Thằng Ngụy Con – Tác giả: Ngô Viết Trọng

Tác giả: Ngô Viết Trọng

Nguồn: Chim Về Núi Nhạn

Khi bị chuyển về khám đường Bà Rịa, tôi bị nhốt vào một căn phòng rất nhỏ. Trong phòng ấy đã có sẵn một người: ông Đoàn. Cửa phòng là một bửng sắt khá dày, bị sét rỉ toàn bộ, chứng tỏ nó đã khá lâu đời. Sét rỉ đã xoi tấm cửa này thủng nhiều lỗ cỡ đầu ngón tay. Đặc biệt có một lỗ dưới cùng rộng có thể thò lọt cả bàn tay. Những lỗ đó đã cho chúng tôi chút ánh sáng trong căn phòng ít khi được mở này.

Một hôm tôi đang rầu rĩ bỗng nghe nhiều giọng nữ xôn xao bên ngoài. Tôi chạy lại cửa dán mắt vào mấy lỗ thủng. Thì ra phòng tù nữ ở gần phòng tôi được cho ra tắm giặt. Thật là một cảnh sinh hoạt rộn ràng. Tiếng gàu thau chạm nhau rổn rảng, tiếng người thúc giục nhau, chen lấn cãi cọ nhau ỏm tỏi. Họ giặt đồ, tắm rửa, chải tóc, phơi quần áo….trông ai cũng làm việc với vẻ gấp rút. Người quá đông mà chỉ có hai cái giếng, thì giờ cho phép lại giới hạn, nên họ sợ hết phần…

Tôi bỗng giật mình khi thấy một thằng nhỏ từ trong hiên nhảy ra. Nó chạy vụt lại phía hai con vịt xiêm đang rỉa lông cho nhau trước cửa phòng tôi làm chúng hoảng hốt bay xa một đoạn. Một người đàn bà gọi với:

– Không được nghịch, mẹ đánh đấy!

Thằng nhỏ đứng lại. Qua giây phút hoảng hốt, đôi vịt lại tiếp tục rỉa lông cho nhau. Thăng nhỏ khoảng chừng ba bốn tuổi, trắng trẻo, kháu khỉnh làm sao! Tại sao nó lại lọt vào chốn tù ngục này? Nó làm sao chịu được cảnh thiếu ăn, thiếu bạn bè, thèm khát đủ thứ, ngày ngày ru rú trong một căn phòng chật hẹp với không khí ngột ngạt, hôi hám ấy? Tâm tính nó sẽ ra sao về sau?

Thằng nhỏ có vẻ khoái đôi vịt xiêm lắm. Nó đang say sưa ngắm chúng thì mẹ nó gọi trở về phòng. Nó vừa đi vừa ngoái cổ nhìn lui làm mẹ nó phải giục mấy lần. Tôi quay lại hỏi ông Đoàn:

– Bên phòng nữ có một thằng nhỏ dễ thương quá! Vì sao nó phải vô trong này ông biết không?

Ông Đoàn nói:

– Nghe đâu cha nó là một viên thiếu tá đã đi Mỹ còn mẹ nó là một nhân viên Thiên Nga. Khi tôi vô đây đã thấy có nó rồi! Lúc đó nó mới biết đi lẫm đẫm.

Tôi tức cười thốt lên:

– Sau này có thể nó phải ghi vào lý lịch: Mới một tuổi tôi đã phải sống trong khám đường…

Mấy hôm nay tôi chỉ được phát mỗi ngày hai vắt nhỏ bột sắn xay chia làm hai bữa với một ít canh cải bẹ xanh mặn chát. Không hiểu thằng nhỏ có được phát tiêu chuẩn khẩu phần không hay phải ăn vào phần của mẹ nó? Tôi nói:

– Thằng nhỏ mặc sức mà thèm đường thèm sữa!

Ông Đoàn cười:

– Ông khỏi lo! Mấy ngày thăm nuôi nó được cán bộ thả đi lung tung, người ta cho nhiều quà lắm. Ngay tại phòng nó lại có rất nhiều người đã từng làm mẹ, làm chị, chẳng ai nỡ để một đứa nhỏ dễ thương như thế đói đâu! Tôi đã từng thấy một con chó mẹ nằm cho mấy con mèo con bị mất mẹ bú. Thiên tính thương trẻ của các bà làm mẹ hẳn còn cao hơn nhiều!

Tôi cảm thán:

– Vậy sao? Hoá ra nó lại sướng hơn lũ con tôi! Tôi có ba thằng con, thằng út có lẽ cũng cỡ tuổi nó. Khi tôi đi tù nó mới vừa đúng một tuổi, chưa biết đứng. Trước kia mình đâu biết dành dụm lo xa, khi vào tù tôi chẳng có chút gì để lại cho vợ con cả. Nghĩ đến cảnh một người đàn bà chân yếu tay mềm phải chạy vạy để nuôi sống ba đứa con giữa lúc này tôi đau ruột lắm Nhưng ăn năn cũng muộn mất rồi!

Mấy hôm sau phòng tù nữ lại được mở cho ra tắm giặt. Thằng nhỏ sau khi tắm rửa xong lại chạy sang trước phòng tôi. Không thấy đôi vịt, nó ngồi vào bậc thềm lưng dựa vào cửa phòng. Tôi thò ngón tay ra lỗ thủng chọt vào lưng nó một cái. Nó giật mình nhỏm dậy quay lại:

– Hết hồn!

Tôi lấy làm thú vị khi nghe một thằng tí hon lại dùng cái tiếng “hết hồn” có vẻ người lớn đó. Biết tôi đùa, thằng nhỏ lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôi hỏi:

– Cháu tên gỉ?

– “Ngụy con”!

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– Chú hỏi cháu tên là gì?

– “Ngụy con”!

– Ai đặt tên ấy cho cháu?

– Mấy chú cán bộ!

– Thế mẹ cháu không đặt tên cho cháu à?

– Có, mẹ cháu đặt tên “con”, mấy chú cán bộ thì kêu “ngụy con” rồi các cô dì trong phòng cũng kêu cháu là “ngụy con”!

Trời đất ơi! Cái tên này có thể tạo một ấn tượng khó đoán khi thằng nhỏ khôn lớn! Tôi định hỏi vài câu nữa nhưng nó đã bị mẹ nó gọi về phòng.

Rồi ngày thăm nuôi đến – ngày đó coi như ngày Tết của khám đường. Các phòng giam đông người đều được mở cửa suốt thời gian cho thăm để người ta tiện đưa đồ thăm cũng như dẫn dắt những người được gặp mặt người thân ra vào. Những người được ra gặp người thân phải mặc đồ lành sạch. Ai không có phải đi mượn đồ của người khác. Vì vậy, ngày thăm nuôi tù vẫn ăn mặc sáng sủa khác hẳn ngày thường. Các cán bộ cũng dẹp bớt cái vẻ nghiêm khắc hàng ngày để hồ hởi thưởng thức những hơi khói thơm… Những người không được thăm cũng vui hơn vì ít nhất cửa phòng mở họ cũng hưởng được chút ánh sáng và không khí dễ thở. Họ cũng có thể hưởng ké được chút quà tươi hoặc sớt được phần ăn tiêu chuẩn của những người được thăm không dùng tới. Những phòng ít người phần nhiều đang bị kỷ luật, ít được thăm, cửa đóng im ỉm, nhưng ít nhất ngày đó họ cũng yên trí không bị cán bộ quấy rầy. Nói chung, trong ngày thăm nuôi, bất cứ ai đang sống tại khám đường cũng chia được ít nhiều niềm vui, dù chỉ là niềm vui tạm bợ giữa một hoàn cảnh bất hạnh. Kẻ hưởng được hạnh phúc thật sự hoạ chăng chỉ có một người: “thằng ngụy con”!

Trong lúc cán bộ và tù trật tự bận rộn mang đồ thăm hoặc dẫn tù đi gặp người thân thì thằng nhỏ tung tăng chạy hết phòng này đến phòng khác. Nó rất khôn, cứ gặp cán bộ lại cất giọng lảnh lót “chào cán bộ” thật dễ thương. Vì thế không ai la rầy, cản trở nó cả. Tôi nghĩ chính thằng nhỏ là một nhân tố làm giảm bớt vẻ ngăn cách giữa cán bộ và tù. Đến đâu nó cũng được tiếp đón nồng hậu, quà cứ nườm nượp vào tay nó. Bao nhiêu lần nó sung sướng ôm đầy quà trên tay: bánh tráng, cốm bắp, kẹo…về giao cho mẹ nó. Trông nét mặt hớn hở của nó vào những lúc ấy ai mà chẳng vui lây!

Rồi một tháng trôi qua, lại đến kỳ thăm nuôi. Hôm ấy trời mưa lâm râm và có gió hiu hắt. Tôi lại dán mắt trước cửa hưởng ké niềm vui của mọi người. Thằng nhỏ lại thả sức tung tăng đi nhận quà. Thấy trời hơi lạnh, lại sợ con bị ướt nên mẹ nó đã cẩn thận bận thêm cho nó một cái áo mưa bằng nylon khá gọn. Lần ấy, có lẽ vì quà tặng hơi nhiều, thằng nhỏ lại không biết sợ lạnh, nó cởi cái áo mưa làm đồ đựng. Khi nó đang ôm bọc quà hí hửng chạy về phòng thì gặp Sơn, một cán bộ nghiêm khắc nhất khám đường. Gã tươi cười đón nó lại:

– “Ngụy con” có nhiều quà quá, chia cho chú với nào!

Thằng nhỏ lính quýnh giẫm vào chỗ đất trơn, té oạch một cái làm quà văng lung tung. Sơn cúi xuống lượm giùm. Xong, gã vờ bốc lấy một gói giấy, bảo:

– Gói này cho chú xin nghe!

Thằng nhỏ tưởng thật hoảng hốt:

– Không được đâu! Gói này không được đưa cho cán bộ coi!

Nghe thằng nhỏ nói hơi lạ tai, Sơn nghi ngờ mở cái gói ra xem. Gã bỗng trừng mắt đạp vào ngực thằng nhỏ một cái ngã ngửa. Thằng nhỏ nằm lặng một hồi mới khóc ra tiếng. Ai nấy chới với chưa hiểu chuyện gì thì nghe tiếng Sơn nạt lớn:

– Đ.M. đồ cái giống nguỵ ra khác, chưa ráo máu đầu đã học phản động!

Quay lại phía anh tù trật tự, Sơn hét:

– Bắt nó quỳ dưới cột lưới bóng rổ!

Lập tức thằng nhỏ bị lôi dậy, kéo đi. Liền đó Sơn dẫn một anh tù trật tự khác đến phòng B5. Gã đứng trước cửa hoạnh hoẹ hỏi chuyện. Lát sau một anh tù vừa mới được thăm nuôi hồi sáng bước ra khỏi phòng. Sơn bắt anh tù đứng nghiêm rồi tha hồ đấm đá. Anh tù nhiều lần bị ngã nhưng Sơn lại bắt đứng lên để đấm đá tiếp. Trong chốc lát anh tù đã xác xơ, rục rã. Nhưng Sơn vẫn chưa tha, gã còng cắp cánh tay anh ta lại rồi sai người đưa vào phòng kỷ luật.

Trời vẫn mưa lâm râm, gió vẫn hiu hắt. Thằng nhỏ vẫn quỳ dước chân cột lướí bóng rổ. Sơn vẫn tiếp tục ra vào kiểm soát việc thăm nuôi.

Quá nóng ruột, người mẹ phải liều vói mặt ra khỏi phòng van xin chéo véo. Nhưng Sơn cứ phớt lờ, cả giờ sau gã mới chịu cho thằng nhỏ về phòng. Người nó lạnh như cục nước đá, run lập cập, nói không thành tiếng….

Buổi tối, khi đưa cơm vào phòng tôi, Sơn cảnh cáo:

– Các anh coi chừng, chớ lợi dụng “thằng ngụy con” để thông tin tức với nhau! Dù là chỉ hỏi thăm sức khoẻ tôi cũng trị trắng máu ra!

Giờ thì tôi đã hiểu là anh bạn tù ở phòng B5 đã phạm nội quy của khám đường. Về sau tôi được biết rỏ hơn là anh này đã gởi quà với mấy lời nhắn cho một người quen ở phòng tù nữ. Vụ trừng phạt ấy cứ lởn vởn ở trong đầu tôi suốt đêm. Tội nghiệp thằng nhỏ đã bị đòn lại phải chịu đựng ướt lạnh suốt mấy giờ.

Hôm sau, khoảng tôi đã phải thức giấc bởi tiếng kêu cứu từ phòng tù nữ:

– Báo cáo cán bộ A5 có người bệnh nặng!

Tôi giật mình: biết đâu lại là thằng nhỏ? Tiếng từ phòng trực hỏi lại:

– Nặng bao nhiêu ký?

Tiếng kêu cứu từ phòng nữ có vẻ khẩn thiết hơn:

– Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người sắp chết!

– Nghe rồi, đợi đó giải quyết!

Chừng nửa giờ sau tôi nghe có người nói chuyện ồn ào trước sân. Có lẽ cán bộ y tế đã đến. Rồi cả khám đường yên ắng trở lại. Gần sáng tôi lại bị ông Đoàn đánh thức:

– Ông nghe gì không?

Tôi lắng tai để nghe. Trời ơi, rõ là tiếng kêu khóc thảm thiết của một người đàn bà:

– Con ơi con, sao nỡ bỏ mẹ mà đi như thế con ơi! Con tôi chưa đầy ba tuổi đã biết gì đâu mà phản động, đau đớn lắm trời ơi!…

Tôi giật mình thở dài: Trời ơi, thằng nguỵ con!

Liền đó tôi nghe tiếng nạt nộ:

– Để con bị sưng phổi không chiụ lo báo cáo sớm, bây giờ không để người ta chôn cất còn khóc gào đổ thừa cho ai?

Tiếp đó tôi lại nghe nhiều tiếng nấc nghẹn ngào…

NGÔ VIẾT TRỌNG. 

From: T. Nguyen

Người Đưa Thư -Truyện ngắn- Nguyên Nhung

 
Nguyên Nhung

Thời gian mới định cư ở Hoa Kỳ, khi đến cư ngụ khu chung cư nhiều người Việt tôi đã thấy ông ta! Đó là người đưa thư, có bộ râu hung hung xồm xoàm viền quanh miệng, khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một ông già Santa Claus mỗi mùa Giáng-sinh!!! Nụ cười hiền, đôi mắt xanh mông mênh màu biển, ông là người đều đặn mang niềm vui cho đám cư dân sống ở chung cư, đa số mới từ Việt-Nam sang, thường ngóng những cánh thư ở quê nhà!

Ông ta trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh, khó đoán tuổi cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó! Mỗi buổi chiều, khi chiếc xe của Bưu-Điện chạy vào con dốc đầy ổ gà, nơi đặt mấy thùng thư đã thấy có người đứng đợi. Đa số là người già, không biết làm gì cho hết ngày, đi lấy thư cũng là một cái thú!!! Ông ta bỏ thư vào từng hộp thư của mỗi nhà trong xóm, xong lái xe đi, không quên giơ tay vẫy mấy đứa trẻ đang chơi đùa trên khoảng sân trống.

Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm tã, tôi thấy người đưa thư ngừng xe trước cửa căn chung cư, rồi chạy ào vào hiên gõ cửa, đưa cho tôi một lá thư. Lá thư của người bạn học từ Việt-Nam gửi sang, đề trúng tên người gửi và địa chỉ “zip-code”, nhưng thiếu số nhà của căn chung cư, không hiểu sao ông ta lại biết là của tôi. Chính vì thế mà tôi biết ông đọc được tiếng Việt, lại còn quen cả tên của người nhận thư, rồi vì sợ thư không đến tay người nhận, thay vì trả lại cho Bưu-Điện, ông mang thư đến thẳng nhà tôi!

Hôm ấy trời bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa ngớt, bầu trời xám xịt khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt. Tôi cảm động nhận lá thư từ tay ông, nhìn ông ướt át trong chiếc áo mưa màu vàng, những bụi mưa còn đọng trên mái tóc đã ngả bạc với bộ râu hung hung viền quanh miệng. Ông hỏi, bằng tiếng Việt:

“Xin lỗi, có phải tên cô không?”

Tôi ngạc nhiên, vì lần đầu nghe ông ta nói tiếng Việt, chực nhớ lại bà con trong khu chung cư, gặp nhau ngoài thùng thư vẫn hay nói chuyện này nọ về xứ Mỹ và người Mỹ, có lẽ ông đã nghe được cả. Tôi nhận đúng là tên mình, rất cảm kích vì tấm lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy mưa vẫn như trút nước, rặng cây ven đường như mờ mịt đi dưới màn mưa trắng xóa. Tôi hỏi ông, bằng tiếng Anh:

“Ông có vội lắm không? Mời ông vào nhà chơi, mưa lớn quá!”

Ông nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói một câu thành ngữ tiếng Anh:

“It’s raining. . . cats and dogs…”

Đoạn ông ta nói bằng tiếng Việt:

” Mưa lớn quá, giống như mưa ở Việt-Nam!”

Tôi mở to mắt nhìn ông thán phục:

“Ông nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?”

Người đưa thư giơ tay vuốt những giọt mưa trên tóc, trên mặt, giọng thoáng một niềm vui, thật xa vời:

“Từ Việt-Nam. Tôi đã từng ở Việt-Nam, cách đây ba mươi năm. Việt-Nam luôn ở trong trái tim tôi!”

Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người Mỹ nào cũng học qua, nhưng sao ở người đàn ông này, tôi không thấy sự giả dối! Một lần nữa, tôi mời ông vào nhà, không khách sáo, trước khi bước vào căn phòng ấm, ông tháo đôi giày để ngoài cửa, giọng dí dỏm:

“Người Việt thường cởi giày trước khi vào nhà, có phải vậy không?”

Ngạc nhiên vì câu hỏi của ông, một người Mỹ hiểu cả thói quen của người Việt, thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải tha thiết với xứ sở của tôi nhiều lắm, tự nhiên tôi thấy có cảm tình với ông! Như hai người đồng hương đã lâu không gặp nhau, ông thổ lộ:

“Tôi nhớ Việt-Nam nhiều lắm, nhớ ‘người’ Việt-Nam lắm!!!”

“Người Việt-Nam” ở đây thì nhiều lắm, sao ông lại nói câu ấy với nhiều cảm xúc trong ánh mắt mà tôi có thể nhìn được. Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được bài trí theo kiểu Á-Đông, ông dừng lại một bức tranh trên tường vẽ cảnh mùa Xuân, con ngõ nhỏ với hai hàng mai nở vàng thật đẹp.

Ông thảng thốt reo lên, giọng lơ lớ:

“Đấy có phải là hoa mai?”

Tôi gật đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ sở của mình:
“Ồ! Ông cũng biết hoa mai? Nó là loại hoa biểu-tượng cho mùa Xuân ở quê-hương tôi, và chỉ nở vào mùa Xuân!”

Ông gật đầu, đôi mắt xanh thoáng một nét bâng khuâng, nhìn theo những sợi mưa nghiêng nghiêng đan nhau trong khung trời mờ tối:

“Tôi biết, vì cô ấy tên Mai, Mai là tên người yêu của tôi, cô học-trò bé nhỏ!”

Hình như ông xúc động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi cũng ngạc nhiên không ít, khi khám phá ra mối tình của người đưa thư, một mối tình có lẽ rất đẹp mấy chục năm trước vẫn ấp ủ trong trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi!

Buổi chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người, nghe câu chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi cảm thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn rất Việt-Nam, cả cái không-khí lãng-đãng một chút ngậm-ngùi theo từng giọt mưa rớt xuống hàng hiên ẩm-ướt! Trong khi chờ mưa ngớt hạt, người đưa thư bồi-hồi kể tôi nghe chuyện tình của ông ba mươi năm trước…

***

David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California. Vùng đất phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều cánh đồng trồng rau và trái cây, đủ cung cấp cho hầu hết các tiểu bang của Hoa-Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh em, cả nhà sống trong một trang trại trồng hoa quả vùng ngoại ô, David có bản chất một người đồng quê rất hiền lành và thật thà, yêu thiên nhiên!

Học hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để tiếp tục việc học. Sau bốn năm Đại Học, vốn bản tính hiền lành, thích làm việc thiện, David tình nguyện sang Việt-Nam làm công tác giáo dục và thiện nguyện! Do đấy, chàng có một thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung tâm Việt Mỹ, dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi!

Lúc ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi hai tuổi. Trước khi sang Việt-Nam, chàng được học tiếng Việt sáu tháng, cho nên lúc đến Việt-Nam chàng đã bập bẹ nói được những câu xã giao thông thường với người bản xứ.! Năm David tới Việt-Nam, chiến tranh đang thời kỳ leo thang, nhưng ở thành phố tương đối người dân vẫn sống trong yên bình, chưa nhìn thấy bao nhiêu sự đe dọa của chiến tranh.

David chỉ ở Sài-Gòn một thời gian ngắn, sau đó được đưa về Cần Thơ. Chính nơi này, thành phố thơ mộng ven bờ sông Hậu, đã khiến David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết thương lòng!

David đã có dịp đi lại mấy lần trên nẻo đường mang nhiều sắc thái miền Tây Nam Phần, đó là quốc lộ 4.

Những cánh đồng lúa bát ngát, những vườn cây xanh, những mái tranh nghèo khuất sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu phù sa, lắc lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích nhất những chuyến phà qua sông Hậu-Giang, nhất là khi chiều về, vài cọng hoa lục bình màu tím lênh đênh trên sóng nước. Phong cảnh Việt-Nam thật lạ lẫm, mới mẻ nhưng gần gụi biết bao, không hiểu sao khi nhìn thấy miền đồng bằng sông Cửu-Long lần đầu tiên, David đã cảm thấy yêu mến vùng đồng bằng, êm ả như vùng quê nơi chàng sinh trưởng, dù mỗi nơi đều có nét khác biệt nhau!

Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ ở thành phố, không đối diện với chiến tranh như những người lính Hoa-Kỳ tham chiến ở Việt-Nam, và cũng không hề giao tiếp với giai cấp phụ nữ bám theo đoàn quân viễn chinh! Cho nên, những ngày dạy học tại Trung Tâm Việt Mỹ, David thật thơ ngây khi lần đầu tiên trong đời, chàng đã trao trái tim mình cho cô bé Việt-Nam, Mai là một cô học trò rất chăm chỉ, ngoan hiền trong lớp học căn bản của Trung Tâm này!!!

Mai đẹp lắm, ít là dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á-Đông rất ưa nhìn. Mái tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn, nét ngây thơ dịu dàng của cô con gái Á-Đông khiến con tim chàng trai Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn thức vì nhớ thương! Như câu ca dao Việt-Nam, “Yêu ai yêu cả đường đi lối về”, David cũng yêu cái mênh mông của dòng sông Cửu-Long, yêu hàng dừa lơi lả nơi bến sông, nhìn những đợt sóng nhấp nhô vào những buổi hoàng hôn, David tưởng như nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc, hiền hòa, vui tươi và đầy thiện cảm! Mỗi buổi sáng, David say sưa ngắm nhìn những tà áo trắng bay bay như những cánh bướm, trên chiếc xe đạp thong thả của đám nữ sinh mỗi buổi đến trường. Cả thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông đảo, đàn bà xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy rau quả, những đứa trẻ con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh hình như chưa hiện diện nơi đây. David có được những tháng ngày thật tuyệt vời với công việc của mình, một biệt thự xinh đẹp tọa lạc trên con đường trung tâm thành phố.

Năm ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh cộng thêm nét ngây thơ của cô bé mới lớn, đã chinh phục trái tim ông thầy trẻ tuổi. Cách biểu lộ tình cảm của mỗi dân tộc có khác nhau, David không hề dấu diếm tình yêu của mình với cô gái trẻ, trong khi Mai cố tình né tránh, dù nàng rất có cảm tình với ông thầy vừa đẹp trai, lại rất hiền hậu nữa! Sau nhiều lớp ở Trung tâm Việt Mỹ, Mai là một học sinh xuất sắc được chọn là người phụ giáo cho những lớp học vỡ lòng, trong thời gian này hai người cùng làm việc chung, David càng thấy gần gũi nàng hơn!!!

Với bản tính thẳng thắn của người Mỹ, David tỏ tình và đề cập với Mai về chuyện hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn giản như bao cuộc hôn nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều làm cho David đớn đau hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối kết hôn với chàng, nguyên nhân chỉ giản dị là không cùng chủng tộc, cha mẹ nàng coi đấy là điều không thể chấp nhận, dù David là một chàng trai học thức! David không hiểu tại sao Mai không quyết định được chuyện hôn nhân của mình, dù rằng Mai cũng cảm thấy mình yêu thương chàng trai Mỹ tóc vàng, mắt xanh hiền lành ấy!!! David thắc mắc thì Mai chỉ im lặng thở dài, rồi cho chàng biết những gia đình Việt-Nam bảo thủ, không bao giờ chấp nhận chuyện con cái kết hôn với người ngoại quốc!

Sống ở Việt-Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt-Nam, học được cách cư xử của người Việt, David hoàn toàn chấp nhận tất cả những đòi hỏi theo phong tục, tập quán người Việt; nhưng vẫn bị từ chối! Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi dân tộc này, trong cái thân thiện bên ngoài hình như họ vẫn dấu kín những thành kiến bí ẩn, có lẽ đã ăn sâu vào gốc rễ trong tâm hồn họ. Không lấy được Mai, nhiều lúc thất vọng đến chán chường, David còn muốn tìm cái chết để quên đi hình bóng diễm kiều của cô gái Việt!

Cuối cùng, bị khủng hoảng tinh thần, David không thể tiếp tục làm việc, với ý nghĩ một ngày nào đó Mai thuộc về người khác!!! David được hồi hương trước thời gian ấn định, lúc chia tay, lần cuối cùng gặp nhau, Mai đã khóc và nói với chàng:

“Nếu không được kết-hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy ai nữa!”

***
Câu chuyện tình của người đưa thư tưởng đến đấy là hết, bất ngờ David hỏi tôi:

“Tại sao dân-tộc cô lại có cái nhìn khe-khắt như thế? Một tình yêu khác chủng-tộc có phải là điều tội-lỗi?”

Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt nghĩa cho ông hiểu. Đúng, tình yêu tự nó đâu có gì tội lỗi, nhưng dưới con mắt lệch lạc của những người có nhiều thành kiến, họ vẫn không chấp nhận! David lại nói tiếp:

“Ba mươi năm nay tôi vẫn không quên điều đó, vẫn tìm-tòi văn-hóa Việt, và tôi hiểu tại sao dân-tộc Việt-Nam không tiến lên được! Trong một vấn-đề giản-dị đó, họ đã không có cái nhìn rộng-rãi, thì những vấn-đề lớn hơn, họ cũng khó mà thay-đổi!!!”

Tôi thở dài nói với David:

“Tôi nghĩ không chỉ người Việt-Nam chúng tôi mới có quan-niệm thiển cận như thế, ngay những người Mỹ, cũng đâu có thích con cái họ lấy một người không cùng sắc-tộc với mình! Hơn nữa người Việt-Nam lấy chữ hiếu làm đầu, cho nên ít khi chống đối lại Cha Mẹ, và họ chấp nhận điều ấy như là một thứ định-mệnh đã đặt để, ông thông-cảm cho! Nhưng thưa ông, đấy chỉ là những suy-nghĩ của thời-gian đó, bây giờ mọi điều đã thay-đổi!!!”
Giọng David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài hiên, ông nói:

“Cô có biết tôi đã đau-khổ biết bao nhiêu khi không lấy được Mai, tôi đâm ác-cảm với tất cả người Việt vì lối suy-nghĩ của họ! Khi về nước, lâu lắm tôi vẫn không quên được người con gái ấy, rồi lại nhớ đến câu nói cuối cùng của Mai nói với tôi, tôi không nghĩ rằng Mai đã thực-hiện được. Khi đất nước cô bị rơi vào tay Cộng-Sản, tôi vẫn hy-vọng là sẽ gặp Mai trong đám người Việt di-tản sang Hoa-Kỳ, nếu cô ấy chưa lấy ai thì trên xứ sở này, không ai cấm cản Mai kết-hôn với tôi cả!!!”.

Tôi ngắt lời David:

“Ông có gặp lại cô ta không?”

David gật đầu, đôi mắt xanh chợt buồn, để rồi lại toát ra một tia nhìn ấm áp:

“Có, tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là người dừng lại, vì Mai đã là một nữ tu đang săn-sóc cho đám trẻ mồ-côi đem từ Việt-Nam sang! Lần này tôi thực sự cảm thấy mình không có quyền theo đuổi con người cao-quý đó! Mai đã hy-sinh tình yêu, tuổi xuân để phục-vụ cho một nghĩa-vụ cao cả hơn, đấy là tình nhân-loại! Tôi vẫn yêu Mai, nhưng không có quyền giữ lấy nàng làm của riêng, khi nhìn thấy bản-chất cao đẹp trong tâm-hồn nàng!!!”

Giọng ông ta chợt bùi ngùi:

“Đồng thời, tôi cũng hiểu được ý-nghĩa lời nói của Mai, khi đã khóc và nói với tôi câu nói cuối cùng trước khi chia tay nhau! Nàng là người con gái Việt-Nam thuần- túy có những suy-nghĩ theo tính-cách của dân-tộc nàng! Nhưng trong tình yêu, tôi hiểu nàng cũng yêu tôi, thích-hợp với đời sống và việc làm của tôi, nhưng vẫn không dám chống đối lại Cha Mẹ! Để rồi cuối cùng, cô đã chọn con đường ấy; con đường phục-vụ cho tha-nhân!!!”

Đôi mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại hướng về bức tranh có những bông mai vàng óng ả treo trên tường, thật dịu dàng ông nói tiếp:
“Từ đấy, tôi muốn mình cũng như Mai, làm một điều gì đem lại niềm vui cho mọi người, dù rất nhỏ nhoi! Nếu không hỏi cô, có lẽ lá thư này sẽ bị trả lại cho người gửi, bạn cô mất đi một niềm hy-vọng, và ngay cả cô cũng mất niềm vui được đọc một lá thư! Bao nhiêu năm rồi tôi có nhiều cơ-hội để tìm một việc làm tốt hơn, nhưng tôi vẫn vui thích với nghề-nghiệp hiện-tại, khi nghĩ mình đã đem đến cho mọi người những gì họ chờ đợi, nhất là trong những mùa Lễ, Tết! Tôi cũng hiểu rằng từ miền đất xa-xăm nghèo khổ kia, họ đã phải tiết-kiệm như thế nào mới có đủ tiền để gửi một lá thư cho người phương xa!!!”

Tôi cảm động nghe ông ta nói, tự thấy xấu hổ với mình khi chính tôi có lúc đã rất hững hờ với những lá thư từ bên nhà gửi sang, cũng chỉ vì sợ phải giúp đỡ! Ngược giòng thời gian, tôi như nhìn thấy mình trong quá khứ, trong lúc cùng cực vẫn trông chờ một niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại không có được tấm lòng như người đưa thư này! Lúc ấy, nhìn đôi mắt xanh của ông ta, chòm râu hung hung viền quanh mặt, trông ông hiền hậu và dễ thương như ông già Noel đem niềm vui cho trẻ con mỗi mùa Giáng-Sinh!

Tôi nói với ông rất thành thật:

“Tôi cám ơn ông, một người Mỹ rất có tình với quê- hương tôi, dân-tộc tôi! Dù trước kia ông đã bị đau-khổ vì sự suy-nghĩ của họ!!!”

Mưa đã ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối xầm lại. David đứng dậy, ông còn phải trở về Bưu điện, đem theo những lá thư người trong chung cư nhờ ông gửi giùm. Ông chào tôi rồi mang đôi giày vào chân, mỉm cười nhìn những bóng đèn màu chớp tắt trên cây Giáng-Sinh ở góc phòng. Tôi nhìn theo người đưa thư bước ra đường, lòng dâng lên một niềm ấm áp cho dù đang là mùa Đông ở xứ người! Câu chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ. Tình yêu muôn thuở vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt lên trên đó, nó có một sứ mệnh thật cao cả khi người ta nhìn ra cái đẹp của nó, và sống với cái đẹp của tình yêu!!!

Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất Mỹ, Mai, cô gái Việt-Nam năm xưa, có lẽ nay đã đứng tuổi, vẫn hăng say phục vụ tha nhân trong lãnh vực của cô! Không biết cô có hiểu rằng, chính tình yêu của cô đã làm cho David, người đưa thư quen thuộc của khu chung cư, cũng đang đi con đường của người ông yêu tha thiết năm xưa, cũng với mục đích đem niềm vui đến cho mọi người! Giá tất cả thế-nhân đều nghĩ đến nhau với một tấm lòng như thế, thì có lẽ chiến-tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất!!!

Nguyên Nhung

From: Do Tan Hung& KimBang Nguyen 

HỒI TƯỞNG – Nguyễn Đình Phượng Uyển

Nguyễn Đình Phượng Uyển

CON GÁI NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

1/THUỞ BÉ

Mỗi chủ nhật, anh em tôi thường được bố mẹ chở đi chơi. Chỗ thường ghé nhất là quán kem Givral ở góc đường Tự Do và Lê Lợi. Chúng tôi được chọn món kem hay bánh ngọt mình thích, dù đó là phần mình ăn không hết. Mẹ tôi tiếc của, bảo lựa món nào hai đứa cùng ăn chung được. Thế là anh em cãi nhau loạn xị. Bố tôi chặc lưỡi “ Kệ ! Cứ để tụi nó lựa riêng đi” Mẹ tôi thở dài nhưng khỏi nói cũng biết là anh em tôi sướng đến phát rồ. Chủ nhật mà ! Nhiều khi chúng tôi còn được bố cho mấy đồng cắc để bỏ vào cái máy trong tiệm cho nó phát ra nhạc nữa. Ăn chán, các cụ dẫn chúng tôi qua công viên bên kia đường chơi , nơi có tượng một người lính mặt mũi đen sì, đầu đội nón sắt, tay cầm súng, dáng như đang tiến công. Hồi đó tôi sợ bức tượng này vì gương mặt rằn ri của người lính và vì nó to quá khổ so với đứa bé năm sáu tuổi như tôi. Bức tượng làm tôi nghĩ đến ông khổng lồ chuyên đi bắt con nít về ăn thịt trong truyện Cậu Bé Tí Hon.

Có khi chúng tôi được đi xem phim chưởng hay phim trẻ con nữa. Đến giờ tóc đã đổi màu, tôi vẫn còn nhớ cảnh Bạch Tuyết nằm chết trong hòm kính trong suốt rắc đầy hoa, xung quanh là Bảy chú lùn khóc tỉ tê hay chiếc áo đầm rực rỡ màu vàng Mặt Trời, lấp lánh màu trắng Mặt Trăng và lung linh màu xanh Biển của Công Chúa Da Lừa… Tôi mơ được gặp các diễn viên đó ngoài đời và mơ mình sẽ có những bộ váy đắt tiền ấy. Tối nằm ôm gối, tôi còn ước được nắm tay các chàng Hoàng Tử khôi ngô tuấn tú trong phim, rồi nhắm tít mắt lại cười rúc rích.

Saigon khi ấy, trước khi vào phim chính, người ta hay chiếu phim thời sự. Vài lần tôi nhìn thấy Bố mình trên màn ảnh trong khúc phim này. Số là ông được lãnh Giải Nhất Văn Học Nghệ thuật Toàn quốc của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nên người ta làm phóng sự. Tôi nhớ Bố tôi mặc complet đen, tóc bôi keo bóng loáng, chải ngược ra sau khoe vầng trán rộng, mắt kiếng gọng sáng, lên bắt tay Tổng Thống. Mấy anh em lao xao “ Bố kìa ! Bố kìa !” cốt để khoe với người chung quanh nhưng rạp đã tắt đèn, chả ai thèm quay nhìn lũ con nít.

2/TÁC PHẨM ÔNG ĐOẠT GIẢI “Áo Mơ Phai”, miêu tả chi tiết về quang cảnh Hà Nội. Chi tiết đến từng góc phố, từng con đường, từng mùi hương…

Hà Nội qua ngòi bút của ông đẹp như tranh thế mà Cộng Sản lại BỎ TÙ ông vì tác phẩm này. Giải thưởng từ tay Tổng thống có nghĩa là bố tôi nợ máu với Việt cộng nhiều hơn ai hết thảy.

Lẽ ra họ nên cám ơn bố tôi

-đã viết về cái đẹp ở Hà Nội, trong cả một cuốn sách, hàng trăm trang giấy

-mà ngay chính họ đã từng ở đến bao nhiêu đời vẫn không ra được cuốn nào.

-Họ gọi ông là nhà văn phản động.

-Họ thù hằn ông chưa đủ, họ thù luôn cả con cái ông.

Bà hiệu trưởng trường tôi, Hồ Thị Bảnh, đôi mắt trợn lộ nhiều tròng trắng, môi đen xì và làn da tai tái, làm tôi, dù bé con, đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ “Mắt trắng dã. Môi thâm sì. Da thiết bì.”.

Bà búi tóc củ tỏi, bọc trong miếng voan đen có kẹp tăm chặn sau gáy. Tạng bà thấp, chân vòng kiềng làm dáng đi có vẻ khập khiễng. Bà luôn mặc quần đen, loại vải khi đi đứng sẽ cọ vào nhau nghe sột soạt và mấy cái áo Bà Ba màu lạnh, có hai túi trước bụng. Giờ ra chơi hay trước giờ vào lớp, bà thường ngồi chồm hổm trước văn phòng, hai chân dạng rộng, một cánh tay thả lỏng trên một đầu gối, tay kia chống cằm, cùi chỏ đặt trên gối bên kia, lia mắt vào đám học trò. Trông bà ngồ ngộ so với các giáo viên khác vì họ luôn mặc đồ Tây, có cô giáo còn mặc áo dài đi dạy vào thứ hai đầu tuần, dù phải đạp xe hơn chục cây số.

Bà nói với học trò và phụ huynh trong trường rằng chị em tôi thuộc “Thành phần gia đình phản động, không nên quen biết.” Bà còn cài cắm ăng ten trong lớp để rình mò tôi.

Thời đó, đầu năm, trường bán rẻ hay phát cho học trò loại tập vở đen sì. Tập năm trước còn mấy trang chưa viết, tôi xé ra , đóng lại thành cuốn tập mới. Nếu có một quyển tập trắng, tôi kẻ thêm hai ba dòng ngoài lề để viết cho đỡ hao giấy và thường dành nó cho môn học hay thầy cô nào mình thích nhất.

Khi biết bà Hồ Thị Bảnh dạy môn Chính Trị lớp mình, tôi nói bâng quơ với chúng bạn “Tui sẽ dùng cuốn tập đen nhất, xấu nhất để học môn bả.” Vài ngày sau, trong giờ chào cờ, bà nói trước cả trường “ Có em nói không thích học giờ chính trị của tôi, sẽ dùng cuốn tập xấu nhất để viết bài” Tôi run như cầy sấy. Lời bà nói làm tôi giống như kẻ phản động – dám ghét môn chính trị – Tôi sợ bị đuổi học, bạn bè sẽ nghĩ tôi hư đốn, học dở hay phá phách. Tôi sợ bị làm nhục trước cả trường.Cũng may thầy cô giáo bộ môn thường dành cho tôi một mối quan tâm đặc biệt, không rõ vì thấy tôi chăm chỉ hay vì tôi là con của một nhà văn- bị cho là phản động.

Tôi thích đi học và tôi cũng sợ đi học. Trẻ con nào có thể chống đỡ với những đòn thù như thế?

3/PHẦN THƯỞNG VĂN HỌC của ông có một tấm huy chương hình tròn, mạ vàng ông để lăn lóc trong hộc tủ bàn làm việc. Theo thời gian, lớp mạ vàng tróc hết chỉ còn lộ màu đồng đen xỉn. Có lần bố tôi cầm nó lên bảo “ May mà nó bằng đồng nên còn. Nó bằng vàng thật thì mình đã ăn hết từ lâu.” Ý ông là đã bán nó đi kiếm tiền mua thức ăn vào cái thời gạo châu củi quế.

Một lần công an thành phố, quận, xã, đổ mấy xe hơi lính lác đến khám nhà. Chắc họ muốn tìm những bài hát do ông sáng tác để bỏ tù ông.

Thời điểm ấy, bài “ Nước mắt cho Sài Gòn” – Sài Gòn ơi ! Ta mất người như người đã mất tên….- đã được phổ biến trên đài VOA và BBC dưới tựa đề “Sài Gòn niềm nhớ không tên” – Bài hát được đưa ra nước ngoài, do một người quen biết, ông cụ tập cho hát và bảo anh nhớ nằm lòng vài ngày trước khi anh đi vượt biên. Lời ca, anh nhớ chữ được chữ mất. Nhạc, nhiều chỗ không đúng. Còn cái tựa, anh quên mất tiêu nên nó được biết đến với một cái tên khác. Mấy bài mới, ông viết ra giấy. Khi nào thuộc thì đốt đi. Không rõ lần đó họ có lục được bài nhạc nào của ông không nhưng họ có chở đi nhiều thùng sách vở, giấy tờ.

Vào thời điểm này, Hội Văn Bút Quốc Tế thỉnh thoảng có gửi mấy thùng thuốc tây cho nhà tôi và một số văn nghệ sĩ khác để cứu đói. Khi ra bưu điện lãnh hàng, mẹ tôi và các bác thường chào hỏi nhau.

Đã không còn đường sống, có người cho mình cái ăn, Việt Cộng cũng không bằng lòng. Họ lùng sục xem bố tôi làm gì? Quen biết ai ? Mấy tấm hình khách khứa đến chơi nhà bị họ lấy hết. Họ bơi móc từng cuốn sách , từng khe giường. Hộc tủ riêng của tôi để mấy cuốn nhật ký, viết lăng nhăng tình cảm thuở mới lớn mà tôi rất sợ người nhà đọc được, họ cũng chọc mắt vào, trước mặt tôi. Tôi vừa xấu hổ vừa tức giận khi cái góc riêng tư nhất của mình bị xâm phạm, vừa hãi hùng nhìn cảnh nhà “Ào ào như sôi”. Họ lấy mất tấm huy chương của ông trong lần khám nhà đó. Cụ tôi vốn đã gầy còm, nhìn ông lọt thỏm trong đám công an, an ninh với súng ống, biên bản, tra khảo mà thương.

Chúng không bắt ông nhưng các bác nhà văn bạn ông bị bắt rất nhiều trong cái ngày định mệnh ấy. Người lạ tránh xa gia đình tôi vì sợ liên lụy. Người quen truyền tai nhau, rằng bố tôi bắt tay với Việt cộng nên tránh được họa ở tù.

Hôm sau và nhiều hôm sau nữa, cả nhà căng mắt chờ một cuộc càn quét kế tiếp. Một tiếng xe chạy từ xa cũng làm mọi người nghe ngóng xem nó có đỗ xịch trước nhà mình không. Những tiếng nói lao xao của người qua đường cũng làm mình sợ đứng tim. Trời về đêm càng căng thẳng hơn khi nghe tiếng chó sủa. Gia đình sống trong tâm trạng sớm muộn gì họ cũng đến lần nữa.

4/BỐ MẸ TÔI ĐI ĐỊNH CƯ Ở MỸ

Một chàng Việt kiều trẻ về nước, ra Bắc chơi, vô chợ lạc xoong mua đồ cổ. Anh nhìn thấy một mảnh đồng tròn có khắc chữ “ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu – VNCH” .Tò mò giở lên xem, anh đọc được hàng chữ “ Giải Nhất Văn Học Nghệ thuật– Ông Nguyễn Đình Toàn” Thế là anh mua về chơi rồi post lên mạng hình ảnh món đồ cùng câu chuyện vì sao anh có nó trong tay.

Trời xui đất khiến thế nào, Bố tôi đọc được mấy dòng chữ ấy. Ông tự giới thiệu và xin được chuộc lại tấm huy chương. Anh đến nhà, trò chuyện rồi gửi tặng lại ông cụ món đồ anh vớ được trong mớ lạc xoong rồi nói: ‘” Coi như cháu trao giải thưởng cho bác lần thứ hai.’”

Ly kỳ! Một vật đã mất đi cả hai ba chục năm, lưu lạc từ trong Nam ra ngoài Bắc, vượt trùng dương đến tận Hợp chủng quốc Hoa kỳ để rơi trở lại chính tay chủ nhân của nó. “Của Caesar , trả lại cho Caesar.”

Buồn, vì họ đã đối xử với một nhà văn và tác phẩm của ông như đống ve chai dép mủ.

Khi đã lớn và đi làm, tôi gặp lại bà hiệu trưởng thù hằn tôi năm xưa ngoài chợ. Vẫn “ Mắt trắng dã. Môi thâm sì. Da thiết bì.” với búi tóc củ tỏi có cài kẹp tăm sau gáy. Chả biết bà có thấy xấu hổ với tôi, đứa con nít bà rắp tâm hãm hại? Nó vẫn còn sống và sống rất đàng hoàng, sạch sẽ.

Các ông chủ và các đồng chí của bà sau này đã đến tận cái “Gia đình phản động” bà miệt thị khi xưa, không phải một lần mà là ba lần để xin ông cho in lại tác phẩm. Cả ba lần đều bị ông từ chối. Ông bảo “ Các anh bắt tôi còn được, huống hồ gì in sách của tôi, nhưng đã xin phép thì tôi không cho. Bằng không, ghi rõ ngoài đầu trang “Tác giả đã bị bỏ tù vì cuốn sách này.”

Lần mới nhất, năm 2016, người của nhà sách Phương Nam đến tư gia của ông bên Mỹ, lập lại lời yêu cầu. Ông bảo “ Nếu muốn, các anh phải công khai xin lỗi tôi ”. Ông chả lạ gì họ. Lúc cần thì năn nỉ ỉ ôi. Dăm ba bữa lại trở mặt cấm in hay lại thóa mạ ông.

Họ nói tại ngày xưa, cấp dưới làm sai chứ họ không chủ trương như thế, sao ông cứ làm khó làm dễ họ. Ha ! Hóa ra bà Bảnh hiệu trưởng đã cố ý làm sai chủ trương của xếp bà.

Giả dụ như giờ đây, tôi thấy bà bị chiên trong chảo dầu sôi dưới bảy tầng Địa ngục tôi có thích không?

-Không, tôi thấy sợ.

Giả dụ như tôi thấy con cháu bà thất học, bưng rổ bánh mì đi rảo bán ngoài đường như anh chị em tôi ngày xưa tôi có thỏa mãn không?

-Không, tôi thấy tội.

Chuyện người lớn sao bắt con nít gánh chịu ?

Vả lại, “Lấy oán báo oán….” để làm gì ?

Hiện, tôi đi dạy Việt ngữ thiện nguyện đã hơn chục năm. Con cái người miền Bắc hay người miền Nam đều được tôi quan tâm như nhau. “Trẻ em như búp trên cành”, chúng sợ từ con sâu cái kiến, nỡ nào để chúng hứng chịu mưa bão, như mình ngày xưa.

-Đất ngọt, cây sẽ sai hoa, trĩu quả.

-Đất chua, hoa chột, trái còi.

Nếu phải thù ghét Việt cộng, tôi nghĩ tôi có đủ tư cách để thù ghét họ hơn ai hết thảy

-nhưng tôi không chọn điều ấy.

Chuyện qua rồi. Thù hằn chỉ làm chính mình nhớ lại và khổ sở ,quằn quại.

-Khổ thế chưa đủ sao ?

-Quằn quại thế chưa đủ sao?

Phải sống đến nửa đời người, tôi mới biết cách giúp cho tâm mình thanh thản bằng việc

-bỏ qua

-quên đi

-và tiến về phía trước.

Cảm nhận đầy đủ và quý hóa những gì mình đang có trong tay, cho nó nhẹ nhàng và ít đau bệnh.

Thế thôi !

NGUYỄN ĐÌNH PHƯỢNG UYỂN

From: Helen Hương Nguyễn

Đừng lấy của người khác mà giúp người nghèo vì đó là ăn cắp

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

Đừng lấy của người khác mà giúp người nghèo vì đó là ăn cắp

Một hôm, khi Thánh Phanxico Assisi đang cùng đi với một người bạn đồng hành qua miền Apulia, đến gần thành Bari thì thấy giữa đường có một cái túi lớn, loại túi người ta quen gọi là fonda ( bao vải dài dùng để đựng tiền, đeo quanh bụng ) có vẻ như chứa đầy những đồng tiền kim loại.

Anh bạn đồng hành chỉ cho người nghèo của Chúa Kitô thấy và thúc giục ngài nhặt lấy túi tiền để phân phát cho kẻ khó. Người của Chúa từ chối, tuyên bố rằng cái túi tiền mà họ vừa thấy là một trò lừa đảo của ma quỉ và anh bạn đồng hành của mình đang đề nghị một việc tội lỗi chứ không phải là một việc công đức, vì đây là lấy của người khác mà đem cho.

Họ bỏ nơi ấy và vội vã đi cho hết chặng đường đã bắt đầu. Nhưng người bạn đường vẫn còn thắc mắc; anh ta bị một thứ trắc ẩn hão huyền đánh lừa và trách cứ người của Chúa như thể ngài không quan tâm giúp đỡ sự túng thiếu của người nghèo.

Con người hiền lành ấy đồng ý quay trở lại, không phải để làm theo ý người anh em, nhưng để vạch trần cạm bẫy của ma quỉ. Ngài trở lại chỗ có túi đựng tiền với người bạn đồng hành, có một thanh niên vừa qua đường tới đó cùng theo. Ngài cầu nguyện, rồi truyền cho người bạn cầm túi tiền lên.

Anh này bỗng hãi sợ, chân tay tê cứng, trong lòng mơ hồ cảm thấy có một âm mưu đen tối của ma quỉ. Tuy nhiên, do lệnh truyền của thánh đức vâng lời, anh ta gạt qua nỗi e ngại, đưa tay định cầm lấy cái túi, thì này, một con rắn lớn chui ra khỏi túi, rồi thình lình biến mất cùng với cái túi. Nhờ đó người anh em thấy rõ đây đúng là trò lường gạt của ma quỉ.

Sau khi sự xảo quyệt và dối trá của kẻ thù bị lộ rõ, đấng thánh nói với người bạn đồng hành: “Này anh, tiền bạc đối với các tôi tớ Chúa cũng chẳng khác gì quỉ dữ hay rắn độc.”

Truyện ngắn…Bên thắng cuộc” “Việt Nam yêu dấu”

“Chú bộ đội ơi! Tiếc quá, hòa bình rồi, không còn chiến tranh để lớn lên cháu được giết kẻ thù như các chú..”

Đó là lời của một đứa trẻ được phát đi trên đài phát thanh từ Hà Nội vào một buổi sáng sớm qua cái loa của trại giam những người “bên thua cuộc” ở giữa rừng Hoàng liên Sơn miền bắc.

Một viên gạch thẻ xây nhà, đánh thẳng vào giữa mặt một tên tù trẻ hình sự miền bắc, khiến hắn đổ gục xuống, nằm bất tỉnh trên đường đất mòn cỏ úa, giữa một đám người đứng vây quanh mà, qua nét mặt, diễn tả sự thành quả của họ như thể là một chiến công lớn trong một “trận chiến” rượt đuổi, vây bắt  kẻ địch… vì nó… đã nhổ trộm một gốc khoai mì..

Ở nhà trường, trong lớp học ở miền bắc, thầy, cô giáo dạy học trò làm tính nhân như sau: “Một quả lựu đạn giết được 5 người, vậy 2 quả giết được bao nhiêu?”

Ở miền nam, thầy, cô lại dạy rằng: “Một trái cam ngọt chia cho 4 em, vậy 2 trái cam ngọt chia được bao nhiêu em?”

Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Đứa trẻ lớn lên, thiện, ác do kết quả giáo dục của nhà trường, dạy dỗ của cha, mẹ và hoàn cảnh sinh hoạt của xã hội.

Bà mẹ Mạnh Tử, xưa kia dạy con đã phải 3 lần dọn nhà: Lần đầu ở cạnh nhà một đồ tể. Hàng ngày bà thấy con mình thường hay cầm dao giả giết heo như người hàng xóm, sợ quá, bà bèn dọn nhà đến một nơi khác. Ở nơi mới này, bà lại thấy con mình cùng đám trẻ hàng xóm giả làm người nhà đòn, chôn khóc người chết. Hóa ra người hàng xóm làm nghề chôn cất. Bà thấy không được, vội dọn đến ở cạnh một trường học. Những ngày sau, bà thấy con mình đòi mua sách, vở, rồi cắp sách, cầm bút giả đi học như những đứa học trò kia. Bà thấy yên tâm, vui mừng, thầm nghĩ: Đây là nơi ở cuối cùng…

Sau này Mạnh Tử trở thành thánh hiền.

Người Việt miền nam tự do và người Việt miền bắc cộng sản thiện, ác khác nhau chính do từ lớn lên trong những môi trường: giáo dục của nhà trường, dạy bảo của gia đình và sinh hoạt của xã hội v.v….

Mới đây, ông giáo sư tiến sĩ Nguyễn hưng Quốc dạy ở đại học Úc có đề cập đến những cái “chết trên quê hương Việt Nam” qua tựa đề: “tại sao người ta tàn nhẫn đến vậy?” Trong đó, ông liệt kê những sự chém giết hung ác, hỗn loạn trong xã hội Việt Nam ngày nay. Cuối bài ông kết luận: “tại Việt Nam bây giờ, bất cứ điều gì cũng dẫn đến cái chết oan nghiệt”.

Một điều chắc chắn rằng chủ trương: “trồng cây mười năm, trồng người trăm năm” của “bác” Hồ, mọi người lớn, bé miền bắc trước kia và, người Việt Nam trong nước bây giờ đều biết.

Như vậy thì rõ ràng kết quả của những con toán nhân qua quả lựu đạn ở nhà trường dẫn đến đứa trẻ than phiền vì hòa bình rồi, không còn kẻ thù để nó giết, chính là kết quả tất yếu của một nền giáo dục… kỹ thuật “trồng người”.

Tại một trại giam những người bên “thua cuộc” ở núi rừng miền bắc, một ông trung úy “tháng ba gẫy súng” đi lạc trong rừng, bị người dân vây vít, hò hét, gậy gộc đánh tới chết, trói tay, trói chân, đòn tre dài xuyên qua, “hồ hởi” khiêng xác đến vứt trước cổng trại. Được bộ đội ân cần cám ơn vì đã lập công giết kẻ trốn trại !!..

Một tên bộ đội tài xế xe molotova, thú tính nổi dậy, âm thầm, lặng lẽ, trèo nhẹ lên xe, nổ máy, vội vã lùi xe, cán chết một bệnh nhân bên “thua cuộc” đang lao động trị liệu nhổ cỏ ở sau xe… Nét mặt lạnh lùng, cười đểu… “lỡ”!…

Tại một đồn điền cà phê ở Ban mê Thuột, chủ nhân là người Hà Nội lùa chó giết người như sau:

3 người đàn bà, 1 già, 2 trẻ, lẻn qua hàng rào vào nhặt mót những hột cà phê sau khi đồn điền đã thu hoạch xong. Chủ đồn điền lẳng lặng thả 2 con chó bẹc-giê ra rượt cắn.Vì sức yếu, bà già không kịp trèo lên cây như 2 cô gái trẻ kia, bị 2 con chó xé xác!!.. Chủ vườn lạnh máu đi mở cũi thả thêm 2 con chó nữa, buông nhẹ một câu: “cho mày chết”!..

Chưa hết: Vợ chồng người em giết chết vợ, chồng anh ruột chỉ vì con mèo của mình qua ăn vụng nồi cá, bị anh ruột đánh chết !!..

2 “cẩu tặc” bị đánh chết vì trộm một con chó !!…

Chê nước mía bán không ngọt bị chủ đuổi theo đánh chết….

Khách nhậu ngồi bàn bên kia, mắt bị lé… Nghĩ hắn nhìn trộm người yêu của mình… đâm chết!!…

Nghiện ngập, túng tiền, dẫn người tình vào khách sạn, sau khi ân ái, giết chết, lấy tiền, lấy vàng, lấy điện thoại di động, lấy xe, đi cầm…

Cướp giật dây chuyền bằng cách chém đứt bàn tay cho chắc ăn… v.v…. Nhiều lắm, kể ra đây không hết… Nói theo kiểu văn chương của người Hà Nội là: “lấy nước biển đông làm mực, lấy lá rừng làm giấy” cũng không đủ để viết hết cảnh chém giết trong xã hội của “bên thắng cuộc” hiện nay…..

Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa duy vật nói rằng: “trong lao động, có phát minh”. Ông Hồ và người Hà Nội lập đền thờ ông và học trò ông Marx như Stalin,Lenin v.v… Dựng ra một trường học lớn có tên là: “viện triết học Marx”, bắt cả nước miền Bắc học tập.

Bắt nguồn từ “trong lao động, có phát minh” đó, cho nên, mới đầu giết người bằng gậy gộc, giáo, mác thô sơ, sau tiến lên đến súng đạn, mã tấu, rồi tinh vi hơn nữa là dao, kéo, cắt cổ, lọc xương, bỏ vào bao bố phi tang… Dã man hơn thời thượng cổ!!

Miền Nam Việt Nam xưa kia, đàn bà đi đánh ghen chỉ xẩy ra có một lần độc nhất tạt át-xít đối thủ là vũ nữ, mà cả vợ lẫn chồng bị mất chức, vào tù… Nạn nhân được gửi đi Nhật để chữa trị. Vũ trường trên cả nước bị đóng cửa…

Ngày nay, đất nước của “bác” và của “đảng”, đàn bà đánh ghen, không chỉ tạt ác-xít, mà nạn nhân còn bị lột trần truồng giữa phố, được công an can thiệp bằng câu: “đó là chuyện riêng”!.. Đúng ý nghĩa: “dân làm chủ”.!.!.. 

Giã từ quê hương mà:“Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại, từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây, đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường..”Đó là lời của bài chính tả trong quốc văn giáo khoa thư mà tôi đã học khi còn bé ở lớp 3 trường làng…

Hơn 70 năm qua rồi, tôi vẫn còn xúc động, vấn vương hình ảnh và cõi lòng lưu luyến của kẻ ra đi trong bài chính tả đó…

Thê thảm thay, ngày 30/4/1975, ngày miền Nam được “bên thắng cuộc” “giải phóng”, cả triệu người kinh hoàng, hoảng hốt bỏ chạy, không một ai dám quay đầu nhìn lại quê hương!…. Không vấn vương, không lưu luyến, không hề mang chút tâm sự của kẻ xa nhà nhung nhớ như ở trong bài chính tả kia.

Bây giờ, hơn 46 năm qua, quê hương rách nát, quê hương bệnh hoạn, quê hương phồn vinh giả tạo, quê hương như trái dưa hấu xanh vỏ, nhưng lòng đỏ đã rữa nát… quê hương vô phương cứu chữa !!..

Lỗ Trí Thâm

Viết ở Thủ Đô Tỵ nạn Cộng Sản

Tết Tha Hương – Việt Phương 

Việt Phương 

Hình minh họa

“Chú ơi, đánh giày đi chú.”

Tôi quay lại. Trời ơi, chú bé ốm như con mèo ướt.  “Trời mưa. Ai lại đánh giày?”

Chú bé nói giữa hai hàm răng run cầm cập: “Thế nên từ sáng đến giờ cháu chưa đánh được đôi nào cả.”

Tôi kéo chiếc ghế ra. Thân thiện nói: “Cháu ngồi xuống đây cho đỡ lạnh.”

Chú bé ôm hộp đánh giày khúm núm. Tôi giục hai ba lần chú mới dám khẽ kê mông, ngồi xuống. “Cháu uống sữa đậu nành nóng nghe?”

Chú bé sáng mắt lên. Nhưng chú lại lắc đầu. Tôi biết chú đang đói. Cố ép: “Cháu uống sữa đậu nành, ăn xong cái bánh pâté chaud là chú sẽ để cho cháu đánh giày.”

Chú bé mở đôi mắt tròn xoe nhìn tôi như không tin, lắc đầu:   “Cháu không dám đâu.”

Tôi cười: “Chú đãi cháu mà.”

Chú bé vẫn ngần ngại. Tôi vẫy tay kêu người hầu bàn. Chú bé khẽ dò hỏi: “Thế chú có cho cháu đánh giày không?”

Tôi đùa: “Cháu đánh xong, chú ra ngoài mưa, bùn bắn. Lại như không!”

Mặt chú bé lại tái đi. Nỗi thất vọng chực tràn những giọt nước mắt quanh khoé. Tôi vội trấn an: “Chú đùa thôi.”

Chú bé hăng hái ngồi thụp xuống đất cởi giày tôi ra. Tôi cản: “Từ từ. Chú không chạy đâu.”

Trong lúc đó, người hầu bàn bưng ly sữa đậu nành bốc khói cùng đĩa bánh đến. Tôi nghe chú bé nén nước bọt đánh ực trong cuống họng. Tôi kéo tay chú: “Cháu ngồi lên ghế, ăn đi.”

Chú bé tự nhiên ăn uống một cách ngon lành. Tôi châm thuốc nhìn ra bầu trời trước mặt.

Bên kia đường là chợ Đà- Lạt, người người co ro trong những chiếc áo mưa tơi. Những cô bán hoa ngồi héo mặt trong góc khuất chờ mưa tạnh. Những bà bán trái cây buồn rầu nhìn ông đi qua, bà đi lại; có bà tỉ mỉ lau bóng những trái táo nhập cảng như sợ nước mưa sẽ làm mẹt trái cây chóng thối. Bà bán bún ngồi ủ rũ khều mấy cục than trong lò ra, vì sợ lửa lớn sẽ chóng làm cạn nồi nước lèo. Những người bán rau tranh thủ ngồi nhặt những chiếc lá héo bên ngoài.

Trời Đà Lạt buồn rầu đón thêm một cái Tết lạnh lùng. Không khí như đặc lại bởi cơn mưa cứ nhỏ hạt lê thê. Chợ búa như khép kín với nỗi buồn muôn thuở. Tôi đã nghe những người chung quanh than vãn suốt hai ngày qua. Lạ, Tết đến rồi sao ông trời chẳng cười giùm cho một chút, ông khóc sụt sùi hoài thì dân chúng làm sao mà dám cười?

Tôi nhìn qua khu Hòa Bình. Xe cộ thưa thớt, đường phố đắm chìm trong mưa. Phố Đà Lạt nhỏ, trời mưa khiến những con đường chảy nước ràn rụa, làm tăng vẻ rét mướt. Tôi nhìn lại, chú bé đã uống cạn ly sữa nóng.

Gợi chuyện:

“Ba mẹ cháu đâu? Sao để cháu ra làm thế này?”

“Bố mẹ cháu ngoài Bắc.”

“Như vậy cháu ở với ai?”

“Cháu ở với chúng bạn.”

“Cháu không có bà con gì trong Nam sao?’

“Không. Ngoài Bắc đói lắm, chúng cháu mới rủ nhau vào đây kiếm ăn!”

“Cháu bao nhiêu tuổi rồi hả?’

“Mười hai.”

“Mười hai? Nhìn cháu như mới lên bảy, tám là cùng.”

“Đói quá làm sao mà nhớn được chú?”

Chú bé cười sau câu nói, nhe hàm răng cáu vàng. À, thì ra chú bé cũng biết đùa.

Tôi hỏi tiếp:

“Cháu vào đây bao lâu rồi?”

“Hai năm.”

“Vậy cháu bỏ nhà vào Nam lúc cháu mới mười tuổi?”

Chú bé cãi:  “Cháu không bỏ nhà đi. Bố mẹ cháu cho phép.”

Tôi cười thành tiếng:  “Ừ, thì ba mẹ cháu cho phép. Cháu đi một mình?”

“Không. Cháu đi cùng chúng bạn.”

“Vậy mấy bạn đâu rồi?”

“Chúng cháu chia nhau đi làm. Đêm đến mới gặp.”

“Tối về cháu ở đâu?”

Đứa bé đưa tay chỉ. Tôi bật lên âm thanh hơi lớn, khiến một vài cái đầu trong quán quay lại nhìn:  “Trong chợ?”

Đứa bé gật đầu. Tôi nghĩ, trời lạnh như thế này, rồi chặc lưỡi:  “Tại sao ba mẹ cháu lại để cho tụi cháu đi như vậy?”

“Bố mẹ chúng cháu nuôi chúng cháu không nổi.”  Chú bé thản nhiên trả lời.

Tôi bần thần nhìn đứa bé còi cọc trong chiếc áo “sida” bằng nỉ rộng thùng thình. Chiếc áo vượt không biết bao nhiêu đất trời, từ những người hảo tâm bên Tây, bên Mỹ, về Việt-Nam được hân hạnh khoe mình trên những sạp đồ cũ ngoài chợ trời, với cái tên đầy vẻ“thời thượng” – sida – Tôi biết nếu chủ nhân cũ của nó nghe được chắc chẳng bao giờ dám mang áo quần đi cho.

Lạ, đầu óc tôi khi không lại đảo một vòng quanh thế giới. Tôi nhìn lại mình, nhìn lại chú bé bên cạnh đang kín đáo thè chiếc lưỡi nhỏ liếm vành môi còn đọng lại chút sữa.

Tôi hỏi. Cháu uống thêm ly nữa nhé. Trong khi bàn tay như thói quen kêu người chạy bàn thêm một lần nữa, không để ý đến sự phản đối yếu ớt của chú bé.

Tôi bỗng buồn. Tại sao tôi lại trở về Việt-Nam để thấy lòng mình buồn hơn bao giờ hết? Tôi chợt nghĩ đến những đứa cháu tôi bên Mỹ. Những đứa con nít ở Mỹ mới sung sướng làm sao! Buổi sáng, mẹ chúng phải năn nỉ chúng uống từng hớp sữa trước khi đến trường. Chiều về, lại dán mắt vào TV, hoặc những chiếc máy vi tính. Những trò chơi điện tử, chúng chơi chưa qua một ngày, đã chán!!!

Chú bé rụt rè đặt ly sữa thứ hai xuống bàn. Xong, hăng hái ngồi xuống đất gỡ dây giày tôi ra. Tôi lại kéo chú ngồi dậy, cười:  “Chú có một đề nghị.”

“Gì cơ?”

“Trời mưa, chú đi chơi không được. Cháu làm việc cũng không được. Bây giờ, cháu ngồi nói chuyện với chú, coi như là làm việc với chú. Được không?”

“Thế đôi giày của chú?”

“Chú không cần cháu đánh giày cho chú đâu.”

“Sao cơ?”   Chú bé có vẻ hốt hoảng.

Tôi trấn an:  “Chú trả tiền cho cháu đàng hoàng mà. Đừng lo!”

Tôi hỏi thăm về chú bé, về công việc mưu sinh hàng ngày. Chú bé nói mới thông thạo làm sao. Tôi yêu quá tiếng Việt được nói ra lưu loát từ cửa miệng của một em bé. Đã lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp nghe em bé Việt-Nam nói chuyện một cách mạch lạc. Ở Mỹ, tôi đã quen với những tràng tiếng Mỹ xen với những câu tiếng Việt ngô nghê của mấy đứa cháu khi bị ba mẹ lườm mắt, ý không được nói tiếng Mỹ ở nhà.

Chú bé quay qua hỏi tôi:  “Chú về thăm gia đình hở?”

“Chú có đi đâu mà về?”  Tôi nheo mắt trêu.

Chú bé cười, ra vẻ hiểu biết:  “Nhìn chú, cháu biết chú là người nước ngoài rồi.”

“Sao biết?”

Chú bé thân thiện hơn:  “Không sao cả. Biết là biết.”

“Chú cũng là người Việt mình mà?”

“Chú khác với những người Việt ở đây. Chú là Việt kiều!”

“Chú thấy có khác gì đâu?”

“Tại chú không thấy. Nhưng cháu thấy!”

Tôi đổi sang chuyện khác, nói vu vơ:  “Tết năm nay hoa anh đào bị tàn hết vì mưa?”

“Vâng!”  Chú bé vội vã nói tiếp:  “Nhưng cháu thấy hoa đào ở ngoài cháu đẹp hơn nhiều.”

“Phải!”

Chú bé reo lên: “Chú cũng thấy nữa sao?”

“Chú chưa ra Bắc lần nào, nhưng chú thấy trên phim ảnh.”

“Ở ngoải cũng có phim ngoài Bắc nữa sao?”

Tôi bật cười vì khi không chú bé lại nói giọng Nam:  “Phải, ở ngoải cũng có. Chú thấy những cành hoa đào thật đẹp ngoài Bắc.”

“Đẹp mà làm gì hở chú? Nhà cháu không bao giờ ăn Tết bằng hoa đào.”

“Ai lại ăn Tết bằng hoa đào?”

Chú bé không hiểu tôi đùa. Nghiêm giọng:  “Thật đấy chú. Đắt lắm chú ạ. Có cành cả bạc triệu cơ đấy. Chỉ có nhà giàu mới sắm hoa đào ăn Tết!”

“Thế Tết cháu không về, ba mẹ có mong không?”

“Tiền đâu mà về chú. Cháu để dành tiền vé xe lửa gửi về cho bố mẹ còn hơn!”

“Cháu nhớ nhà không?”

“Cháu nhớ lắm chú. Cháu nhớ cái Hà nữa cơ. Cái Hà em cháu còn bé mà ngoan lắm, giúp được việc cho mẹ cháu lắm!”

Tôi cao giọng, vui lây với chú bé đôi mắt cứ nhấp nháy khi nhắc đến đứa em gái:

“Cái Hà giúp được việc gì nào?”

“Cái Hà giúp mẹ cháu đi nhặt lúa rơi.”

“Thế ba mẹ cháu làm gì?”

“Bố mẹ cháu làm nông. Nhưng bây giờ cũng ít ruộng để làm rồi.”

“Sao vậy?”

“Người ta lấy ruộng để xây nhà hết.”

“Thế hả?”  Rồi tôi trầm ngâm.

Chú bé hỏi:  “Chú cũng về quê ăn Tết à?”

Tôi thở dài:  “Chú không có quê. Chú không còn ai thân ở Việt-Nam cả!”

“Thế chú về làm gì? Ở ngoải sướng hơn. Cháu nghe nói bển cũng có bánh tét, bánh chưng, có… đủ thứ. Đâu cần phải về!”

Tôi cười xòa:  “Chú đâu thèm bánh tét, bánh chưng,… Thế cháu thèm bánh tét, bánh chưng lắm phải không?”

Tôi bật cười hồn nhiên. Khi không, nói chuyện với chú bé một hồi, chú bé lại giả giọng Nam, tôi lại lái qua giọng Bắc.

Chú bé le lưỡi:  “Cháu thèm bánh chưng. Mà đắt lắm chú ơi. Nhưng cháu nhất định sẽ ăn nó vào Tết năm nay!”

Chú bé nói chữ  “nhất định” nghe ra thật cương quyết. Tôi thấy bồi hồi. Ước mơ và mục tiêu của em bé nghèo Việt- Nam chỉ đơn giản như thế sao?”

Tôi khỏa lấp:  “Tại sao lại nhất định?”

Chú bé cắt nghĩa:  “Này nhé. Chúng cháu gửi tiền về nhà. Còn dư, chúng cháu góp lại mua được những hai chiếc bánh chưng lận!”

Tôi cười: “Mấy đứa mà những hai chiếc lận?”

“Lẽ ra là mười đứa. Nhưng hai đứa xuống Phan-Rang nhảy tàu về quê, còn lại tám đứa. Cháu tính rồi, mỗi đứa được một phần tư cái. Cháu mong cái Hà năm nay cũng được ăn bánh chưng như cháu!”

Tôi quay mặt nhìn xuống lòng đường. Nước cuồn cuộn dưới chân. Vài chiếc xe hơi đời mới chạy ngạo nghễ bắn bùn vào khách bên đường, để lại những tiếng chửi rủa tục tằn. Chú bé tò mò nhìn tôi. Chắc chú chẳng hiểu tại sao mắt tôi lại ngầu đục?

Trở về Đà Lạt lần này, tôi muốn ăn Tết với gia đình người bạn thân thời trung học một cách bất ngờ. Nhưng dự định của tôi tiêu tan! Bao nhiêu năm rồi, nếu lòng tôi không thay đổi, chưa chắc người khác đã không đổi thay như tôi. Bây giờ tôi mới biết, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau đã khiến con người ta khó thể gần gũi nhau được. Bạn bè ngày xưa từng mặc áo lẫn nhau, bây giờ nhìn lại mới thấy thời gian đã làm thay đổi nhiều quá! Không có gì tồn tại mãi!

Tôi lần mò đến con dốc cũ, chẳng buồn biết nó có bị thay tên hay chưa? Đà Lạt không có những thay đổi lớn lao, ngoài khí trời hình như không còn lạnh như năm nào.

Căn nhà cũng như xưa,  không được sửa sang, trông già nua quá thể, giàn hoa giấy cũ đã bị chết khô tự bao giờ! Và, cánh cửa gỗ nứt nẻ không buồn sơn phết lại. Tôi gõ cửa. Người đàn ông yếu đuối, tóc lưa thưa bạc phếch, mở cửa nhìn tôi bằng đôi mắt mệt mỏi.

Tôi lễ phép:  “Thưa bác có Thuần ở nhà không ạ?”

Người đàn ông ngạc nhiên, cau mày nhìn tôi một thoáng rồi bảo tôi vào nhà ngồi chờ.

Một lúc khá lâu, cũng người đàn ông ấy chậm rãi bước ra, vỗ vào vai tôi:   “Thằng Thuần không có ở nhà con à.”

Chưa kịp che giấu nỗi thất vọng hiện ra trên khuôn mặt tôi, thì người đàn ông lại đánh đét vào đầu tôi, la lớn, giọng Huế đặc sệt:  Tuân ‘tồ’!! ‘Mi không nhận ra tau hỉ?”

Bây giờ thì đến phiên tôi ngạc nhiên:  “Sao bác lại biết tên tục của cháu?”

Người đàn ông đấm mạnh vào vai tôi: “Bác cái mả cha mi! Tau là Thuần đây, khỉ à!!!”

Tôi há hốc miệng:  “Trời ơi! Mày… mày giống ba mày quá!”

“Mi lại nói móc tau đó hỉ? Con khỉ, nói tau già thì nói đại đi! Bày đặt!!!”

Tôi ngượng ngùng:  “Mấy chục năm rồi mày à. Nói thật, tao không nhận ra mày! Chỉ thấy có nét giống ông cụ nên tao tưởng là bác trai chứ???”

Thuần cười móm mém:  “Tau hiểu. Đời sống khó khăn. Mau già lắm!”

Tôi nheo mắt cười. Thuần đổi giọng:  “Về hồi nào vậy?”

“Một tuần rồi. Tao mới lên Đà Lạt ngày hôm qua! Ở Mỹ hàng năm có tổ chức sinh hoạt cựu học sinh, anh em vẫn thường nhắc tới mày!!!”

Thuần lơ đãng: “Thế à!”

Tôi nhìn vào mắt Thuần, đục ngầu màu khói thuốc. Thuần già đến nỗi tôi không thể nào tưởng tượng ra được! Ngày còn đi học, Thuần chăm chút hình hài lắm! Sau một cuộc thất tình, Thuần bỏ ngang năm thứ hai Luật khoa, đi lính!!!

Sau đó chúng tôi ít gặp nhau, nhưng vẫn thường xuyên liên lạc. Năm 1979, tôi vượt biên, nghe đâu Thuần vẫn còn bị học tập cải tạo.

Thuần mang đầy mặc cảm, tự ái! Thuần ăn nói nhiều khi rất cay độc với người, và cả chính mình!

Tôi thân với Thuần vì học cùng lớp thời trung học, lớn lên trong một thành phố. Xong tú tài hai, chúng tôi cùng xuống Sài-Gòn ghi danh vào trường Luật, ở chung phòng trọ.

Khi ra đi, tôi mang theo rất nhiều kỷ niệm thời thơ trẻ cùng Thuần. Trở về, tôi có rất nhiều điều muốn nói với anh, nhưng khuôn mặt Thuần lạnh căm, không bày tỏ một chút xúc cảm, làm tôi thấy thất lạc!

Thuần hất hàm:

“Ở khách sạn hả? Đúng rồi, Việt kiều phải vậy chứ? Ở nhà rách chắc không quen!”

Tôi nhăn nhó: “Mày nói nghe nhột quá!”

Thuần đổi đề tài: “Hai bác và mấy đứa em mi bên đó vẫn khỏe chứ?”

“Ba mẹ tao đã qua đời. Mấy đứa em vẫn khoẻ.”

Thuần chặc lưỡi: “Ba mạ tau cũng vậy. À! Ngôi nhà của gia đình mi nhà nước cấp cho cán bộ cao cấp, họ sửa lại thành biệt thự đẹp lắm. Mi tới đó chưa?”

“Tao định thăm mày xong tao qua đó coi cho biết.”

“Ừ ngôi biệt thự đó bây giờ không rẻ đâu. Phải rồi, nghe nói mi vừa ly dị?”

Tôi thở nhẹ: “Năm năm rồi.”

Thuần đùa: “Tin tức đi chậm, nhưng chính xác! Mấy cháu?”

“Một. Ở với mẹ nó.”

“Về đây kiếm vợ hả?”

“Mẹ. Mày đừng có đùa. Tao già rồi!”

“Mi còn “sữa” chán. Lúc xưa ai cũng kêu mi là “tồ” vì lớn con nhất đám. Không ngờ bây giờ trông mi “sữa” nhất đám!”

Tôi đùa: “Bộ mấy cô thích “sữa ông già” như tao lắm sao?”

“Sữa gì cũng thích. Sữa Hà-Lan, sữa Con Chim, sữa Ông Già, sữa quá đát (date)… miễn là hàng ngoại!”

Tôi cười lớn:  “Ông cũng còn giễu như lúc xưa!”

Thuần cũng há miệng cười thành tiếng, không thèm che đậy chiếc răng cửa đã rụng:  “Giễu để mà sống chứ!”

“Bộ liệt tao vào thứ hàng ngoại thiệt sao?”

Thuần nhìn tôi từ đầu đến chân:  “Mi là hàng ngoại một trăm phần trăm!”

Tôi chưa kịp mở miệng. Thuần lại tiếp:  “Áo da của Mỹ, áo thun của Mỹ quần bò của Mỹ. Cả đôi giày cũng Made in USA tuốt! Thế mà không phải là hàng ngoại một trăm phần trăm à???”

Tôi thấp giọng:  “Đừng giễu nữa. Tao là người Việt-Nam một trăm phần trăm!”

“À! Điều này chỉ có mi biết! Ra đường ai nói mi là người Việt-Nam đâu. Họ bảo mi là Việt…. kiều!!!”

Tôi xua tay đổi đề tài: “Mày càng nói càng đi xa vấn đề. Bà xã đâu? Con mày ra sao?”

Thuần thở dài:  “Tau cứ bịnh lên bịnh xuống, nên bả phải lo chạy gạo! Tụi con tau lớn hết trơn rồi. Chúng nó cũng sống trôi nổi lềnh bềnh như tau! Chỉ có đứa út là dính vào vợ chồng tau, trôi được khúc nào hay khúc đó.”

Tôi nén tiếng thở dài.

Tôi đứng dậy cáo từ. Thuận tay, tôi xoa đầu cậu bé đang khép nép bên khung cửa, tôi nghĩ là con út của Thuần.  Tôi khéo léo nhét vào túi áo cháu ít tiền. Rồi đi!

Nhìn gia cảnh Thuần, tôi hiểu nó túng thiếu lắm! Năm cùng tháng tận!!! Không có một bình hoa trên bàn thờ. Ngay cả ly nước trà cháu mang cho tôi uống cũng rất loãng. Tôi hiểu bạn tôi lắm. Nhưng tôi không biết chia sẻ bằng cách nào. Bạn tôi tự ái rất cao!!!

Thành phố bắt đầu lên đèn. Cơn mưa còn chút bụi nước bay lất phất qua những ngọn đèn đường trên cao.

Chú bé níu áo tôi:  “Chú thật không muốn đánh giày hả?”

Tôi giật mình nhìn chú bé, thương hại:  “Chú không đánh. Hôm nay là bao nhiêu rồi nhỉ?”

“Hai chín Tết!”

“Sao không thấy chợ Tết hả cháu?”

“Mưa quá. Người ta nhóm chợ bên trong!!!”

“Thế làm sao cháu ngủ?”

“Đợi đêm đến chúng cháu mới lẻn vào!”

Tôi xoa đầu đứa bé:   “Chúng ta kiếm cái gì ăn không?”

“Cháu không dám đâu!!!”

Tôi đùa:  “Dám một chút đi mà!”

Đứa bé cương quyết:  “Cháu thật không dám!”

Tôi móc tiền cho chú bé. Số tiền nhỏ lắm đối với tôi, nhưng có thể là cả ước mơ của chú bé! Cho chú bé và các bạn tha hồ ăn bánh chưng năm nay.

Chú bé tròn mắt nhìn tôi, ngần ngại. Tôi dúi tiền vào tay chú. Chú cầm lấy, miệng lí nhí cảm ơn – hình như hai tiếng cảm ơn rất khó nói đối với chú – rồi, chú vùng chạy. Hộp đồ nghề đánh giày lắc lư một bên. Cứ chạy dăm ba bước, là chú bé dừng lại, ngoái đầu nhìn tôi. Có thể chú đang sợ tôi đổi ý, đòi tiền lại chăng?

Tôi đưa bàn tay lên vẫy, bỗng thấy hụt hẫng vô cùng. Tôi nhìn theo cho đến khi chiếc bóng nhỏ bé kia lẫn trong màn sương.

Đêm hai chín Tết. Không biết đêm mai tôi đón giao thừa ở đâu? Ngay trong khách sạn, một mình? Không biết Tết năm nay đến với tôi là năm thứ mấy mươi tha hương? Riêng chú bé thì hẳn tôi đã biết mấy năm chú tha hương rồi!!!

Việt Phương

Một Kiếp Người – Khánh Giao BS Phùng Văn Hạnh

Khánh Giao

BS Phùng Văn Hạnh

Cách mạng Mùa Thu 1945, tiếp theo là Toàn quốc kháng chiến 1946, là những thời điểm mà thế hệ lưu vong trên 70 tuổi nhớ đến với nhiều nỗi đau thương, ngậm ngùi. Riêng tôi kỷ niệm tản cư những năm kháng chiến chống Pháp thật khó quên. Gia đình tôi bỏ làng ở tỉnh Quảng Nam, chạy vào tận Bình Định. Lúc đầu sống ở Bồng Sơn sau dời lên Hội Yên, và sống ở đó cho đến ngày hồi cư về làng cũ. Một kỷ niệm khó quên là sông Lại Giang. Sông xuất phát từ thung lũng An Lão, chảy ra cửa biển Bàu Tượng, xuyên qua các cánh đồng phì nhiêu quận Hoài Ân, Hoài Nhơn. Về mùa đông, con sông thu hẹp, cạn dòng, trừ khi lũ lụt. Trái lại mùa nắng, mức nước sông lên cao, chảy chậm lại vì cứ độ một cây số thì có hệ thống dẫn thủy nhập điền gọi là “bờ xe gió” hay “dàn xe gió”(noria): Vào đầu Xuân, các làng ven sông bắt đầu đóng cừ ngang sông, ghép vỉ tre vào cừ, làm thành đập chắn, dồn nước vào một lạch chảy xiết sát bờ. Một giàn chừng 5 đến 10 bánh xe đặt ngang qua lạch. Giàn là một kiến trúc giống như sườn một căn lầu hai từng gồm những cột gỗ đóng sâu vào lòng lạch, và những xà ngang dọc, nối kết vào cột, bằng dây mây. Giàn có nhiều ngăn, và trong mỗi ngăn là một bánh xe. Xà ngang nâng bánh xe có khấc lót sắt cho trục tựa vào. Mỗi bánh xe, có trục gỗ bịt sắt hai đầu, từ đó các nan gỗ dài 3m tỏa ra nâng vành có bề ngang 1m. Tất cả đều ghép lại bằng những sợi mây, do những thợ chuyên nghiệp làm. Những tấm vỉ tre cản nước 1m X 1m, được cột, cách khoảng đều đặn, vào đầu mút nan, sát vành. Nước đẩy những tấm vỉ làm bánh xe quay trên trục. Các ống tre lồ ô, có đáy là mắt tre, và có miệng hướng lên cao khi vành xe được nâng lên khỏi mặt nước sông, cột nghiêng 45 độ trên vành, múc nước. Lên đến đỉnh, ống tre nằm ngang, trút nước vào các máng xối dẫn nước vào ruộng. Giữa các bờ xe gió, là những hồ nước xanh biếc, phẳng lặng. Bờ cừ cũng chừa một lối hẹp ở giữa dòng sông cho đò dọc đi lại. Hội Yên là một làng nông nghiệp ven sông Lại Giang, có xưởng dệt vải Ba-ta (của dân tản cư từ Phú bông, Quảng Nam vào), có xưởng giấy sản xuất loại giấy màu vàng sẫm (vì thiếu hóa chất tẩy bột giấy), có Ủy Ban Kháng Chiến Miền Nam (UBKCMN) trấn đóng, nên cuộc sống ở đây có phần náo nhiệt. Với tôi, Lại Giang thay thế Thu Bồn nơi quê cũ, cũng đầy ắp kỷ niệm thiếu thời: tắm sông, chèo thuyền…

Kháng chiến chống Pháp bước vào năm thứ sáu. Liên khu 5 từ Đèo Hải Vân vào đến Bình Thuận, gồm cả Cao Nguyên Trung Phần là một quân khu lớn. Từ Đèo Cả vào Nam, toàn bộ Cao Nguyên, và hơn nửa tỉnh Quảng Nam mạn Bắc, là vùng xôi đậu hoặc hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, và chính quyền Quốc gia thời Bảo Đại, nhất là các thị xã, quận lỵ, và thành phố. Vùng hoàn toàn do UBKC Liên khu 5 kiểm soát gồm nửa tỉnh Quảng Nam mạn Nam, tỉnh Quảng Ngãi và Phú Yên. Năm 1952 Liên quân Pháp và Bảo an Đoàn, trong chiến dịch Atlante, đổ bộ lên Qui-Nhơn, và Tuy hòa, (thành phố bỏ ngỏ do tiêu thổ kháng chiến), rồi lan tỏa ra các vùng phụ cận, thu hẹp phạm vi kiểm soát của UBKC. Vợ chồng Bác sĩ Hoa, làm việc ở Bệnh viện Song Thanh, gần Qui-Nhơn, phải di tản ra làng Hội Yên. Họ tá túc trong nhà ông Chánh Bích, một địa chủ giàu có trong làng. Trang trại ông Bích là một khu vườn rộng lớn gần một mẫu tây, có hàng rào xương rồng dày, kín, vây bọc bốn phía. Cổng vào là một ngôi nhà nhỏ, lợp ngói, khép lại bằng hai cánh cửa lim. Tiếp theo cổng là lối đi vào nhà, giữa hai hàng dâm bụt cắt xén đẹp mắt, và những chậu hoa lớn, trồng đủ thứ hoa nhiều màu, thơm ngát. Bóng mát những cây ăn quả làm lối đi mát rượi. Rời lối đi rợp mát, khách bước vào sân gạch rộng lớn, chan hòa ánh sáng, mà vào mùa gặt dùng để phơi lúa. Một dãy nhà dài, lợp ngói đỏ, có hàng hiên rộng, làm thành chữ U, bọc hai bên và chính diện sân. Vườn sau dãy nhà là thế giới êm mát, rợp bóng cây ăn quả. Gia đình tôi đã thuê một góc vườn, dựng một mái nhà tranh để ở. Chính vì thế mà tôi có dịp gần gũi hai ông bà Bác sĩ Hoa.

BS Hoa đã tốt nghiệp Y khoa, đại Học Paris năm 1942. Vợ ông, bà Khương Băng Tuyết, tốt nghiệp viện Quốc gia Âm Nhạc Paris khoa Dương cầm cùng năm ấy. Ông, quê Đà Nẵng, con một phú thương. Cha ông có tàu buôn lớn, chở hàng đi về các cảng Sài gòn, Hải Phòng,Vinh, và là chủ nhân những dãy phố cho thuê, dày đặc ở Đà Nẵng. Bà quê Sài gòn cũng con một đại phú gia. Hai người đã quen biết nhau ở Paris, trong một buổi họp mặt sinh viên du học, và một tình yêu lớn đã nảy nở, trong khung cảnh lãng mạn của kinh đô hoa lệ nhất Châu Âu. Sau ba năm say đắm, tràn đầy hạnh phúc, cộng với nỗi mừng vui đỗ đạt, công thành, danh toại, họ hối hả về Việt Nam để thành hôn cuối năm 1942. Lễ cưới được cử hành ở Sài gòn thật linh đình. Rước dâu về Đà Nẵng phải thuê bao cả hai toa tàu hạng nhất. Lễ ra mắt cô dâu ở họ nhà trai cũng linh đình không kém. Đám cưới xong, đôi tân hôn đi hưởng tuần trăng mật ở Ý, rồi ghé Paris để sống lại kỷ niệm thân thương. Ba tháng sau họ trở về Đà Nẵng. Nhưng không phải là để mở phòng mạch hành nghề. Cả hai ông bà đều là con một, và cùng kế thừa một sản nghiệp đồ sộ của đôi bên phụ mẫu đã qua đời vài năm sau. Các nghiệp vụ doanh thương đã có những gia nhân thân tín đứng cai quản, và hàng tuần báo cáo thu nhập. Vì thế BS Hoa thấy không phải hành nghề chi cho mệt, mà cùng vợ hưởng thụ cuộc sống thư nhàn, đi du lịch khắp nước, từ Bắc, chí Nam. Họ giao du rộng rãi và như Mạnh thường Quân, trong nhà lúc nào cũng đầy thực khách, và cả ba, bốn bàn mạt chược. Nhưng biến cố năm 1945 dồn dập đến: Cách mạng Mùa Thu rồi Toàn quốc kháng chiến. Pháp trở lại tái chiếm Đà Nẵng. Ông Cử Diện, cha BS Hoa, xưa kia đã từ quan thời Pháp để xoay qua kinh doanh. Ông đã giúp đỡ rộng rãi phong trào yêu nước Đông du, cấp học bổng cho học sinh giỏi và có chí hướng du học Pháp. Vì thế BS Hoa, cũng chẳng ưa gì chế độ thực dân, đã chọn lựa đi tản cư, khi thành phố lọt vào tay Pháp. Hai ông bà đã gói ghém vàng bạc, nữ trang đi vào tận Quảng Ngãi rồi Bình Định. Bà không quên mang theo đàn dương cầm, mà sự chuyên chở kềnh càng tốn tiền không ít. Ngày mà bà chở dương cầm về Hội Yên, ít nhất phải sáu người lực lưỡng mới đem được đàn xuyên qua cổng nhà ông Chánh Bích.

Ở lứa tuổi 16, lối sống của ông bà BS Hoa thu hút trí tò mò của tôi. Ông lúc ấy độ 30 tuổi, nét mặt nghiêm nghị, thanh tú, trí thức. Bà khoảng 25, với vẻ đẹp quý phái, cân đối, khỏe mạnh, đúng như lời thơ ông tặng bà lúc mới quen nhau:

…Xinh xinh sao thân nở đặn đầy

Xinh xinh sao đôi má hồng hồng

Xinh xinh sao nụ cười êm ái

Xinh xinh sao dáng đi quý phái

Xinh xinh sao vầng trán phẳng phiu

Xinh xinh sao mái tóc mỹ miều

Mái tóc xõa của tuổi xanh ngăn ngắt

Và đôi mắt, ồ đôi mắt

Là một trời tình tứ, ngây thơ..

Ngước nhìn, anh những thẫn thờ,

Nàng tiên tiền kiếp, trong mơ đây rồi…

Trong khi mọi người ăn mặc xuềnh xoàng với vải ta sần sùi, ông bà với áo quần vải vóc ngoại mượt mà, trắng tinh hoặc màu sắc óng ả. Ban ngày khi ông đi làm ở bệnh viện Liên khu cách Hội Yên một cánh đồng, bà ở nhà, làm bếp, trồng hoa, và nhất là đàn dương cầm cả giờ. Bà không đi chợ mua đồ ăn, mà gửi tiền, nhờ người khác mua. Để tránh con mắt tò mò, ông bà ít ra ngoài. Thảng hoặc có đi dạo trong làng thì lựa ban đêm, trên những hẻm mờ tối. Thấy tôi nghe lén bà đàn, bà nẩy ý dạy tôi đánh đàn. Nhờ cách dạy tận tâm và có phương pháp, tôi tiến bộ nhanh. Tôi bước vào thế giới huyền diệu của âm thanh qua các bài menuet đơn giản nhưng réo rắt, những bài Songe d’été, Princesse Czardas, La prière d’une vierge, La chapelle au clair de lune, Lettre à Élise, v.v… dịu dàng thơ mộng. Những bài bà đàn thì rất khó và dài dặc của những nhạc sĩ cổ điển nổi danh, như Beethoven, Bach, Mozart, Chopin, Mendelssohn, Brahms, cùng rất nhiều nhà soạn nhạc khác mà tôi không nhớ hết. Tôi nghe tâm tình bà qua bài “sonate au clair de lune” của Beethoven, lúc xao xuyến, lúc hối tiếc, giận dỗi và sự thanh thản cuối cùng. Bà kể tôi nghe Beethoven lúc nhỏ đã bị cha xiềng chân vào đàn, để tập đánh đàn cả ngày cho giỏi. Bà cũng kể uy lực của âm nhạc qua chuyện nhạc sĩ nầy có cô học trò cũ đến thăm, thổ lộ ông nghe nỗi buồn vô vọng vì đứa con mới chết. Ông không nói gì, ngồi trước dương cầm, dạo những khúc nhạc êm ái đến nỗi một giờ sau, người học trò thấy lòng thanh thản trở lại, vơi đi nỗi buồn mất con… Bà cũng kể khi mới về làm dâu, cha mẹ chồng nghe bà tốt nghiệp dương cầm, bèn bảo bà đánh đàn cho nghe. Ngồi trước phím đàn, bà e lệ hỏi:

-Thưa ba mẹ muốn con đàn bài gì?

Bà mẹ chồng âu yếm bảo:

-Con đàn sáu câu vọng cổ cho ba mẹ nghe.

Bà đã khóc thầm, trong bụng thấy tủi, vì công phu mình học thật quá thừa để đàn 6 câu vọng cổ đơn giản. Phải chi nói mình đàn sonate của Beethoven hay mazurkas của Chopin cho thỏa chí.

Qua những chuyện bà kể, qua đối thoại tâm tình của hai ông bà, tôi biết mối tình họ được xây đắp trong sự hài hòa, quên mình, lắng nghe nguyện vọng của nhau để đem lại niềm vui cho người mình yêu. Tôi biết được Paris có sông Seine chảy về hướng Tây (nước ta phần lớn sông đều chảy về Đông) và chia Paris thành hai phần Nam (tả ngạn), Bắc (hữu ngạn). Trung tâm thành phố là nhà thờ Notre Dame nằm trên cù lao giữa dòng sông Seine. Từ trung tâm ấy, Montmartre với đền thờ Sacré Coeur ở hướng Bắc. Hướng Nam là Montparnasse. Quảng trường Bastille ỏ hướng Đông. Tháp Eiffel cao vọi ở hướng Tây. Vì những cuộc hẹn hò trên các nẻo đường Paris, mà họ thuộc thành phố rộng lớn nầy như trong lòng bàn tay, chỗ nào có cà-phê ngon, chỗ nào có tiệm ăn Việt Nam, tiệm Mandarin bán tới con vịt số mấy. Họ tìm kỷ niệm nhiệt đới ở đường Cherche Midi. Họ đi trên “bâteau mouche” để nhớ lại kỷ niệm chuyến đi trước. Họ lang thang trên những nẻo đường ngoại ô, tay cầm tay, nói không bao giờ hết chuyện như: -“trời hôm nay đẹp”õ, -“ừ, trời hôm nay đẹp thật” –“anh có nhớ mình quen nhau lúc nào?”, -“Em có biết tối qua, nhớ em không ngủ được” v.v…

Ông Chánh Bích có một thuyền gỗ dài độ 10m. Giữa thuyền là một căn nhà nhỏ 3m X 4m có mái lợp cót che mưa nắng, có cửa sổ treo rèm hai bên, có cửa ra vào, đằng lái và đằng mũi. Trong nhà nhỏ có một bộ bàn ghế tiếp khách. Thời trước ông hay đi lại trên Lại giang, hoặc tiếp đãi bạn bè trên thuyền nầy. Nhưng từ ngày Cách mạng Mùa Thu, ông biết chính quyền không ưa gì lối sống tư sản, nên ông không dùng thuyền nữa, mà chỉ cho mượn đãi khách. Ông bà BS Hoa đã mượn thuyền để thưởng thức vẻ đẹp đêm trăng trên Lại giang, nhân kỷ niệm 10 năm thành hôn. Vì biết chèo thuyền nên tôi được tháp tùng hai ông bà. Hôm ấy cũng có BS Đồi, đi xe đạp trên 100km, từ Quảng ngãi vào thăm. Chúng tôi 4 người, đợi hoàng hôn xuống, mới rời nhà ra bến xưởng giấy, mang theo đèn cầy, trà, bếp cồn cùng đồ ăn. Trăng rằm đã lên ở chân trời, tròn, sáng. Hàng dừa hai bên bờ sông, lá đung đưa theo gió, lấp lánh ánh trăng. Mặt nước phẳng lặng in trăng xuống đáy, lan tỏa những vòng vàng rực.

Chúng tôi xuống thuyền. Tôi mở dây buộc thuyền và ra sau lái khua chèo, nhẹ nhàng đẩy thuyền ra giữa sông. Đến nơi tôi thả neo, giữ thuyền đứng yên một chỗ. Tôi giúp khiêng bàn ra đằng mũi, chúng tôi ngồi vào bàn, im lặng ngắm vẻ đẹp chung quanh: Bầu trời có ít vẩn mây, sâu thẳm. Trăng lên cao một ngọn sào trên chóp hàng dừa, tỏa ánh sáng bàng bạc trên sông. Dàn xe gió lấp lánh dưới trăng, nước đổ ra trên máng xối như những dòng bạc sáng lung linh. Tiếng nước đổ rào rào, tiếng trục xe gió mài trên đà nâng, rên rỉ kéo dài nghe thật buồn. Tình tự xa quê nhà vì tản cư, nỗi khổ chiến tranh, làm chùng lòng mọi người. Bà BS Hoa lên tiếng trước phá tan im lặng: “Tôi vào trong pha trà, nấu chè và sửa soạn thức ăn.” Tôi vào giúp bà và để hai bác sĩ ngồi tâm sự với nhau. BS Đồi có mang theo một hộp phó mát Canembert và hai ổ bánh mì dài. Ông có người bà con, là gián điệp nhị trùng, đã lén mang những thức ấy từ Đà Nẵng vào cho ông. Vì muốn chia với bạn thân, ông phải giấu của “quốc cấm” ấy vào xách tay, và lặn lội đường xa. Tối hôm ấy, sau khi chúc vợ chồng BS Hoa tràn đầy hạnh phúc, chúng tôi bắt đầu ăn bánh mì với phó mát, mà gần 7 năm không được ăn, một món ăn không có gì đặc biệt ở Paris hoặc Đà Nẵng, song trong hoàn cảnh tản cư hiện tại, quả là ngon tuyệt, mặc dù bánh mì đã lâu ngày, không còn giòn và ngọt. Hai ông bác sĩ còn uống thêm rượu đế, để giải sầu. Sau đó tráng miệng với chè đậu xanh đánh, mùi vị rất ngon, mà bà BS Hoa đã nấu từ chiều với một “recette” đặc biệt. Cuối cùng là uống trà Bắc Thái, mà một cán bộ miền Bắc vào, tạ ơn BS Hoa đã chữa trị cho anh ta bệnh sốt rét. Trà ngon thơm, và làm mọi người tỉnh ngủ. Hai bác sĩ, ngồi giữa sông, không sợ tai vách, mạch rừng, đã phê bình những mưu toan UBKCMN che đậy dã tâm xích hóa cuộc kháng chiến, dành công đầu cho đảng Lao động, một đảng Cộng sản trá hình. Sự bất mãn của họ giải nghĩa vì sao họ trốn về thành, chừng sáu tháng sau cuộc gặp gỡ trên. Trăng đã xế về Tây lạnh lùng, xa vắng. Chúng tôi đi nghỉ. Hai vợ chồng BS Hoa trải chiếu nằm trong phòng nhỏ. Tôi và BS Đồi nằm dưới trăng ở mũi thuyền. Vì uống trà, tôi trằn trọc, khó ngủ, và nghe vợ chồng BS Hoa to nhỏ, âu yếm. Đến gần sáng thì tôi chợp mắt ngủ.

Cũng nhờ có tiền, ông bà BS Hoa đã móc nối với ngư dân ở Tam Quan. Một ngày cuối tuần họ giả đi tắm biển. Trong đêm tối họ xuống thuyền buồm, ra khơi. Chuyến đi trót lọt, và hai ngày sau họ đã về đến bãi biển Sơn Chà. Trình diện với cơ quan an ninh thành phố xong, ông bà được bạn bè cũ đến bảo lãnh. Vì ngôi nhà cũ bị lính Pháp trấn đóng, ông bà phải lang thang sống nhờ người quen, đồng thời mướn luật sư, tìm cách lấy lại tài sản cũ. Lúc ra đi tản cư vội vã, không mang theo giấy tờ sở hữu nhà đất. Giấy tờ của sở nhà đất chính phủ cũng bị cháy rụi, lúc giao tranh trong thành phố. Các nhà cho thuê nay có chủ mới. Riêng những tàu buôn thì phần bị phá hoại, lúc Pháp tái chiếm cảng Đà Nẵng, phần bị trôi dạt mất tăm. Tài sản bên bà BS Hoa ở Sài gòn lại càng khó thu hồi lại được, vì không tìm lại được gia nhân cũ, và những chứng từ sở hữu. Vì cứ đinh ninh sẽ trở về lối sống nhàn nhã trước kia, hai ông bà theo đuổi kiện tụng, cả ở Sài gòn và Đà Nẵng. Rốt cuộc chỉ đòi lại được hai căn nhà nhỏ, nhưng phải bán đi để lo luật sư. Thế là phải lang thang sống nhờ bạn bè. Nhưng tình bác ái lâu ngày rồi cũng mệt mỏi. Bạn bè xa lánh, và có người nói xúc phạm. Hai ông bà thấy tủi nhục, ôm nhau khóc lóc cho tình đời đen bạc. Ông bà bàn định sẽ cùng nhau tự tử. Thuốc ngủ đã mua hai liều mạnh. Trong tuyệt vọng não nề, bỗng ông sực tỉnh:

-“A quên mình còn cái bằng Bác sĩ.”

Thế là hai ông bà đứng lên, hăng hái kiến tạo cuộc đời mới. Họ vay mượn bạn bè ít vốn để mở phòng mạch. Ba năm sau họ đã trang trải được nợ nần, mua xe, mua nhà, có đời sống ổn định và tìm lại hạnh phúc ngày xưa. Gia đình có thêm hai đứa con, một trai, một gái. Ông không quên mua cho bà một đàn dương cầm mới. Trong nhà lại dập dìu tiếng nhạc rộn vui, thanh thản. Thời đệ nhất Cộng hòa ông làm ty trưởng y tế Đà Nẵng, đồng thời là giám đốc bệnh viện thành phố. Khi Mỹ ồ ạt đổ quân vào Việt Nam và leo thang chiến tranh, có những đoàn văn nghệ từ Mỹ sang, đi khắp chiến trường, biểu diễn cho lính Mỹ xem, để nâng cao tinh thần chiến đấu của họ. Có một đoàn văn nghệ biểu diễn quanh Đà Nẵng trong nhiều tháng, trong ấy có một nhạc sĩ dương cầm Mỹ trẻ, tên gọi là Bill, tốt nghiệp âm nhạc viện Nữu Ước. Anh chỉ là Trung sĩ, chắc là để thi hành nghĩa vụ quân sự. Đoàn văn nghệ ấy, gồm nhiều ca sĩ nổi danh, có lần giúp vui cho bệnh nhân Bệnh viện Đà Nẵng trong dịp Giáng sinh. Phần lớn họ hát các bài thánh ca như Jingle Bell, Silent Night, v.v… Cảm động nhất là các ca sĩ ngoại đã hát những bài thánh ca Việt như bản “Đêm đông” của nhạc sĩ Hải Linh. Bill và bà Băng Tuyết đệm đàn, rồi không biết vì sao, hai người lại cho hội trường thưởng thức độc tấu dương cầm , bà với bản Rhapsodie Hongroise của Litz, Bill với bản Lieder của Brahms. Họ âm thầm so tài và mọi người đều bị lôi cuốn bởi dòng nhạc êm ái, điêu luyện. Sau đêm biểu diễn ông bà BS Hoa mời Bill đến tư gia ăn những món đặc sản Việt. Bà Tuyết và Bill lại có dịp bàn luận về âm nhạc. Bill xuất thân gia đình vọng tộc, nói tiếng Pháp thạo, vì đã từng qua Paris học hỏi dương cầm. Chàng lại đẹp trai, khiêm nhường, ăn nói có duyên và nhiệt tình. Bà Tuyết được trời ưu đãi, trẻ lâu, lúc ấy tuy gần 40, song da dẻ vẫn mịn màng, đẹp mà không cần son phấn. Hai người phục tài nhau, và cùng một mê say: nhạc dương cầm cổ điển. Từ đó, Bill thường đến nhà bà Tuyết và hai tâm hồn đa cảm làm giàu cho nhau bằng những khám phá lý thú bên đàn dương cầm, thâm nhập vào sự tinh anh, tài ba, xuất thần của các nhạc sĩ thiên tài.

Sở dĩ tôi biết được các chi tiết trên về gia đình BS Hoa vì sau khi ông bà về thành, gia đình tôi cũng hồi cư về làng cũ. Tôi ra Huế tiếp tục học, rồi vào trường Y Sài gòn. Khi đi học cũng như khi ra trường, tôi vẫn thường xuyên đến thăm ông bà. Lúc về Tổng Y Viện Duy Tân, cuối tuần tôi thường chơi mạt chược ở tư thất ông bà. Kết thúc bi thảm sau đây tôi đã cố tìm hiểu, và cho đến nay nghĩ đến tôi vẫn còn bàng hoàng:

Sự đi lại thân thiết giữa bà Tuyết và Bill đi vào một ngã rẽ định mệnh. Không hề nghi ngờ lòng chung thủy của vợ, bỗng một hôm, sau một ca mổ căn thẳng, BS Hoa đột nhiên muốn về nhà nghỉ ngơi. Mở khóa vào nhà, phòng khách không có ai, trong nhà im ắng. Ông đoán là vợ đi phố và các con đều đến trường. Ông lặng lẽ đi vào phòng ngủ và thấy Bill ôm vợ mình, hai người say sưa trong giấc ngủ. Ông choáng váng, lặng người, song cũng vẫn bình tĩnh, không làm ồn ào. Khóa cửa nhà lại như cũ, ông trở lại nhà thương làm việc. Chiều đến ông về nhà, xem như không có gì xảy ra. Trong bữa ăn tối ông vẫn vui vẻ trò chuyện với vợ và con. Nhưng tối đó ông không vào phòng ngủ như thường lệ. Bà Tuyết có trực giác là có điều gì nghiêm trọng. Bà trăn trở, và cuối cùng ra phòng làm việc của chồng. Đèn vẫn sáng. Đồng hồ phòng khách ngân nga điểm hai giờ. Chồng bà gục đầu trên bàn viết, thân thể bất động, chùng xuống trên ghế bành rộng. Hai cánh tay xoải trên bàn, đè một lá thư. Như cái máy, bà rút lá thư xem:

“Em thân yêu. Em hãy xem cái chết của anh như một tai nạn xuất huyết não cấp tính, và làm ma chay bình thường, để khỏi gây những lời dị nghị, có hại cho em và cho con cái chúng ta. Anh vẫn yêu em như thuở ban đầu, và cầu mong em thanh thản, yên vui trong hạnh phúc mới. Riêng anh đã ích kỷ chọn sự yên lặng của nấm mồ.”

Trong hốt hoảng bà điện thoại cho tôi đến gấp. Năm phút sau tôi đã có mặt ở nhà bà. Khám xác và nhìn lọ thuốc ngủ trên bàn, tôi biết BS Hoa đã dùng một liều cực mạnh, và đã tắt thở từ lâu. Thể theo lời người quá cố, tôi đứng ra lo việc ma chay long trọng, mà hầu hết những nhân vật tai mắt của thị xã đều đến phúng điếu, song không mảy may hay biết sự tình, chỉ thương tiếc BS Hoa đã sớm ra đi vì bạo bệnh.

Chừng ba tháng sau tang lễ, bà BS Hoa xuống tóc, vào tu ở một ngôi chùa gần nhà. Bà từ biệt thế giới dương cầm, âm nhạc. Bà buộc vợ chồng tôi dọn về ở nhà bà, tiếp tục coi sóc phòng mạch của chồng bà, và theo dõi hai con bà nay đã vào Đại học ở Sài gòn.

Vì sao BS Hoa đã chọn cái chết? Có lẽ vì quen sống trong tiện nghi, cuộc đời không có những thử thách, lao đao, nên sự thích nghi, đối đầu với biến cố rất yếu. Ông đã có một tình yêu lớn, ông trân quý, xây đắp, và là nơi trú ẩn an toàn cho ông . Ông đã tìm thấy ở đó hạnh phúc lớn nhất của mình. Nhưng biến cố xảy đến, làm cho lâu đài tình ái của ông sụp đổ tan tành. Những điều đẹp đẽ ông trân quý trở nên xấu xa, đen tối không phương cứu vãn. Ông thất vọng não nề. Ông quan niệm cuộc đời quá đẹp. Ông không chấp nhận sự yếu đuối, bội phản. Thật ra vợ ông chỉ là yếu đuối, mà không bội phản. Thiên chúa Giáo khác Phật Giáo ở điểm căn bản. Phật giáo hoàn toàn đặt sự giải thoát khỏi thất tình, lục dục bằng sự tự chủ bản thân, nghĩa là chỉ ta cứu lấy ta. Trái lại Chúa Jesus đã nói: “Linh hồn, thì siêu thoát, nhưng xác thịt yếu đuối.” Sai lầm là nhân bản (to err is human). Biết con người yếu đuối tội lỗi nên Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc nâng đỡ, và sẵn sàng thứ lỗi, khi con người biết hối lỗi và trở về với đường ngay, lẽ thẳng. Sự cứu rỗi con người không thể tự người làm được, mà phải nhờ vào sự cộng tác, dẫn dắt của Thượng Đế. Bởi người là người, không phải là thần thánh. Tự biết mình yếu đuối, và thấy sự yếu đuối của người khác là sự cao cả của con người. (la grandeur de l’homme est grande en ce qu’il se connait misérable, et aussi en ce qu’il a vu la misère d’autrui). BS Hoa phải rộng lượng thứ lỗi cho sự yếu đuối của vợ. Sự im lặng của ông thật đáng ca ngợi, để tránh những đổ vỡ to lớn hơn nữa. Nhưng ông đã ích kỷ tìm sự im lặng của nấm mồ. Ông không biết như thế là làm tan nát tấm lòng yêu thương chân thật của vợ ông, và mối tình lớn mà hai người un đúc sẽ đứt đoạn. Ông phải chấp nhận đau thương, để tình yêu thêm sâu sắc và biết hy sinh hơn nữa. Ông đã làm vợ ông từ bỏ một sự phong phú, giàu có tâm hồn là âm nhạc, vì bà cho đam mê nầy là đầu mối của sự sa đọa.

Một tục ngữ Đức có nói:“Khi người ta đưa quỷ nắm ngón tay, nó sẽ chụp luôn cả cánh tay.” Một cách tránh xa quyến rũ tội lỗi, là đừng bao giờ thử xem một tí. Đây cũng là bài học quá muộn cho bà Tuyết. Trong thâm sâu tâm hồn, bà đau khổ biết bao, khi thấy chính lỗi lầm mình đã đưa chồng vào tuyệt vọng. Tôi thường hay đến chùa thăm bà và đàm đạo với bà về triết lý nhà Phật. Bà đã tìm lại được sự thanh thản tâm hồn ở cửa thiền, và sự tương thông với người chồng quá cố thân yêu. Bà tận tâm trong công việc từ thiện của Chùa. Nhưng điều làm tôi vui mừng nhất là bà đã cho mang đàn dương cầm của bà vào chùa. Bà đã trở lại với âm nhạc để tìm lại sự an bình mới. Bà đã sáng tác nhiều ca khúc thâm trầm siêu thoát, mà mỗi khi tôi vào thăm, bà đàn cho tôi nghe. Đó là những truyền cảm linh thiêng của người mẹ thứ hai trong đời tôi. Tôi ra về với tâm hồn thơ thới và những quyết tâm mới. Tôi đã cùng nhà chùa tổ chức các buổi trình diễn dương cầm của bà cho mục đích từ thiện. Chắc nhiều thính giả lúc ra về cũng thấy cõi lòng hân hoan thơ thới, ít nhất là vì dư âm của những dòng nhạc bất tận, huyễn hoặc, thâm trầm, và cũng có những tâm hồn đồng điệu nhập vào sự huyền nhiệm của tình yêu, sự sống và tài ba, qua sự sắp xếp thần kỳ của tiết tấu và âm thanh, thoát ra dưới ngón tay huyền diệu của ni-cô Băng Tuyết.

Riêng với Bill, tôi đã báo tin cho anh ta về cái chết của BS Hoa. Anh ta có gửi vòng hoa phúng điếu, và không dự đám tang theo lời khuyên của tôi. Sự có mặt một ngoại nhân có thể gây dị nghị. Thư anh gửi cho bà Tuyết sau đó, tôi đã hủy đi hết và dặn anh nên chỉ liên lạc với tôi. Anh có trao đổi với tôi nhiều ý kiến hay. Anh nói là những năm cuối trung học Loyola, tại thị trấn quê anh, do các linh mục dòng Tên (jesuites) cai quản, anh đã học qua nhiều khóa giáo lý. Khi nói đến hôn nhân, các linh mục giảng dạy nhấn mạnh, là phải giữ thanh khiết trước ngày thành hôn. Ở Mỹ hiện nay trong các trường trung học, có những hội đoàn thanh niên nam nữ, thệ giữ đồng trinh (virgin) trước khi lập gia đình. Giáo lý đưa ra nguyên tắc là không được tách rời tình yêu ra khỏi nhục dục (sex). Chỉ tìm thú vui xác thịt là tội lỗi. Anh nói:

-“Tôi đã xem thường điều giảng dạy trên, và hậu quả là đổ vỡ và hối tiếc không nguôi. Trong 10 giới răn mà Moise nhận lãnh từ Thượng Đế có điều: chớ lấy vợ chồng người. Tôi đã phạm tội trọng (péché mortel)”

Sau nầy khi tôi qua Mỹ, tôi có đến nhà anh chơi. Anh đã 60 tuổi. Anh kể là sau khi giải ngũ, anh trở về dạy âm nhạc tại trường trung học Loyola, ở Wichita, quê anh. Anh đổi qua chơi phong cầm cho các nhà thờ. Anh rất mộ đạo và đã yên vui xây dựng gia đình gương mẫu trong giáo xứ. Anh khoe với tôi, các con và cháu của anh đều là hội viên hội “Thệ giữ đồng trinh trước ngày thành hôn.” Trên góc bàn thờ Chúa trong nhà có để ảnh bà Tuyết ngồi trước dương cầm lúc ở Đà Nẵng. “Như thế để nhắc nhở gia đình tôi cầu nguyện cho bà”, anh nói. Trầm ngâm giây lát anh thêm: “Những tình cảm sôi nổi, những thị hiếu nhất thời, những say mê của trào lưu mới, những thú vui thân xác, theo thời gian sẽ qua đi, nhưng đạo đức, luân lý, bổn phận, trách nhiệm, tự chế, khắc kỷ, là trường cửu, và là những yếu tố tạo nên giá trị của con người.

Khánh Giao BS Phùng văn Hạnh

From: KimTrong Lam

Chuyện cái Tên – Tiểu Tử


Tiểu Tử

CHUYỆN 1

Hồi thời đó (thời 1975, bây giờ chắc khác!) muốn đi đâu ra khỏi vùng mình cư ngụ, người dân phải xin giấy giới thiệu của chánh quyền nơi cư ngụ, lận lưng đi đường mới an toàn bởi vì từ điểm A (nơi mình ở) đến điểm B (nơi mình muốn đến) mình có thể bị xét hỏi bởi chánh quyền nơi mình đi qua ! Chưa hết ! Đến nơi (điểm B) mình phải trình giấy giới thiệu để chánh quyền đóng dấu chứng nhận “có đến”, sau đó khi trở về nơi cư ngụ mình phải trả giấy giới thiệu lại cho chánh quyền điểm A để chứng minh rằng mình đã trở về! So với thời “Ngụy” – cái thời mà muốn đi đâu cứ… xách đít đi rồi có trở về hay không trở về chẳng có… con ma nào thắc mắc ! – thì nói “Miền Nam được giải phóng” thiệt tình quá ư là vô lý và hài hước !

Một chị bạn tên Trần Ngọc Nữ xin giấy giới thiệu để đi từ Gia Định về Tây Ninh thăm gia đình. Đến hẹn, chị lại văn phòng Ủy Ban Nhân Dân quận lấy giấy giới thiệu. Thấy trên giấy đề “Trần Thị Nữ”, chị không chịu nên phản đối:

“Tôi tên Trần Ngọc Nữ, anh phải đề Trần Ngọc Nữ cho hạp với các giấy tờ khác, chớ anh sửa Trần Thị Nữ đâu có được!”

Anh chàng cán bộ đội nón cối nghiêng nghiêng (Lạ lắm: làm việc trong văn phòng mà vẫn đội nón và nón cối của họ không bao giờ vừa với cái đầu nên lúc nào cũng thấy… xiêng xiêng xéo xéo!) ngồi sau bàn viết đầy hồ sơ giấy tờ – người đã trao văn bản cho chị Nữ – hất hàm hỏi:

“Chị là đàn ông hay đàn bà, hả?”

Thấy chị Nữ làm thinh, anh ta nói tiếp:

“Chị là đàn bà phải lót chữ THỊ chớ!”

Chị Nữ bực mình nói lớn:

“Tôi không biết! Tôi tên Ngọc Nữ anh phải để Ngọc Nữ chớ anh sửa ngang xương vậy đâu có được!”

Nghe to tiếng, một người từ phòng bên trong bước ra hỏi:

“Gì thế?”

Thấy cha nầy có vẻ… xếp nên chị Nữ phân trần. Nghe xong, anh ta nói:

“Chị nầy có lý ! Đồng chí làm như thế là sai ! Làm lại văn bản khác với đúng tên trong giấy tờ của chị nầy rồi mang vào tôi ký tên !”

Một lúc sau, “đồng chí đội nón cối” trao giấy giới thiệu cho chị Nữ mà nói một cách hằn học:

“Nè! Tôi sửa theo ý của chị rồi đó! Đi ra đường, người ta tưởng chị là đàn ông, thây kệ chị à!”

Chuyện nầy do chị Nữ kể lại rồi chấm câu: “Khùng quá!”

CHUYỆN 2.

Hồi trước 1975, đi lính gọi là đi “quân dịch”. Sau 1975, cũng là đi lính nhưng được gọi bằng một mỹ từ “đi làm nghĩa vụ quân sự”. Gì chớ hai từ “nghĩa vụ” nó… gài con người ta vào công việc gì đó với một sự hãnh diện cao cả chớ không phải bó buộc hạ cấp như “dịch” trong quân dịch. Ở đây, phải công nhận mấy thằng cha cách mạng… xào nấu từ ngữ rất “đỉnh cao trí tuệ”!

Sau 1975, một hôm có ba tên bộ đội nhận chuông nhà tôi. Con gái tôi chạy ra. Họ nói:

“Chúng tôi là phường đội đến gọi anh Võ Hoài Thanh đi họp để chuẩn bị làm nghĩa v quân sự”.

Con gái tôi nói:

“Tôi là Võ Hoài Thanh đây!”

Họ ngạc nhiên:

“Thế… chị không phải là đàn ông à? Lạ nhỉ!”

Chuyện nầy tôi nhớ tới bây giờ có lẽ tại vì nó tếu không chịu được !

CHUYỆN 3 :

Chị Odile là người Việt nhưng nhờ có dân Tây nên vào cuối 1975 chị lo giấy tờ để “hồi hương” nghĩa là trở về cái xứ Pháp của chỉ. Khi chỉ góp hồ sơ ở Nguyễn Du, người cán bộ nói:

“Ngày mai chị đến đây, tôi sẽ gọi tên từng người để trả lại hồ sơ đã cứu xét”.

Hôm sau, chị Odile trở lại ngồi đợi gọi tên mình. Đợi cả ngày không nghe gọi. Rồi hôm sau nữa, chị lại đến ngồi đợi. Chị thấy những người góp hồ sơ sau chị được gọi lại lãnh nên chị “làm gan” chen vào gặp cán bộ để khiếu nại. Cán bộ hỏi:

“Chị tên gì?”

Trả lời:

“Odile”.

Cán bộ dò trong cuốn sổ rồi trả lời:

“Không có”.

Anh ta thấy chị Odile nhăn mặt muốn khóc bèn đẩy cho chị tờ giấy và cây viết:

“Chị viết tên chị vào đây. Viết cho rõ tôi xem nào!”

Chị viết bằng chữ hoa loại chữ in. Cán bộ nghiêng đầu đọc rồi la lên:

“O đi le mà chị cứ nói chị tên Ô gì gì nên tìm không ra!”

Rồi hắn đưa cuốn sổ cho chị xem, ngón tay chỉ chỉ:

“Đây nầy: O ĐI LE đây nầy ! Cả ngày nay tôi gọi rát cả họng mà có thấy ai đâu?”

Hắn tìm trong chồng hồ sơ lấy ra một cái trao cho chị Odile, mỉm cười:

“Nhớ nhé: O ĐI LE chớ không phải Ô gì gì đâu !”

Chị Odile ôm hồ sơ đi ra, bực mình đến độ quên nói tiếng Cám ơn !

Tiểu Tử  

CHÚA DẠY: YÊU THƯƠNG & THA THỨ -Truyện ngắn

Ngày ấy.., tôi đã 33 tuổi, là một năm tôi như rơi xuống vực thẳm tối tăm nhất trên trần gian này…. chiến tranh lạnh giữa tôi với anh kéo dài…

Đã từ lâu, chúng tôi không còn tiếng nói chung…!

Anh là một người chồng gia trưởng, làm gì, tính gì anh đều theo ý mình, cùng với cái TÍNH TRĂNG HOA đã làm cho anh không còn nghĩ gì, lo gì cho tôi và hai con khi chúng còn quá nhỏ…

Rồi việc gì đến cũng đã đến…

Đến một ngày anh nói với tôi là anh muốn ly hôn, anh không thể sống tiếp với tôi được nữa… Bất ngờ đến nghẹt thở, tôi khóc như một đứa trẻ…! Và chọn cho mình sự im lặng !

Hôm ra tòa, anh cho tôi quyền nuôi hai con, cho dù tôi chưa có việc làm ổn định, căn nhà anh để cho mẹ con tôi ở. Buổi chiều ảm đạm hôm ấy, anh gom hết đồ cá nhân ra đi, các con tôi có tiết học thêm ở trường, nên không gặp được anh. Trên đường tôi đi đón con về mà nước mắt tôi cứ tuôn rơi như môt đứa trẻ vậy…!

Các con tôi vẫn được anh đưa đi chơi sau mỗi cuối tuần, nhìn các con thơ ngây, vui vẻ bên cha nó tôi nghe nhói lòng mình…!

Rồi đến một ngày, anh nói với tôi, anh và cô gái trẻ ấy cần phải dọn nhà đi ở nơi xa để tiện việc làm ăn của anh, tôi và các con từ ngày ấy không còn găp anh nữa…!

Mười lăm năm sau… Một chặn đường dài gian khổ, có lúc làm việc quá sức, ngã bệnh, nhưng khi nhìn các con còn quá nhỏ giúp tôi có thêm động lực để vượt qua…!

Dù khó khăn gian khổ, nhưng trong căn nhà nhỏ của ba mẹ con tôi lúc nào cũng vui vẻ và ấm áp…!

Đứa con trai lớn bây giờ đã 26 tuổi , tốt nghiệp ngành Y, cô con gái nhỏ 22 tuổi đã là cô nurse. Có lúc nhìn vào gương tôi thấy mình già đi trước tuổi so với các bạn cùng trang lứa..!

Gần đây, nhận được tin anh bị tai biến, liệt nửa người, cô vợ trẻ ăn ở không, không làm ra tiền, chỉ biết ăn chơi, làm đep . Anh bệnh nằm đó, không tiền thuốc men, nên đã cầm giấy tờ nhà cho ngân hàng. Không thể chăm sóc người đàn ông bại liệt khi cô ấy còn quá trẻ chưa bao giờ chịu cực khổ ….
Một ngày cô ấy ra đi dẫn theo đứa con của anh, anh nằm đó nhìn theo mà bất lực..!

Hai con tôi bây giờ đã có công viêc làm ổn định, thấy ba mình như vậy nên cầu xin mẹ tha thứ và được đưa ba về chăm sóc cho quãng đời còn lại…!

Thương các con và cũng vì tình người, đã thôi thúc tôi chăm sóc cho người đàn ông phụ bạc, người mà làm cho tôi ốm nặng thập tử nhất sinh khi biết mình bị phụ tình..! Thôi thì dù sao cũng từng là vợ chồng, vì các con, cũng là vì tôi không nỡ nhẫn tâm làm ngơ…!

Cũng từ ngày đưa anh về, mặt đối mặt, trong mắt anh: tôi thấy được sự ân hận trong anh,  một người lầm lỗi mong nhận được lời tha thứ của tôi. Cái giá sai đường thì anh cũng đã trả rồi, thôi thì những ngày tháng cuối đời…! Tôi cố gắng trải lòng mình ra mà chăm sóc tốt cho anh vậy….!

NGÀY ẤY…, vì con, tôi cố gắng đi tiếp quãng đường…!

BÂY GIỜ…., vì con, tôi sẽ trãi lòng nuôi người phụ bạc…!

Có một bài học: tôi phải học suốt đời…, đó là học YÊU THƯƠNG.

Có một bài tập CHÚA đã dạy tôi mà tôi PHẢI tập suốt đời, đó là THA THỨ.

Người sống lâu bị nhục nhiều – Hoàng Hải Thủy

Hoàng Hải Thủy

Người sống lâu bị nhục nhiều. Ông cha tôi – các ông Việt ngày xưa – hay dùng thành ngữ “Ða thọ đa nhục.”

***

Tôi không cho là người già bị nhục. Tôi thấy người ta càng nhiều tuổi càng khổ. Khổ vì không còn hưởng thụ gì được sự đời mà phải chịu những bệnh tật do già yêú sinh ra: Người già không tự lo được cho thân mình, mắt mờ, tai điếc, trí nhớ mất, sống nhờ người khác. Người già vua chúa hay cùng đinh, tỷ phú hay anh nghèo rớt một xu dính túi không có, kẻ quyền uy chấn động thế giới một thời hiển hách hay anh phó thường dân cả đời cơm nhà, quà vợ, khi tuổi già đến đều có những nỗi khổ như nhau.

Người ta qua 60 tuổi được kể là già. Ở Việt Nam những năm 1940-1950 người 50 tuổi được gọi là cụ. Khổng Tử chỉ nói về Người đến tuổi 70: “Thất thập nhi tùy tâm sở dục.”  Tôi nghĩ ông muốn nói : “Người bẩy mươi tuổi muốn làm gì thì làm.” Nhưng người bẩy mươi tuổi còn làm gì được nữa. Người bẩy mươi cả Bốn Tứ Khoái đều không hưởng được, không làm được.

Năm nay – 2013 – tôi tám mươi tuổi. Một ngày đầu Xuân Kỳ Hoa Ðất Trích 2013, tôi viết bài này.

***

Năm 2000, khi chia tay nhau lúc nửa đêm ở trước một Nhà Dành cho Người Già Thu Nhập Thấp – Housing for Old Seniors Low Income – ở San Jose, ông bạn già của tôi nói:

“Ðọc những bài viết của toa để nhớ, để thương Sài Gòn của chúng ta.”
Ông cầm tay tôi:

“Viết. Viết nữa. Viết đến năm toa tám mươi. Viết cho bọn moa đọc.”
Ðêm mùa đông San Jose lạnh giá bao quanh chúng tôi khi chúng tôi từ biệt nhau, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối.

Năm 2000 tôi 68 tuổi. Ông bạn HO già hơn tôi năm, sáu tuổi, tôi không biết hôm nay ông còn ở cõi đời này hay không. Thời gian và không gian làm chúng tôi không biết nhau sống chết ra sao. Tám mươi tuổi tôi vẫn viết. Tôi không còn viết phóng tác truyện dài. Tôi viết những bài như bài này.

Thời gian Sống, Yêu và Viết của tôi không còn bao lâu nữa, nên với nỗi Buồn vì phải xa mãi những người tôi yêu thương, hôm nay tôi viết những dòng chữ này.

***

Tôi bị ám ảnh bởi cái Chết, tôi ghét Chết, tôi sợ Chết, tôi không muốn Chết. Không phải bây giờ trong tuổi già, tuổi gần đất, xa trời, tôi mới sợ Chết, tôi sợ Chết từ những năm tôi năm, sáu tuổi, khi tôi bắt đầu biết suy nghĩ.

Nhà tôi ở cuối thị xã Hà Ðông, nhà có lầu, tiếng Bắc là nhà gác, nhà hai tầng. Trên gác nhìn ra tôi thấy cánh đồng với những nấm mồ rải rác trong những ô ruộng, ở gác sau nhìn ra tôi thấy Nhà Thương Hà Ðông và bãi tha ma ở cuối Nhà Thương. Những đêm mưa tôi thấy những chấm lửa lập lòe trong bãi tha ma. Về sau tôi biết đó là những ánh đèn của những người đi soi bắt ếch. Những năm xưa ấy tôi tưởng đó là những đốm lửa ma trơi.

Năm tôi năm, sáu tuổi, mẹ tôi 27, 28 tuổi. Tôi sợ mẹ tôi chết, người ta đem mẹ tôi ra chôn ở ngoài đồng. Mẹ tôi phải nằm một mình giữa cánh đồng vắng, lạnh, cô đơn, nơi mẹ tôi nằm ngập nước, đêm đông, mưa phùn, gió bấc, mẹ tôi khổ biết chừng nào.  Ðó là nguyên nhân thứ nhất làm tôi ghét Chết, tôi sợ Chết.

Mời bạn đọc một chuyện Sống, Yêu và Chết tôi thấy trên Internet.

Trong phiên xử ở Tòa Án Phoenix, Arizona, bị cáo là Ông George Sanders, 86 tuổi, bị xử vì tội giết vợ. Tất cả mọi người có mặt tại toà, từ công tố viên đến chánh án, kể cả con cháu của kẻ bị cáo, đều thấy bị cáo phạm tội giết người, nhưng tất cả đều cho rằng đây là trường hợp pháp luật nên thông cảm, thương hại, tha thứ hơn là trừng phạt kẻ có tội.

Anh cháu của bị cáo George Sanderss nói trước tòa:

“Ông tôi sống để thương yêu bà tôi. Suối đời ông tôi làm mọi việc để bà tôi có hạnh phúc. Mối tình của ông bà tôi là mối tình lớn. Tôi tin ông tôi bị bắt buộc phải làm việc ấy vì yêu thương bà tôi, bà tôi chịu đau quá nhiều rồi, ông tôi không thể để bà tôi chịu đau nhiều hơn nữa.”

Ông Sanders bị bắt Tháng Bẩy năm 2012 sau khi ông nói với cảnh sát bà Virginia, vợ ông, 81 tuổi, xin ông làm bà chết. Vì ông Sanders nhận tội nên toà án không dùng đến bồi thẩm đoàn, nhưng ông vẫn có thể bị kết án đến 12 năm tù.

Bà Virginia bị bệnh nan y năm 1969, bà liệt bại, bà phải ngồi xe lăn. Năm 1970, ông bà sang sống ở Arizona vì khí hậu ở đây ấm nóng. Ông Sanders là Cựu Chiến Binh Thế Chiến II. Ông là người nuôi và săn sóc bà vợ. Ông nấu ăn cho bà, làm mọi việc trong nhà. Mỗi sáng ông giúp bà trang điểm, mỗi tháng ông đưa bà tới Nhà Thẩm Mỹ để bà làm tóc, làm móng tay.

Năm tháng qua, sức khoẻ của ông Sanders suy mòn. Ông phải đặt máy trợ tim, ông không còn săn sóc chu đáo được bà. Rồi bà Virginia bị ung thư phá ra ở chân, bà phải vào một Nursing home để người ta lo cho bà sống qua những ngày tàn cuối đời.

Ông Sanders nói với những viên chức điều tra:

“Ðây là giọt nước làm tràn ly nước. Virginia nhất quyết không chịu vào Nursing home. Vợ tôi tự cắt những ngón chân bị ung thối.”

Ông nói: – “Vợ tôi xin tôi cho bà ấy chết. Tôi nói tôi không thể.”

Vợ tôi nói: “Anh làm được mà. Em biết anh làm được.”

Sanders cầm khẩu súng lục, ông lấy khăn bông quấn ngoài khẩu súng, nhưng ông không sao bóp cò súng được.

Ông kể:  – “Vợ tôi nói: “Bắn đi anh. Cho em đươc chết.”

Tôi nói lời cuối với vợ tôi:

“Em sẽ không cảm thấy đau.”

Và:

“Anh yêu em. Vĩnh biệt em”

Tôi nổ súng.”

Trước toà, người con trai của ông Sandsers nói: – “Tôi muốn quí toà biết rằng tôi yêu thương mẹ tôi, tôi cũng yêu thương bố tôi như thế.”

Steve Sandes, anh con, nghẹn ngào kể: – “Bố tôi yêu thương mẹ tôi trong 62 năm. Những đau đớn thể xác và việc chịu đau vô ích đã làm bố mẹ tôi đi đến quyết định ấy… Tôi không kết tội bố tôi. Với tôi, bố tôi là người tôi cảm phục nhất.”

Ông già George Sanders chỉ nói trong khoảng một phút, giọng ông run run:

“Tôi gặp Viginia năm nàng 15 tuổi, tôi yêu nàng từ năm nàng 15 tuổi. Tôi yêu nàng khi nàng 81 tuổi. Có nàng làm vợ là một ân phúc Thiên Chuá ban cho tôi. Tôi sung sướng được chăm sóc nàng. Tôi làm theo ý muốn của nàng. Tôi xin lỗi các vị vì vợ chồng tôi mà các vị phải bận lòng.”

Ông Công tố đề nghị ông Chánh án không phạt tù giam George Sanders, ông nói toà nên xử án treo.

Ông Chánh án John Disworth nói ông đặt nặng tình nhân đạo trong vụ án này. Ông nói: – “Bị cáo phạm tội giết người, nhưng được toà giảm nhẹ mức án.”

Ông tuyên phạt ông già George Sanders 2 năm tù treo. Tù treo không bị cảnh sát kiểm soát.

***

Chuyện ông bà Sanders làm tôi suy nghĩ lan man. Tôi nhớ chuyện Cái Bát Gỗ tôi đọc những năm tôi 10 tuổi. Anh con thấy ông bố già run tay, khi ăn hay đánh rơi bát cơm, bát vỡ. Anh làm cái bát bằng gỗ cho ông già ăn cơm. Ông có làm rơi bát, bát gỗ không bị vỡ.

Một hôm anh thấy thằng con nhỏ của anh hí hoáy đục đẽo một cục gỗ, anh hỏi nó đục gỗ làm gì, con anh nói: – “Con làm cái bát gỗ, để khi bố già, con cho bố ăn cơm.”

Chuyện – dường như – ở trong sách Quốc Văn Ðộc Bản – đã 70 năm tôi không quên nó – nó đây là chuyện cái Bát Gỗ – nhưng chẳng có dịp nào tôi nhớ nó. Hôm nay tôi nhớ nó.

Từ sau năm 1975 ở Hoa Kỳ, Nhà Xuất Bản Xuân Thu in lại tất cả những sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư. Nhưng sách Quốc Văn Ðộc Bản – sách có nhiều bài thật hay – thì không thấy in lại. Tôi không biết tại sao Quốc Văn Ðộc Bản không được in lại ở Hoa Kỳ. Tôi đã đọc lại tất cả những sách Giáo Khoa Thư được in lại ở Hoa Kỳ, tôi muốn đọc lại những bài trong Quốc Văn Ðộc Bản.

Tôi nhớ lâu rồi, từ những năm 1950 khi tôi chưa gặp Tình Yêu Vợ Chồng, tôi đọc trên trang sách nào đó lời một ông Tầu viết: – “Vợ chồng như hai con chim tình cờ cùng đậu trên một cành cây. Ðến lúc phải bay đi, mỗi con bay đi một phiá.”

Năm xưa còn trẻ, tôi muốn phản đối lời diễn tả trên. Ông Tầu muốn nói vợ chồng là chuyện ngẫu nhiên, chẳng có tình nghĩa gì giữa vợ và chồng. Hôm nay tôi mới dịp viết ra lời phản đối.

Ông bác sĩ điều trị cho vợ chồng tôi mỗi tuần một ngày vào chẩn bệnh cho những ông bà già trong một Housing for Old Seniors – Housing này có nhiều ông bà già Mỹ trắng – ông nói: – “Có những cặp vợ chồng về già không nhìn được mặt nhau.”

Lời kể của ông làm tôi buồn. Vợ chồng sống với nhau đến già, ở chung một nhà già – mỗi người một phòng – sắp ra nghĩa địa, sắp vào hũ sành mà thù hận nhau đến không nhìn mặt nhau?? Thù hận gì dữ dội đến thế? Những người ấy thật khổ.

Bát đại khổ não ghi “8 Nỗi Khổ Lớn” của con người:

Sinh, Lão, Bệnh, Tử: 4 Khổ ai cũng phải chịu.
Muốn có mà không có: Khổ 5
Có mà không giữ được: Khổ 6.
Yêu nhau mà không được cùng sống: Khổ 7.
Ghét nhau mà phải sống gần nhau: Khổ 8.

Có người chỉ phải chịu có 7 Khổ.  Ðó là những người không yêu ai cả.

Nhiều người Việt phải chịu cả 8 Khổ; đó những người thù ghét bọn Việt Cộng mà cứ phải sống với bọn Việt Cộng.

***

Mùa thu mây trắng xây thành.

Tình Em mây ấy có xanh da trời.

Hoa lòng Em có về tươi?

Môi Em có thắm nửa đời vì Anh?

Tôi làm bài thơ trên Tháng Bẩy năm 1954 ở Vũng Tầu, ngày chúng tôi yêu nhau. Cuộc Tình của chúng tôi đã dài trong 60 năm. Cuộc Tình Vợ Chồng, trong cuộc đời Tám Khổ này, nàng và tôi chỉ phải chịu có Bẩy Khổ.

Năm 1979 nằm phơi rốn trong Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, nhớ Nàng, tôi làm bài thơ:

Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,

Hai mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.

Từ xanh đến bạc mái đầu

Tình ta nước biển một mầu như xưa.

Yêu bao giờ, đến bao giờ?

Thời gian nào rộng cho vừa Tình ta.

Hoa lòng Em vẫn tươi hoa,

Môi Em thắm đến Em già chưa phai.

Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai.

Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe Em

Mặt trời có lặn về đêm,

Sớm mai Em dậy bên thềm lại soi.

Cuộc đời có khóc, có cười,

Có cay đắng, có ngọt bùi mới hay.

Thu về trời lại xanh mây.

Ðầy trời ta thấy những ngày ta yêu.

Càng yêu, yêu lại càng nhiều.

Nhớ Em, Anh nhắn một điều: “Yêu Em.”

Năm 2013 tôi đổi hai tiếng trong bài thơ:

“Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,

Sáu mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.”

***

12 giờ buổi trưa tháng Sáu, 2012, Nàng bước hụt, ngã nhào qua bốn bực thềm cửa, nàng ngất đi. Ngồi bên nàng trong nắng trưa mùa hạ Virginia, chờ Ambulance đến, nước mắt tôi ưá ra.

Trong ICU – Ai Si Yu – Intensive Care Unit – tỉnh lại, nàng nói: – “Xin Thiên Chúa tha tội cho em.”

Tôi nói: – “Em có tội gì. Mà Em có tội gì, thì Thiên Chúa cũng tha cho Em rồi.”

Nàng chỉ bị dập xương nên không bị mổ, không bị ghép xương, không phải bó bột. Về nhà nằm, uống Vitamin D, chờ vết xương nứt lành lại.

Tình trạng bi đát. Nhiều người nói người trẻ khi bị nứt xương mới mong vết xương nứt liền lại, người già 70 thì vô phương. Nếu vết xương nứt không lành, nàng sẽ phải nằm mãi trên giường.

Tôi hầu nàng ngày đêm. Gần như suốt ngày đêm, tôi xin Ðức Mẹ Maria cho nàng đi lại được. Tôi chỉ xin Ðức Mẹ cho nàng đi được từ giuờng ngủ vào nhà bếp, vào toilet, ra ngồi bàn ăn cơm, nàng tự tắm được.

Bộ Xã Hội cấp cho nàng đủ thứ nàng cần dùng: Xe đẩy, gậy chống, ghế để ngồi tắm.. Chuyên viên y tế – therapist – đến nhà mỗi tuần ba lần, giúp nàng ngồi lên, tập đi.

Một tháng sau nàng đi được.

***

Ba năm nay Nàng có tới ba, bốn lần đau nặng, hai ba lần nàng tự nhiên ngã. Một lần nàng hôn mê. Ðêm khuya trong bệnh viện, nằm trên cái canapé nghe tiếng nàng thở khò khè, tôi nghĩ: – “Tiếng thở này tắt là…”

Tôi cầu xin: – “Xin Đức Mẹ cho vợ chồng con được sống với nhau 5 năm nữa.”
Tôi không muốn tôi chết trước nàng, tôi không muốn nàng chết trước tôi.
Nàng chết trước tôi không biết tôi sống ra sao. Tám mươi tuổi, tôi sống với nàng 60 năm, tôi sống dựa vào nàng. Tôi sống bằng Tình Yêu của nàng.

Năm 1976 gặp lại nhau, Lê Trọng Nguyễn nói: – “Tao không biết mày có đi được không. Tao cứ tưởng mày làm USIS là mày đi được. Hôm tao gặp thằng S. ở trong khu nhà mày, tao hỏi nó mày có đi được không? Nó nói mày không đi được. Tao kêu lên: “Làm sao nó sống? Nó sống bằng gì? ” S. nó nói: – “Nó sống bằng Tình Yêu của vợ nó.”

Người bạn cùng tuổi tôi – 80 – lấy vợ cùng năm với tôi – năm 1954 – vợ chồng anh cũng sống với nhau 60 năm, một sáng từ Cali anh gọi phone cho tôi báo tin vợ anh qua đời, tôi hỏi: – “Ðau lắm không?”

Ðau thì tôi biết bạn tôi đau, nhưng tôi muốn biết anh đau đến ngần nào. Hỏi dễ, trả lời khó. Bạn tôi nói: – “Ðứt ruột, nát gan.”

Lần cuối tôi gặp ông Lê Văn Ba, ông hơn tôi 10 tuổi, ông nói với tôi: – “Tôi nói với bà nhà tôi: Bà nên đi trước tôi là hơn, tôi đi trước bà, bà sẽ khổ lắm.”

Năm sau ông đi trước bà. Ðứng bên quan tài ông, tôi nhớ lời ông nói.

Ông bạn HO có bà vợ bại liệt, ông phải đưa bà vào Nursing Home. Ðể bà ở lại ông một mình lái xe về. Dọc đường ông run tay lái, mắt ông mờ. Ông đậu xe bên đường, xuống đi bộ vài vòng lấy lại tinh thần. Khi trở lại tìm xe, ông quên không nhớ ông đậu xe ở đâu. Ông mở cellphone gọi ông bạn đến giúp.

***

Người đời chỉ nói “Good bye.”
“See You next week, next time” là cùng.
Ðôi ta ngọc nữ, tiên đồng,
Ðôi ta Từ Thức vợ chồng Giáng Hương.
Ngàn đời vẫn nhớ, còn thương:
Em yêu, đã đến cuối đường: “Good bye.
See You next Life./.

Hoàng Hải Thủy

From: Dương Phong

KHÁCH SẠN 22 – Khôi An

Mai Thái Vân ThanhTRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM

Khôi An

Lisa choàng dậy, ngóc đầu nhìn. Xe bus vừa đi qua Palo Alto Highschool, nghĩa là chỉ còn vài phút nữa thì tới trạm. Nó gạt cái chăn mỏng sang một bên, chống tay ngồi dậy. Bên cạnh, Ba vẫn đang ngủ, đầu dựa vào cửa kính, miệng hơi há ra. Trong giấc ngủ mà trông ổng cũng như đang lo lắng chuyện gì, đôi lông mày nhíu lại. Lisa lặng lẽ xếp cái chăn rồi nhét vào túi xách dưới chân.

Đèn trong xe bật sáng, tiếng nói quen thuộc từ chiếc loa tự động phát lên “Xe bus đang vào trạm Palo Alto Transit Center, trạm cuối của tuyến đường 22. Xin mọi người chuẩn bị xuống xe.” Trong khoảnh khắc, trong xe ồn ào hẳn lên với tiếng ngáp, tiếng ho, tiếng lôi kéo hành lý, tiếng càu nhàu. Ba nó dụi mắt lia lịa, gài lại áo ấm rồi khoác mấy túi đồ đạc lên vai. Xe ghé trạm rồi từ từ ngừng lại. Người ta đổ xô ra cửa, Lisa và Ba cũng hòa vào dòng người, xuống xe.

Lisa đút hai tay vào túi áo. Tháng Mười rồi, đứng ngoài trời đêm mà không dấu kỹ thì chỉ một lát là hai bàn tay nó lạnh như nước đá. Từ xa, hai con mắt khổng lồ, vàng rực của chuyến xe đi hướng Đông đã hiện ra sau lớp sương mỏng. Lisa thở phào, nó sắp được chui vào trong xe ấm áp…

Chuyến xe về Eastridge Mall cũng gần đầy người. Như thường lệ, hai cha con Lisa nhanh chân giành được băng ghế cuối. Nó ngồi sát cửa sổ, nhìn ra ngoài. Con đường El Camino Real ở khúc này là đẹp nhất vì đi ngang qua thành phố Palo Alto, nơi nó nghe nói rằng chỉ có những người giàu kinh khủng mới có nhà ở đó. Xe đang đi dọc theo khoảng đất rộng hút mắt với những cây thông thật cao, dọc hàng rào có treo những tấm hình rực rỡ về trường đại học Stanford. Cái trường này nó biết vì mùa hè rồi trong những ngày trời nắng ấm hai cha con nó có lang thang đi bộ từ bến xe bus vô đó. Nó mê cái bãi cỏ mênh mông, xanh rờn ở phía trước tòa nhà mái đỏ ngay giữa trường, nhìn xéo qua ngọn tháp cao có cái nóc tròn trông giống như cây viết khổng lồ. Nằm ở đó nhìn lên thì trời xanh biếc, cây xanh nõn nà, nhìn chung quanh thì ai cũng tươi tốt, mạnh khỏe, tự tin. Nó nghĩ cảnh đó chắc giống như ở thiên đàng. Nó mê bãi cỏ đó đến nỗi có lần buột miệng hỏi “Ba ơi, nữa lớn con xin vô học trường này, được không Ba?” Ba nhìn nó, miệng há ra mà không nói được tiếng nào, một lát sau ổng mới thốt nên lời “Ờ…ờ…được chứ con… Con ráng hết sức thì… chắc được…” Nghe nói vậy nhưng nó không tin tưởng lắm vì điệu bộ của Ba nó giống y hệt như lần nó hỏi “Ba ơi chừng nào Mẹ về?” Chỉ khác là hồi đó nó mới sáu tuổi và chưa hiểu “chết” nghĩa là không bao giờ về nữa.

Áp trán vào khung kính lạnh buốt và nhớ lại, nó nghĩ là muốn vô trường Stanford thì nó phải có cây đũa thần. Mà cũng chưa chắc, vì nếu cây đũa chỉ cho một điều ước thì nó sẽ ước cha con nó có một nơi để ở. Nó rất sợ thời gian ngủ lang thang trên mấy băng ghế lạnh ngắt trong những công viên tối thui. Có những đêm trời mưa lâm râm, hai cha con nó nằm ngược đầu đuôi trên băng ghế, đắp chung tấm nylon. Tiếng mưa rơi lộp độp trên nylon làm nó không ngủ được, thêm nữa nó cứ sợ ngủ quên mà trời mưa lớn thì ướt hết sách vở ở trong cái backpack gối dưới đầu. Sau mấy đêm như vậy, giờ hễ thấy trời âm u chuyển mưa là hai lòng bàn chân nó tự nhiên lạnh ngắt.

Cũng may mà hai cha con nó khám phá ra Khách Sạn 22.

Đó là cái tên mà những người không nhà đặt cho tuyến xe bus số 22.

Buổi chiều hôm đó, Lisa cứ nấn ná trên bãi cỏ xanh của trường Stanford nên tới hơn 8 giờ tối mới lên xe bus 22. Hai cha con định đi về khu phía Đông San Jose kiếm chỗ ngủ để ngày mai Ba còn đi xin việc làm ở mấy cái chợ Á châu gần đó. Lên xe, nó ngờ ngợ vì thấy xe đông hơn hẳn những chuyến bình thường, và ai cũng mang nhiều đồ đạc. Một bà ngồi ở băng ghế trước còn có cả một cái xe đẩy chất túi xách, chăn mền. Hơn hai tiếng sau, xe ghé trạm cuối ở Eastridge Mall, nó thấy phần đông khách trên xe lại xếp hàng chờ chuyến xe đi ngược lại. Lúc đó, hai cha con nó mới hỏi thăm và biết là có ba chiếc xe bus chạy vòng vòng trên tuyến đường này cho tới sáng. Từ ngày đó, hai cha con nó gia nhập Khách Sạn 22.

Đây là tuyến xe duy nhất chạy suốt ngày đêm của quận hạt Santa Clara, cũng là tuyến đông khách nhất và chạy con đường dài nhất. Bắt đầu từ Eastridge Mall ở phía Đông thành phố San Jose xe chạy qua đường Tully, quẹo trái đường King, dọc theo đường Santa Clara qua downtown San Jose, nối qua đường Alameda, lên El Camino Real, chạy qua ba thành phố Santa Clara, Sunnyvale, Mountain View trước khi vào thành phố Palo Alto rồi ghé vô trạm chót.

Bây giờ thì Lisa rành lắm rồi. Nó biết rõ đi một chuyến xe thì phải trả hai đô la. Nhưng hầu hết những người trên Khách Sạn 22 đều dùng vé tháng, mỗi tháng bảy chục đô la. Valley Transportation Authority của quận hạt Santa Clara, mà mọi người gọi tắt là VTA, thỉnh thoảng còn cho những người không nhà hoặc những người sắp mất chỗ ở một tấm vé dùng được trong ba tháng. Mấy tấm vé miễn phí đó cũng hiếm hoi như một chỗ ngủ trong những nhà tạm trú (homeless shelter). Dù sao, chỉ tốn bảy mươi đô la mà có phương tiện đi lại và chỗ ngủ trong cả một tháng dài, đối với cha con nó lúc này, là một sự may mắn và vô cùng quan trọng.

* * *

Dù đã lang thang không nhà gần năm tháng, Lisa vẫn không nghĩ hai cha con nó là người homeless. Nó thấy chữ “homeless” nghe buồn bã quá, và chỉ hợp với những người chấp nhận là từ nay về sau họ sẽ không có nhà ở nữa. Cha con nó là những người “between homes”, nghĩa là đang kiếm chỗ ở.

Hồi xưa, lúc còn Mẹ, gia đình nó cũng có “home” trong một khu chung cư rất dễ thương, ở gần cái công viên thật rộng. Cuối tuần Ba tập cho nó chạy xe đạp còn Mẹ thì trải khăn trên thảm cỏ xanh rờn và nướng thịt bay mùi thơm phức. Tới giờ thỉnh thoảng nó vẫn còn nằm mơ thấy Mẹ cười thật tươi dưới tàn lá xanh lấp loáng ánh nắng công viên, và khi tỉnh dậy nó gần như chắc chắn là trong mơ nó đã ngửi thấy mùi thịt nướng.

Ngày đầu tiên nó vô lớp Một, Mẹ nó còn dắt nó đi học, còn đứng lấp ló ngó chừng, khi thấy nó không khóc Mẹ mới đi làm. Ngày Giáng Sinh năm đó nó còn vẽ tấm hình có nó, Ba, và Mẹ đánh son đỏ chót thiệt là đẹp. Vậy mà chỉ vài tháng sau Mẹ vô nhà thương. Bữa cô Cindy, em của Ba, hớt hải chạy vô xin cho nó về thăm Mẹ, cô giáo nắm tay nó và nói “Poor baby” (tội nghiệp cưng). Đó là lần đầu tiên nó thấy Ba khóc, nước mắt chảy ròng ròng. Và đó cũng là lần chót Mẹ mở mắt ra nhìn nó.

Sau đó cha con nó dọn về ở chung với cô Cindy và dượng Ben. Những chuyện xảy ra trong vài năm sau khi Mẹ mất, Lisa chỉ nhớ lác đác, tựa như đầu óc nó lạc trong một giấc ngủ dài sau khi Mẹ ra đi. Nhưng những chuyện gì đã nhớ thì nó nhớ rõ, thí dụ như là nó mới vô lớp Bốn thì Ba bị đau lưng. Dượng Ben nói tại Ba làm cực, khiêng nặng mà không đeo thắt lưng bảo vệ. Ba bịnh chưa hết thì dượng Ben mất việc làm. Ngày dượng tìm được việc làm ở xa, hai cô dượng và mấy đứa con phải dọn đi. Cô Cindy ôm hôn nó và nói “Con ráng ngoan nha”. Giọng cổ nghẹn ở mũi, nó nghĩ cổ nói vậy để khỏi khóc chứ ở chung mấy năm trời, cổ biết lúc nào nó chẳng ngoan.

Từ đó, hai cha con dọn vào một căn phòng nhỏ xíu. Ba vẫn đau lưng rề rề. Ba thuờng phải nghỉ làm, nằm một mình trong căn phòng đóng cửa tối mờ. Một ngày kia đi học về nó thấy trước nhà dán một phong thư. Đem vô đưa Ba coi, Ba không nói tiếng nào. Mãi đến khi ăn xong bữa tối Ba mới lấy thùng dọn đồ đạc vô và nói mình không có trả tiền nhà tháng rồi, chủ nhà gởi thư bắt dọn đi.

Bữa đầu hai cha con tới Commercial Street Inn ở San Jose. Sau khi đứng chờ ở một hàng dài, tới phiên hai cha con nó, cô thư ký lắc đầu:

– Ở đây là nơi tạm trú của các bà mẹ có con nhỏ.

Ba nó nài nỉ:

– Con tôi cũng nhỏ nhưng mẹ nó chết rồi. Cô làm ơn!

Cô ta vẫn lắc đầu:

– Mỗi phòng có bốn, năm đàn bà, con nít ở chung, làm sao tôi cho ông vô? Mà không có ông, ai chịu trách nhiệm cho con bé?

Thấy cha con nó ngần ngừ, ngơ ngác, không biết đi đâu, cô thư ký thương tình cho nằm đỡ dưới đất ngay trong phòng chờ đêm hôm đó. Hôm sau hai cha con lại dắt nhau đi.

Ba dắt nó vô thư viện coi nhờ Internet và xin tài liệu để đi tìm những shelter (nhà tạm trú) khác. Được bà coi thư viện tốt bụng in ra cho một danh sách các shelter trong quận hạt Santa Clara con Lisa mừng quá. Nhìn thấy tới mười chỗ trong danh sách, nó chắc là cha con nó sẽ tìm được một nơi ở tạm vài tuần. Nhưng coi vậy mà không phải vậy…

Tuần lễ đó, hai cha con nó chỉ được ngủ trong shelter có hai ngày vì ở đâu cũng đầy người, nếu tới sau sáu giờ thì chắc chắn không còn giường trống. Có những shelter chỉ dành riêng cho những người bị bệnh tâm thần, và chỉ có một shelter dành cho gia đình chịu cấp phòng cho cha độc thân và con nhỏ. Có lần nó hỏi tại sao quận hạt Santa Clara có tới hai chỗ cho những người mẹ có con nhỏ mà không có chỗ nào dành cho cha với con nhỏ, cô thư ký suy nghĩ một chút rồi nói:

– Bởi vì hầu hết những người có con nhỏ đến nhờ giúp đỡ đều là đàn bà. Em thông minh lắm, nhưng rất tiếc tôi không giúp được em. Người ta đặt ra những chương trình để phục vụ số đông. Cha con em là trường hợp đặc biệt.

Nó thấy buồn nhưng chỉ nắm tay Ba và trả lời: Vâng, cha của con là người rất đặc biệt.

Chỉ có một câu vậy thôi mà cả hai người lớn, cha nó và cô thư ký, đều chớp mắt như muốn khóc.

Trong mấy tháng cha con nó ngày nào cũng vô thư viện tìm thêm tài liệu về những shelter rồi đi xin khắp nơi. Nhờ đọc nhiều nên nó biết được là cứ mỗi đêm ở trong quận hạt Santa Clara có tới hơn năm ngàn người không nhà cần chỗ ngủ. Mỗi shelter thường chỉ có mấy chục phòng, và có những nơi chỉ mở cửa vào mùa Đông. Hèn gì mà cha con nó thường phải ghi tên chờ tới phiên, có khi cả mấy tuần mới được.

Thời đó, cứ sau bữa ăn trưa là hai cha con lo tìm chỗ ngủ. Đi mấy chuyến xe bus mới tới nơi, người ta hết chỗ, đứng ngẩn ngơ vài phút rồi lại ráng đoán xem chỗ nào còn chỗ, leo lên xe đi tiếp. Rồi đêm xuống, vẫn còn ngoài đường, hai cha con thất thểu dắt nhau kiếm tòa nhà nào có chút mái che và sáng sủa cho đỡ nguy hiểm, rồi ráng quấn chăn cho ấm và ráng ngủ. Có nhiều đêm nó biết Ba sợ cho nó, bắt nó nằm vô sát vách rồi lấy chăn trùm kín mít. Vậy mà khi nó giật mình thức giấc vẫn thấy Ba mở mắt nằm thao thức.

* * *

Từ khi có Khách Sạn 22 làm nơi trú mỗi đêm, Lisa thấy đời sống của nó khá hơn nhiều.

Lúc đầu nó hơi khó ngủ vì xe cứ chạy rung rung rồi lại thắng ken két. Mỗi lần tới trạm loa phóng thanh còn phát tiếng nhắc nhở làm nó giật mình hoài. Những khi không ngủ được nó ngồi ngắm các hành khách. Lúc đầu khuya còn có những người đi làm ca đêm hoặc đi chơi về trễ. Những người này có vẻ vội vã, họ thường chăm chú bấm lia lịa trên điện thoại di động trong suốt chuyến xe. Qua hai giờ đêm, xe chỉ còn toàn là những người đi xe mà không có chỗ đến như cha con nó. Họ ngồi gật gù trong giấc ngủ chập chờn hoặc nằm co ro trên các băng ghế. Rồi nó cũng từ từ nằm xuống, gối đầu lên chiếc backpack, và thiếp đi.

Sau vài tuần nó đã quen. Nó có thể ngủ say nhưng luôn thức dậy khi xe tới bến chót, rồi lại ngủ tiếp trên chuyến xe ngược lại.

Điều làm Ba nó mừng nhất là trên xe bus an toàn. Về phần nó, nó thích nhất vì Khách Sạn 22 giúp mọi chuyện trở nên đều đặn. Mỗi sáng nó đi xe tới trường học, chiều về đón xe bus tới thư viện ở đường Alum Rock học bài. Tới giờ thư viện đóng cửa thì nó đi bộ qua tiệm Goodwill ngay gần đó. Tiệm này là nơi bán đồ cho người nghèo, những ngày Ba không đi xin việc thì ổng làm không có lương ở đây.

Những người lái xe chuyến 22 đều biết rõ là nhiều người không nhà dùng chiếc xe làm nơi ngủ nhưng họ không làm khó dễ. Chỉ cần những “hành khách đi không bao giờ tới” này tuân theo luật lệ, không ăn uống, hút thuốc, xả rác, hay làm ồn ào trên xe. Ông Tom, một trong những người lái xe, có lần nói:

– Đối với tôi, những người không nhà cũng như mọi hành khách khác. Nếu họ có vé thì họ được đi xe. Thường thường họ đều là người tốt, chỉ đang gặp khó khăn.

Thoát khỏi nỗi lo lắng về chỗ ngủ đeo đuổi suốt ngày, Lisa học giỏi hơn trước. Có lẽ nhờ ngày nào cũng học trong thư viện nên năm nay nó đạt nhiều điểm cao nhất. Từ khi khai trường vô lớp Năm, nó thường xuyên được điểm A. Lần đi họp phụ huynh về, Ba nó ôm nó thật chặt rồi nói “Ba thiệt không dám tưởng tượng là con giỏi vậy!”

Bạn bè nó không ai biết là nó không có nhà, có lẽ vì hai cha con nó luôn giữ sạch sẽ, gọn gàng. Ngày nào sau giờ học nó cũng tới một trung tâm sinh hoạt cộng đồng có hồ bơi và phòng tắm cho người đi bơi. Nó hòa vô đám người đó tắm rửa rồi giặt quần áo, vắt khô bỏ vô bịch, sau đó trải một tấm nylon phơi lén ở cái bãi đậu xe đằng sau Goodwill.

Từ hồi tháng Chín, mỗi sáng khi xuống xe ở trạm gần trường, nó đều gặp một cặp vợ chồng với một đứa con trai nhỏ đón xe ở đó. Đứa bé chắc đang học lớp Một, giống như nó thời còn Mẹ. Lần đầu tiên nó nhìn họ từ trên xe bus, bà mẹ đang cúi xuống gài lại áo lạnh cho thằng bé. Không hiểu sao nó thấy cái cử chỉ đó, cái dáng điệu đó, giống in như mẹ nó ngày xưa. Lần đó, sau khi xuống xe, nó chậm bước nhìn họ cho rõ. Từ đó, lần nào gặp họ nó cũng phải nhìn, vừa nhìn vừa thầm mong cái buồn buồn xốn xang trong bụng đừng hiện ra trong con mắt. Có lẽ vì nó nhìn họ hoài, họ cũng nhớ mặt nó. Gần đây, ngày nào hai bên cũng nói “Hello” chào nhau. Thỉnh thoảng có ngày không gặp họ, nó cảm thấy chút gì như là mong nhớ…

Một đêm cuối tháng Mười, trên Khách Sạn 22 xuất hiện vài khuôn mặt lạ. Họ tự giới thiệu là phóng viên của báo San Jose Mercury News, nghe nói về nơi này và muốn tìm hiểu thêm. Lisa không muốn nhắc đến chuyện không có nhà nên kéo chăn che mặt, làm bộ ngủ. Ba chỉ miễn cưỡng trả lời vài câu hỏi và không đưa tên tuổi gì hết.

* * *

Lá phong trên hàng cây dọc con đường Alameda đã đổi màu, cửa kính của các nhà hàng đã xuất hiện hình vẽ gà tây bên cạnh những trái bí rợ. Màu cam, màu đỏ của mùa lễ làm Lisa thấy buồn buồn. Cái vui vẻ, ấm áp của người ta làm nó chợt nhớ rằng lâu lắm rồi nó không được nhìn thấy một nồi súp đang bốc khói trên cái lò cháy đỏ trong một căn bếp, nơi mà các gia đình quây quần ăn bữa tối…

…Thứ Bảy, buổi sáng trời nắng ấm. Hai cha con nó xuống xe ở đường Santa Clara rồi đi bộ tới công viên Cesar Chavez. Có một nhóm người đang phát những thức ăn nóng tại đó. Nghe nói có súp đậu, gà nướng, khoai tán, và cả bánh nhân bí đỏ nữa. Những món ăn tuyệt vời, chỉ nghĩ thôi mà đã phát thèm! Nó nắm tay Ba nối đuôi xếp hàng, và háo hức chờ đợi. Chỉ còn năm, bẩy người nữa là tới phiên nó.

Bỗng tim nó thót lại!

Nó vừa nhìn thấy bà mẹ của thằng bé mà nó gặp hàng ngày đang tươi cười đứng trong đám múc đồ ăn cho đoàn người không nhà. Nó lôi Ba tách khỏi hàng, quay ngoắt đi, vội vàng như chạy trốn. Ba nó vừa rảo bước theo vừa hỏi “Sao vậy? Cái gì vậy? Lisa?” Nó không nói gì, chỉ cắm đầu đi. Qua một khúc quẹo, khi biết chắc là bà ta không thể thấy hai cha con nó, Lisa mới đứng lại. Rồi tự nhiên nó thấy giận. Giận vì mình không có nhà, giận vì mình sợ người ta biết, giận vì mình đã làm Ba mất một bữa ăn ngon. Nó bật khóc nức nở…

* * *

– Lisa, con ăn đi!

Tiếng Ba nó nhắc nhở làm nó trở về hiện tại. Nó đang ngồi trong một nhà hàng sang trọng ngay trung tâm thành phố San Jose, đối diện với ông Sam, bà Nancy, và thằng bé Danny (bây giờ nó đã biết tên của họ.) Ánh mắt của bà Nancy thật là vui và ấm áp. Nhưng nó vẫn thấy ngại ngùng, thắc mắc không hiểu tại sao họ cất công mời Ba và nó đi ăn. Không lẽ bà Nancy đã thấy nó bỏ chạy từ đoàn người xếp hàng xin thức ăn hôm nọ, và muốn đền bù cho hai cha con một bữa?

Sáng hôm qua, thứ Sáu, Ba và nó cũng mỉm cười chào gia đình thằng bé như mọi ngày. Bỗng ông Sam tiến tới bắt tay Ba rồi nói:

– Chào ông. Tôi là Sam, đây là vợ tôi, Nancy, và cháu trai Daniel. Chúng ta biết nhau khá lâu rồi, hôm nay tôi muốn được hỏi tên ông và cháu gái.

– Chào ông bà. Tôi là John, con gái tôi là Lisa.

Sau vài câu trao đổi, họ mời cha con nó đi ăn vào ngày mai. Ba nó cũng rất ngạc nhiên, ấp úng từ chối. Nhưng họ thuyết phục mãi, và bây giờ cha con nó đang ngồi đây.

Dù sao những món ăn trên bàn cũng quá hấp dẫn, và vẻ cởi mở, ân cần của hai ông bà cũng không có dấu hiệu gì đáng lo. Lisa bắt đầu cắn vào miếng thịt gà vàng rộm và mỉm cười với thằng bé Danny.

Khi Lisa vét xong muỗng kem tráng miệng cuối cùng, bà Nancy ngồi thẳng lên. Bà nhìn Lisa, rồi nhìn Ba, rồi nói:

– Cách đây hai tuần tôi thấy hình ông và cháu Lisa trên báo San Jose Mercury News.

Lisa nghe máu chạy một cái rần lên mặt. Nó không biết mặt nó đang đỏ bừng hay tái mét. Bên cạnh nó, Ba cũng có vẻ sững sờ. Hai cha con mở to mắt nhìn những người phía bên kia bàn.

Bà Nancy phát một cử chỉ như muốn nắm lấy tay nó. Bà tiếp tục nói, thật dịu dàng:

– Tôi có đưa bài báo đó cho nhà tôi coi. Ổng là giám đốc chương trình của một cơ quan thiện nguyện tên là Dịch Vụ Về Chỗ Ở Vùng Vịnh, và tôi là giáo sư ở trường Đại Học San Jose. Chúng tôi muốn giúp ông và cháu rời khỏi chiếc xe bus 22. Từ đó tới nay, chúng tôi đã gọi cho những người quen biết và tìm được một nơi có thể giúp ông và cháu. Thứ Hai, mời ông tới văn phòng….

* * *

Bây giờ hai cha con Lisa đã được cấp một căn phòng tại một nơi tạm trú cho các gia đình đang gặp khó khăn. Trong thời gian ở đây, Ba nó được đi học những lớp dạy nghề, và người ta hứa sẽ giúp Ba đi kiếm việc.

Mỗi khi nghĩ lại, Lisa thấy có nhiều việc liên hệ với nhau một cách diệu kỳ. Không biết có phải Mẹ đã đưa đẩy cho nó quen được những người tốt bụng để họ giúp đỡ cha con nó hay không.

Bây giờ ước mơ của nó là khi lớn lên sẽ làm giám đốc chương trình giúp đỡ nhà cửa cho người nghèo, giống như ân nhân của nó. Khi đó, nó cũng có thể làm điều kỳ diệu cho những đứa bé không nhà khác, những đứa bé mà nó biết là có rất nhiều ở khắp nơi. Nó tin là nó sẽ làm được, chỉ cần ráng học thật giỏi và quyết tâm.

Và Lisa còn học được một điều mới nữa trong thời gian nương náu trên Khách Sạn 22.

Rằng, có những người thật sự có chiếc đũa thần, nhưng khi mới gặp mình không thấy được.

Bởi vì, chiếc đũa đó, họ cất ở trong tim.

Thầy Giáo Cũ và Lá Cờ Vàng -Truyện Ngắn – Nguyễn Duy An

Truyện Ngắn – Nguyễn Duy An

***

Tôi bàng hoàng xúc động thật lâu khi nhận được điện thoại của một người bạn học gọi từ Pennsylvania báo tin thầy cũ của chúng tôi là thầy N. mới từ Việt Nam qua Mỹ du lịch và thầy rất mong được gặp lại tôi.

Trong lúc chờ vắng xe để quẹo trái vào “Cổng Tam Quan” trước trung tâm Eden, thầy tôi hỏi lớn:

– Đường này họ đặt tên là “Đại Lộ Sàigòn” hả con?

– Dạ. Hồi đầu năm Thành Phố Falls Church cho phép cộng đồng Việt Nam để thêm tên “Saigon Boulevard” song song với tên đường chính thức là “ Wilson Boulevard ”.

Còn bên trong khu Eden , tất cả các đường ngang dọc đều mang tên Việt Nam hết đó thầy.

– Người Việt mình bên này hay thật!

– Mai mốt thầy sang California hay Texas sẽ thấy nhiều trung tâm lớn hơn Eden nữa, và sinh hoạt người Việt dưới đó còn mạnh gấp mấy lần trên này thầy ạ.

Tôi vừa quẹo xe vào cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên:

– Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá Cờ Vàng… Ôi! Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ nhé.

– Dạ… Mà thầy không sợ gặp rắc rối lúc trở về Việt Nam sao? Mấy người “du lịch” khác họ sợ liên luỵ lắm nên…

– Ăn thua chi con. Ai sao kệ họ. Phần thầy đã nếm đủ rồi, chẳng có gì phải sợ hãi! Con lái xe tới gần chỗ cột cờ đi.

– Dạ… nhưng phải đứng xa xa mới chụp được thầy ạ. Cây cột cờ cao quá.

– Ừ nhỉ. Mà con nhớ chờ lúc gió nó bay bay rồi mới chụp cho đẹp nhé. Nhìn hai lá cờ Việt – Mỹ tung bay trong gió mà thấy lòng quặn đau con ạ. Ôi! Mấy chục năm rồi!

Tôi nghe giọng thầy nghèn nghẹn như không muốn thoát ra khỏi đầu môi. Tôi biết thầy mình đang xúc động lắm. Hình như đôi mắt của thầy cũng long lanh ngấn lệ…

Sau khi chụp mấy tấm hình với nhiều góc độ khác nhau, thầy cầm tay tôi nói nhỏ:

– Con đi với thầy tới chỗ cột cờ nhé.

– Dạ.

Thầy tôi đang ở nhà của một người cháu ở vùng Tây Nam tiểu bang Virginia, cách nhà tôi gần 3 giờ lái xe. Tôi gọi điện thoại xuống để chào thầy và hẹn cuối tuần sẽ xuống đón thầy về nhà nhưng thầy bảo cứ để thầy đi xe lửa lên Hoa Thịnh Đốn rồi đón thầy ở nhà ga, và “đó là mệnh lệnh” nên tôi đành phải vâng lời. Sau khi nói chuyện điện thoại với thầy, tôi đã ngồi thẫn thờ cả tiếng đồng hồ tưởng nhớ lại kỷ niệm hơn bốn năm về trước, lúc trở về Việt Nam thăm gia đình, tôi đã hỏi thăm và tìm cách đến thăm Thầy sau gần 30 năm cách biệt. Nếu không có một người bạn học dẫn tới, chắc chắn tôi không thể nào nhận ra thầy cũ của mình… Tôi chỉ nấc lên được một tiếng “thầy” rồi ôm chầm lấy thầy mà khóc òa trong tức tưởi!

Thầy tôi đó, một ông lão gầy gò ốm yếu, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi trắng như tuyết, và vẫn chưa được “trả quyền công dân” sau bao nhiêu năm bị tù đày vì đã làm thầy của bao nhiêu người “quyền cao chức trọng” trước năm 1975. Thầy tôi chỉ là một nhà giáo dạy trường tư nhưng đã bị giam cầm và quản chế lâu hơn rất nhiều sĩ quan và công chức khác vì lúc nào thầy cũng “ngẩng cao đầu và đứng thẳng lưng” để không mất đi tư cách của một nhà giáo.

Thầy tôi đã quyết định không đi Mỹ theo diện đoàn tụ, cũng chẳng nộp đơn theo diện H.O. , chỉ muốn đi du lịch một lần cho biết trước khi về với ông bà tổ tiên.Sáng Thứ Bảy tôi thức dậy rất trễ vì tối hôm trước ngồi chuyện trò với thầy mãi tới gần 2 giờ sáng mới đi ngủ. Vừa bước xuống nhà tôi đã thấy thầy đang ngồi uống trà và đọc báo ở phòng khách. Nghe tôi chào, thầy tháo cặp kiếng lão rồi nói:

– Đúng là “đi một ngày đàng học một sàng khôn” con ạ. Mới đọc vài tờ báo đã học được nhiều chuyện hay về đời sống của người Việt mình bên Mỹ… Con uống trà hay cà phê? Vợ con đã để sẵn phích nước sôi, hộp trà, và cà phê trên bàn. Chắc thầy làm ồn nên con giật mình hả?

– Dạ không ạ. Bình thường con dậy sớm lắm. Thầy dậy lâu chưa ạ?

– Mỗi đêm thầy ngủ có vài ba tiếng thôi. Con mệt cứ lên ngủ tiếp đi.

– Con ngủ thẳng giấc rồi thầy ạ. Để con pha vội ly cà phê rồi chở thầy ra Eden chơi. Gần 10 giờ sáng rồi, thầy trò mình ra trễ khó tìm chỗ đậu xe lắm… Buổi chiều vợ chồng con và các cháu sẽ đưa thầy lên DC chụp hình và thăm Nhà Trắng, Quốc Hội, Tháp Bút Chì, Viện Bảo Tàng và những đài kỷ niệm khác.

– Tùy con. Nhưng thầy không muốn gia đình con phát bịnh vì phải lo tiếp đãi thầy.

********

Thầy kính yêu,

Bao nhiêu năm ở Mỹ, hầu như tuần nào con cũng ghé Eden, và đã hơn một lần con đậu xe sát bên cột cờ, nhưng chưa bao giờ con xúc động như mấy phút cùng thầy cầu nguyện dưới cột cờ buổi sáng hôm đó. Đúng như cha ông đã nói — “không thầy đố mầy làm nên” — con đã quên mất ý nghĩa linh thiêng của Lá Cờ nếu như con không được một lần chứng kiến “cảnh đoàn viên” của thầy và Lá Cờ Vàng ở Eden sau bao nhiêu năm cách biệt.

Mãi mãi con vẫn là đứa học trò bé nhỏ của thầy. Thầy không những đã dạy con qua sách vở và bài giảng mà còn qua chính gương sống của thầy. Con cầu xin để bài học về “Lá Cờ” không phải là bài học cuối cùng thầy dạy cho con.Tôi theo thầy đến bên cột cờ. Thầy tôi trịnh trọng đưa tay sờ vào cột cờ như một cái gì linh thiêng lắm, rồi từ từ ngửa mặt, nheo mắt ngắm hai lá cờ đang tung bay phần phật dưới nắng ban mai. Mãi một lúc lâu thầy mới quay lại thầm thì bên tai tôi:

– Thầy trò mình đứng im cầu xin cho những người đã hy sinh bỏ mình vì quê hương con nhé.

– Dạ. Một phút mặc niệm phải không thầy?

– Đúng. Đã có hàng trăm, hàng ngàn người bỏ mình dưới Lá Cờ này đó, con còn nhớ không? Ta bắt đầu cầu nguyện cho họ nhé.

– Dạ.

Sau mấy phút im lặng dưới cột cờ, tôi nhận ra sự thay đổi khác thường trên khuôn mặt già nua vì tuổi tác của thầy. Tôi biết chắc chắn đằng sau đôi mắt u uẩn đau buồn của thầy còn chất chứa bao nhiêu tâm sự không biết giãi bày cùng ai. Tôi đưa thầy dạo qua một vài cửa tiệm nhưng thầy tôi cứ lững thững đi theo như một kẻ mất hồn! Tôi dừng lại bên “quầy báo” trước cửa tiệm Phở Xe Lửa. Mặc dầu “người bán báo” hôm nay không phải là “chú thương phế binh” quen biết nhưng tôi cũng lên tiếng theo thói quen:

– Chú cho cháu xin mỗi thứ một tờ.

– Có ngay. Có ngay. 15 Đô tất cả.

Thầy cầm tay tôi giặc giặc:

– Ở nhà có mấy tờ Hoa Thịnh Đốn, Phố Nhỏ… rồi đó con. Sáng nay thầy đã đọc.

– Dạ. Không sao thầy ạ. Con mua ủng hộ các chú gây “quỹ thương phế binh”.

– Ồ. Quý hóa quá!

Chờ lúc tôi nhận lại tiền thối và xếp báo xong xuôi, thầy tôi trao cho “chú bán báo” tờ giấy 5 Đô và nói nhỏ:

– Ông cho tôi góp mấy đồng nhé.

– Dạ… Dạ… Cám ơn. Xin lỗi ông đây là…

– Thưa chú đây là thầy cũ của cháu mới từ Việt Nam qua chơi.

Không để tôi nói thêm, thầy tôi lên tiếng:

– Tình chiến hữu! Tình chiến hữu! Đẹp thật! Đẹp thật! Các ông làm hay quá.

Rồi quay sang tôi, thầy tiếp tục:

– Con chụp cho thầy một tấm hình với ông anh đây. Con chụp cẩn thận để lấy hết hình cái sạp báo nhé.

– Dạ.

Không biết thầy tôi và “ông bạn mới” to nhỏ những gì mà chú ấy phải chạy nhờ người trông dùm sạp báo để đi theo thầy tôi chụp chung một số hình dưới “sân cờ” với những nụ cười thật rạng rỡ trên khuôn mặt của cả hai người.

Sau đó, thầy tôi nhất định không chịu vào tiệm ăn sáng, cứ nằng nặc bắt tôi chở về nhà để đọc báo và “con đi in ngay cho thầy mấy tấm hình!” Cũng may vợ và các con tôi đã dậy, và đang chuẩn bị bữa trưa trước khi chở thầy đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn.