gũi với nhau chăng!

Buổi tối, mẹ con tôi nằm ngủ ở một gian nhà đầu hồi. Thằng bé thường ngủ sớm, còn tôi hay thao thức đến khuya, nghe mơ hồ tiếng rúc rích phía đầu hồi bên kia mà tôi cứ thấy trào lên một nỗi hờn ghen đến nghẹn đắng trong lòng.

Có đôi ba lần anh vụng trộm gặp tôi, ôm lấy thằng bé hít hà và nói rằng mẹ con tôi cứ yên tâm mà ở đây, không phải lo gì về kinh tế. Thằng cu Tú lớn lên anh sẽ có trách nhiệm lo cho tương lai của nó. Sau cùng anh bối rối:

– “Hình như anh đã sai khi làm khổ em như thế này. Cho anh xin lỗi…!” Nhưng mẹ già trông cậy cả vào em! Thật lòng anh xin lỗi em! May ơi…!”

Lần này anh chỉ về có mười ngày rồi đi. Tôi và mẹ tiễn gia đình anh đến mặt đê làng nơi chiếc xe taxi đang đậu. Sau những cái vẫy tay, những câu “tạm biệt” ngọng nghịu, chúng tôi ôm thằng bé con quay trở lại nhà. Mẹ chồng tôi sẽ sàng bảo:

– “Thiệt thòi cho con quá! Mẹ thương con với thằng Tú hơn cả. Mấy đứa kia, tuy cũng là con là cháu đấy nhưng chả khác gì người xa lạ, nói năng có hiểu được gì đâu…”

– “Mẹ ơi…! Con cám ơn mẹ…! Cuộc sống này là do con tự lựa chọn! Dù sao vẫn còn hơn là con cứ mãi làm gái ế ở trong nhà. Con cũng có một đứa con rồi, nó là tất cả niềm hạnh phúc của con…!”

Năm năm sau, mẹ chồng tôi mất. Tuấn cũng kịp về trước khi bà hấp hối. Lần này anh về một mình, phần vì bọn trẻ đang giữa năm học không thể nghỉ lâu được, phần vì gấp gáp nên cũng khó mà lo thủ tục. Hơn nữa chúng cũng chẳng mấy mặn mà khi về thăm quê nội.

Sau khi mẹ mồ yên mả đẹp, tôi đã có một quãng ngày ngắn ngủi được thực sự “làm vợ” anh. Lần này thì không có một mầm sống nào kịp hình thành cả. Tiễn anh đi rồi, tôi cũng tự biết rằng từ nay trở đi anh sẽ càng ít trở về hơn.

Không biết bao nhiêu mùa đã trôi qua? Không biết đã bao nhiêu nước mắt ướt rồi khô trên gối chăn đơn lẻ. Không biết đã bao đêm tôi mong ước có một tiếng gõ cửa… Dù sao tôi cũng chỉ là đàn bà mang trong mình những khát khao rất đỗi thường tình. Và cũng không biết đã bao nhiêu lần tôi muốn vượt thoát ra phía ngoài con đê bao làng kia, muốn đốt trụi cả một rừng cỏ may hoang dại để đi đến một nơi nào đó mà cuộc sống sẽ khác đi chứ không giống thế này.

Bà May ngừng kể, quay qua bảo với bọn tôi:

– “Chúng mày lớn rồi, lo liệu mà giữ lấy thân, con gái khôn ba năm dại một giờ, hồng nhan thì bạc phận…!”

Bọn tôi cười rúc rích:

– “Bác May ơi! Hồng nhan giờ bạc tỷ chứ không bạc phận nữa đâu. Bọn cháu xấu gái lại chân ngắn, muốn “dại” lắm mà chả có anh nào cho đây này. Hay cháu đợi anh Tú nhà bác đi du học trở về nhé…!”

Không có tiếng đáp, bà May đang mải dõi mắt về một nơi xa xăm nào đó. Trên khuôn mặt đã sạm đi vì năm tháng vẫn thấy phảng phất những nét đẹp mặn mà của một thuở thanh xuân. Bàn tay bà vân vê một tấm áo đã cũ, hình như bà đang gỡ cỏ may…!

 

BA VÀ TÔI

BA VÀ TÔI

Nguyễn Diệu Anh Trinh

                 Nếu bạn sống bên cạnh cha mẹ và có thể nhìn thấy những đổi thay từ từ của hai đấng sinh thành mỗi ngày thì chắc bạn cũng như tôi… ngậm ngùi nuối tiếc, ngay cả khi đang cùng Ba Mẹ ngồi ăn một bữa cơm tối.
         Ba tôi đưa đũa gắp thức ăn cho vào chén, tôi giúp ông:
         – Ba, để con gắp cho.
         – Không, Ba tự làm được mà!
         Đầu đũa của Ba cứ gắp gắp xuống mặt bàn…
         -Ba để con gắp cho!
         – Được mà!
         Hai, rồi… ba lần. Ba chỉ gắp được một cọng hành trong đĩa thịt xào.
         Miếng cơm trong miệng tôi bỗng đắng ngắt.
         Một lần khác, Ba chan canh vào chén mà đổ tràn ra bàn, Ba đổ rác vô thùng mà tung tóe ra ngoài …
         Nhìn bên ngoài, so với những ông cụ cùng lứa tuổi thì Ba tôi thật khỏe mạnh, nói chuyện giọng còn sang sảng… Ba lúc nào cũng là người đàn ông trong gia đình.  Ba trông coi sân trước, vườn sau chu đáo; đóng cửa khoá phòng cẩn thận; tắt bếp tắt đèn trước khi đi ngủ; thu dọn rác
rưởi sau những bữa tiệc; dành xách những túi đi chợ nặng nhất; bất cứ lúc nào, bất cứ việc gì… không cần vợ con lên tiếng yêu cầu, Ba đều hăng hái chu toàn.  Ba đúng là hình ảnh trụ cột của gia đình, gương mẫu và đầy vị tha.
         Nhưng, tôi biết mỗi ngày qua là mắt Ba mờ hơn một chút, tai lãng hơn, tay chân lọng cọng và trí nhớ cũng dần mai một.  Vậy mà khi tôi đưa Ba đi Bác sĩ khám tai để mua máy trợ thính thì ông la chói lói:
         – Ba đâu có điếc mà đeo ba thứ đó.
         Hoặc triết lý hơn một chút:
         – Ôi, thôi, già rồi… bớt nghe một chút, không sao.  Lỗ tai là cái gây nghiệp chướng nhiều nhất, bớt nghe bớt gây nghiệp!
         Cho đến lần bạn già gọi điện thoại hỏi thăm, Ba khoát tay ra hiệu:
         – Nói ổng… Ba ngủ rồi hoặc… Ba đi vắng!
         Khi tôi cằn nhằn:
         – Ba lạ ghê, không ai gọi thì trách mà có người gọi thăm thì không chịu nói chuyện.
         Ba bỏ nhỏ:
         – Tai Ba… không nghe rõ, kẻ hỏi gà, người trả lời vịt, phiền lắm, con.
                                                        ****
         Ba và mấy chị em tôi định cư ở USA tháng 7 năm 1994.  Năm đó Ba tôi đã 64 tuổi, sau mười môt năm trong trại cải tạo đã biến Ba tôi từ một người đàn ông trung niên đầy sức sống, đang thăng tiến về mọi mặt trong đời sống trở thành một ông già sáu mươi ốm yếu, bệnh hoạn.  Tài sản trong nhà lần lượt ra đi vì vợ con không có cơ hội để kiếm được một công việc làm ổn định.  Tôi, đứa con gái lớn của Ba, sau một cuộc tình duyên dang dở thì cũng đang vất vả nuôi một đứa con gái nhỏ không có quê nội để về…

         Tôi vẫn còn nhớ ánh mắt của Ba nhìn tôi ngày tôi lên thăm Ba ở trại tù Tiên Lãnh – Quảng Nam.  Ánh mắt ấy đã theo tôi suốt những tháng ngày còn lại trong đời.  Vừa xót xa và tràn đầy thông cảm.  Ba đã nói: “Con gái, khi chúng ta không thể nào thay đổi được hoàn cảnh thì nên vui vẻ chấp nhận nó, biết đâu… trong cái rủi còn có cái may, con à!”

         Câu nói của Ba như một lời tiên tri.  Cùng với nước mắt của hai mẹ con và lời khai theo sự hướng dẫn của Ba, tôi và đứa con gái nhỏ đã may mắn được sự chấp thuận của phái đoàn phỏng vấn cho đi định cư tại USA theo diện Nhân đạo (H.O) cùng với Ba và mấy người em.  Lúc đó tình hình phỏng vấn rất căng thẳng cho con em của cựu tù nhân trên 21 tuổi.  Năm đó tôi đã ba mươi sáu tuổi, trường hợp của hai mẹ con tôi được xem như là một kỳ tích.  Tuy vậy, quyết định đưa đàn con đi định cư ở một đất nước xa xôi khiến Ba tôi ray rứt nhiều ngày tháng, sau khi đến Mỹ.
Thực tế chẳng bao giờ giống như mình tưởng tượng.  Những lá thư từ bạn bè, người thân gởi về trình bày hoàn cảnh nơi sống mới không chính xác, thật ra, họ cũng chẳng am tường gì cho lắm.  Mấy cha con tôi lê thê lếch thếch ra đi, ra khỏi nước bằng máy bay hẳn hoi, không phải vượt rừng, vượt đại dương gì cho cam go.

         Những tháng ngày đầu tiên trên đất Mỹ thật gian nan, Má tôi vì lý do sức khoẻ đã không cùng đi với gia đình vào năm đó.  Dưới sự dìu dắt của Ba, tôi vừa làm chị vừa quán xuyến việc nhà thay cho mẹ.  Tôi đã phải vật lộn với cơm áo và ngôn ngữ để vươn lên và tồn tại trong xã hội mới này.  Mỗi ngày tôi đã phải làm việc 12 tiếng đồng hồ, lái xe đi và về gần 3 giờ.  Ba tôi dù tuổi đã cao, cũng kiếm được một việc làm gần nhà… Những lúc rảnh, Ba còn giúp tôi chăm sóc đứa cháu ngoại.  Vốn thấm nhuần giáo lý nhà Phật, Ba dạy cho con gái tôi nên làm điều thiện, tránh điều ác; giảng cho cháu thế nào là nhân quả, luân hồi và lòng vị tha.  Sau này, cả hai mẹ con tôi đều chịu ảnh hưởng quan niệm sống của Ba tôi rất sâu đậm.

         Tôi nhớ rõ ràng, sáu người trong gia đình tôi đặt chân đến vùng đất tự do này với vỏn vẹn hai trăm đô la trong túi, không kể là biết bao nợ nần còn vương vấn nơi quê nhà.  Vậy mà cái xách tay đựng tiền đó, tôi đành đoạn bỏ quên trên máy bay khi chuyển phi trường ở Los Angeles.
Máy phóng thanh réo tên mình oang oang tôi cũng chẳng nghe được, đến khi có nhân viên của chương trình IOM đến giúp đỡ, tôi trình bày đúng những gì trong xách tay của mình và được hoàn lại nhanh chóng, dễ dàng.  Buổi tối đặt chân lên đất Mỹ, tiếng Anh đầu tiên tôi sử dụng là lắp bắp hai chữ “Thank you” trong ràn rụa nước mắt.

         Mấy cha con sau một đêm nghỉ lại ở một hotel sang trọng, món gà chiên cho buổi ăn tối đầu tiên nơi xứ người đã khiến chúng tôi muốn ói vì chưa quen với mùi bơ.  Cả nhà ăn tạm bánh tráng, bánh in mang từ VN sang, trong ba lô.  Sáng hôm sau, chúng tôi được lên máy bay qua Denver rồi về Georgia.  Chỗ ở đầu tiên là căn nhà ngay trung tâm thành phố Atlanta.

         Ngày ngày chúng tôi đón xe bus đi học tiếng Anh, học chữ và học cả cách giao tiếp.  Mỗi học sinh có mặt trong buổi học trước khi ra về được cô giáo cho hai đồng token, là loại tiền để dùng trả cho xe buýt hoặc tàu điện ngầm, đó là một cách khuyến khích những người di dân đến với lớp dạy tiếng Anh.  Chúng tôi vừa học sinh ngữ vừa lo học lái xe, những tháng đầu, cuối tuần nào cũng có một vài người Việt đến thăm và chở chúng tôi đi chợ mua thức ăn, có người mang gạo, nước mắm, bánh mì hay thịt hộp đến cho.  Thỉnh thoảng có người từ các cơ quan từ thiện đến đưa chúng tôi đi nhận áo quần ở những nơi bán áo quần cũ.  Mỗi người trong gia đình được phát một cái bao nylon loại lớn, đi vòng vòng trong tiệm tha hồ chọn những món mình ưa thích, miễn sao đầy bao là được.  

         Chị em tôi tham lam chọn toàn là đồ vest, com lê dày cộm, cháu bé con gái tôi thì ôm vô số gấu nhồi bông, búp bê… Ai cũng mừng rỡ vì khỏi phải chi tiền ra mà có đồ dùng, tiết kiệm được những đồng tiền trợ cấp, ai cũng vui.
         Tôi nhớ có lần tôi đi chợ, muốn mua một cái chổi quét nhà mà ngần ngừ mãi, giá một cái chổi là $7, tôi nhẩm tính ra tiền VN mà hoảng hồn, không dám mua.  Vậy mà Ba tôi một lần đi chợ, dám mua một bộ dao kéo, tông đơ điện để cắt tóc, tôi nhớ dạo đó chừng $19.99, thật là một khoản tiền khá lớn.  Ba tôi giải thích: Nhà có hai người đàn ông, mỗi lần ra tiệm cắt tóc mất cũng hai ba chục rồi, chưa kể là phải nhờ người ta chở đi nữa.  Mình cắt một vài lần là lấy lại vốn.  Sau khi Ba tôi nghiên cứu tập giấy kèm trong bộ đồ nghề về hướng dẫn cách xử dụng, ông đem từ điển Bách Khoa Toàn Thư ra tra tới, tra lui, thái độ rất tự tin, vui vẻ, yêu đời.

         Thế là một ngày đẹp trời, Ba tôi hy sinh làm người mẫu cho chị em tôi luyện tay nghề.  Đầu tiên là cô gái út, nổi tiếng khéo tay và từng là thợ cắt Âu phục bên VN.  Không biết sao, mới cắm điện vào, đưa một phát, đầu tóc ba tôi bên phải trắng hếu.  Con nhỏ hoảng hồn la lên:
         – Chết, sao nó ủi nhanh quá vậy.
         Con bé lấy cái kéo sửa tới sửa lui, nó lẩm bẩm, cắt bằng kéo coi bộ chắc ăn hơn.  Hì hục cả buổi con nhỏ vẫn chưa dám đưa cái gương cho Ba tôi soi.  Cô em kế ngồi nhìn em mình làm thợ cắt tóc, coi bộ không xong bèn làm khôn lên tiếng:
         – Để tau, tông đơ bằng điện mà, mi giởn hoài.
         Cô bé cẩn thận để cái lược lên rồi mới bấm tông đơ, vèo… liếm sát da đầu, trắng hếu nửa.
         – Kỳ ghê ta!
         Con nhỏ sửa tới sửa lui, chê:
         – Ui, cái đầu Ba mình bị méo nên khó cắt cho đẹp.
         Cậu em tôi chê hai con em gái không biết xử dụng đồ nghề bằng điện, nó cũng thử tay nghề, húi một phát, phía trước, mặt tiền của Ba tôi bị xẹt một phát, bên cao bên thấp.  Đến phiên tôi ra tay nữa thì trời ơi, trông Ba tôi ngố như một người thường trú ở bệnh viện thần kinh đi lạc ra ngoài.  Vậy mà Ba tôi soi gương, dòm khuôn mặt khùng khùng của mình rồi cười cười:
         – Kệ, xấu mặt thì lâu, xấu đầu mấy lúc, mai mốt tóc dài ra mấy hồi.
         Thằng em trai nhìn thấy mái tóc quái đản của Ba tôi thì e dè.  Không dám chê, không dám phê bình, ngậm ngùi leo lên ghế ngồi đưa đầu tóc cho ba đứa tôi thực hành tiếp.  Hắn khôn ngoan phán cho một câu:
         – Cắt tự do, đi ra ngoài… tui đội mũ lên là chắc ăn nhất.

         Tôi thương cái tính của Ba tôi dễ dãi, hiền hòa, ông chẳng những không phàn nàn về mái tóc không giống ai của mình mà còn lạc quan kể về những ngày mới vào trại cải tạo.  Trên đó cũng đâu có ai biết cắt tóc là gì.  Có một chú vì quá ốm yếu, không đi ra ngoài lao động được nên
khi cán bộ hỏi ai biết cắt tóc, chú giơ tay lên. Hy vọng làm chức thợ cạo này được nhàn nhã một chút.  Đồ nghề giao cho chú chỉ là một cái kéo cùn.  Ba tôi kể, khi chú nhấp nhắp, cắt tới cắt lui xong cái đầu tóc thì đúng là cha mẹ còn nhận không ra nữa, đừng nói gì chính đương sự.
         Vậy đó nên khi được đám thợ không chuyên môn là bầy con của ông với dụng cụ cắt tóc bằng điện quá văn minh, ba tôi chấp nhận làm người mẫu cho chị em tôi dài dài suốt hơn hai mươi năm.  Đến nay, em gái út tôi đã có bằng cắt tóc, con nhỏ chỉ cắt tóc cho người nhà.  Ba vẫn là người mẫu trung thành, dễ dãi, dễ thương nhất trên đời.

         Nhớ ngày ấy, nơi chúng tôi ở là vùng ít bóng dáng người Việt Nam.  Hội Từ Thiện đã mướn cho gia đình tôi căn nhà nhỏ ở tạm, chắc là vì giá nhà quá rẻ.  Mỗi ngày đón xe buýt đi học Anh Ngữ về, mấy chị em từ xe buýt nhảy xuống, lội bộ thêm chừng năm phút mới đến nhà.  Quãng đường không xa nhưng đây là quãng đường thích thú của chúng tôi, vì khi đi bộ, thấy người ta có nhiều món đồ cũ đem ra để trước mặt nhà, có người dán tờ giấy “FREE”, nghĩa là… đồ cho không, biếu không! Ai cần thì cứ việc mang về xài.  Ngày nào chúng tôi cũng lượm lặt được vài món.  Khi thì cái bàn nhỏ, lúc thì cái kệ để TV, vài cái đèn ngủ…
         Một hôm, đi ngang qua khu vườn của một người da màu, thoang thoảng nghe hương thơm dìu dịu của rau húng.  Mấy chị em lục lọi trong đám cỏ vừa mới cắt, thì ra có vô số rau húng mọc lẫn trong cỏ.  Mấy đứa nhìn nhau cười, nét hân hoan hiện rõ trên mặt như gặp người quen.  Cái cảm giác mà văn thi sĩ gọi là “tha hương ngộ cố tri”.
         Về nhà, tôi nói liền với Ba:
         – Ba ơi, đất ở đây chắc dễ trồng trọt, con thấy có rau húng mọc hoang trong cỏ.
         – Ôi cha, thôi con ơi, Ba làm gì cũng được nhưng miễn cái vụ trồng tỉa nghe.
         Tôi tròn mắt:
         – Răng rứa Ba?
         – À, thì… hồi xưa tới giờ, mỗi lần bà Nội con giú chuối trong khạp cho chín, hễ Ba ngó tới là kể như nó héo hon, không chín được.  Bà Nội nói: “Ba rắn mắt, không trồng cây, không làm dưa, không….”
        – Xời ơi, rứa mười mấy năm cải tạo Ba không trồng được rau, lấy chi mà ăn?
        – Ba làm thợ đan giỏ, đan rổ tre, sau đó tụi nó đồn ba là Kỹ Sư Đường (Ba tôi xưa kia làm ở Ty Công Chánh thành phố Đà Nẵng) nên khi Trại có cái lò nấu đường bát, cán bộ bắt Ba qua nấu đường.  Từ đường xá, cầu cống Ba qua làm ông thợ nấu mía thành đường ngon lành… Ba đổi đường lấy rau ăn, cần chi phải trồng với trọt?

         Thế là sau đó Ba tôi say sưa ca đi ca lại bản nhạc “Hồi đó, trong trại cải tạo…” Ba cứ khăng khăng là không có tay trồng trọt.  Tôi không tin, phần thì ăn xà lách hoài cũng ngán, chúng tôi thèm những thứ rau có mùi, mang hương vị quê nhà.  Thử tưởng tượng ăn thịt gà trộn muối tiêu mà không có rau răm, ăn bánh tráng cuốn thịt ba rọi cũng chỉ với xà lách.  Hành ngò thì cũng có nhưng khá đắt, kể cả những thứ rau mùi cũng có bán ở chợ Việt Nam, chợ Thái Lan nhưng rất mắc và quan trọng là không có ai chở mình đi chợ.  Tôi lải nhải nhắc Ba: “Không có việc gì khó, chỉ sợ mình… không trồng!”
         Một hôm, có người quen biếu Ba mấy dây khổ qua con, Ba đem ra sau vườn cắm xuống đất một cách bất đắc dĩ, ngày ngày Ba ra tưới nước, thăm chừng một cách e dè, khổ sở.  Dây khổ qua be bé như hiểu được nỗi khổ của Ba nên vươn vai lớn mạnh mẽ.  Ba nhặt nhạnh mấy cành cây khô gác lên làm giàn.  Cái giàn đơn sơ đón nhận những ngọn khổ qua với nhiều nụ vàng dễ thương.  Đến khi mấy trái khổ qua nhỏ xíu, e ấp lẫn trong đám lá xanh mướt thì nụ cười của Ba như trọn vẹn hơn.  Sau đó, mỗi khi “được” chở đi ăn phở, Ba len lén gói vài cọng rau quế vào trong giấy, về nhà tỉ mỉ đem ngâm vào ly nước cho tươi rồi trồng vào cái chậu nhỏ, Ba bón xác trà và tưới nước đều đặn, gặp ai cũng hỏi thăm mua phân bón ở đâu… Ba vì nhu cầu “ăn uống” của mấy đứa con mà hết lòng hết sức với mấy cây rau thơm, mấy cây ớt.  Dần dà, vườn rau nhỏ của Ba với dây khổ qua, vài cây ớt, rau quế, rau húng… lại là niềm đam mê và tự hào của Ba.

Ba năm sau khi định cư ở quê hương mới này, tôi đi mua căn nhà mới, chính là căn nhà tôi đang ở bây giờ.  Hai cha con chọn nhà có sân sau bằng phẳng.  Ba ra sức cuốc thêm ra phía sau, lấn vào bìa rừng để mở mang “bờ cõi”.  Đất ở Georgia là vùng đồi núi nên toàn là đất đỏ lẫn với đá.  Ba miệt mài “có công mài sắt, có ngày nên kim”.
         Sân sau nhà tôi sau nhiều năm trồng trọt bây giờ là vườn rau với đấy đủ những thứ cần thiết.  Nào là dưa leo, mướp, bí đỏ, bí đao, rau muống, rau lang, đậu bắp, rau thơm các loại, diếp cá, ớt, tía tô, khổ qua, đậu ve, rau mồng tơi, dền… là những thứ trồng vào mùa xuân, ăn suốt mùa hè mùa thu.  Đầu mùa thu Ba còn tỉa được ngò rí và rau cải con, cải bẹ xanh để ăn bánh xèo.  Những dịp này, buổi sáng ra vườn rau, hương của các loại rau thơm, ngò… tỏa lên ngan ngát, dịu dàng khiến tâm hồn khoan khoái thật dễ chịu.  Ba còn ra công đào một rãnh nước song
song theo những luống rau, dưới đó Ba thả vài nhánh ngò ôm tức là rau ngổ, bên cạnh là đám bạc hà, hai thứ để nấu canh chua.
         Ba tận dụng mảnh đất sau nhà làm thành một vườn rau rất tươi tốt, ngăn nắp.  Giàn khổ qua phải cách xa giàn mướp ngọt một khoảnh sân, vì ngọt đắng là hai vị khắc nhau; rau quế là thứ kén nhất nên ưu tiên được “ngồi” trong chậu.  Dây bí đỏ không lên giàn mà được thả cho bò lên đồi, như vậy chịu được mấy chục quả bí nặng nề, chắc nụi.  Rau thơm và diếp cá, rau răm được sắp xếp ở gần nhau trông rất đoàn kết.  Ba nói, mỗi khi cần ăn rau sống, đem rổ ra cắt một loạt là có đủ các thứ rau thơm không cần đi đâu xa.  Rau muống là thứ thích nước nên Ba trồng ô
rau muống ở giữa hai rãnh nước, những cọng rau muống xanh mướt thấy mà ham! Bao nhiêu tiền con cái cho Ba vào những dịp Lễ, Tết Ba đều để dành mua dụng cụ làm vườn, mua phân bón.

         Cách đây cả chục năm, khi khu nhà này đang còn xây dựng Ba thường lang thang vào xóm trong, nhặt những mảnh gỗ, khúc cây… sau đó ra Home Depot mua thêm một ít ván, Ba chăm chỉ đẽo đục, đo đạc… cuối cùng dựng lên được một căn nhà nhỏ ở góc vườn.  Căn nhà làm theo kiểu ông bà thuở xưa, có cột kèo làm bằng mộng, không phải đóng đinh, có hai mái, có cửa chính, cửa sổ.  Bên trong có hai dãy kệ để Ba chứa đồ đạc làm vườn, phân bón, máy cắt cỏ, một kiểu như căn nhà kho của Ba.  Bên ngoài ông còn làm cái khóa rất kiên cố.
        Trải qua bao mùa mưa nắng, tuyết phủ, căn nhà nơi góc vườn của Ba tôi vẫn rất chắc chắn, hiên ngang chịu đựng.  Đám con cháu khen ngợi, ông thường hãnh diện: “Nhà lầu mấy tầng, cầu treo qua núi ông Ngoại còn làm được, dễ như chơi, huống chi thứ nhà nhỏ này”.  Hình như bao nhiêu kiến thức thời Ba học ở trường Công Chánh năm xưa nay được ông đem ra áp dụng, tuy thất cơ lỡ vận nhưng Ba tôi không thất chí nản lòng. Điều này thật đáng để chúng tôi ghi nhớ, noi gương và nhớ đến Ba với muôn vàn hãnh diện.

       Vườn rau của Ba tôi mỗi năm thêm xanh tốt, mùa hè ông say sưa với mảnh đất nhỏ mà quên ăn quên ngủ, không ngại nắng mưa.  Chúng tôi ủng hộ Ba bằng cách hăng hái chở Ba đi mua phân, mua đất xốp, thêm chuyện trả tiền nước hằng tháng không cằn nhằn.  Má tôi thì khuyến khích bằng cách siêng năng đếm từng trái bí, trái mướp.  Mỗi khi Ba cắt rau để đầy
trong tủ lạnh, chia cho con cháu ăn không hết thì Má chịu khó bỏ vào bịch nylon, buổi sáng sau khi đi bộ về, Má rủ vài người bạn già ghé qua khoe vườn rau và chia phần.  Vườn rau nhỏ mang lại niềm vui cho nhiều người.
        Ba tôi thường ví von chăm sóc vườn rau như nuôi bầy con.  Có đứa dễ nuôi, không chăm sóc nhiều cũng lớn vùn vụt, mạnh mẽ ra đời thành công; có đứa cần phải o bế tỉ mỉ mới lớn, cũng có đứa cưng chiều quá mức thì lại ốm o hư hỏng, đem lại cho mình nỗi buồn phiền.  Rau quả
ngoài vườn của Ba cũng vậy, có thứ thả lơ lửng vẫn tươi tốt cho ra hoa, ra quả ngon lành; có thứ được tưới nhiều nước, bón phân đều đặn lại èo uột, quắt queo.  Ba tôi trồng rau với cả tấm lòng như thế.  Dây bí đao mùa này yếu ớt, Ba tôi đâm lo như thấy đứa con bị bệnh, mỗi ngày tưới nước Ba đếm từng cái lá, hôm qua được mười bảy lá, hôm nay héo mất một lá rồi.  Ba hỏi thăm người này người nọ lý do tại sao, Ba xem lịch VN coi có phải tại tiết trời quá độc, cây cỏ cũng hư hao, nhà nông gọi là mất mùa… Dây bí đao đã không phụ lòng Ba, dây bí nhỏ xíu mà cho ra quá nhiều trái, tròn trịa như một bầy heo con.
       Ngày hè, chừng mười một giờ trưa là Ba ra nhà sau, lấy cạc tông che nắng cho đám rau, chiều về bớt nắng Ba dở ra, săm soi từng ngọn rau, từng cái lá.  Mùa đông, Ba theo dõi dự báo thời tiết trên TV để thu hoạch hết ngoài vườn trước khi những đợt gió lạnh tràn về… Có lần Ba
tiếc mấy cây ớt còn đầy trái, bụi sả tốt tươi chưa muốn nhổ thì tuyết rơi, tuy không nhiều lắm nhưng cũng thừa sức làm đám rau của Ba héo hon ủ dột… Đứng trong nhà nhìn qua khung cửa kính, Ba chép miệng liên tục, thương cho vườn rau bị nhiễm lạnh.
         Ba tôi là thế, việc gì làm Ba cũng bỏ hết tâm trí vào, Ba nói có như thế mới đạt được kết quả, bằng ngược lại mình cũng không lấy làm buồn vì dù sao mình cũng đã hết lòng hết sức, coi như “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” là ý trời mà, buồn làm gì.
        Ba tôi sống lạc quan, nhẹ nhàng theo quan niệm Phật Pháp.  Luôn có ý thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người nên cách hành xử của Ba tôi cũng sâu sắc, luôn quí trọng những niềm vui hiện tại.  Ba tôi chăm sóc vườn rau mà đặt cả tình cảm vào như đang nuôi đàn con.
        Vườn rau là niềm vui tuổi già của Ba, không những đem lại lợi tức nho nhỏ hàng ngày, mà qua đó, những suy tư của Ba cũng triết lý theo từng mầm xanh đang nảy nở mỗi ngày, bao muộn phiền như tan biến.  Tôi tự hào mình là người đã “khuyến khích” Ba bước vào con đường trồng trọt này.
        Nhìn dáng Ba cặm cụi bên những luống rau, dây bí, giàn mướp tôi ao ước cho Ba tôi mãi mãi có sức khỏe bên cạnh người bạn đời, ngoài niềm vui với gia đình con cháu còn vui với cả cỏ cây.  Mong cho những ngày tuổi già của Ba được thanh thản, nhẹ nhàng như quan niệm sống đầy bao dung của Ba vậy.
         Nhắc đến Ba má thì tôi không thể nào quên một câu chuyện, đó là một chiều cuối tuần đầu tháng Sáu, cách đây đã mười năm…
         Chuông điện thoại reo.
         – Con rảnh không, chở Ba má đi shopping?
         Tôi giật mình, suýt làm rơi cái điện thoại xuống đất.  Thường thì Ba Má tôi nhờ chở đi Chùa, đi chợ hoặc đi Bác sĩ.  Tôi chưa bao giờ nghe Ba Má tôi muốn đi shopping.  Tôi hỏi lại một lần nữa cho chắc ăn:
         – Dạ, đi đâu Ba?
         – Đi Mall.
         Rồi không đợi tôi điều tra thêm, Ba tôi nhỏ nhẹ giải thích:
– Ba muốn đưa Má con đi Mall để mua tặng Má con món quà kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới.
         Ôi, đúng là Ba tôi, môt người đàn ông Việt Nam vô cùng lãng mạn, dù tuổi đời đã hơn tám mươi.
         Thuở tôi còn bé và cả khi tôi đến tuổi cần để xây dựng hình tượng một người đàn ông cho đời mình, tôi vẫn mong ước đó sẽ là một người chồng, một người cha giống hệt Ba tôi vậy.  Tôi nhớ những khi Ba Má tôi có chuyện cãi nhau, Má tôi lúc nào cũng nóng nảy hay hờn giận; trong khi Ba tôi lúc nào cũng nhỏ nhẹ “Mình ơi, mình hỡi” ngọt xớt.  Ngày Ba Má tôi có cơ hội đoàn tụ thì tuổi đã cao, sức khỏe cũng theo thời gian mà giảm sút nhưng tình yêu của Ba dành cho Má vẫn tràn đầy, ấm áp.  Tôi đã nhìn thấy ánh mắt long lanh niềm hạnh phúc của Má khi nhận món quà kỷ niệm ngày cưới từ người chồng năm mươi năm mà Má thường đánh giá là “xấu trai, con nhà nghèo nhưng… học giỏi”… Cuộc hôn nhân kéo dài tính đến nay đã hơn sáu mươi năm với tám người con, bốn trai, bốn gái.  

        Ba Má tôi và các con dĩ nhiên cũng trải qua những cơn sóng trong gia đình, cũng trải qua bao thăng trầm của thế cuộc nhưng dù bất cứ điều gì xảy ra, tận đáy lòng tôi, Ba vẫn là một người dàn ông mẫu mực tuyệt vời.
         Đến năm 2012 thì cả nhà tôi các anh em, cháu nội ngoại được Ba tôi lần lượt bảo lãnh để đoàn tụ.  Tuy hơi lâu vì ngày tuyên thệ nhập quốc tịch của Ba bị trì hoãn, lý do: ngón tay trỏ của Ba bị tai nạn lao động ở chỗ làm, cắt cụt mất một lóng nên khó khăn trong việc lấy dấu
tay, phải làm tới làm lui mấy lần.  Thời gian chờ đợi quả là thăm thẳm, mỗi khi có tin tức bên nhà lộn xộn là Ba má lo canh cánh.  Tội nghiệp nhất là vào những kỳ mùa đông giá buốt, nếu Ba có cảm lạnh hay sốt, ho là Ba lo uống thuốc, chăm sóc bản thân, khi thắp hương trên bàn thờ Phật thì lẩm bẩm hoài:
         – Cho tui mạnh giỏi để đón mấy đứa con đứa cháu qua sum họp, đừng kêu tui đi sớm nghe ông bà.
         Ôi nghe mà xót cả ruột!
         Đợt cuối cùng đón người nhà từ VN qua, trong bữa cơm đoàn viên, Ba tôi thắp nhang ở bàn thờ Phật xong và nói trong nước mắt:
         – Bây giờ Ba có chết cũng yên tâm, cả nhà mình ở đây hết rồi, cháu nội cháu ngoại đứa nào cũng có cơ hội học hành, làm ăn đàng hoàng.  Ba hoàn thành tâm niệm rồi, cảm ơn Trời Phật!
         Tôi không biết các anh, em tôi khi nghe câu nói này, cảm giác như thế nào chứ riêng tôi, thật là đứt ruột!
         Năm này Ba tôi đã 88 tuổi, mắt mờ, tai nghễnh ngãng, thần thái không còn tươi.  Ba mang đầy đủ các chứng bịnh của người già, ngủ li bì cả ngày.  Sau một lần đi ra ngoài không nhớ đường về nhà thì Ba như rơi vào trạng thái trầm cảm, biếng ăn, lặng lẽ đến ngạc nhiên.
         Mùa hè đang đến, những lúc nhìn ánh mắt mờ đục của Ba khi ngắm khu vườn sau nhà không còn xanh mướt nhiều loại cây quả nữa, tôi thật quá đau lòng… Má tôi đi ngoại giao hàng xóm, xin về mấy gốc cây con Ba cũng không màng chăm bón.  Những thú vui đọc sách, xem TV… ba cũng lơ là hẳn, không còn lạc quan thưởng thức cuộc sống như trước kia.

        Còn đâu giọng nói sang sảng kể chuyện tù cải tạo, còn đâu hình ảnh Ba cặm cụi bên những luống rau, săm soi những búp non hay tỉ mỉ sửa sọan những quả mướp, quả khổ qua mơn mởn, lủng lẳng trên giàn.  Ba giờ đây lúc nhớ, lúc quên, chẳng còn biết phân biệt thời gian.  Suốt ngày Ba lục lọi, tìm kiếm; nếu hỏi: Ba kiếm gì vậy? Câu trả lời: Ờ, không biết Ba kiếm gì nữa! Khuôn mặt, ánh mắt Ba lúc ấy ngơ ngẩn như một đứa trẻ.  Trông thật tội.  Vậy mà con cháu mời ăn một món gì là ông cứ buột miệng hỏi: Má ăn chưa? Má đâu rồi? Một đời Ba tôi, lúc nào cũng nghĩ
đến vợ con trước hết, quên cả thân mình.

         Tôi không phải là một phụ nữ may mắn về đường tình duyên nhưng tôi cảm nhận mình là một người hạnh phúc.  Và lẫn lộn trong vùng trời kỷ niệm của đời mình, tôi chợt nhận ra hình ảnh của Ba tôi lúc nào cũng hiện hữu bên cạnh tôi như một cái bóng khi vui khi buồn.  Cùng tôi đi
du lịch, cùng ngồi xem giải vô địch bóng tròn, cùng bàn luận chuyện nhân tình thế thái, chuyện thời sự đó đây… Ba tôi là thế, đơn giản mà gần gũi; chiếc bóng của Ba đã phủ trùm lên cuộc đời tôi mãi mãi và duy nhất, không có gì thay thế được.  Tôi biết rằng không có ngôn từ nào có thể diễn tả đầy đủ về lòng biết ơn của con cái đối với bậc cha mẹ, không có tặng phẩm vật chất nào xứng đáng, có đủ ý nghĩa để tặng cha mẹ trong các ngày Lễ Trọng.  Tôi cầu mong cho Ba Má tôi luôn khoẻ mạnh, vui vẻ thanh thản tâm hồn trong những tháng năm còn lại của cuộc đời, như quan niệm sống của Ba vậy.

         Mỗi một ngày qua đi, bình minh rồi hòang hôn… tôi dành phần sâu thẳm trong trái tim tạ ơn đất nước đầy tình người và bao dung này đã cưu mang gia đình tôi.
         Cám ơn Ba, cám ơn cuộc đời đã cho tôi một món quà vô giá mà không phải thế gian này ai ai cũng may mắn có được.

Nguyễn Diệu Anh Trinh

From: Phi Phượng Nguyễn

LẺ BÓNG… – Bùi Bích Hà

Chau Nguyen Thi

LẺ BÓNG… – Bùi Bích Hà

Ông là một trong những bác sĩ Việt Nam di tản kịp trong biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Tới Mỹ, ông đi học lại, hành nghề rất sớm và thành công tại quận Cam ít nhất trên ba thập niên cho tới khi nghỉ hưu.

Tất nhiên như mọi người có cùng địa vị với ông, ông làm chủ một quỹ về hưu khá lớn, cho phép ông vẫn giữ nếp sống thoải mái như thời còn làm việc. Chỉ có điều, ông than thở: “Nhà cao cửa rộng phải bán đi vì lầu cao, đầu gối đau, không lên xuống cầu thang được, chưa kể nhà lớn quá mà một thân một mình, ở sao hết? Sức đâu mà dọn dẹp?

Nhìn cái hồ bơi đầy lá vàng chỉ thêm cám cảnh. Thảm cỏ sân trước, vườn sau cần người chăm sóc nhưng người làm vườn khi tới khi không, gọi khi được khi mất, chỉ tổ bực mình, nhức đầu. Mời các con, cô cậu nào muốn lấy cái nhà, ông giao nhưng chúng nó, thứ nhất đã có nhà rồi, đẹp và sang gấp mấy lần cái nhà của ông ở Fountain Valley, mắc mớ gì phải nhận của ông để bị anh chị em nhòm ngó, tỵ nạnh, chưa kể nhận cái nhà rồi, sau này khi ông cần gì, nó sẽ là đối tượng thứ nhất được chiếu cố và giao phó trách nhiệm.

Ông đành bán nhà, dọn vào một căn mobile home ở giữa khu Little Saigon cho ông tiện đi lại hoặc hẹn hò bạn bè cũ mới. Nhà ba phòng, sửa sang tươm tất trông cũng khang trang, đẹp mắt, nhưng với ông hôm sớm vào ra một bóng, vẫn còn quá dư thừa. Mấy bụi hoa xung quanh nhà được cắt tỉa gọn ghẽ vì người phụ trách cây cảnh của chủ đất rất dễ gọi để nhờ vả. Tuy nhiên, “vườn Thúy” của ông thiếu đôi mắt phượng nên không được sum suê và mỹ quan như bên hàng xóm. Ông nhớ cái vườn cây quý tự tay ông đi kén chọn mua giống, chăm bón và săm soi những ngày xưa thần tiên đã xa xôi rồi, ông tặc lưỡi, lắc đầu mấy cái, như người đi dưới cơn mưa muốn rũ sạch những giọt buồn trên khóe mắt.

Nhà đã vậy, xe đẹp cũng thường xuyên nằm ụ vì ông không còn đi đâu xa, ngay cả đi gần thì cũng phải về nhà trước khi tắt nắng vì mắt quáng. Gần đây, vẻ ngoài cái xe và ông chênh lệch nhau nhiều quá, một bên bóng lộn, khỏe mạnh, vạm vỡ, một bên hom hem, xập xùi, yếu ớt, khiến ông ngại ngùng mỗi khi ngồi vào ghế lái, chậm rãi lùi xe ra khỏi gara mà có người đang nhìn ông.

Thêm nữa, do thị lực yếu đi, ông không mấy tự tin vào khả năng ước lượng khoảng cách của cặp mắt mỗi khi cần vào một chỗ đậu xe hơi chật, sợ cọ quẹt, nên ông bắt đầu thấy cái xe Lexus 450 của ông không thích hợp với ông nữa. Gần đây, ông nghe bạn bè kháo nhau xe Honda kiểu Civic đời 2018 rất đẹp, đầy đủ tiện nghi, thoáng nhìn sang trọng không kém kiểu xe đắt tiền, mua mới từ dealer ra chỉ trên dưới $20,000, xài xăng thường, đổ đầy bình chỉ $20 một lần, bảo hiểm cũng rẻ, bảo trì càng không tốn vì hợp đồng bảo trì miễn phí của dealer có lẽ dài hơn số năm tháng còn lại của ông, chưa kể xe nhỏ nhắn, vào ra parking dễ dàng. Ông đang tính bữa nào chờ có đợt xeo, sẽ ra Honda World đổi một chiếc.

Lúc mới dọn vào khu mobile home trên đường Bolsa, thấy chợ Mỹ, chợ Việt đều gần, ông sung lắm, tự đi chợ và nấu nướng… Được ít ngày, một bữa ông đang ngồi xem ti vi, thoáng thấy có lửa cháy trên màn hình, ông hơi ngỡ ngàng, chưa biết là chuyện gì thì ông nghe mùi khét. Quay nhìn vào bếp, ông hết hồn thấy lửa đang phừng phừng. May phước đầu óc còn tỉnh táo, ông phóng ba bước tới cái lò và nhanh tay vặn cái nút tắt. Sau lần đó, lớp thì cọ rửa soong nồi, lớp lau bếp bắt mệt, may là máy báo khói chưa hú chớ không cả xóm kinh động rồi, ông quyết định thôi không nấu nướng nữa mà ăn cơm phần hay cơm chỉ cho khỏe, ngày nào ưa ăn ngon thì đi kéo ghế. Tủ lạnh nhà ông lúc nào cũng có chả lụa, chả chiên; tủ pantry thì đầy oat meal, súp hộp và mì gói, không bao giờ sợ cơ lỡ…

Thức ăn giải quyết được rồi nhưng ông nói ăn một mình buồn quá, nhiều khi nghẹn ngào muốn buông đũa, buông chén. Ông than không có gì chán hơn là cứ lui cui cặm cụi gắp, nhai, nuốt một mình, xung quanh vắng lặng không tiếng người, không cả tiếng dép hay tiếng rót một ly nước. Có bữa ông bưng cái tô vừa cơm vừa thức ăn ra đứng bên cửa sổ bếp, ngó mông ra ngoài, thử coi có gì vui không nhưng cũng đâu có gì vui?

Cư xá của ông toàn người cao niên, vắng cả tiếng trẻ con nô đùa. Cụ Nguyễn Du chẳng đã từng hạ bút viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” ư? Trong trí tưởng ông, thấp thoáng hiện lên quang cảnh gia đình đông vui ngày nào, vợ ông tươi mát như một bông huệ tây, ngồi giữa đám cháu nội ngoại lau hau, đứa này níu tay ông, đứa kia níu tay bà, om xòm tiếng Anh tiếng Việt, grand ma, grand pa, bà ngoại, ông ngoại, hỏi một trăm câu hỏi mà ông chỉ trả lời qua loa rồi bán cái cho bà, bà không biết sao thì lại chỉ qua ông.

Riêng ông chốc chốc nhìn đồng hồ, chỉ mong sao đến giờ, bố mẹ chúng tới đón hết đám trẻ của từng nhà về để trả lại ông bà ngôi nhà yên tĩnh trong buổi chiều. Trong khi bà kiên nhẫn dọn dẹp đồ chơi và thức ăn thừa mứa do lũ trẻ bỏ lại, ông ngồi duỗi chân xem ti vi tin tức hay ca nhạc, chờ bữa ăn tối ngon lành, nóng sốt, thay đổi hàng ngày nhờ bàn tay của bà…

Bây giờ, ông đảo mắt nhìn một lượt căn nhà sạch sẽ, sàn gỗ không một cọng rác, một mẩu giấy vụn, bàn ghế ngay ngắn, đồ đạc đâu vào đấy, trật tự, lạnh lẽo như chưa từng xô động, như không có ai ở, ông thấm ngấm đến tận xương tủy cảm giác hiu quạnh lạ thường. Đàn cháu nội ngoại ngày nào ríu rít như chim, nay đã trưởng thành, vào/ra đại học hết. Thỉnh thoảng có đứa còn nhớ ông, điện thoại hỏi thăm, tới chở ông ra phố uống cà phê hay ăn chè, khiến ông vui cả ngày.

Bạn bè cũ biết ông thích hát, có người rủ ông đi karaoke buổi tối ở các câu lạc bộ khiêu vũ. Ông theo họ đi giải trí cho quên bớt thời giờ trống trải nhưng trở ngại của ông là ông thích hát song không thích nhảy đầm. Hát xong vòng đầu, ông phải chờ khá lâu mới đến vòng nhì và sẽ về khuya lắm, ông sẽ mất ngủ vì quá giấc rồi lại phải uống thuốc ngủ mà ông thì rất sợ bị nghiện. Vì vậy, ông không đi thường xuyên như lúc bắt đầu nữa, đành chấp nhận nhiều hôm một mình đối bóng với đêm trường.

Năm nay ông đã ngoài 80 nhưng 10 năm trước ông chỉ mới ngoài 70. Chẳng phải ông vì lễ giáo của tông môn và sợ miệng đời mai mỉa mà nhắm mắt bỏ qua cơ hội đi tìm kiếm một hạnh phúc cho quãng đời còn lại của ông ư?

Như gia chủ buổi họp mặt bằng hữu hôm nay cũng ngoài 70 khi hai ông bà gặp nhau trong tình cảnh góa bụa, hiểu ra họ cần nhau và quyết định tạo dựng một mái ấm chung với con cái hai bên đều đồng thuận chọn lựa của bố mẹ. Họ vui lòng trả giá để có những buổi sáng thức dậy cùng nhau đón mặt trời và nghe chim hót trong vườn, ngồi bên nhau uống tách cà phê thơm đầu ngày, ăn món điểm tâm tùy thích, nói năm ba câu chuyện trên trời dưới biển đem lại cho nhau những tràng cười sảng khoái.

Tại sao khước từ những ngụm mật ngọt ấy, cái hạnh phúc ấm êm cận kề ấy mà nghĩ rằng mình khôn ngoan? Thật ra, chỉ vì vẩn vơ lo sợ những điều mình không biết trước và biết chắc có xảy ra hay không? Mà nếu biết trước và biết chắc, liệu có tránh được không, ngay cả xoay chuyển chúng được không? Ở chặng đường cuối một đời người, không ai còn nhiều thời gian phí uổng nữa nhưng có lẽ phí uổng là cách giải quyết dễ nhất khi không có nhiều chọn lựa.

Trên cõi trần gian nhiều phiền trược này, chỉ nghe con người phàn nàn đời không một ngày hạnh phúc nhưng không nghe ai thở than đã một thời hạnh phúc cho dù sau đó, như bầu trời mưa nắng bất thường, vạn vật đổi thay và hạnh phúc cũng sang trang…

Riêng ông, hoàn cảnh có khắc nghiệt hơn vì bà đang ở nhà dưỡng lão. Hằng ngày vào thăm bà, nhìn vào đôi mắt trống vắng, lạnh băng của bà, cầm hai bàn tay bà ấm thân nhiệt, không ấm một dấu hiệu cảm xúc, ông nghẹn ngào nói thầm: “Em ơi, em đã trả lại mọi buồn vui cho đời, không còn bận tâm chi nữa, có biết là anh rất khổ không?” Ông hỏi rồi ông tự nghiệm ra câu trả lời, không ai có thể giúp ông một câu trả lời nào khác.

Mỗi ngày qua, hết chiều đến đêm, hết những công việc phải chu toàn cho mình trong cuộc sống như một bổn phận không thể chối từ, ông ngồi trên ghế bành, mở ti vi cho có tiếng người, không xem, không nghe. Mở nhạc để âm thanh cho ông sự êm dịu trong căn nhà lạ dù ông đã ở đây gần ba năm. Nó không cho ông một hồi ức nào nên không có gì gắn bó.

Ông thèm một tách trà thơm, một ly cà phê nóng nhưng ông ngồi yên vị tại chỗ vì biết những thú vui nhỏ ấy sẽ làm ông mất ngủ. Con đường của người già là con đường trong những bức tranh hay tấm hình vẽ hoặc chụp viễn cảnh, hun hút, thu hẹp dần trong mắt nhìn.

Ông chợt mỉm cười nhớ lại câu nói bâng quơ của người bạn đồng cảnh, thốt lên trong một cuộc họp mặt anh em: “Mai mốt chắc là phải đặt mua robot của Nhật.” Câu nói nhỏ, tan vào đám đông huyên náo… Ông ngồi gần, nên lọt tai. Không biết có ai cũng lọt tai câu nói như ông nhưng cũng như ông, đã cất riêng cho mình như lời tự thú về một mơ ước không tiện bày tỏ?

Đôi mắt ông nhìn mông lung ra xung quanh, chạm vào cái kệ sách chỉ còn lại ít sách quý ông mang theo tới đây, ngậm ngùi hình dung ra đời mình như cuốn sách, nay cũng đang khép lại trên án thư , các nhân vật có vai trò đã xuất hiện, đã làm xong nhiệm vụ, đã bước ra, chỉ còn ông ở trang cuối cùng chờ cơn gió nhân duyên thổi tắt ngọn nến từ bi trong thời kinh Bát Nhã ông tụng hằng đêm, đóng lại giùm ông cuốn sách sẽ được xếp lên kệ rồi bỏ quên như chưa từng hiện diện .

 Bùi Bích Hà

ĐÁM CƯỚI – Trần Mộng Tú

Chau Nguyen Thi

ĐÁM CƯỚI

(Trần Mộng Tú)

Bà mẹ cô dâu đưa thêm người khách nữa vào bàn cho đủ mười người. Trong bàn đã có bốn cặp vợ chồng và một phụ nữ đi một mình.

Bà tươi cười giới thiệu:

Đây là chị Trang, mẹ đỡ đầu của cô dâu, em xin được đưa chị Trang ngồi đây với các anh chị.

Bà Trang còn khá trẻ, so với những cặp đôi trong bàn, chỉ khoảng ngoài 40, khẽ cúi nhẹ đầu chào mọi người. Mắt bà chợt mở to hốt hoảng khi chạm vào cặp mắt của người phụ nữ ngồi đối diện với mình, người phụ nữ cũng đi một mình. Người này cũng chạc tuổi bà. Cả hai cùng như sững người lại trong một giây rất ngắn, rồi họ cũng nghiêm mặt lại, cười nhẹ như chưa hề biết nhau. Họ ngồi đối mặt nhau nên thỉnh thoảng lại nhìn nhau, rồi lại giả vờ như không nhìn thấy nhau. Người phụ nữ đó được cặp vợ chồng ngồi cạnh gọi là chị Hoa.

Hoa nói trong đầu: Đúng là Trinh rồi, sao bây giờ lại là Trang. Người đàn bà tên Trang đó cũng hơi cau mày lại: người này tên là Hoa à? Hay mình nhìn nhầm. Cũng may họ không ngồi cạnh nhau nên không phải nói chuyện với nhau, nhưng họ lại đối mặt nhau nên khó lòng tránh cặp mắt của nhau. Những người khách cùng bàn nói cười vui vẻ, tiếp thức ăn cho hai người phụ nữ độc thân, cả hai chắc chắn cùng trẻ hơn họ.

Hai người đàn bà trẻ đó thỉnh thoảng vẫn nhìn trộm nhau, thỉnh thoảng bắt gặp ánh mắt nhau, cả hai cùng bối rối, họ như muốn nói với nhau một điều gì nhưng lại không nói được.

Bỗng một ông khách trên bàn đang nói chuyện con cái, chuyện sắp về hưu đổi đề tài, hỏi hai người đàn bà độc thân: Hai chị sang đây từ năm nào?

Bà Trang ngập ngừng: Dạ…dạ từ năm 1985, nói xong bà hạ mi mắt thật thấp xuống, tránh nhìn bà Hoa.

Bà Hoa làm như không nghe thấy câu hỏi, nghiêng đầu sang nói khe khẽ điều gì với bà ngồi bên cạnh mình, không trả lời câu hỏi của ông khách.

Ông khách nhấc ly rượu vang uống khà một cái, quên cả câu mình vừa hỏi, bắt sang chuyện khác..

Khi cô dâu chú rể đi chào bàn cùng cha mẹ thì cả bàn mới biết thêm là ngoài bà Hoa là mẹ đỡ đầu của cô dâu từ Okahoma tới, bà Trang lại là cô ruột của chú rể từ Kansas về. Cặp vợ chồng mới cưới ôm thắm thiết hai người phụ nữ khiến cả hai người đàn bà cùng ứa nước mắt cảm động. Cô dâu nói:

Hôm nay con vui lắm vì cả hơn 20 năm nay mẹ đỡ đầu của con không có chịu đi gặp ai hết.

Chú rể cũng hấp tấp nói theo:

Cả con cũng mừng nữa, cô của con trốn gia đình lâu quá rồi, con phải nói bây giờ tìm được cô rồi, nếu cô không về ăn cưới con thì con không lấy vợ nữa đâu.

Cả bàn ai cũng cười to vì biết anh chàng này nói dối.

Cô dâu chú rể bắt đầu cắt bánh, rồi khai mạc kiêu vũ, những người lớn tuổi khẽ chào nhau, kẻ trước người sau ra về.

Bà Trang và bà Hoa không biết họ có thần giao cách cảm gì mà hai người phụ nữ cùng đi về phía cuối một hành lang khá vắng. Khi họ chạm vào vai nhau cả hai cùng đứng khựng lại, họ nhìn sững vào mắt nhau:

Trinh ơi!

Hân ơi!

Rồi họ ôm choàng nhau cùng khóc nức nở. Cái thảm kịch vượt biên bị hải tặc hãm hiếp cả hai chị em cùng chịu đựng gần 30 năm về trước hiện ra trước mắt họ.

Trinh nói trước.- Khi ra trại và biết mình có mang em đã không tìm về với họ hàng, em đi trốn thật xa ở những nơi không có hoặc có rất ít người Việt. Em nhất định không cho ai biết em là nạn nhân của hải tặc. Em không muốn bị khinh bỉ hay được thương hại. Đứa bé sanh ra thì em bệnh gần chết, phải cho một gia đình không có con. Em yếu đuối quá, tai nạn ngoài sức chịu đựng của em. Con em bây giờ nó hạnh phúc có cả cha lẫn mẹ yêu thương, em xin cha mẹ nuôi nó nói là em đã bệnh chết rồi, để nó được sung sướng, không thắc mắc hay đi tìm. Em không muốn con em lớn lên biết cha nó là một hải tặc, mẹ nó bị hãm hiếp mới sanh ra nó. Em thay tên, đổi chỗ ở rất nhiều lần vì mỗi khi gặp người Việt em lại sợ, chỉ sợ họ biết em đã là nạn nhân hải tặc. Vài ba năm em mới liên lạc với gia đình một lần, nhưng nếu họ muốn thăm em thì em lại thay đổi địa chỉ. Lần này về em tính lại dọn đi nữa, nhưng chưa biết sẽ đi đâu.

Hân quàng tay ôm chặt lấy bờ vai gầy của bạn mà nghe chính thân xác mình đang rung như cái cây bị gió.

Mình cũng thế, mình may mắn không có mang nhưng cũng bị cướp mất sự trong trắng của tuổi xuân trong ký ức kinh hoàng đó. Ngay khi còn ở trong trại tỵ nạn mình đã tránh nhìn những cặp mắt thương hại của đám đàn ông và mình biết chắc rằng không ai trong đám đàn ông này dám yêu mình và những người đàn ông khác sau này chẳng ai muốn lấy mình làm vợ. Người yêu của mình đã bỏ đi sang khu khác trong trại, ngay sau khi mình tỉnh lại, đã dạy cho mình biết lòng dạ hẹp hòi của đàn ông. Nên khi ra trại là mình tách ngay ra khỏi gia đình người bà con mình đi chung và đi thật là xa cộng đồng người Việt. Mình cũng thay tên khi vào quốc tịch, không muốn ai nhận ra mình. Mình biết mình không thể yêu một người đàn ông nào được nữa. Cũng như Trinh, mình về ăn cưới cháu lần này rồi lại sẽ đi biền biệt.

Cả hai nói xong cùng im lặng. Họ như cùng quay ngược thời gian, nhớ lại cuộc hành trình l5 ngày trên biển, con tầu lạc trong mưa bão, sóng gió, nôn mửa. Kẻ chết vứt xuống biển, người sống nằm chồng lên nhau. Rồi hải tặc tới, một đám gần mười tên. Đàn ông trong tầu không có khí giới, lại đã yếu đi sau hơn 10 ngày trên biển, vài người chống lại, bị chém, quăng xuống biển. Tất cả phụ nữ già trẻ đều bị hãm hiếp, không phải chỉ một lần, mà hai ba lần với những tên hải tặc khác nhau. Tiếng thét, tiếng khóc, tiếng sóng hòa vào nhau. Trinh và Hân là hai cô gái ở tuổi mới ngoài hai mươi, làm sao chịu nổi cái định mệnh tàn khốc đó. Đau đớn là Hân lại đi với người tình, anh trốn được vào trong một khoang tầu, khi anh chui ra là lúc hải tặc đã bỏ đi, Hân nằm ngất với những vết thương không biết gọi tên là gì.

Im lặng, hai người đi bên nhau. Định mệnh nào đã thu xếp cho họ gặp lại nhau. Họ đã trốn đám đông, xa lánh cộng đồng hơn 20 năm nay. Họ đã thu mình khuất lấp, thay tên đổi họ, thay đổi chỗ ở luôn luôn, nhưng tối nay vì gia đình, họ gặp lại nhau, quá khứ tất cả bỗng lại quay trở về. Họ biết mình đã là nạn nhân của hải tặc và mãi mãi không bao giờ họ thoát ra được cái ám ảnh đó.

Tiếng nhạc trong đám cưới vọng ra ngoài hành lang nghe lao xao như tiếng sóng va vào thành tàu.Trong bóng tối hành lang hai người đàn bà đứng ôm nhau, im như một bức tượng đá đặt ngoài nghĩa trang.

tmt

Tháng 4 năm 2020

(FB Tigon Le)

Đứa con trai lưu lạc của một Bác sĩ Quân Y hy sinh trận Phước Long 12/12/74…-TRUYỆN NGẮN

Van Pham

TRUYỆN NGẮN

Câu chuyện có thât, nhưng được tiểu thuyết hóa cho thêm phần hấp dẫn…

****

Đứa con trai lưu lạc của một Bác sĩ Quân Y hy sinh trận Phước Long 12/12/74…

Bác sĩ Nguyễn Vũ Thanh Sơn, chạy vội lên cầu thang, nhảy từng ba bậc một để lên lầu 4. Không dùng thang máy vì phải đợi quá lâu, bác sĩ Sơn vừa chạy vừa nói vào điện thoại cầm tay, ra lệnh cho y tá chích thuốc giải cơn động kinh ngay cho người bệnh nhân nằm trong phòng 412.

Chàng mở cửa phòng bước vào, cô y tá người Phi Luật Tân, nhỏ nhắn dễ thương như phần lớn những y tá gốc người Phi làm việc tại bệnh viện của đại học y khoa Irvine này, cười trấn an chàng:

– Êm rồi! Lúc nãy ông ta làm dữ quá!

Chàng gật đầu tiến đến gần giường người bệnh, lấy hồ sơ đọc. Ông Lê Hoàng Sử, 62 tuổi, ung thư chính gốc tại gan, đã chạy lan sang phổi và não bộ, bắt đầu lên những cơn động kinh thưòng xuyên và nhập viện được 3 ngày nay. Chàng thuộc nhóm bác sĩ chuyên môn về ung thư của đại học UCI,hôm nay là ngày trực của chàng, phải trông coi hơn chục người bệnh của khu ung thư nằm tại lầu 4 này. Sơn nhìn người bệnh. Mắt ông ta nhắm lại, tay chân duỗi ra, đang ở trạng thái của người bị kinh giật vừa chấm dứt.

Người bệnh trông đầy quen thuộc, như thể chàng đã gặp nhiều lần nhưng không nhớ đích xác. Sơn cố ngẫm nghĩ. Tại sao ông ta trông quen quá vậy? Chàng gặp ở đâu? Lúc nào? Sơn lắc đầu. Không thể nhớ được. Chàng hỏi người y tá về những kết quả thử nghiệm máu mới nhất. Cô y tá ra khỏi phòng để dùng máy in ra kết quả gửi lên từ phòng thí nghiệm. Trước khi ra cô ta quay đầu lại hỏi:

– Bác sĩ cần gì khác nữa không?

Sơn lắc đầu. Chàng nhìn lại người bệnh. Bỗng dưng ông ta mở mắt ra, nhìn dáo dác một lúc rồi dán mắt vào Sơn.

Tiếng rú từ người bệnh làm chàng giật nảy người, cô y tá vừa bước ra ngoài chạy vội trở lại đến giường bệnh. Ông Sử nhỏm phắt người lên, hai tay chắp lại, vái chàng lia lịa như tế sao:

– Ông Thày! Ông Thày! Em, Sử đây ông thày ơi! Ông Thày đừng bắt em tội nghiệp!

Cô y tá tiến lại, định đè ngưòi bệnh xuống và chích thêm một liều thuốc giải động kinh nữa. Nhưng Sơn ngăn lại. Chàng biết người bệnh lên cơn mê sảng, ảo giác tưởng chàng là ai khác. Chàng nắm lấy tay người bệnh, nói tiếng Việt:

– Không sao đâu bác! Tôi là bác sĩ Sơn. Bác thấy trong người ra sao?

Ông Sử tiếp tục lắp bắp:

– Ông Thày ơi! Em không dám trái lời ông thày đâu. Em vẫn theo dõi con ông thày mà!

Sơn nhìn lại người bệnh. Câu nói của ông Sử như khêu gợi trí nhớ Sơn, làm chàng đột nhiên nhận ra người đàn ông trước mặt. Chàng đã gặp người này nhiều lần, từ gần hai mươi năm nay. Ông ta đã có mặt trong tất cả những ngày trọng đại của chàng.

Ngày chàng học xong trung học, trong buổi ra trường, Sơn là thủ khoa valedictorian, chàng đứng trên bục để đọc diễn văn, người đàn ông này đã ngồi ngay hàng ghế đầu, nhìn chàng chăm chăm. Sơn thấy lạ, nhưng đoán ông ta là phụ huynh của bạn học cùng lớp.

Ngày chàng học xong đại học, sau 4 năm tiền y khoa, khi mặc mũ áo chụp hình với gia đình, chàng thấy ông ta lẩn quẩn đứng bên, nhìn chàng chăm chú. Nhưng cũng chỉ nghĩ là người nhà của các bạn khác đang chụp hình bên cạnh.

Ngày chàng được nhận vào đại học y khoa University of California ở Irvine này, gia đình Sơn ăn mừng ở tiệm ăn, chàng cũng thấy ông ta ngồi bàn bên cạnh. Buổi lễ mặc áo trắng của năm thứ nhất, white coat ceremony, chàng cũng thấy người này ngồi hàng ghế đầu.

Ngày Sơn ra trường với mảnh bằng bác sĩ, cũng có mặt ông ta. Bây giờ Sơn đã quả quyết. Người bệnh nhân đang lên cơn mê sảng trước mặt chàng, đã theo dõi chàng từ gần hai mươi năm nay.

Nhưng tại sao? Và chàng còn nhớ lại nhiều điều khác. Sơn được nhiều học bổng của các tổ chức người Việt ở Quận Cam này, phòng thương mại, hội bảo vệ văn hóa, hội các thương gia… Chàng thấy tên Lê Hoàng Sử khá quen, hình như ông ta đã là chủ tịch của nhiều hội của người Việt tại Quận Cam này nhiều năm qua. Có thể nào những học bổng dành cho chàng đó là do chính ông Lê Hoàng Sử này? Rồi nhiều lần chàng đã ngạc nhiên khi thấy tiền học phí đã được ai trả hết, có hỏi văn phòng tài chánh của trường cũng không biết, chỉ thấy là account của chàng về học phí đã được chuyển tiền bằng điện tử để thanh toán, không biết ai là người gửi.

Người bệnh chợt im lặng, nằm xuống lại. Một lúc sau, ông ta mở mắt r. Lần này cặp mắt đã tinh anh, nhận biết khung cảnh chung quanh, như một người đã tỉnh táo sau cơn mê sảng. Ông ta nhìn thấy Sơn và cất tiếng:

– Chào bác sĩ Sơn! Tôi mừng thấy ông làm việc ngày hôm nay. Tôi có nhiều điều cần nói với bác sĩ. Ông Sử đã lấy lại phong thái của một người giàu có, được mọi người kính nể. Sơn bây giờ nhớ lại đã nghe nhiều người nói. Ông Lê Hoàng Sử là một trong những người Việt thành công và giàu nhất tại Quận Cam này, chủ nhân ông của một khu shopping lớn trên đường Bolsa, cũng như có nhiều khu apartments cho thuê ở Garden Grove. Ông Sử thở dài:

– Tôi biết tôi không còn sống được bao lâu nữa. Bác sĩ biết rõ hơn tôi. Tôi đã yêu cầu để đổi ngày trực của bác sĩ sang hôm nay. Vì tôi không biết có còn đến được ngày mai nữa hay không!

Sơn nhìn lại hồ sơ bệnh lý. Hình CAT scan cho thấy ông Sử đã có ung thư chạy đầy trong phổi, trong xương. Trên não bộ đã có 4 chấm lớn trong thùy thái dương, không lạ gì ông ta bị động kinh và mê sảng nhiều. Nhưng bây giờ chàng thấy ông Sử tỉnh táo và sáng suốt như một người bình thường, không chút bệnh tật. Ông Sử tiếp tục:

– Bác sĩ ngồi xuống đi! Điều tôi cần nói với bác sĩ tôi phải kể hết và sẽ gây ra nhiều bất ngờ. Tôi muốn bác sĩ bình tĩnh!

Sơn mỉm cười. Chàng có nhiều người bệnh lạ thường, nhưng không ai như ông này. Vừa dứt cơn động kinh, mê sảng, lại khuyên chàng phải bình tĩnh. Sơn kéo ghế ngồi. Ông Sử bắt đầu:

– Cha của bác sĩ là bác sĩ Phan Kim Trấn, tử trận tại bệnh viện tiểu khu Phước Long ở Việt Nam ngày 6 tháng 1 năm 1975. Tôi là y tá của bác sỉ Trấn.

Sơn lặng người. Chàng không tin ở tai mình. Ông Sử nói bằng một giọng trịnh trọng, thành khẩn. Như một người tin mình đang ở trong giây phút thiêng liêng nhất, để trút lộ một bí ẩn đã đeo đuổi hàng mấy chục năm qua, đã chờ đợi hơn nửa đời người để được giải thoát khỏi một gánh nặng, canh cánh bên mình. Ông Sử im lặng. Sơn cũng không nói.

Nhưng trong đầu óc chàng hàng trăm ngàn ý nghĩ khác nhau vùn vụt hiện đến. Những thắc mắc, nghi ngờ từ khi còn thơ ấu, những câu hỏi phải dấu kín không dám hở môi để hỏi ai. Tại sao chàng cao lớn như vậy, trong khi mấy em đều thấp nhỏ. Khuôn mặt chàng cũng khác hẳn hai người em trai. Dáng điệu cũng như tính tình của chàng cách biệt quá nhiều với những người em khác. Không ai nói ra nhưng Sơn biết. Chàng xin ra ngoài ở riêng rất sớm và gia đình chàng vẫn vui vẻ, hòa thuận. Nhưng những câu hỏi vẫn nằm đó, chưa bao giờ được trả lời. Cho đến ngày hôm nay.

Ông Sử nhìn chàng, như để thăm dò phản ứng. Rồi ông nói tiếp:

– Tôi xin phép để gọi bác sĩ là cháu. Vì lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là em của bác sĩ Trấn, đã từ hơn 35 năm nay! Bác sĩ Phan Kim Trấn ra trường về làm việc tại bệnh viện tiểu khu của tỉnh Phước Long đầu năm 1974, lúc đó chú đã là y tá làm việc tại bệnh viện này được hơn một năm. Chú được bác sĩ Trấn nhận làm y tá thân cận. Tiếng Việt hồi đó hay gọi là đệ tử, hay còn gọi là “tà lọt”, những chữ này chắc cháu không nghe đến, tuy chú biết cháu giỏi tiếng Việt. Cháu chỉ cần biết là bác sĩ Trấn rất thương chú, cũng như chú kính trọng và sẵn sàng xả thân để làm mọi chuyện cho bác sĩ Trấn, không quản ngại bất cứ điều gì.

Chú không biết cháu có tìm hiểu nhiều về Việt Nam hay không, tuy chú vẫn theo dõi cháu và biết hết những sở thích cũng như những học hỏicủa cháu. Nhưng cuộc chiến ở Việt Nam đầu năm 1975 khốc liệt vô cùng và tỉnh Phước Long, nơi ba cháu và chú làm việc đã chịu tai họa nặng nề nhất trong các trận đánh của miền Nam lúc đó. Ngày cháu sinh ra đời, mẹ cháu đánh điện tín lên báo tin sinh cháu, ba cháu mừng vô cùng. Nhưng ba cháu không thể về thăm được. Vì tỉnh Phước Long lúc đó đã bị bao vây bốn phía, con đường duy nhất để về là bằng máy bay, ngoài ra là kẹt hết.

Hôm đó cũng là ngày người bạn thân của ba cháu, là phi công chở đồ tiếp tế cho tiểu khu bay chuyến bay chót đến Phước Long. Người bạn ba cháu khuyên ba cháu về cùng với ông ta nhưng ba cháu không chịu. Ba cháu bắt chú đi cùng với người bạn và ba cháu ra phố để làm chuyện này.

Ông Sử im lặng một lúc. Rồi tháo vòng dây đeo cổ bằng vàng, có xỏ một miếng ngọc xanh biếc hình chiếc lá, chạm trổ cực kỳ tinh vi. Ông Sử ngắm nghía một lúc và thở dài:

– Ba cháu lúc nào cũng đeo hai miếng ngọc bích này, nói là bùa hộ mệnh. Hai miếng ngọc này giống hệt nhau, ba cháu bắt chú đi theo ra tiệm kim hoàn và mua một dây đeo cổ khác để làm thành hai vòng dây đeo, mỗi vòng dây xỏ một miếng ngọc bích này. Ba cháu giữ một vòng, còn vòng kia đưa cho chú. Ba cháu nói:

– Sử! Mày về đưa chiếc vòng này cho vợ tao, để khi nào con tao lớn cho nó đeo. Tao đã nói chỉ huy trưởng ký giấy phép cho mày về Sài Gòn, giấy phép đây. Mày đi theo anh Kha bay về Sài Gòn để lo cho vợ con tao. Chú khóc như mưa. Vì chú biết rằng ở lại Phước Long là chết. Ba cháu vì nghĩa vụ, không chịu về. Nhưng đã lấy giấy phép cho chú để về cùng với đại úy Kha, bay chuyến chót về Sài Gòn. Để lo cho mẹ cháu và cháu. Vì ba cháu đã linh cảm biết mình không qua được trận đánh này!

Ông Sử ngậm ngùi, mắt nhắm lại. Như hồi tưởng lại những hình ảnh cũ, đã hơn 35 năm, nhưng lúc nào cũng hiển hiện như ngày hôm qua. Ông nhìn Sơn, ngập ngừng:

– Chắc cháu đang tự hỏi tại sao đến bây giờ chú mới nói chuyện này. Và sao chú giữ vòng dây đeo cổ này từ đó đến nay?

Ông cúi đầu xuống, như kẻ ăn trộm bị bắt quả tang. Nhục nhã, tự khinh mình.

– Chú đeo miếng ngọc bích này vào cổ. Và chú không muốn rời nó ra nữa! Ngay đêm hôm sau khi chú về tới Sài Gòn, Phước Long thất thủ và chú nghe tin ba cháu chết trong đêm đó. Chú nhiều lần đến nhà cháu để giữ lời với ba cháu, nhưng nửa đường chú đều quay về. Vì chú tự nhiên có ý nghĩ, miếng ngọc bích này đã cứu mạng chú, nó mang lại cho chú sự may mắn quá lớn. Rời nó ra là chú sẽ chết. Và chú đã phản bội lời hứa với cha cháu. Chú đã giữ miếng ngọc này, đến ngày hôm nay. Chú là kẻ cắp, chú là một kẻ khốn nạn!

Nhưng miếng ngọc này đã cho chú những may mắn lạ thường. Từ khi sang Hoa Kỳ đến nay, tuy chú ít học nhưng làm cái gì cũng thành công. Chú tạo được tài sản rất lớn ở đây, tất cả là nhờ chú đeo miếng ngọc ba cháu đưa cho chú, để trao lại cho cháu!Chú lúc nào cũng bị cắn rứt về sự phản bội ba cháu. Và chú đã kiếm ra tông tích gia đình cháu từ hơn hai mươi năm nay, để theo dõi cháu, đỡ đần cho cháu. Cháu bây giờ đã thành công, làm bác sĩ như ba cháu, chú cũng đỡ ân hận phần nào. Nhưng bây giờ chú không còn sống được bao lâu nữa, vật xưa phải hoàn lại cố chủ, miếng ngọc này là của cháu, chú xin trả lại cho cháu.

Ông Sử trao chiếc vòng dây đeo cổ xỏ miếng ngọc bích hình chiếc lá cho Sơn. Và ông rút trong túi áo ra một miếng giấy nhỏ. Ông nói:

– Chú không biết đây là điềm gì! Nhưng tuần trước, lúc chú còn đi lại được, chú ra ngoài Phước Lộc Thọ và tình cờ chú gặp lại đại úy Kha. Ông nói muốn tìm tin tức cháu. Chú không nói gì nhưng có ghi số điện thoại của ông để liên lạc sau. Cháu gọi cho ông ta!

Ông Sử như đã quá mệt, thở dốc một hồi rồi nhắm mắt lại. Sơn nhìn ông ta, cảm xúc tràn đầy trong lòng. Chàng không biết nói gì, hỏi gì hơn. Tất cả đến quá đột ngột, chàng cần thời gian để lãnh hội và tìm hiểu. Sơn đeo chiếc vòng dây vào cổ. Miếng ngọc bích mát rượi trên ngực chàng, bỗng dưng đem lại cho chàng một cảm giác lạ lùng chưa bao giờ thấy. Như một sự an bình, như một sự trở về. Nhưng đồng thời vẫn có một thôi thúc nào đó, đòi hỏi sự tìm kiếm.

Như nửa phần vẫn thao thức để tìm nửa phần còn lại. Sơn không hiểu nữa. Và chàng cố gạt mọi ý nghĩ để trở lại với công việc, với những người bệnh nhân đang chờ chàng để được săn sóc, để được hồi phục. Chàng phải quên chuyện riêng bây giờ để thi hành nghĩa vụ của chàng trước đã. Như bác sĩ Phan Kim Trấn 35 năm về trước. Sơn vẫn chưa thể nghĩ đến hình ảnh của người bác sĩ này như cha mình được. Chàng cần thêm thời gian.

****

Sơn bước vào khu Phước Lộc Thọ. Chàng thấy ngay ông Kha ngồi uống bia một mình bên chiếc bàn nhỏ. Qua điện thoại, ông ta đã dặn chàng:

– Tôi sẽ đội một chiếc mũ nâu, quấn khăn cổ màu nâu, ngồi ở quán ăn nhỏ đầu tiên cạnh đường đi, đối diện với tiệm sách. Đúng một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ đợi cháu ở đó nhé!

Ông Kha đã sửng sốt bên kia đầu dây khi Sơn gọi, nói chàng muốn biết thêm về bác sĩ Phan Kim Trấn. Chàng không nói gì nhiều hơn. Nhưng chừng như ông Kha đã linh cảm được, và muốn gặp chàng ngay tại khu Phước Lộc Thọ này. Ông Kha đứng lên khi thấy Sơn bước vào. Phản ứng của ông y hệt như ông Sử, khi gọi chàng là ông Thày trong cơn mê sảng. Ông Kha sững sờ, ôm chầm lấy chàng, nghẹn ngào:

– Trấn! Đúng là mày đây rồi Trấn ơi!

Vòng tay ông ôm siết làm Sơn gần ngộp thở. Chàng khẽ nới tay ông ra và giơ tay ra bắt tay ông Kha:

– Cháu là Nguyễn Vũ Thanh Sơn. Bác Kha phải không ạ!

Ông Kha như đã tỉnh trí. Ông ngắm nghía Sơn một lúc rồi nói:

– Cháu giống bố cháu như hệt! Không khác một điểm nào cả! Bác không cần phải hỏi gì nữa, ai nhìn thấy cháu cũng biết cháu là con của bác sĩ Phan Kim Trấn rồi!

Ông kéo ghế cho Sơn ngồi:

– Cháu ngồi xuống đây đi. Đúng là lòng trời run rủi! Bác về đây ở vùng này đã ba năm, lúc nào cũng ìm tin tức gia đình cháu. Ai ngờ đâu cháu ở ngay đây. Lại là bác sĩ nữa. Như bố cháu ngày xưa. Ông Trời có mắt thật!

Ông gọi món ăn. Bảo chàng còn bao nhiêu chuyện để nói, phải ăn chút ít để nghe ông kể!

– Bác là bạn thân của ba cháu từ khi còn nhỏ, ở cùng chung xóm. Gia đình ba cháu ngày xưa nghèo lắm. Ông nội cháu từ Bắc di cư vào Nam, làm ăn rất khó khăn, rất chật vật. Bà nội cháu mất sớm, chỉ còn mình ông nội cháu nuôi ba cháu ăn học. Cháu không thể tưởng tượng công lao cực khổ của ông nội cháu lúc đó. Ông cháu đạp xích lô ban ngày, đến chiều về lại còn phải đạp xe ba bánh để đem bán những gạch vụn cho những ai xây cất nhà cửa, tiếng Việt gọi là xà bần, chữ này chắc cháu chưa nghe bao giờ, nhưng không sao.

Cháu nói và hiểu tiếng Việt như thế này đã là giỏi lắm rồi.Ba cháu học rất giỏi, nhà nghèo và cực khổ như vậy nhưng vẫn cố gắng để thi đậu vào trường Y Khoa ở Sài Gòn. Bác cùng học lúc nhỏ chung với ba cháu, không hiểu ba cháu lấy thời giờ ở đâu để học. Vì ba cháu sau khi tan trường về vẫn phụ với ông nội cháu để đạp xe ba bánh, thu nhặt từng miếng gạch vụn để đem bán. Nhà cháu có cái ao rau muống nhỏ, cuối tuần ông nội và ba cháu phải cắt rau, bó từng bó rồi mang ra chợ bán để kiếm thêm tiền.

Nhà nghèo như vậy, cực khổ đủ đường như vậy, mà ba cháu vẫn cố gắng để học thành tài, để ra bác sĩ là chuyện phi thường. Bác không thể tưởng tượng nổi là ý chí con người mạnh đến chừng đó. Ông nội cháu hãnh diện biết bao khi con mình ra được bác sĩ, đó là niềm an ủi duy nhất của ông nội cháu. Vì lúc dó ông nội cháu sức khỏe đã suy kém lắm rồi. Bao nhiêu năm lao lực, làm sao còn giữ được mạnh khỏe như trước nữa. Vì thế mà khi ba cháu chết…

Ông Kha không nói nữa. Những cảm xúc làm ông nghẹn lời. Một lúc sau ông mới nói tiếp:

– Bác lại nhảy đoạn rồi. Cháu nói đã nghe anh Sử kể về ngày cuối ở Phước Long rồi phải không? Để bác nói thêm vài chi tiết nữa. Khi ba cháu, bác và y tá Sử của ba cháu ra phố, đúng như anh Sử đã kể cho cháu, bác khuyên ba cháu bỏ nhiệm sở để về Sài Gòn. Vì bác là phi công bay tiếp tế chuyến chót lên tỉnh, bác có vào họp các sĩ quan lúc đó, mới biết rõ là tình hình nguy ngập đến cực độ. Việt Cộng đã bao vây toàn thể tỉnh lỵ, cả hai sư đoàn sửa soạn để tấn công trong nay mai.

Trong khi đó bên phía mình, thiếu đạn, thiếu xăng. Phi cơ có sẵn nhưng không đủ xăng để bay oanh tạc. Đạn trọng pháo đã hết sạch, không thể bắn lại được. Binh lính bỏ đơn vị vì súng đạn không đủ để bắn. Bác biết rõ nên nói với ba cháu. Đây là cơ hội chót để thoát thân. Nhưng ba cháu trả lời là cả bệnh viện bây giờ chỉ còn hai bác sĩ, làm việc không xuể. Ngoài thương binh về mỗi lúc mỗi nhiều, còn mấy sản phụ đẻ khó các cô mụ đỡ không nổi, cần có ba cháu đỡ đẻ bằng forceps, sắp sinh trong đêm nay. Nếu ba cháu bỏ về sẽ có nhiều người chết vì không được săn sóc.

Nghe bác nói ông nội cháu bây giờ bệnh hoạn lắm, ba cháu gửi bác trụ sinh và mấy chai nước biển để đem về cho ông cụ. Cháu thấy ba cháu khổ sở không? Biết cháu sinh ra đời mà không về được. Biết cha mình ốm đau, mà không thể về để săn sóc. Vì nghĩa vụ phải ở lại, vì nghĩ đến các thương binh, các bệnh nhân không được chữa trị. Ba cháu ở lại dù biết là đầy hiểm nguy, cái chết đến như không.

Cũng như một người bạn bác sĩ khác đồng khóa của ba cháu, đang ở Sài Gòn nhưng hạn đi phép hết đã trở lại Phước Long trong ngày hôm đó để làm việc lại, dù biết là đi vào chốn của tử thần. Ba cháu chết trong đêm Việt Cộng pháo kích tấn công, nhưng không ai biết được mồ chôn của ba cháu nơi đâu. Bác nghe nói lại là sau đó, Việt Cộng cho chôn tập thể, khó tìm ra dấu tích. Ông nội cháu nghe tin Phước Long mất và con mình chết, đã gần như điên cuồng. Ông nội cháu nhất định không tin là ba cháu đã mất, nói là chưa có xác, vẫn còn hy vọng sống. Bác thương ông nội cháu và ba cháu lắm vì ở cùng xóm bao nhiêu năm, nhưng bác cũng không biết làm gì hơn.

Tôi nghiệp ông nội cháu. Cả đời hy sinh lo cho con ăn học, nghèo khổ đến như vậy, nuôi con ra được bác sĩ, rồi chỉ mấy tháng sau, con đã tử trận vì cuộc chiến. Ông nội cháu không đầy một năm cũng qua đời vì quá đau khổ trước cái chết của ba cháu.

Ngày hôm nay bác gặp được cháu là một điềm kỳ lạ. Hôm trước khi thấy anh y tá Sử của ba cháu, bác nhận ra được vì anh ta đeo chiếc vòng dây đeo cổ với miếng ngọc bích này. Cháu bây giờ đeo nó là anh ta đã ăn năn trao lại cho cháu. Bác nghĩ mọi sự đều có cơ duyên cả. Việc anh Sử sắp chết trao lại miếng ngọc này cho cháu, việc bác đang đi tìm cháu, rồi gặp được anh Sử và sau cùng gặp được cháu.

Vì chỉ cách đây hơn một tuần, bác được tin lớp học y khoa chung với ba cháu đang tìm cách để tìm ra hài cốt của ba cháu ở Phước Long và xây mộ phần cho ba cháu để tưởng niệm và vinh danh người bạn đồng môn duy nhất đã tử trận trong cuộc chiến ở Việt Nam. Phải có sự xui khiến gì để lớp học y khoa ra trường năm 1973 với ba cháu có ý định tìm hài cốt của ba cháu và xây mộ phần. Phải có sự trùng hợp nào kỳ diệu để một người bác sĩ trong nhóm đó quen với bác và hỏi thăm về tin tức gia đình của cháu và sau cùng bác tìm được cháu.

****

Sơn tiến về phía căn nhà lợp mái tôn. Chàng được cho biết nơi đây đang chứa những bộ xương khai quật từ tuần trước, trong đó có thể có bộ xương của ba chàng. Sơn đã bay về Việt Nam sau khi gặp ông Kha và về đến Sài Gòn ngày hôm trước. Chàng liên lạc với nhóm bác sĩ đồng môn với ba chàng và được cho biết mồ chôn tập thể tại Phước Long sau trận đánh 35 năm về trước đã được tìm ra. Nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đã tổ chức và cử người về cùng với mấy bác sĩ đồng môn còn ở lại Việt Nam, ra tận Phước Long để tìm manh mối về mồ chôn.

Một người lính cũ trước kia đào mồ chôn tập thể cho những người chết tại bệnh viện tiểu khu đã dẫn họ đến địa điểm này. Sau khi được giấy phép khai quật, 12 bộ xương đã được đưa đến căn nhà lợp mái tôn này để được khảo nghiệm và xác định, chờ đợi thân nhân đến nhận. Nếu không có thân nhân, những bộ xương còn lại sẽ được chôn cất riêng rẽ và làm mộ bia cho từng người, duới danh nghĩa chiến sĩ vô danh. Các phí tổn đều do nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đảm nhận.

Sơn mở cửa bước vào. Các bác sĩ đồng môn với ba chàng đang đứng nhìn từng bộ xương một. Làm sao biết được bộ nào là bác sĩ Phan Kim Trấn của 35 năm về trước? Một bác sĩ vui mừng nói với chàng:

– Cháu Sơn đến rồi! Chúng ta có thể thử DNA cho từng bộ xương. Bộ nào có DNA phù hợp với cháu Sơn là của Trấn thôi. Nhưng có điều phải thử cả 12 bộ. Sơn bắt tay từng người bác sĩ và cảm ơn họ. Những người bạn đồng môn của ba chàng đã khổ công để tìm cho ra hài cốt của ba chàng, tìm được tung tích của chàng, để xác định chắc chắn đâu là bộ xương của ngườ bạn đồng môn thân thiết đã mấy chục năm về trước.

Để cho trọn tình trọn nghĩa của những người bạn cùng học chung dưới mái trường năm xưa. Sơn đi qua từng chiếc bàn, mỗi bàn chứa một bộ xương. Chàng dừng lại tại mỗi bàn. Nhưng sự gì đã thôi thúc để chàng sau cùng tiến đến bàn cuối cùng, chứa bộ xương của một người lúc sinh tiền phải là cao lớn. Chàng cúi xuống nhìn rất lâu. Và những cảm xúc chợt ùa đến. Chàng nghĩ đến người cha không bao giờ biết mặt, người cha đã không được nhìn thấy con mình, dù chỉ một lần. Chàng nghĩ đến người ông chàng không bao giờ biết đến, điên cuồng vì cái chết của con.

Chàng nghĩ đến hai thế hệ trước chàng, đau khổ và thê thảm suốt cả cuộc đời. Đã hy sinh tất cả. Và không được lại điều gì. Chỉ bây giờ 35 năm sau mới thấy được thế hệ thứ ba là chàng, đang đứng trước mặt đây. Có phải bộ xương này là của ba chàng? Và Sơn đứng đó, những giọt lệ lan trên má, lúc đầu chậm nhưng càng lúc càng chảy đầm đìa, tuôn tràn, như không thể ngưng lại được.

Những giọt nước mắt nóng rơi xuống từng giọt, từng giọt trên bộ xương. Những giọt nước mắt đó, như được hướng dẫn, rơi vào một điểm gồ lên trên xương chẩm của lồng ngực. Và bùn đất tích tụ bao nhiêu năm trên điểm gồ này tan dần để lộ ra một màu xanh kỳ lạ. Ánh nắng lọt từ khe mái tôn chiếu thẳng vào điểm gồ làm màu xanh càng lúc càng bừng lên. Bùn đất bây giờ đã tan hết để lộ rõ ràng miếng ngọc bích màu xanh, nằm ngay trên xương lồng ngực.

Sơn vội vàng kéo vòng dây đeo cổ của chàng ra ngoài áo. Ánh nắng chiếu vào miếng ngọc bích trên bộ xương như nhảy múa và phản chiếu lại vào miếng ngọc trên ngực chàng. Sơn đứng sững người. Màu xanh của hai viên ngọc như quyện lấy chàng, như ve vuốt chàng, mềm dịu, âu yếm, chập chờn trên gò má chàng, trên sống mũi, trên miệng, trên môi chàng.

Như muốn nhận biết đây là người con trai yêu quý, người con chưa bao giờ biết mặt, sau hơn 35 năm đã đến đây, để nhận biết người cha của mình, để biết đâu đã là nguồn sống của mình. Và sau cùng đã đến để giải thoát cho oan hồn của người cha, từ bao lâu nay chỉ chờ đợi giây phút này.

Khi những giọt lệ của người con trai dấu yêu đã xóa bỏ những hờn oán, những phẫn nộ không nguôi, những uất ức triền miên và những thành trì trói buộc, để được siêu thăng về nơi chốn của vô cùng và của mãi mãi.

NĐP

TẤM VẠC GIƯỜNG – Tiểu Tử

Chau Nguyen Thi

TẤM VẠC GIƯỜNG. Truyện sau 1975 tại Miền Nam VN

Tác giả: Tiểu Tử Võ Hoài Nam .

***

Hồi đó, tôi làm mướn cho ông Cả Bảy. Mấy ngày đầu, ngày nào cũng chèo xuồng qua bên kia sông để giữ ruộng cho ổng. Hồi ổng kêu tôi làm việc cho ổng, ổng nói : « Hổng có gì, nhưng có mặt mầy ở bển tụi nó không giám phá lúa ! ». Ổng nói ‘ phá’ để tránh nói ‘ ăn cắp’ nghe…nặng lỗ tai !

Mà thiệt ! Công việc hổng có gì gọi là nặng nhọc. Tôi treo võng giữa hai cây gáo lớn cạnh bờ sông, rồi nằm tòn ten trên đó ca tới ca lui mấy câu vọng cổ, lâu lâu trèo lên cây gáo ngồi nhìn ruộng lúa minh mông kéo dài tới rừng tràm nằm phía trong xa, xa cỡ đôi ba dậm hú. Đó là chiều sâu. Còn chiều ngang là nằm dài theo con sông Cái, có con rạch No làm ranh phía trên, chỗ tôi treo cái võng, và con rạch Bù Xu làm ranh phía dưới. Từ rạch No muốn nhìn thấy rõ rạch Bù Xu phải xè bàn tay đưa lên ngang mày che bớt ánh sáng ! Nói như vậy, để thấy ruộng ông Cả Bảy lớn biết ngần nào…

Lần đầu tiên đi với ông Cả Bảy qua ruộng để ‘ nhận việc ’, thấy minh mông thiên địa như vậy, tôi hết hồn, nói :

– Trời đất ! Mút chỉ như vậy, mình con coi sao thấu !

Ông Cả Bảy cười khì khì :

– Tao chỉ cần mầy qua bển cho có mặt hằng ngày chớ đâu có biểu mầy đi đánh lộn với tụi lưu manh đâu ! Cái lũ đó hể thấy có người canh ruộng là tụi nó rút đi chỗ khác hè !

Ngừng một chút để suy nghĩ rồi ổng nói :

– Tàm tạm vài bữa rồi tao cho đám thằng Hai Lưa ở trại hòm qua cất cho mầy cái chòi nhỏ có tháp canh cao phía trên, để có chỗ cho mầy đụt mưa đụt nắng.

Có lẽ thấy tôi còn…ngơ ngơ nên ổng nói tiếp :

– Trên tháp canh sẽ có cái ống tre lớn làm cái mõ. Hễ mầy thấy có bóng người vô ruộng thì mầy cứ gõ mõ liên hồi là nó chạy. Hiểu chưa ?

Vậy là ít lâu sau, tôi có cái chòi tranh vách lá, có chỗ để treo võng, có chỗ để nấu cơm, phía trước có cây cầu ván chờm ra sông để tắm gội…

…Qua mùa lúa đó, ông Cả Bảy kêu tôi, nói :

– Tao thấy mầy tuy côi cút một thân một mình mà làm việc siêng năng nên tao thương. Tao cho mầy một miếng đất bên ruộng để mầy cất nhà rộng rộng, còn lo cưới vợ nữa chớ !

Vậy rồi mấy hôm sau, ổng dẫn nhóm chú Hai Lưa trại hòm qua ruộng của ổng, đo đạc cặm nọc để cho tôi miếng đất nằm cạnh vàm rạch No, còn chỉ chỗ cho chú Hai Lưa cất cho tôi cái nhà nền đất nóc tôn vách ván nữa ! Tôi cảm động nghẹn lời, ấp úng nói mấy tiếng cảm ơn mà cũng không tròn chữ tròn câu…Ông Cả cười cười :

– Mầy lo đốn cây làm rào dậu, trồng trỉa cho thành khoảnh đi, rồi tao kiếm cho mầy một con vợ !

Nói xong, ổng cười ha hả, khoái chí !

…Ông Cả Bảy có hai người con trai đi học bên tây rồi ở luôn ở bển. Từ ngày bà Cả nằm xuống, ổng vẫn sống cu ky một mình trong cái nhà sàng tổ chảng nằm cạnh trại hòm và trại cưa của ổng. Ổng thôi làm cả trong ban hội tề từ lâu nhưng trong làng vẫn gọi ổng là Cả. Nghe nói ổng ‘ quen lớn ’ dữ lắm, thấy mấy ông Quận ông Tỉnh thường ghé nhà ổng chơi hay cùng đi bắn le-le … Hồi tôi tới tuổi đi quân dịch, ổng nói : « Mầy yên tâm lo canh ruộng, còn vụ nầy, để tao lo ». Vậy rồi mươi hôm sau, ổng trao cho tôi tờ hoãn dịch !

… Cất nhà xong, chú Hai Lưa vỗ vai tôi, nói :

– Tao có một cái giường đôi bằng gỗ không xài, để tao chở qua cho mầy. Có điều là nó chỉ còn có mấy thanh ngang chớ không có tấm vạc giường, tại mấy thằng con tao nó lấy cưa ra làm sạp cho ghe của tụi nó. Mầy chịu khó đạp xe vô Xóm Mới nói thằng Ba Kiên đương cho cái vạc bằng tre, rẻ hơn cái vạc gỗ mà nằm lại êm hơn gấp bội.

Ngừng một chút rồi ổng vò đầu tôi, nói :

– Chừng cưới vợ, nhớ cho tao nhậu với nghen !

Tôi nói ‘ Cám ơn chú’, lí nhí nghe chừng không rõ lắm !

… Cái gường đó ráp vô rồi thấy rộng rinh. Mình tôi ngủ thì cần gì đến tấm vạc ? Vậy là tôi thả lên hai tấm ván đủ cho tôi nằm, sung sướng vì nghe thẳng lưng hơn nằm võng !

Tôi ngủ không có tấm vạc giường như vậy cho đến hết mùa lúa năm đó thì tôi gặp ‘ Nàng’… Cũng do Trời xui Đất khiến !

* * *

Nàng tên là Huệ, mồ côi cha, con của bà Năm Căng ở xóm Lò Gạch. Nàng làm công cho lò gạch ông Tám Tiếu. Nhờ đi chở gạch để ông Cả cho sửa lại cái đầu bờ kè trước nhà nên tôi gặp nàng. Gặp là tôi hạp nhãn liền ! Trời ! Con gái nhà quê gì mà nước da trắng bóc, còn thân hình thì cân đối thon thả kèm theo tướng đi lượng là cứ bắt người ta phải nhìn theo !

… Vậy rồi nàng và tôi quen nhau. Vậy rồi, ngày một ngày hai, tôi đạp xe đến lò gạch. Không có gì : chỉ cần gặp nàng để nói đôi ba câu không đầu không đuôi, rồi chèo xuồng về nhà bên kia sông, trèo lên vọng gác ngồi ngẩn ngơ suốt buổi !

… Vậy rồi, tôi nghĩ đến tấm vạc giường ! Vậy rồi, tôi đạp xe vô Xóm Mới đặt chú Ba Kiên đương cho tấm vạc giường bằng tre. Tuần lễ sau, tôi cuốn tròn tấm vạc chở về nhà trải lên cái giường gỗ, nhìn nó mà nghe lòng phơi phới. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi sắm một món đồ tuy không có giá trị gì nhiều nhưng lại mang đầy ý nghĩa …

… Để tránh tai mắt, tôi và nàng thường hẹn gặp nhau ở đường lên chùa vì đường đó vắng người và có mấy bụi tre lớn giao tàn che nắng. Hai đứa đứng nói chuyện ‘ trên trời dưới đất’ cả canh, nàng hay cầm lấy cành tre non đầy lá vươn ra cạnh chỗ nàng đứng, lắc qua lắc lại như để đánh nhịp khi nàng nói, mắt nàng nhìn bụi tre, nhìn con dốc lên chùa chớ ít khi nhìn tôi. Vậy mà sao tôi vẫn nghe lòng phơi phới như được nàng nhìn thẳng vào mắt !

… Bây giờ thì rõ ràng tôi đã thương nàng, càng ngày càng thương đậm ! Mà giữ riết trong lòng thì ấm ức quá đi ! Chắc phải nói ra cho nàng biết, rồi ra sao thì ra ! Vậy rồi một hôm đứng cạnh bụi tre đã thành quen thuộc, tôi làm gan nói :

– Huệ à ! Anh nói thiệt, Huệ đừng giận nghen ! Anh thương Huệ quá rồi Huệ à !

Nàng bỗng quay sang nhìn tôi, tay vẫn còn vin cành tre non, hỏi bằng một giọng nhẹ như tiềng gió trong lùm tre trước mặt :

– Vậy sao ?

Chỉ có hai tiếng nghe ngơ ngớ kỳ kỳ như vậy mà tôi lại thấy như là một sự chấp nhận ! Tôi bước lại gần nàng, nàng vẫn nhìn vào mắt tôi, cập môi mấp máy như muốn nói gì mà hai vành tai ửng đỏ. Đúng lúc đó, tôi hửi được mùi con gái của nàng làm tôi choáng váng ngầy ngật. Trời ơi ! Tôi muốn ôm đại nàng để siết chặt lại trong tôi, bởi vì chỉ có làm như vậy tôi mới nói được tôi thương nàng biết ngần nào … Nhưng tôi lại sợ làm ẩu, rủi nàng không hiểu rồi giận rồi vùng vằng bỏ đi tuốt thì chắc tôi … chết quá ! Tôi ráng kềm tôi lại, nuốt nước miếng mấy lần mới nói được :

– Huệ à …

Nàng ‘ dạ’, tiếng ‘dạ’ nghe như chờ đợi. Nàng không còn nhìn tôi mà quay về với cành tre non. Lần nầy, nàng bứt từng chiếc lá tre rồi bỏ rơi xuống đất, giống như nàng đếm lá !

– Huệ à ! Anh muốn xin cưới Huệ …

Nói tới đó tôi bỗng nghe … hụt hơi ! Nàng im lặng bứt từng chiếc lá … Một lúc, tôi hỏi :

– Mà Huệ có ưng không ?

– Biết đâu nà !

Tôi ráng sức nói một hơi :

– Anh làm công cho ông Cả Bảy. Anh có nhà có đất ở bên kia sông. Anh được hoãn dịch không phải đi lính. Anh sẽ nhờ ông Cả đánh tiếng qua má của Huệ để xin cưới. Mà Huệ phải cho anh biết coi Huệ có ưng hay không, cái đã !

– Ờ … Thì vậy !

Rồi, có lẽ thấy câu trả lời không mấy rõ nên nàng nói thêm :

– Tính sao cũng được !

Tôi mừng quá, nắm đại bàn tay nàng vứa lắc vừa cám ơn rối rít ! Nàng bỗng quay qua nhìn tôi, mỉm cười. Trời ! Cái cười của nàng sao mà đẹp hết nói ! Tôi như bị hốt hồn, cầm chắt bàn tay của nàng mà tưởng chừng như đang cầm cây sào cắm xuống lòng rạch để giữ cho xuồng đừng theo con nước mà bỏ bờ …

Đêm đó, trải chiếc chiếu trên tấm vạc giường, tôi nằm lên mà nghe mát rượi. Tôi nghĩ : rồi đây, hai đứa sẽ nằm chung một vạc giường. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ làm tôi sung sướng đi vào giấc ngủ. Cuộc đời sao dễ thương quá hổng biết ?

* * *

Chuyện của nàng và tôi chưa ai biết hết thì xảy ra vụ tháng tư 1975. Lúc đó, nghe tin dân miền Trung chạy rần rần vô Nam, ông Cả Bảy kêu tôi, nói :

– Chuyến nầy, mầy đi giùm tao xuống Cần Thơ. Tao có con em mấy chục năm nay theo chồng ở dưới. Địa chỉ nó đây.

Ổng đưa tôi miếng giấy có ghi tên họ, số nhà, tên đường :

– Tao nhờ mầy ôm một số tiền xuống đưa cho tụi nó, biểu tụi nó lo chạy về đây ở với tao sớm sớm cho có anh có em. Có gì cũng còn có nhau còn hơn là đứa một nơi người một ngả, loạn lạc nầy không biết đâu mà rờ. Tao có biểu tụi thằng Hai trại hòm qua ở nhà mầy, vừa giữ giùm nhà vừa coi ruộng luôn. Đừng lo !

… Vậy là tôi lặn lội xuống Cần Thơ tìm người em gái của ông Cả. Bà nầy có sạp vãi ở chợ Cần Thơ, ông chồng là thiếu tá hải quân. Khi tôi tìm ra được bả thì có tin thiên hạ ở Sài Gòn đang chạy di tản, làm dân chúng Cần Thơ cũng rối ren hối hả xuống ghe xuống xuồng tranh nhau đi. Ông thiếu tá hải quân hốt hết gia đình đem lên tàu chiến, kéo tôi theo luôn ! Đứng trên tàu, tôi nhìn đồng ruộng chạy lùi về phía sau mà chết điếng ở trong lòng, không biết làm sao báo tin cho ông Cả Bảy và nhứt là cho Huệ …

… Vậy rồi sau thời gian nằm trên đảo của quân đội đồng minh, tôi định cư ở Mỹ, tiểu bang Cali. Tôi làm công cho một tiệm ăn Việt Nam ở khu Sài Gòn Nhỏ, rửa chén quét dọn lau nhà … Lương lậu không bao nhiêu nhưng được bà chủ cho ở trong một phòng nhỏ nằm cạnh nhà bếp, ở để làm gác-dan cho bả luôn !

Thời gian sau, khi đã ổn định đời sống, tôi có gởi thơ về nhưng không thấy hồi âm. Tôi biết làng tôi nhỏ bé lại nằm tuốt trên vùng Ngọn – gọi là ‘ Ngọn’ bởi vì nằm trên ngọn sông Vàm Cỏ – giáp ranh với đất Cao Miên. Hồi thời trước, trong làng không có nhà bưu điện nên mỗi tuần một lần ông Sáu làm biện trong làng phải đạp xe xuống quận cách đó mười mấy cây số để lấy thơ ở nhà bưu điện đem về để trong nhà làng. Dân chúng cứ tự động đến coi trong đống thơ, cái nào mang tên mình thì lấy, có khi lấy giùm hàng xóm hay họ hàng bạn bè nữa ! Tôi nghĩ chắc bây giờ cũng vậy thôi, thơ tôi gởi không đến tay Huệ thì làm gì có hồi âm được ?

Dầu vậy, tôi vẫn tin tưởng rằng nàng không bao giờ quên tôi, cũng như tôi lúc nào cũng nghĩ tới nàng. Tôi hay nghe mấy người có đọc sách nói ‘Lời thề trăm năm’. Nàng và tôi đâu có thề thốt gì đâu, nhưng câu nói ‘ Tính sao cũng được’ và cái mỉm cười tiếp theo sau đó của nàng ở đường lên chùa hồi tôi ngỏ ý xin cưới … tôi đã khắc ghi vào lòng. Như vậy, chẳng phải là một ‘ Lời thề trăm năm’ hay sao ?

Nhứt định tôi sẽ trở về Việt Nam để cưới Huệ. Để hai đứa cùng nằm chung một vạc giường, cái vạc giường đương bằng thanh tre già chuốt giẹp giẹp, nằm vừa êm vừa mát. Để thấy cái mà mấy người biết đọc sách gọi là ‘ Hạnh phúc lứa đôi ’ đối với tôi, nó chỉ võn vẹn là sự sung sướng được chia đôi với người mình thương một tấm vạc giường … Mà muốn được vậy, tôi phải có tiền. Vậy là tôi để dành tiền, cắc ca cắc củm !

* * *

Nhờ hỏi thăm mấy người có về Việt Nam nên tôi đã ước lượng được số tiền cần thiết để làm đám cưới và để hai vợ chồng tôi có một số vốn làm ăn. Vậy mà phải năm năm sau tôi mới có tàm tạm đủ ! Chừng đó, tôi mới dám ‘ lên kế hoạch’ : nhờ ông Cả Bảy làm chủ hôn bên đàng trai, rước dâu về nhà của ổng, đãi đằng hai họ ở đó, xong rồi tôi chèo xuồng đưa cô dâu về nhà bên kia sông để tôi khoe với nàng tấm vạc giường mà tôi sắm cho hai đứa, từ hơn sáu năm nó vẫn nằm chờ…

Ngồi trên máy bay về Việt Nam, trong đầu tôi sắp xếp. Trước tiên là về nhà tôi để nghỉ ngơi cho tỉnh mỉnh. Sáng hôm sau sẽ đi thăm ông Cả Bảy, còn xế chiều thì qua nhà nàng vì giờ đó nàng mới từ lò gạch về nhà, tôi sẽ bất thần bước vô nói lớn : « Huệ ơi ! Huệ ! Anh về rồi nè ! ». Tưởng tượng đến đó, tôi bỗng ứa nước mắt ! Đầu óc tôi tự nhiên sao mù mờ. Làm như bao nhiêu năm nay tôi chỉ chờ có như vậy ! Tôi thấy tội nghiệp tôi, tội nghiệp nàng : nếu không có cái ngày nghiệt ngã 30 tháng tư 1975 thì làm gì hai đứa phải cắn răng chịu đựng khắc khe cỡ nầy ?

…Làng tôi bây giờ lạ hoắc. Không phải có thêm đường ngang nẻo dọc mà thấy đầy cờ xí biểu ngữ, loa trên loa dưới ồn ào không giống cái gì hết !

Tôi xuống xóm chợ nhờ một chị chèo xuồng mướn đưa tôi sang sông.

Khi xuồng vừa cặp vô cây cầu ván thì có con chó chạy ra sủa râng, rồi hai ông bà già từ trong nhà bước ra dòm. Té ra là chú thím Hai Lưa hồi xưa thủ trại hòm của ông Cả Bảy ! Chú Hai nhìn ra tôi ngay. Ổng la lên :

– Trời đất ! Mầy còn sống hả ? Ở đâu mà về vậy ?

– Dạ ở Mỹ.

– Cha…xa ớn há !

Rồi chú lật đật vừa la chó vừa bước xuống cầu phụ tôi đem hành lý lên. Trước nhà thấy có phơi chiếc chiếu với hai ba cái gối. Trong nhà vẫn như xưa, cái giường gỗ vẫn nguyên chỗ cũ với tấm vạc giường tôi đem về từ trong Xóm Mới. Chỉ có thêm là hai cái võng nằm song song gần đó, còn thì bàn ghế tủ..v.v…không có gì thay đổi. Tôi xúc động đến nghẹn lời. Chú Hai nói :

– Mầy uống miếng trà rồi nằm võng nghỉ lưng. Trong làng tưởng mầy chết rồi chớ, đâu dè … Để tao kể mầy nghe …

Vậy rồi chú nằm trên võng cạnh tôi, vừa hút thuốc vừa kể :

– Hôm mầy đi Cần Thơ, cha con tao theo lời ông Cả biểu, thay phiên nhau qua đây giữ nhà giữ ruộng. Kế đó, tụi nó – tụi cách mạng ớ ! – tràn vô làng, bắt hết hội đồng xã, bắt luôn ông Cả Bảy trói bằng kẽm gai thành một dọc, chở đi mất. Rồi tụi nó chiếm hết, nhà cửa đất đai ruộng vườn, đuổi tụi tao ra để lấy trại hòm. Nhờ có cái nhà của mầy mà tụi nầy dọn qua ở tạm. Tao và hai thằng con tao cất thêm cho cái chòi giữ ruộng rộng ra để để đồ đạc của tụi tao và để hai thằng con tao có chỗ hành nghề thợ mộc của tụi nó. Hai thằng nầy coi vậy mà gan ! Tụi nó vượt biên rồi định cư ở Úc. Bây giờ, tụi nó có xưởng mộc ở bển, coi bộ làm ăn khá ! Thấy lâu lâu gởi tiền về nhờ thằng bạn tụi nó ở thành phố chạy Honda lên đưa ! … À ! Mầy biết hông ? Tụi cóc cắn cách mạng có kêu tao về trại hòm làm cho tụi nó, tao đấm thèm ! Mầy nghĩ coi : trại hòm mà cũng bày đặt trương biểu ngữ đề ‘ Hạ quyết tâm hoàn thành tốt kế hoạch của Nhà Nước ’. Mẹ ! … Hòm chôn người chết mà cũng vô kế hoạch nữa thì khùng hết nước nói ! Còn chuyện nầy chắc mầy chưa biết : con Huệ, con bà Năm Căng …

Hai tiếng ‘ Con Huệ ‘ làm tôi giật mình. Tôi nhỏm dậy, lắng tai nghe. Chú nói tiếp :

– Mấy tháng sau giải phóng, không biết nó nghe lời ai mà ôm gói xuống thành phố nói kiếm việc làm rồi lặn mất luôn cho đến năm ngoái đây, nó trở về mà đi bằng xe hơi nhà có tài xế, trên băng sau có người đàn ông có vẻ ông chủ. Mầy biết, trong làng chỉ có thằng Cói gia nhân của ông Cả Bảy là được ổng sắm cho chiếc Honda để đưa ổng đi đây đi đó, chớ đâu có ai có xe hơi. Vì vậy, khi con Huệ đi xe hơi thẳng vô xóm Lò Gạch là thiên hạ để ý. Bà Năm Căng kể lại nói bả nhìn nó không ra, tưởng là một bà nhà giàu nào đó đi lầm nhà ! Chừng nó xưng tên, mẹ con nó và bầy em nó ôm nhau khóc làm hàng xóm chạy qua mừng cũng rớt nước mắt. Nó đem cho má nó hai bao đồ rồi nhét trong túi áo má nó một cộc tiền. Sau đó, nó chỉ nói được có mấy tiếng ‘ Con lạy má ! Con lạy má !’ rồi vừa khóc vừa chạy vội ra xe lên ngồi cạnh ông người á-đông ở băng sau, tài xế rồ máy chạy ào đi gấp. Từ đó tới giờ không có tin tức gì hết !. Còn đồ nó cho má nó toàn là tơ lụa mắc tiền nằm kín trong từng bao ni-long có in nhiều chữ tàu. Thầy Ba trên chùa đọc rồi nói đó là sản phẩm cao cấp của Thượng Hải …

Tôi ngả người nằm xuống võng mà nghe lùng bùng hai lỗ tai, chết điếng ở trong lòng. Chú Hai Lưa hỏi :

– Mầy còn nhớ con Huệ hông ?

Tôi ‘ dạ ‘, tiếng dạ bị nước mắt trào lên chận ngang. Tôi nuốt xuống mà nghe miệng mồm đắng chác. Không kềm được nữa, tôi đưa hai tay lên bụm mặt. Chắc chú Hai Lưa thấy, hiểu, nên nghe chú tằng hắng một tiếng rồi làm thinh …

* * *

Trên máy bay trở về Mỹ, tôi nhìn qua cửa sổ thấy nhà cửa ruộng đồng cây cối mờ lần mờ lần rồi mất hút … mà tôi nghe buồn rười rượi. Ở tuốt dưới đó, trong một làng quê nằm xa mút trên vùng đất Ngọn, tôi đã bỏ lại một tấm vạc giường, tấm vạc giường tưởng để nằm chung với người con gái nhà quê mà tôi thương, đâu ngờ chuyện hai đứa chưa kịp thành duyên thành nợ thì nàng đã như chiếc xuồng bỏ bờ mà trôi theo nước, đành đoạn trôi theo nước …

Mối tình dành riêng cho nàng mà tôi giữ miết ở trong lòng từ bao nhiêu năm, giờ nghĩ lại sao thấy quá khù khờ ! Dầu vậy, tôi vẫn muốn gặp nàng, gặp một lần thôi, để chỉ hỏi có một câu : « Tại sao ?… Tại sao ? … Tại sao ? … »

Nghĩ đến đó, tự nhiên tôi trào nước mắt …

 

Con chim tu hú đẻ nhờ

Con chim tu hú đẻ nhờ

June 1, 2022

Truyện ngắn của Quyên Di

GARDEN GROVE, California (NV) – Mùng Bốn Tết… Bầu trời trong xanh mà vẫn có những hạt mưa bụi lấm tấm. Mẹ tôi bảo đó là mưa Xuân.

Đôi chim. (Minh họa: Jenny Friedrichs/Pixabay)

Ông Hồng Châu, bố chị Bích Khuê, khẽ đọc mấy câu thơ Nguyễn Bính:

“Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,
Mẹ già chưa bán chợ làng xa. 

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.”
 (1)

Người lớn ngồi nói chuyện với nhau và chơi tam cúc. Bà Hồng Châu khoe có đôi “tịnh vường.” (2) Ông Hồng Châu bảo vợ: “Mợ khéo là hay! Chơi tam cúc mà có gì lại bày ra cả! Thế là làm sao!” Hình như bà Hồng Châu hiểu theo nghĩa khác, hai má đỏ ửng, sửa lại dáng ngồi cho ngay ngắn, nghiêm chỉnh hơn. Bố tôi liếc nhìn mẹ tôi thật nhanh. Hai ông bà cười kín đáo.

Các anh chị em tôi mải mê với mấy xu và hào được mừng tuổi. Chị Bích Khuê xin phép bố mẹ chị và bố mẹ tôi đưa tôi ra cánh đồng xem hoa cỏ mùa Xuân. Bố mẹ chị Bích Khuê bằng lòng. Mẹ tôi thì dặn với: “Đi chơi cho vui. Mà cô Bích Khuê nhớ đưa em nó về sơm sớm nhé, ngộ nhỡ mưa ướt đầu, cả hai chị em bị cảm.”

Cả gia đình ông bà Hồng Châu và gia đình bố mẹ tôi đều là người Hà Nội. Chiến tranh khiến hai nhà phải tản cư, trôi dạt nhiều nơi, cuối cùng đến làng Thượng Vĩ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Cha xứ và người dân xóm đạo ở đấy thương chúng tôi, cho vào ở chung một nếp nhà gỗ rộng rãi mà chủ nhà đã đi đâu xa mãi không thấy về. Ông bà Hồng Châu giữ đạo thờ Tổ Tiên. Gia đình tôi theo đạo Công Giáo. Thế mà hai gia đình sống chung với nhau rất hòa hợp.

Năm ấy tôi mới lên 6. Chị Bích Khuê hơn tôi 9, 10 tuổi chi đó. Hai chị em hợp tính nhau, cùng thích thiên nhiên cây cỏ, không ưa nơi tụ họp đông đảo, ồn ào. Vì thế mà hai chị em gần gũi nhau. Chị Bích Khuê thương tôi như em ruột của chị. Chị là con một, không có em trai, em gái nào cả.

Bao giờ đi đâu với nhau tôi cũng đòi chị Bích Khuê cầm tay dắt đi. Bàn tay chị mềm, mát mà lại ấm. Tôi không biết diễn tả thế nào cho rõ. Thật thế, bàn tay chị mát và ấm.

Hôm nay chị Bích Khuê mặc áo cánh màu xanh nõn chuối, trông chị như một cây chuối non, tươi tắn và đầy sức sống. Thật ra chị có cái áo dài màu hồng đẹp tuyệt. Chị mặc cái áo ấy suốt trong ba ngày Tết. Nhưng hôm nay đã là Mùng Bốn, không còn phải chào khách đến nhà nữa, chị không phải diện áo dài mà mặc áo cánh. Với lại, đi ra cánh đồng, ai lại mặc áo dài tha thướt!

Tôi ngước mắt nhìn chị, hỏi: “Chị Bích Khuê này, lúc nãy chị có nghe bố chị đọc mấy câu thơ gì không?” Chị trả lời: “Có. Mà chị không nhớ hết.” Tôi cười: “Thế mà em nhớ hết đấy! Chị Bứt Huê phục em không?” Chị cũng cười: “Chị phục em chứ…” Rồi trêu tôi: “Phục nhất là cách Chúc gọi tên chị.” Tôi đỏ mặt, vùng vằng: “Chị lại trêu em! Em không chơi với chị nữa!”

Chả là tôi có tật nói ngọng. Mà tên chị, cả hai tiếng tôi đều nói ngọng. “Bích” thì tôi nói thành “Bứt,” vì không phát âm được những tiếng có vần “ich.” Còn “Khuê” thì tôi nói thành “Huê,” vì không phát được âm “khờ” mà chỉ phát được âm “hờ” thôi.

Chị Bích Khuê vẫn cười, còn dọa: “Nếu Chúc không chơi với chị thì chị bỏ tay Chúc ra, không dắt nữa nhé!” Rồi chị làm như muốn buông tay ra thật. Tôi cuống quýt: “Ấy, chị đừng buông tay em! Em chơi với chị… suốt đời…”

Chị Bích Khuê cười thật tươi. Tôi không biết ví nụ cười của chị tươi như gì, đành ví nụ cười ấy như hoa chuối nở đỏ, lấp ló sau tàu lá xanh mướt. Thấy chị cười, tôi yên tâm.

Một lát sau, tôi tiếp tục câu chuyện bỏ dở: “Em nhớ hết mấy câu thơ bố chị đọc đấy. Mà em còn biết đổi thành câu thơ khác nữa cơ!”

Đôi mắt chị Bích Khuê đen láy như hạt nhãn, đã tròn, bây giờ lại tròn hơn. Chị nói: “Chúc nói thật đấy à? Mà Chúc đổi thành câu thơ khác như thế nào?”

Bầy chim di cư. (Minh họa: Jplenio/Pixabay)

Tôi nhẩn nha đọc:

“Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.”

Đây là câu thơ bố chị đọc. Bây giờ em đổi lại thành:

“Lòng chị còn như cây lụa trắng,
Mẹ hiền chưa gả chị làng xa.”

Cho đến bây giờ tôi vẫn lất làm lạ lùng cho trí nhớ của đứa bé 6 tuổi là tôi thuở ấy. Chả biết sao, cái gì có tí thơ phú là tôi nhớ ngay, mà đã nhớ thì không quên nữa.

Chị Bích Khuê, hai má đỏ hây hây. Chị nắm tay tôi chặt hơn một tí, rồi hỏi, giọng không được tự nhiên: “Chúc còn bé! Biết gì là gả với cưới! Chỉ nói xằng thôi!” Tôi cãi ngay: “Em biết chứ! Gả là bố mẹ chị cho chị đi lấy chồng, đúng không?” Chị Bích Khuê bảo: “Thì đúng. Nhưng mà đến lúc ấy thì chị không dắt Chúc đi chơi nữa đâu.” Tôi trả lời ngay: “Em biết! Thế nên em mới nói ‘Mẹ hiền chưa gả chị làng xa’ đấy.” Rồi tôi xui chị: “Hay là chị đừng lấy chồng. Chị dắt tay em đi suốt đời nhé, nhé!” Chị Bích Khuê bảo: “Em tôi nói nhảm rồi. Thôi, không nói chuyện ấy nữa!”

Có tiếng con chim gì nó hót “tu… tu… hú… tu… tu… hú…” Sau đó là hàng loạt các tiếng chim khác hót loạn cả lên. Tôi hỏi chị Bích Khuê: “Chị có nghe cái con chim gì nó hót buồn cười quá đấy không? Nó hót cái gì mà tu hú, tu hú… À, mà chị này, anh Tuấn nhà em muốn đi tu đấy!”

Chị Bích Khuê bật cười: “Anh Tuấn nhà em định đi tu à? Anh ấy tu… hú đấy!” Tôi hỏi: “Thế là làm sao hở chị?” Chị trả lời: “Nghĩa là anh ấy không tu được đâu. Anh ấy đẹp giai quá mà cũng nghịch quá, hay nói bông lơn… trêu chị!”

Anh Tuấn và chị Bích Khuê sàn sàn tuổi nhau. Anh Tuấn đẹp giai, vui tính. Chị Bích Khuê không khó chịu anh Tuấn khi anh ấy trêu chị, nhưng hai người hình như chẳng có tình ý gì với nhau. Chị xem anh Tuấn như ông anh… đồng tuổi.

Con chim lúc nãy lại hót “tu… tu… hú… tu… tu… hú…” Cả một đám chim khác lại tranh nhau hót lên loạn xạ. Tôi giật giật tay chị Bích Khuê, hỏi: “Đâu? Đâu? Con chim ấy đâu, em không thấy! Chị chỉ cho em thấy đi!” Chị Bích Khuê trả lời: “Nó đậu trên tận ngọn cây cao, chị cũng không thấy. Nhưng mà chị biết nó.” “Biết là biết thế nào hở chị?” “Biết là biết nó bạc lắm!” Tôi nói: “Nó bạc lắm à? Thế ra lông nó trắng như bạc à? Vậy chắc nó đẹp lắm, phải không chị?” Chị Bích Khuê đáp: “Không, lông nó đen đủi. Nó xấu lắm. Xấu cả hình dạng lẫn tính nết.”

Con chim xấu xí ấy lại hót “tu… tu… hú… tu… tu… hú…” Sau đó bầy chim đủ loại lại hót loạn xạ. Chị Bích Khuê bảo: “Đấy! Chim tu hú xấu lắm, ác lắm nên những con chim khác cùng nhau hót to đuổi nó đi đấy!”

Thế rồi chị cắt nghĩa cho tôi hiểu. Chị bảo người ta dựa vào tiếng nó hót mà đặt tên cho nó là chim tu hú. Mỗi khi một con tu hú kêu là nó thông báo cho các con chim khác biết nó đã chiếm cái lãnh thổ này rồi, những con tu hú khác lo mà tránh xa. Mà ngay cả các loài chim khác cũng liệu thần hồn. Tiếng chim tu hú kêu cũng là tín hiệu của con chim trống rủ rê con chim mái đến gặp nó. Chúng ở với nhau rồi con chim mái đẻ trứng. Tu hú mái không chịu làm tổ để đẻ mà nó đẻ nhờ vào tổ một loài chim khác. Thường thì nó chọn tổ chim chích hay cà cưỡng vì trứng những loại chim này với trứng của nó có độ to giống nhau. Nó đánh lừa cho chim chích mẹ hay cà cưỡng mẹ tưởng trứng của nó cũng là trứng của con chim ấy. Mà nó ác lắm! Khi đẻ một quả trứng vào tổ con chim kia rồi, nó lấy chân, lấy mỏ hất một quả trứng của con chim kia cho rơi xuống đất. Chim chích mẹ hay cà cưỡng mẹ ngây thơ lắm, “đếm” thấy số trứng vẫn nguyên như thế thì cho đó đều là trứng của mình nên ấp tất cả. Trứng tu hú nở ra con sớm nhất. Còn bé mà đã gian ngoan, nó hất tất cả những quả trứng trong tổ xuống đất, để một mình nó hưởng thức ăn của chim mẹ đem về và vì thế nó lớn như thổi. Đến khi nó đủ lông đủ cánh thì vụt bay đi không hề lưu luyến.

Cắt nghĩa xong chị bảo: “Đấy chị bảo nó bạc là vì nó vừa độc ác vừa vô ơn, chứ không phải là lông nó trắng như bạc đâu. Phải nói là nó bạc ác mới đúng. Vì thế mà khi nó cất tiếng hót thì tất cả các loài chim khác đều cất lớn tiếng mà xua đuổi nó. Kẻ bạc ác thì chẳng được ai thích cả.”

Tôi nghe chị nói xong thì lòng buồn rười rượi. Lần đầu tiên thằng bé 6 tuổi biết được trên đời có những kẻ bạc ác. Hóa ra không phải tất cả mọi sinh vật đều tốt. Nó chợt hiểu người ta cũng vậy, không phải ai cũng tốt.

Ra đến cánh đồng, hai chị em hầu như quên con chim tu hú bạc ác để say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên. Cỏ non xanh mát trên cánh đồng mênh mông. Mưa Xuân trang điểm những ngọn cỏ bằng những viên ngọc bé tí sáng long lanh. Có những cây mơ mọc dại nở hoa trắng toát, nhẹ lay động trong gió Xuân. Chị Bích Khuê nắm tay tôi mà chạy chân trần trên cánh đồng. Khuôn mặt chị ngước lên. Đôi chân chị như bay bổng lên khỏi mặt đất. Chị đẹp và thanh thoát như một cô tiên.

Nếu là chim sẽ không làm chim tu hú. (Minh họa: Evren Ozdemir/Pixabay)

Sau này lớn lên, tôi mê thơ cổ, đọc những câu thơ của Thôi Hiệu:

“Xuân du phương thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì,
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.”
 (3)

Tôi lại nhớ đến buổi đi chơi Xuân hôm ấy. “Phương thảo địa” của người xưa chắc cũng chỉ đẹp như cánh đồng làng Thượng Vĩ ngày đầu Xuân là cùng.

Thế rồi tôi lại đọc bài thơ “Xuân Tứ” của Lý Bạch:

“Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi.
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?” 
(4)

Tôi cũng lại nhớ đến cánh đồng làng Thượng Vĩ. Cỏ nước Yên có biếc như tơ thì cũng chỉ biếc như cỏ cánh đồng Thượng Vĩ là cùng.

Rồi tôi đọc lục bát trong truyện Kiều: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” (5) thì thấy chẳng khác gì cảnh cánh đồng Thượng Vĩ, cũng “cỏ non xanh tận chân trời.” Còn hoa lê trong truyện Kiều biến thành hoa mơ trong cánh đồng Thượng Vĩ.

Nhớ lời mẹ tôi dặn, chị Bích Khuê đưa tôi về. Hai chị em hầu như quên mất con tu hú bạc ác, nếu trên đường về không gặp nó nữa. Ngờ đâu lúc đi ngang qua chỗ cũ, hai chị em lại nghe tiếng tu hú kêu. Chị Bích Khuê khe chau mày, nói nho nhỏ: “Ơ hay cái con tu hú này, sao mày về đây sớm thế? Người lớn bảo đến Tháng Ba tu hú mới về đẻ trứng cơ mà!” Lần đầu tiên tôi thấy miệng chị Bích Khuê thốt ra tiếng “mày.” Chắc là chị giận con tu hú lắm!

Nhưng rồi chị lấy lại bình tĩnh, ân cần dạy tôi: “Mình đã nương nhờ đâu thì phải biết ơn những người ở đấy. Như nhà hai chị em mình đang nương nhờ người xóm đạo làng Thượng Vĩ thì phải biết ơn cha xứ và giáo dân ở đây. Được nương nhờ mà về sau không biết ơn thì không sống phải đạo làm người.”

Chị nói năng, dạy bảo tôi như một người lớn.

Những ngày mùa Xuân qua đi và rồi những ngày tản cư của chúng tôi cũng qua đi. Khi thấy có những dấu hiệu bất an, ông bà Hồng Châu và bố mẹ tôi bàn bạc với nhau rồi cuối cùng cả hai gia đình đều hồi cư Hà Nội. Ông bà Hồng Châu và bố mẹ tôi khôn ngoan hơn chim chích hay cà cưỡng mẹ nhiều. Khi thấy không an toàn, bố mẹ chị Bích Khuê và bố mẹ tôi đều “dọn tổ” mà đi để cả gia đình, nhất là con cái không lâm vào tình trạng bất an, nguy hiểm.

Một ngày nọ có người từ Thượng Vĩ trốn được về Hà Nội, đến nhà tìm bố mẹ tôi. Người này kể rằng cha già Nến, cha xứ xóm đạo, bị người ta xông vào nhà xứ bắt đi. Họ trói hai tay cha lại, buộc vào đuôi một con trâu. Con trâu kéo cha chạy rong khắp làng với đôi chân khẳng khiu không giày dép. Theo sau là những kẻ cầm roi dâu đánh đập cha túi bụi. Họ kết tội cha là quân gian ác, bóc lột dân nghèo! Trong số những người đánh đập cha có cả những người tản cư, được cha và giáo dân ở đây giúp đỡ nơi ăn chốn ở. Khốn thương! Cả đời cha chỉ biết cưu mang người cùng khổ mà bây giờ bị kết tội là quân gian ác bóc lột dân nghèo. Chắc những người này có họ hàng ruột thịt với chim tu hú!

***

Gia đình chúng tôi di cư vào Nam, được chính phủ cho tạm cư ở bệnh viện Bình Dân đôi ba tháng. Sau đó bố mẹ tôi gom góp, vay mượn, mua được một căn nhà gỗ ở cuối chợ Vườn Chuối. Hàng xóm của chúng tôi toàn là bà con miền Nam hiền lành, bộc trực và chất phác. Họ giúp đỡ chúng tôi, những người chân ướt chân ráo đến cư ngụ trong khu xóm này, một cách thật thà, không chút tư lợi. Tôi lớn lên ở đó cho đến ngày vượt biên tìm đất sống khác. Tôi nương nhờ xã hội Mỹ mà xây dựng cuộc sống mới, mang ơn đất nước, xứ sở này.

Rất nhiều lần, gã đàn ông không còn tuổi trẻ là tôi nhớ về xóm đạo làng Thượng Vĩ, nhớ cha già Nến. Nhớ xóm chợ Vườn Chuối. Nhớ những ngày đầu trên đất Mỹ. Tôi nhớ và nhớ ơn. Tôi không muốn làm con chim tu hú.

Và tôi nhớ chị Bích Khuê. Nhớ bàn tay mềm mại, mát mà ấm của chị. Nhớ hôm Mùng Bốn Tết chị mặc áo cánh màu xanh nõn chuối. Nhớ chị tươi mát như một thân chuối non. Nhớ nụ cười thắm của chị như hoa chuối đỏ tươi lấp ló sau tàu lá chuối xanh.

Chị Bích Khuê ơi, suốt đời em nhớ chị mặc dù em không được “chơi với chị suốt đời,” cũng không được chị nắm tay dẫn đi suốt đoạn đường trần. Tôi nhớ lời chị dặn: nương nhờ ai thì phải biết ơn, đừng bạc ác như con chim tu hú.

Em không muốn làm chim tu hú. Tôi nhớ lời chị dặn: nương nhờ ai thì phải biết ơn, đừng bạc ác như con chim tu hú. Em nhất định không làm chim tu hú. Suốt đời! [qd]

Chú thích:

(1) “Mưa Xuân,” Nguyễn Bính.

(2) “Tịnh vường”: tượng vàng. Thật ra là đôi “tượng đỏ” (tịnh hồng) trong bộ bài tam cúc.

(3) Mùa Xuân dạo chơi trên miền đất có cỏ thơm. Mùa Hạ thưởng ngoan ao sen xanh. Mùa Thu uống rượu hoa cúc. Mùa Đông ngâm bài thơ tuyết trắng.

(4) Cỏ nước Yên xanh biếc như tơ. Cây dâu nước Tần lả cành xanh xuống. Đang lúc chàng nhớ đến ngày trở về thì cũng chính là thiếp đau lòng đứt ruột. Gió Xuân và thiếp không hề biết nhau. Hà cớ gì mà lọt vào màn của thiếp?

(5) “Đoạn Trường Tân Thanh” (câu 41, 42,) Nguyễn Du.

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO

  1. Cuộc Tìm Kiếm Vô Vọng
    Thuận xếp tập hồ sơ lại, nhìn người con gái đối diện, mỉm cười đứng dậy bắt tay cô gái và nói:
    – Chúc mừng cô gia nhập vào Biomedical Research của chúng tôi. Khi nào cô có thể đi làm được?
    – Dạ em cần về công ty cũ báo cho họ biết, có thể cho em 2 tuần để thu xếp được không?
    – Vâng, nếu có trở ngại cô cho tôi biết nhé.
    – Dạ. Xin cám ơn anh nhiều lắm. Chào anh.
    Chờ cho người con gái bước ra khỏi phòng, anh ngồi xuống, băn khoăn tự hỏi, không biết mình còn quên điều gì chưa dặn cô ta không, và còn sót điều gì chưa làm? Sao mình lại có cảm giác hồi hộp và bâng khuâng? Nhìn khuôn mặt cô ta rất quen và dường như thân thiết lắm, không hiểu mình gặp cô ta ở đâu, High School, hay lúc còn học Bio. Anh mở lại hồ sơ, đọc thêm một lần nữa Resume của cô gái, Thái, Thủy-Vi, tốt nghiệp Master of Biomedical Sciences tại DMU (Des Moines University, Iowa)… Thuận giật mình. Cô ta họ Thái, cùng họ với Thuận. Iowa, nơi cô ta học, không phải tiểu bang mình đã học. Vậy là chưa từng gặp, mà sao như linh cảm thấy điều gì lạ lùng. Lúc phỏng vấn, hai ba lần Thuận định hỏi, nhưng rồi lại e ngại, sợ qúa đường đột gây ngộ nhận. Giữ chức vụ này đã 5 năm, Thuận đã interview nhiều người, anh hết sức né tránh những ngộ nhận không cần thiết, nhất là khi phải interview đồng hương của mình, dù có ý muốn nâng đỡ, cũng chỉ ngấm ngầm và để trong lòng, nhưng đây là lần thứ nhất anh có cảm giác này. Đọc mức lương đề nghị, anh như một cái máy, để mức lương tối đa cho phép phỏng vấn viên, anh nghĩ, cô ta thật xứng đáng được như thế. Những suy nghĩ về cô gái làm anh bận rộn và quên mất cả thời gian, cho đển khi tiếng điện thoại reo lên, anh mới biết là đã đến giờ, mở cặp da, bỏ hồ sơ vào và ra về, mà tâm hồn cứ quẩn quanh trong ý nghĩ “không biết có còn sót điều nào chưa bảo cô ấy không, thôi để cô ta đi làm rồi mình sẽ hỏi cho rõ ngọn ngành là đã gặp cô ta ở đâu, có khi là đi lễ Chủ nhật gặp được không chừng” .
    Về đến nhà, lúc ngồi ăn cơm, Thuận kể cho vợ anh nghe về cuộc phỏng vấn một người con gái Việt Nam mang họ Thái và những tình cảm mơ hồ, lạ lùng trong anh, anh thú nhận là giờ này vẫn còn hình dung ra khuôn mặt và dáng dung của cô ấy, anh biết rất rõ ràng, tình cảm ấy không phải là loại tình cảm nam nữ, nhưng thực sự anh lại không hiểu.
    – Có gì đâu, ngày nào cô ấy đi làm thì anh hỏi chuyện cô ấy là được rồi, hay anh lại muốn em giúp? Tại anh nhạy cảm thôi, em hiểu anh đang nghĩ tới điều gì, bên nội hay bên ngoại phải không? Đâu phải là lần đầu anh suy nghĩ như thế. Nhưng anh không có em gái mà.
    – Thì đành như vậy, nhưng anh lại sợ mình vụng về không khéo léo lại gây hiểu lầm.
    – OK, đến ngày đó em tới ăn trưa với anh, rồi giả như tình cờ em gặp cô ấy, chúng ta hỏi chuyện xã giao được không?
    – Được vậy thì tốt lắm.
    – Nhưng mà cô ấy chắc là dễ thương, duyên dáng, mặn mà lắm phải không? Nếu không làm sao ông chồng em lại tơ vương đến như thế.
    – Dạo này hình như tiếng Việt của em giỏi hơn nhiều, nói chuyện nghe văn hoa bóng bẩy quá, phải như ngày xưa em học Văn chương hay Nhân chủng học thì dễ nổi tiếng lắm đó.
    – Đùa anh vậy thôi chứ ngay khi biết cô ta cùng họ với anh, em hiểu ngay điều anh đang bận tâm. Em sẽ giúp anh.
    Thuận nhìn vợ với lòng cảm kích. Loan là bác sĩ ngoại khoa. Hai người lập gia đình đã hơn 15 năm, có hai đứa con gái, nhưng tình cảm vợ chồng lúc nào cũng thân ái mặn nồng, đúng như câu các cụ bảo “vợ chồng lúc nào cũng tương kính như tân“. Phần Loan, nàng hiểu nỗi khắc khoải của người chồng sau bao năm tìm kiếm vô vọng.
  2.  Thuận vượt biển đến Mỹ năm 1978, khi chỉ mới 8 tuổi, được một gia đình người bản xứ không có con nhận nuôi và đón tại phi trường, khi Thuận vừa từ đảo đến. Thuận không nhớ gì về gia đình mình, ngoài tấm hình được bọc plastic, luồn trong lưng quần mà lúc ra đi mẹ Thuận đã để vào, tấm hình ấy gồm có ba mẹ Thuận, Thuận và một người em trai nhỏ hơn Thuận 3 tuổi, mặt sau của tấm hình có ghi là: Thái Ngọc Trác (1947), Chung thị ngọc Hân (1953), Thái Ngọc Thuận (1970), và Thái ngọc Trị (1973).
    Ba má nuôi của Thuận đã kể cho Thuận nghe về tai nạn của chiếc tàu chở Thuận và 48 người khác vượt biển, bị lạc đường trên biển, hết lương thực và nước uống, rất nhiều người đã chết vì đói và khát, chỉ còn Thuận và 5 người khác gồm 3 trẻ em còn sống sót. Đó là những gì Thuận biết về chuyến vượt biển của mình, những người sống sót đó là ai, hiện nay ở đâu anh không hề biết. Ba má nuôi của Thuận cũng đã dùng tấm hình ấy để hỏi thăm tin tức về gia đình Thuận ở các cộng đồng người Việt trên đất nước này, hay hầu hết các nước Pháp, Anh, Canada, Úc … nhưng không hề nhận được một tin tức nào.Tuy là người bản xứ, nhưng giữa anh và ba má nuôi, thật rất gần gủi và thân thiết không khác gì ruột thịt, có lẽ tại từ những ngày đầu anh côi cút, lạc loài, và bơ vơ, được ba má nuôi chăm sóc dưỡng dục, đã cho anh một ấn tượng hoàn hảo về hai ông bà, và làm cho anh trở nên gần gũi với người bản xứ thực sự. Nhất là thời gian anh còn ở tiểu học, lúc nào cũng được má nuôi đưa đón đến trường. Ngày anh tốt nghiệp đại học, ba má nuôi ôm hôn anh trước sân trường làm anh xúc động đến rơi nước mắt.
    Từ nhiều năm qua, Thuận cũng đã cố công tìm lại gia đình ruột thịt của mình. Chàng rất muốn về Việt Nam để tìm lại gia đình, nhưng không biết phải bắt đầu tìm từ chổ nào, hỏi thăm những người hàng xóm cũ, hay hỏi tin tức từ quê của ông bà nội ngoại. Điều không may là lúc ra đi Thuận chưa đầy 8 tuổi, đầu óc non nớt đó không thể nhớ được nơi Thuận đã ở, ngoài con đường Phan Chu Trinh mà Thuận như mang máng nhớ, còn lại chỉ là những hình ảnh mơ hồ. Thuận chỉ biết nhà của gia đình anh ở rất gần chợ, từ nhà có thể đi bộ đến một Tiệm may, gần đó là những quán xá như tiệm chè, quán kem, và vườn sau của nhà là một cây mai rất nhiều cành, mà Thuận nhớ hàng năm khi Tết đến, mẹ vẫn thường hay cắt nhánh đem vào chưng bàn thờ hay là cắm ở phòng khách, ngoài ra Thuận không còn nhớ được gì nữa. Bác Khôi ở cạnh nhà Thuận, hàng xóm mà Thuận thường chui qua vườn sau để cùng chơi đùa với Lân và chị Cúc, cũng đã dọn đi sau khi Sài gòn bị chiếm. Rất nhiều những gia đình khu Thuận ở đã bỏ đi hay bị đuổi khỏi nhà. Ngày Thuận ra đi, căn nhà bác Khôi và chị Cúc đã bị một gia đình bộ đội dọn vào, và gia đình bác Khôi ra sao cũng không nghe mẹ nhắc đến, chính vì thế mà hàng xóm của Thuận đã toàn là những người lạ không ai tiếp xúc . Còn về gia đình nội, ngoại thì Thuận chỉ nhớ trước đây ông bà nội ở Đà Lạt, mất miền Nam, gia đình nội và các cô chú nghe mẹ nói về Phước Tuy và đã mất tin tức liên lạc. Bên ngoại còn cậu Tuấn, đi tù, cậu Hưng đã vượt biên, nhưng không liên lạc được, còn dì Út thì lên ở với gia đình Thuận và đi cùng chuyến tàu với Thuận nhưng đã chết vì đói và khát. Đó là lý do mà Thuận không về Việt Nam để tìm kiếm.
    Với tất cả phương tiện mà Thuận biết và có thể, Thuận đã dùng hết, để hỏi thăm tin gia đình trên các tiểu bang của nước Mỹ hay là tìm đến Canada, theo sự chỉ dẫn của một vị đại tá, nguyên Trưởng phòng II của Quân Đoàn II, “Hãy bắt đầu từ đơn vị ít người nhất, như các Liên đoàn, Sư đoàn, Bộ Tư lênh. Từ nước gần nhất, đến nước xa xôi . . .” và Thuận đã tìm đến Canada, gặp một vị đại tá Hải Quân, Chủ tịch liên Hội người Việt, Ông cư ngụ ở một thành phố ngoại ô của Thủ đô Canada, thành phố Nepean, rồi gặp vị Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân tại Ottawa, nhưng không ai biết tin tức về gia đình anh. Anh lại lần lượt tìm liên lạc với các liên đoàn, như Liên đoàn 21, 22 Biệt động Quân, Liên đoàn 6 BDQ, Liên đoàn công Binh, Liên đoàn Quân Y, các bệnh viện từ Duy Tân, Nguyễn Huệ, đến Tổng Y Viện Cộng Hòa, các Phòng I của các Sư đoàn Vùng Hỏa tuyến, đến 22, 23, 18, 25, 7, 9… Sư đoàn Dù, TQLC, nhưng chỉ là những cuộc tìm kiếm vô vọng.
    Cách đây mấy năm, anh nghe vị cựu Chỉ Huy Trưởng LD 72 Quân Y kể chuyện về đời sống ở Úc, anh đã tìm cách làm quen với những người ở Úc và quen được một ông cụ mà ngày xưa có con làm Phó tỉnh Gia định và Giám sát viện, từ đó, anh liên lạc được với các sở ANQD, Hành Chánh TC, các Trung Tâm HCTV Tiểu khu , và kết quả vẫn là câu “Trời Phật nhất định sẽ không phụ lòng hiếu thuận của cháu đâu, rồi có ngày cha con mẹ con lại đoàn tụ” Anh thất vọng, bỏ cách thức tìm kiếm từ các đơn vị Quân đội, và quay về với đầu mối cũ mà ba má nuôi anh từng tìm, đó là các Trại tù Cải tạo, từ Bắc chí Nam. Anh được tiếp xúc với rất nhiều người tù Cải tạo, chứng kiến cuộc sống của họ, những vất vả và cố gắng của họ làm anh ngậm ngùi và xúc động, những lúc như vậy, anh lại thầm nghĩ đến ba mẹ, “nếu ba mẹ còn sống, con sẽ không để ba mẹ vất vả đâu“.
    Vào năm cuối của Biomedical scientist, Thuận nghe tin có một vị Linh mục ở nhà tù Trại Đưng, Thanh Hóa, biết tin về một Sĩ quan tên Trác, trốn trại bị Việt cộng bắn chết, Thuận đã bỏ nửa chừng để bay đi Nouvelle Calédonie (Tân đảo), nơi cha Stanislas Cosca Hoa đang làm cha xứ, để hỏi thăm tin tức,
    – Thưa cha con là Thái Ngọc Thuận, ở xa đến xin gặp cha để hỏi về tin của ba con là Thái ngọc Trác, đây là hình của gia đình chúng con.
    – Hình mờ quá, tôi nhìn không rõ, nhưng mà tôi cũng không biết gì về ông cụ đâu. Ai nói cho anh biết tin này?
    – Một người quen ở Tân Tây Lan nói cho con, nhưng họ cũng không biết đích xác, họ chỉ bảo con viết thư hỏi tin tức ở cha mà thôi.
    – Thật là tội nghiệp, lòng của con Chúa sẽ biết. Đã đến đây thì hãy ở vài ngày coi cho biết Tân Đảo, người Việt ít có ai đi du lịch tới nơi này.
    – Thưa cha ở đây có bao nhiêu giáo dân.
    – Chừng hơn 500 người, nhưng lòng tin kính Chúa thì rất sốt sắng . . .
    Thuận rời Giáo xứ Nouméa Kitô Vua mà lòng mang đầy nỗi tuyệt vọng mênh mông.Trở về Thuận viết thư nhờ bà Khúc Minh Thơ giúp đỡ, rồi theo dõi Chương trình HO của các người đi tù cải tạo trở về, nhưng vẫn không tìm ra manh mối của gia đình, người thân, nội hay ngoại. Điều đáng tiếc là Thuận không biết cấp bậc của ba, đơn vị của ba, hay của cậu Tuấn, cậu Hưng, để mà dò la, cho nên đến chổ nào, hay viết thư đi đâu cũng không ai biết cách nào giúp đỡ. Hàng năm, kể từ sau khi tốt nghiệp, Thuận xông xáo vào các hoạt động của cộng đồng người Việt, nhất là của các hội Cựu Quân Nhân để làm quen hỏi thăm , nhưng câu hỏi mà Thuận luôn luôn nghe là “ba cháu cấp bậc gì, đơn vị sau cùng ở đâu?” Thuận chỉ lắc đầu không biết, có người thấy vậy còn nghi ngờ Thuận có lòng tới quấy nhiễu đã tỏ thái độ xua đuổi.
    Hình ảnh cuối cùng còn rõ nhất trong đầu Thuận là buổi chiều ra đi, mẹ ôm Thuận và dì Út vừa mếu máo vừa nói, “Gia đình chỉ còn hai dì cháu, em phải lo cho cháu giúp anh chị, rồi mẹ cúi xuống hôn anh và nói, con phải nghe lời dì Út nhé” và Thuận thấy nước mắt chảy đầy trên mặt mẹ khi anh và dì Út bước lên chiếc xe ra đi.Cuộc hành trình vượt biên xảy ra như thế nào thực sự Thuận không hay biết, vì anh và nhiều người khi bước lên tàu, đã bị đưa xuống hầm tàu nằm co ro không biết ngày đêm, chỉ khi nào đói thì kêu dì Út, cho đến một ngày dì Út bảo là đã hết thức ăn, hãy cố ngủ đi, và rồi không biết bao nhiêu ngày Thuận đã mệt lả bất tĩnh cho đến lúc được tàu vớt và đưa lên đảo, tỉnh lại, Thuận mới biết là dì đã chết. Nhờ được ba má nuôi người Mỹ tận tình dưỡng dục, Thuận đã có hoàn cảnh thuận lợi để học hành, thành đạt và anh luôn luôn thương kính ba má nuôi. Khi ông bà còn sinh tiền, vào những ngày lễ như ThanksGiving, Christmas, anh luôn luôn đem vợ con về ở chơi một hay hai ngày với ba má, làm cho ông bà cũng rất hãnh diện và thực sự vui vẻ. Nhưng rồi liên tiếp hai năm, ba nuôi mất rồi má cũng mất. Cuộc tìm kiếm ba mẹ ruột và em trai đã trở thành vô vọng.
    Hàng năm, Thuận lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ cho ba mẹ và em, ngày ấy cả nhà đi lễ cầu nguyện cho gia đình. Điều làm Thuận thương cảm nhất là anh không còn hình dung ra được ba mình như thế nào, trong đầu óc anh khi nghĩ về ba, chỉ là hình ảnh nhạt nhòa trên tấm hình trắng đen mà mẹ trao cho lúc ra đi, và mỗi lần nhìn lại tấm hình, Thuận không làm sao kềm được cảm xúc và các con anh đã bắt gặp rất nhiều lần, những khi như vậy, bao giờ vợ anh cũng chỉ vổ về anh bằng câu nói ” hãy cố quên đi, cố vui với các con, và hãy cầu nguyện cho họ, biết đâu như người ta nói, xa tận chân mây, nhưng gần lại trước mặt, nếu ba mẹ chưa mất, thế nào gia đình mình cũng có ngày đoàn tụ“. Là một y sĩ, Loan hiểu nỗi khắc khoải của Thuận và luôn tìm cách chia sẻ nỗi ưu tư của chàng, nhưng Thuận còn một nỗi niềm riêng, mà không cách nào anh có thể chia xẻ với vợ: cho tới nay, hai vợ chồng chưa có con trai. Nếu ba mẹ và em đã chết, quả là dòng họ Thái đành đứt đoạn, Thuận thấy mình có lỗi với ba mẹ và ông bà nội hay tổ tiên. Tư tưởng này cứ nhậm gấm tâm hồn Thuận mỗi khi nhìn vợ con vui vẻ bên nhau. Câu chuyện xảy ra đã mấy chục năm, và cơ hội tìm gặp ba mẹ và em Thuận đã gần như không nghĩ tới. Đúng lúc ấy thì có cuộc phỏng vấn tuyển chuyên viên Biomedical Sciences và cô gái họ Thái xuất hiện. Khuôn mặt, nụ cười tiếng nói của cô gái họ Thái làm Thuận trằn trọc mãi. Trong bong đêm, Thuận nhắm mắt như cầu nguyện “Ba mẹ ơi, đây là Thành phố Hy Vọng, City of Hope, con và những người làm việc ở đây lúc nào cũng mong ước đem được hy vọng đến cho từng người, và dù chỉ có một tia hy vọng nhỏ nhoi, chúng con và cả những bệnh nhân, cũng không bao giờ dám bỏ lỡ. Ba mẹ hãy chỉ cho con biết phải làm thế nào, nếu quả thật ba mẹ đã về nơi yên nghỉ, xin hãy báo mộng cho con“!
    3.. Như Một Giấc Mơ
    Vi về đến khách sạn mà Biomedical Research đặt cho Vi ở để interview, việc đầu tiên là nàng báo cho ba mẹ biết đã xin được việc làm sau 3 ngày interview liên tiếp, “thật hú vía và bất ngờ”, nàng nói với mẹ qua điện thoại, và báo cho ba mẹ biết đón nàng ở phi trường. Nàng phải trở về công ty cũ để báo nghĩ việc và thu xếp để cùng đem ba mẹ rời tiểu bang lạnh, nơi mà gia đình Vi đã định cư từ ngày đến nước Mỹ cho tới hôm nay. Ước vọng của Vi là làm sao đưa ba mẹ rời được xứ lạnh để không thấy ba còm cỏi, lụ khụ mỗi mùa tuyết đổ. Lạnh và giá buốt làm nhức các khớp xương ngón tay, ngón chân, đầu gối và cổ chân mà ba than phiền mỗi khi đông đến, làm Vi nghe cũng xót xa. Nhất là sau ngày ba mẹ nghỉ hưu, “Ngồi nhà nhìn tuyết rơi thật là chán quá“, đó là câu mẹ Vi vẫn thường than mỗi ngày tuyết đổ. Cái ông anh “nối dõi” của Vi còn ở tận bên Trung đông, làm Vi vừa thương vừa lo, để mặc ba mẹ cho một mình Vi phải bận tâm. Nói thế nhưng thực ra, cuộc sống của ba mẹ và Vi lúc Vi chưa ra trường, anh đã gánh vác rất nhiều. Tiền lương của ba mẹ chỉ đủ chi dùng cho cuộc sống gia đình, còn tiền tiêu của Vi, nhất là những kỳ Vi không lấy được học bổng toàn phần, đều nhờ cả vào anh. “Con trai độc thân đi làm dĩ nhiên là đưa tiền cho mẹ, không lý anh lại đi phấn son hay làm thẩm mỹ để cua người đẹp bên đó, mà có khi cũng phải, vì bên đó con trai được cưới 3, 4 bà vợ, mai mốt mẹ tha hồ có người hầu hạ“. Đó là những câu trêu chọc Vi tặng cho anh, những ngày anh về nghỉ với gia đình.
    Nghĩ tới việc rời xa Life technology, Vi cũng có chút ngậm ngùi. Vi ra trường, tìm được việc ở công ty này, trong lúc rảnh rỗi, Vi vào trang web của Chính phủ, biết được Biomedical Research cần người, Vi liền gởi Resume xin việc. Resume gởi đi gần 2 tháng trời không có tin tức, Vi tưởng là đã chìm xuống Thái Bình Dương rồi, không ngờ lại được thư gọi interview và được nhận. Vi hồi tưởng lại khuôn mặt người interview mình sau cùng, cũng là người quyết định nhận Vi, thấy anh ta thật dễ thương và rất bình dị, không có vẻ kiêu kỳ, lạnh lùng như những người giữ chức vụ đó. Trông anh ấy giống Đại Hàn hơn là người Việt, nếu anh ta không nói câu sau cùng “Chúc mừng cô gia nhập biomedical research … “, thì Vi không thể biết anh là người Việt. Để mai mốt đi làm, mình tìm hiểu về anh ta thử xem là đã đến Mỹ lâu chưa mà giữ chức vụ ấy, không chừng mình gặp được quới nhân cũng nên. Vi mỉm cười với ý nghĩ của mình và vui mừng vì những ngộ nghĩnh, mà may mắn nàng đã gặp.
    Vi theo gia đình đến Mỹ theo Chương trình HO dành cho những tù nhân chính trị như ba Vi, lúc đó Vi mới 7 tuổi. Nàng theo học từ Elementary, đến High School rồi Biomedical sciences. Thời gian đầu nàng thật không thích trường lớp tý nào. Đi học về hôm nào cũng khóc, mãi cho đến khi lên High school nàng mới có bạn và mới thích nghi được sinh hoạt học đường ở Mỹ.Vi có rất nhiều kỷ niệm ở xứ lạnh này. Cuộc đời học trò, thủa chân ướt chân ráo của những ngày đầu bước chân vào lớp học. Nhìn những học sinh Mỹ, Vi sợ nhiều hơn là vui, không dám làm quen, chúng nói gì Vi cũng không nghe, không hiểu, chỉ cầu xin mau mau hết giờ để mẹ đón về, về nhà lại khóc vì sợ phải đi học, phải mất đến mấy tháng Vi mới quen, mới bắt đầu nghe hiểu. Một điều rất may là Vi rất giỏi toán, những bài toán, hay là các bài tập homework Vi chỉ đọc một lần hoặc liếc qua là hiểu và làm rất nhanh và rồi từ từ, Vi lên High school rồi lấy Biomedical Sciences mà đôi khi nghĩ lại, Vi thật cũng không ngờ. Điều may mắn Vi gặp được thời gian ở High school là Vi có một bà cô dạy Bio rất thương Vi, quê bà ở Nhật, lấy chồng Tân Tây Lan, làm việc cho một bệnh viện tại Mỹ, chuyên về Vi trùng học. Bà cô này đã khuyến khích Vi học biomedical, lương cao, dễ xin việc, và không vất vả như các ngành Medicine, hay Pharmacy . . .
    Cuộc đời thật có những việc không ngờ, như việc Vi theo gia đình đến Mỹ. Vi nhớ khi đến đây nhằm vào mùa tuyết, tuyết rơi giống như hoa bông dưới ánh đèn đêm, Vi thích thú vô cùng. Mấy năm đầu, tuyết thật dễ thương, không thấy lạnh gì lắm, nhưng những năm về sau, mùa tuyết bỗng như lạnh hơn, nhất là những khi có ánh nắng, Vi không hiểu được tại sao, chỉ biết là khi tuyết đang rơi, người ta thấy ấm hơn là những ngày tuyết mà có ánh mặt trời. Mười mấy năm sống ở đây, Vi đã quen thân từng dãy phố, góc đường, Tiệm Cafe, bánh ngọt… Những khuôn mặt khả ái mà mỗi khi bắt gặp vẫn dùng một kiểu xã giao trên đất Mỹ “long time no see” bây giờ phải xa họ, Vi không khỏi xao xuyến trong lòng. Tiếc nuối cũng đành ra đi, vì ba má đã già không chịu nổi giá tuyết ở nơi đây, vả lại công việc mới thích hợp với ngành học của nàng hơn, mà đặc biệt là lương cao hơn. Nàng miên man trong dòng cảm xúc của mình, thì tiếng điện thoại reo . . .
    – Vi phải không, mẹ đây, vậy là mấy giờ con sẽ đến phi trường?
    – Nếu không bị trễ là 10 giờ 45, nếu ba mẹ sợ lạnh thì khi nào xuống máy bay con sẽ gọi ba mẹ ra không sao.
    – Ba con bảo hỏi cho chắc thôi, ba con nhờ mấy ông bạn già bên đó tìm nhà thuê giùm, họ bảo nhà cho thuê nhiều lắm, trong hai tuần thế nào cũng tìm ra nhà, mình sang sẽ có nhà ở rồi. Coi bộ ba con vui lắm, vì thoát khỏi mùa Đông ở đậy, mà nhất là gặp lại đám bạn già của ba ở bên đó.
    – Được vậy thì tốt lắm, thôi nha mẹ, để con thu xếp và gọi book vé về khỏi trễ.
    – Bye bye con.
    Vé máy bay đi và về đã được Biomedical Research đặt sẵn cho những ai được mời interview, cả về ăn ở, do vậy Vi chỉ cần báo ngày giờ cho hãng Hàng Không là được. Chuyến bay Vi đi thật đúng giờ, 10:50 Vi rời máy bay, vô quầy nhận hành lý thì đã thấy ba mẹ chờ ở đó, Vi ôm ba mẹ và nói tíu tit như rất vui mừng, niềm vui bộc lộ hẳn ra trên khuôn mặt, nụ cười.
    – Nhìn con thì biết là công việc này con thích thú lắm phải không.
    – Phải rồi mẹ ạ, tiền lương cao hơn Life technology nhiều, nơi làm việc thật khang trang với mấy dãy building vây quanh, đẹp như một thành phố, con thích lắm
    – Thôi về nhà đi rồi hãy nói chuyện, ba Vi xen vào.
    Về nhà, lúc ngồi ăn cơm Vi kể cho ba mẹ nghe cuộc Interview nàng đã gặp,
    – Run lắm ba mẹ biết không, tới 3 người interview con trong ngày đầu, và hơn 6 tiếng liên tiếp, con phải trả lời theo sách vở, những gì đã học, và cứ lo lắng không hiểu những câu mình trả lời đúng hay là sai, nhất là về Immunology và Cellular and molecular Biology, cho đến khi đứng dậy, một trong 3 người họ bảo con, hôm nay cô làm tốt lắm, ngày mai cô có mặt đúng 8 giờ. Ngày thứ 2, con lại gặp 3 người khác, họ hỏi con về những việc con làm tại Life technology và các loại tools hay equipment con đã dùng, những dụng cụ trong phòng lab mà con biết xử dụng, nhưng chưa sử dụng, rồi họ dẫn con đến các departments như là Immunology, Molecular and Cellular Biology, Molecular medicine… Và sau cùng là Molecular Pharmacology. Họ yêu cầu con sử dụng một vài dụng cụ trong lab như Ocular Micrometer, Micropipettor, một vài software dùng trong reseach, tên software mà con đang sử dụng và testing… Nghĩa là họ hỏi con đủ thứ. Con vừa hồi hộp vừa lo sợ mình làm không xong, một lúc con chợt nghĩ tới bỏ cuộc. Rất may là chính lúc ấy họ bảo con “Chắc là cô đã mệt, cô có thể về, và ngày mai Mr.James sẽ gặp cô từ 9:30 đến trưa“. Ngày thứ 3 con có mặt lúc 9 giờ, chờ chừng 15 phút thì Bác sĩ James tới gặp con, ông hỏi về Chemistry và Bio, DNA (DeoxyriboNucleicAcid), RNA, (RiboNucleicAcid), ASO (Alle Specific Oligonucleotide), PCR (Polymerase Chain Reaction) rồi một vài kiến thức về Pharmacology, sau đó ông giới thiệu về Department của ông, Molecular and cellular Biology, công việc chính của Department là nghiên cứu về di truyền (Gene structure), các mẫu của kháng thể (Modeling of antibodies) và lý thuyết của sinh học (Theoretical biology). Sau đó ông đưa con vào phòng họp của Staff và chờ interview lần chót.Con hồi hộp đến muốn khóc khi ngồi chờ ở đây, căn phòng không rộng, nhưng cảm giác vắng vẻ làm con sợ hãi như lần làm bài thi tốt nghiệp cuối cùng. Thật là hú vía, cuối cùng rồi người interview con cũng mở cửa bước vào, con run đến nỗi quên câu chào xã giao khi đưa tay cho ông ta bắt, mà nghệ thuật interview dạy phải làm.Ba mẹ biết không, ông phỏng vấn con cuối cùng là người Việt, cũng là người có thẩm quyền quyết định mướn con hay từ chối mướn. Thoạt nhìn, con cứ tưởng là người Đại Hàn, rất ít nói, nhưng khi nói lại có vẻ nhiệt tình và thân thiện, ông ta luôn luôn nhìn mặt con, làm con rất bối rối, con phải xin phép ra ngoài để bớt căng thẳng, điều mà khi interview không hề cho phép, con nghĩ là fail rồi, nhưng khi trở vào, ông ta chỉ hỏi con OK không, có thể tiếp tục không, và những câu ông hỏi rất nhẹ nhàng, như về antibodies, transgene, Southern blot mothod, và về dược học. Cuối cùng, ông ta đứng dậy bắt tay chúc mừng con tham gia vào Biomedical Research… và cho con biết bác sĩ James muốn con về làm ở Department của ông ta, (Molecular and cellular Biology). Nhờ ông ta chúc mừng bằng tiếng Việt, lúc đó con mới biết ông ta là người Việt.
    -Chắc là còn trẻ và đẹp giai, nên con bối rồi !
    – Hì hì . . . Không phải đâu, ai mà nghĩ như má, lúc đó con rất lo sợ và hồi hộp thôi.
    – Bà làm như con bà đẹp lắm, ba Vi xen vào.
    – Dĩ nhiên con gái tôi thì bảnh rồi.
    Thế là gia đình Vi rời tiểu bang lạnh giữa mùa Đông. Sau hơn 4 giờ bay, gia đình Vi đã đến nơi , và bác Tuân, bạn của ba Vi đã chờ sẵn ở phi trường để đón về nhà bác ấy tạm trú trong lúc chờ mướn nhà. Vi có 3 ngày để chưng diện cho chính mình trong ngày đầu tiên nhận việc và mua tạm một chiếc xe để đi làm. Mẹ nàng cũng đã dặn đi dặn lại phải chưng diện một chút cho tươi tắn, “ở đây nắng ấm, không nên lùi xùi như xứ lạnh nha con“.Vi đến chổ làm trước 15 phút, nàng vào HR để làm các thủ tục cần thiết, và làm thẻ vào cửa, rồi đến thẳng Department of Molecular and Cellular Biology gặp bác sĩ James như HR hướng dẫn, và được bác sĩ James giới thiệu với các đồng nghiệp và chỉ dẫn vắn tắt công việc của nàng, ông cho biết nàng có 4 tuần training, và giới thiệu với nàng Bác sĩ John Martin, người sẽ training và là Lead của nàng. Đến lúc này Vi cảm thấy nhẹ nhàng thực sự, nàng nghĩ thầm, có tới 4 tuần training thì mình đâu có lo gì làm không xong. Bác sĩ John cho nàng biết về thời gian làm việc, giờ cơm và không ấn định giờ nghĩ giữa buổi, giờ nghĩ này có thể là 10 giờ, 10 giờ 30, tùy theo công việc của mỗi người, và có thể không lấy giờ nghĩ cũng không sao. Nhưng giờ làm việc ấn định là từ 8 giờ , có thể trễ một chút, nhưng phải giữ đúng mỗi ngày là 8 giờ làm việc, riêng thời gian training, bác sĩ John yêu cầu nàng đi theo giờ của ông ta là 8 giờ 30 sáng phải có măt.
    Thế là Vi đi làm đã được 4 ngày, Vi rất mong gặp lại người interview nàng lần cuối cùng, để cám ơn ông ta một tiếng, mà lúc đó nàng mừng rỡ quá đã quên mất, nhưng không gặp được ông ta, nàng cũng không dám hỏi người khác vì sợ người ta hiểu lầm là mình o bế giám đốc! Đã hết giờ, Vi vừa thu dọn hồ sơ vừa suy nghĩ, thật là may mắn, mọi người ở đây rất tử tế và thân thiện, chỉ là mình chưa gặp lại anh ấy mà thôi. Vi bước ra khỏi phòng, đi về hướng parking, mà lòng dâng lên một niềm vui nhè nhè… Chợt có tiếng hỏi:
    – Cô là người mới tới làm ở đây phải không? Vi giật mình quay quay lại,
    – Dạ vâng, sao bà biết?
    – Nhà tôi có bảo là mới interview một cô người Việt nên tôi đoán thôi. Ở đây không có nhiều người Việt đâu, bà bắt tay Vi và tự giới thiệu, tôi là bác sĩ Michelle, ở khoa ngoại.
    – Ồ thì ra người mướn tôi là ông nhà, tôi cũng đang mong gặp ông ấy để cám ơn ông ta đã nhận tôi, mà chưa gặp được, thú thật với bà là lúc đó vui mừng quá nên tôi đã quên mất cám ơn.
    – Anh ấy cũng mong gặp cô. Chỉ tiếc là anh ấy phải về trường đại học làm việc đến cuối tuần nên chưa gặp cô đó thôi.
    – Thưa bà, ông bà được mấy cháu?
    – Cám ơn cô, chúng tôi có 2 cháu gái, 8 tuổi và 5 tuổi. Đừng gọi bằng bà, gọi tôi là chị Loan, hay Michelle, tôi sẽ gọi cô là cô hay em cho thân mật, ở đây chỉ có 4 người Việt, một dược sĩ, một bác sĩ mới vào. Để anh ấy về, tôi mời cô tới chơi cho biết nhà, anh ấy quí người Việt lắm, nhất là những người học giỏi như cô.
    – Chị quá khen, anh chị mới giỏi chứ, anh là Scientist, chị là doctor. Chắc anh chị ở gần đây?
    – Cách đây chừng 30 phút lái xe.Hai người còn đang nói chuyện thì tiếng cell phone reo lên,
    – Phone của chị đó,
    – Vâng, xin lỗi tôi nghe phone một chút: ” A lo, Doctor Michelle, . . .
    Vi không nghe được gì, nhưng một lúc sau, bác sĩ Michelle tắt phone và nói, tôi phải về phòng mổ, không hiểu có chuyện gì, xin lỗi nhé, thế nào tôi cũng gặp lại em, vừa nói vừa bước lên xe và lái đi. Vi nhìn chiếc xe chạy ra khỏi parking mà mang cảm giác như mất một vật gì, lòng bổng nghe buồn buồn và miệng lẩm bẩm “anh ấy hạnh phúc quá.
    Chiều thứ Sáu, xong công việc với trường đại học, Thuận lái xe về nhà mà trong lòng vẫn băn khoăn nghĩ tới cô nhân viên mới tuyển dụng, không hiểu cô ấy có gặp trở ngại gì không, nhất là khi hay tin BS. James đã bảo nàng theo học với John, một vị bác sĩ giàu kinh nghiệm, và thông minh, nhưng lại quá nghiêm túc nên sợ mấy người trẻ sẽ gặp phản ứng. Đã nhiều lần chàng tự hỏi mình là tại sao lại bận tâm tới cô ấy như vậy? Tình cảm này vốn vi diệu hơn bất cứ những mối tình bạn bè, hay chồng vợ, ngay cả đối với ba má nuôi chàng. Khi ba má nuôi mất đi, lòng chàng cảm thấy trống rổng và cô đơn vô cùng, nhưng nỗi đau ấy và tình cảm đó hoàn toàn khác biệt với cái nhẹ nhàng nhưng lại quấn quít và ràng buộc như tình cảm mà Thuận cảm nhận khi nghĩ đến cô nhân viên người Việt này. Nó lại càng không phải là mối tình cảm nam nữ háo hức và luyến ái, hoặc chiêm ngưỡng và mong muốn chiếm hữu. Thật là khó mà phân tích mà không hiểu được tại sao? Chỉ biết một điều là trong những ngày qua, lúc nào Thuận cũng lo sợ cô ấy gặp phản ứng bất lợi từ các vị bác sĩ và chuyên viên kinh nghiệm trong công việc hàng ngày. Thuận đã từng có ý nghĩ cần phải để lộ một vài ưu ái cho mọi người hiểu rằng chàng thực sự cần đến người trẻ này và mọi người cần quan tâm đào tạo cô trở thành một người đảm lược của Departmenh Research. Mà cùng chính vì điều này mà chàng thấy cần phải gặp bác sĩ James và bác sĩ John để hỏi xem khả năng cô ta như thế nào, có mẫn tiệp, và nhạy bén hay năng động với công việc hay không? Về đến nhà, khi ngồi ăn cơm, vợ Thuận đã kế cho anh nghe cuộc gặp gở giữa nàng và cô nhân viên mới,
    – Chỉ tiếc là lúc chúng em đang nói chuyện thì Phòng mổ gọi em về nên chưa hỏi thăm được gì cả, nhận xét của em là cô ấy còn vô tư, nhưng đẹp và dễ thương lắm.
    – Em lại có ý kiến gì?
    – Anh nên để tâm đến cô ấy một chút, nếu cô ấy gặp trở ngại, còn không thì hãy để bình thường là được rồi. Đồng hương ở đây rất ít, mà cô ta lại mang họ của anh, anh hãy tìm cơ hội gỡ đi cái rắm rối trong lòng, để tìm lấy sự thanh tịnh cho tâm hồn mà làm việc, em nghĩ đó là điều tốt nhất
    – Để thứ hai anh sẽ hỏi ý kiến của John và James về khả năng cô ta trước.
    – Vậy là tốt nhất.
    Sáng thứ 2, sau khi họp đầu tuần với các Manager và Lead xong, Thuận đã gặp riêng bác sĩ John và hỏi về khả năng thích ứng với công việc của Vi, ông ta cho biết cô ấy rất thông minh và thích ứng rất mau chóng. Nghe vậy Thuận như bỏ được nỗi ưu tư trong lòng, và bắt đầu lo công việc hàng ngày của chàng. Công việc của Biomedical Research thật ra rất phức tạp và bận rộn, nếu thiếu quan tâm một chút là sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng vô cùng. Từ nghiên cứu (basic research), đến ứng dụng (Applied research), hay việc đánh giá phương pháp chữa trị mới (Evaluation new treatment), cả về an toàn lẫn hiệu quả của phương pháp (Clinical trials), điều nào cũng đòi hỏi khả năng và tính nhẫn nại. Đó là chưa nói đến các nghiên cứu về Hóa Sinh, các cell và gene structure, hay là về Dược học (Pharmacology), các phát minh về thuốc và ứng dụng của nó trong các clinics, vân vân và vân vân… Do vậy, dù đã hỏi ý kiến bác sĩ John, Thuận vẫn muốn gặp Thủy Vi vào chiều nay, để lượng định khả năng cô ta và cũng là để thăm dò những điều còn khúc mắc trong lòng Thuận. Thuận đi ngang qua nơi Vi đang training, anh thấy Vi đang chăm chú vào công việc và có vẻ bận rộn lắm, nên bỏ ý định gặp Vi trong lúc này, hãy để lúc thuận tiện đã, Thuận nghĩ vậy và trở lại văn phòng, vừa lúc vợ gọi điện thoại đến :
    – Hello em đây, con gái anh đòi chiều nay đi ăn món ăn Việt Nam có được không?
    – Được, nhưng anh về đón cả nhà phải không?
    – OK, đúng vậy.
    – Được rồi, 5 giờ anh về.
    Thuận nhìn đồng hồ, còn 30 phút nữa là 5 giờ, chàng thu dọn giấy tờ trên bàn, soát xét lại công việc, ghi lấy những điều cần làm cho ngày mai và đóng cửa ra về. Đến Parking, anh thấy Vi còn mở máy xe, nhưng xe không nổ,
    – Xe cô không nổ máy
    – Em không biết nữa, sáng nay đi còn ngon lành.
    – Cô mang từ bên đó sang?
    – Không, em mua ở đây $4,500.00 đó.
    – Để tôi xem thử,
    Vi bước ra khỏi xe, nhường chỗ cho Thuận, anh mở máy liên tiếp hai lần, không có dấu hiệu nạp điện, biết là bình acquy hết điện,
    – Không sao, tại ac quy thôi, cô biết boost không?
    – Không đâu.
    – Được, hãy làm theo tôi dặn,
    Thuận lái xe chàng tới parking lot đối diện, để đầu xe của chàng gần sát đầu xe của Vi rồi lấy cáp nối bình acquy xe chàng và xe Vi,
    – Cô vào xe của cô mở máy thử đi.
    Vi làm theo sự chỉ dẫn của Thuận và chiếc xe nổ máy.
    – Xe cũ là như vậy, bình cũng cũ luôn, hoặc là thay bình, hoặc là cô mua chiếc mới, cô có thể downpayment một vài ngàn rồi trả hàng tháng được mà.
    – Vâng để em thử, cám ơn anh nhiều lắm. Trong lúc đó điện thoại của Thuận lai reo…
    – Em đây, anh ra cửa chưa,
    – Anh ra rồi, nhưng xe cô Vi hết bình, anh vừa boost cho cô ấy,
    – Vậy há, dịp may đấy, anh mời cô ta đi ăn theo nhà mình đi, hãy nói là birthday của con gái anh, may ra cô ta mới chịu đi.
    – Ok để anh thứ nha.
    – Cô Vi ạ, nhà tôi vừa gọi điện thoại tới muốn mời cô đi ăn tối với chúng tôi, chắng có gì quan trọng đâu, chỉ là Birthday của con gái thôi.
    – Ủa Birthday cháu há? Vậy cho em đi theo, nhưng em không chuẩn bị quà gì cho cháu cả, thật ngại lắm.
    – Có gì đâu, coi như cô nợ cháu vậy, mai mốt cô đền cho cháu là được rồi.
    – Birthday mà cũng có thể nợ quà sao?
    – Ở bên này cái gì cũng có thể, huống chi là quà Birthday!
    – Được, vậy thì cho em theo anh.
    Thuận gọi vợ cho biết là có Vi cùng đi, và hỏi tên nhà hàng và địa chỉ, để anh đưa Vi tới mà không muốn ghé về nhà nữa sợ phiền Vi.Thuận và Vi tới nơi thì vợ con Thuận đã tới rồi, vợ Thuận giới thiệu các con với Vi và bảo chúng gọi Vi bằng cô, trong lúc chờ chọn thức ăn, Vi gọi về nhà cho ba mẹ biết là nàng sẽ về muộn vì đi ăn Birthday của con gái boss, và dặn ba mẹ ăn cơm trước. Lấy cơ hội ấy, vợ Thuận liền hỏi Vi,
    – Gia đình Vi có bao nhiêu người, Vi được mấy anh chị em?
    – Em có một ông anh là quân đội, đang đóng ở bên Trung đông, ở đây chỉ còn em với ba mẹ, gia đình em cũng ít người lắm.
    – Cô đang ở đâu, gần đây không?
    – Em nghĩ là cũng gần, tý nữa em phải nhờ anh chị chỉ đường về mới được, gia đình em đang ở tạm nhà của bạn ba em. Còn anh chị thì sao, ông bà nội ngoại cũng ở đây?
    – Ba má tôi đã qua đời, tôi là con một, nhà tôi cũng vậy.
    Hai người đàn bà mải lo nói chuyện, còn Thuận thì vui đùa với hai con, nhưng chàng vẫn để ý theo dõi câu chuyện và biết Vi chỉ có hai anh em và ba má mà thôi, đột nhiên Thuận nghe lòng mình tróng rỗng, và tiếng nói của vợ dường như từ xa xôi đồng vọng dội về .
    – Xin mời quí khách dùng bữa.
    – À quên mất, cô Vi thích món gì? Và uống gì đây, anh gọi thức uống đi.
    – Chị uống gì cho em thứ ấy, còn thức ăn thì em đã thấy trên bàn rồi.
    – Món gì?
    – Cá hấp cuốn bánh tráng.
    – Trời ơi, sao ăn giống ông Thuận nhà này vậy.
    – Anh Thuận cũng thích cá hấp hả?
    – Đúng vây, món ruột của anh ấy đó.
    – Hai người ăn đi chứ, nguội hết rồi, cua và tôm nếu để nguội sẽ mất ngon? Thuận nói.
    – Em xin lỗi, bất ngờ quá, em không mua quà mừng sinh nhật cho cháu được, thật là ái ngại.
    – Vợ chồng Thuận nhìn nhau mim cười, rồi quay sang hai cô con gái, vợ thuận hỏi,
    – Hôm nay sinh nhật ai vậy? Dionne hay Dianna?
    – Đâu có má. Ừm hừm … Ma mi vo gạo, Dionne nói.
    – Mami vo gao. À ha . . . Dianna thêm vào!
    – Con mới vo gạo, con mà không ăn nhanh thì đúng là vo gạo!
    – Vo gạo là sao? Vi nhìn hai đứa nhỏ và hỏi.Dionne và Dianna nhìn mẹ mĩm cười không nói. Thuận vo đầu Dianna giải thích, khi vo gạo, cô nghe âm thanh phát ra xào xạo, nên hai đứa nhỏ bảo là mẹ nói dối.
    – Wow . . . con của anh chị nói tiếng Việt giỏi quá xá, biết cả tiếng lóng.
    – Cũng phải cám ơn sư phụ của hai cháu đấy!
    – Không có đâu, trong nhà tôi chỉ là sư đệ thôi, Thuận trả lời và tiếp, nhà tôi sợ mời cô, cô không đi nên bảo tôi nói dối là sinh nhật của cháu.
    – Ra là thế, thôi hôm nay anh chị đãi em, để mướn nhà xong, em mời anh chị và hai cháu đến ăn tân gia. Nhìn thức ăn ở đây, nhất là rau em thấy ngon quá, mấy tuần nay mẹ em đi chợ toàn mua rau và cá, chả bù cho tiểu bang lạnh.
    – Tôi cũng nghe người ta nói thế. À mà bây giờ cô đang ở đâu? Vợ Thuận hỏi..
    – Cả nhà đang ở tạm nhà bạn của ba em.Đột nhiên bé Dionne cắt ngang câu chuyên,
    – Mẹ ơi, cô đẹp quá ha mẹ.
    – Phải rồi, cô đẹp và dễ thương, lại học giỏi nữa, mai mốt con lớn phải giống cô nha.
    – Dạ mẹ, Dionne trả lời.
    – Hai cháu mới đẹp chứ, mai mốt nhất định là học giỏi giống ba má rồi.
    – Thôi ăn giùm, cô cháu đừng có khen lẫn nhau nữa, người ta nghe thì mắc cở lắm, vã lại hình như trễ rồi, cô phải về kẻo hai bác lo, mà hai con cũng phải về ngủ để mai còn đi học, vợ Thuận nói.
    – Cô về khuya có ngại không? Thuận hỏi.
    – Em không sao, anh chỉ hộ em đường về là được rồi.
    – Cô ở đâu?
    – Em ở . . . ngã tư Poway và Bernard Rd.
    – Ồ gần thôi, tý nữa cô ra thì queo phải, bỏ 2 ngã tư, đèn xanh đèn đỏ, đến ngã thứ 3 queo trái là tới rồi.- Anh rành ở đây quá vậy?
    – Nhà tôi là ông Địa ở đây đó cô.
    – Em à, chúng ta để cô Vi về kẻo hai bác ở nhà đợi, vã lại hai đứa nhỏ cũng phải về ngủ, trễ rồi.
    – Hai con đứng dậy chào cô đi rồi về, và vợ Thuận gọi tiếp viên tính tiền . . .
    Về đến nhà, vợ Thuận bảo, thật tiếc là trong gia đình anh không có em gái. Nếu có thì đúng cô ta phải là em gái anh. Cô ta có những nét rất giống anh, như là khi cười, khi nói, mà nhất là khi cô ấy ăn, kể cả cử chỉ đưa tay lên mà nói cũng giống như anh luôn, lại còn sở thích về ăn nữa chứ. Em thật chưa cam! Sáng hôm sau Thuận đi làm, khi ngang qua nơi Vi làm việc, nhìn sau lưng Vi, anh lại mang cảm giác lạ lùng của ngày đầu mới găp, dường như hình bóng Vi luôn luôn lẩn quất trong đầu anh. Thật là khó mà hiểu, không lý mình yêu thầm cô ta, Thuận chợt nghĩ! Về phần Vi, cô cũng thầm hỏi, tại sao hai vợ chồng họ lại tốt với mình như vậy, phải chi chỉ có anh ấy cư xử tốt với mình thôi thì thật là dễ hiểu. Tuy nhiên Vi dấu kín tình cảm của mình và không kể cho mẹ nghe giống như những lần trước.
    Mấy tuần nay, thứ 7 nào Vi cũng đưa ba mẹ đi tìm nhà.
    – Con thấy căn nhà này ra sao Vi? Câu hỏi của ba Vi đưa Vi rời cơn mộng,
    – Ừ, dạ . . . con thấy cũng tốt lắm.
    – Con có sao không Vi? Bệnh há? Mẹ Vi hỏi,
    – Không có, tại con đang suy nghĩ thôi. Nhà này được đó ba, 3 phòng ngủ 2 phòng tắm, thêm một Restroom, 2 garages, giá phải chăng, được phải không mẹ?
    – Phải có phòng cho anh con khi nó về nữa chứ!
    – Ừ thì anh “nối dõi” 1 phòng, con 1 phòng, ba mẹ 1 phòng.
    Nghe Vi nhắc đến người anh nối dõi, mẹ Vi lại tưởng nhớ đến người con lớn. Đã mấy mươi năm rồi bà vẫn chưa hết ân hận việc bảo em gái của bà dẫn đứa con đi vượt biển, lúc nào bà cũng mang trong lòng cảm giác đưa con và em đi chết, và những lúc nghĩ tới việc này, bà chỉ khóc thầm rồi đấm ngực ăn năn! Thấy Vi nhìn mình, bà vội đánh trống lảng,
    – Nhà này không hiểu có xa chổ con làm không?
    – Để con hỏi chủ nhà xem sao?
    Vi hỏi lại chủ nhà, được biết nhà này cách chợ Việt Nam 20 phút, chỉ 10 phút đi bộ qua bên kia góc đường là nhà Thờ Sainte Gabrielle, còn nơi cô làm việc . . . chắc 25 đến 30 phút. Tôi biết chắc chắn không xa đâu.
    – Tường à, từ nhà này tới ngã tư Albert và Calmet mấy phút lái xe ?
    – Con lái thì 22 đến 25 phút, con đi hàng ngày mà. Con trai ông chủ trả lời.Vừa lúc ấy, người bạn già của ba Vi chạy ngang qua bắt gặp, bác Thụ, bác đậu xe lại và hỏi,
    – Này gia đình tính mướn nhà này há?
    – Vâng, bác cho ý kiến đi.
    – Nhà tôi cách đây một ngã tư, bác đi bộ tới tôi khoảng 10 đến 15 phút, mướn đi, để tôi và bác đi bộ cho vui, khu này an toàn lắm, mấy chục năm tôi ở đây thật không có gì cả.
    – Vi à, vậy mình mướn nha con? Ba Vi lên tiếng.
    Trên đường về, nàng dặn ba mẹ ở nhà cứ gói đồ lại rồi chiều về con chở đi từ từ ngày một ít, hy vọng tuần tới mình sang nhà mới được. Thứ hai nàng đi làm về thì đồ đạc đã chở hết, chì còn đồ dùng hàng ngày của mỗi người mà thôi. Ba nàng và bác Tuân đang nói chuyện tâm tình, thấy Vi về, bác Tuân bảo Vi, đã đi thì để bác chở cho, lại coi xem giường, nệm, bàn ghế phòng khách, phòng ăn nhà bếp . . . cần thứ gì để bác giúp gọi điện thoại đặt mua, không cần khách sáo, rồi quay nhìn ba Vi ông nói, “Tôi vẫn còn một chút tiền có thể giúp bác được. Bạn già như bác và tôi hay ông Thụ, còn được mấy người, nói là bạn thì như mấy đứa chúng mình mới là bạn, làm bạn cũng phải trải qua thời gian, có quá khứ và kỷ niệm, như ông với tôi, chơi với nhau từ thời tiểu học, lên đệ Tam mới gặp ông Thụ, ba đứa thân nhau từ đó đến giờ, đâu phải là bạn bè khi sang đây mới gặp, thấy nhau ở các hội hè, họp mặt hay shoping, . . . Bắt tay bắt chân, nhưng khi xa nơi đó rồi mỗi người một cõi, không liên lạc, không thăm hỏi, có đâu thâm tình, có đâu tri kỷ”.Vâng, bác, tôi và ông Thụ quả thật là tri âm mà cũng là tri kỷ, chỉ là khi đi tù cải tạo, tôi không gặp hai bác, có hỏi vài ngưòi, nhưng không ai gặp, đâu có ngờ hai bác không được “vi hành xuất tuần” thị sát dân tình Hà Bắc, Thăng long, Thanh hóa để được dàn chào ở ga Hàng Cỏ như tôi ! Cứ mặc hai ông già kể chuyện, Vi nhẫm tính túi tiền, nàng thấy vẫn còn đủ chi dùng, vã lại nàng sẽ có lương trong tuần tới, nên khi nghe bác Tuân nói tới tiền bạc Vi dặn mẹ tìm cách từ chối.
    Công việc nhà cửa thế là đã ổn, Vi yên tâm đi làm, hàng ngày ở nhà ba mẹ nàng có thể qua nhà bác Thụ, hay đi bộ dạo chơi cho quen khu phố mình ở, không phải co ro như ngày còn ở tiểu bang lạnh. Hai tuần sau, Vi trang hoàng xong nhà cửa, so với nơi ở cũ quả là khang trang hơn nhiêu, mẹ Vi bảo thế, còn ba thì rất vui thích, ba bắt đầu nghe lại những bản nhạc xưa như ” Chiều mưa biên giới, Tấm ảnh ngày xưa, Hoa soan bên thềm cũ, Sang ngang . . . Ba nghe hoài mỗi ngày làm Vi cũng thuộc luôn. Vi nói với ba mẹ là nàng muốn mời gia đình ông boss của nàng tới nhà ăn cơm, và ba mẹ cũng nên mời các bác Tuân, bác Thụ và mấy bạn già của ba tới chơi cho phải lễ, khi mình tới đây được họ ân cần đón tiếp. Dì nhiên là ba Vi mong muốn như thế rồi, và Vi muốn là tối thứ 7 tuần tới, để sáng thứ 7 nàng cần mua sắm chút ít đồ trang trí cho ra vẻ thanh tân. Nhưng một chuyện bất ngờ đã xảy ra, mà sau này Vi cứ gọi đùa ba mẹ là” những vĩ nhân tạo ra kỳ tich”! Sáng thứ 7 của hôm mời khách, Ba đưa Vi và mẹ tới chợ Vons mua khăn giấy, đĩa, muổng, nĩa, khăn bàn . . . để dùng cho tiện, không mất công rửa. Khi đi ngang qua mấy người bán bông, Vi nói với mẹ nàng muốn mua bông, và xuống xe, còn ba mẹ thì đưa xe vô parking đậu, nhưng có lẽ xe chưa nằm gọn trong lằn ranh, ông de lui de tới, đụng phải chiếc Hummer ở hàng phía sau, ông nghe tiếng đụng rồi tiếng khóc của trẻ con, nên hốt hoảng đậu xe nguyên chổ, bước ra xe cùng với vợ chạy tới xin lỗi chủ xe và coi tình hình đứa nhỏ,
    – Không sao, không sao, ba mẹ đây. Người đàn bà dỗ con.
    – Xin lỗi, tôi vô ý, hai cháu có sao không? Ba Vi nói.
    Người đàn bà ngước nhìn ông có vẻ không hài lòng, còn người đàn ông thì hỏi lại,
    – Bác có sao không? Hai cháu không sao đâu, xe đậu mà, chúng chỉ hoảng sợ thôi,
    – Anh à, hãy thăm chừng xem các con đã, cẩn thận vẫn hơn.
    – Để anh xem, anh trả lời vợ và hỏi các con,
    – Dionne con đau chổ nào, ghế có đụng con không?
    – Không có, con sợ thôi, ba hỏi em đi.
    – Em đâu có sao, I’m sure!
    Anh nhìn lại chiếc xe đụng xe mình bổng thấy chiếc xe quen quen, bảng số cũng quen quen hình như thấy chổ nào, nhưng thoạt nhiên anh không nhớ được.
    – Anh à, hỏi bảo hiểm của bác ấy đi, xe bác bị hư, đề phòng bất trắc,
    ý của người đàn bà là sợ ông bà này thưa ngược lai, người đàn ông ngần ngại một lúc, rồi hỏi ,
    – Bác có thể cho cháu xem giấy bảo hiểm của bác được không, hay bằng lái xe cũng được?
    – Vâng, ông già trả lời và móc ví lấy bằng lái xe đưa cho người đàn ông và nói,
    – Giấy bảo hiểm con gái tôi giữ, nó đang mua bông đằng kia, ông quay sang vợ,
    – Bà gọi con Vi tới đây đi.
    Nghe vậy người đàn ông chưa kịp coi bằng lái xe đã vội hỏi,
    – Xe này của cô Vi phải không? Cô Vi làm ở Biomedical Research? Vậy bác là ba cô Vi?
    – Vâng, Vi là con tôi. Hai vợ chồng chủ chiếc Hummer cùng nhìn nhau cười, rồi cùng nhìn bằng lái xe, Thái, Trác-Ngọc, DOB 1947.
    Bằng lái xe rơi khỏi tay người chồng, rớt xuống đất, khuôn mặt anh nhợt nhạt, bà vợ hiểu tình trạng chồng mình liền ôm anh và bảo, hãy bình tĩnh, anh hãy bình tĩnh … Vừa lúc đó Vi và mẹ chạy tới, thấy vợ chồng Thuận, Vi sửng sốt, vội hỏi?
    – Anh có sao không chị?
    – Chỉ xúc động thôi, để tôi xoa bóp thái dương cho anh ấy một lúc sẽ không sao. Nhìn ba mẹ, Vi bảo,
    – Đây là bác sĩ Michelle, vợ anh Thuận, anh Thuận là Giám đốc của con.
    Lúc ấy Thuận mở mắt và bảo nhỏ vợ, anh hơi mệt, em hỏi thử bác ấy đi,
    – Vâng, vợ Thuận trả lời, và hỏi,
    – Xin lỗi, tên bác là Thái Ngọc Trác, sinh năm 1947, Thái Ngọc Trác hay Thái Trác Ngọc?
    – Thái Ngọc Trác,
    – Vậy bác có thể cho nhà cháu biết tên bác gái được không?
    Nghe vậy Vi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng thay mẹ trả lời,
    – Mẹ em là Chung Thị Ngọc Hân.
    Thuận lẩm bẩm một mình, Thái Ngọc Trác, Chung Thị Ngoc Hân, Thái Ngọc Trác, Chung thị Ngọc Hân . . . Và vội vàng lấy trong ví ra tấm hình mà 32 năm trước đây mẹ đưa cho anh, rồi hỏi,
    – Hai bác có nhận ra tấm hình này không?
    Ông già nhìn tấm hình còn phân vân, người vợ vội dành lấy tấm hình xem rồi lật mặt sau ra đọc, Thái Ngọc Trác (1947), Chung Thị Ngọc Hân (1953), Thái Ngoc Thuận (1970), Thái Ngọc Trị (1973) bà vô cùng xúc động vì nhìn ra tấm hình gia đình và nét chữ của mình, bà run run giọng hỏi,
    – Đây là hình gia đình tôi, tại sao anh có?
    Thuận vươn tới ôm bà cùng với ông già mà nói với giọng đầy cảm xúc, gần như đứt đoạn,
    – Ba mẹ ơi, con là thằng Thuận đây, con tìm ba mẹ và em hơn 30 năm rồi, tìm khắp nước Mỹ, Úc, Canada, cả Tân Đảo… Và òa lên khóc như một đứa trẻ.
    – Thuận, con là Thuận đây sao?
    bà ôm Thuận và khóc trong nỗi vui mừng lẫn xúc động. Vi và Vợ Thuận cũng bước tới ôm lấy mọi người và kêu lên “Ba… mẹ…“. Ba Vi với tay choàng lấy nàng và nói,
    – Đây là em gái con, ba đi tù về mẹ con mới sinh nó.
    Vợ Thuận quay lại mở cửa xe bảo hai đứa con ra chào ông bà nội, khi hai đứa nhỏ bước tới, Thuận lấy tay lau nước mắt và nói,
    – Đây là hai đứa con gái của con, đây là vợ con, tên Loan. Vợ Thuận bảo Vi,
    – Em xem xe còn lái được không thì đưa về rồi hẳn hay.
    – Vâng để em thử.
    Cả nhà đưa nhau về căn nhà Vi mới dọn vào, rồi bao nhiêu tâm tình hơn 30 năm Thuận và ba mẹ ngồi kể lại cho nhau, mà lòng không hết bi ai lẫn mừng rỡ .Chiều nay, gia đình Vi không những mời bạn bè tới dự bữa cơm tân gia, mà còn là bữa ăn chúc mừng sự đoàn tụ sau hơn 30 năm chia lìa và lưu lạc.                                                          Du Tử Nguyễn Định

Người con nuôi

Người con nuôi

VĨNH-HẦU

Khoảng trung tuần tháng Tư, năm 2009, gia đình tôi ở Cali có nhận được một phong thư dày, gởi từ tiểu bang Virginia, của Laurie, một quân nhân Mỹ, người tự nhận là con nuôi của bố mẹ tôi hồi còn ở Việt Nam trước 1975. Phong thư gồm một lá thư mới viết, giấy trắng tinh, và một bì thư cũ, trong đó có 5 trang giấy, viết đầy cả 2 mặt, công thêm một tấm ảnh căn cước (4×6), chụp Laurie lúc Chàng còn là một quân nhân trẻ trung, gầy và cao. Cả thư và phong bì đều ngả sang màu vàng úa. 

Laurie Watson

Nhìn kỹ bì thơ, tôi rất ngạc nhiên, vì thấy tên và địa chỉ của Ba tôi ở Saigon, và dấu Bưu Điện ở Mỹ đề ngày 28/4/1975, lại có thêm hàng chữ in, còn rõ nét, nội dung nói công việc đưa thư tạm thời đình chỉ, thư được trả lại cho người gởi- ‘Service temporarily suspended, returned to sender’. Hoá ra, bức thư này đã viết từ Tháng Tư 1975, được bưu điện Mỹ trả lại cho người gửi.

Kèm theo phong bì vàng úa của lá thứ năm xưa, Laurie giải thích trong một tờ note mới viết trên giấy trắng, đề ngày 2/9/09:

“Dear Mom + Pop, Cuc,
You will be no more surprised than me to see this 34 year old letter I wrote You.
‘I discovered it last night, while shredding some of my old military forms which have been stored in the attic for years. / Mẹ và Ba Cúc thân mến, Bố mẹ sẽ không ngạc nhiên hơn con khi thấy lá thư con viết gửi Bố Mẹ từ 34 năm trước. Hôm qua, trong khi dùng máy cắt giấy để hủy bỏ một số tài liệu nhà binh xưa cũ, cất trên gác xép lâu năm, con tình cờ phát hiện bức thư.’ 

Laurie viết tiếp:

 ‘To me, it is a mystery, because I do not recall getting it returned. I have no idea what I wrote in this letter, but hope you will still enjoy it 34 years later. / “Đối với con, nó là một sự huyền bí, bởi vì con không hề nhớ ra bức thư bị trả lại. Con  cũng chẳng biết con đã viết những gì trong thư nữa, nhưng hy vọng Bố Mẹ vẫn thích thú đọc nó  34 năm sau.”

Sau đây là câu chuyện chung quanh lá thư Tháng Tư 1975 gửi từ Mỹ về Việt Nam.

***
 Laurie G. Watson là một Trung Sĩ Không Quân trẻ, từ Tiểu Bang Virginia, được biệt  phái đến Nha Trang làm chuyên viên về ngành Điều Khiển Không Lưu, từ năm 1967 cho đến giữa tháng 2/75, mới trở về nước. Từ đó chúng tôi mất liên lạc, cho đến khi thư từ qua lại giữa VN và Mỹ hoat động trở lại, chúng tôi mới có tin tức lẫn nhau.

Một sự tình cờ ngẫu nhiên, khi chàng lính trẻ Laurie vui tính, đầy nhiệt huyết, lại thuê một căn phòng ở kế cận nhà chúng tôi, gần bờ biển của miền quê hương cát trắng, hiền hòa và thơ mộng.  Không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ sau một thời gian vài tháng, qua những câu chào hỏi đơn sơ, ‘Good morning’, ‘How are you”‘, ‘Happy Holiday’…chúng tôi đã xích lại gần nhau, rất nhanh, nhất là hôm mà Laurie được mẹ tôi biếu một dĩa chả giò mới chiên dòn, còn nóng hổi. Không ngờ món ăn thuần túy VN này lại là sợi dây nối kết tình thân giữa gia đình chúng tôi và chàng lính trẻ cô đơn, thèm muốn không khí gia đình.

 Laurie là một quân nhân độc thân, nhưng lại có nếp sống rất đạo đức, hiếu thảo và có tâm hồn rất nhân bản. Tình thân suốt 7-8 năm sống gần chàng ta, cho phép tôi kết luận như thế. Lần đầu tiên được Mẹ tôi biếu món chả giò, chàng có vẻ cảm động, rối rít cám ơn, và sáng Chủ Nhật ngay sau đó, chàng ta đã khệ nệ mang qua nhà chúng tôi một thùng đồ hộp đủ các loại, mua ở P.X (Post Exchange), hồi đó được xem như là một ‘Big Shopping Center’, dành riêng cho Quân Nhân.

Món chả giò quá ngon đối với Laurie, đến nỗi chàng ta phải mang giấy bút ghi chép rất tỉ mỉ cách làm từ đầu cho đến khi món ăn được dọn lên bàn, để sau này có dịp cho gia đình và Evelyn, vợ chưa cưới của chàng được thưởng thức, do chính tay chàng làm lấy! Lui tới với gia đình, thấy  chúng tôi chơi môn ‘mạt chược’ vui quá,  chàng ta cũng đòi học cho được, nói là học để sau này về chỉ lại cho gia đình! Không biết chàng ta lãnh hội được mấy phần về môn chơi ‘mah jon’ này, qua sự hướng dẫn cực kỳ luộm thuộm của tôi! Con người Laurie là thế đó!  Luôn luôn nghĩ đến gia đình.

 Những ngày nghỉ, hoặc chiếu tối đến, chúng tôi không hề thấy chàng ta la cà say sưa ở những chốn ăn chơi, như một số những quân nhân khác, mà chỉ ở nhà đọc sách hoặc qua chơi bên nhà chúng tôi mãi đến khuya, vì lúc này chàng ta xem gia đình chúng tôi như là gia đình thứ hai của chàng. Rất tự nhiên, Laurie gọi Ba Mẹ tôi là Mom và Pop một cách ngọt xớt, không hề e dè hay mắc cỡ.

 Và cứ như thế, tình bạn giữa Laurie và gia đình tôi càng ngày càng sâu đậm. Ba Mẹ tôi xem chàng ta như là ‘con cái trong nhà’, và chàng ta cũng có vẻ khoái chí, hài lòng về điều này.  Những ngày cuối tuần, Laurie luôn luôn mang nhiều đồ hộp, trái cây, cả đồ dùng linh tinh về nhà chúng tôi, và ở đây dùng cơm, trò chuyện, vui đùa, dạy tiếng Anh cho chúng tôi suốt cả ngày không biết chán! Chúng tôi đã trải qua  những ngày tháng hạnh phúc bên nhau, và thực sự quý mến nhau như ruột thịt vậy. Laurie cũng tập ăn những món ăn ‘nặng mùi hương vị Viêt Nam’ như nước mắm, ngay cả mắm nêm khi ăn Bò Nhúng dấm, và chàng ta cũng rất chịu khó học nấu mấy món đặc biệt như bún bò, xôi vò, nem nướng…do Mẹ tôi, ‘đầu bếp trứ danh’ chỉ dẫn.

Thời gian trôi nhanh với nhiều kỷ niệm êm đềm, thú vị đối với gia đình tôi và người lính tha phương,  nhưng chiến cuộc cũng bắt đầu leo thang, ngày càng  khốc liệt, Laurie bị cấm trại liên miên, một vài tuần mới được về phép, và nơi nghỉ phép độc nhất là tổ ấm của Ba Mẹ và mấy anh em tôi. Lúc này, ông anh, đứa em và cả chính tôi cũng đều nhập ngũ, chỉ trừ đứa em gái là được yên phận ở nhà. Chúng tôi không còn gặp mặt đầy đủ, để cùng nhau ăn uống, vui đùa trò chuyện như xưa nữa, không khí chiến tranh đã đánh mất những gì đầm ấm, thân tình, thay vào đó là những lo âu, phiền muộn.

 Vào giữa tháng 2/75, mặc dầu đang ở trong tình trạng khẩn trương, chuẩn bị chờ di tản về nước, Laurie cũng đã ráng trốn trại, ra thăm chúng tôi lần chót, trước khi quay về cố hương, không biết ngày nào mới gặp lại. Hôm đó chỉ có Ba Mẹ, em gái, và tôi gặp được Laurie lần cuối trước khi anh về nước. Chàng ôm Ba Mẹ tôi, mặt buồn thiu như muốn khóc, rất tiếc không giúp gì được cho chúng tôi, chỉ để lại địa chỉ bên Mỹ, sau này, nếu liên lạc được, thì hãy viết thư cho hay, anh ta sẽ làm tất cả những gì có thể làm được, để giúp đỡ chúng tôi trong hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo.  Ba Mẹ tôi đã rơm rớm nước mắt, muốn nói rất nhiều, nhưng chẳng được bao nhiêu, ngoài 2 chữ ‘good bye’! Tôi cảm thấy xốn xang trong lòng, cũng không biết nói gì, chỉ thốt ra được câu, ‘we love you, see you again someday’.

 Thế rồi, chúng tôi chia tay.
Chỉ vài tháng sau khi Laurie về Mỹ, Miền Nam bị xô đến bờ vực thất trận, cực kỳ hoang mang và hỗn loạn. Người trong nước tìm đường ra ngoại quốc, các tỉnh nhỏ ùa về thành phố Sàigon dung thân. Gia đình tôi chia 2 nhóm, ông anh thì lên tàu thủy quen biết ra khơi, đứa em không quân thì có tên nằm trong danh sách di tản ra Hạm Đội thứ 7, còn lại chúng tôi, thì từ Nha Trang chạy vào Saigon, tá túc tại nhà em gái ruột Mẹ tôi, đã bỏ của, chạy lấy người từ trước, để lại căn nhà lầu 4 tầng ở đường Hai Bà Trưng.

Lúc mọi liên lạc từ VN qua Mỹ đều bế tắc, trong hoàn cảnh cấp bách này, chúng tôi đã cố tìm cách liên lạc với Laurie, để hỏi xem anh có cách gì giúp đỡ, hoặc can thiệp, để cho chúng tôi di tản qua Mỹ theo diện bảo lãnh! Đúng là vào  lúc tuyệt vọng, con người có những hành động, biết là vô vọng, nhưng vẫn cứ làm. Ba tôi đã viết một bức thư gởi qua Pháp (lúc này Bưu Điện 2 bên vẫn còn hoạt động), nhờ bà chị ruột (có chồng Pháp), gởi bức thư qua Mỹ, đến địa chỉ của Laurie, để hỏi chàng có cách nào can thiệp hay bảo lãnh theo diện nào đó. Thật ngây ngô hết chỗ nói! Thế mà bức thư cũng tới tay chàng mới lạ đời! Và cũng vì thế, tôi mới có chuyện để  hôm nay kể lại, về một bức thư đã viết cách đây hơn 1/3 thế kỷ!.

Trở lại phong thư ‘two in one’, đề cập ở đầu bài, chúng tôi đã rất xúc động khi đọc bức thư 34 năm trước của Laurie, nói lên tâm trạng ‘đứa con nuôi’ của Ba Mẹ tôi, lúc đó, cũng hoang mang, khắc khoải, lo sợ không kém gì chúng tôi, mặc dầu anh đang ở trong một đất nước giàu mạnh và an bình. Đoạn mở đầu của anh, khi nhận được thư của Ba tôi, tuy biết được chúng tôi đang ở trong tình cảnh ‘giăc đã đến nhà’, nhưng ít ra chúng tôi vẫn còn sống sót, nên anh đã thực sự hân hoan mừng rỡ!

 Tôi xin trích nguyên văn:
‘Trước tiên, tôi muốn các bạn biết rằng khi nhận được thư của các bạn trưa hôm nay, việc làm đầu tiên là tôi cám ơn Thượng Đế về sự bình an của các bạn! Tôi đã cầu nguyện nhiều lần vì đã quá lo sợ cho tính mạng của Ba, Má, các anh trai và em gái nuôi, khi không được tin tức gì bên ấy cả, vô cùng lo sợ, nhưng nay thì quá đỗi sung sướng khi biết được tất cả bình an vô sự. Tôi yêu các bạn như yêu chính gia đình của tôi, và cầu nguyện Chúa ban phép lành cho tất cả các bạn cũng như Ngài đã ban cho gia đình tôi vậy’.

 Hóa ra bức thư Ba tôi gởi gián tiếp từ VN qua Pháp, rồi từ Pháp qua Mỹ lại có một kết quả tốt đẹp về tinh thần như thế đối với Laurie, mặc dầu lời yêu cầu của Ba tôi ngoài khả năng giúp đở của đứa con nuôi đầy tình cảm này.

Ở một đoạn khác của bức thư khá dài này, Laurie đã nhận định: ‘America is a great and wonderful country… I’m sorry to say many of our people do not understand clearly the problems of people in the other countries” /  ‘Nước Mỹ là một Quốc Gia vĩ đại và tuyệt vời. Tuy nhiên chúng tôi vẫn có những vấn đề khó khăn như những Quốc Gia khác, nhưng chúng tôi biết cách lèo lái để vượt qua những khó khăn đó. Cũng như thế, nước chúng tôi có nhiều người tốt, nhưng vẫn có những thành phần xấu.

Nhưng tôi phải thành thật mà nói rằng, nhiều người Mỹ đã không hiểu được dân tình của những nước khác một cách rành rẽ’. (Có lẽ Laurie muốn ám chỉ, nước Mỹ đã bỏ rơi Miền Nam VN chăng”). 

Một đoạn nữa: ‘I had hoped that I could come to your home in Vietnam again. I am so sorry that you lost your beautiful home. I know your hearts are heavy. You are a strong and loving family though and together you will survive ‘/  Tôi đã hy vọng rằng, tôi sẽ trở lại căn nhà của các bạn ở VN một lần nữa. Thật đáng tiếc các bạn đã bị mất căn nhà đẹp đẽ ấy rồi.Tôi biết các bạn buồn khổ lắm. Tuy nhiên các bạn là một gia đình mạnh mẽ và yêu đời và tay trong tay, các bạn sẽ vươn lên để sống còn…’

Còn nhiều đoạn văn viết ra với một tấm lòng tình nghĩa của chàng quân nhân hiền hậu này, nhưng tôi không thể phô bày hết được, vì đây cũng chỉ là một bức thư bình thường.
Trong lá thư mới viết kèm theo thư cũ, Laurie đã rất thành thật khi bảo rằng không biết hoặc không nhớ gì hết về nội dung cũng như nơi chốn mà bức thư đã ‘nằm ngủ’ 34 năm trời! Ngay chính tôi đây, đã mò mẫm viết bức thư tiếng Anh ngắn cho Laurie, đi kèm với bức thư của Ba tôi gởi qua Pháp cho người chị ruột, mà bây giờ hỏi tôi đã viết gì, thì xin thưa là ngay nửa chữ, tôi cũng không nhớ ra, nói gì đến nội dung bức thư!

Ông anh và đứa em tôi qua Mỹ năm 75, nhưng mãi 2-3 năm sau mới liên lạc được với gia đình Laurie. Gia đình em gái tôi, 8 năm sau đó cũng sang được Mỹ theo diện ‘ô-đi-ghe’. Còn Ba Mẹ tôi thì ở lại chờ tôi lấy bằng “tiến sỹ 8 năm học tập” rồi mới chính thức lên máy qua Mỹ theo diện H.O + Bảo Lãnh của ông anh.

Trước khi Ba Mẹ và tôi qua Mỹ, gia đình mấy anh em gái tôi đều đã từng thay phiên nhau (vì công việc, nên không thể đi cùng một lần), qua Virginia Beach (thành phố của Tiểu Bang Virginia), thăm gia đình Laurie theo sự ân cần mời mọc của chàng. Laurie và vợ, lúc này đã trở thành Ba Má bầy trẻ, sống hạnh phúc trong một căn nhà rất đẹp, bên cạnh bờ sông, ở Tiểu Bang Virginia. Laurie rất say mê thú sông nước và nghề chài lưới.

Chàng sở hữu một chiếc ca-nô với đầy đủ dụng cụ ngư nghiệp để đánh bẫy cua,  cá, tôm. Suốt ngày, và đôi khi cả đêm, chàng ta mê mãi, lênh đênh trên chiếc tàu nhỏ một mình, như một ngư phủ chuyên nghiệp, đặt những chiếc lồng rải rác dọc bờ sông, thu hoạch khá bộn bàng để có thể đem ra chợ bán, như là một ‘business’ đầy thú vị, lại kiếm được khá tiền!

Em tôi kể chuyến đi thăm Laurie là một cuộc du lịch đầy lý thú, khi được cư ngụ vài ngày  trong một căn nhà đầy thơ mộng, bên cạnh bờ sông, lại được tập sự làm ngư phủ, tha hồ thưởng thức hàng đống tôm, cua, cá tươi rói, ăn mệt nghỉ! Có khi em gái tôi, lại câu được cả một chú cá khá bự, khiến cô nàng khoái chí quá, muốn đổi qua ở luôn bên này cho tiện  việc sông nước!…

Với Ba Mẹ chúng tôi, Laurie không những kính trọng vì tuổi tác, mà còn thương yêu như cha mẹ ruột, vì tánh cách niềm nở, rộng rãi và thân tình đối với tất cả mọi người, không riêng gì chàng ta, lúc còn là một người lính trẻ, bơ vơ giữa xứ lạ quê người, thiếu tình yêu của mái ấm gia đình.
Khi hay tin gia đình tôi đã sum họp đầy đủ, Laurie đã vui mừng khôn xiết, liền háo hức lên kế hoạch, thuê một chiếc xe ‘mobile home’, cùng Evelyn, cô vợ yêu dấu, khởi hành từ Virginia, ngày đi đêm nghỉ, vượt hàng ngàn dặm đường đến thành phố Trân Châu Las Vegas, Tiểu Bang Nevada (nơi cư ngụ của ông anh),  để gặp Ba Mẹ nuôi và mấy anh em chúng tôi, sau gần 15 năm xa cách.

Từ San Diego, gia đình em gái tôi, gồm 2 vợ chồng và hai con, một trai một gái, gia đình đứa em trai, chưa có con, cùng Ba Mẹ và tôi, còn độc thân, lên hai chiếc xe thẳng tiến về Las Vegas, Tiểu Bang Nevada trước vài ngày để chờ đón hai nhân vật thân yêu.

Khi được báo tin chiếc xe mobile home sắp tiến về nơi cư ngụ của ông anh chúng tôi, mọi người ai nấy đều có cảm giác nôn nao, hồi hộp một cách kỳ lạ, như thể sắp được đoàn tụ với người thân của chính gia đình mình sau bao năm xa cách. Rồi giờ phút trông ngóng cũng chấm dứt, khi chúng tôi thấy một chiếc xe to đùng từ từ đổ xịch trước cửa nhà, lúc này toàn thể gia đình chúng tôi đã hiện diện đông đủ trước sân, đang lóng ngóng chờ đợi sự xuất hiện của hai vị thượng khách, đang mở cửa xe bước xuống.

Khỏi phải nói nhiều, cuộc tái ngộ đầy cảm động và ấm cúng tình người giữa 2 gia đình Việt-Mỹ lần này diễn ra như một câu chuyện trong mơ có hậu, khiến chúng tôi cảm thấy, ít ra cuộc đời tị nạn, phải chịu nhiều mất mát, thương đau cũng còn có những thời điểm chan hòa  hạnh phúc như hiện tại. Hai vợ chồng Laurie và Evelyn thay phiên nhau ôm chầm lấy Ba Mẹ chúng tôi, cả bốn người đều không nói nên lời, mà có nói thì cũng chả ai hiểu ai nói gì, vì cảm giác mừng rỡ, xúc động cũng đủ nói lên bằng vạn ngôn từ!

Sau giây phút giao cảm giữa 2 cặp ‘người lớn’, đến phiên chúng tôi, cũng thay phiên nhau, ôm nhau mà ‘hug’ từ anh đến em, tư cha đến con, không bỏ sót một ai, muốn được bày tỏ tình cảm chân tình đối với hai vị thượng khách. Thủ tục ‘im lặng, ôm nhau mà hug’, vừa chấm dứt, bỗng tiếp theo là sự vỡ oà âm thanh của ngôn ngữ, biến cái không gian trầm lắng, đầy cảm xúc vừa qua, thành một bầu không khí vui nhộn, ồn ào của những tràng câu hỏi không cần trả lời, và những câu trả lời không cần biết có được hiểu hay không!

Thật sự, đây là một cuộc hội ngộ chân tình và thắm thiết nhất đối với hai gia đình có hai nền văn hoá hoàn toàn khác hẳn nhau của hai quốc gia ở cách xa nhau nửa vòng trái đất! Một danh hào, mà tôi đâ quên tên, đã từng nói, đại khái là ‘ Đông là Đông, Tây là Tây, hai nền văn hoá không bao giờ gặp nhau…’ xem ra, có vẻ không đúng lắm trong trường hợp này.

Một buổi tiệc đã dọn sẵn, trong đó gồm những món ăn mà cách đây mấy chục năm, đã khiến chàng quân nhân trẻ tuổi, đã mê tơi, đến nỗi phải ghi chép kỹ càng, để có thể tự tay nấu lấy, cho gia đình và chính mình được thưởng thức. Thực đơn gồm chả giò, nem nướng cuốn bánh tráng, bánh bèo, bánh bột lọc, bún bò…nói chung món ăn Huế rất được gia đình Laurie thật sự hâm mộ.

Me tôi hỏi Evelyn, qua thông dịch viên, rằng chàng có nấu cho gia đình ăn mấy món đã học từ Việt Nam không, thì nàng bảo có, nhưng bây giờ ăn lại, do chính tay người Việt Nam nấu thì nàng thấy hoàn toàn khác hẳn, nhất là nước chấm. Để so sánh ngon dở một cách cụ thể, thì Evelyn cho chồng được 3 điểm, so với 10 điểm của các món ăn đang ở trước mặt nàng!

Cả nhà phá lên cười. khiến Laurie phải che mặt, làm bộ mắc cở! Nhưng sau đó, chàng lại ôm vợ hôn một cái, khi nghe nàng ‘nâng bi’ chàng bằng câu nói gỡ gạt rất tình ‘ tôi cho chồng tôi 3 điểm về cách nấu nướng, nhưng quên cộng thêm 7 điểm về sự chung tình của ảnh, vị chi là 10 điểm!’ Cả nhà lại vỗ tay khen ngợi cả hai người, đồng thời nâng ly chúc mừng ngày họp mặt đầy hạnh phúc. Quả thật, Evelyn là một người đàn bà rất tế nhị và có óc khôi hài.

Tiếp theo sau là một tuần lễ vui chơi, ăn uống, chuyện trò vô cùng ấm cúng, thân mật bên nhau, khi thì tại gia, khi thì tại một nhà hàng, hoặc một Casino nào đó, ăn ‘buffet’, kéo máy hoặc xem các màn trình diễn đặc biệt. Tối đến lại quây quần bên nhau, ôn lại những chuyện ‘ngày này năm xưa’, hồi còn ở Việt Nam với nhiều kỷ niệm vui buồn thời còn trẻ trung.

Trong cuộc viễn du, đi từ cuối Đông (Virginia) sang cuối Tây (California) để thăm gia đình chúng tôi, hai vợ chồng đã trải qua một đoạn đường dài khoảng 10,000km, cả đi lẫn về, trên chiếc xe khổng lồ, uống xăng như nước, và trong nửa tháng trời lang bạc giang hồ, từ Tiểu Bang này sang Tiểu Bang khác, mọi sinh hoạt như ăn uống, ngủ nghĩ, tắm rửa, vệ sinh v.v..đều xảy ra trên chiếc R.V, xem như một căn nhà di động, với đầy đủ tiện nghi, không cần phải tốn tiền để thuê khách sạn.

   Hai vợ chồng Laurie

Hai vợ chồng đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện kỳ thú gặp ở dọc đường, và mô tả nhiều phong cảnh tuyệt vời, mỗi nơi mỗi vẻ của từng Tiểu Bang, gộp lại thành một Châu Mỹ giàu mạnh và hùng vĩ. Có những Tiểu Bang rất văn minh hiện đại, nhưng cũng có một số Tiểu Bang vẫn còn giứ nét đơn sơ mộc mạc, nhất là Tiểu Bang còn có một số Bộ Lạc da đỏ còn hiện diện rải rác đó đây, khi chiếc xe băng qua những cánh đồng hoang, hay những sa mạc khô cằn, trên đó xuất hiện lèo tèo dăm ba căn lều vải, hoặc một cái quán nhỏ, với vài ba tên da đỏ, ngồi trước quán, trên chiếc băng, đang uống rượu, và trông họ có vẻ đang say.

Có một hôm hai vợ chồng đi lạc vào một vùng, mà họ tin rằng, nơi đây là khởi điểm của những người tiền phong đi lập nghiệp, vì họ thấy vô số đường rầy cũ kỹ, hình như đã được thiết lập từ lâu lắm rồi, và bây giờ vẫn còn được xử dụng. Laurie bảo rằng, trong suốt cuộc đời, chàng chưa bao giờ nghe  nhiều tiếng còi tàu như chàng nghe ở khu vực này.

Cuộc hành trình băng qua tất cả 30 Tiểu Bang, 19 lúc đi, và 11 lúc về, vẽ thành hình vòng cung, như cái môi, từ khoé môi bên phải (khởi điểm ở Virginia), hướng về phía Trung-Bắc, theo môi trên, gồm những Tiểu Bang Ohio, Indiana, Illinois, Iowa, … lên đến đỉnh cao nhất là Tiểu Bang South Dakota, vòng xuống khoé môi trái, băng qua Wyoming, Utah, dừng lại ở Tiểu Bang Nevada (giáp ranh với Tiểu Bang Cali), là điểm sum họp của chúng tôi. Vòng về, lại đi ngược từ khoé môi trái, hướng về phía cực Đông, theo môi dưới, từ Nevada trở lại khoé môi phải, băng qua Arizona, New Mexico, đụng đáy môi dưới là Texas, vươn lên Arkansas,Tennessee…trở về khởi điểm Virginia, xem như ‘bờ môi khép kín’, hoàn thành một chuyến đi cực kỳ thú vị của hai tâm hồn hiền hậu, nhưng thích phiêu lưu, mạo hiểm.

Chúng tôi có quá nhiều chuyện thú vị  để nói và để nghe, mà thời gian thì quá vô tình, không chịu dừng lại để nghe chúng tôi nói, lại có vẻ  trôi nhanh hơn thường lệ, như thể là ghen ghét cái hạnh phúc nồng nàn hiện hửu giữa hai gia đình!

Thế rồi, cuộc vui cũng phải tàn, một tuần lễ qua nhanh như gió thoảng, đến lúc mọi người phải chia tay, ai về nhà nấy để rồi lại tiếp tục phấn đấu vất vả cho cuộc mưu sinh thường nhật. Mẹ tôi đã tặng cho Evelyn một chiếc áo len đan tay, mua từ Việt Nam rất khéo mà cô nàng cũng rất thích vì thấy lạ mắt và mặc cũng rất ấm, ngoài ra, mẹ tôi còn tự tay làm lấy 100 cuốn chả giò chưa chiên để ăn dần, khi hai vị khách quý trở về lại Virginia. Hình như hai vợ chồng Laurie có mang một số quà tặng đế biếu chúng tôi, nhưng lâu ngày quá, tôi không còn nhớ là những món gì (có lẽ là đặc sản địa phương).

Cuộc chia tay lần này, tuy để lại nhiều luyến tiếc, nhưng không bi đát như buổi chia tay cách đây mấy chục năm, vì chúng tôi đều đã ở cùng một quốc gia, tuy bao la bát ngát, nhưng ngày nay, với nền văn minh hiện tại, khoảng cách không gian chỉ là chuyện nhỏ. Sau đó hai vợ chồng Laurie còn ghé thăm chúng tôi vài lần nữa, và hai bên cũng thường xuyên liên lạc nhau bằng điện thoại, thư từ, chúc mừng hoặc chia buồn cùng nhau trong những ngày lễ lạc, hoặc có những biến cố gì quan trọng.

Evelyn đã  sinh cho Laurie 8 đứa con, trong đó có 2 đứa sinh đôi, điều này cũng là một yếu tố đặc biệt hiếm có đối với người Mỹ, thường chỉ sanh 1, hoặc 2 đứa là ‘khóa sổ’. Laurie thường khoe với chúng tôi, anh có một ‘Đại Gia Đình’ rất vĩ đại, ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu… lên đến cả 100! Tất cả điều sống hạnh phúc, khỏe mạnh, đoàn kết, và rất thương yêu nhau. Thật là một gia đình gương mẫu. Điều này chúng tôi đã thấy rõ qua bản thân Laurie khi còn làm việc ở Nha Trang. Chúng tôi đã may mắn gặp được một người bạn Mỹ đặc biệt có nhiều đức tính kết hợp cả Âu lẫn Á rất hiếm có trong thời kỳ loạn lạc, cũng như trong giai đoạn hòa bình.

Gia đình chúng tôi, gặp nhiều may mắn, kẻ trước người sau đều qua Mỹ đầy đủ, ba anh em chúng tôi hiện nay đều ở Quận Cam, gia đình em gái, vì công việc làm ăn, lại dời qua Las Vegas, theo con gái, là một Dược Sĩ, đang làm việc tại đây, đứa con trai cũng đã đi làm về ngành Điện Tử. Ông anh tôi cũng được hai cháu, cô con gái cũng đã tốt nghiệp Bác Sĩ Nha Khoa, hiện đang hành sự ở L.A, đứa con trai còn học năm thứ ba Đại Học. Riêng hai cặp vợ chồng tôi và đứa em út thì vẫn còn hiếm muộn, nếu có ai dư thì chúng tôi sẵn sàng ‘nâng trứng hứng hoa’, xin một đứa về làm ‘của hồi môn’ lúc tuổi già!

Một điều may mắn và hạnh phúc nhất cho anh em chúng tôi là Ba Mẹ chúng tôi vẫn còn sống, và vẫn còn ‘khoẻ mạnh theo tuổi già’!

Khi tôi ngỏ ý với Laurie muốn xin một số hình ảnh về gia đình và một vài chi tiết về cuộc hành trình để bổ túc cho bài viết này thêm sống động, anh ta đã vui vẻ gởi ngay cho tôi một bức thư dài và một số hình ảnh xưa cũ, cùng lời chúc tốt lành gởi đến toàn thể gia đình tôi, một công việc không có năm nào bị bỏ quên, mặc dù ông đang rất bận công việc sửa chữa nhà cửa và chuẩn bị cây Noel trong mùa Giáng Sinh sắp tới. Bức thư mới nhất này đến tay tôi vào ngày 16/12/09, kịp lúc để tôi có thể hoàn thành bài viết về một người Mỹ tử tế, thuỷ chung suốt 35 năm qua.

Tôi viết câu chuyện tình nghĩa giữa Laurie G. Watson và gia đình chúng tôi để nói lên phần nào lòng tri ân những chiến sĩ  đã chiến đấu gian khổ để bảo vệ hòa bình, tự do. Đặc biệt để kính tặng Song Thân, những tâm hồn nhân ái đã chiếm được trái tim thương yêu và kính trọng của người lính Mỹ tử tế, khiến anh tự nguyện xin làm con nuôi của hai Người.

VĨNH-HẦU

From: TU-PHUNG

 Con nuôi và nuôi con – truyện ngắn

 Con nuôi và nuôi con

Trần Mộng Tú

Hôm nay chúng tôi tới nhà Thờ, dự một tang lễ mà tôi thấy có nhu cầu phải kể lại cho các bạn của mình nghe, vì tôi tin là ai cũng muốn nghe câu chuyện này.
Ðám tang của một phụ nữ 42 tuổi, đó là cô bạn học thời Tiểu Học của con gái tôi.
Trong đời sống mấy chục năm làm người, tôi chưa bao giờ đi dự một đám tang nào làm tôi xúc động như vậy. Người trẻ mất đi ở tuổi nào cũng có, thân nhiều, hay mới quen biết cũng thường tình. Tôi xúc động thương cho những bực cha mẹ già mất con còn trẻ cũng không phải lần đầu. Nhưng sao lần này tôi nhìn ông bà Wright tôi lại không cầm được cảm xúc của mình, ngực tôi nặng như có một tảng đá đè lên.

Tôi nghĩ tôi cần chia sẻ cảm xúc này với các bạn.

Ông bà Wright năm nay ngoài 70 tuổi, các con đã khôn lớn và ra ở riêng phần đông đã có gia đình. Hai ông bà đã dọn vào nhà già cả mấy năm nay, bà yếu hơn ông, phải ngồi xe lăn cho ông đủn, ông trông hom hem nhưng đầu óc còn minh mẫn, bà thì đã nhớ nhớ, quên quên. Nhìn hai ông bà mặt đầm đìa lệ, tôi cũng không cầm được nước mắt.

Ông bà Wright có bảy người con, hai người do ông bà sanh ra. Sau đó muốn có thêm con ông bà bàn với nhau là thôi đừng sanh nữa,dù lúc đó họ còn rất trẻ, mới vào tuổi 30, họ nghĩ trên thế giới này nhiều trẻ em mồ côi cần một gia đình.

Hai ông bà tính xin một em bé trong viện mồ côi, nhưng khi tới Cô Nhi Viện, được Viện cho biết là vừa có ba anh em con mồ côi trong một gia đình cho Cô Nhi Viện. Ông bà có thể nhận một em, hai em còn lại thì sẽ gửi cho hai gia đình khác nhận. Ba em bé này người Ðại Hàn, hai trai, một gái.

Sau khi bàn bạc với nhau cả hai ông bà bằng lòng nhận cả ba, cho anh em chúng không phải xa nhau. Biết là khó khăn đấy nhưng nghĩ ba anh chị em chúng phải phân tán tới ba gia đình khác nhau thì thật tội nghiệp.

Vậy là ba em bé Ðại Hàn ở tuổi lên 5, 3, 2 vào ở trong một gia đình Mỹ trung lưu, đã có một người anh lên 10 và chị lên 8. Các em được cha mẹ và hai anh chị lớn người Mỹ hết lòng săn sóc, thương yêu.

Ba năm sau ông bà nhận thêm người con nuôi nữa, gốc người Mexico. Có lẽ Thượng Ðế trao trách nhiệm nuôi con mồ côi cho ông bà, nên năm kế tiếp ông bà lại tiếp theo nhận một em bé người Da Ðỏ. Cô con út này nhận về mới được 2 tuần tuổi. Người Mẹ ruột của cô đã cho cô đi từ lúc cô còn nằm trong bụng, đã thu xếp để ông bà Wright đến đón cô vào ngày lễ Giáng Sinh. Ông bà nói đó là một món quà Giáng Sinh đẹp nhất trong đời Chúa trao cho ông bà và gia đình. Cô Út được các anh chị truyền tay nhau bế, đến nỗi ông bà nói: con bé trong năm đầu nó không hề biết mặt đất như thế nào, nó không biết cả bò.

Ông bà nuôi bảy người con như nhau, tất cả đều được cho học tư thục Công Giáo (Nhà thờ, bớt học phí cho người con thứ sáu, và thứ bảy).

Cũng như tất cả gia đình đông con khác trong xã hội, có con ngoan dễ dạy, có con cứng đầu khó dạy. Ông bà cũng thật là những cha mẹ hết lòng với con.

Các con trưởng thành, người có việc làm tốt, người gặp nhiều điều may, người không may mắn, ông bà luôn là người đứng sau lưng hỗ trợ như tất cả những cha mẹ khác. Cô con gái út ông bà nhận về vào dịp lễ Giáng Sinh là người kém may mắn nhất. Cô theo chúng bạn đi vào đường nghiện hút, lại có con sớm. Cả gia đình xúm vào giúp cô, cô cũng cố gắng chống trả, nhưng không thoát ra được. Cuối cùng cô qua đời sau một cơn say thuốc quá liều (overdose), để lại hai đứa con không bố, lên 5 và 7 tuổi cho ông bà.

Bạn chắc là cũng như tôi, thương cho ông bà quá. Ông bà đã có can đảm nuôi tới 5 người con nuôi trong gia đình mình. Năm đứa trẻ đó nếu ông bà không nhận, chắc chắn chúng sẽ được vào sống trong 5 gia đình khác nhau. Chúng sẽ như chim lạc đàn, chắc sẽ đi tìm nhau khi chúng khôn lớn. Nhưng chúng không hề có tuổi thơ chung một mái nhà.

Hai vợ chồng tôi cứ hỏi nhau: Liệu mình có dám nuôi tới 5 người con nuôi như ông bà Wright? Chồng tôi lắc đầu: Trách nhiệm lớn quá!

Hai người con lớn của ông bà chắc cũng phải có tấm lòng quảng đại như cha mẹ mới chia sẻ tình thương của cha mẹ mình cho những đứa em mồ côi vào ở trong nhà mình. Hai anh chị lớn đứng lên lo các nghi thức Tang Lễ cho em út.

Trong đám tang có người chỉ cho tôi bà mẹ ruột của cô Út tham dự. Tôi thấy thỉnh thoảng người Mẹ Ruột đó lại chạy ra lau nước mắt cho bà Mẹ Nuôi, vỗ vỗ lên lưng bà an ủi.

Tội nghiệp ông bà Wright quá: Lão niên táng tử là một trong những cái bất hạnh lớn của con người. Nếu là bạn đi dự đám tang đó chắc bạn cũng xúc động và thương ông bà Wright như tôi. Với tôi, ông bà là hai người có trái tim lớn lắm, vì họ có tới 5 ngăn dành cho những đứa trẻ mồ côi. Ðối với ông bà chỉ có chữ “Nuôi Con” không có chữ “Con Nuôi”.

TMT

Tháng 4-20-2022

Khoảng Cách – TRUYỆN NGẮN – ĐỖ BÌNH

Van Pham

TRUYỆN NGẮN – ĐỖ BÌNH

***

Khoảng Cách

Paris mới vào xuân màu hoa Forsythia vàng rực rỡ chen lẫn với những nụ đào lấm tấm hồng trông như một bức tranh ấn tượng. Trời tháng Tư mặt trời lên rất sớm hồng cả một góc trời nhưng khu phố ở phía Bắc ngoại ô Paris ánh đèn đường chưa tắt, hàng cây dọc hai bên đường những chiếc lá non còn đọng sương đêm lung linh trong nắng mai.

Ngôi tầng trệt trong khu chung cư có một căn phòng gia chủ là người Á Châu mướn ở đây đã lâu, và sống một mình nên rất thầm lặng. Thỉnh thoảng có ít người Việt Nam đến chơi và mỗi lần như thế căn nhà lại rộn vang lên tiếng cười nói thật sinh động trái hẳn cái trầm mặc thường ngày.

Ông Cụ dáng dong dỏng cao, mái tóc bạc chải ngược để lộ vầng trán rộng có nhiều nếp nhăn. Khuôn mặt của ông thoáng nhìn nhận ra có nét buồn tạo thành những nếp gấp trên khóe mắt nhưng sáng sủa vì làn da trắng và chiếc mũi cao, nhất là cặp kính cận dày càng toát lên vẻ thông minh trí thức. Ông là người có tính tình vui vẻ đôn hậu lại rất tử tế nên thường hay giúp đỡ người. Bất luận là người quen lâu hay mới quen, kể cả những người chưa từng gặp mặt nhưng nếu đến nhờ ông giúp viết những đơn từ bằng tiếng Pháp, hoặc chỉ dẫn những điều luật rất phức tạp về an sinh xã hội mà những người ngoại quốc sống trên đất Pháp thường gặp thì ông rất sẵn lòng.

Do đó ông được mọi người chung quanh yêu mến và nể trọng. Người trong chung cư gọi ông bằng lời rất thân mật là “Bố”, những người ngoài phố gọi ông là Giáo sư, và những người bạn thân gọi ông là cụ Giáo. Nghe nói hồi còn ở quê nhà ông là giáo sư Đại học, đã từng du học ở Pháp và Hoa Kỳ và đỗ được hai bằng Tiến sĩ, vì thế đa số những người trong giới quan chức của Miền Nam trước kia là học trò của ông.

Vài ngày trước khi Miền Nam mất, đám học trò cũ có người là quan chức đến nhà mời ông đi nước ngoài nhưng ông từ chối viện dẫn là tuổi đã già, không muốn chết ở xứ người. Hơn nữa, ông cho rằng cả đời chỉ biết dạy học không hề dính dáng đến chính trị thì dù ai nắm chính quyền thì ông cũng thế. Là một người học rộng, tài giỏi, có uy tín trong giới trí thức Miền Nam nên ông được mọi người nể trọng. Từ khi học xong trở về nước, ông sống rất yên vui với nghề dạy học suốt mấy chục năm ở Sài Gòn. Nhiều lần ông được chính quyền Miền Nam mời ra tham chính nhưng ông đều từ chối viện cớ là khả năng của ông thích hợp với nghề dạy học hơn…

Ngày CS vào chiếm Sài Gòn, thấy xe tăng bộ đội trên đường phố ông tuy có sợ nhưng không nao núng, ông tin vào tình dân tộc nghĩa đồng bào. Thuở đó với phẩm chất nhà giáo, tâm hồn thuần khiết đạo đức nên trong ý nghĩ của ông rất giản dị:

“Một người không hề dính dấp đến chính trị, lẽ nào người ta lại đi hại một ông già?”

***

Nhưng sau khi chính quyền Miền Nam sụp đổ, ông bị chính quyền địa phương kết án là gián điệp do Mỹ gài lại vì đã từng đi du học nước ngoài nên bị bắt đi «cải tạo»! Những năm ở tù đã làm ông sáng mắt, vợ ông ở Sài Gòn bị cướp nhà và bị đuổi lên vùng kinh tế mới là vùng đất hoang vu không một bóng người. Ở đó Bà sống trong cảnh cơ cực nghèo đói nên chỉ sau một thời gian ngắn đã ngã bệnh nặng rồi qua đời vì thiếu thuốc men chữa trị!

Bà mất một thời gian khá lâu người em dâu của ông lên thăm nuôi đã báo tin sự ra đi của bà, ông nghe hung tin bật khóc rống lên như đứa trẻ. Ông hối hận vì một phút quyết định sai lầm không chịu ra đi nên đã để khổ đến người vợ thương yêu nhất! Ôm tâm trạng đau khổ ông trở về lán. Các bạn thấy nét mặt ông rầu rĩ chưa kịp hỏi thì ông nghẹn ngào than thở với bạn tù:

– “Tôi già đến ngần tuổi nầy mà còn u mê, anh ạ! Học cho lắm, thế mà vẫn bị chúng lừa! Bà nhà tôi cũng bị chúng lừa vì tin chúng sẽ thả tôi nếu chịu đi kinh tế mới. Vợ tôi chỉ muốn cho tôi được thả sớm nên đã nghe theo lời đường mật mà chết trong tức tưởi!”

Bạn tù thương ông cũng chỉ biết nhìn ông rồi thở dài trong im lặng! Một ngày trong tù dài lê thê nhưng thời gian thì cứ lặng lẽ trôi thấm thoát ông đã trải qua mấy mùa xuân xa nhà, nếm đủ mùi tù chịu đựng bao nhọc nhằn đói khổ thế mà ông không hề hé răng than vãn hay làm mất nhân cách một nhà giáo vì miếng ăn. Trước bao nghịch cảnh đày ải đó có lúc nghĩ vẩn ông muốn chết quách cho nhẹ tấm thân già nhưng đó chỉ thoáng qua mà thôi, dẫu sao sự sống vẫn quý! Ông làm sao có thể chết ở trong tù được! Ông cần phải sống để xem đời sẽ ra sao, vì có ai biết được chuyện ngày mai?

Đêm nằm suy nghĩ ông thấy thương cho gia đình, và những người dân miền Nam chẳng biết sống thế nào dưới xã hội mới nên ngậm ngùi cho ý nghĩa của sự tự do! Ở đây tự do đồng nghĩa với sự im lặng, nghĩa là chấp hành những mệnh lệnh của kẻ cai ngục! Ông nghĩ: “Làm sao hiểu được tận cùng chữ Biết?” Có nhiều thứ ở trên đời dù cho thông minh và cố gắng học hỏi, bỏ nhiều thời gian nghiên cứu đến đâu thì vẫn chẳng bao giờ hiểu hết được! Những bằng cấp mà ông học hỏi và đạt được kể đã hết mức nhưng lại không đủ nhận biết mình bị gạt vì những cụm từ hoa mỹ: “cải tạo”?! Đến khi đã vướng chàm, biết mình bị lừa thì đã quá muộn! Bài học để đời này không những cho riêng ông mà còn cho biết bao trí thức khoa bảng đã “mụ” như ông về Thiên Đàng Xã Hội Chủ Nghĩa!

Họ đã vô tình tiếp tay với CS để xây dựng thiên đàng mộng mị mà hôm nay đất nước nghèo đi, chính họ cũng là những kẻ phá hoại thành trì của tự do để hôm nay họ phải cầm cuốc cặm cụi trên những mảnh đất bươi xới tìm củ khoai, củ mì để ăn trong các trại tù! Chẳng cần học vị tiến sĩ, bài học «đời» quá đau cũng đủ để ông sáng mắt, thấm thía về sự độc tài của một xã hội toàn trị, do đó ông không thiết tha học tập để mau tiến bộ để trở thành: thành viên xã hội. Cụm từ tiến bộ chỉ là cái bánh vẽ dụ những tâm hồn khờ khạo, những trí thức ngây thơ tin đó là cái «chìa khóa» mở cổng tù. Thế rồi đến một ngày ông vẫn được thả, lý do già yếu, bệnh tật. Họ thả ông và bắt buộc ông phải đi kinh tế mới chịu sự quản thúc của địa phương. Ông chép miệng nghĩ:

“Cái xã hội nầy đâu mà chẳng phải nhà tù! Thật là mỉa mai cho những danh từ trí thức, khoa bảng thường được người đời quý trọng nhưng nhà nước CS có xem ra gì đâu!”

***

Không phải họ không biết ông là một giáo sư giỏi nghề nhưng ông đâu có do họ đào tạo, nghĩa là không phải một đảng viên, không những thế họ còn xem ông là gián điệp của Mỹ thì làm sao dùng ông! Ở đất nước này người ta chỉ biết Đảng, người ta đồng hóa yêu đảng là yêu nước nên xúm nhau ca ngợi Đảng, và thích sống với ảo ảnh qua những chiến công chống Tây chống Mỹ, họ hô hào chống đến nỗi nhân dân nheo nhóc thiếu cả manh quần tấm áo mà đất nước nào hề có thật sự được độc lập tự do!

Bao xương máu của người dân vô tội bị đổ trong cuộc chiến chỉ làm rạng danh cái thiên đường bịp! Ông ngậm ngùi cho dất nước đang thiếu từng củ khoai, miếng sắn nhưng «lại thừa» những nhà khoa học, triết học, luật học, nghệ thuật…vv…

Đã có Đảng, đảng là vạn năng kiêm hết từ thiên nhiên đến trí tuệ con người, kiêm luôn chiếc thòng lọng siết cổ dân! Khi ông hiểu và thấm thía sự tàn ác của chế độ Cộng Sản thì đã muộn! Ông lủi thủi trong nông trường để sống qua ngày, rồi một hôm ông chợt khám phá ra một điều:  “Muốn tồn tại trước bạo lực để chờ cơ hội giải thoát phải tự biến thành tượng đá”.

Thật vậy, họ xem ông như loài cỏ mục, đồ phế thải, một người mất trí không còn năng lực lao động! Cũng nhờ thế mà ông lần mò về được Sài Gòn, và xin tá túc nhà một người bà con để tìm đường vượt biên. Nếu so với những người bất hạnh khác từ kinh tế mới trốn về, ông là một trong số những người may mắn còn có thân nhân ở lại thành phố nên có một chỗ dựa như cái phao để bám víu, chứ những người có dính dáng hay thuộc thành phần chế độ cũ muốn ở lại Sài Gòn giữa buổi nhiễu nhương giao thời không phải dễ! Thời buổi giao thời này, chẳng phải người nào được ở lại thành phố cũng dính dấp với những người phía kia, trong số đó có người của chế độ cũ may nhờ bà con ngoài Bắc chạy hàng xuôi vào Nam mách bảo:

“Phải thí cho cán bộ địa phương chút vàng, và đừng bao giờ tình nguyện đi kinh tế mới, cứ bám rể ở lì thành phố rồi mọi việc sẽ qua!”

Do đó ông mới còn chỗ tá túc dù phải gặp những khó khăn về hộ khẩu. Cũng may nhờ có người em dâu rất tháo vát vì trước kia Bà ấy là dược sĩ, nay đổi nghề bán thuốc Tây dạo ở chợ trời, giữa thời buổi củi châu gạo quế này kiếm đủ sống cũng là may! Có thế, Bà mới có chút tiền nhét cho công an khu vực, công an phường họ mới làm ngơ cho ông Giáo.

Sáng nay cũng như bao buổi sáng khác ông hay đứng trước song cửa nhìn giàn hoa giấy đỏ góc sân rực rỡ như muốn vươn lên khoảng trời xanh phía trước. Những cơn gió nhẹ lay cánh hoa trong nắng làm tâm hồn ông có chút bình an sau những năm dài bị những cơn bão đời xới tung làm bầm dập!

Thời gian ở tạm nhà cô em dâu chưa bao lâu thì cô cho biết tin người anh cả cũng là giáo sư dạy ở đại học Tổng Hợp Hà Nội nay đã hưu trí sẽ cùng con gái vào Nam thăm các em. Ông đang thả hồn theo những cánh chim trong khoảng trời xanh ao ước được tự do như chúng bay bổng về cuối chân trời. Bỗng có tiếng chuông cửa reo, hai người thân phương Bắc đã đến. Thấm thoát cũng đã mấy chục năm do hoàn cảnh chiến tranh họ mới gặp lại nhau thế mà ngay phút đầu tình anh em bị ngăn bởi một bức tường vô hình là “ý thức hệ” chiến tranh lạnh trong gia đình ngăn đôi hai anh em, họ thấy nhau nhưng thái độ dửng dưng không biểu lộ chút hân hoan. Họ chẳng thèm nhìn nhau dù trong những cặp mắt mỏi mệt đó đã bị thời gian xói mòn làm nhạt ánh tinh anh nhưng vẫn chóe lửa, thì làm sao còn xúc động mà sao lăn được một giọt nước mắt tao ngộ!

Hay biết đâu trong đáy lòng họ cũng mềm ra nhưng giỏi che giấu thì nào ai biết? Hôm nay anh em trong gia đình ấy lần đầu gặp lại nhau mà không khí bất hòa đã làm căn phòng trở nên ngột ngạt, cái không gian tĩnh lặng như nhà hoang mỗi người một khoảnh! Người em dâu thấy vậy rất bối rối chưa biết cách nào phá tan sự im lặng đáng sợ đó nên lúng túng hỏi một câu thừa:

– Anh Cả và cháu Ngọc đi đường xa, chắc mệt?

Người anh cả cười nói:

– Già rồi cũng mệt, thím út ạ!

Ông ngồi xuống ghế nói tiếp:

– Xe hỏa của xứ ta còn tệ quá, đã chật chội nóng bức còn chạy chậm như rùa. Đã thế mà bà con ta lại ồn ào như cái chợ! Muốn chợp mắt một tí nào có ngủ được!

Ông Giáo đứng bên cửa sổ hướng mắt lên hàng hoa giấy, bỗng ông cảm thấy ghét vu vơ màu hoa đỏ thẫm lại càng sôi gan khi nghe anh mình nói, ông khẽ hứ giọng mũi không nói một lời rồi tiến lại đứa cháu, nét mặt của ông trở lại bình thường tươi sáng, miệng mỉm cười vui vẻ hỏi vài câu chuyện với cháu gái. Sau đó ông lặng lẽ, chẳng nói gì rồi bỏ lên lầu. Người em dâu thấy hai anh như vậy nên bối rối, bà liền mời ông anh cả và người cháu dùng chút bánh nước ngọt. Hai người dùng bánh xong bà dẫn bố con họ lên phòng nghỉ, chỉ vào hai phòng. Ngọc nhìn phòng ngủ bày biện khang trang, bức tranh sơn dầu treo ngay trên đầu chiếc giường Hồng Kông trải drap trắng mướt, cạnh là chiếc đèn ngủ. Ngọc nói:

– Nhà thím sang quá Cháu cứ ngỡ mình đang sống trong phim…

Người thím mỉm cười không nói, bà chạnh lòng thương cho Ngọc, con của một cán bộ cao cấp mà lại bỡ ngỡ trước những thứ vật chất rất tầm thường ở Sài Gòn nầy. Ngọc chưa dứt bàng hoàng, bỗng ngước nhìn người thím và cảm thấy bà có một nét đẹp rất quý phái và tươi mát dù tuổi đã ngoài ba mươi, bà cũng đang ngắm nhìn mình với ánh mắt đầy tha thiết. Ngọc bẽn lẽn mắt hướng về bức tranh nói:

– Sài Gòn lộng lẫy và đẹp quá, thím nhỉ? Ngày mai thím dẫn cháu đi dạo phố nhé!

– Nghỉ đi cho đỡ mệt, chút xuống ăn cơm. Ngày mai thím sẽ dẫn cháu đi dạo và sắm đồ.

Nói rồi bà khép cửa phòng cho Ngọc và xuống lầu đi thẳng vào phòng ăn làm cơm.

Tiếng ho húng hắng của người anh cả vang lên nghe như âm buồn có đoạn dài đoạn đứt khúc làm tiều tụy thêm dáng vóc gầy gò thể hiện trên khuôn mặt héo hắt vì buồn. Hai anh em rất giống nhau, nếu không lệch tuổi tác người ta có thể lầm tưởng là anh em song sinh. Dù đã ở chung nhà cả tuần mà hai anh em vẫn tránh nhau. Nhưng hôm nay là ngày giỗ Ông Bà nên buộc lòng anh em phải ra cúng lễ và đối thoại nhau. Trước bàn thờ gia tiên, người anh môi run run, mặt xúc động lên tiếng trước:

– Chú vẫn khỏe?

Ông Giáo bừng cặp mắt đỏ, đôi gò má run run, tiếng nói bỗng khàn trầm xuống:

– Cảm ơn anh cả tôi chưa chết!

Khuôn mặt người anh bỗng nhíu lại:

– Sao chú lại nói thế? Chú còn giận anh hả? Chuyện của chú lúc trước…

Người em cau mặt, cắt ngang:

– Thôi, tôi xin anh đừng nhắc chuyện xưa!

Người anh quay mặt ra cửa giấu giọt lệ trong khóe mắt, ông thổn thức giải bày:

– Chú trách tôi là phải! Nghe tin các chú bị đưa đi học tập, còn thím thì bị bệnh mất trên vùng kinh tế mới lòng tôi rất buồn nhưng chẳng biết làm sao giúp! Đã từ lâu tôi vẫn thắc mắc và ngỡ ngàng chẳng hiểu tại sao các chú lại chịu làm tay sai cho Mỹ để làm giàu? Nhưng trong tình máu mủ các chú gặp hoàn cảnh như thế thử hỏi làm sao mà tôi không đau lòng?!

Ông Giáo gằn giọng:

– Thôi, xin cảm ơn lòng tốt Bác Đảng của anh!

Người anh vẫn nhìn ra cửa trầm giọng nói:

– Mãi đến bây giờ, vào đây tôi mới vỡ lẽ, đã hiểu tất! Chú tha lỗi và thông cảm cho tôi, suốt mấy chục năm bị bưng bít tuyên truyền nên đã hiểu sai! Tôi có mắt mà cũng như mù! Nhưng chú cũng chẳng hiểu Hà Nội sau năm 1954, và người dân Hà Nội nghĩ gì? Chú bỏ vào Nam sớm làm sao chú biết được sự tình! Chú đừng tưởng một giáo sư đại học lâu năm như tôi là có quyền thế! Dưới Xã Hội Chủ Nghĩa người trí thức rẻ hơn Bèo!

Người anh quay mặt lại nhìn em, giọng vút lên:

– Chú tưởng những người vào đảng đều vì lý tưởng cả sao? Và cứ ở trong đảng là có quyền sao?

Ông hạ giọng phân trần:

… – Đành rằng phải phấn đấu mới vô được Đảng nhưng trong đảng đâu phải ai cũng nhiệt thành cả, cũng có người này kẻ nọ chứ! Ngoại trừ một số ít lãnh đạo là quán triệt được đường lối tư tưởng chủ nghĩa Cộng Sản, còn lại hầu hết người ta chẳng hiểu gì về Cộng sản, họ vô đảng là chỉ hòng kiếm cơm, nhắm vào tem phiếu thôi! Hơn nữa không vô mà được hả? Bộ máy đảng sẽ sẵn sàng nghiền nát những đối tượng tiêu cực. Họ trì triết phê bình rồi trù dập có nước mà tự tử!

Hồi năm 49 chú mới qua Pháp, anh về, lúc ấy cả nước đang sôi sục khí thế chống thực dân thì anh cũng phải lên đường vào chiến khu như bao nhiêu người khác thôi. Chú xem bản thân gia đình ta đấy: Nào địa chủ, lại còn phong kiến quan lại theo Tây, cả anh lẫn chú và em Thảo lại du học Pháp, thuở đó Hà Nội có mấy người? Làm sao mà họ không phê phán về quan điểm lập trường của gia đình ta theo Pháp, Mỹ khi mà em Thảo thì ở lại luôn bên Pháp, còn chú mang cả gia đình di cư vào Nam, dẫn theo chú Út, chỉ có Bố là ở lại vì bệnh tình lúc đó quá nặng nên không thể theo gia đình chú được! Vả lại bố muốn yên nghỉ gần ông bà do đó mẹ phải ở lại trông nom bố thì anh có muốn vào Nam cũng không đành! Chú đi lúc ấy là phải, anh đã chứng kiến nào là chỉnh huấn, nào là cải cách ruộng đất. Chú còn nhớ, chính anh đã khuyên vợ chồng chú và chú út nên đi đừng bịn rịn, bố mẹ ở lại đã có anh lo?

Ông Giáo mặt cúi xuống, hình như đang xúc động. Người anh bước lại, ngồi xuống ghế, giọng bùi ngùi kể tiếp:

– Sau khi bố mẹ qua đời, tôi nào được yên thân. Bao nhiêu năm miệt mài trong chiến khu thế mà vẫn bị dòm ngó. Tôi bị người ta nói bóng gió, xỏ xiên, nhiếc móc nào là trí thức phản động, địa chủ cường hào, quan lại bóc lột, thân nhân bám theo Mỹ Diệm. Xuýt tí nữa thì tôi bị dính vào vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm”. Tôi bị quy tội quan hệ với những người trí thức tiểu tư sản trong nhóm Nhân Văn!

Chao ôi! Những người trí thức văn nghệ sĩ đó cũng bao nhiêu năm miệt mài trong kháng chiến thế mà chỉ vì muốn bảo vệ chút tự do tư tưởng, tiếng nói riêng tư phát từ đáy lòng khác với đảng, mà bị trù dập, họ sống dở chết dở! Tôi thật là may, Trời thương đã che chở mới thoát qua. Chú đừng tưởng họ quên quá khứ của gia đình ta dù tôi cũng đã đóng góp biết bao công sức trong thời gian kháng chiến! Có lẽ nhờ số ruộng đất của ông bà nội, ngoại cùng dãy nhà ở Hà Nội của bố mẹ đều dâng hiến tất cho nhà nước trước khi các cụ qua đời mà tôi mới được yên thân, nhưng họ vẫn ruồng bỏ như một thứ ghẻ lạnh! Kể từ ngày dó tôi quyết tâm vô đảng, tìm cái vỏ bọc che thân, và tôi đã lập gia đình, tuy muộn nhưng bớt bị dòm ngó. Mẹ cháu Ngọc là giáo viên nhỏ hơn tôi gần hai giáp tuổi, chị dâu em sau bị chết trên đường sơ tán!

Ngày hay tin các em bị đưa đi cải tạo, tôi có nhờ một vài người bạn thân tìm người chạy để bảo lãnh các em ra. Nhưng họ khuyên đừng dính vào tội gián điệp và tâm lý chiến, nhất là lúc ấy nội bộ của các ông lớn đang phân hóa, người theo Tàu, kẻ theo Liên Xô, còn những ai đã từng vào công tác trong Nam đều bị nghi biến chất phục Mỹ. Do đó tôi đã ngần ngại không dám khiến điều ấy dày vò tâm hồn tôi mãi đến hôm nay!

Nói đến đấy, người anh ôm mặt nức nở gục trên đầu gối, kể tiếp:

– Năm ngoái anh có đi tàu hỏa ra Thanh Hóa, chờ ô tô vào tận huyện Như Xuân mất cả ngày đường, rồi còn băng rừng, vượt sông vượt suối suốt hơn 20 km mới đến được trại cải tạo Thanh Phong, chỗ giam chú út. Đây là khu vực thuộc biên giới Lào, hồi còn trẻ anh cũng đã đi qua, nhưng nay tuổi đã cao. Ôi thật là gian nan mới đến được. Nhưng khi đến nơi rồi mới đau lòng!…

Mọi người hoảng hốt. Người em dâu, mặt biến sắc chạy lại lay vai người anh cả hỏi giật:

– Chồng em ra sao?

Ông biết người em dâu đã lầm nên vội vã nói:

– Chú ấy khỏe!

Mọi người có mặt đều thở nhẹ nhõm, ông ngậm ngùi kể tiếp:

– Anh nói là đau lòng không phải là chú út có chuyện gì, điều mà anh đau lòng là anh thân già lặn lội đường xa đến thăm chú mà chú lại không chịu ra gặp, lấy cớ là bệnh. Anh lại quay lại huyện Như Xuân ngủ một đêm, hôm sau trở lại trại Thanh Phong nhờ đến người cán bộ trưởng trại, họ cho công an dẫn chú ra, sau đó công an rút lui để anh gặp riêng chú. Nhìn chú thiểu não trong bộ đồ tù mà anh đứt ruột, hình ảnh thời thơ ấu của chú bỗng hiện ra trong trí anh.

Hồi đó anh em ta thường hay dắt chú đi chơi, mỗi lần như thế chú Út thường đòi ăn quà của những người bán hàng rong Bờ Hồ. Giờ, gặp mặt đứa em út thân yêu thì chú lại xem anh như kẻ thù! Dẫu xa cách mấy chục năm không gặp nhau, anh vẫn nhận ra chú vì chú út rất giống mẹ, dù lúc đó chú ấy để râu. Đối diện nhau nhưng chú ấy cứ im lặng và quay đi không thèm nhìn mặt anh. Do đó anh rất giận định quay về nhưng chợt nghĩ dù sao anh cũng là anh cả nên nhẫn nhịn. Anh đắn đo chưa biết mở lời ra sao, chẳng lẽ anh em ruột gặp nhau mà cứ ngây như tượng đá?! Anh cảm thấy sự bất hạnh cứ đeo đuổi gia đình mình mãi! Chợt anh nhớ đến bố mẹ, và anh liền hỏi:

– Chú có muốn nghe chuyện bố mẹ mất ra sao không?

Quả nhiên mắt chú sáng lên và dồn dập hỏi anh, các em có biết không, anh bật khóc. Anh khóc không phải là chú út nhắc đến bố mẹ mà anh khóc là tình anh em chưa dứt hẳn; vì còn chỗ dựa là cùng huyết thống. Anh kể cho chú nghe sơ chuyện gia đình. Anh em tâm sự cũng hằng giờ. Số quà mà anh mang theo chú nhận hết, ngoại trừ ít sách về tư tưởng.

Chú nói:

– Anh Cả mang về những thứ nầy mà dùng, anh cần nó hơn em, ở đây em đã dùng nó thế cơm hàng ngày nên phát ngấy!

– Nhìn thái độ khẳng khái anh thầm cảm phục khí phách của chú, anh thấy trong ánh mắt của chú loé lên những tia sắc sáng quắc như muốn chọc thủng thù địch; anh bỗng phì cười và tội nghiệp chú, là sĩ quan tâm lý chiến mà chẳng hiểu gì về Cộng Sản cả! Chú nào biết muốn thoát khỏi nanh vuốt Cộng Sản hoặc là câm như tượng đá hoặc là phải biến thành vẹt nhắc thuộc lòng khẩu quyết của Đảng thì mới mong tồn tại, nhất là tránh được cái họa mồm để khỏi bị chết oan! Trước khi về, anh còn căn dặn:

– Em phải cố bảo trọng sức khỏe và cố giữ cái mồm, muốn gặp mặt vợ con thì nên vạch đầu gối ra mà than, ở đây tai vách mạch rừng cả đấy!

Người em dâu nghe ông anh cả kể chuyện về chồng mình mà rưng rưng nước mắt, bà hài lòng về sự bất khuất chồng nhưng lại lo sợ cho sự an nguy của chồng. Bà bước ra tủ lấy chai rượu Whisky và nói:

– Các anh mấy chục năm mới gặp nhau, cả tuần nay gặp mặt nhưng lạnh nhạt khiến căn nhà giữa mùa hè Sài Gòn mà em cảm thấy giá băng như Bắc cực. Hôm nay nhờ hồn thiêng của Ông Bà, hai anh tha hồ hàn huyên, có khi cả tháng vẫn chưa đủ, các anh nên uống mừng ngày họp mặt. Em mừng vì thấy anh cả dù sống trong lòng chế độ miền Bắc mà tư tưởng vẫn phóng khoáng, nhất là đã hiểu được tâm tư và đời sống trong Nam!

Bà thở dài rồi nói tiếp:

– Em tiếc là chồng em bị đưa ra Bắc chẳng biết ngày nào về. Nhưng mẹ con em thế nào cũng liệu, ở lại đây ngày nào là phập phồng lo ngày đó, chẳng biết họ đến bắt khi nào. Gần cả năm nay em đã nhiều chuẩn bị… Anh cả vào đúng lúc, anh có muốn đi vượt biên với gia đình em không?

Khuôn mặt người anh thoáng xụ nét buồn, ông nhấp ly rượu, lắc đầu:

– Rượu ngon quá, mấy chục năm nay, anh mới được hớp rượu ngon như thế nầy!

Ông Giáo vừa nhấp rượu vừa hỏi:

– Anh Cả chưa trả lời thím Út. Sao anh có muốn đi với gia đình thím Út không?

Đôi mắt người anh cả đỏ lên vì quá xúc động. Ông mếu máo hỏi như than:

– Các em không sợ anh đi tố giác à?

– Qua trực giác, em tin là anh cả không thể hại các em và các cháu!

Người anh cả gật đầu cười chua xót:

– Cảm ơn thím tin. Anh của các em nào tán tận lương tâm như thế? Nhưng em cũng nên thận trọng, chế độ nầy đã cướp đi tính trong sạch và lòng tốt của con người… Người Miền Nam thật hay dễ tin quá, rồi đây Miền Nam còn phải chịu nhiều thay đổi đau thương nữa !…

Ông nhích ra co ro ngồi ở mép ghế, mặt buồn xo nói tiếp:

– Anh cũng đã từng du học Pháp, Liên Xô nhưng hình như anh giống Bố phải chết ở quê nhà, các em ạ! Anh suốt đời chỉ làm kẻ tiễn đưa… Anh già rồi! Ở đâu mà chẳng chết? Hơn nữa anh đang mắc chứng bệnh nan y, qua đó chỉ làm khổ các em và cháu! Nếu có thể được xin cho cháu Ngọc đi theo, cháu mới vào Đại học, tương lai thì chẳng biết ra sao! Được như thế là anh mãn nguyện vô cùng biết ơn các em.…

Nghe anh cả trình bày tấm lòng khiến ông giáo và người em dâu đều bùi ngùi và đồng cảm. Họ tiếp tục tâm sự, kể lể cho nhau nghe những vui buồn của quãng thời gian bao năm xa cách. Bao nhiêu đắng cay phiền muộn của người anh cả chất chứa trong mấy chục năm bỗng được xả ra, ông cảm thấy tâm hồn được nhẹ nhõm. Tuy sức khỏe đã kém, lại được rượu ngon nên ông uống quá nhiều, người đã nhũn ra nhưng môi vẫn nhấp hòa với những giọt nước mắt lăn dài trên má. Ông nức nở nói:

– Suốt mấy chục năm, anh ao ước gia đình anh em mình được đoàn tụ, thế mà nào có trọn ước mơ! Ôi bao cảnh não lòng. Chiến tranh đã cướp đi bao tuổi thanh xuân và xương máu của những người vô tội chỉ vì chủ thuyết hư vô. Người chết thì oan khuất tức tưởi, còn người sống thì lơ láo. Kẻ chiến thắng cô đơn trong vinh quang và lạc loài giữa đất nước. Kẻ bại thì người biệt xứ, kẻ ở lại lớp tù đày, lớp đói khát câm nín như chiếc bóng trên chính quê hương trong chua xót tủi nhục!…

Ông bùi ngùi than:

– Họ tàn nhẫn lắm, các em ạ! Họ dùng người rồi vắt chanh bỏ vỏ!

Ông ngẩng đầu lên, mắt sáng quắc, mặt đanh lại, nói:

– Nếu chỉ vắt chanh bỏ vỏ thì mới chỉ là loại đểu. Đằng nầy nó miết lấy hết chất nước xong rồi lấy vỏ đem phơi khô tán thành thuốc bắc rồi đem bán cho người khác. Họ không bỏ thứ gì cả, thế có ác không chứ?! Các em bằng mọi giá nên đi đi cho cháu Ngọc của anh theo với!

Dứt câu, người anh cả gục đầu trên bàn ngủ say.

***

Sau hai tuần lễ thuyền lênh đênh trên biển cả vượt bao nguy hiểm sóng gió bão bùng, có lúc đoàn người rú lên tưởng cơn sóng đã nhận chìm chiếc thuyền đầy nhóc người xuống đáy đại dương, thế rồi chiếc thuyền chở gia đình người em dâu và bao người khác cuối cùng đã đến được bờ tự do.

Lên đảo Palawan, ông giáo không theo gia đình người em dâu và đứa cháu con ông anh cả sang Mỹ. Ông thích qua Pháp vì có các con bên nầy. Sang đây, tuổi của ông đã sáu mươi, cái tuổi rất khó tìm được việc làm, cũng may nhờ người giới thiệu nên có một việc làm tạm trong thư viện nhưng cũng kéo được mấy năm. Về sau, do sức khỏe quá kém, ông đành phải nghỉ việc và ở nhà lãnh tiền già. Ấy thế mà ông cũng dành dụm tí tiền gởi về cho bạn bè, thân nhân còn ở bên nhà.

Chẳng bù cho đám con của ông ở bên nầy đều thành đạt cả vì nhờ ngày trước lúc còn chiến tranh ông gởi chúng đi du học. Lương chúng rất cao nhưng nào thí cho ai một xu! Đứa thì tiền đổ vào sòng bạc Casino, đứa thì còn mãi dẫn cô vợ đầm đi chu du thế giới, còn cô con gái út thì thích xe đẹp, nhà sang.

Ông thương con nên không hề than trách hay buồn phiền. Ông cho rằng mỗi người một đời sống biết tìm sự an lạc trong tâm hồn là điều khó tìm nhất trên đời! Nhưng chỉ có Trời mới hiểu được tấm lòng của cha mẹ! Con ông thích làm Từ Thiện để khoe danh nhưng ngay cả bố chúng mà họa hoằn lắm có khi cả năm mới tạt qua giây lát rồi biến, thì đừng phí công đòi hỏi lòng nhân ở những tâm hồn vật chất ấy!

Cô Thảo, em gái kế ông, qua Pháp du học đầu năm mươi, sau khi học xong đã theo chồng sang Mỹ lập nghiệp, nhiều lần sang Pháp mời ông qua Mỹ ở nhưng ông đã từ chối. Ông có mấy người bạn thân tuy còn ít tuổi hơn ông nhưng lại rất hợp với ông về tư tưởng và quan niệm sống.

Ngoài nghề dạy học ông rất thích về văn học nghệ thuật, nhờ thời gian làm tạm ở thư viện đã giúp ông đọc rất nhiều sách mở mang thêm trí tuệ, nhờ thế ông đã khám phá nền văn học nghệ thuật của thế giới thật bao la vĩ đại. Ông chợt nhớ lại câu thơ của người xưa “Nước Nam có lúc cường, lúc nhược nhưng hào kiệt không bao giờ thiếu.”

Ông xót xa thương về đất nước thế hệ mình đã có nhiều cố gắng nhưng thất bại không giữ được ánh sáng tự do nhưng ông tin ở thế hệ sau ắt hẳn tự do sẽ trở lại tỏa sáng trên khắp quê hương.