Nam Phương – Hoàng hậu cuối cùng

 

Nam Phương – Hoàng hậu cuối cùng
By Ái Thư • 19 Dec 2023 • 
View in browser
Ảnh bìa sách: Nhà xuất bản Perrin. Đồ họa: Luật Khoa.
Bạn nhận được thư này vì đã đăng ký nhận thư tin của Luật Khoa, một tạp chí độc lập về pháp luật và chính trị. Bạn có thể quản lý tài khoản tại đây.

______

Cuốn sách “Nam Phuong – La dernière impératrice du Vietnam” (tạm dịch: Nam Phương – Hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam) của nhà sử học người Pháp François Joyaux chuyên nghiên cứu về Viễn Đông, là một nỗ lực mô tả chân dung người “quốc mẫu” Việt Nam mang quốc tịch Pháp trong những ngã rẽ lịch sử. Nam Phương hoàng hậu không chỉ là một nội tướng cai quản hậu cung, mà bà còn đóng vai trò quan trọng trong các quyết định của vua Bảo Đại.

Tác phẩm được phát hành vào năm 2019, có lời đề tựa của hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Sao. Cuốn sách này nổi bật hơn cả khi mà hầu hết các công trình nghiên cứu lịch sử khác chỉ tập trung vào đàn ông với những câu chuyện kẻ thắng và người thua.

Hoàng hậu – người phụ nữ của gia đình trâm anh Nam Kỳ

Phần đầu cuốn sách mô tả lịch sử lãnh thổ Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, mà ở đó người dân Nam Kỳ được hưởng quốc tịch Pháp.

Jeanne Mariette Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, còn được biết đến với tên thân mật Mariette, xuất thân từ một trong những dòng tộc Công giáo có ảnh hưởng nhất ở Nam Kỳ, một nơi vốn đã có sự giao lưu văn hóa của các thương nhân châu Âu. Bà sinh ra vào thời điểm Công giáo không ngừng được mở rộng tại Việt Nam nhưng cũng liên tục bị chính quyền nhà Nguyễn đàn áp.

Trong khi những phong trào chủ nghĩa dân tộc đầu tiên bùng nổ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, thì ở miền Nam lại hình thành tầng lớp tiểu tư sản Tây hóa, đi cùng với đó là một nền kinh tế phát triển. Theo lời của tác giả, gia đình Mariette không ngần ngại chào đón những nhà thực dân. Sự giàu có của gia đình hoàng hậu đến từ ba yếu tố: người Pháp, Công giáo, và việc thực dân hóa An Nam ở vùng đồng bằng.

Một tiểu thư lá ngọc cành vàng mang quốc tịch Pháp 

Gia đình của hoàng hậu được du học từ sớm, không chỉ ở Pháp mà còn ở các nước Đông Nam Á. Từ khi sinh ra, bà đã mang quốc tịch Pháp do đặc thù lịch sử. Cha của bà Nam Phương thành thạo tiếng Pháp, một lòng với Công giáo, và có năng lực xuất chúng, nên đã trở thành cánh tay phải của một địa chủ lớn và rồi trở thành con rể của ông ấy. Ông ngoại bà là người có công xây dựng nhiều nhà thờ cũng như tài trợ cho các trại trẻ mồ côi, trường học, các công trình từ thiện, v.v.

Bà lớn lên cùng vú em người Senegal trong một môi trường giáo dục kiểu Pháp, bà ăn mặc và sống trong ngôi nhà mang phong cách châu Âu.

Năm 1925, vua Khải Định băng hà. Điều này chẳng ảnh hưởng gì lắm đến Sài Gòn, nhưng rồi sẽ tác động rất lớn tới cuộc đời bà Nam Phương trong tương lai. Thời điểm này, phu quân tương lai của bà là thái tử Vĩnh Thụy chính thức lên ngôi vua.

Năm 1927, bà sang Paris theo học tại tu viện Oiseaux, nơi người chị gái ruột Agnes từng theo học. Gia đình mong muốn bà học ở môi trường thành thị và phải nói được tiếng Pháp hoàn hảo. Tu viện này là một ngôi trường của giới tinh anh, đòi hỏi học viên phải có tính kỷ luật cao. Gia đình người chú Lê Phát Vĩnh góp phần chăm sóc Mariette trong khoảng thời gian này.

Mariette say mê lịch sử, hội họa, và âm nhạc. Tuy vậy thính giác của bà không được tốt. Điều này dẫn tới việc bà gặp khó khăn khi kết giao bạn bè. Bà là một người có phần rụt rè, song lại hiếu thuận, thông minh, và sống tình cảm. Cho dù là một con chiên của Thiên Chúa giáo, bà vẫn thấm nhuần những giá trị Nho giáo. Khi ở Roma, bà mặc trang phục Việt, giữ gìn những nét Việt nhiều nhất có thể.

Thời điểm đó, thái tử Vĩnh Thụy cũng đang theo học ở Paris. Ông được vua cha cử cho một giáo viên dạy Hán Nôm riêng. Bà Mariette và ông Vĩnh Thụy cùng rời Pháp vào năm 1932 sau khi kết thúc chương trình học, lúc này bà 19 tuổi.

Ngay cả khi được sinh ra và được giáo dưỡng trong một gia đình Tây hóa giàu có, có kết quả học tập rất xuất sắc, và vô cùng quyến luyến với Paris, thì người phụ nữ ấy cũng không có cơ hội theo đuổi giáo dục bậc cao mà buộc phải về nước.

Khi Mariette trở về nước, Đông Dương đã có nhiều sự đổi thay. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 đã gây ra những hậu quả trầm trọng, cuộc nổi dậy ở Yên Bái năm 1930 đã khiến mảnh đất thuộc địa đảo điên. Bất chấp như vậy, Sài Gòn vẫn chẳng hề có biến động gì. Hầu như chẳng có sự kết nối giữa Sài Gòn và kinh thành Huế.

Cuộc hôn nhân Công giáo – Phật giáo sắp đặt

Người Pháp kiểm soát việc thành thân của Bảo Đại. Lịch sử trước đó đã khiến người Pháp cảnh giác với những ông vua Nguyễn “nổi loạn” như Hàm Nghi, Duy Tân. Việc chọn hoàng hậu vì thế mà vô cùng quan trọng.

Người chị của Mariette kết hôn với một thuyền trưởng người Pháp. Gia đình trông mong Mariette cũng sẽ cưới được một doanh nhân hay một người Pháp, nhưng rồi bà trở thành hoàng hậu.

Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier cho rằng kết hôn sẽ khiến hoàng tử ổn định. Theo tác giả, việc người Pháp chọn Mariette cũng là để phần nào hiện thực hóa công cuộc “Thiên Chúa hóa” mảnh đất Đông Dương của người Pháp.

Bà gặp Bảo Đại tại một bữa tiệc ở Đà Lạt, một khung cảnh hào nhoáng không phù hợp với tính cách của bà, nhưng do người chú một mực yêu cầu có mặt nên Mariette không thể nào từ chối.

Mariette và thái tử Vĩnh Thụy nói chuyện bằng tiếng Pháp. Bà cũng không ngại ngần nói với vị thiên tử, rằng bà có vấn đề về thính giác. Họ không chỉ môn đăng hộ đối, mà còn tâm đầu ý hợp. Đặc biệt, vị toàn quyền Đông Dương Pasquier hài lòng với việc lựa chọn Mariette bởi gia đình bà trung thành với chính quyền Pháp. Hoàng gia thì không hoàn toàn hài lòng vì người con gái ấy mang tôn giáo khác với gia đình.

Cuộc hôn nhân này phải hỏi ý kiến từ phía Vatican. Tòa Thánh chỉ chấp thuận với hai điều kiện: vua phải tôn trọng tự do tôn giáo của hoàng hậu, và con cái của họ phải được nuôi dạy theo cách Công giáo. Phía Vatican đặt nặng yêu cầu tôn giáo do họ từng mất nước Anh cũng vì lý do hôn nhân tôn giáo vào thế kỷ 16.

Hoàng gia ở Huế không thể nào chấp nhận việc cải đạo của nhà vua. Hoàng thái hậu Từ Cung kịch liệt phản đối. Bà không chỉ khó chịu vì vấn đề tôn giáo, mà đó còn là vì một người nữ Tây học, mang quốc tịch Pháp, giàu có và không biết gì tới những lễ tắc hoàng cung. Sự thiếu thiện cảm của gia đình đi theo hoàng hậu suốt cuộc đời.

Các quan lớn trong triều đình cũng tỏ ý phản đối, trong đó có thể kể đến Thượng thư Bộ Lễ Tôn Thất Hân. Ông cảnh báo về sự can thiệp của tôn giáo vào chính trị sẽ khiến hoàng gia không trụ vững.

Từ Paris hoa lệ tới Tử Cấm thành

Vua Bảo Đại cuối cùng tuyên bố phá bỏ những rào cản truyền thống để tiến hành hôn lễ với Mariette vào năm 1934. Cái tên Nam Phương mang ý nghĩa hương thơm của xứ Nam, là do vua Bảo Đại đặt cho. Với việc sắc phong Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan là hoàng hậu, vua còn phá bỏ quy định từ thời Gia Long: chỉ phong hoàng hậu cho người mẹ của vị vua kế tiếp. Trước đó, chỉ khi người vợ của vua có con trai nối dõi mới được phong. Minh Mạng có 142 người con từ 30 phi tần. Nam Phương là người vợ chính tắc duy nhất của vua. Như vậy Bảo Đại dám phá bỏ chế độ đa thê của hoàng gia. Điều đó cũng có nghĩa là con của Mariette sẽ lên ngôi. Năm 1936, thái tử Bảo Long ra đời.

Chính vua đã gửi thư tới Giáo hoàng, cho rằng cần phải xóa bỏ những rào cản Đông – Tây. Cuối cùng thì đôi vợ chồng hoàng gia cũng nhận được lời chúc phúc của Giáo hoàng. Qua mô tả và phân tích của tác giả, người phụ nữ thuộc dòng họ thế phiệt Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan không hề có tiếng nói trong cuộc hôn nhân này.

Là người yêu thiên nhiên, hoàng hậu gắn bó với Đà Lạt. Quan chức phong kiến không quen với việc nhìn thấy một bà hậu chơi tennis, chơi golf, và bắn súng Tây.

Hoàng hậu hạn chế lễ nghi Phật giáo, lại thường xuyên trò chuyện với thái tử bằng tiếng Pháp, rồi còn cùng cầu nguyện mỗi ngày. Hoàng hậu nỗ lực để Bảo Long sớm chính thức thành thái tử, danh hiệu ấy giúp củng cố vị thế của chính bà.

Đóng góp của Nam Phương

Hoàng hậu không chỉ tham gia các hoạt động vốn được xem là dành cho nữ giới như y tế, giáo dục, mà còn tích cực tham vấn cho chồng về các chính sách dân sinh. Tuy nhiên, vai trò và ảnh hưởng của bà thường khá lu mờ.

Bà muốn thoát khỏi cái bóng cai quản hậu cung, khao khát được vi hành. Theo tác giả, bà có vai trò lớn trong việc xây dựng những trung tâm Công giáo tại Đà Lạt.

Việc bà cùng vua Bảo Đại tiếp đón vua Norodom Sihanouk của Campuchia hay vua Sisavang Vong của Lào ở Huế là những điều chưa từng có trong tiền lệ ở An Nam – vốn chưa bao giờ cho phép phụ nữ diện kiến cùng nhà vua trong những dịp như vậy.

Tác giả mô tả hoàng hậu qua cái nhìn của những chính khách và nhà báo Pháp. Các con của họ vừa được hưởng giáo dục truyền thống của hoàng gia, vừa được Nam Phương chỉ dạy theo lối Pháp.

Trong những thời khắc gian truân nhất, hoàng hậu vẫn luôn ưu tiên che chở cho những người con của mình. Bảo Đại tuyên bố độc lập khỏi Pháp và lấp đầy bộ máy bằng những nhân vật theo Nhật. Điều khiến hoàng hậu lo ngại có lẽ đó là một thứ rượu cũ bình mới: chỉ là thay tên gọi “bảo hộ” bằng “độc lập”.

Trở thành cựu hoàng hậu

Hoàng hậu không do dự chấp nhận mình là phu nhân của cố vấn chính phủ cách mạng Vĩnh Thụy, tự nguyện đóng góp trang sức của mình cứu trợ đồng bào nạn đói theo tiếng gọi của Việt Minh, nhưng đâu ngờ rằng của cải ấy được dùng để mua vũ khí. Và nhanh chóng sau khi nắm quyền, những người mà cựu hoàng hậu ủng hộ đã bắt giữ mục sư Công giáo. Ở cung An Định, bà sống trong sự kiểm soát của những người mà bà hết lòng ủng hộ. Và khi ngay cả không phải là đất bảo hộ của Pháp, hay đất độc lập theo cách của Nhật, thì tự do hay an toàn vẫn chưa thực sự đến.

Kể từ năm 1946, cựu hoàng hậu tự mình đạp xe trên những con đường Huế, trở nên thân cô thế cô hơn bao giờ hết. Người phụ nữ đã sống những năm gian truân nhất của cuộc đời vào cuối năm 1945, nhất là khi vua Bảo Đại đã tị nạn tại Trung Quốc năm 1946, để lại bà và năm người con ở Huế. Gia đình lớn của hoàng hậu, cũng giống như biết bao gia đình khác trên đất Việt, cũng tan đàn xẻ nghé vì những lý tưởng chính trị khác nhau, mà cụ thể là theo hay không theo Việt Minh. Những người bạn của bà, cũng bị Việt Minh bỏ tù hoặc biến mất.

Lựa chọn sống lưu vong

Là một tín đồ Công giáo, bất kể tình huống gì bà cũng nghĩ tới và tìm đến nhà thờ. Bà chấp nhận trở thành cố vấn cấp cao của Liên bang Công giáo miền Trung.

Trái với nhiều tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này, vị hoàng hậu cuối cùng và người thân không hề cảm thấy an tâm và an toàn trước sự có mặt của Việt Minh.

Cựu hoàng hậu là linh hồn của kế hoạch Công giáo nhằm cứu vãn tình thế. Tuy thất bại, nhưng Nam Phương muốn phục hồi lại nền quân chủ với sự hậu thuẫn của giới Công giáo và với con trai bà là hoàng đế kế nhiệm.

Bất chấp sự phản đối của thái hậu về việc đi tị nạn ở nước ngoài, hoàng hậu đã tự cứu mình. Những người truyền giáo Quebec nói tiếng Pháp tại Huế đã cứu giúp gia đình Nam Phương. Thái tử Bảo Long đi trước, hoàng hậu và bốn người con còn lại đi sau. Sáu mẹ con đã an toàn rời khỏi Huế khi cuộc chiến Việt Minh và Pháp nổ ra.

Tháng 4 năm 1947, quân đội Pháp hộ tống bà tại Đà Nẵng, bà được đưa tới Đà Lạt bằng máy bay quân sự. Bốn tháng sau, bà được đưa tới Hồng Kông, bà gặp Vĩnh Thụy rồi qua Pháp sống lưu vong.

Từ năm 1948, Bảo Đại và người Pháp thương lượng rất nhiều về tương lai của Việt Nam. Bà đồng hành với chồng ở Geneve. Dù không thể về lại Việt Nam, bà vẫn hàng ngày cầu nguyện cho nền hòa bình của nước nhà, theo dõi sát sao tình hình chính trị Đông Dương. Bà vẫn là người chịu trách nhiệm cho việc nuôi dạy các con, đồng thời bắt đầu đầu tư tại châu Phi.

Khi Bảo Đại trở thành quốc trưởng sau hiệp ước Vịnh Hạ Long năm 1948 và trở về Đông Dương năm 1948, bà Nam Phương vẫn ở lại Pháp cùng các con. Trong những tháng ngày tại Pháp, bạn bè của cựu hoàng hậu chủ yếu người Pháp và rất hiếm có người Việt.

Bà sống cô đơn, nhất là khi cuộc sống đa thê cũng theo Bảo Đại sang Pháp. Khi Thái tử Bảo Long tham chiến ở Algeria, cựu hoàng Bảo Đại sống ở vùng Alsace, còn Nam Phương sống tương đối ẩn dật ở vùng Chabrignac, Corrèze, cách thủ đô Paris khoảng 500 km.

Nhưng bà vẫn không xa rời chính trị Việt Nam và thường xuyên gặp gỡ các chính khách trong và ngoài nước khi họ tìm gặp bà ở Pháp. Theo lời tác giả, tài trí và nhân cách của có được sự nể trọng của những chính khách mày râu, như anh em Ngô Đình Diệm hay Cường Để. Nguyện ước của bà là một ngày nào đó sẽ lại thấy An Nam phục hồi và phục sinh (Annam ressuscité et rajeuni). Do đó, cựu hoàng hậu kịch liệt phản đối sự dựa dẫm vào Mỹ của nhà Ngô.

Tác giả kết luận rằng lịch sử cần phải có cái nhìn công bằng với cựu hoàng hậu tài sắc vẹn toàn và yêu nước. Bản thân bà cũng là một người lãnh đạo thực thụ, một chính khách nữ đáng khâm phục. Bà nên phải được phong là một người hùng của đất nước Việt Nam đương đại. Những người viết sử ngày nay cũng cần nỗ lực đòi lại công bằng cho những người phụ nữ bị lép vế trong lịch sử.

Bạn có thấy nội dung của Luật Khoa hữu ích?

Luật Khoa làm báo trung thực và không kiểm duyệt. Chúng tôi nói không với quảng cáo để bạn có trải nghiệm đọc báo tốt nhất. Và chúng tôi làm báo phi lợi nhuận.

Nếu bạn thấy Luật Khoa có ích, hãy cân nhắc ủng hộ các tác giả bằng cách nâng cấp lên gói Member ($2/tháng) hoặc Supporter ($5/tháng) để đọc tất cả các bài, nhận các số báo tháng (PDF, EPUB) và truy cập vào Thư viện Luật Khoa.

Còn nữa: Luật Khoa trích 1% số tiền của bạn để đóng góp cho chương trình bảo vệ môi trường của Stripe.


From: Bang Uong

MƠ ƯỚC BÌNH THƯỜNG – Hoàng Tá Thích

Bang Uong

Hoàng Tá Thích

Cô bạn tôi bị té xe hồi chiều, ban đầu trông có vẻ bình thường. Một lúc sau thì choáng váng. Khi được đưa vào bệnh viện Chợ Rẫy thì bác sĩ cho biết là bị xuất huyết não, phải giải phẫu ngay tức khắc.

Giải phẫu xong, cô được đưa vào nằm ở tầng thứ hai. Nghe nói đến tầng lầu này ở bệnh viện Chợ Rẫy thì phần đông đều nghĩ đến những chuyện ít may mắn, có vào, khó ra. Lúc tôi bước vào căn phòng này, cái cảm giác đầu tiên là khó thở, với hai dãy giường bệnh vừa được làm phẫu thuật xong. Hầu hết đều không được lành lặn bình thường và nằm bất động. Cô bạn của tôi là một trong những cái xác không hồn đó. Đầu cạo trọc, trên người được đắp một chiếc áo bệnh viện màu xanh. Thân thể gần như lõa lồ và nếu không biết trước thì chắc cũng khó nhận ra được đó là một người đàn bà giàu có, xinh đẹp ở Mỹ về, xài tiền như nước.

Tôi chỉ biết đứng yên nhìn cô ta, và trong lòng hoang mang cảm khái. Cô vẫn mê man, chưa biết sống chết thế nào. Bác sĩ cho biết là có thể hôn mê trong nhiều ngày.

Năm ngày sau thì cô tỉnh dậy. Vậy là cô đã thoát chết. Mấy hôm sau thì cô được chồng đem về Mỹ. Hai tháng sau, tôi có việc qua Mỹ và ghé thăm cô tại nhà. Bây giờ thì tóc đã mọc lại khá dài, che hết phần sọ bị cưa. Nhan sắc đã được phục hồi, trở lại một người đàn bà duyên dáng hoạt bát. Cô kể lại cho mọi người nghe về chuyện tai nạn và cô nói : “Trước khi lên bàn mổ, mình nghĩ chỉ cần được sống là đủ và sẽ không bao giờ đòi hỏi bất cứ một điều gì khác.”

Hôm sau, tôi theo cô bạn đến phòng khám bệnh của một bác sĩ được giới thiệu để cô tái khám. Cô bạn bước vào phòng, tươi cười chào hỏi và để tập hồ sơ bệnh lý của cô lên bàn. Vị bác sĩ đọc qua hồ sơ và hỏi cô: “Thế bây giờ bệnh nhân bị mổ ở đầu đang ở đâu?”. Cô bạn có hơi ngạc nhiên, nhưng sau đó hiểu ra, cô trả lời “Chính là tôi”.

Vị bác sĩ trợn mắt nhìn cô, chỉ nói được một câu: “Không thể tưởng tượng được, nếu thế thì quả là một phép lạ.”

Sau khi khám lại vết thương, hỏi cô nhiều điều, bác sĩ cho biết tình trạng sức khỏe hoàn toàn bình thường và bảo cô ký vào một giấy tờ gì đó. Cô cầm bút, nhưng thay vì ký vào chỗ đã có đánh dấu sẵn, thì cô ký lệch mấy phân vào phía dưới. Bác sĩ cười bảo: “Đấy là điều duy nhất còn sót lại mà cô cần phải chữa” và cho cô một cái hẹn khác.

Cô bạn tôi ra về với những nét băn khoăn hiện ra trên mặt. Tôi an ủi, và nhắc lại lời cô nói sau khi tỉnh dậy, miễn được sống mà thôi. Cô trả lời: “Lúc đó thì nghĩ như thế thật, nhưng khi được sống rồi thì muốn những điều tốt hơn, mình nghĩ con người chắc ai cũng thế.”

Đúng. Con người ai cũng thế. Nhưng cái mơ ước của cô bây giờ chỉ là mong nhận được một cái cô đã có từ trước, và đã đánh mất. Cô chỉ mong được ký đúng vào chỗ có đánh dấu không bị lệch ra ngoài do thần kinh không kiểm soát được mà thôi. Đấy là một tai nạn ngoài ý muốn đã làm cô bị một hậu quả nhỏ như thế, nhưng cũng có những trường hợp mình tự ý quẳng một vật sở hữu của mình đi, cuối cùng lại ao ước được có lại như cũ.

Ở đời có nhiều cái mơ ước rất bình thường. Bị một vết xước trên thân thể cũng đã làm mình khó chịu và chỉ mong lành lặn lại như cũ. Lúc sở hữu một cái tầm thường thì không quan tâm, quý trọng, đến khi mất thì tiếc nuối và chỉ muốn được lại cái mình đã có từ trước. Nhiều cặp vợ chồng cũng mất hạnh phúc vì cứ nghĩ là mình phải được hơn như thế, vợ đòi hỏi chồng phải hơn như thế và ngược lại, cho đến khi tan vỡ, ân hận thì đã quá muộn màng.

Mơ ước cái mình chưa có cũng là chuyện bình thường, nhưng nếu ước mơ không đạt được thì cũng không sao. Mơ ước được giàu sang phú quý, cũng không hình dung được giàu sang phú quý đến như thế nào. Một người con gái mơ có tiền để sửa sắc đẹp, chưa biết sẽ đẹp như thế nào, và nếu không thực hiện được ước mơ thì cũng đành quên đi. Nhưng nếu một hôm cô ta bị gãy một chân, thì mơ ước của cô chỉ là làm sao có được đôi chân lành lặn như cũ mà thôi.

Tôi có một người bạn khác, một hôm phải vào bệnh viện và kết quả cho biết là anh ta bị sưng túi mật rất nghiêm trọng phải giải phẫu gấp mới an toàn tính mạng. Lúc chúng tôi vào thăm anh ở bệnh viện thì được biết anh đã được an toàn và chỉ vài ngày sau có thể xuất viện về nhà. Anh nói với tôi: “Có thế này mới biết được chúng ta luôn luôn đứng trên ngưỡng cửa của cái chết mà không biết. Có thế này mới thấy nên có một quan niệm về đời sống thực tế hơn.”

Anh nói thì thế, nhưng khi lành bệnh, trở lại làm việc một thời gian thì anh ta vẫn chẳng khác gì ngày xưa, không có chút nào đổi thay.

Ngài Đạt Lai Lạt Ma có một câu nói rất hay và đơn giản:

“CÓ NHIỀU NGƯỜI SỐNG MÀ KHÔNG NGHĨ LÀ MÌNH SẼ CHẾT, ĐẾN KHI SẮP CHẾT, MỚI CHỢT NHẬN RA LÀ MÌNH CHƯA SỐNG!”

Nói là đơn giản, nhưng không phải ai cũng hiểu sâu xa ý nghĩa của câu nói đó. Người ta không bao giờ mơ ước bình thường. Nhưng hãy trân trọng và sống với cái mình đang có.

Hoàng Tá Thích


 

HAI CÁCH CƯ XỬ CỦA HAI CHA XỨ VÀ HAI CÁI KẾT TRÁI NGƯỢC

 Nên xem, câu chuyện có thật cũng rất ý nghĩa.
Cư xử nhẹ nhàng đi vào lòng người, được tất cả.
Nóng nảy, hung hăng mất tất cả, tiếng “thơm” để muôn đời…..

*****

CÂU CHUYỆN 1:

Chuyện kể rằng, trước giờ dâng Lễ chiều hôm đó, cậu bé giúp Lễ kia có tên Thánh là Joseph chăm chỉ đi sớm, rồi mở Tủ buồng áo ra để dọn đồ Lễ.

Thật không may, do sơ ý trong quá trình di chuyển, cậu bé lỡ tay làm rớt chiếc bình đựng rượu Lễ bằng thủy tinh.

Chiếc bình nhanh chóng nát tươm. Rượu bắn tung toé. Mảnh sành rơi vãi khắp nơi.
Cha xứ ngồi ghế xa xa chứng kiến.

Mặt cậu bé tái mét, hoảng loạn, lo sợ, thất thần.

Lập tức cha xứ đứng dậy tiến nhanh về phía cậu. Cậu lại càng lo lắng hơn vì sợ cha mắng.
Nhưng thật không ngờ.

Thay vì la mắng thì cha lại niềm nở vỗ vai bảo cậu là không sao, vỡ rồi thì thôi. Cha lại còn lo lắng hỏi cậu có bị sao không, nhắc cậu cẩn thận không mảnh sành đâm vào chân và ân cần bảo cậu hãy mau dọn đi, rồi bảo ông trùm chuẩn bị bình rượu Lễ khác cho Thánh Lễ.

Cậu bé nói lời xin lỗi cha. Cậu thở phào nhẹ nhõm, khắc sâu nhớ mãi và rất nể phục cách cư xử tế nhị ấn tượng của cha xứ mình.

Từ hôm đó trở đi, cậu bé ngày càng chăm chỉ, ngoan ngoãn,khéo léo, nhanh nhẹn, sốt sắng, thành tâm với việc nhà Chúa.

Rồi cậu đã theo cha xứ đi tu, làm Thầy, làm Linh mục, làm Giám mục, làm Tổng Giám mục, làm Hồng y, làm Giáo hoàng và cuối cùng làm Thánh.

Cậu bé đó có tên là Karol Józef Wojtyła người Balan. Cậu bé đó chính là Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II.

Cậu bé đã có động lực làm người, làm Giáo hoàng và làm Thánh nhờ sự cảm thông của cha xứ mình hồi còn thơ bé.

CÂU CHUYỆN 2:

Chuyện kể rằng, trước giờ dâng Lễ chiều hôm đó, cậu bé giúp Lễ kia cũng có tên Thánh là Joseph chăm chỉ đi sớm rồi mở Tủ buồng áo ra để dọn đồ Lễ.

Thật không may, do sơ ý trong quá trình di chuyển, cậu bé lỡ tay làm rớt chiếc bình đựng rượu Lễ bằng thủy tinh.

Chiếc bình nhanh chóng nát tươm. Rượu bắn tung toé. Mảnh sành rơi vãi khắp nơi, bắn vào chân cậu, làm chân cậu bị chảy máu.

Cha xứ ngồi ghế xa xa chứng kiến.

Mặt cậu bé tái mét, hoảng loạn, lo sợ, thất thần.

Lập tức cha xứ đứng dậy tiến nhanh về phía cậu. Cậu lại càng lo lắng hơn vì sợ cha mắng.
Và cuối cùng điều cậu lo lắng cũng đã đến.

Cha xứ bực tức la mắng cậu thậm tệ. Cha mắng cậu nào là vụng về, vô tích sự, bất cẩn, hấp tấp, làm không nên hồn vân vân và mây mây… Cha mắng cậu như thể cha hoàn hảo và chưa sai bao giờ.

Cậu bé lập tức đứng dậy bỏ đi, vừa đi vừa khóc, uốt hận, căm phẫn về những lời thậm tệ của cha xứ mình.

Từ hôm đó cậu bỏ luôn giúp Lễ, bỏ cha xứ, bỏ bạn bè.

Không dừng lại ở đó, cậu còn bỏ Lễ, bỏ Nhà thờ, và cuối cùng là bỏ Đạo.

Vẫn chưa hết, cậu đã học hành nghiên cứu và gia nhập Đảng Cộng sản và leo lên những chức cao để chống lại Đạo Công giáo một cách dữ dội.

Cậu bé đó chính là Josip Broz Tito người Nam Tư.

Cậu bé đó chính là Tổng bí thư Đảng cộng sản Nam Tư mang trên Tito.

CÙNG MỘT SƠ SUẤT NHỎ NHƯNG ĐÃ DẪN ĐẾN HAI KẾT QUẢ TRÁI NGƯỢC VUI MỪNG VÀ ĐAU XÓT KHÁC NHAU.
CÙNG MỘT SƠ SUẤT NHỎ NHƯNG ĐÃ DẪN ĐẾN HAI SỐ PHẬN VÀ HAI CUỘC ĐỜI KHÁC NHAU.
CÙNG MỘT SƠ SUẤT NHỎ NHƯNG ĐÃ DẪN ĐẾN HOẶC LÊN THIÊN ĐÀNG HOẶC XUỐNG HỎA NGỤC.
CÙNG MỘT SƠ SUẤT NHỎ NHƯNG ĐÃ MỞ RA MỘT CÁNH CỬA HOẶC KHÉP LẠI MỘT CUỘC ĐỜI.

***
Josip Broz Tito, lãnh đạo cộng sản của Nam Tư từ năm 1945, nhận chức Tổng thống suốt đời, (35 năm lãnh đạo) đã qua đời ở tuổi 88 Ngày 4 tháng 5 năm 1980 tại Belgrade. 01/1980 Tito bị tắc mạch máu ở chân sau đó phải vào bệnh viện và bị cưa chân bên trái.

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen


 

Không Món Quà Nào Hơn – Nguyễn Diệu Anh Trinh -Truyen ngắn

Quý anh chị thân mến,

Nhân dịp mùa lễ mừng Chúa Giáng Sinh cứu độ con của Ngài, xin chuyển đến quý anh chị một bài viết rất đáng đọc.

Người xưa thường dạy “Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ thành không”, dù biết là dạy mình nhẫn nhịn với tha nhân nhưng đôi lúc mình cũng nhận biết là mình chỉ nhịn được bề ngoài, vì trong tận thâm sâu mình vẫn còn hơi bực mình.

Càng đọc câu chuyện mình lại càng mắc cỡ hơn.

N.Đ.Trọng

*************

Không Món Quà Nào Hơn

19/12/2023

Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố “Hát Ô” và nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.

*****

Khu phố cô ở có chừng một trăm căn nhà, dãy bên phía nhà cô nhà nào cũng nằm trên một con dốc thoai thoải, không cao lắm, còn phía bên kia thì bằng phẳng hơn, với những sân cỏ xanh mướt. Đặc biệt căn nhà đối diện nhà cô, chủ nhân là đôi vợ chồng già, màu da hơi sậm. Sân cỏ trước nhà ông bà này rất đẹp, xanh mướt như nhung và không hề có một gốc cỏ dại. Chiều chiều, ông bà hay ra ngồi xổm xuống để nhặt lá vàng và nhổ những cọng cỏ dại mới nhú, hình ảnh rất quen thuộc với đám trẻ con hàng ngày lên xuống xe bus đưa đón học sinh ở góc phố cạnh đó.

Khu phố nhỏ thỉnh thoảng có người dọn đi, có kẻ dọn đến… nhưng ông bà lão này chẳng hề quan tâm đến những thay đổi ấy.

Một cảnh quen thuộc, cứ chiều chiều là có người thanh niên râu tóc đậm đen, hay dắt chú chó đi qua đoạn đường trước mặt nhà cô. Anh chủ thì mặt lầm lì còn con chó thì cao to và có phần năng động. Có hôm cô bắt gặp quả tang con chó ị trên sân cỏ phạm vi nhà cô nhưng anh chủ không dùng bao nylon để “thanh toán” như quy luật mà làm ngơ, dắt chó đi luôn. Cô hơi bực mình. Vài lần khác, con chó ị ngay ở khoảng sân đẹp nhà đối diện. Ông bà lão kia dường như không biết, cô cảm thấy ái ngại giùm – nếu lỡ ông bà ngồi xuống nhổ cỏ mà chẳng may vớ phải “của quý” thì ôi thôi! Năm lần, ba lượt… cô quyết định bắt chuyện với bà lão:

– Bà có biết là phân chó trên sân cỏ nhà bà không?

Bà lão nhìn cô, đôi mắt nheo nheo…

Cô lặp lại, bà trả lời bằng một nụ cười. Nghĩ rằng bà lẩm cẩm, cô lên tiếng:

– Người chủ con chó đó nhà ở góc kia, bà có muốn phàn nàn về chuyện dẫn chó đi dạo mà không giữ vệ sinh chung một cách vô ý thức vậy không?

Bà lão bình thản:

– Không cần đâu, nếu con chó của ông ta ị bậy, tôi có thể dọn được mà!

Cô tròn mắt:

– Phải nói cho ông ta biết để giữ vệ sinh chung ở đây chứ!

Bà nhẹ nhàng:

– Yên tâm cô bé, tôi có thể làm việc đó mà.

– Bà không bực bội sao?

– Chuyện rất nhỏ, không nên làm cho nó lớn ra, cô à!

Cô đang ngạc nhiên trước vẻ bình thản tự tại của bà thì bà tiếp:

– Chúa dạy ta, “Nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ …”

Cô nhìn bà lão bằng ánh mắt lạ lùng vì thấy bà lão lẩm bẩm giống một người đãng trí đang nói chuyện với chính mình, hay giống như một Bà Cố đang giảng đạo trong Nhà Thờ. Nhưng không phải, bà cười cười lắc lắc tay cô:

– Tôi và chồng tôi có thể làm việc ấy, không sao đâu cô bạn nhỏ.

Buổi tối, trong bữa ăn cô định kể lại câu chuyện cho chồng nghe thì thật

bất ngờ anh cũng có chuyện để kể: “Em biết không, hai cụ già trước nhà mình là người rất siêng năng đi Nhà Thờ, hôm nọ cụ ông nhờ anh qua thay giùm cái bóng đèn vì chân cụ yếu không leo lên thang được. Thấy trong nhà đồ đạc không có gì anh nghĩ hai cụ chắc sắp dọn nhà đi nơi khác nên hỏi:

– Ông bà sẽ dọn đến đâu ạ?

– Chúng tôi không dọn đi đâu cả…

Nhìn nét mặt ngơ ngác của anh, cụ nói:

– Tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ trừ những thứ cần phải để dùng hàng ngày, còn lại… tôi đã cho hết… nhiều người đang cần hơn chúng tôi.

Ôi trời, quả thật trong gian bếp rộng và rất khang trang chỉ còn sơ sài đôi cái chén, ly, không bàn ghế, không tủ. Cụ ông còn đưa tay chỉ vào cái sofa nhỏ bảo:

– Cái này của người bạn tôi, ông ta đến đây muốn ngồi xem TV mà không có ghế nên ông ta mang đến, chừng nào chúng tôi ra đi… thì ông ấy bưng về lại…

– Thế các con của ông bà đâu?

– Các con của chúng tôi đều có công ăn việc làm, nhà cửa hẳn hoi. Chúng chẳng quan tâm đến những thứ này. Tất cả đồ dùng trong nhà chúng tôi đã cho hết những người cùng đi Nhà Thờ. Rất nhẹ nhàng khi ra đi mà mình không còn gì hết cậu à…”

Chồng cô kể xong thì tiếp lời:

– Mà thiệt đó em, cái nhà bên ngoài coi bộ nguy nga hơn nhà mình, sân cỏ trước sau đẹp hơn nhà mình… vậy mà trong nhà hổng có gì ráo, ngoài hai cái mạng già!

Nghe mẩu chuyện anh kể, cô cảm thấy xấu hổ trong lòng, nhưng cô cũng kể nốt chuyện con chó hàng xóm và câu chuyện nói với cụ bà ban chiều.

Hai vợ chồng bỗng dưng không ai bảo ai, ngồi trầm ngâm. Hai câu chuyện mà vợ chồng cô nghe được từ ông bà cụ hàng xóm thật là bài học, là tấm gương rất đáng trân trọng, rút ra được ý niệm: của cải vật chất thật ra chẳng là gì cả, mọi thứ đều phù du…Cuộc sống có an nhiên tự tại được hay không là do chúng ta tự buông xả, mọi chuyện nặng nhẹ hay không cũng là do chính suy nghĩ của mình. Khi còn tại thế, mình muốn giúp ai, làm gì thì hãy cứ làm, đừng nên ngần ngừ… Con người ta cuối đời, khi về với cát bụi hư không là hai bàn tay trống và một cõi lòng.

Đôi vợ chồng trẻ từ ngày nghe câu chuyện mang ý nghĩa “buông xả” của đôi vợ chồng già hàng xóm gốc da màu thì vô cùng ngưỡng mộ. Không biết từ đâu, trong tiềm thức cô cũng như nhiều người bạn cô luôn nhìn về những người da màu với một cái nhìn ít thiện cảm. Mặc dù chính bản thân mình cũng thuộc nhóm người di dân gốc da vàng.

Bẵng đi mấy hôm, từ trong nhà, chồng cô nghe tiếng xe cấp cứu hú còi. Nhìn sang căn nhà hàng xóm đối diện thì thấy nhân viên cấp cứu đang đưa cụ ông lên băng ca, xe chạy đi còn thấy cụ bà ngơ ngác đứng trước cửa. Hai vợ chồng bước sang hỏi thăm, được biết cụ ông tự nhiên bị ngã bất tỉnh nên bà bấm 911 gọi cấp cứu. Thế là từ ngày ấy, chỉ còn lại một mình bà cụ trong căn nhà mênh mông. Thỉnh thoảng khi chạy bộ mỗi sáng, nhìn thấy bà cụ dọ dẫm từng bước trước sân nhà, cô hỏi thăm thì được biết cụ ông vẫn còn điều trị trong bệnh viện. Cô luôn luôn nhắc chừng, “Bà cẩn thận nhé, cần giúp gì cứ bấm chuông nhà chúng tôi, vợ chồng tôi luôn sẵn lòng”. Cụ Bà cười móm mém, ánh mắt nhìn cô như reo vui.

Một hôm, hai vợ chồng cô đang chăm sóc mấy bụi cây trước sân nhà, cụ bà tay cầm một chìa khóa, từ từ bước qua sân nhà cô. Rất ngạc nhiên, chồng cô ngừng tay hỏi:

– Bà cần giúp gì ạ?

– Cậu có thể nào giúp tôi đưa chiếc xe từ trong “ga ra” ra ngoài này không?

– Bà định làm gì thế?

– À, tôi muốn lái xe đến bệnh viện thăm ông ấy…

– Vậy sao, tôi chưa từng thấy bà lái xe bao giờ kể từ ngày chúng tôi dọn về đây.

Bà cụ chậm rãi:

– Tôi lái được chứ, có điều… cách đây nhiều năm, sau một tai nạn xe dù không nặng lắm, nhưng… ông ấy không cho tôi lái xe nữa, đi đâu thì ông ấy đưa tôi cùng đi.

Ngưng chút xíu, bà tiếp:

– Lâu thật không lái xe nên bây giờ tự đưa chiếc xe từ trong “ga ra” ra ngoài, tôi… không được tự tin lắm. Nhờ cậu giúp.

Chồng cô ngừng tay, đón chiếc chìa khóa trên tay bà cụ. Anh bước qua nhà ông bà cụ hàng xóm, cẩn thận nổ máy xe, đưa chiếc xe ra khỏi “ga ra”. Trong khi chờ đợi, cô bắt chuyện:

– Ông ra sao rồi thưa Bà, ổn chứ?

– Ông không thể đứng dậy đi được nữa, chắc trí nhớ cũng kém rồi…

Cô ái ngại:

– Thế…ông… ăn uống ra sao bà?

– Cũng không tệ lắm, ông cứ sợ tôi lái xe đi nguy hiểm…

Cô nhìn bà đầy thương cảm:

– Tôi có thể giúp bà, hôm nay tôi rảnh.

Bà cụ cười:

– Cám ơn cô, tôi nghĩ tôi một mình lái xe đến thăm thì ông ấy rất vui đó.

– Bà chắc bà Okay chứ?

Bà cụ lại cầm tay cô lắc lắc:

– Cô yên tâm, Chúa nhìn thấy những gì tôi làm mà, không sao đâu.

Chồng cô đã đưa xe ra ngoài, Bà cụ chầm chậm leo vào, xe đang nổ máy. Bà bình thản thắt dây an toàn, nụ cười móm mém, nhắc lại một câu:

– Đã lâu lắm tôi không lái xe. Ông ấy hứa sẽ chở tôi đi bất cứ nơi nào tôi muốn. Bây giờ ông ấy đã nằm một chỗ, không đi lại được. Tôi cần phải vì ông ấy mà cố gắng, chắc chắn ông vui lắm đây! Rất cám ơn hai bạn.

Cả hai vợ chồng cô đều dặn bà:

– Bà cẩn thận nhé!

Đôi vợ chồng trẻ nhìn nhau… rồi nhìn theo chiếc xe chầm chậm rời khu phố. Cả hai cùng buông tiếng thở dài, cõi lòng mênh mang buồn. Cầu cho bà cụ còn đủ sức khỏe và minh mẫn để một mình lái xe đi thăm ông. Nếp sống của đôi vợ chồng trẻ từ ngày quen biết ông bà cụ hàng xóm đã thay đổi khá nhiều. Bài học về lòng vị tha, tư tưởng không coi nặng vật chất, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Rất an nhiên tự tại, đời sống có phần nhẹ nhàng hơn.

o O o

Mùa Đông đang đến sau vài cơn mưa nhỏ, những hàng cây vàng lá hai bên đường bắt đầu trơ trụi. Thảm cỏ xanh nhà hàng xóm đã không còn xanh tươi, lác đác có những chiếc lá vàng cuối cùng từ cây phong trồng phía trước bay bay theo gió rồi nhẹ nhàng đáp xuống sân nhà.

Bà cụ hàng xóm dạo này thường tự lái xe ra mà không cần đôi bạn trẻ trợ giúp.  Cô thầm nghĩ: Có lẽ hạnh phúc khi mang lại niềm vui cho người bạn đời đã khiến Bà cụ trông có phần tự tin.

Hôm nay, thật lạ, bà cụ lần bước qua khoảng sân nhà cô. Từ trong nhà cô đã nhìn thấy chiếc xe bà cụ đã nổ máy và đậu ở ngoài lề đường. Vừa bước ra ngoài cô suy đoán, có lẽ xe bà bị gì đang cần giúp đây.

– Chào Bà! Hôm nay đi thăm người yêu đó à?

Ánh mắt bà cụ long lanh. Cô dò chừng:

– Sắp đến Giáng Sinh rồi, bà làm món gì cho ông, nào?

Cụ Bà cười rất tươi:

– Năm nay tôi được Chúa thưởng…

– Bà sẽ vào bệnh viện mừng Lễ với ông chứ?

– Tôi có món quà lớn lắm, muốn chia sẻ với vợ chồng cô.

Người phụ nữ trẻ nhìn quanh, vẫn không hiểu ý bà cụ hàng xóm. Cô lại hỏi tiếp:

– Ông nhà vẫn ok chứ bà?

– Vâng, năm nay Chúa thưởng tôi. Lát nữa xe bệnh viện sẽ đưa ông ấy về nhà. Hằng ngày sẽ có nhân viên y tế đến chăm nom vì ông vẫn phải chuyền oxy và ông hầu như chẳng còn biết tôi là ai. Nhưng tôi còn biết ông ấy. Là chồng tôi mà! Đây chính là món quà Giáng Sinh vô giá mà tôi mong mỏi từ bấy lâu đấy cô gái ạ.

Ôi Trời, người phụ nữ trẻ vừa mừng vừa cảm động. Món quà vô giá dành cho người vợ chỉ đơn giản là được thấy chồng mình trở về nhà, cho dù ông đã hoàn toàn mất tri giác. Những suy nghĩ rất bao dung cho đến những việc ông bà hàng xóm đã làm khiến cô cảm thấy mình sao quá nhỏ nhoi, ích kỷ. Tại sao không buông bỏ để đời sống nhẹ nhàng? Những suy tư nhỏ nhen đã khiến tâm hồn nặng trĩu, rồi cuối đời còn gì đâu. Hãy sống như ông bà cụ. Bao nhiêu của cải ít cần dùng đem phân phát hết. Không ước ao gì hơn. Mùa Giáng Sinh đang đến, chỉ một hình hài chằng chịt dây nhợ của chồng trở về bên cạnh mà cụ bà đã xem đó là một Ân sủng quý báu, mang lại cho bà nụ cười hạnh phúc, khiến khuôn mặt già rạng rỡ như ánh nắng mai.

Cô thật ngưỡng mộ tấm lòng người hàng xóm già nua có trái tim rất ấm.

Nước mắt tràn trên đôi mắt người phụ nữ trẻ tuổi. Cô run run choàng tay ôm lấy bà cụ.

Một mái tóc bạc bên cạnh mái đầu xanh.

Mùa Đông đang đến thật chậm bên thềm.

Nguyễn Diệu Anh Trinh

From: Phong Duong


 

MÓN QUÀ TRONG ĐÊM GIÁNG SINH – Truyện ngắn

Ước Mơ Việt Tân

Nhiều năm trước, có hai cha con sống gắn bó với nhau trong một ngôi nhà sang trọng và cùng chung sở thích đó là đam mê sưu tập tranh. Trong tay họ bộ sưu tập tranh quý giá lên đến hàng triệu đô la khiến nhiều người nhòm ngó. Người cha rất hài lòng khi thấy đứa con trai duy nhất của mình trở thành một nhà sưu tập tranh nhiều kinh nghiệm.

Mùa đông đến, tiết trời u ám phủ trùm khắp thành phố. Cậu con trai của ông theo tiếng gọi của Tổ Quốc lên đường ra chiến trận. Người cha ngày đêm cầu nguyện và chờ đợi đến ngày lễ Giáng Sinh, với hy vọng gặp lại đứa con thân yêu của mình….Nhưng chiến tranh khốc liệt đã tướt đoạt niềm ao ước duy nhất của người cha. Cậu con trai đã hy sinh khi đưa một đồng đội đến nơi trú ẩn an toàn …

Vào một sáng ngày lễ Giáng Sinh, tiếng gõ cửa bất thần đánh thức người cha. Ông ra mở cửa và nhìn thấy một anh lính, tay cầm chiếc bọc lớn. Anh lính giới thiệu : Cháu là bạn cùng đơn vị với con trai của bác. Cháu đến tặng bác một “món quà trong đêm Giáng Sinh”. Anh lính bước vào nhà và kính cẩn mở gói quà bọc rất cẩn thận ra. Người cha vẫn chưa hết ngạc nhiên. Anh lính nói: “Con trai bác đã kể rất nhiều về niềm đam mê nghệ thuật của bác và anh ấy. Cháu tặng bác một bức tranh, mặc dù nó không đep như những kiệt tác trên thế giới, nhưng cháu nghĩ bác sẽ rất thích.”

Thì ra anh lính này là họa sĩ. Anh tặng ông bức chân dung cậu con trai của ông do anh vẽ. Người cha nhìn ảnh người con trai; từng nét mặt, nụ cười và tia nhìn ấm áp của người con như đang nhìn ông trìu mến; khiến ông xúc động mà không cầm được nước mắt, ông nói: “Đối với tôi, đây là một kiệt tác, là một bức chân dung vô giá. Cậu không biết là đã tặng cho tôi một món quà, một niềm an ủi lớn như thế nào đâu..”

Sau khi tiễn anh lính ra về, người cha không rời khỏi hình ảnh người con nửa bước. Ngay ngày hôm sau, bức chân dung được treo lên vị trí trang trọng nhất trong phòng trưng bày tranh.

Hơn một năm sau, người cha bị bệnh và qua đời.

Giới nghệ thuật háo hức chờ đợi ngày những kiệt tác nổi tiếng thế giới của ông được đem ra bán đấu giá. Theo nguyện vọng của người cha, cuộc đấu giá sẽ tổ chức vào ngày lễ Giáng Sinh. Vì theo ông, đây là ngày đem lại ý nghĩa thiêng liêng nhất của cuộc đời ông.

Cuối cùng ngày đó cũng đến, các nhà sưu tập tranh khắp thế giới tụ tập về nhà ông – nơi tổ chức cuộc đấu giá – để mong có được một vài tác phẩm trong bộ sưu tập tranh nổi tiếng và giá trị của hai cha con.

Thế nhưng, cuộc đấu giá bắt đầu bằng một bức tranh không hề có trong danh sách các tác phẩm danh tiếng trên thế giới. Đó là bức chân dung của người con trai.

Người điều khiển cuộc đấu giá yêu cầu khai mở cuộc trả giá, mọi người trong căn phòng im lặng. Người điều khiển nói:

“Ai trả giá bức tranh này 100 đô la?”

Nhiều phút trôi qua không có ai lên tiếng trả giá cho bức tranh đó. Giới sưu tầm tranh còn yêu cầu bỏ qua bức chân dung và hãy đấu giá những bức tranh giá trị kia. Mọi người đều hưởng ứng đồng tình … nhưng người điều khiển cuộc đấu giá trả lời:

“Không, chúng tôi phải bán bức tranh này trước. Nào ai sẽ mua bức chân dung người con trai này??”

Vẫn không có tiếng trả lời.

Cuối cùng, một ông lão – bạn của người cha – ngập ngừng lên tiếng :

“Anh sẽ bán cho tôi bức tranh với giá 10 đô la chớ? Tôi … tôi… chỉ còn bấy nhiêu tiền thôi.”

Người điều khiển cuộc đấu giá hô to: “Có ai trả giá cao hơn không??”

Không khí trong phòng vẫn im lặng.

Trả giá lần thứ nhất…

Trả giá lần thứ hai….

………. Chấm dứt ..

Bức chân dung người con trai đã được bán với giá 10 đô la – Tiếng người điều khiển vang lên khẳng định. Tiếng búa vừa gỏ xuống, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Có người reo mừng, có người nôn nóng nói: Thôi nào, hãy tiếp tục đấu giá những kiệt tác kia đi. Chúng tôi chờ đợi lâu rồi đấy!.

Nhưng người điều khiển cuộc đấu giá bỗng tuyên bố : Xin lỗi quý vị, nhưng cuộc đấu giá đến đây là kết thúc!

Mọi người sững sốt, nhiều người bực mình lên tiếng: Đã chấm dứt, ý ông muốn nói gì chứ? Chúng tôi đến đây không phải chỉ để đấu giá bức chân dung tầm thường đó, mà là những kiệt tác trị giá hàng triệu đô la kia. Chúng chưa được bán thì làm sao gọi là kết thúc được?

Người điều khiển cuộc đấu giá từ tốn trả lời: Chúng tôi tôn trọng di chúc của người cha quá cố. Theo ý nguyện của ông:

“Ai mua bức chân dung của người con trai, thì sẽ được thừa hưởng tất cả những bức tranh quý giá còn lại..!”

Đến lúc này, các nhà sưu tâp tranh mới vỡ lẽ và hiểu sâu sắc tấm lòng của người cha.

Tất cả tài sản, vật chất quý giá bao nhiêu cũng không bằng hình ảnh người con trong trái tim cha mẹ..!!

Tác giả: Hoa Phượng

#ƯớcMơViệtTân

Ảnh st Internet

MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT : QUẢ BÁO NHÃN TIỀN.

Bà nội ở nhà trông cháu ở nông thôn Hải Dương, tính tình hiền lành thật thà . Bố mẹ cháu làm công ty, gửi cháu để bà ở nhà trông . Chỉ vì hộp sữa thừa cháu hút không hết vứt bỏ , bà lắc vẫn còn một ít, bà tiếc hút lại.

Nhưng vừa cầm lên hút thì bố cháu về .
– Con mua sữa cho cháu uống chứ có phải cho bà uống đâu, hóa ra cứ nói là mua cho con không ngờ toàn bà nội uống sữa của cháu.
– Không phải thế đâu con! Nó vứt đi rồi mẹ lắc thấy còn tiếc hút lại thôi.
– Bà bị bắt tận tay mà còn chối , không biết con tôi ở nhà có được bà cho ăn uống hay không nữa.

Nước mắt bà trào ra. Bà thanh minh mà người con trai một mực không tin. Bà thề bà mà như thế với cháu thì bà chết không nhắm được mắt .

Thằng con trai được đà chửi bà : ” Bây giờ bà muốn gì ? Sao bà không chết đi cho nhẹ nợ. Nuôi con đã khó khăn rồi giờ còn sữa cho bà thì lấy đâu ra . Cứ bảo sao tốn tiền sữa hôm nay mới biết vì sao”.

Bà khóc rất nhiều bế cháu đi chơi hàng xóm cũng bị người ta dè bỉu bà nội uống hết sữa của cháu . Bà nói với thằng con trai tao nhục không biết giấu mặt vào đâu bây giờ tao chỉ muốn chết thôi.
– Bà đi chết đi , để tôi chở bà đi chết .

Bao nhiêu cơn uất hận dồn lên, bà bảo :
– Mày chở tao ra sông lớn, tao nhảy cầu tự tử cho mày hài lòng .
Tưởng rằng thằng con trai biết ăn năn hối lỗi, ai dè nó chở xe máy đưa bà đi thật.

Nó chở bà qua mấy cầu nhỏ bà không muốn nhảy, nó rồ ga chạy xe đến cầu lớn rồi thách thức :
– Bà ngon thì nhảy đi tôi xem .
Nước mắt bà nghẹn ngào :
– Mẹ muốn chết được ở bên bố con , con chở mẹ về lấy ảnh bố được không ?
– Bà ở đấy đi, tôi về lấy được rồi !

Thằng con quay đầu xe với nét mặt hầm hầm, vun vút lao đi.

Bà ngồi trên cầu xót xa cho cuộc đời mình. Nuôi con một mình, miếng ngọt, miếng bùi nhường hết cho con. Bao năm tháng bà mò cua bắt ốc rồi làm ruộng vất vả để con được no đủ. Bà không nghĩ đến một ngày bà chết một cách ê chề tủi nhục như vậy. Nhưng sống còn ý nghĩa gì khi con nó đối xử như vậy với mình. Hơn thế nữa giờ mình già rồi, không làm gì được cho con cháu, sau này ốm đau nằm đó còn khổ hơn….Cứ miên man suy nghĩ, rồi trời sầm tối dần .

Đã 5 tiếng trôi qua mà không thấy thằng con mang di ảnh của chồng tới. Bà thấy trong lòng bồn chồn, bà quyết định trở về nhà .

Bà về đến cổng đã thấy mọi người kéo đến nhà bà rất đông .
Thằng con bà phóng xe không để ý đường, đã tông vào xe khác, văng ra và đập đầu xuống đất, chết vì dập não .

Bà không giận nổi con nữa, mà trào lên một nỗi xót thương vô bờ . Bà ôm lấy xác con gào khóc, “cũng tại mẹ đã hút hộp sữa thừa của cháu mà ra nông nỗi này …”
Bà đã ở lại trông cháu chứ không có ý định tự tử nữa .

Đây là câu chuyện đáng để chúng ta suy ngẫm về đạo làm con . Mẹ luôn là người hy sinh tất cả cho con cháu. Luật nhân quả xảy ra ngay và luôn chứ không phải lâu gì .

@ Mình chỉ mong tất cả những người con & những người cháu đọc được bài này !

(ST)

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen

Chiếc xe đạp – Truyện ngắn hay

Vào năm 1951, tôi lên 9 tuổi. Vì gia đình quá nghèo, tôi đến xin bác Miceli nhận tôi vào việc phát báo sau giờ học cho một số gia đình ở vùng phụ cận thành phố Chicago (thuộc bang Illinois, Hoa Kỳ). Bác Miceli là chủ thầu phát tờ nhật báo American’s Herald. Bác đồng ý với điều kiện tôi phải có chiếc xe đạp.

Thân phụ tôi làm đến 4 nghề. Ban ngày Ba làm việc ở công xưởng. Ban chiều, Ba đi bỏ hoa cho các tiệm bán hoa. Ban tối Ba lái taxi cho đến nửa đêm. Vào ngày thứ bảy, Ba đi từng nhà để quảng cáo các bảo hiểm. Ba mua cho tôi một chiếc xe đạp cũ. Vừa mua xong, người ngã bệnh nặng phải vào nhà thương, chưa kịp tập cho tôi đi xe đạp.

Thật ra bác Miceli không hỏi tôi có biết đi xe đạp không. Bác chỉ hỏi tôi có xe đạp không. Do đó tôi dắt xe đạp đến cho bác xem. Bác nhận tôi vào số những đứa trẻ phát báo cho bác.

Tôi mang chiếc bị sau lưng và đặt các tờ báo trên ghi-đông xe đạp rồi dắt xe đi trên lề đường. Nhưng dắt chiếc xe đạp chất đầy báo, quả là cực hình! Sau vài ngày phát báo như thế, tôi đổi chiến thuật. Tôi bỏ xe đạp ở nhà và mượn cái giỏ đi chợ có bánh xe lăn của Mẹ. Tôi bỏ báo vào giỏ rồi kéo giỏ đi phát báo cho từng nhà.

Nếu trời mưa hay có tuyết rơi, tôi cẩn thận lấy áo mưa của Ba phủ lên giỏ, để báo khỏi bị ướt. Tôi mất rất nhiều giờ để phát báo với chiếc giỏ đi chợ của Mẹ. Trong khi đó, nếu tôi biết đi xe đạp, chắc hẳn sẽ nhanh chóng hơn.
Nhờ việc đi đến từng nhà bỏ báo, tôi bắt đầu gặp gỡ và quen biết hầu hết các khách hàng. Phần đông họ là người di dân thuộc nhiều sắc tộc khác nhau như Ý, Đức và Ba Lan. Có điều đặc biệt là ai ai cũng dễ thương và cư xử rất tốt với tôi.Khi rời nhà thương về nhà, Ba tôi đi làm trở lại. Nhưng vì còn yếu nên người chỉ làm một công việc ban ngày mà thôi. Trong khi gia đình chúng tôi càng ngày càng lâm cảnh túng thiếu. Sau cùng, Ba Má quyết định bán chiếc xe đạp cũ của tôi. Vì chưa biết đi xe đạp nên tôi không ngăn cản cũng chẳng than trách gì! Trong vòng 8 tháng phát báo, tôi nâng con số khách hàng từ 36 lên 59. Khách hàng mới thường do khách hàng cũ giới thiệu, hoặc đôi lúc gặp tôi trên đường đi, họ xin ghi tên vào danh sách khách hàng của tôi.

Từ thứ hai cho đến thứ bảy, cứ mỗi tờ báo phát đi, tôi lãnh được một cắc. Riêng Chúa Nhật, tôi lãnh được 5 xu. Tôi thu tiền báo vào mỗi chiều thứ năm và giao tiền cho bác Miceli vào ngày thứ sáu. Mỗi lần thu tiền như thế, tôi nhận được tiền huê-hồng từ 5 đến 10 xu. Do đó, đôi khi tiền huê-hồng của tôi cũng cao bằng tiền bán báo của bác Miceli. Thật là điều may mắn, vì Ba tôi còn yếu chưa làm nhiều việc nên chưa kiếm nhiều tiền. Tôi giao tất cả tiền lãnh được cho Mẹ.

Ngày thứ năm Vọng Lễ Giáng Sinh, 24-12-1951, như thường lệ, tôi đi phát báo và thu tiền nơi từng nhà. Nơi căn nhà đầu tiên, tôi bấm chuông cửa, nhưng không ai trả lời. Tôi sang căn nhà thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư .. Cũng chẳng trông thấy một ai. Tôi đi gần hết các nhà khách hàng nhưng không ai trả lời cho tôi. Tôi bắt đầu lo lắng thực sự.

Tôi tự nhủ:
Lạ thật, ngày mai là Lễ Giáng Sinh, vậy mà không người nào trả lời cho mình cả? Chẳng lẽ mọi người đều đi phố mua sắm vào buổi chiều Vọng Lễ Giáng Sinh sao?
Do đó, khi đến căn nhà của bác Gordon, và nghe tiếng nói cùng tiếng nhạc từ trong nhà phát ra, tôi vui mừng vô kể. Tôi bấm chuông. Tức khắc cánh cửa rộng mở, bác Gordon tươi cười xuất hiện và kéo tôi vào phòng khách. Nơi đây, tất cả 59 vị khách hàng của tôi đều có mặt. Ở giữa phòng khách là chiếc xe đạp mới tinh, màu đỏ tươi như trái táo chín! Trước ghi-đông xe, lủng lẳng cái bị đầy ứ các phong bì.

Còn đang bỡ ngỡ thì bác gái Gordon vừa chỉ chiếc xe đạp vừa nói:

Đây là món quà Giáng Sinh cho cháu. Tất cả các bác chung tiền mua cho cháu. Trong các phong bì có thiệp Giáng Sinh, tiền báo và tiền huê-hồng cho cháu.
Tôi ngạc nhiên đến độ không thốt được lời nào. Tôi đứng im không nhúc nhích. Sau cùng, một bác gái khác ra hiệu xin mọi người im lặng. Bác dẫn tôi vào đứng giữa phòng khách và nói:

Cháu là đứa bé phát báo tuyệt vời nhất của các bác. Không một ngày nào báo thiếu hoặc báo đến trễ hay báo bị rách, bị ướt! Tất cả các bác đều trông thấy cảnh cháu đi trong mưa, đi dưới tuyết, còng lưng kéo cái giỏ đi chợ đầy báo! Do đó các bác nghĩ rằng cháu cần phải có chiếc xe đạp để đi phát báo.

Tôi vô cùng xúc động và chỉ biết ấp úng hai tiếng CÁM ƠN. Rồi tôi nói đi nói lại nhưng cũng chỉ nói được hai tiếng CÁM ƠN mà thôi.

Khi về nhà, tôi cẩn thận mở các phong bì. Tôi đếm được tất cả 100 mỹ kim tiền huê-hồng!

Ngày Lễ Giáng Sinh năm đó, gia đình tôi mừng Lễ Giáng Sinh với trọn ý nghĩa, trong vui tươi và no ấm!!!

Riêng tôi, tôi không bao giờ quên món quà Giáng Sinh và bài học mà các bác khách hàng trao tặng tôi vào ngày Vọng Lễ Giáng Sinh năm ấy:

Bạn hãy ngẩng cao đầu, đem hết tâm lực làm việc, dù cho công việc của bạn hết sức khiêm tốn như nghề phát báo, bỏ báo chẳng hạn ..

(Câu chuyện của ông Marvin J.Wolf, người Mỹ)

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen


 

Người Mẹ của biên giới sống và chết-LM Nguyễn Tầm Thường-Truyện ngắn có thật

Xin chia sẻ với bạn một câu chuyện thật ý nghĩa và cảm động vào dịp Giáng Sinh về một gia đình vượt biển tị nạn đã trải qua nhiều đau khổ, chia lìa của cuộc đời tị nạn.

*****

Người Mẹ của biên giới sống và chết

[Trích trong sách “Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục” của Nguyễn Tầm Thường, bút danh của Linh mục Nguyễn Trọng Tước, Dòng Tên]

Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu…

Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos tiền Philippines.

Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh… Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ.

Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót. Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này.

Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa bé, toàn ghe có thể chết.

Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong. Ðau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu ? Vợ chồng mỗi người một ngả… Ðứa con mất tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi.

Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha già gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già nghe chuyện ông mất con.

Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc của tôi là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện…

Câu chuyện bắt đầu.

Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong. Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển vì hơn ba tháng sau mới nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.

Ðó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Những lần giảng trong Thánh Lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông… Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.

Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới được định cư? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu tìm? Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.

Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ Hongkong?

Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu tứ chiếng.

Các thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Ti Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand. Ðợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy người đàn ông cứ dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh… Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và tiếng chuông mỗi chiều là bao.

Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết bao người đã không tới bến… Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.

Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến. Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila điện xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé.

Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số ghe đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam.

Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền mọi sinh hoạt trong gia đình kia là của cháu. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.

Ðể thỏa mãn điều kiện kia, Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui như vậy mà ông cứ đứng như trời trồng không tin chuyện có thể xảy ra như thế.

Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không biết mình. Tất cả ai cũng khóc… Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm nhân loại của con người với con người.

Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì chết đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết. Ðối với thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm?

Ðây là lý do:

Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế…

Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ Bề Trên Dòng. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa. Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói: “Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.”

Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. Chính vì thế tôi đặt tên cho bài viết này là: “Người Mẹ của biên giới sống và chết.”

Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.

Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.

Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện tình này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia. Không ngờ vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.

Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà Thờ nhỏ miền quê độc nhất. Ðêm Noel năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về, em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác.

Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của những bà mẹ.

Tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.

Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết, còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ?

Chiều, ở một tiệm vàng-Truyện rất ngắn

(Trên mạng)

Ông chú trạc tuổi ba mình, cũng gầy gò y vậy, bước vào, tần ngần tháo kim băng trên túi áo, lấy ra một gói nhỏ. Mở mấy lớp giấy, tháo nốt chiếc khăn tay cuối cùng, chú đưa đôi bông tai nói muốn bán. Anh chủ cân xong, báo hai triệu tám.

Chú lại tần ngần hồi lâu “Dạ thôi, tui hông bán đâu. Tui xin lỗi”.

Thằng Hải xen vào “Tiệm này làm ăn đàng hoàng lắm chú, họ không ép chú đâu”.

– Dạ không phải tui chê. Chỉ là tiếc quá đó cậu ơi.
Rồi chú dắt xe đạp xa về.
Xuống lòng đường được mấy thước, chú dắt xe quay vào. Lần này, chú bán.
Cầm tiền, chẳng buồn đếm, chú thất thểu bước ra về. Vừa quay mặt đi, lại đứng chôn chân ngẩng mặt lên trời. Nhưng cuối cùng cũng không ngăn nổi, chú khóc.
Sau vài cái xoa vai an ủi, chú mở lòng với tôi. Vợ chồng chú lấy nhau không có đám cưới, cô vất vả cả đời cũng chẳng có nổi phân vàng để đeo cho có với người ta. Đâu chừng mười năm trước, ráng lắm, chú cũng sắm cho cô được đôi bông vàng 18 hơn chỉ. Cô mừng lắm, quý lắm. Nhưng đeo được mới chừng nửa năm, cô mất. Chú giữ nó như một kỷ vật quý giá và duy nhất của cô, của nghĩa vợ chồng. Cả năm nay chú bệnh nhiều, không làm được gì, đắn đo mãi mà vẫn ráng giữ. Nhưng nay đành bấm bụng bán đi, lấy tiền mua thuốc…
– Thôi không sao đâu. Chú đừng buồn nữa. Đứng đây đợi con một chút.
Quay vào tiệm “Anh ơi, em muốn mua lại đôi bông tai chú mới bán”.
– Em đợi chút, anh đánh bóng lại cho.
– Không cần đâu. Em mua để tặng lại chú ấy mà…
Nói thêm vài câu, kể lý do, ảnh biểu đưa ảnh triệu tư thôi. Coi như mỗi người góp một tay…
Cuộc đời này, thiệt nhiều người rộng lòng.
Nhìn đôi tay chú run run khi được cầm lại đôi bông, tôi nhớ ba mình quá chừng. Cái lần cầm chiếc nhẫn vàng đầu tiên do thằng con tặng, ba cũng run hệt như vầy.
ST

* Khi cha cho con, cả hai đều cười; khi con biếu cha, cả hai cùng khóc.

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen


 

SỨC NẶNG CỦA LỜI CẦU NGUYỆN …-Truyện ngắn

 

Một phụ nữ bước vào cửa tiệm tạp hóa lớn, cô ngó quanh dáo dát rồi đến bên quầy tính tiền nói với ông chủ.

– “Thưa ông, tôi cần mua một ít thức ăn, nhưng tôi không có tiền ngày hôm nay. Ông có thể cho tôi mua chịu được không? Tôi hứa sẽ đem tiền đến trả ngay khi sớm nhất có thể“, cô cuối đầu ngượng ngùng nói.

– “Oh, không được đâu. Tôi đâu biết cô là ai? Làm sao tôi có thể bán chịu cho cô khi cô chưa từng là khách quen ở cửa tiệm tôi?“, ông chủ lắc đầu.

Nước mắt lưng tròng, người phụ nữ van xin:

– “Chồng tôi bị bệnh nặng, không thể đi làm được. Chúng tôi có 5 đứa con, và chúng đang rất đói. Xin ông hãy rủ lòng thuơng giúp đỡ cho một lần này thôi. Tôi hứa khi có tiền sẽ đem đến trả ông ngay!“

Ông chủ tiệm chỉ tay ra phía cửa nói:

– “Cô vui lòng ra khỏi đây ngay. Đừng cản trở tôi mua bán chứ. Khách đang xếp hàng sau lưng cô kia kìa …“

Từ phía sau người phụ nữ, một người đàn ông nãy giờ đã nghe 2 người đối thoại bước lên. Ông nói:

– “Hãy để tôi ứng tiền cho cô ấy, ông cứ để cô ấy lấy những gì cô ấy cần.“

Người chủ tiệm nhìn 2 người, lưỡng lự một chút, rồi ông ta chợt nảy ra ý tưởng hay. Ông hỏi người phụ nữ:

– “Cô có biết cô cần mua gì không? Nếu biết thì hãy viết ra giấy đưa cho tôi.“

Người phụ nữ mừng rỡ nói:

– “Vâng, thưa ông. Tôi sẽ viết ngay đây.“

Nhưng ông chủ tiệm lại tiếp:

– “Viết xong đưa tờ giấy đó cho tôi, tôi sẽ bỏ lên bàn cân này. Nó nặng bao nhiêu thì cô cứ lấy những gì cô cần cho đến khi đủ. Tôi sẽ không tính tiền những gì cô lấy!“. Ông chủ tiệm cúi xuống gầm lôi lên bàn một cái cân to tướng, và chỉ vào một phía.

Người phụ nữ và ông khách phía sau ngạc nhiên trước thái độ ông chủ, nhưng cô không còn lựa chọn nào khác. Người phụ nữ lục trong túi xách một mảnh giấy nhàu nát, cô run run viết lên tờ giấy đó … Rồi cô gấp đôi tờ giấy lại đưa cho ông ta.

Ông chủ tiệm nhếch mép cười, rồi bỏ tờ giấy lên một bên cân. Nhưng lạ thay, mảnh giấy từ từ chìm xuống cho đến đụng đáy trước sự ngạc nhiên của 3 người. Người phụ nữ vội đi gom thức ăn bỏ vào bên thau bên kia, nhưng dù cô có bỏ lên bao nhiêu, phía bên tờ giấy vẫn không nhúc nhích. Ông chủ tiệm nhìn kỹ 2 bên cân, nhưng rõ ràng nó không có gì khác thường …

Cho đến khi thau đồ đã đầy, ông chủ tiệm đành để người phụ nữ ôm túi đầy thức ăn bước ra tiệm mà không thể tính tiền trước sự ngạc nhiên của người khách lạ.

Ông chủ tiệm lật hẳn cái cân lên coi, thì ra phía dưới một bên cân đã gãy. Ông tức tối nhặt tờ giấy người phụ nữ gấp lại mở ra để xem cô đã lấy đi những gì của ông, thì ra cô chẳng hề viết list đồ cô cần mua, mà chỉ vỏn vẹn có giòng chữ:

« Lạy Chúa, Người biết chúng con đang cần gì, con xin phó thác tất cả trong tay Người. »

Ông chủ tiệm nhắm mắt ngước lên trời, giờ thì ông đã hiểu …

Bạn, xin hãy đừng đánh giá thấp một lời cầu nguyện. Chỉ có Chúa mới biết được lời nguyện cầu nặng bao nhiêu.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

MỘT CUỘC TÌNH TUYỆT ĐẸP – Vĩnh Chánh – Truyện ngắn

Vĩnh Chánh

Từ lâu, tôi muốn viết câu chuyện đời của một cặp bạn thân tình, nhưng mãi chưa có cơ hội. Nay nhân dịp kỷ niệm 50 năm đám cưới của anh chị, tôi không thể chần chờ viết lên đôi dòng, xem như một món quà gởi đến đôi bạn mừng ngày Lễ Vàng vào đầu tháng 12, 2023.

Anh Nghê Minh Hiệp sinh và lớn lên tại Saigon, trong một gia đình có thân phụ là một sĩ quan từng phục vụ các Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh, với chức vụ sau cùng là Thiếu Tá thuộc SĐ 21 BB, và 3 người anh em cũng là quân nhân, với người anh cả phục vụ trong Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, người anh kế là một phi công trực thăng, và người em rể cũng là một phi công trực thăng võ trang – cả 2 người này đều tốt nghiệp phi hành từ Hoa Kỳ. Do sống gần thân phụ, Hiệp chuyển trường nhiều lần, học qua các trường trung học Vĩnh Bình và trung học Tống Phước Hiệp, ở Vĩnh Long. Sau khi đậu Tú Tài vào năm 1968, Hiệp tình nguyện đầu quân vào Không Quân VNCH khi anh vừa tròn tuổi 19. Vào năm 1969, Hiệp được gởi sang Hoa Kỳ học bay.  Tháng 11, năm 1971, sau khi hoàn tất chương trình học lái máy bay phản lực trong một năm rưỡi, Hiệp trở về Việt Nam, và được đưa ra Đà Nẵng phục vu Phi Đoàn 516, lái khu trục phản lực A 37. Cuối năm 1972, Hiệp được điều vào Biên Hòa học lái chiến đấu cơ phản lực F5. Xong khóa học vào tháng 3, 1973 Hiệp nhận sứ vụ lệnh trở về lại Đà Nẵng, phục vụ Phi Đoàn 538 Hồng Tiển, một phi đoàn F5 vừa mới thành lập của Sư Đoàn 1 Không Quân.

Chị Nguyễn Thị Anh Ngọc sinh và lớn lên từ Đất Thần Kinh trong một gia đình có thân phụ trong quân đội, với chức vụ cuối cùng là Trung Tá, chánh văn phòng cho Trung Tướng Vĩnh Lộc tại Quân Đoàn II, Pleiku, trước khi hồi hưu mấy năm sau. Vì thân phụ là quân nhân di chuyển thường xuyên, nên Anh Ngọc cũng phải chuyển trường nhiều lần từ tiểu học cho đến trung học, như là trường Đồng Khánh, Huế , trường trung học Pleiku, rồi về lại trường Thiên Hữu, Huế. Tôi từng biết Ngọc thời chị còn học ở trường Đồng Khánh; có nước da “mặn mà có duyên”, tóc ngắn, thường mặc áo đầm, nào là jupe serrée, jupe plissée, jupe taille haute, jupe trapeze… thay vì áo dài tha thướt của nữ sinh Huế. Tuy là con gái gốc Huế, nhưng Ngọc mang một phong cách tân thời, à la mode, với một chút tinh nghịch, một chút ngổ ngáo, linh hoạt, không tỏ vẻ e lệ, rụt rè – nói chung: không mấy Huế- ngoại trừ giọng nói, điều này minh chứng Ngọc từng sống nhiều nơi khi theo thân phụ.

Một phi công gốc Nam Kỳ, một thiếu nữ gốc Cố Đô, vậy thì duyên tơ hồng nào giúp họ gặp nhau. Không phải qua giới thiệu của bạn bè hay gia đình, không phải trong một buổi liên hoan hay tiệc tiếp tân, mà cũng chẳng phải làm quen với nhau trong một quán cà phê hay tình cờ nhìn thấy nhau trong một buổi chiều núp mưa trên đường phố. Cuộc tình duyên của anh Hiệp và chị Anh Ngọc được anh chị mô tả như một cuộc tình “Wrong Number”. Nghe qua thấy quá lạ, nhưng đây đúng là một chuyện tình diệu kỳ với sự bắt đầu có tính cách thần tiên. Năm 1973, ở tuổi 21, Ngọc là nữ thư ký cho một trại quân vận ở Đà Nẵng mà vị chỉ huy trưởng là cậu của mình. Ngoài giờ làm việc, nhất là vào khoảng giờ ăn trưa, Ngọc thường táy máy bốc điện thoại quân đội, vui đùa bấm các con số, để rồi gác máy xuống khi nghe tiếng trả lời ở đầu dây bên kia.

Vào một buổi trưa đẹp trời tháng 5, 1973, Nàng bấm một dẩy số lạ và ngay lập tức nghe tiếng trả lời nhanh gọn, với giọng Miền Nam rất hấp dẫn “Thiếu Úy Nghê Minh Hiệp, tôi nghe đây”. Vào lúc ấy, cậu của Nàng bước vào phòng trực điện thoại, lập tức Nàng gác máy. Khoảng 20 phút sau, điện thoại trước mặt Nàng reo lên, giọng nói đầu dây kia vang nhanh “tôi là Thiếu Úy Nghê Minh Hiệp gọi lại đây. Có phải cô là người vừa kêu tôi rồi tắt máy…” Thế là bắt đầu một trò chơi, hầu như mỗi ngày hai bên đều kêu điện thoại nói chuyện với nhau. Sau một tháng trên điện thoại, trước lạ sau quen, họ bằng lòng gặp nhau. Nàng chiếm trọn tim Chàng ngay phút ban đầu “lưu luyến ấy”.

Trong cuộc tình này, Chàng thật sự choáng ngợp trước vẻ đẹp duyên dáng, nhí nhảnh, tuơi trẻ của Nàng, dù Chàng phải làm quen dần với một giọng Huế ngọt ngào, thật đáng yêu nhưng khó hiểu. Trong bất cứ cuộc tình nào cũng phải có một người yêu người đối diện trước. Hiệp luôn công nhận, không những Hiệp tha thiết yêu Ngọc mà anh thật sự si mê người đẹp của mình. Từ giọng nói, dáng điệu, phong cách. Từ cách ăn mặc, cách ứng đáp tự nhiên, cách trả lời ngay thẳng, không giả bộ quanh co, ngây thơ vô tội vạ. Tuy nhiên, vốn là một phi công thường xuyên bay vào vùng trời chi chít đạn thù chớp nổ trong tiếng gầm thét của động cơ phản lực, dù Hiệp có thể xem nhẹ cái chết của chính mình, Hiệp vẫn phải đắn đo dậm chân tại chỗ khi nghĩ đến thân phận dấn thân vào chốn nguy hiểm của mình. Còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong vòm trời đầy lửa đạn, nơi mà sự sống chết đang chờ đợi trong từng mỗi phi vụ, nơi mà thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Và khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người phi công, nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc.

Gần nửa năm sau, Hiệp vụng về tỏ lời xin cầu hôn với Nàng. Không trả lời Chàng liền, Nàng về Huế hỏi ý kiến của thân mẫu. Nàng kể hết tất cả những gì mình biết về Chàng, về con người, tính tình của Chàng, về công việc về cách giao thiệp của Cháng, về gia đình của Chàng…Thân mẫu của Nàng lắng nghe, để chỉ hỏi một câu cuối cùng “nếu con không lấy được Hiệp thì con có muốn lấy ai khác không?” Nàng trả lời “Nếu không lấy được anh Hiệp thì con sẽ không lấy ai hết”. Trong thâm tâm của Nàng, chính Nàng đã ước nguyện chia sẻ nổi đau buồn của Chàng sau khi biết gia đình Chàng gặp phải nhiều biến cố mất mát đau thương liên tục; Nàng muốn choàng ôm Chàng, cho Chàng sức sống, hy vọng và niềm tin qua nguyện cầu sẽ có nhau mãi mãi trong cuộc đời. Như muốn dang đôi cánh thiên thần bảo vệ, chặt đứt vòng tử thần lởn vởn trên đầu người yêu. Nàng bất chấp nghĩ rằng mình có thể trở thành một quả phụ, như trường hợp một vài bạn thuở trung học của mình lấy chồng quân nhân. Không những đây là một mối tình tuyệt đẹp, mà còn là một mối tình sắc son. Hỏi ai trong chúng ta mà không biết đến bài thơ “Ôi, Saigon Giờ Giới Nghiêm” của nhà thơ Tô Thùy Yên, được nhạc sĩ Trần Thanh phổ nhạc “Chiều Trên Phá Tam Giang”

Giờ nàу thành phố chợt bùng lên
em giòng lệ bất giác chảу tuôn
nghĩ tới một điều em không rõ
nghĩ tới một điều em sợ không dám nghĩ
đến một người đi giữa chiến tranh
lại nghĩ tới anh… nghĩ tới anh…

https://youtu.be/XYEkuqfYDf4?si=uFNSBCOOQ6mE40cE

Trong một tâm trạng vừa hân hoan vừa xót xa cho hoàn cảnh có tang của gia đình, Chàng và Nàng chính thức trở thành vợ chồng vào đầu tháng 12, 1973, bằng một buổi cơm trong gia đình tại Đà Nẵng. Cô dâu không có áo cưới, vợ chồng không có tuần trăng mật. Khi về thăm quê chồng, Nàng được bà gia giới thiệu với bà con hàng xóm “nó không phải là người Dziệt, mà là người Wuế”. Khi Nàng mặc đồ ngắn đi chơi bên ngoài, bà gia cũng lấy làm lo lắng, sợ con dâu bị lạnh mà trúng gió!

Có lần ngồi cạnh nhau, nghe Hiệp tâm sự về gia đình mình, nhất là về cái chết của những người thân trong gia đình mình, tôi thật bàng hoàng, xúc động và xót xa, liên tưởng ngay đến chuyện phim nổi tiếng “Saving Private Ryan”. Người anh cả của Hiệp là người đầu tiên trong gia đình tử trận năm 1969, tại quận Bình Chánh, khi đang là một đại đội trưởng của Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, ngay trong thời gian Hiệp đang chờ du học phi hành tại Hoa Kỳ. Chỉ vài tháng sau khi từ Biên Hòa Hiệp về lại Đà Nẵng bay chiến đấu cơ phản lực F5, và cùng trong thời gian Hiệp bắt đầu làm quen với Ngọc, người anh thứ nhì của Hiệp, một phi công trực thăng thuộc Phi Đoàn 229 Lạc Long, bị chết cháy ngay tại ghế ngồi khi trực thăng do anh lái bị trúng đạn và rơi xuống vùng rừng núi tại Pleiku, vào tháng 6, 1973. Và không đầy 4 tháng sau, vào tháng 10, 1973, người em rể, vốn là một phi công trực thăng võ trang, thuộc phi đoàn 213 tại Đà Nẵng, tình nguyện bay chiếc trực thăng bị trục trặc động cơ về Đà nẵng, nhưng anh buộc phải hạ cánh chiếc trực thăng tại một vùng bất an ninh ở Quảng Ngãi, nên sau đó bị du kích VC địa phương sát hại bằng một nhát dao đâm vào cổ, trong khi đã bị thương và kẹt trong phi cơ.

Để trả lời câu hỏi của tôi vì sao gia đình Hiệp không xin cấp trên cho con trai duy nhất còn lại của mình được làm việc dưới đất thay vì tiếp tục bay để tránh nguy hiểm, Hiệp trả lời một cách can cường “đã là một Cánh Thép thì mãi mãi là một Cánh Thép cho Tổ Quốc – Không Gian”. Tuy nhiên, với lời thỉnh cầu của cha mẹ Hiệp, Bộ Tư Lệnh Không Quân cho vợ chồng Hiệp thuyên chuyển từ Đà Nẵng về Biên Hòa vào tháng 3, 1974, cho gần gia đình Hiệp, nhưng Hiệp vẫn tiếp tục bay chiến đấu cơ F5 trong phi đoàn  522 Thần Ưng của Sư Đoàn 3 Không Quân. Tại căn cứ Biên Hòa, gia đình bé nhỏ của Hiệp Ngọc gánh một nỗi đau nghiệt ngã. Con gái đầu lòng của vợ chồng, vì sinh thiếu tháng, được cho nằm trong lồng ấp điều hòa, có dưỡng khí. Vào một đêm căn cứ không quân Biên Hòa bị địch pháo kích, hệ thống điện được lệnh tắt. Lồng ấp sơ sinh không có điện, lại thêm người y tá trực không có mặt nên bé không có dưỡng khí để thở, bị ngột và chết. Với cái chết của bé sơ sinh này, đại gia đình của vợ chồng Hiệp Ngọc mất tất cả 4 sinh mạng. Vì chiến tranh. Ôi chiến tranh thật tàn nhẫn!!

Cận ngày 30 tháng 4, 1975, vợ chồng Hiệp Ngọc được di tản khỏi Viêt Nam. Họ sớm có công việc tạm ổn định trong thời gian đầu tiên tại Quân Cam. Nhưng có lẻ điều may mắn nhất – theo tôi nghĩ – là Hiệp Ngọc chọn Quân Cam làm nơi định cư vĩnh viễn, từ thủa lập nghiệp cho đến lúc về hưu. Và hiện tại. Qua sự nhận xét của tôi, Hiệp Ngọc không có nhiều tham vọng, họ chỉ chú trọng nuôi con khôn lớn, có một đời sống đơn giản, không đua đòi, vẫn ở tại một căn nhà mua từ giữa thập niên 80. Hiệp về hưu sau 36 năm làm việc cho hảng Mobil, đi từ nhân viên cấp nhỏ trong phân sở bảo trì cho đến chức vụ cuối là Supervisor về Planning; Ngọc thì làm kế toàn cho một hảng tư.

Hiện tại Hiệp Ngọc có 3 cô con gái và 5 cháu ngoại. Sống hạnh phúc và sức khỏe. Đây là một cặp vợ chồng rất thuận hòa, đi đâu hay làm chuyện gì cũng tâm đầu ý hợp, luôn có nhau bên cạnh, du lịch nhiều nhất trong những bạn “giang hồ” mà tôi từng biết, có thể cả 1/3 thời gian trong năm. Họ đi cruises nhiều chuyến, đi du lịch thế giới, du lịch khắp nước Mỹ, thăm gia đình định cư tại Úc, về VN hằng mỗi năm, thăm gia đình ở Saigon, Cà Mau (là gốc của đại gia đình phía Hiệp), thăm gia đình ở Huế…

Tính tình Hiệp Ngọc rất hòa nhã, thoải mái, cởi mở và hào phóng; vợ chồng luôn hành xữ đẹp, tử tế và tận tình với bạn bè, và vô cùng hiếu khách, luôn tạo cơ hội để mời mọc họp mặt vui chơi với nhau, nên căn nhà của Hiệp Ngọc là nơi thường xuyên tụ tập của các bạn Không Quân của Chàng, bạn thời trung học của Nàng, nhất là trong các cuối tuần, các dịp Tất Niên, Tân Niên, mừng sinh nhật, July 4th, Veteran Day…Khi mùa Đông đến, Hiệp Ngọc thường hay mời vài ba cặp bạn lên Big Bear ở nhà mình chơi tuyết. Nhìn Chàng và Nàng lã lước khiêu vũ trên sàn nhảy, chúng tôi rất ngưỡng mộ.

50 năm, một nửa của thế kỷ, là một khoảng thời gian quá dài để nhớ hết tất cả những gì đáng nhớ, nhất là khi đã trải qua những năm liền với quá nhiều biến cố trong chinh chiến, với sự mất mát của bao người thân trong gia đình, cơn đại nạn của đất nước và khi xây dựng lại cuộc đời trên xứ người. Nhưng 50 năm đã qua như một cơn gió thoảng. Có chăng để lại trong đời người nhiều kỷ niệm, nhưng có những kỷ niệm thật đáng nhớ mà ta gọi là hoài niệm không hề phai trong tâm cảm. Cũng vậy, trên đường đời, chúng ta gặp nhiều cảnh ngộ tốt xấu, nhiều bạn hiền trong các hội ngộ. Tuy nhiên có những hội ngộ đặc biệt để lại xúc cảm trân quý thì ta gọi là đó hạnh ngộ. Tôi ước mong Hiệp Ngọc sẽ mãi gìn giữ những hoài niệm chung, được xây đắp qua những cảnh ngộ, hạnh ngộ khó phai.

Từ những giấc mơ nhỏ nhoi, chúng ta đan thành những thực tế to lớn dần, thành công có, thất bại có. Để bây giờ khi mùa Thu tựa cửa cuộc đời, còn đâu nữa là những vấn vương lẫm cẫm.

Qua rồi là công danh sự nghiệp. Qua rồi là trách nhiệm với đời. Giờ đây chỉ lấy niềm vui gia đình con cháu làm lẽ sống, lấy tình bạn làm vui qua ngày và tìm đường mây rộng thênh thang để rong chơi. Nếu như vậy, Chàng nên ca bài “Anh Còn Nợ Em” hằng ngày và mỗi ngày. Và đừng quên đấm bóp, nắn chân, vuốt tóc cho Nàng mỗi đêm.

Xin được chúc mừng Lễ Hấp Hôn lần thứ 50 của vợ chồng Hiệp Ngọc với bài thơ sau đây:

“Vạn lý đường đời ta chung bước

Trường thành xây đắp tình thiên thu

Cùng nhau sánh vai cùng chung hướng

Khổ đau vui sướng mãi bên nhau”

Ngày 29 tháng 11, 2023

Vĩnh Chánh.


 

Tôi làm Mẹ- Truyện ngắn-Nguyễn Diệu Anh Trinh

Tác giả và con gái (ảnh tác giả gửi)

Người ta thường làm vợ rồi làm mẹ. Tôi bắt đầu thiên chức làm mẹ khi chưa được hãnh diện làm vợ như bao nhiêu phụ nữ bình thường khác. Bởi vậy đoạn đường tôi đi chông chênh, gập ghềnh hơn.

Lần đầu tiên tôi đi khám thai ở phòng mạch của bác sĩ Minh Dung, nữ bác sĩ danh tiếng về sản khoa ở Đà Nẵng, một mình với cái bụng lum lúp. Khuôn mặt tôi còn trẻ thơ dù năm ấy tôi đã hăm lăm tuổi. Thấy tôi ứa nước mắt cúi mặt, không trả lời khi bà thăm hỏi xã giao vài câu về gia cảnh. Vị nữ bác sĩ dày dạn kinh nghiệm như ngầm hiểu được phần nào cái éo le của người thai phụ đơn độc. Bà đã cho tôi những lời khuyên thân mật, đầy nữ tính. Tôi man mán nhớ bà nói mấy câu không ăn nhập gì đến việc khám thai, từa tựa như lời dạy Đức Phật: “Con người ta sống ở đời, nhất là phụ nữ cần phải có lòng nhân hậu. Gieo hạt nào thì hái được quả đó em ạ. Không ai trồng cây cam mà hái trái khổ qua đâu!”

Tôi rời phòng khám, mang theo lời khuyên của vị bác sĩ nhân từ, như những hạt cam đang gieo mầm trong lòng tôi. Nước mắt quanh bờ mi. Rồi tôi đến phòng sanh, đớn đau, bất hạnh, leo lên bàn sinh vượt cạn một mình, không có má tôi cạnh bên để tôi có thể níu tay mà rên rỉ: “Con đau quá má ơi!”. Bé chào đời lúc sáu giờ sáng một ngày mùa hè, tôi còn nhớ chính xác như thế vì ngay khi tiếng khóc oe oe vang lên cùng với lời reo của cô y sĩ “A, con gái…”, tôi nghe văng vẳng từ loa phóng thanh treo bên cổng trạm hộ sinh, “Đây là tiếng nói đài phát thanh…, bây giờ là 6 giờ sáng”…

Con tôi ra đời khoẻ mạnh bụ bẫm. Tôi vụng về ẵm con gái, cảm giác thương yêu tràn ngập. Bé cân nặng hơn bốn ký. Đôi mắt trong vắt, tròn xoe, hai mí, không nhắm nghiền như những bé sơ sinh khác mà mở lớn, ngơ ngác nhìn tôi như phó thác sinh mạng bé nhỏ vào tay tôi. Tôi đã đánh đổi mạng sống của mình cho sự ra đời hoàn hảo ấy, suýt mất mạng vì một trận băng huyết dữ dội sau khi sanh.

Ba của bé, người đàn ông đầu tiên trong cuộc đời tôi, người không thể cùng tôi đi chung chuyến đò duyên nợ, với lý do “lý lịch, thành phần gia đình… không được chấp nhận”… Hôm nghe tin nhắn, anh vội vàng có mặt ngay đêm hôm đó, cũng vụng về khi ẵm con. Anh nói, con bé giống anh cái bàn tay, bàn chân và cả vành tai nữa. Anh chia sẻ với mẹ con tôi nguyên đêm dài hôm đó, đưa cho tôi thêm ít tiền trang trải viện phí, ẵm bé để tôi ngủ yên giấc. Sáng hôm sau, khi tiếng loa phóng thanh ở cổng trạm xá chưa kịp vang lên tiếng gọi tập thể dục, anh đã ra bến xe trở về Đà Nẵng, hối hả, vội vàng, như không muốn kéo dài giây phút luyến lưu từ biệt. Chỉ một đêm, đó là thời gian dài nhất trong đời mà con gái tôi được cận kề ba nó, kể từ đó đến tận bây giờ.

__________

Tôi quyết định đem con về Đà Nẵng, ở chung với gia đình mình, bắt đầu đoạn đường dài một mình ôm nuôi đứa con thơ dại. Chén cay, chén đắng cuộc đời, tôi một mình nếm lấy. Năm 1985, thời kỳ mở cửa, việc buôn bán tương đối thoải mái, tôi buôn bán đủ thứ, thức khuya dậy sớm, để con có được miếng ngon, cái đẹp như người ta. Tôi còm cõi tàn tạ ra sao không cần biết, miễn sao con tôi no đủ đẹp đẽ. Có thời tôi làm thuê cho một quán cơm ở gần ga Đà Nẵng, lương tháng mấy chục bạc, tôi dè sẻn mua mấy quả cam sành để dành vắt nước uống cho con có chất vitamin C. Mới dùng được một quả, tuần sau dòm lại thì nguyên bịch cam đều vàng úng, chảy nước. Tôi cất kỹ quá, trong khi mùa hè Đà Nẵng trời rất nóng. Tự trách mình ngu ngốc, tôi vất mấy quả cam vào thùng rác mà nước mắt chảy dài.

Tôi nuôi con trong chật vật không thể tả, với những dòng nước mắt âm thầm hằng đêm những ngày đông lạnh, và những giọt mồ hôi đẫm ướt áo những buổi trưa mùa hè, khi tôi cọc cạch chở sách báo đi bỏ mối cho các quày bán lẻ. Bụng tôi lúc nào cũng đói meo và tim óc rối tung vì nợ nần chồng chất. Bù lại, con bé càng lớn xinh đẹp và thông minh, có lúc đoạt giải “Bé Đẹp, Bé Ngoan” của thành phố. Bé mang họ mẹ; tên và nghề nghiệp cha trong tờ khai sinh thì ghi: “Con ngoài giá thú”! Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ nhắc đến hoàn cảnh ra đời của bé với giọng oán hờn, cũng như tôi không bao giờ gieo vào tâm hồn thơ dại của con tôi hình ảnh không đẹp về người cha.

___________

Thế rồi, trong tận cùng vực thẳm của nghèo khổ và đói ránh, một điều kỳ diệu đã đến với số phận tôi. Hai mẹ con vui mừng khóc hết nước mắt khi được nhân viên Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn bắt tay chúc mừng thông báo chúng tôi được định cư Hoa Kỳ, theo chương trình ra đi vì nhân đạo (HO) của Ba tôi, sau khi ông nằm tù hơn 10 năm. Đó là mùa Hè 1994. Đến Mỹ, như một trang vở mới, con tôi, mới mười tuổi, bắt đầu làm quen với ngôn ngữ và văn hóa mới. Tôi ra sức làm việc. Bạn bè quê nhà ai cũng chúc mừng nhưng không ai biết tôi kiệt lực như thế nào. Phải, tôi đi làm quên cả trời đất. Mỗi sáng tôi đón xe bus, rồi qua mười trạm tàu điện, đổi hai tuyến xe bus khác mới đến được chỗ làm. Trời lạnh buốt, vớ mang không đủ ấm, tôi phải dùng bao nylon để bọc hai bàn chân trước khi xỏ vào giày…

Mùa Noel đầu tiên nơi đất khách, con tôi được nhận nguyên một xe truck đầy quà, gồm áo quần, sách vở, giày dép, đồ chơi… do chính cô giáo Mỹ chở đến tận nhà. Thì ra mấy tuần trước, khi bé đến trường trong cái áo đầm hồng do một cơ quan từ thiện tặng, cô giáo nhìn thấy sự nghèo nàn qua bộ đồ ngủ mà bé đi học, nên đề nghị nhà trường cho bé phần quà nhiều nhất trong trường. Tôi còn nhớ hôm đó trời lạnh lắm, cô giáo phụ chúng tôi mang quà vào nhà. Con tôi leo lên tấm nệm nhảy nhót reo mừng “Má ơi, bữa nay là ngày con sung sướng nhất. Trời ơi, nhiều đồ chơi quá, nhiều áo quần quá…”. Cô giáo trìu mến ôm con tôi; và cũng như tôi, cô khóc!

Thay đổi vài nơi làm việc, từ dọn phòng khách sạn cho đến thư ký văn phòng bác sĩ, sau đó chúng tôi dọn nhà lên hướng Bắc của tiểu bang. Tôi được nhận vào làm cho một nhà in, khâu đóng gói. Bàn tay tôi do cứ làm nặng một động tác nên bị giãn gân, ngón tay giữa cứng đơ không cử động được. Tôi phải đi phẫu thuật.

Tôi làm việc nặng nhọc ở khâu đóng gói trong nhà máy in được chừng bốn, năm năm. Hơn bốn mươi tuổi, mỗi ngày đi làm về hai vai tôi nhức mỏi không thể tả, đôi chân đứng suốt ngày như tê dại, tôi biết sức mình khó có thể tiếp tục lao động nặng nhọc như những di dân khỏe mạnh Nam Mỹ. Nhân dịp nhà in cho công nhân đi học thêm tiếng Anh có ăn lương, tôi ghi tên đi học lại. Con gái lúc này đã có thể giúp tôi ít nhiều bài làm ở nhà. Xong khóa học, tôi làm đơn xin ban giám đốc nhà in cho tôi làm việc khác, và được chấp thuận. Từ đó tôi thoát cảnh làm việc lao động nặng, lương ít và bấp bênh.

___________

Tôi muốn con tôi biết giá trị đồng tiền nên tôi cho con đi làm thêm sau buổi học và một ngày cuối tuần. Tôi không hề nghe con bé kể lể hay than khổ. Nó cũng hỏi han gì thêm về ba nó. Tận trong lòng, nếu con tôi có ý muốn tìm hiểu, tôi sẽ nói rất thật lòng, ba mẹ vì không nợ duyên nên ông trời sắp đặt ở hai hoàn cảnh khác nhau, không ai có lỗi và không ai oán hờn ai. Chuyện qua lâu rồi. Ba con bây giờ trở thành cố nhân, và không nên để chuyện đời xưa làm buồn những giây phút vui tươi hiện tại.

Một mình dạy con, chao ơi là khó! Ngày xưa không đủ cơm no áo ấm, tôi ra sức làm lụng. Ngày nay tôi hiểu, tạo cho con một đời sống sung túc gay go như thế nào thì việc chăm sóc vấn đề tinh thần, đạo đức còn khó gấp trăm lần. Với tôi, cách dạy con cụ thể nhất là phải làm gương cho nó, không thể dùng lời nói suông. Nhất là phải làm sao cho có uy tín, có một chỗ đứng trong lòng đứa con, để khi vui con có thể chia sẻ với mình và khi buồn hay vấp ngã thì con cũng biết tìm về mẹ để giãi bày.

Ngày tháng trôi qua, có khi êm đềm và hiền hòa như mặt hồ không gợn sóng, có khi cũng cuồn cuộn dữ dằn như cơn bão ngoài biển khơi. Tình cảm con người có khi lắng sâu, có khi bột phát. Con gái tôi có khi khát khao, có khi bất cần. Tuy vậy, dù cứng rắn mạnh mẽ, cá tính đến bao nhiêu đi nữa thì chúng tôi vẫn không che giấu được nỗi khắc khoải trong ánh mắt khi tình cờ bắt gặp đâu đó trong cuộc sống hàng ngày vài khoảnh khắc tỏ bày cảm tình của một người cha đối với đứa con nhỏ.

Nhu cầu được yêu thương như một cái bóng cứ đi theo chúng ta mãi suốt cuộc đời. Chúng ta có thể tự ra đời bươn chải, tự tìm miếng cơm để nuôi thân nhưng yêu thương thì khác. Phải có quan hệ qua lại lâu dài, không thể nào một giờ một khắc, một buổi nói chuyện là có thể tạo nên cảm tình sâu đậm. Dòng sông trăm nhánh đều xuôi ra biển cả, giọt nước mắt nào cũng rơi xuống, tình thâm máu mủ ruột rà từ bậc sinh thành nào cũng luôn trao xuống các con, núm ruột của mình.

Ngày con tôi dọn ra ở riêng, tôi giúp con bằng tất cả khả năng tôi có, về vật chất lẫn tinh thần. Tuy vừa đi học, vừa đi làm nhưng con bé cũng dành dụm mua được một căn nhà nhỏ, mới mẻ và xinh xắn, ở gần nhà tôi. Con bé tánh tình tự lập, đoạn đường đời ngắn ngủi mà con tôi trải qua cũng đôi lần vấp ngã. Hai mẹ con lúc nào cũng có nhau, chuyện vui buồn đều chia sẻ như hai người bạn thân. Tôi thật xúc động mỗi khi nghe con bé thỏ thẻ tâm sự và dĩ nhiên khi con có chuyện buồn, tôi là người đau xót và chảy nước mắt trước.

Tôi làm mẹ, một người mẹ chưa hoàn hảo bởi tôi đã không cho con tôi một đời sống tình cảm đầy đủ như bao nhiêu đứa trẻ khác. Trong khi tôi hãnh diện biết bao về người cha của mình thì con tôi lại khiếm khuyết cái thâm tình phụ tử. Tôi làm mẹ, dẫu hết lòng hết sức, nhưng vì một chọn lựa sai lầm của trái tim, tôi đã phải là một người mẹ cô độc trong những tháng năm con tôi lớn làm người. Do vậy, con tôi chưa bao giờ được hưởng thụ cảnh đầm ấm của một mái gia đình sum họp.

Người ta nói, những đứa trẻ thiếu chỗ dựa tinh thần của người cha thường dễ tủi thân. Đúng vậy, con tôi dễ mủi lòng. Cá tính mạnh mẽ bên ngoài không thể nào che hết sự mềm yếu trong tâm hồn. Điều này tôi thấy được rõ ràng và đó là điều khiến lòng tôi ray rứt. Dù thê nào, tôi luôn hãnh diện với đứa con ngày nó tự lực bước ra đời, ra ngoài vòng tay bảo bọc của tôi mà vẫn biết cư xử có tình có nghĩa. Một hình hài hoàn hảo và một tấm lòng vì mọi người. Cuộc đời làm mẹ của tôi từ ngày đứa con gái chào đời cho đến khi nó quyết định rời khỏi vòng tay mẹ ra đời tự lập cứ hiện ra, tới lui trong lòng tôi như một cuốn phim dài nhiều tập.

Muôn nẻo đường đời từ quê nhà đến quê người, bao kỷ niệm, bao nụ cười, và bao nhiêu đắng cay…, tất cả tôi đã nếm trải và tôi xem đó là tất cả hành trang mà tôi mang theo cho đến ngày nhắm mắt.

Atlanta, GA

Nguyễn Diệu Anh Trinh