Chị tôi bên bến sông – Diệu Phúc-Truyện ngắn

Diệu Phúc

Năm tôi lên bốn, chị đã lên mười. Người ta nói chị mãi là đứa trẻ bốn tuổi. Tôi không hiểu vì sao lại thế. Có lẽ vì chị chẳng khôn hơn tôi được bao nhiêu và mẹ lúc nào cũng phải săn sóc chị giống hệt tôi. Lên bảy tuổi, tôi bắt đầu thấy chán ghét chị. Sao chị lại khù khờ như thế, để bạn bè trong lớp trêu chọc rằng tôi có người chị điên, chị tàn. Mỗi lần đi học về ngang nhà tôi, bọn thằng Ân, thằng Tuấn lại hát to:

Bống tàn ăn quả dưa gang

Ăn nhầm lựu đạn nổ toang cả nhà.

Tôi nghe mà tức lộn ruột, chỉ muốn lấy đá ném cho chúng một trận.

Bống là tên chị tôi. Mẹ tôi kể, năm chị bốn tuổi thì bị chó dại cắn, sau bao nhiêu thuốc thang cứu chữa chị vẫn mê man. Hơn nửa tháng sau, chị tỉnh dậy, khỏe mạnh. Nhưng mẹ chưa kịp vui thì nhận ra chị không còn bình thường như trước nữa. Bác sĩ bảo thần kinh của chị bị ảnh hưởng, chậm phát triển trí tuệ nhưng mẹ không tin, nói đúng hơn là mẹ chưa thể chấp nhận được chuyện đó. Tháng tháng đôi lần, mẹ dẫn chị lên chùa khấn vái, cầu trời khấn Phật để chị được bình an vô sự. Chẳng biết trời có thấu, Phật có hay, nhưng chị tôi không biết thêm được gì nữa. Chị tôi mãi bốn tuổi là như thế. Khi tôi bắt đầu hiểu chuyện, tôi thương chị nhiều hơn. Những lời trêu chọc của đám bạn, tôi nghe dần rồi cũng thành quen.

Nhà văn trẻ Diệu Phúc ở Đà Nẵng

Năm tôi mười một tuổi, một hôm chị hái trộm xoài nhà người ta, bị đuổi đánh, rách cả vạt áo. Họ chửi: “Điên! Điên cái ngữ gì mà khôn thế!” Tôi nghe thấy liền vội chạy nhanh về nhà. Chị bị mẹ mắng, ngồi thu mình sau hè, thấy tôi, chị xòe tay đưa ra quả xoài xanh. Tôi nghẹn ngào ôm lấy chị, hai hàng nước mắt trào ra.

Tôi vào trường cấp hai, đi học cách nhà bốn cây số. Tôi học giỏi, có nhiều bạn, nhưng thân với Hưng và Ngọc hơn cả. Một lần, đám bạn cùng lớp kéo nhau về nhà tôi. Mẹ tôi bẻ ngô nấu một nồi to tướng. Nhà tôi lụp xụp, nền đất, nuôi nhiều gà vịt, chúng ị ra khắp sân. Mấy đứa bạn đi cùng khó chịu ra mặt, chúng tụ tập ở gốc cây mít ngoài ngõ, không chịu vào nhà vì nhìn thấy chị tôi thẫn thờ đi trong sân. Đến lúc ngô chín, chúng bỏ về gần hết vì thấy nhà tôi bẩn, chị tôi điên, chúng không dám ăn ngô vì sợ lây bệnh. Thằng Hưng, bạn thân nhất của tôi, bàn tay siết chặt giận dữ: “Một lũ khốn nạn”. Ngọc thì không nói gì, lẳng lặng lấy một bắp ngô đưa cho chị tôi. Chiều hôm đó, nhà tôi ăn ngô thay cơm. Thằng Hưng và cái Ngọc mang về một ít. Số còn lại, mẹ tôi mang biếu hàng xóm. Từ đó, ngoài Hưng và Ngọc ra, tôi không bao giờ dẫn thêm đứa bạn nào về nhà nữa.

Lên cấp ba, tôi, Hưng và Ngọc mỗi đứa mỗi lớp. Cả ba đứa đều nguyện vọng thi vào trường Sư phạm nhưng Hưng theo khối A, Ngọc khối D, còn tôi khối B. Ngoài giờ học thêm toán cùng nhau vào buổi tối, chúng tôi ít có thời gian gặp nhau. Dẫu vậy, tình bạn của chúng tôi vẫn bền chặt, keo sơn.

Mùa hè, trời nắng như đổ lửa, chị tôi có lẽ vì thế mà bệnh nặng thêm. Chị hay ôm đầu, tự đập vào tường rồi lại rì rầm những tiếng nghe không rõ. Chị nói suốt ngày đêm. Tôi thương chị nhưng cũng có chút bực dọc vì không thể tập trung học được. Lắm khi, tôi lại ngửa mặt lên trời, muốn hỏi trời cao, chúng tôi, những kẻ sống một đời thiện lương, đến con kiến cũng không nỡ giết, sao ông trời lại nhẫn tâm với chị như vậy.

Cả nhà bị chó dại cắn, 2 cha con tử vong

Vào đại học, Hưng ngỏ lời yêu tôi. Tôi bối rối tìm cách hoãn binh. Tình cảm của Hưng bao năm qua không phải tôi không biết. Tôi cũng không phải sắt đá đến nỗi không biết rung động. Nhìn mẹ tôi ngày một già đi, tôi ao ước gặp được một người chân thành và chấp nhận được chị tôi để tôi có thể đưa mẹ và chị về sống cùng. Hưng yêu tôi nhưng cậu có đồng cảm với những trăn trở của tôi hay không, tôi không chắc.

Một hôm, Ngọc bảo tôi đến trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dạy trẻ mồ côi, người khuyết tật của thành phố cùng cô ấy. Ngọc chỉ một cậu bé, nói với tôi:

– Đó là Khang. Nó bị thiểu năng trí tuệ. Lúc mười tuổi được đưa vào đây, hiểu biết của nó như một đứa trẻ sáu tuổi. Được các thầy cô ở đây dạy bảo, mỗi năm, nó lại thêm một tuổi, nó sống ở đây bốn năm rồi. Giờ thì đã khá hơn.

Ngọc lại chỉ tay về phía một cô gái khác:

– Chị ấy là Bảo Trâm. Chị ấy bị tai nạn, bố mẹ mất cả, đi lại khó khăn nhưng học rất giỏi, đang học năm thứ ba trường Cao đẳng đấy.

Ngọc bảo rằng cô ấy đã tìm hiểu rất kĩ nơi này. Có rất nhiều người khuyết tật đã trưởng thành từ nơi này và khuyên tôi nên đưa chị vào đây. Tôi hiểu sự chân thành của Ngọc và đằng sau ấy có thể là sự quan tâm tế nhị của Hưng dành cho tôi vì cả ba chúng tôi vẫn thân thiết với nhau.

Nhưng suy đi tính lại, khi bàn bạc, mẹ tôi cương quyết không cho chị vào trung tâm bảo trợ xã hội. Mẹ bảo, chị được mẹ sinh ra thế nào thì sẽ ở với mẹ thế ấy. Nhìn chị sống như một đứa con mồ côi mẹ không đành lòng. Tôi cũng không đành lòng. Chị chỉ như một đứa trẻ, nếu không có mẹ và tôi ở cạnh, không biết chị sẽ thế nào, liệu có được ăn no, có được tắm rửa sạch sẽ, hay lại bị người khác bắt nạt, thậm chí đánh đập vì sự khù khờ của mình.

Rồi chị vẫn ở với chúng tôi như ngày nào và mẹ nhận thêm việc nấu ăn cho đoàn công nhân ở công trường. Buổi sáng, mẹ nấu luôn cả phần cơm trưa cho chị rồi đi làm, chiều muộn mẹ mới về. Còn tôi, sau khi nhận làm gia sư cho một cậu học trò lớp chín và một cô bé lớp bảy, tôi có thể tự trang trải chi phí sinh hoạt của mình. Cuộc sống của ba mẹ con tôi khá hơn. Tối tối, bên chiếc ti vi, chị ngồi trong lòng mẹ xem phim. Tôi mải mê với sách vở. Cuộc sống thanh đạm nhưng thật bình yên.

Một dạo, chị tôi bỗng lười ăn, mỗi bữa chỉ lưng bát cơm. Được mấy hôm, chị bảo không muốn ăn nữa. Mẹ tôi mua cho chị lọ nước yến hay hộp sữa nhưng uống vào chị nôn ra hết. Mẹ tôi mặt tái xanh đưa chị đến bệnh viện. Người ta khám cho chị rồi bác sĩ bảo, chị đang mang thai. Cái thai đã được mười một tuần tuổi. Cái tin như một cú sét đánh ngang tai. Mẹ tôi sững sờ, run rẩy, chân như muốn khuỵu xuống. Mẹ trừng mắt nhìn chị, cố kìm giận dữ nhưng vẫn gằn lên từng tiếng: “Là ai? Từ khi nào?”. Chị run sợ, nép mình vào chân tường, ngồi co ro như chú cún con bị ướt mưa. Mẹ hết dỗ ngọt lại đến dọa nạt, nhưng tra hỏi kiểu gì chị cũng không nói. Rồi mẹ bắt đầu khóc. Mẹ gào lên như một đứa trẻ. Mẹ trách ông trời, mẹ trách cuộc đời, rồi lại tự trách mình. Lòng tôi đau như cắt. Tôi hận ông trời, hận cuộc đời này và hận cả bản thân mình. Giá mà tôi ở bên chị nhiều hơn, quan tâm đến chị nhiều hơn thì đâu đến nông nỗi.

Sau một đêm thức trắng, mẹ ngậm ngùi nói những lời dứt khoát: “Bỏ cái thai đi. Đã không biết bố đứa bé là ai, nó lại điên điên khùng khùng như vậy, làm sao nuôi được con. Đẻ ra chỉ tổ làm tội con mà thôi. Đời nó khổ quá rồi, đừng để phải khổ thêm nữa”. Tôi chưa hết bàng hoàng thì chị tôi đã lao đến ôm chân mẹ, nấc lên từng tiếng một: “Không! Không! Con của Bống. Không được bỏ. Bống nuôi con”. Mẹ dỗ dành chị, rồi lại chuyển sang la mắng nhưng không lay chuyển được ý muốn của chị. Chị muốn có con. Lúc này, chị không còn là một đứa trẻ nữa.

Mẹ tôi tâm hướng Phật, đâu muốn tạo nghiệp nhưng đời chị khổ quá, mẹ tôi xót xa. Hai ngày chị bỏ ăn, chống đối. Nhìn thấy sự thay đổi của chị, mẹ cũng phải suy nghĩ lại. Ừ thì đầu óc nó như một đứa trẻ nhưng nó cũng đã gần ba mươi. Cái đầu nó không theo kịp tuổi, nhưng trái tim nó, biết đâu, lại theo kịp. Thôi đành, con dại cái mang. Ngày qua ngày, mẹ chăm chút chị nhiều hơn. Hàng xóm tiếng xì xào bán tán nhưng mẹ và chị mặc kệ. Chị hay nhìn xuống cái bụng bầu của mình, áp tay vào đó, đôi mắt lim dim như thể cảm nhận được nó – đứa bé ấy. Những lúc thế này, nhìn chị chẳng có vẻ gì là điên cả.

Rồi cũng đến ngày mãn nguyệt khai hoa, chị tôi sinh một bé trai kháu khỉnh. Mẹ tôi ẵm đứa bé, đặt vào lòng chị, bày chị cách cho con bú. Ngày đêm mẹ không rời chị nửa bước, sợ chị ngủ quên lúc cho bú, sẽ đè ngộp con. Căn phòng nhỏ tôi hay ngồi học, mẹ kê thêm chiếc giường cho mẹ con chị một chốn riêng tư trong thời gian ở cữ. Xóm giềng, cô bác, người ta cũng dần cảm thông, vừa mừng, vừa thương cho chị. Họ hay biếu chị khi chục trứng gà, khi đôi lốc sữa để chị bồi dưỡng. Không giống như cách chị chơi với con búp bê ngày trước, với đứa bé, chị nâng niu nó một cách kì lạ. Mỗi lúc nó cười, trên gương mặt chị toát lên vẻ rạng rỡ, dịu dàng. Đứa bé dường như biết thương mẹ, nó ít quấy khóc và bú nhiều, ngày càng phổng phao trông thấy. Mẹ tôi đặt tên nó là Minh, mong sao nó có một tương lai tươi sáng.

Thấy cảnh nhà cửa chật hẹp, lại thêm một đứa trẻ, mẹ tôi dành dụm xây thêm một gian nhà ngang dành riêng cho mẹ con chị. Tuy gọi là nhà riêng nhưng chị vẫn ăn cùng cả nhà, chỉ có buổi tối mẹ con chị mới về phòng để ngủ.

Rồi một thời gian, tôi thấy chị rạng rỡ hơn, chị chăm lo cho đứa bé tốt hơn và trên khuôn mặt người đàn bà nửa điên dại dường như có một niềm vui giấu kín. Tôi thấy chị dần trở nên sạch sẽ, gọn gàng. Một linh cảm trong tôi lớn dần.

Một buổi tối, tôi thức dậy giữa đêm. Mẹ tôi khó ngủ nên gần sáng bà mới ngon giấc. Cảm giác một điều gì đó rất lạ, tôi nhè nhẹ mở cửa, bước sang bên nhà ngang. Dưới ánh trăng mờ sáng, qua cánh cửa sổ khép hờ tôi nhìn thấy chị tôi và một người đàn ông đang quấn chặt vào nhau. Những âm thanh rên rỉ và tiếng da thịt chạm vào nhau khiến tôi đỏ mặt. Nhưng chị không giống bị người ta cưỡng bức, chị cũng hòa quyện, đung đưa theo hắn. Không lẽ đó là bố đứa trẻ? Tôi đứng chôn chân, nhìn hai bóng đen hòa quyện dưới ánh trăng.

Cả đêm hôm ấy, tôi không sao ngủ được. Mỗi lần nhắm mắt lại, hình ảnh hai cái bóng mờ ảo quấn quýt vào nhau lại hiện ra. Tôi không biết có nên nói với mẹ chuyện này hay không. Nhìn những thay đổi gần đây của chị, tôi biết, chị đang yêu. Chị sạch sẽ, ít nói những câu vô nghĩa hơn. Người điên, họ vẫn có thể yêu chứ, bởi vì họ cũng có trái tim. Nhưng tôi lo lắng, không biết chị có bị người ta lợi dụng hay không. Dù sao, về bản chất chị vẫn là một kẻ điên. Trên đời này, có người đàn ông nào lại ngu ngốc đi yêu một kẻ điên dại chứ? Tôi quyết định im lặng, tự đi tìm cho mình một câu trả lời.

Đúng như tôi linh tính, hôm sau, hắn lại đến. Hắn cúi xuống thơm nhẹ má đứa bé đang say giấc. Rồi hắn mò sang nằm bên cạnh chị, ôm ấp, vuốt ve. Nhìn cách hắn mơn trớn chị, tôi tựa hồ như đang có kiến bò khắp người. Một cảm giác rất lạ dâng lên khiến tôi hoang hoải, mất phương hướng. Tôi dám khẳng định hắn chính là cha của bé Minh. Nhưng vì sao hắn không đến nhận? Hắn có thật sự yêu chị tôi? Hắn xấu hổ khi yêu một kẻ điên hay hắn tìm đến chị chỉ để thỏa mãn dục vọng? Lòng tôi giằng xé giữa bao ngổn ngang. Tôi quyết định nếu có lần nữa sẽ ra mặt, gặp hắn để làm rõ mọi chuyện.

Khi ánh trăng lên đến đầu ngọn tre, một bóng đàn ông lẻn vào. Tôi toan gõ cửa thì linh cảm có người đang đứng ngay sau lưng. Bất giác, tôi quay lại. “Mẹ!” Tôi kêu lên, bàng hoàng. Nghe có tiếng người, hắn lao vọt ra khỏi cửa, bỏ chạy. Nhờ ánh trăng chiếu rọi, tôi nhận ra bóng hắn xiêu vẹo, khập khiễng. Một bên chân hình như bị thọt. Chị đứng ngây dại giữa màn đêm tối đen. Mẹ tôi tra hỏi dữ dội: “Là ai, đấy là thằng nào?” Cuối cùng, chị cũng nhận, hắn chính là cha của bé Minh. Ngày đó, chị đang tắm ở sau chòi, hắn vô tình đi ngang qua khi cả nhà đều đi vắng. Hắn chiếm đoạt chị. Một lần đó rồi thôi và chị có bầu. Nhưng sau khi chị sinh bé Minh, hắn đã quay trở lại, mang trứng, mang sữa, mang bánh trái cho chị. Và rồi, đêm đêm, hắn lại đến, để sống giây phút được làm chồng, làm cha lén lút.

Mẹ tôi chửi chị ghê lắm:

– Mày làm thế mà không biết tởm à, mày có biết nó là ai không, là gã thọt chuyên mò hến ven sông. Thằng ấy cũng dở người nên không ai lấy.

Chị khóc, tóc chị rũ rượi:

– Nhưng anh ấy là bố đứa bé. Anh ấy thương con. Cả xóm này không ai yêu con cả, chỉ có anh ấy thôi.

Còn những cảnh nghèo - YouTube

Mẹ tôi dẫn chị ra bờ sông, bế theo đứa bé, dẫn đến cái nhà tạm bợ của người đàn ông kia. Khi nhìn thấy mẹ tôi và đứa bé, anh ta bỗng trèo tót lên ngọn một cây. Hành động ấy càng làm mẹ tôi điên tiết.

– Này, cái thẳng dở người kia, mày có chịu xuống đây nói chuyện cho tử tế không hả?

Nghe mẹ tôi mắng, hắn biết mẹ tôi đã biết mọi chuyện, sợ bị bắt đền, càng ở tít trên cây không chịu xuống. Mẹ tôi giận lắm, nổi đóa lên:

– Mày mà không chịu xuống đây, tao lấy dao chặt gốc cho mày chết luôn.

Chị tôi tưởng mẹ làm thật, ngăn mẹ lại:

– Mẹ để con khuyên anh ấy.

Chị bế con, đứng dưới gốc cây, nước mắt lã chã:

– Anh xuống đi. Anh mà không chịu xuống, em bế con nhảy xuống sông luôn.

Rồi chị dịu dàng đưa tay vẫy vẫy. Thằng bé con cũng làm theo mẹ, cái tay bé xíu đung đưa. Người đàn ông ngượng ngùng, tụt xuống, rồi chạy lại bên chị, ôm đứa bé, hôn hít rối rít.

Mẹ tôi bảo:

– Chúng mày đã nhận nhau, dù điên dại thì cũng phải ở nơi tử tế. Cái lều ven sông này không hợp. Đứa trẻ cần có bố.

Rồi mẹ nhìn người đàn ông kia, quyết liệt:

– Còn mày, mày đã là cha đứa bé, phải có trách nhiệm với mẹ con nó. Mau sửa soạn, gói ghém đồ đạc về đó ở cùng mẹ con nó. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Một ngày vợ chồng, nghìn năm ân nghĩa, huống chi chúng mày…

Mẹ tôi bỏ dở câu nói. Chẳng biết hắn có hiểu được không, nhưng hắn chạy nhanh vào nhà, lấy mấy bộ quần áo cho vào cái túi, hớn hở đứng nép bên chị tôi, rồi lủi thủi theo mẹ về nhà.

Từ ngày có hắn về, chị tôi vui vẻ, nói cười nhiều hơn. Những lúc ở cạnh bé Minh và người đàn ông kia, trông chị chẳng điên, hắn cũng chẳng dở. Chiều chiều, chị tôi lại bế con ra ngõ, đợi hắn đi cào hến dưới sông về. Từ phía xa, người đàn ông mồ hôi nhễ nhại nhưng gương mặt tươi tỉnh chạy vội về phía hai mẹ con. Thấy cảnh ấy, tôi lại nhớ đến Hưng, thầm nghĩ, có lẽ đã đến lúc tôi phải chuẩn bị cho hạnh phúc của riêng mình rồi. Và mỗi khi ráng chiều tắt hẳn, cả nhà tôi lại quây quần bên mâm cơm. Ngôi nhà như sáng hơn bởi có bóng dáng đàn ông và tiếng bi bô con trẻ./.

DIỆU PHÚC

https://vanhocsaigon.com/truyen-ngan-cua-dieu-phuc-chi-toi-ben-ben-song/

BÀI VIẾT RẤT HAY VỀ NƯỚC MỸ CỦA TÁC GIẢ NGÔ ĐÌNH CHÂU (Việt Báo)

Một ghi nhận hay về nước Mỹ của 1 người chân chất làm nghề móng tay:

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh và buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, bị đuổi ra khỏi quân y viện… Bài viết mới của tác giả không kể chuyện xảy ra trên đất Mỹ, nhưng là một hồi ức sống thực về cuộc chiến còn trong tâm tưởng biết bao người ở Mỹ.

Gia đình tôi sinh sống trên đất Mỹ được 23 năm

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1993 đến nay 2016 đã được 23 năm, vì hoàn cảnh sinh sống chúng tôi phải di chuyển qua nhiều nơi chốn, thế nên biết thêm được nhiều điều về nước Mỹ.

Thoạt đầu đến Mỹ chúng tôi cư ngụ tại thành phố Hawthorne – nam Cali vì do bà chị giúp đở sponsor cho. Ở đây chúng tôi share phòng với nhà chị, vợ chồng con cái dồn vào một phòng nhỏ tí thật bất tiện rồi dần dà cũng quen. Ở Hawthorne, vợ chồng tôi đi đến trường chuyên dạy nghề nail để học lấy cái bằng. Rồi kể từ năm 1995 chúng tôi sinh sống bằng nghề này, một nghề duy nhất cho đến bây giờ.

Cali là nơi sinh sống lý tưởng cho người Việt Nam khí hậu mát mẻ quanh năm như Đà Lạt. Ở VN có món ngon gì thì Cali cũng có đủ, có khi còn ngon tuyệt hơn nữa vả lại thực phẩm được kiểm tra rất nghiêm ngặt nên không sợ độc hại như bên nhà. Ra đường gặp toàn người Việt đi đâu cũng nói tiếng Việt thoải mái, sống trên đất Mỹ mà hoàn cảnh sống gần như VN.

Chỉ kẹt một điều nghề Nail ở Cali bị cạnh tranh rất dữ, nên giá “bèo” hơn các Tiểu bang khác nhiều lắm nhất là so với các Tiểu bang miền Bắc. Thứ hai nhà cửa Cali lại rất mắc mỏ, có người ví von bán một căn nhà ở Cali đem tiền qua Tiểu bang khác mua được hai căn nhà. Vợ chồng tôi lúc đó đã trung niên e rằng khó lòng mua nổi một căn nhà cho dù trả góp.

Sau 4 năm ở Cali vợ chồng con cái lại đùm túm qua Tiểu bang khác, về thành phồ Joliet thuộc TB Illinois, một thành phố nhỏ gần Chicago cách đó khoảng 1 giờ lái xe. Chúng tôi đến Joliet vào mùa đông thấy tuyết bay đầy trời mà lòng kinh hãi. Tất cả cảnh vật đều phủ một màu trắng toát và lạnh kinh hồn. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi về Joliet đây là nơi chốn không thể sống lâu dài được, chỉ sống tạm bợ để kiếm tiền rồi chuồn thẳng.

Có lẽ hầu hết người VN đều rất sợ lạnh đồng thời lại rất sợ cái khung cảnh u buồn của mùa đông, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ, bầu trời âm u màu chì kéo dài suốt 6 tháng khiến người ta cảm thấy chán chường, không còn cảm thấy muốn sống háo hức nữa cho dù nơi đây chúng tôi kiếm rất nhiều tiền. Sau 5 năm, chờ cho con gái học xong lớp 12 chúng tôi quyết định đi về miền nắng ấm tiểu bang Florida. Ngày đi, bao nhiều đồ đạc sắm sửa tạm bợ vất đi hết chỉ mang theo quần áo và đồ dùng cần thiết.

Xong xuôi, chúng tôi lên xe bấm 3 hồi còi dài để giã từ Joliet, giã từ vùng tuyết trắng lạnh lùng. Sau đó giong ruổi qua một quãng đường dài 1200 miles để đến Jacksonville – Florida.

Tôi chọn Jacksonville vì muốn trốn cái lạnh cái buồn nơi miền Bắc và xuôi nam để hưởng nắng ấm mặt trời quanh năm. Ngoài ra, ở đây tôi còn có một người bạn rất thân từ hồi Trung học, muốn gần gủi bạn bè cho vui. Té ra không phải vậy chúng tội bận rộn tíu tít với công việc, đâu có thời gian mà gặp gỡ nhau nhiều. Lâu lâu tiệc tùng họp mặt uống vài chai bia và tán gẫu dăm ba câu chuyện, rồi chia tay ai về nhà nấy.

Chúng tôi ở Jacksonville thấm thoát được 13 năm một thời gian khá dài cho một nơi chốn. Trước nay chưa khi nào chúng tôi ở một chổ lâu đến như vậy. Hàng năm vào ngày Labor Day chúng tôi thường hay kéo xuống Tampa, thăm gia đình người em trai của tôi cách đó 4 giờ lái xe.

Có một lần không biết nghĩ sao, em tôi nói:” Khi nào anh chị về hưu, xuống đây mua một ngôi nhà, có mảnh vườn bao quanh, tha hồ mà trồng trọt vui với tuổi già. Tampa khí hậu nóng ẩm quanh năm, trồng cây gì cũng được.” Nghe nói như thế, giống như mọt tia chớp lóe lên trong đầu tôi:” nếu có thú vui này, sao không về Tampa sinh sống, càng sớm càng tốt !” Ở Jacksonville, mùa đông đôi khi lạnh dưới không độ C, trồng cây gì cũng chết, ngoại trừ cam bưởi.

Thế rồi một lần nữa và có lẽ lần cuối cùng, chúng tôi quyết định dời về Tampa. Sau đó, chúng tôi tiến hành hai công việc, mua ngay một căn nhà tại Tampa và sau đó bán căn nhà tại Jacksonville. Công việc mua bán không đơn giản, cũng may em dâu tôi làm nghề địa ốc, nên mọi chuyện rồi cũng suôn sẻ. Đồng thời đóng cửa tiệm Nail gọi người đến cho hết đồ đạc.

Rồi ngày dọn nhà cũng đã đến, công việc dọn nhà lần này nhọc nhằn hơn hai lần trước. Bởi lẽ các lần trước, chúng tôi chủ trương sống tạm bợ nên không sắm sửa gì nhiều bây giờ ngổn ngang trăm thứ. Suốt một tuần lễ, cả nhà tập trung cao độ đóng gói đồ đạc vào các thùng giấy, rồi bưng bê ra gara chất đống chờ người đến bốc dỡ. Có chuyện khôi hài khi dọn nhà, ngày nào vợ chồng cũng cãi nhau, ông muốn vất hết những đồ không dùng đến, còn bà thì cứ ôm theo hết, nhất quyết không buông bỏ. Có người ví von rằng, một lần cháy nhà bằng hai lần dọn nhà, để nhằm nói lên nỗi nhọc nhằn khiếp đảm của việc dọn nhà. Cho đến nỗi, có người dọn nhà chỉ một vài lần là đủ tởn, thề không bao giờ dọn nữa, trong đó có tôi.

Tampa nằm ở khoảng giữa và thuộc bên bờ Tây của Florida, nó nằm trên một vịnh nhỏ có tên là Tampa Bay, vịnh này thông ra vịnh Mexico khổng lồ. Tampa có dân số trên 1 triệu người, đứng hàng thứ 3 tại Florida, sau Miami và Orlando. Tuy có dân số cao nhưng diện tích lại nhỏ hơn các thành phố khác cho nên dân cư cảm thấy đông đúc hơn, luôn luôn lúc nào cũng thấy xe cộ chạy dày đặc trên đường. Thời tiết Tampa có bốn mùa rõ rệt, mùa Thu cũng quét lá mệt nghỉ, mùa Đông cũng hơi hơi lạnh khoảng 50 độ F (khoảng 10 độ C) mùa Hè nóng hừng hực trên 90 độ F (32 độC).

Căn nhà ở Tampa của chúng tôi đã trên 30 tuổi, nhà nhỏ chỉ có 1,100 sqf (khoảng 100 mét vuông), cũng có 3 phòng ngủ và 2 phòng tắm, giá mua là 129K. Căn nhà sơn 2 màu xanh trắng, mặt ngó thẳng ra hướng Đông, đúng cái hướng mà các Thầy Tử vi khuyên tôi nên chọn cho hạp tuổi, không biết có đúng như vậy không, thôi thì có kiêng thì có lành. Trước và sau nhà có 2 cây sồi (oak) cổ thụ tỏa bóng mát trông thật đẹp, nhưng ngặt một điều là không trồng trọt gì được dưới tàn cây của chúng. Cây sồi được coi là tài sản cảu Florida, tỉa nhánh mé cành thì không sao, còn muốn đốn bỏ phải xin phép.

Khi dọn nhà đi thì chứa đồ đạc ở trong thùng, khi đến chổ mới thì dỡ đồ đạc ra để xếp vào các nơi, cả nhà xúm lại làm suốt ngày, khoảng 2 tuần sau thì tạm ổn. Đến cuối tháng, có bửa nghe điện thoại reo, tôi nhấc lên thì được biết có người chủ tiệm Nail được bạn bè giới thiệu bèn gọi đến mời vợ chồng tôi đi làm. Thế là yên phận sống trong căn nhà mới.

Bước ra mảnh vườn, chủ trước họ trồng cây kiểng um tùm trông phát ớn. Tôi kêu một anh Mể tới dọn dẹp, anh chàng này ngơ ngác không biết nói tiếng Anh, muốn bàn công việc phải nói qua điện thoại với vợ hắn. Anh Mể ra giá tiền công là 500 đô, tôi chẳng biết gì nên cứ gật đầu bừa cho xong. Trước nay tôi có nghe nói đàn ông Mể có sức khỏe kinh người, bây giờ khi tận mắt chứng kiến cái cảnh anh Mể này làm việc mà kinh sợ, sợ anh ta ngã lăn ra chết bất tử. Anh ta làm việc dưới trời nắng như đổ lửa và ghê gớm ở chổ, suốt từ sáng tới chiều anh ta chớ hề nghỉ tay. Tới trưa tôi chạy đi mua cho anh một cái bánh hamburger, anh ta nhai nhồm nhàm xong nốc cạn lon Coca, rồi hì hục làm tiếp. Anh ta cứ làm như thế suốt 3 ngày trời, khuôn mặt bình thản, không than vắn thở dài gì hết, mọi chuyện đều bình thường đối với anh ta. Thiệt đáng nể.

Dọn dẹp mảnh vườn xong, tôi chưa biết chỗ nào bán cây ăn trái để mua về nhà trồng. Thời may con gái có người bạn giới thiệu cho Khu Chợ Trời bên thành phố St Petersburg. Nằm kề cận Tampa có 2 thành phố vệ tinh là St. Petersburg và Clearwater. Cả ba tạo thành một hình tam giác, từ nhà đi qua hai nơi này khoảng nửa tiếng.

Theo sự hiểu biết của tôi, thành phố St. Petersburg gọi tắt là St. Pete. (phe ta kêu là Săn Pí) tuy nhỏ hơn Tampa, nhưng không hiểu sao người Việt lại quần tụ đông hơn, chợ búa và nhà hàng Việt Nam đông hơn bên Tampa. Chợ tuy nhỏ cũng có bán đủ thứ hàng, cũng có quày thịt cá tươi sống, cũng có đủ các loại to go như bún mì phở… còn các loại ăn chơi thì ê hề. Nhà hàng VN cũng nho nhỏ, có nhiều nơi cũng có thức ăn ngon nổi tiếng. Tóm lại sinh hoạt của người Việt nơi St. Pete khá nhộn nhịp.

Từ Tampa qua St. Pete phải chạy qua cây cầu Howard dài 6 dặm, cây cầu rất đẹp, đẹp ở chỗ cầu chạy sát mặt biển, khiến ta có cảm giác sóng biển đang vờn bên má mình, đến giữa thì cầu nhô lên cao cho tàu thuyền qua lại. Sáng sớm chúng tôi chạy qua cây cầu này, rồi nhìn qua hai bên, mặt biển lặng im xanh ngắt và trải rộng mênh mông tới chân trời, có những chiếc thuyền rẽ sóng ở xa xa, đã tạo nên một khung cảnh kỳ thú tuyệt đẹp. Từ đó mỗi sáng sớm Chủ nhật, chúng tôi đi qua cây cầu để đến Chợ Trời, chưa bỏ qua một lần nào hết.

Khu Chợ Trời (Flea Market) St. Pete, nằm trên một khu đất rộng, khung cảnh nhộn nhịp bát nháo như bất cứ Khu Chợ Trời nào khác, tuy nhiên mọi nơi đều sạch sẽ, không hề thấy ai xả rác. Những người bán hàng, họ dựng lều hoặc che dù san sát nhau, người người đi lại tấp nập. Vợ chồng tôi khi lần đầu tiên đến đây, chỉ đi dạo một vòng là trong lòng bỗng nhiên cảm thấy vui thích lắm.

Theo tôi, Chợ Trời St. Pete là một nét văn hóa đặc sắc của vùng vịnh Tampa. Sau này khi có bạn bè đến thăm viếng, chúng tôi đều đưa đi thăm Chợ Trời và mọi người đều rất thích thú, kể cả người từ VN qua. Tôi thấy người mua kẻ bán ở đây rất đông người Việt và kỳ lạ một điều, những người Việt hiện diện tại đây đều có gốc gác từ miệt Đồng bằng sông Cửu Long, không hề thấy ai nói giọng Bắc giọng Trung ( hay là có nói mà tôi chưa gặp) Phần lớn những người này lại xuất thân từ vùng đồng quê chứ không ai xuất thân từ thành phố, cho nên giọng nói của họ nghe quê rặc và rất thiệt thà chơn chất, nói sao bán vậy, chứ không hề nói thách một tiếng nào.

Tôi hỏi cô bán hàng trái cây: “Nhãn này giá bao nhiêu tiền một pound vậy cô?” Cô cười đáp: “Dạ, 3 đồng “gửi” một pound”. Tôi nói giỡn: “Sao mắc vậy?” Cô ta cười lỏn lẻn: “Em bán “ghẻ ghề” mà anh chê mắc !” Tôi cười lớn: “Cha! cái giọng này sao nghe giống dân Rạch giá quá vậy ta?” Cô ta cũng cười theo: ” Dạ đúng vậy, em quê Giồng Riềng- Rạch Giá đây anh”.

Có một số người Việt lớn tuổi ở St. Pete không xin đi làm hãng được, bèn ở nhà trồng rau, nuôi gà vịt rồi mang ra chợ trời bán. Nhà cửa ở vùng này rất cũ kĩ và nhỏ xíu, nhưng được cái là có đất khá rộng chung quanh nhà, cho nên thoải mái trồng trọt. Ngoài những thứ thường thấy như rau cải, bầu bí, khổ qua… người ta còn thấy bày bán ở đây những thứ khó tìm như: rau càng cua, bông so đủa, bông điên điển, cọng bồn bồn, rau nhút, rau muống nước (loại rau này tôi chưa từng thấy ở những nơi khác)… Có nhà nuôi gà vịt “đi bộ”, hay ấp trứng vịt lộn cũng mang ra chợ bán. Trái cây thì tràn ngập các loại trái cây VN, vùng đất này trồng mãng cầu, nhãn, thanh long rất tốt, ngoài ra còn có ổi xá lị, trái li ki ma, mít, xoài…

Xoài ở St. Pete có loại trái mập ú, trông ô dề xấu xí, nhưng khi ăn thì có mùi vị thơm ngon, hột lại nhỏ xíu, rất đặc sắc. Vú sữa cũng có, nhưng trái nhỏ tí như trái chanh, ai cũng chê chẳng thấy ai mua. Hầu hết các loại cây trái VN đều trồng được ở vùng này, ngoại trừ sầu riêng, chôm chôm và măng cụt.

Chúng tôi đi dạo qua khu bán cây ăn trái. Anh chủ khu này tên Sang, khoảng 40 tuổi người quê Bạc Liêu, hiện làm chủ một nông trại khoảng 20 acres (acre – mẫu Anh, cở 4000 mét vuông). Anh Sang chuyên nghề ghép cây ăn trái. Mấy cây nhãn, bưởi, cam, quít… cây thấp lè tè mà trái treo lúc lỉu trông thật “đã” mắt. Anh chàng này bán cây nổi tiếng khắp vùng Tampa. Những cây ăn trái của Sang thuộc loại hàng “độc”. Anh ta có những loại xoài mà không chỗ nào có được, như một loại xoài lạ, khi trái còn xanh thì chua tê lưỡi, nhưng khi chín thì thơm ngon không thể tả, và lạ lùng không biết làm sao anh ta cũng có xoài cát Hòa Lộc của Mỹ Tho. Có loài mận VN, khi còn non trái có màu xanh, khi chín tới có màu hồng đào, cắn vào miệng nghe dòn tan ngọt lịm. Anh ta có đủ thứ cây ăn trái khác như hồng dòn, hồng mềm, cây bơ quả nhỏ mà béo ngậy, quít đường Cần thơ, bưởi Biên Hòa… tất cả đã được anh ta tuyển chọn công phu nên mua cây của anh ta chúng tôi đều rất yên tâm về chất lượng.

Đi dọc dài, người đi lại nhộn nhịp vui chưa từng thấy. Ngoài người Việt, còn có một sắc dân đặc biệt khác cũng chiếm số đông ở đây, đó là người H’mong, xuất phát từ vùng núi non của nước Lào ( lạ nhỉ ! không hiểu sao họ lại ở đây) Trong khi người Việt nói chuyện với nhau huyên thuyên bằng tiếng Việt, thì người H’mong cũng không kém ồn ào bằng tiếng nước họ.

Chỗ kia, có một anh người Việt chở nguyên một xe truck dừa xiêm đổ xuống một đống lớn, ai thích trái nào anh ta sẽ chặt dừa, xong cắm ống hút vào đưa cho khách, khách vừa đi vừa uống trông rất vui. Nơi khác người ta xúm xít quanh một cái bàn, chờ mua gỏi Thái Lan của hai vợ chồng người Thái, gỏi làm bằng đu đủ bào, cà pháo tươi, đậu phọng rang, trộn với nước chanh và mắm ba khía, mùi vị ngon khá lạ. Có người Việt kia đi chày tôm ngoài sông rồi đem ra chợ bán, tôm chứa trong thùng cooler, nghe anh ta rao hàng, tôm nhỏ giá 2 đô rưởi, tôm lớn 7 đô một pound. Có chỗ bán cá, bán hoa lan, bán nước mía tươi ép tại chỗ… Tất cả đã tạo nên một bức tranh hết sức sinh động và hấp dẫn của Chợ Trời St. Pete.

Lần hồi, tôi khuân về nhà lũ khủ các loại cây ăn trái, mỗi thứ một cây: xoài, nhãn, bơ, trái vải, quít đường, bưởi… rồi chạy ra chợ mua mấy bao phân bón vào gốc. Hàng ngày tôi ra vườn tưới tắm cho cây, cây lớn lên như thổi, đâm chồi ra lá xum xuê, một thời gian ngắn sau cây ra hoa kết trái, trái nhỏ tí trông dễ thương làm sao.

Trồng cây là một thú vui thanh tao, bởi vì không phải là mong tới ngày ăn quả, mà vì một niềm vui khác, khi trong lòng cảm thấy có một sợi dây tương thông thân ái với cây trái trong vườn nhà. “Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”. (Tô Thùy Yên)

Thành phố vệ tinh thứ hai của Tampa là Clearwater, một thành phố du lịch, nhà cửa mắc mỏ nên dân Việt ít người dám sống ở đây. Con đường dẫn vào thành phố tuyệt đẹp cũng có một cây cầu dài khác chạy sát mặt biển băng qua vịnh Tampa, trên đường có những lối rẽ cho ai muốn câu cá thì ghé vào. Hai bên đường có trồng hai hàng cây cọ trông rất thơ mộng, con đường chạy thẳng ra vịnh Mexico. Ngày cuối tuần, người ta ở các nơi kéo đến tắm biển đông nghịt như ở Nha trang bên quê nhà. Lúc đầu chúng tôi cũng ngại ngần chuyện tắm biển, nhưng sau đó thấy người người thản nhiên xuống tắm, đủ sắc dân, đủ dạng người, đủ lứa tuổi… nên chúng tôi cũng kéo xuống tắm cho vui. Té ra biển ở đây rất tuyệt, nước biển trong xanh và phẳng lì chứ không hề có sóng dữ, nước biển lại ấm áp, chứ không lạnh cóng như biển Cali. Khi đã tắm được một lần là coi như vượt qua rào cản ngại ngùng, từ đó cứ dăm ba tuần chúng tôi lại kéo đi tắm biển, rất khoan khoái và thư giản.

Tôi về Tampa đến nay đã được gần hai năm. Không biết có phải vì đất trời phong thủy vận hợp với mình hay sao, mà từ khi về đây tôi thấy trong người sảng khoái lắm.

Đêm về, lên giường là ngủ một mạch đến sáng, điều này trước kia chưa hề có nơi tôi. Trong thời gian ở Jacksonville vì nặng nợ cơm áo gạo tiền, đêm đến tôi trằn trọc mãi thuốc ngủ lúc nào cũng thủ trên đầu giường, cho nên có thời gian dài tôi mang bệnh anxiety (bịnh lo sợ). Tôi cũng có đọc nhiều bài viết khuyên người ta nên biết buông sả khi lớn tuổi, phải tu đạo này hay theo đạo nọ, theo vị Thầy này hay theo vị thiền sư kia. Nhưng theo tôi tất cả chỉ là vô ích, khi người ta chưa tìm được một hoàn cảnh sống thích hợp thì khó mà tìm được sự an lạc trong đời thường. Đêm về tôi lắng nghe toàn thân, nghe nỗi sung sướng khoan khoái lan tỏa khắp người mình, hình như Thiên đường ở ngay trong lòng mình chứ không phải đâu xa xôi. Cám ơn Nước Mỹ, đã tạo cho tôi điều kiện tìm thấy hạnh phúc đích thực ngay trong đời thường.

Tôi lại nghĩ lan man sang chuyện khác. Trên cõi đời này có hàng triệu triệu người mong ước được đến sinh sống trên đất Mỹ. Đồng thời cũng có triệu triệu người căm ghét nước Mỹ. Tôi còn nhớ biến cố 911 khủng bố tấn công nước Mỹ, phần lớn loài người đều sững sờ kinh ngạc và biểu lộ lòng thương xót đến nước Mỹ. Nhưng không phải là tất cả, trong những giờ phút đầu tiên của biến cố, người Palestine đã đổ ra đường hò reo mừng rỡ cho thắng lợi của những người tử vì đạo. Có một phái đoàn báo chí một nước Á Châu lúc đó được mời đến thăm viếng Mỹ. Khi biến cố xảy ra họ đang đứng trong Trung tâm Báo chí, và đã có thái độ hân hoan vui mừng trong khi đất nước này đang chìm trong đau khổ. Ngay lập tức họ đã bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ và vĩnh viễn những con người này không bao giờ được phép đặt chân đến Mỹ. Vui mừng trước nỗi đau của đồng loại là hành vi man rợ, cho nên họ rất xứng đáng nhận lãnh hình phạt này. Nước Mỹ không hề đụng chạm đến đất nước họ, chỉ vì nước Mỹ giàu mạnh hơn, và dân Mỹ sống sung sướng hơn dân nước họ, chỉ đơn giản vậy thôi. Nhà văn NNN đã viết một câu rất hay:”… Có những người không chịu nỗi sự thành công của người khác. Bởi vì họ cứ coi sự thành công của người khác là sự thất bại của chính mình.”

Người Việt cũng vậy, có rất nhiều người mê Mỹ và cũng có rất nhiều người ghét Mỹ. Từ sau biến cố 1975 người Việt đã tìm mọi cách để đến Mỹ. Sau khi phong trào vượt biên chấm dứt người ta tiếp tuc ra đi bằng nhiều cách, hợp pháp hay bất hợp pháp. Hợp pháp là đi theo con đường bảo lãnh thân nhân, cha mẹ, vợ con, hôn thê, hôn phu và sau này thêm diện đầu tư. Bất hợp pháp bằng cách du học du lịch rồi ở lại luôn, hay tìm cách kết hôn giả với người có quốc tịch. Giả thử có người mất vài chục ngàn đô cho công việc bất hợp pháp này, thì suy cho cùng họ còn quá lời. Cái lời trước mắt là con cái được hấp thụ một nền giáo dục ưu tú nhất thế giới, nếu còn ở trong nước mà muốn cho con đến Mỹ du học hàng năm phải tốn khoảng 20 ngàn đô.

Còn nữa, món lời lớn nhất không thể tính bằng tiền bởi vì nó vô giá, đó là được sống trong môi trường xã hội quá lý tưởng, mà người Mỹ đã cố công gầy dựng từ hồi mới lập quốc cho đến bây giờ.

Một xã hội nề nếp, tất cả mọi đường lối chính sách đều rất minh bạch. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không có giai cấp nào, một thế lực hay đảng phái nào được đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Mọi người sinh ra đời đều được tôn trọng như nhau, đều có cùng một cơ hội tiến thân như nhau. Cho nên nếu anh nghèo, anh thất bại, anh học hành ngu dốt, là do anh chứ không phải do lỗi của xã hội, không hề có cảnh con quan thì được làm quan, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Một xã hội có tính ưu việt vượt trội quá xa những xã hội khác, tôi không dám kể ra đây nhiều nữa sợ nhiều người chạnh lòng.

Có người Việt chưa hề đặt chân đến nước Mỹ ngày nào, nhưng cũng ghét nước Mỹ thậm tệ. Hàng ngày họ xem phim ảnh, thời sự tin tức, họ thấy những cảnh bạo lực ghê rợn cướp của giết người hay sexy khêu gợi, hay mấy vụ cảnh sát bắn chết người da đen… xem riết rồi họ đâm ra ghê tởm nước Mỹ, và còn cho rằng những người Việt qua tới Mỹ rồi đi làm những chuyện xấu xa, là do:” Quít trồng ở Giang Nam thì ngọt, mang trồng ở Giang Bắc thì chua…” đúng là dạng người ếch ngồi đáy giếng.

Có người cứ mở miệng ra là chửi Mỹ như tạo ra cho mình một style lạ, hay chứng tỏ ta đây cũng có một thời “chống Mỹ cứu nước” nhưng thật ra không phải vậy, họ nói một đằng làm một nẻo. Đây là một trường hợp điển hình, hãy nghe nghệ sĩ Kim Tuyến nhận xét về nghệ sĩ Bạch Tuyết: “BT thù ghét nước Mỹ nhưng tại sao lại thích đi Mỹ. Cho con học ở Mỹ rồi lại lấy vợ Mỹ. Phải chăng BT muốn tìm một bãi đáp an toàn sau này ở Mỹ…”

Trong cộng đồng người Việt tại Mỹ có một hạng người không giống ai. Nếu họ là người homeless, hay cuộc đời gặp toàn thất bại thì không có gì đáng nói. Đàng này họ sống trên đất Mỹ đã vài chục năm, làm ăn sinh sống khá thành đạt cũng có của ăn của để, con cái học hành thành tài. Vậy mà hễ cứ có dịp là họ chửi Mỹ, nào là làm ra bao nhiêu tiền, bảo hiểm và sở thuế ăn hết, chủ tư bản bóc lột đến tận xương tủy (câu này sao nghe quen quen!) Có người thấy vậy chướng mắt bèn nói móc họng: “Nếu ông thấy sống ở Mỹ có quá nhiều điều không ưng ý, thì ông nên về Việt Nam sinh sống để khỏi vướng mắt đến những điều này.” Lặng thinh! không nghe câu trả lời, những người này rất xứng đáng mang cái tên là “ăn cháo đá bát”.

Suy cho cùng, để cảm nhận thật sự nước Mỹ phải có thời gian để cho cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người. Chứ còn chỉ đi du lịch hay thăm thân nhân vài ba tháng, hay được bảo lãnh qua Mỹ sống vài năm, thì thật tình chưa biết gì nhiều về nước Mỹ. Những người đó cảm thấy nước Mỹ sao chán ngắt, vừa buồn hiu vừa lạnh lùng. Đi đâu cảnh vật cũng từa tựa như nhau, giống y như câu thơ của Nguyên Sa:” Trời trên đất khách buồn vô hạn. Trăng rất quen mà vẫn chẳng quen.”. Thời giờ lúc nào cũng eo hẹp, cặp mắt cứ láo liên ngó đồng hồ. Không hề có cảnh sáng cà phê cà pháo cả tiếng đồng hồ, chiều lai rai bia bọt, kiếm người tán gẫu không phải dễ. Cái xứ gì mà người ta phải ôm đồm đủ thứ nợ: nợ nhà, nợ xe, nợ thuế, nợ bảo hiểm, nợ thẻ tín dụng… Cho nên có rất nhiều người Việt qua Mỹ một thời gian rồi lại quay về cố quốc.

Muốn cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người theo tôi nghĩ cũng phải mất cỡ 5 năm. Khi nào người ta thấy nỗi nhớ nhà nó dịu lại, nhìn cảnh vật chung quanh không còn thấy buồn như trước. Vào mùa Đông trời chớm lạnh ra đường thản nhiên vận áo T shirt, điều đó có nghĩa là không còn sợ lạnh như những năm tháng đầu đến Mỹ. Ra đường gặp ai bất kể lạ hay quen đều gật đầu chào:” Hello! How are you doing”. Nói chuyện với người Mỹ không còn dùng body language nữa. Ăn uống không còn thuần túy: bún bò Huế, hủ tíu, mì phở… mà còn thích hamburger, hog dog, pizza, sushi, pasta… Khi nào cảm thấy vui với cái vui của nước Mỹ và buồn với cái buồn của người Mỹ, là coi như không còn có thái độ bàng quang như trước kia, là biết con người mình đã đổi khác.

Cuối cùng một điều quan trọng nhất, là khi ta quay về cố quốc, lòng chợt bàng hoàng thảng thốt, đất nước không còn giống như trong tâm tưởng nữa rồi, mọi chuyện đời đều đã thay đổi… và một ý nghĩa buồn rầu nẩy ra là mong sao sớm trở về nước Mỹ. Như ai đó đã nói một câu như là chân lý: “Nước Mỹ không phải là Thiên đường, nhưng là một nơi đáng sống nhất trên cõi đời này”.

Ngô Đình Châu

Chuyện đáng suy gẫm

CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT

Bố đang sửa xe, con trai cầm mảng đá vẽ lên vỏ xe. Bố nhìn thấy, giận quá, văng cái kìm sắt đánh vào tay con. Con phải nhập viện, gãy xương ngón tay. Con nhẹ nhàng nói với bố:
– Bố ơi, sẽ nhanh khỏi thôi, bố đừng lo nhé.
Bố cảm thấy vô cùng ân hận, đùng đùng chạy về nhà định đập nát xe ô tô của mình. Đập vào mắt bố là dòng chữ mà lúc nãy con đang viết dở: “Bố ơi, con yêu bố!”

Lời bàn:

Có rất nhiều việc nếu ta nghĩ kỹ hơn một chút rồi mới quyết định thì sẽ tốt hơn nhiều.

CÂU CHUYỆN THỨ HAI

Trên thảo nguyên có hai mẹ con nhà sư tử. Sư tử con hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ bảo:
– Hạnh phúc ở đuôi con đấy.
Sư tử con ngây ngô cứ gắng sức đuổi theo đuôi mình, mà mãi không thể bắt được.
Sư tử mẹ nhìn con cười hiền hậu nói:
– Ngốc ạ, không cần phải đuổi theo hạnh phúc. Chỉ cần con ngẩng cao đầu hướng về phía trước, thì hạnh phúc sẽ mãi mãi đuổi theo con.

Lời bàn:

Nhiều khi ta không phải cố gắng đuổi theo thứ gì đó, cứ ngẩng cao đầu mà bước tiếp, thành công và hạnh phúc sẽ đuổi theo.

CHUYỆN THỨ BA

Con không nuôi được mẹ già, định cõng mẹ lên núi để mẹ lại đó. Buổi chiều tối, con nói với mẹ sẽ đưa mẹ lên núi dạo chơi. Mẹ phấn khởi trèo lên lưng con. Cả đường con chỉ nghĩ đến việc sẽ trèo lên thật cao rồi bỏ mẹ ở đó. Đến khi phát hiện ra mẹ đang âm thầm rắc hạt đậu xuống đường, con đã rất tức giận quát:
– Mẹ rắc hạt đậu làm gì hả?
Cuối cùng, mẹ đã trả lời một câu khiến đứa con khóc đẫm nước mắt:
– Con ngốc của mẹ, mẹ sợ tý nữa con đi về một mình sẽ bị lạc đường.

Lời bàn:

Mẹ hiền không bao giờ từ bỏ ta mà luôn tha thứ cho ta

Phan Sinh Trần

Đường Đời – Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

Tôi sống trong cuộc đời nhưng tôi có riêng đường đời của tôi.  Mới hôm nào bố mẹ nhìn bầy con chung quanh mâm cơm chiều.  Chỗ nào cũng là gần gũi yêu thương, từ nhà ra sân, từ ngõ đi vào.

Dòng sông lớn lên âm thầm rẽ nhánh.  Tôi đi theo tiếng gọi của đời tôi.  Lũ em lần lượt bước vào ngõ quanh của mỗi đứa.  Bây giờ đã là xa cách.  Trong cuộc đời, nhưng mỗi đứa có riêng đường đời của mình.

Kinh Thánh kể, sau khi dâng lễ ở Jerusalem về, Mẹ Maria lạc mất Chúa.  Mẹ hối hả đi tìm: “Cha con và mẹ phải đau khổ đi tìm con.”  Chúa thưa lại: “Mẹ tìm con làm chi, vì con phải ở nơi nhà Cha con” (Lc 2, 48-49).  Trong cuộc đời, Chúa có đường Chúa phải đi.  Mẹ Maria có lối của Mẹ.

Mỗi người có một cuộc sống riêng nên không đường của ai giống đường của ai.  Tuy vậy, chỉ có một người gọi, đó là Chúa.  Và cũng chỉ có một tiếng gọi, đó là tiếng gọi về Nhà Cha.  Chỉ có một thứ tiếng gọi và do một người gọi, thì đường đi có khác, vẫn ở trong toàn thể.  Ở trong toàn thể thì có liên hệ và ảnh hưởng.  Với ý nghĩa đó, cuộc sống đức tin của người này liên quan đến cuộc sống của người kia.  Lối về Nhà Cha phải đi riêng đường của mình.  Ðiều ấy có nghĩa là đi một mình.  Ði một mình trong hàm ý là tự mình đi chứ không phải là đi lẻ loi.

Chúa Giêsu lên đường về Jerusalem để chịu tử nạn.  Theo tiếng gọi, Phêrô cũng lên đường với Ngài.  Nhưng trên đường đi, Phêrô gợi ý cho Chúa bỏ cuộc (Mc 8,31-33).  Làm gì có Phục Sinh nếu Chúa Giêsu nghe lời Phêrô chối từ Thập Giá.  Từ bỏ con đường của mình phải đi là đánh mất bản tính của mình.  Nếu Chúa cũng chỉ là Chúa khi Chúa đi con đường của Chúa thì đấy phải là định luật không thể thay thế cho tôi.  Tôi sẽ chẳng còn là tôi nếu chối từ con đường của mình.

*****

Mỗi người có một con đường, vì sao họ lại không đi được đường của họ?

Trên đường đời, cả hai: đau khổ và hạnh phúc, đều là những tiếng gọi dỗ dành làm tôi lạc lối.  Ðau khổ dẫn tới lẩn tránh đường đi.

Phêrô đã âm thầm cảm nghiệm được một khúc đời khốn khó nếu để Chúa về Jerusalem tử nạn.  Ðau đớn thường dẫn đến chạy trốn.  Trên đường đi, có những quãng đời rộn rã tiếng cười như ngày Chúa long trọng vào thánh thánh: “Dân chúng rất đông đảo, trải áo choàng trên đường, nhóm khác chặt cây mà lót lối đi.  Kẻ trước, người theo sau tung hô rằng: Hosanna, con vua David.  Vạn tuế Ðấng nhân danh Chúa mà đến.  Hosanna trên chốn trời cao” (Mt 21,8-9).  Tưng bừng là thế đó, nhưng lại không hiểu những ngày hắt hiu: “Hồn Ta buồn quá đỗi, muốn chết được.  Các ngươi hãy ở lại mà thức với Ta.”   Ðã chẳng ai thức với Chúa trong giờ phút lẻ loi nhất ấy: “Simon, ngươi ngủ sao? Ngươi không thể thức với Ta được một giờ ư?” (Mc 14,34-37).  Có những ngã tư đông đúc, cũng có những ngõ vắng dẫn vào cô tịch đìu hiu.  Ngõ vắng ấy là ngại ngùng.  Cô tịch đìu hiu kia là đau khổ.  “Ai bỏ tất cả mà theo Ta sẽ được gấp trăm” (Mc 10,28-30).  “Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8,34).  Lời ban đầu là quãng đường đẹp hứa hẹn đầy mộng ước.  Lời kế tiếp là khúc vắng dẫn vào đìu hiu, cô tịch.

Chúa không về Jerusalem để chết vĩnh viễn trên thập giá, mà là để đón nhận phục sinh vì hoàn tất thánh ý của Chúa Cha.  Bởi đó, đường về Nhà Cha thì Nhà Cha mới là cùng đích.  Nhưng cô tịch đìu hiu, những ngõ vắng nếu có trên đường đi, tôi phải chấp nhận.  Chối từ phương tiện là chối từ cùng đích.  Ðường của Gioan Tẩy Giả là “mọi thác ghềnh sẽ được lấp đầy, đồi cao sẽ hạ thấp, nơi cong queo nên ngay thẳng” (Lc 3,4-6), để dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến.  Chấp nhận đường của mình.  Gioan đã phải đi những quãng đường rất vắng vẻ, rất đìu hiu trong ngục tối vì dám làm chứng cho sự thật.  (Mc 6,17-28).

Trời sa mạc rộng quá.  Gioan cất tiếng kêu.  Tiếng kêu trong sa mạc thì thấm vào đâu.  Nhưng lối đi của Gioan là thế.  Sứ mạng của sứ ngôn là lên tiếng.  Không thể để cái hoang vu của sa mạc làm nản lòng.  Dù không có ai nghe, người sứ ngôn vẫn phải cất tiếng.  Chối từ lên tiếng là đánh mất bản tính làm sứ ngôn của mình.  Bản tính đó hệ tại là người sứ ngôn có lên tiếng hay không chứ không hệ tại người nghe chối từ hay chấp nhận.

Gian nan làm người ta muốn chối từ con đường của mình thế nào thì hạnh phúc giả cũng làm người ta lạc lối như thế.

Ảo ảnh hạnh phúc dễ đưa lầm đường.

Vì đường đời đi trong cuộc đời, nên có lúc người khác đi cùng với tôi.  Ði cùng không có nghĩa là đi con đường của nhau.  Ðường tôi đi vẫn là của riêng tôi, nên dù không ai đi cùng, tôi vẫn phải đi.  Những lúc trên đường vắng ấy, một quán hạnh phúc bên ngã rẽ dễ mời tôi tắt lối quẹo ngang.  Sau những ngày ăn chay trong sa mạc, Chúa đói.  Ma quỷ đã đến cám dỗ Ngài: “Nếu ngươi là con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho viên đá này thành bánh” (Mc 4,3).  Luôn luôn có lời ngọt ngào bảo tôi chối bỏ con đường của tôi.

Trong hôn nhân, biết bao đổ vỡ đã đến từ những bóng mát hạnh phúc ở bên cạnh.  Trong đời tu, biết bao trống trải đã ủ xuống hồn vì những lời gọi không chính đáng.  Mỗi người có một lối đi.  Vì cùng đi trong cuộc đời, nên sẽ thấy có người bước tới, có người quay về, có người tắt ngang.  Ðiều ấy dễ gây xôn xao.  Có người lấy bóng hạnh phúc của kẻ khác làm của mình, vì thế họ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc thật.  Có người lại lôi kéo kẻ khác vào con đường của họ.  Làm như thế, ngỡ là yêu thương, nhưng thật ra, họ đã tàn tật hóa con đường của nhau phải đi.  Nâng đỡ nhau trên đường đi không bao giờ có nghĩa là đi con đường của kẻ khác.  Yêu thương là để kẻ khác đi trên con đường của họ.

Nguy hiểm trên đường đi là sự lừa dối lương tâm của chính mình. Khi người ta gian lận nhiều lần, thì dần dà sẽ thành thói quen, nhưng thành thói quen không có nghĩa là được phép.

Cứ đi lại nhiều lần trên bãi hoang, thì tự nhiên sẽ thành đường đi, nhưng thành đường đi không có nghĩa đấy là chính lộ.

*****

Lạy Chúa, hôm nay con muốn nói với Chúa về nỗi lòng của con đã thấy gì trên đường con đi.  Trên đường đi, con thấy có nhiều quán trọ.  Có quán cho con bóng mát.  Có quán bảo con đừng đi.  Mệt nhọc làm con muốn dừng nghỉ.  Chống đối, hiểu lầm, ghen tỵ, kết án làm con muốn bỏ cuộc.  Và dường như, nếu con càng dừng nghỉ thì con càng ngại đi.  Nếu con càng làm quen với lười biếng thì con càng ngại ngùng trở về con đường Chúa muốn con sống.  Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm.  Và, cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng đường thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa.
Hình ảnh đồi sọ làm con tính toán lưỡng lự.  Có những quãng đường sao mà tối tăm làm con hồ nghi không biết có phải là đường thật không.  Ðây là lúc con phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu.  Và cũng là những lúc con bị cám dỗ nghi ngờ ơn gọi Chúa đã ban.  Ði trọn tiếng gọi của mình theo Phúc Âm không dễ vì có nhiều hình ảnh đánh lừa con.  Có phải vì thế mà Chúa đã dặn: “Ðường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi” (Mt 7,13-14).

Hôm nay, có điều con cũng muốn thưa với Chúa là dù được an ủi hay chịu đựng âm u của những ngày nặng nề, con vẫn nghe thấy tiếng Chúa khuyến khích con đi con đường của riêng con.  Tuy có khó khăn nhưng con vẫn tin ở trước mặt là một bình minh rất đẹp.  Ðiều ấy làm con vững tâm.

*****

Trong lịch sử lầm đường, chối bỏ lối đi của mình bao giờ cũng có mặt của Satan.  Khi Phêrô ngăn cản Chúa đừng chịu chết.  Chúa mắng: “Satan hãy cút khỏi sau Ta vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa” (Mt 8,31-33).

Phúc Âm thánh Luca nói về Giuđa như sau: “Satan nhập vào hắn, và y đi thương lượng với các thượng tế để làm sao nộp Ngài cho họ” (Lc 22,3-4).

Trong sa mạc, kẻ cám dỗ Chúa đừng đi con đường của Chúa cũng là Satan (Mt 4,1-11).

Ngày xưa trong vườn địa đàng, Adong, Evà đã không đi được con đường của mình cũng vì lời ma quỷ lừa gạt.  Lịch sử lầm đường là lịch sử có mặt của Satan.  Ðiều ấy cho tôi tin chắc rằng khi tôi không muốn đi con đường của mình, tôi phải cẩn thận vì tiếng nói của thần dữ rất tinh vi.

Nói về hành động Giuđa đi lạc lối, Phúc Âm thánh Gioan kết luận: “Lập tức hắn đi ra và trời đã tối” (Gn 13, 30).  Khi nói trời đã tối, Gioan không có ý viết một bài văn chương tả cảnh hoàng hôn.  Bằng ngôn ngữ thần học, rất sâu sắc, Gioan muốn nói khi con người chối bỏ ơn gọi của mình để Satan đổi hướng đời mình phải đi, đấy là lúc “người ta yêu mến bóng tối hơn sự sáng” (Ga 3,19).

Không đi đường mình phải đi, chìm vào bóng tối thì tôi tìm thấy gì trong vùng đất ấy?

Trời đã tối, tiếng than ngắn ngủi mà thăm thẳm như nỗi tuyệt vọng mịt mù, buông xuống che kín một đời người.  Lời thánh Gioan nhắn nhủ nghe buồn như tiếng thở dài, nhẹ mà rất sâu: “Ai đi trong tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu” (Ga 12,35).

*****

Lạy Chúa, con đường đời của riêng con.  Chối bỏ con đường của mình là lừa dối chính mình và tránh mặt Chúa, kẻ đang đợi chờ con ở đầu đường bên kia.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen

Chuyện sủ nhi-Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Tiếu-Lâm  XHCN

Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn trẻ (SN 1976 tại Cà Mau) hiện sống và làm việc ở Cà Mau. Tập truyện ngắn “Cánh Đồng Bất Tận” của cô đã gây ấn tượng đến người đọc! “Sủ Nhi” hay “Sửu Nhi”? Hiện nay trong nước có từ “sửu nhi” được những người có máu tiếu lâm dịch từ chữ “trẻ trâu” (bọn trẻ chăn trâu) để gọi lớp thanh niên mới lớn ít học, hoang đàng, lỳ lợm, và hay quậy phá              

TTO – Sủ Nhi đi làm ở Viện chữ Nhà nước chưa được nửa năm đã nhận 69 bằng khen, nghe nói còn sắp được cất nhắc lên làm viện phó trong vòng 3 tháng tới, nhằm vào kỷ lục viện phó trẻ tuổi nhứt châu Á – Thái Bình Dương.

Chuyện thăng tiến nhanh tuyệt đối chẳng phải vì Sủ Nhi là cháu ruột của viện trưởng, con trai của tỉnh trưởng, em vợ của phó bộ trưởng, mà hoàn toàn bởi tài năng xuất chúng của nó. Má nó, quá tự hào về thằng con đã phải đi thẩm mỹ viện nhiều lần, để thu gom cánh mũi lại, vì mũi phồng quá mức, bởi sự nở không ngừng.

Cả nhà Sủ Nhi hạnh phúc thì đương nhiên rồi, nhưng nhiều khi tự vả vô mặt mình, bởi tưởng đang mơ.

Ai mà dè được thằng nhỏ đã từng nhấn nước chết mèo, vặt trụi lông đuôi chó, cho gà nuốt dây thun, nhái tướng đi của bà Bốn Cụt bán vé số, chạy xe tạt nước cống vào người đi đường, cái thằng mà thiên hạ xúm nói “Cái đồ vô cảm đó chừng lớn lên chỉ có nước đi phá làng phá xóm…”, giờ lên tivi nhận giải công chức ưu tú trong lãnh vực cứu thua.

Chính Sủ Nhi cũng không thể tin được, bởi lưu ban suốt hồi phổ thông, và mảnh bằng đại học cũng do mua chợ đen mà có. Ngay hồi đầu năm thôi, nó mần thử phó giám đốc một bệnh viện, đã bị người ta vây đánh khi ưu tiên xếp lịch mổ bướu thịt cho một yếu nhơn, trong khi chục ca bịnh nặng ngàn cân treo chỉ đang chờ, với lý do “làm đúng qui trình”.

Vụ đó báo chí làm rùm beng teng xeng lên, khui luôn chuyện có lần nó bút phê vô bệnh án “Chết vì tắt thở”. May nhờ ba má nó dàn xếp kịp, nhưng nhờ vậy mà ông bác ở Viện chữ Nhà nước phát hiện ra nhân tài ngay trong nhà mình.

Sủ Nhi chính thức bước vô tòa lầu bự chà bá lửa, gia nhập vào đội quân gần một trăm viện sĩ, những người gần như cả đời gom não để sáng tạo ra những cụm từ, những câu chữ mang tính Nhà nước cao.

Thằng Sủ Nhi từng thắc mắc tính Nhà nước là tính gì, thì ông bác nói khó mà định nghĩa được. Sủ Nhi càng thấy khoái tỉ, bởi những thứ không có định nghĩa thì mông lung, nó làm sai bét cũng chẳng ai bắt bẻ. Nó linh cảm mình mà mần viện sĩ viện đó thì như xe cọp xoáy nòng, Ferrari đổ đầy xăng.

Vào buổi sáng đầu tiên nhận việc, Sủ Nhi nhận được đơn đặt hàng bên Sở Bảo Vệ, nhân viên của họ tung cước một tiếp viên trên máy bay, gái đó nằm vạ đòi xin lỗi. Và Sủ Nhi phán luôn khỏi cần nghĩ chi lâu: “Cứ nói mình duỗi cẳng cho máu chảy đều, là êm ru bà rù hết!”.

Nhưng Sủ Nhi khẳng định tên tuổi phải từ vụ gỡ bàn thua trông thấy cho Sở Cầu đường bởi cây cầu mới xây đã sập, nó phán:“Do biến động bất ngờ của dòng chảy cùng với độ lún khó lường của lòng sông”. Không học một ngày nào, nhưng thằng nhỏ nắm bắt nghề rất nhanh, bí quyết ở chỗ chữ phải có độ mông lung cao, và phải vô cùng linh hoạt.

Như khẩu quyết thần thánh của ông bác viện trưởng truyền lại, chữ của viện này phải như nước chảy không ai bẻ được, chữ phải như bóng không ai bắt được.

Một viện sĩ giỏi thì biết thay chữ “tụt hậu” bằng phát triển chậm nhưng mà chắc, cái đó Sủ Nhi phần năng khiếu từ trong máu, phần được ông bác viện trưởng truyền chiêu, nên nó cũng sáng tạo hơn người.

Sở Đi Lại để xảy ra bộn tai nạn xe cộ, Sủ Nhi cho mấy chữ:“Số lượng tai nạn trong khuôn khổ cho phép”. Chỉ nhiêu đó thôi mà phần thưởng của Sở không bị cắt xíu nào. Cũng vậy, Sở Sức Khỏe tai qua nạn khỏi sau 1 năm bệnh dịch tràn lan, chỉ bởi một câu của Sủ Nhi tháo cũi sổ lồng: “Tuy dịch bệnh xảy ra nhưng vẫn trong tầm kiểm soát”.

Tiếng tăm Sủ Nhi lên cao, Viện chữ Nhà nước càng được trọng vọng. Hôm kỷ niệm 80 năm lập viện, người ta khẳng định lần nữa sự đóng góp vô cùng bự của từng viện sĩ, giúp cho thiên hạ tránh được đại loạn, bởi mỗi tế bào não ưu việt của họ đã sản sinh ra bao cụm chữ lay động lòng người, xoa dịu vết thương, hàn gắn nỗi đau, như: “Lỗi do cơ chế”, “Sai sót trong thiện chí”, “Khuyết điểm mang tính khách quan cao”.

Viện trưởng, người góp phần sáng tạo ra những cụm từ mang tính mỹ cảm ngút trời ấy, vốn đau đáu lo lớp hậu sinh chưa có ai xứng đáng để giao viện lại, may phát hiện ra thằng cháu mình, cảm thấy ưng bụng vô cùng. Nhưng không phải là không chạnh lòng, khi mỗi lễ Tết về, khách nườm nượp đổ về phòng thằng cháu, nhằm bày tỏ lòng biết ơn, nhờ nó mà ghế ai cũng vững như bàn.

Ngoi lên cao, kẻ ghen ăn tức ở cũng nhiều. Có lần thằng Sủ Nhi bị họ bắt quả tang đang chơi xếp hình với chục ngoài mỹ nữ, ai cũng nghĩ phen này nó chết chắc, nhưng thế nào mà lỗi cuối cùng là do “Chưa được chừng mực trong công tác gần gũi quần chúng”.

Cũng năm đó, Sủ Nhi say rượu lái xe vô đường ngược chiều bị chụp hình đăng báo, trong bản kiểm điểm đầy nước mắt, nó kêu mình “Xác định phương hướng chưa được sâu sắc”.

Chỉ duy nhất một lần Sủ Nhi phải chịu thua, khi có một em ngắn ngủn tới nhà mang theo một que hai vạch bắt đền nó. Dù chữ nó có ảo diệu cỡ nào, kiểu như “Rút chậm một nhịp so với thời đại”, thì cuối cùng nó cũng bị em Ngắn nhốt vô tờ hôn thú, chỉ bằng một câu trần trụi hơn: “Tía tui là vụ trưởng, cưng tính sao thì tính!”. Sủ Nhi còn biết tính gì, đầu hàng vô điều kiện.

Ông Trời như thấu hiểu nỗi đau của nó khi có cô vợ ngắn quá cỡ, nên đền bù xứng đáng. Năm sau, Sủ Nhi một bước lên viện trưởng, bởi ai cũng thấy không cất nhắc nó sớm, là có tội với non sông!

 NGUYỄN NGỌC TƯ

From: Phan Sinh Trần

Một thời chinh chiến – Quan Dương-Truyện hay cuối tuần

 Nguồn từ Bùi bảo Sơn

Tháng 10/70 tôi theo đại đội di chuyển về chi khu Buôn Hô. Khi làn bụi đỏ mịt mù vừa lắng xuống, thị trấn Buôn Hô hiện ra trước mắt làm tôi chới với . Thị trấn gì đâu mà chỉ có một nhúm nhà tole thấp lè tè nằm phơi mình dưới nắng, xa hơn tí nữa là những dãy nhà sàn của người thiểu số . Còn đang ngơ ngác thì bị pháo kích. Nghe tiếng đạn bay sèn xẹt trên đầu tôi hoảng hồn nhảy đại xuống một chiếc hố cá nhân ngồi núp. Mấy người lính thuộc quyền đứng phía trên cười ngất, tôi ngạc nhiên hỏi lý do cười, họ bảo :

– Tiếng đạn đi như thế nó không rớt trúng mình đâu, chuẩn úy đừng sợ

Quả như thế thật. Trái đạn rơi cách xa chi khu hơn nửa cây số. Nhưng tiếng sợ làm tôi bị chạm tự ái. Dù gì tôi cũng là cấp chỉ huy. Thế là tôi bèn nhảy phóc lên đứng hiên ngang tỏ vẻ mình ngon lành . Một tiếng khác bay vèo tới , nghe tiếng riu ríu trên đầu tôi ngước cổ lên nhìn . Nhưng đám lính lần này nhanh hơn con sóc . Thoáng một cái họ đã ở dưới hầm chiến đấu gọn gàng . Một bàn tay kéo tôi té nhào theo .

– Chuẩn úy ơi khi nào tiếng đạn bay nghe kin kít như đàn bà nghiến răng đánh ghen thì lo mà chui vào hầm ngay vì nó sẽ rớt rất gần mình đó .

Chưa kịp quay qua cự nự nghe nói thế tôi bèn im . Quả đạn rớt ngay vòng rào . Bụi đất cát đá bay phủ đầy trên miệng hầm . Tôi nghe rõ tiếng loảng xoảng của mảnh đạn chém vào mái tole của chi khu . Một mảnh đạn nhỏ bay sượt ngang gò má, tôi nghe ran rát như bị móng tay ai cào. Thế là còn đang chân ướt chân ráo mùi mực thư sinh chưa kịp phai, tôi đã lãnh thẹo . Đúng là lãng xẹt. Bài học đầu tiên của chiến trường đã dạy cho tôi nhiều kinh nghiệm đáng giá sau này. Hôm nhận trung đội, đứng trước 23 người lính thuộc quyền xì xào mặt ông chuẩn úy này còn búng chảy ra sữa chắc mới rời vú mẹ quả chẳng sai . Nhưng thực sự vết thương trên mặt tôi không chảy ra sữa mà chảy ra máu . Đó là những giọt máu đầu tiên tôi đã đổ ra trong đời quân ngũ . Khi bị chảy máu người đầu tiên tôi nghĩ đến là má tôi . Má giờ này ở Ninh Hòa chắc không biết thằng con đang trở thành người lớn. Bây giờ mỗi khi soi gương nhìn vết sẹo theo thời gian cộng thêm da mặt xếp ly nên chỉ còn thấy lờ mờ , lòng tôi sống lại cảm giác nao nao. Vết sẹo vẫn còn đây nhưng người cũ đâu hết rồi? Nhớ những đồng đội thuở nào mà sau này đã gắn bó cùng tôi suốt mấy năm trời ròng rã .

Tôi ra đơn vị nửa năm sau là đến tết . Để mong muốn có một cái tết yên lành, thiếu tá chi khu trưởng quyết định đưa hai khẩu pháo 105 ly trú đóng trên một ngọn đồi cách quận lỵ 14 cây số . Tôi có nhiệm vụ phải dẫn trung đội theo làm vòng đai. Lần này thì thực sự chơi với khỉ vì chung quanh là rừng núi bạt ngàn không có một bóng dáng người dân. Lúc mới đến Buôn Hô chê lên chê xuống, giờ lên nằm cố thủ đỉnh đèo Kati mới thấy hết dám chê ỏng chê eo. Buôn Hô coi vậy mà dù sao cũng còn có vài ba cô gái Thượng đen đúa chọc đỡ ghiền. Những sợi lông tơ trên mép giờ đã biến thành râu mọc khiêm nhường hai chùm ở hai bên . Dưới chóp mũi là những sợi lông lờ mờ lưa thưa giống như quẹt lọ nghẹ. Nhưng không để râu thì không thể được vì đám lính thuộc quyền chê là con nít. Rừng rú có ma nào thèm nhìn thành ra tôi quyết định không cạo. Chính quyết định này mà về sau hàm râu đúng là hại bạn khi tôi gặp Luận .

Nằm trên đỉnh Kati thét rồi rồi cũng có ngày tôi theo chiếc xe dodge đại đội về thị trấn để nhận tiếp tế. Việc đầu tiên khi về đến Buôn Hô lủi vô chợ để kiếm một ly cà phê vớ uống cho ấm lòng chiến sĩ (cà phê vớ là cà phê được người Thượng đựng trong chiếc vớ bỏ vào ấm nước nấu sôi lên xong chế ra ly chứ không dùng phin vì có phin đâu mà dùng). Đang nhấp nháp thì chợt tôi trông thấy một cô gái người kinh. Giữa một rừng người Thượng đen đủi, bóng dáng cô gái nổi lên như một vì sao giữa đêm tối trời. Cô gái bán mấy món hàng tạp hóa lặt vặt được bày trải trên một tấm ni lông. Chẳng có món nào để tôi có thể tìm cớ mua được. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở dễ gì tôi bỏ qua . Thế là tôi bèn mò tới ngồi chồm hổm trước mặt cô chủ. Dọ hỏi tên họ thì được biết tên Linh 18 tuổi . Thấy tướng tá của tôi râu ria không cạo, câu chào đầu tiên là : chào chú . Tôi thì bước vào tuổi 21 . Cách biệt nhau chỉ khoảng ba tuổi bị gọi bằng chú hơi ức . Tôi bèn mua một hộp dao lam. Linh hỏi chi vậy. Tôi đáp phen này thề quyết xuống tóc cạo râu để không bị gọi bằng chú. Đêm đó về đồn tôi cạo râu nhẵn thín . Mặt mũi lâu ngày được “ giải phóng “ nhẹ nhõm hẳn ra. Đám lính thấy thế tủm tỉm cười . Sau khi cạo râu xuống trình diện Linh, tưởng được xuống cấp anh ai dè Linh vẫn gọi bằng chú. Lần này lại kèm theo tiếng cháu khi xưng hô cho chắc ăn để phân định rõ ràng vai vế .

Mùa mưa bụi đất đỏ biến thành bùn nhão nhẹt theo bám gót giày nặng trịch. Lớp bùn thật lì lợm bám chặt đến nỗi phải dùng lưỡi lê nạy mới ra. Tôi cũng lì không kém. Dựa vào vai vế người lớn, tôi hiên ngang xuống chợ la cà. Bao nhiêu tiền lương mua hết cái này cái nọ đến độ Linh không còn hàng để bán :

– Mua hàng chỉ là cái cớ, tiền lính đâu có bao nhiêu chú nên để dành uống cà phê. Có rãnh thì xuống ngồi chơi với cháu cũng được không có sao đâu

Linh gọi tôi bằng chú, tôi không có lý do để xưng anh . Nhưng chú đứng cạnh cháu trông thiệt xứng đôi vừa cặp . Tuy thế tôi vẫn không thể xác định được rõ ràng tình cảm của tôi dành cho Linh là thứ tình cảm gì? Hình như tôi thương mến Linh bằng một thứ tình thân thiết ruột rà như anh với em. Chắc có lẽ hai đứa tôi cùng là người kinh, cùng xa quê, vì thời thế phải lưu dạt lên tận miền cao heo hút nên cần thiết nương tựa vào nhau .

Hè đến, tôi gặp Luận. Luận là cháu ruột Linh, gọi Linh bằng cô và chỉ thua Linh có một tuổi ( nghĩa là thua tôi 4 tuổi). Luận học ở Ban Mê Thuột nghỉ hè lên Buôn Hô thăm cô . Lần này thì tôi thực sự bị tiếng sét ái tình đánh trúng . Khi thấy Luận ngồi với Linh tôi mơ hồ dường như cô bé này tôi đã gặp ở đâu đây . Hồn tôi xính quýnh . Luận gọi Linh bằng cô nên suy ra gọi tôi bằng ông cho lễ phép ( vì tôi tụ trì ở vai vế chú của cô) . Xưng hô tréo cẳng ngỗng như vầy thì làm sao mà cua ? Rõ ràng bước đầu không thuận lợi. Nhưng sét đã đánh trúng rồi cho dẫu chết cháy, ông cháu gì tôi cũng phải liều mạng nhào vô .

Luận có một cái nốt ruồi duyên trên gò má phải. Tất cả nét đẹp dịu dàng tự nó toát ra không hề có một tí make up nào dính vào . Giọng nói của Luận nhẹ nhàng như chim hót . Nhất là khi Luận nói tiếng Thượng với những người dân tộc thiểu số, nghe líu lo ríu rít . Tôi không biết tiếng Thượng, tôi không hiểu được tiếng chim, nhưng âm thanh phát ra từ hai bờ môi xinh xắn kia bảo đảm nghe du dương hơn tiếng nhạc .

(Sau này ở Mỹ mỗi sáng trước khi đi làm có con chim đứng trên ngọn cây trước nhà thức dậy líu lo thay cho lời chào ” good morning” thế nào tôi cũng đứng lại chậm năm ba phút để mà thưởng thức . Tôi đem điều này kể cho bà xã tôi nghe . Vợ tôi hỏi:

– Anh có biết tại sao con chim nó hót nghe ngọt ngào trong trẻo hay không?

– Tại sao ?

– Là vì nó không phải nấu ăn, không phải giặt đồ, không phải rửa chén, không phải clean up nhà cửa , không phải đau đầu vì cái tật làm biếng , bày đâu xả rác đó , nhất là không phải nghe những câu hỏi vớ vẩn giống như anh

(Xét ra, lý lẽ của bà xã đúng vô cùng , hèn chi được tôi tin tưởng bâu vào chức vụ thủ lãnh của mình và dám con )

Sống trên rừng núi âm u, khí hậu ẩm thấp quanh năm lính tráng đứa nào cũng phì phèo điếu thuốc. Có chuyện gì vui : chia nhau điếu thuốc . Có chuyện gì buồn : chia nhau điếu thuốc . Tiễn đồng đội ra đi : cũng là điếu thuốc thay nhang . Điếu thuốc vì thế trở nên gắn bó . Khi sống ở Mỹ hành vi duy trì hút thuốc là một hành vi bị bà xã và đám con tôi biểu tình phản đối vì nó lạc hậu có hại cho sức khỏe . Tôi ghi nhận ý kiến phản đối hợp lẽ với nếp sống văn hóa cao đó , nhưng vẫn cứng đầu làm người lạc hậu . Nghĩa là hút thuốc dài dài . Hút trường giang không được thì hút lén , bị cấm giữa đám đông thì tìm nơi nào vắng vẻ mà hút. Nghĩ cho cùng đời tôi gắn bó với điếu thuốc chừng ấy năm , chừng ấy kỷ niệm dễ gì một sớm một chiều là có thể dứt bỏ được? Quãng thời gian còn lại là bao ngày , hơi đâu lo . Số mạng đâu có phải mình muốn sao là được vậy . Có ai biết được ngày mai ?

Hồi đó đám lính tráng cùng đại đội đa số hút Ruby quân tiếp vụ hoặc Basto xanh. Chỉ riêng mình tôi là hút Pall Mall. Không phải tôi xài sang mà vì điếu thuốc Pall Mall nó dài hơn các loại thuốc thường lại thẳng thớm quấn bằng loại giấy trắng trẻo có độ dai, mỗi khi viết chữ lên đó dễ đọc, ngòi bút bi cũng khó làm rách giấy. Tiện lợi nhất là vì nó dài nên số chữ viết lên đó được nhiều hơn là viết trên điếu ngắn. Quen với Luận một thời gian, chứng tỏ lòng thành cách mấy cũng không được gọi bằng anh, tôi tức lắm . Dưới sự nhận định đầy kinh nghiệm tình trường tôi cảm nhận được rõ ràng Luận đang kín đáo lo lắng cho tôi. Những tuần bận hành quân không xuống chợ Luận nhấp nha nhấp nhổm hỏi thăm . Tình cảm của tôi dành cho Luận đâu khác gì? Không máu mủ, không bà con , mắc chi lên chức ông với cháu cho khó ăn khó nói ? Khó nói bằng lời thì phải nói bằng cách viết thư , tôi là đàn ông con trai đương nhiên phải ra tay trước . Trâu tìm cọc chứ ai đời cọc lại đi tìm trâu ? Sẵn gói Pall Mall trong túi áo tôi đánh số từ 1 đến 20 , thế là cứ trên mỗi điếu tôi nắn nót một câu thơ tống tình thiệt là lâm ly bi đát. Thực hiện xong ý định tôi cho ngay ngắn vào gói . Xét theo chiến lược, viết thư trên tờ giấy trắng gấp lại khi gửi, sợ e lộ liễu quá Luận sợ không dám cầm, không gây được yếu tố bất ngờ về phía đối phương. Trong chiến thuật yếu tố bất ngờ là yếu tố then chốt quyết định mỗi trận đánh. Dùng điếu thuốc là yếu tố bất ngờ. Tôi là dân nhà binh, nên phải áp dụng yếu tố bất ngờ đó vào trận này. Mục tiêu là Luận .

Khi tôi móc từ trong túi ra gói thuốc, Luận hỏi:

– Cái gì đây ?

– Gói thuốc

– Cháu đâu có hút thuốc , ông đưa cháu làm gì?

– Chú muốn cai thuốc nhưng vất đi thấy uổng gửi Luận cất giùm

– Ông mà cai thuốc có mà trời sập

– Trời cũng sắp sập rồi đó cô bé . Cất cho kỹ đừng cho ai thấy nhen .

Luận ngây thơ nghe tôi nói sao tin vậy đem gói thuốc cất kỹ. Còn tôi thì hồi hộp chờ kết quả . Hai ngày sau , tôi mò xuống chợ. Thấy trên môi tôi vẫn còn điếu thuốc đang phì phèo , Luận nói:

– Ông đã bảo cai thuốc sao còn ngậm cái gì thế kia ? Hay là cháu trả lại cho ông gói thuốc ông đã gửi nhé .

Tôi vội vàng xua tay. Thì ra cô bé không tò mò mở gói thuốc ra xem. Ăn gian không được thì bỏ. Tôi hì hục viết thêm lá thư thứ hai. Khi đưa cho Luận kỳ này tôi đóng khuôn mặt thểu não hơn trước (cũng không quên ma giáo hơn trước)

– Chú lục trong ba lô thấy còn sót lại một gói . Luận trót giữ gói kia thì giữ luôn gói này luôn một thể cho có đôi có cặp

– Cháu đã nói rồi. Ông mà bỏ được cháu cạo đầu đi tu liền

– Luận có biết tại sao chú ghiền thuốc lá không?

– Không

– Ý nghĩa của điếu thuốc rất đặc biệt . Nó mang một sứ mệnh . Chỉ những ai có duyên phận thì ý nghĩa đó mới hiện ra .

– Gì mà ghê gớm vậy ?

– Không tin tối nay về nhà Luận thử mở ra sẽ thấy .

– Đâu cần tối nay . Cháu mở ra liền bây giờ . Ông coi nè .

Luận rút ra một điếu , hết hồn khi thấy trên đó có những chữ viết li ti . Khẻ bật lên tiếng kêu ngạc nhiên Luận chợt hiểu ý đồ của tôi, hai gò má nàng ửng đỏ :

– Cháu sợ

Gươm đã rút ra khỏi vỏ đâu dễ gì tra vô. Tôi hỏi:

– Luận sợ gì ?

– Luận không biết .

Đang từ cách xưng hô bằng cháu, Luận hạ giọng xuống xưng tên , tôi nắm phần chắc ăn được khoảng 70%. Phần 30% còn lại chỉ cần điều động hai con mắt biểu diễn làm sao đó thật “thê thảm” khi nhìn vào đối phương, bảo đảm đối phương chạy trời không khỏi nắng. Trong khoảng thời gian vài ba cái tích tắc của đồng hồ , khi tôi chưa kịp thực hiện trò ma mảnh đó thì cảm xúc không biết xuất phát từ đâu dâng lên trong lòng tôi ào ạt. Hai con mắt rơm rớm, tôi nhìn thẳng vào Luận một cách thiết tha, cái nhìn chân thật của một người yêu một người, cái nhìn sẵn sàng xả thân. Tóm lại những gì tôi biểu hiện ra ngoài nét mặt đều phát tiết từ con tim chân thành chứ không nằm trong kế hoạch dự trù. ( lại nghiệm ra thêm một chân lý : không thể dùng lý trí để mà cãi lý lẽ với con tim ). Tôi run giọng nói với Luận :

– Những gì anh muốn nói với Luận anh đều viết trong hai gói thuốc. Anh hy vọng sau khi đọc xong Luận sẽ hiểu

Tự nhiên tôi xưng anh ngon lành. Nhưng mặc kệ bất kỳ Luận nghĩ gì, tôi quyết định sẵn dịp này xuống chức làm “anh ” chứ không thèm làm “ông ” nữa .

– Luận không biết

Lại không biết. Những tiếng “không biết” nghe sao mà dễ thương . Dễ thương ở chổ không phản đối tiếng anh khi tôi chuyển hệ và không gọi tôi bằng ông xưng cháu nghe chói tai như trước. Đảo hai con mắt một vòng chung quanh chợ thấy không có ai , tôi làm bạo nắm tay Luận , Luận sợ hãi rụt lại , nhưng sau đó để yên run rẩy. Tôi 21 Luận 17 hơn nhau có bốn tuổi , nhưng khi tỏ tình với Luận giống y như ông già đi dụ dỗ con nít . Chắc có lẽ tại vì tôi sớm lăn vào vùng sương gió nên kinh nghiệm già trước tuổi , còn Luận dù sao cũng chỉ là một bông hoa đồng nội mộc mạc đơm lên từ chốn thâm u cùng cốc. Nhưng tình cảm tôi dành cho Luận không hề giả trá, đó là tình yêu chân thật phát xuất từ trái tim.

Hôm sau tôi lại xuống núi ( tôi đóng quân trên ngọn đồi , nên khi xuống chợ gọi là xuống núi). Luận trong chiếc áo bà ba màu trắng, thấy tôi từ xa khuôn mặt Luận rạng rỡ hẳn lên

– Đọc thư anh viết chưa

– Không biết

– Nghĩ sao

– Không biết

Thuở đó chưa có câu hát ” con gái nói không là có “, nhưng tôi biết những tiếng trả lời không biết của Luận có nghĩa là có biết

– Nhưng em sợ cô Linh buồn

Tự giác xưng em ngọt xớt . Chợ miền núi tuy nhỏ bé tí tẹo nhưng vẫn có lác đác vài ba chục người dòm ngó chứ nếu không thì tiếng em ngọt ngào kia thế nào cũng bị tôi thưởng cho một chục cái hôn là ít . Sau này có một lần tôi canh vào lúc trời chạng vạng tối vắng người , tôi ôm Luận và hôn trên đôi môi đó . Khi ” bị” tôi hôn hai con mắt Luận nhắm nghiền lại . Luận chưa biết cách hôn đáp trả . Đã thế khi tôi hôn xong Luận lại còn đưa tay lên chùi hai bên mép một cách vụng về lúng túng . Cử động phũ phàng đó không làm tôi phiền lòng mà ngược lại tôi rất vui vì nó chứng tỏ lần đầu tiên đôi môi Luận được áp vào bởi đôi môi của người khác phái .

– Em là cháu của cô Linh , ở cùng chung nhà , chắc em cũng hiểu rõ tình cảm của anh dành cho Linh không giống như tình cảm của anh dành cho em phải không? Anh sẽ giải thích với Linh sau

Sau này Linh nói với tôi như một lời gửi gắm :

– Luận tuy 17 nhưng hãy còn con nít lắm, mong chú thật tình, đừng làm nó khổ

– Chú hứa

( xưng chú với người cô , xưng anh với người cháu mất cả tôn ti trật tự , nhưng ai bảo Linh gọi tôi bằng chú ráng chịu)

Luận tặng tôi một chiếc còng nhỏ đeo vào cườm tay làm bùa may mắn . Chiếc còng chỉ là một thanh đồng được uốn tròn lại . Người Rhadé dùng để tặng cho nhau biểu hiện ký thác niềm tin . Tài sản của người Thượng được định giá bởi những cái ché , những con trâu những con bò, họ dùng dao nhọn khắc lên chiếc cong một vạch mỗi khi mua được thêm một cái ché hoặc một con trâu hay bò đó. Nhìn những vạch được khắc trên chiếc cong thì biết người chủ chiếc cong giàu hay nghèo. Chiếc cong Luận tặng, tôi khắc lên đó một vạch mỗi khi tôi nhớ. Những khi nào mắc bận hành quân không xuống chợ được nghĩ đến Luận, tôi dùng lưỡi lê dồn lên nhiều vạch. Sau khi đi hành quân về tôi đem chiếc cong xuống khoe. Luận cảm động nhưng thường chống chế :

– Anh xạo ghê

– Anh xạo nhưng xạo đầy chân thành

– Xạo cũng có chân thành nữa sao

– Có chứ

– Làm sao để phân biệt ?

– Nhìn vào mắt

-Nhìn vào mắt ?

– Phải. Người xạo chân thành ánh mắt họ thẩn thờ, hai tròng đen đứng yên một chỗ

– Còn giả dối ?

– Xạo giả dối thì hai tròng đen chạy qua chạy lại không hề đứng yên .

– Xạo . Xạo Xạo

Luận cười sung sướng . Nhìn Luận cười rạng rỡ , bước phong sương của tôi tưởng chừng như muốn mỏi . Tôi muốn dừng chân . Tôi muốn có một mái ấm gia đình trong đó chỉ có tôi và Luận .

Nhưng Luận thì còn quá nhỏ . Còn tôi đang là một chiến binh , tương lai mù mịt không biết chết sống giờ nào .

Trong ba lô mỗi khi đi hành quân tôi thường bỏ vào đó một cây thuốc Pall Mall ( một cây 10 gói , một gói 20 điếu) , Mỗi lúc dừng quân tôi làm thơ trên mỗi điếu thuốc . Điếu nào câu thơ ưng ý thì tôi đánh số thứ tự để Luận còn biết đường mà đọc . Điếu nào viết dỡ thay vì vứt đi thì tôi hút .Vừa tiện vừa lợi . Vừa lãng mạn, vừa thực dụng .

Đêm 27 rạng sáng ngày 28/01/73 lợi dụng hiệp định ngừng bắn Paris vừa hiệu lực việt cộng mở một cuộc tấn công chiếm Hà Lan đánh thẳng vào Buôn Hô . Đại đội tôi tham chiến. Đại úy đại đội trưởng tử trận. Đại đội phó bị thương . Tôi tạm thời nắm quyền đại đội . Giằng co mãi đến cả tháng sau Hà Lan mới được giải tỏa. Buôn Hô đã vốn tiêu điều, khói lửa chiến tranh càng làm thêm xơ xác . Tôi trở lại tìm Luận và Linh. Dân chúng đã chạy sơ tán hầu hết . Chỉ còn sót lại một số ít người dân tộc thiểu số. Tôi không biết Luận và Linh đang ở đâu? Pleiku ? Thuần Mẫn? Ban Mê Thuột? Địa thế Buôn Hô tọa lạc trong cái lòng chảo, ngửa mình nằm trên một con đường duy nhất nối liền Ban Mê Thuột – Pleiku , còn chung quanh là rừng và núi . Đầu con đường về hướng đông là Hà Lan đang xảy ra chiến trận, chỉ còn một lối cho dân chúng chạy giặc ngược lên đó là Thuần Mẫn hoặc Pleiku . Đơn vị tôi sau khi lâm trận đang bận chỉnh đốn, tôi không thể bỏ đi . Còn Luận thì chắc chắn không biết đơn vị tôi đang di chuyển về hướng nào để liên lạc vì nguyên tắc nhà binh luôn luôn bảo mật lệnh di quân. Kế tiếp tôi được thuyên chuyển về phòng 1 tiểu khu Darlac. Lúc quen với Luận tôi nghe phong phanh nhà Luận ở đường Hai Bà Trưng . Suốt một tháng trời tôi quầng nát cả một khúc đường , nhưng bóng chim tăm cá. Rồi thì lệnh của quân đoàn 2 chỉ định tôi biệt phái qua CSQG . Tôi nhận sự vụ lệnh giã từ Ban Mê Thuột để về trình diện Bộ chỉ huy CSQG Khu 2 (Nha Trang) . Tôi được gửi đi học một khóa nghiệp vụ tại Cam Ranh. Khi mãn khoá tôi được đổi ra Bình Định.Tất cả mọi sự việc xảy ra quá nhanh với một tốc độ dồn dập làm tôi trở tay không kịp .

Trong khi tôi chưa có được nghỉ phép để trở lại Buôn Hô tìm Luận thì biến cố 30/04/75 ập đến . Thế là tôi bặt tin Luận . Xem như tôi là một kẻ phụ tình . Trước đây tôi cũng đã từng yêu và từng bị phụ tình , Khi bị bồ đá lòng tôi vô cùng đau đớn , cứ tưởng không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau bị đá . Nhưng khi tôi phụ tình Luận trong lòng tôi còn đau hơn thế nữa . Phụ người cả là một ray rứt vô bờ. Tôi đâm ra thông cảm được nỗi khó khăn của những người phụ tôi . Chắc họ không vui sướng gì khi quyết định chia tay.

Chiều nay xứ người nơi cách chiến trường xưa nửa vòng trái đất, những cơn mưa đầu hạ rơi hoài không tạnh . Hai bàn tay xoáy chặt lại với nhau, tôi nhìn những mảnh vụn của gỗ cây mục từ cánh rừng trước nhà bị mưa cuốn đi trong dòng nước, rồi lẩn thẩn nghi vấn : những mảnh gỗ vụn kia sẽ trôi qua bao nhiêu ải trạm của mệnh số để ra sông trước khi tuôn về biển? Hay chỉ trôi tạm trên cõi đời này trong một cơn mưa để rồi bị vùi dập vào một ống cống hay một đường mương cống rãnh nào đó? Và nỗi nhớ có như những mảnh vụn kia trôi qua bao nhiêu phiền muộn, trôi qua bao nhiêu sóng gió của tai ương? Trong đầu óc trống trơn khô héo này bừng bừng lên cái không có. Cái không còn gì cả .

Hay chỉ là những cảm xúc thoáng ẩn hiện qua cuộc sống quá khô khốc này? Tôi chẳng tìm được ra câu giải đáp, chỉ biết rằng bỗng chiều nay chiến trường xưa mưa bay chập chùng. Bỗng chiều nay rưng rưng trong tôi nỗi nhớ .

Quan Dương

Hình chụp năm 1974

From: Phan Sinh Trần

Có Một Người – Truyện ngắn

Câu chuyện tưởng chừng như một đoạn phim hay, hoặc một đoạn văn hư cấu hấp dẫn của một nhà viết tiểu thuyết. Nhưng không. Đây là một chuyện thật I00%. Cả nước Pháp, từ trí thức đến bình dân, đều biết. Trong nước, ngoài nước – đều biết.

Có Một Người

Bị tình phụ, vợ bỏ theo trai – theo một thằng nhóc tì 15 tuổi, học trò của mình và tuổi đáng con mình – bỏ lại mái ấm gia đình hạnh phúc với ba con và một ông chồng có địa vị, hiền lành đứng đắn, rất mực yêu vợ, thương con. Trước cảnh ngộ đau lòng vợ bỏ ông ra đi theo tình nhân mới mà ông không một lời oán trách, cũng không lên tiếng phàn nàn ồn ào, nói xấu vợ minh như thường tình thiên hạ mà âm thầm, lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nhục hy sinh cho vợ được hạnh phúc trọn vẹn trong tình yêu mới. Sự nhẫn nhục phi thường nầy đã làm nên tên tuổi ông. Thói thường, người ta hay có cái nhìn hướng ngoại, nhìn người khác mà phê phán, nhưng ít ai quay lại nhìn chính mình để tìm hiểu khuyết điểm của minh. “Người nầy” khác hẳn người khác, quay lại nhìn mình trước tiên, tìm xem minh có những khuyết điểm gì? Có phải vì mãi lo sự nghiệp mà lơ là, thiếu sự âu yếm thương yêu, thiếu sự chăm sóc chiều chuộng vợ để vợ mình phải đi tìm tình yêu mới. Nghĩ là lỗi tại minh nên ông tự sửa làm một người chồng thật tốt, khắc phục mọi khuyết điểm, để mong vợ trở về sống hạnh phúc với ba con. Nhưng vô vọng.

Alfred de Musset & George Sand

Những cuộc tình éo le, ngang trái nầy không phải chỉ “CÓ MỘT NGƯỜI” mà dẫy đầy trong văn học Pháp cũng như Việt Nam. Lấy một thí dụ điển hình: * Alfred de Musset: Đêm tháng năm (Nuit de Mai) – đêm đau đớn nhứt đời ông vì nữ sĩ Amantine Aurore Lucile Dupin (tức George Sand) đã từ giả ông sau những ngày tận hưởng hạnh phúc lãng mạn, yêu đương nồng cháy, tắm nắng thi ca, lặn hụp trong biển tình ân ái. Trên đời có gì đau khổ hơn bị người yêu cắm sừng trên đầu, rồi ôm cầm sang thuyền khác. Nhà thơ Alfred de Musset thể chất vốn yếu đuối,“tiên thiên bất túc”, đau khổ rên rỉ khóc than như điên dại, loạng choạng bước đi trong bóng đêm tháng năm (Nuit de Mai) – đêm của sự đau khổ chia ly pha lẫn với nỗi buồn cô độc, của nước mắt khổ đau rơi xuống cõi lòng tan nát và những ngày hạnh phúc yêu đương đã xa rồi và bị thay thế bằng sự trống vắng cô đơn đang dày xéo tâm hồn.

Đang đau khổ cùng tột, bỗng có tiếng gọi từ cõi xa xăm vọng lại như tiếng gọi thiêng liêng của người chị an ủi vỗ về, tiếng thì thầm tình tự của người yêu chia sẻ: Hãy đứng dậy, gào thét lên tiếng kêu tuyệt vọng! Đừng làm con đà điểu gục đầu rên rỉ khóc than. Không gì làm chúng ta vĩ đại bằng sự đau khổ. “Rien ne nous si grands qu’une douleur” Đó là tiếng gọi của nàng Muse (Nàng thơ) đã giúp chàng thi sĩ đang ở trạng thái cùng cực của sự đau khổ mà đứng dậy dựa vào đau khổ để biến nó thành những câu thơ bất hủ:
Les plus désespérés sont les chants les plus beaux
J’en sais d’immortels qui sont de purs sanglots
(Alfred de Musset)

Và ngày nay thơ không chỉ giúp cho nhà thơ vượt qua nỗi khổ đau khi bị tình phụ như Alfred de Musset hay dằng dặc buồn thương tiếc nuối như T.T Kh, yêu thầm trộm nhớ như Félix Arvers – mà thơ ngày nay từ 45-54 trở về sau): “Thơ là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho người thất thế, từ đó đứng lên làm lại cuộc đời” (Nguyễn mộng Giác giới thiệu Tạp chí Khoa Hữu). Phùng Quán cũng lên tiếng “Có những phút ngã lòng, ta hãy vịn câu thơ mà đứng dậy”. Và từ đó, những nhà thi sĩ, trong những giây phút ngã lòng, hoặc khi bị thất thế, bị tù ngục, đều lấy câu thơ làm chiếc nạng hay dựa vào câu thơ mà đứng dậy như Trần Dần, Hoàng Cầm, Nguyễn chí Thiện, Phùng Cung, Phùng Quán v.v…

Hãy trở về “Có một Người” – dù trên đầu đã mọc lên cái sừng to tướng, dù trái tim còn ri rỉ máu nhưng vẫn âm thầm. im lặng chịu đựng với sự nhẫn nhục phi thường. Vết thương lòng hằn sâu tận xương tủy nhưng ông lấy sự nhẫn nhục làm phương châm, nên sau khi ly dị bà Brigitte, ông rời Amiens và chọn cách sống ẩn dật tại một vùng ngoại ô Paris và ít xuất hiện dù là những buổi tiệc gia đình với các con (Web Hoa xương rồng).

(Tổng Thống Emmanuel Macron và vợ: Bà Brigitte Trogneux)

Ngày lễ đăng quang vị Tổng Thống đẹp trai, tài năng, trẻ tuổi nhất nước Pháp với 21 phát súng thần công, với trên 500 quan khách tham dự gồm những nhân vật tâm tiếng như cựu Tổng Thống Francois Hollande, Tổng Thống Nicolas Sarkozy và các nhà tai mắt đại diện cho tầng lớp dân chúng Pháp. Tổng Thống E. Macron không muốn làm ồn ào tốn hao công quỷ mà chỉ thực hiện các thủ tục thật giản dị tại điện Élysée. Dù vậy, cũng không thể thiếu những cuộc duyệt binh trong khuôn viên điện Elysée, đội quân nhạc cử hành bản “La Marseillaise” hùng hồn vang dội một góc trời. Đây là ngày toàn dân Pháp reo hò ăn mừng có vị Tổng Thống mới tài năng trẻ tuổi nhứt nước Pháp. Tổng Thống E. Macron đọc một bài diễn văn ngắn gọn, đầy ấn tượng, chào mừng các quan khách và dân chúng với chương trình ông sẽ làm cho dân nước Pháp.

Trong khi nhiều thành phố dân chúng tổ chức reo mừng, lễ đăng quang rộn ràng lời chúc tụng, nhạc quốc ca hùng hồn vang dội một góc trời thì “CÓ MỘT NGƯỜI” buồn ủ rũ, viết một lá thơ “Thơ cuối ngày gửi em Brigitte”. Bài thơ hay, lời lẽ cảm động, gây một ấn tượng sâu sắc, một rung động cảm thương cho số phần người chồng cũ của bà Brigitte:

(Ông André-Louis-Auzière – một banquier tại Amiens Pháp
chồng cũ của bà Brigitte Trogneux)

Đây là lá thơ cuối ngày gửi em Brigitte:

“Cả thế giới hồi hộp theo dõi những gì đang diễn ra tại điện Elysée. Anh phải đóng cửa ngồi một mình trong ngôi nhà ngoại vi thành phố. Vậy mà tiếng tivi vẫn cứ vang lên trong từng căn phòng nhỏ. Người Pháp đang đón chào Macron – vị Tổng Thống trẻ trung nhất lịch sử nước mình.

Chắc là em không còn tâm trí nào để nghĩ đến anh
Cái tên André – Louis đã bị xóa rất lâu rồi trong bộ nhớ
Nhưng anh không thể quên Trogneux tóc vàng một thuở
Những thanh chocolate vùng «Rua » đâu dịu ngọt bằng nàng
Anh nhớ lại những buổi chiều anh phải lang thang
Chạy khắp mọi nẻo đường Paris để tìm cho con hộp thuốc
Chỉ mười năm với ba đứa con có được
Ba đứa con – minh chứng cho tình yêu chúng ta – đẹp hơn cả thiên thần
Anh không ngờ chuyện bắt đầu từ một ngày em đòi ly thân
Rồi em nhất quyết kêu anh ra tòa bằng cái đơn ly dị
“Không thực sự hạnh phúc”- em tự nhiên nói thế
Cuối cùng anh phải chiều em thôi
Vì anh biết em đã tìm thấy một phương trời
Cứ như Newton bất ngờ tìm ra định luật quả táo rơi
Em ngỡ ngàng tìm ra một chàng trai kém minh hai con giáp
Cũng chẳng có gì bất thường (nhất là nước Pháp )

Song gia đình của chúng ta thì lại giống bao gia đình kia tất thảy ở trên đời
Em đã có một mái nhà, một mái ấm đó thôi
Dù ai đó cao siêu Là hoàng tử, là nhà vua, hay Chúa Trời đi nữa
Em nên nhớ chữ Thủy Chung là muôn đời muôn thuở
“Công chúa lấy thằng bán than”, cũng theo nó lên rừng
Có thể em đang mơ một sự nghiệp lẫy lừng
Tổng Thống với Đệ Nhất Phu Nhân tâm đầu ý hợp

Hai mốt phát đại bác vang trời, em choáng ngợp
Tiếng khóc trẻ thơ năm xưa mới đúng nghĩa gia đình
Thật buồn trong giây phút nầy chỉ anh nghĩ đến anh
Nhưng bỗng thấy ấm lòng
Khi Sébastien, Laurence, Tiphani vừa nhắn tin cho bố
“ Chúng con yêu bố ngàn lần,
Bố hãy tin điều này bố nhớ
Lát nữa, tan cuộc tại điện Elysée, chúng con sẽ về nhà
Cuộc sống sẽ thực sự bắt đầu với bốn bố con ta”
(André- Louis- Auzière)

Nhân vật chính trong khúc phim nầy là cặp Emmanuel Macron và Brigitte Trogneux. Họ đã sánh bước vinh quang vào điện Elysée, trước sự reo hò nồng nhiệt của dân chúng ủng hộ vị tân Tổng Thống trẻ tuổi, tài năng của nền Cộng Hòa nước Pháp. Có một người đứng sau cuộc tình nầy đang đau khổ cực kỳ nhưng lặng lẽ âm thầm chịu đựng, hy sinh với một sự nhẫn nhục phi thường. “Có Một Người”, Người ấy là ai?

Một gia đình hạnh phúc:

Tại Amiens – một thị trấn ở phía Bắc nước Pháp – có một gia đình trí thức: Cha trước làm nghề kiểm toán nhà nước, người con theo học ngành Ngân Hàng. Sau khi tốt nghiệp Đại Học, người con làm việc rất giỏi trong ngành Ngân Hàng .Về sau trở thành một banquier: Chủ nhà băng tại Amiens. Có địa vị xã hội, có tiền bạc, đời sống sung túc. Tháng sáu 1974 (Juin 1074) Người nầy thành hôn với Brigitte – một cô giáo dạy văn và Latinh tại một trường Trung học cơ sở. Brigitte con nhà khá giả, sản xuất bánh kẹo và chocolate nổi tiếng. “Người ấy” hết sức thương yêu chiều chuộng vợ khiến cho người xung quanh ngưỡng mộ. Brigitte rất hạnh phúc dưới một mái ấm gia đình, với chồng có địa vị, giàu có, hiền lành, thương yêu vợ rất mực và ba đứa con ra đời là một mối dây ràng buộc cặp vợ chồng thêm gắn bó. Lúc đó, Brigitte chỉ biết có mái ấm gia đình sung túc, chồng thương yêu, con ngoan ngoãn . Niềm hạnh phúc mà biết bao người khát khao thèm muốn.`

Người ấy là ai ? Xin xem tấm hình đám cưới dưới đây:

Hình đám cưới “NGƯỜI ẤY” với cô giáo Brigitte Trogneux. (Người có mang vòng tròn đỏ trên đầu)

Nhưng,
Đời có lắm sự bất ngờ…

Brigitte là người thích văn chương và kịch nghệ. Kéo dài lê thê nhịp sống đơn điệu, buồn chán, Brigitte bèn gợi ý với chồng lập một câu lạc bộ nghiên cứu văn chương và kịch nghệ. Người chồng bao giờ cũng tôn trọng ý của vợ và ủng hộ việc làm nầy. Bây giờ Brigitte thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, việc làm đáp lại sở thích của mình.

Bất ngờ xuất hiện một chàng trai 15 tuổi tại lớp học của cô giáo Brigitte. Chàng trai mà Laurence, con gái của Brigitte, khen là một chàng trai tuyệt vời am hiểu tường tận mọi việc. Còn cô giáo Brigitte choáng ngợp trước sự thông minh của Macron. Bà nói: Macron có lối tư duy mà tôi chưa từng thấy trước đây. Mọi ngày thứ sáu, chúng tôi dành nhiều thì giờ để xây dựng các vở kịch. Nhưng chỉ là cái cớ để chúng tôi gần gũi nhau. Một người bạn của Macron tiết lộ: “Cô giáo bị quyến rũ bởi tài viết lách của cậu ấy”.

Con người kỳ lạ hành xử cũng rất lạ kỳ. Con gái tuổi xuân hơ hớ không lấy mà lại lấy bà già đáng tuổi mẹ minh, lại là người có chồng ba con. Cuộc tình đôi đũa lệch, được đánh giá là “vượt mọi định kiến của gia đình và xã hội”. Cuộc tình trái cựa gà, tréo cẳng ngổng nầy lại là cuộc tình của một con người phi thường, xuất chúng, thông minh tuyệt đỉnh. Cặp Emmanuel Macron và Brigitte Trogneux sánh vai cùng nhau vinh quang bước vào điện Elysée trước sự reo hò nồng nhiệt của dân chúng chào mừng vị tân Tổng Thống tài năng, trẻ tuổi nhứt của nền Cọng Hòa Pháp.

Trong khi 21 phát súng thần công nổ rền trời, tiếng hoan hô dậy đất, đội quân nhạc cử hành bản quốc ca “ La Marseillaise” hùng hồn, cuộc diễn hành trong khuôn viên điện Élyseé, đoàn vệ binh hiên ngang rầm rập nhịp bước theo điệu kèn trống quân hành uy nghi hùng dũng, thì “CÓ MỘT NGƯỜI” đứng đàng sau cuộc hôn nhân Emmanuell-Brigitte, ôm một nỗi đau khổ nhìn cảnh vợ phản bộ, bỏ minh theo tình nhân mà nước mắt tuông rơi, trái tim tan nát…Nhưng “Người ấy” không bao giờ tức tối, mắng chửi, làm ồn ào mất mặt hay nói xấu vợ minh trước mặt người khác. Ông tập trung vào sự nuôi dưỡng và giáo dục ba con. Sau đó, “Người ấy” là một người đàn ông đích thực. Ông không bao giờ làm phiền cuộc sống của Brigitte. Sau khi ly hôn, ông lo cho con cái ăn học và chuyển hết tài sản cho con, ông đến vùng ngoại ô Paris sống ẩn dật và tránh gặp Brigitte, kể cả những buổi tiệc gia đình với các con.

Cuộc tình huyền thoại Macron-Brigitte được loan truyền khắp thế giới nhưng không nghe ai nhắc đến “MỘT NGƯỜI” – mặc dầu người ấy về tư cách, sự hy sinh, đức nhẫn nhục ít người sánh được, Thói đời là thế. Phù thịnh chớ ai phù suy! Thiên hạ Đông Tây, Tư bản, Cộng Sản đều thế cả.

Con người đáng kính ấy qua đời tháng 12 năm 2019. Tang lễ ông được tổ chức trong vòng bí mật. Mãi đến ngày 7 tháng 10 2020, con gái ông Tipun Ozier mới thông báo tin cha minh đã qua đời. Trong một tweet, cô viết: “Cha tôi đã qua đời. vào ngày 24/12/2019. Ông ấy đã được chôn cất trong sự bảo vệ quyền riêng tư nghiêm ngặt nhất. Tôi rất ngưỡng mộ cha tôi. Ông nói rằng ông không muốn làm phiền quá nhiều sau khi mình qua đời. Vì vậy, chúng tôi phải tôn trọng ý muốn của ông.Theo tạp chí Tatler của Anh Quốc, trò chuyện với Paris Match, một những đứa con gái của “Người ấy” và Brigitte nói: “Tôi rất ngưỡng mộ cha tôi là người không thích lề thói, luôn coi trọng sự ẩn danh hơn bất cứ thứ gì. Ông phải được tôn trọng”. Ý tưởng nầy rất phù hợp với sự xa rời mọi người và chuyển sang Paris vùng ngoại ô sống ẩn dật cho đến khi qua đời.

Người nầy không bao giờ khuấy động chuyên phản bội của vợ. Ông chọn cách xa rời thế giới theo cách riêng tư của minh là sống ẩn dật với lòng vị tha và sự nhẫn nhục phi thường.

Đánh giá một con người, không phải chỉ sự thành công nổi tiếng mà còn tư cách, sự nhẫn nhục, lòng hy sinh cao cả, âm thầm chịu đựng, lấy sự nhẫn nhục làm phương châm, lòng vị tha làm tình thương, suốt đời không thay đổi. Con người đó không đáng cho đời ngưỡng mộ hay sao? Cũng như người chiến sĩ cả hai miền Nam Bắc ngoài mặt trận bắn giết nhau thành công thì ai hưởng? Người lính được hưởng gi? Người lính chỉ biết hy sinh ngoài mặt trận, ở hậu phương vợ con đói rách, cơm chan nước mắt hay bị bắt làm con tin, để chồng minh đi xẻ dọc Trường Sơn, đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng.

Tuy nhiên còn có một người đời sau nhắc đến và vinh danh họ là thi sĩ Đằng Phương (tức Giáo sư Nguyễn ngọc Huy): Họ là những chiến sĩ xông pha dưới làn tên mũi đạn: Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên Không ai đến khấn nguyền dân lễ vật Nhưng máu của họ đã len vào mạch đất Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông Và anh hồn chung với tấm tinh trung Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt. Đằng Phương

“NGƯỜI ẤY” suy nghĩ cho sâu xa, quả là con người đáng cho đời tôn vinh và ngưỡng mộ như một người chiến sĩ ngoài mặt trận, như cái Dũng của một người anh hùng trước nghịch cảnh.

“NGƯỜI ẤY” là người có vòng tròn đỏ trên đầu ngày cưới vợ là cô giáo Brigitte Trogneux. Và người ấy chính là André- Louis- Auzière.

“NGƯỜI ẤY” chính là người bị vợ phản bội mà không một lời oán trách, không làm phiền vợ, luôn luôn một lòng vị tha, bao dung để vợ được sống trọn với tình yêu mới. Trên đời rất ít người vượt qua cảnh ngộ đau lòng nầy, để hành xử được như ông André.

Câu chuyện tình ly kỳ nầy được kết thúc nơi đây. Cặp Macron-Brigitte vinh quang sánh bước vào điện E1ysée – còn ông André chôn chặt nỗi hận lòng dưới ba tấc đất và hành xử với lòng vi tha hiếm có, chọn cách sống ẩn dật ở ngoại thành Paris cho đến khi qua đời. Còn Brigitte khi trở thành Đệ Nhất Phu Nhân thì không còn nhớ gì đến chuyện quá khứ.

Người đời mặc tình phê phán và chọn lựa. Nhưng đừng quên, khi đứng bên ngoài để phê phán thì dễ dàng hơn khi chính bản thân mình đối diện với nghịch cảnh./.

Những ngày bệnh tật cuối thu năm 2022.
Lê Quốc

Ghi chú: 

Tạm thời xin hiểu bức thơ cuối ngày gửi em Brigitte là của ông André -Louis- Auzière trước khi có nhận xét của nhà biên khảo nổi tiếng và uy tín là Ông Trần Việt Long (Cao học 8, Học Viện QGHC). Sự nhận xét của nhà biên khảo xuất sắc nầy, người viết rất đồng ý nhứt là không có bản tiếng Pháp mà chính người viết đã khổ công đi tìm bản tiếng Pháp nhưng không hề có trên các diễn đàn tiếng Pháp và Việt. Như vậy, ông André không viết được tiếng Việt và cũng không thể nhờ người dịch ra tiếng Việt nếu không có bảng tiếng Pháp.

“NẾU CÓ KIẾP SAU…! ANH SẼ KHÔNG BAO GIỜ YÊU EM…!”

(Đinh Trực sưu tầm)

Anh là một chàng sinh viên nghèo…!

Làm thêm vất vả để kiếm thêm tiền trang trải học phí. Em là tiểu thư cành vàng lá ngọc con nhà giàu có khá giả, gia đình có tới mấy osin.

Lần đầu tiên về quê đến cây quế, rau lang…., và cả ngò gai, em cũng không phân biệt được.

Anh gặp em lần đầu tiên trong ngày khai giảng. Em đứng đó vui cười với đám bạn, mải mê làm đổ ly sữa lên váy trắng… Ngượng ngùng, anh đưa em áo khoác che vết loang. Giây phút ấy em mãi không quên anh…!

Bốn năm học đại học, em muốn giúp anh nhiều lắm, muốn cuộc sống anh đỡ vất vả vì phải vừa học vừa làm. Đưa tiền cho anh. Anh đâu có nhận, anh nói anh không làm được cho em thì thôi…

Tốt nghiệp, đáng lẽ chia tay, chỉ là tình yêu thời đại học thôi mà…!

Nhưng em đã quyết định theo anh…!

Gia đình em phản đối quyết liệt, nhưng em vẫn chọn cho mình người đàn ông của cả cuộc đời…!

Nên vợ nên chồng, về quê sống trong căn nhà lụp xụp của mẹ anh. Rồi em mang thai, nhiều khi trái gió trở trời người đau ê ẩm, đau bắp chân…!

Anh thương em, mùa đông cũng như hè đi làm kiếm thêm tiền nuôi vợ…!

Thế rồi trong một tai nạn xe, anh liệt đôi chân. Nằm một chỗ ở nhà, tất cả mọi việc đều trông cậy vào em. Ba mẹ em nghe tin… xót dạ, thương yêu đến đón em về nhưng em từ chối…!

Chữa bệnh cho anh, em bán hết mọi thứ trong nhà, cuối cùng chiếc nhẫn cưới ba phân vàng 18 kara cũng hết…

Ba mẹ em thấy con gái khổ nhiều, lại cho tiền.

Cứ thế cuộc sống nghèo ở một vùng quê cứ lặng lẽ đau buồn trôi qua…!

Em làm giáo viên, anh nằm nhà viết sách. Em đã trút bỏ hình ảnh lá ngọc cành vàng năm nào để trở thành người vợ đảm đang. Đi chợ đã biết trả giá từng ngàn, quần áo bình thường, cân đo đong đếm còn tốt hơn những người phụ nữ khác vì em có học hành…

Bác sĩ bảo chồng em không còn đi được nữa, nhưng em không tin, hàng ngày vẫn bóp chân cho anh, hi vọng một phép màu, kì tích sẽ đến…!

Ngày ấy, em nghe có một bác sĩ châm cứu rất giỏi. Em chở anh lên xe, đường dài hơn 20 cây số, đưa anh đi châm cứu hai ngày một lần không kể ngày nắng ngày mưa, ngày lạnh ngày nóng

Anh nhìn em khóc: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em nữa, em quá khổ vì anh..!”

Một năm sau phép màu đến thật sự, chân anh hồi phục cũng là lúc anh nhận được giải thưởng Quốc tế từ những cuốn sách anh viết. Không ai nghĩ sẽ có ngày hôm nay…!

Rồi họ mời sang Pháp thuyết trình ba năm, anh do dự, em nói: “Anh phải đi, cơ hội không đến hai lần đâu anh…!”.

Nhìn lại quãng đời, em đâu còn trẻ đẹp như xưa… Chồng, con, vất vả, thân hình gầy gò ốm yếu…!

Pháp là đất nước của tình yêu, nhiều người nói anh đi sẽ không trở lại. Em chỉ mỉm cười đáp lại: “Em và anh đã trải qua bao nhiêu sóng gió, nếu vì một việc thế này em không sợ mất anh…!”.

Ba năm sau anh về, không báo trước, muốn dành cho em một sự bất ngờ. Nhưng vừa xuống xe anh đến nhà…, đã thấy em đứng đó. Anh hỏi sao biết anh về mà ra đón, em trả lời:

-“Em chờ ở đây mỗi ngày, chỉ cần là xe lạ chạy ngang, em hi vọng nó dừng lại, em không bỏ qua chuyến nào…!”.

Anh nhìn vợ rồi khóc mà nói: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em, tình yêu của em làm anh đau lắm, đau lắm, tình yêu của em đã khiến em chịu quá nhiều khổ đau…!”

Em đáp trả lời anh: “Tình yêu luôn luôn là khổ đau cay đắng. Tình yêu như một bông hoa sen, hoa sen đẹp nhưng nó có cái nhụy sen, hạt sen rất đắng. Nếu còn có kiếp sau, em sẽ vẫn muốn được yêu anh…!”.

From: TU-PHUNG

Lối đi — truyện ngắn của Nguyễn Tầm Thường

Nguyễn Tầm Thường

Lá thu về nhuộm đỏ ối cánh rừng nhỏ. Mây trắng lãng đãng bay về cuối nẻo trời xa. Người thanh niên ngồi ở ven đồi, trầm tư. Chàng đến đây khi sương thu chớm về. Những ngày đầu tiên trên đất lạ là những ngày lênh đênh nhất đối với chàng. Lo âu cho tương lai. nhớ thương quá khứ. Hiện tại thì vất vả. Gia đình chàng ở lại bên kia. Ra đi một mình. Chỉ riêng có giấc mơ mà chàng đang ấp ủ là người bạn song hành. Nhưng giấc mơ chẳng nuôi được chàng, mà chàng lại phải âu lo vì giấc mơ.

Mùa thu đó chàng vào chủng viện, tiếp tục con đường lý tưởng. Nhưng dòng thời gian không êm đềm như chàng mộng tưởng. Những weekend lặng lẽ, nhìn hành lang dài trống vắng mà chàng thấy như nỗi vắng trong tâm tư chàng. Sương sa, gió lạnh dần dần thấm vào hồn. Những cánh mây tím cũng theo mùa thu về bắt đầu mang nỗi hắt hiu trên từng lời kinh. Những giờ nguyện của chàng bắt đầu mệt mỏi, có nghĩ ngợi mông lung.

Cuối năm học đó, Đức Giám mục địa phận sai chàng về một xứ đạo nhỏ để tập làm quen với đời sống mục vụ. Chính trong mùa hè này, câu chuyện đã xẩy ra.

Nhận được thư Đức Giám mục báo tin đi giúp xứ mùa hè là một ngày u ám trong đời. Chàng không muốn đi thực tập mục vụ, nhưng muốn đi làm. Chàng cần tiền. Tiền đã dầy vò chàng không biết bao nhiêu đêm trằn trọc. Chàng luôn nghĩ đến tiền. Nhưng là sinh viên thần học, nên đức cha muốn chàng đi thực tập mục vụ để chuẩn bị cho cuộc sống linh mục. Khi nhận được thư đức cha là giấc mộng đi làm sụp đổ, kéo theo giấc mơ về tiền. Khi người ta không thực hiện được giấc mơ thì người ta lại càng nghĩ về nó. Nghĩ về nó mà không thực hiện được thì người ta sống trong một thứ ngục tù tâm hồn. Ðó là vây khổn của oán trách, của tiếc xót, của bất bình.

Ở nhà trường, mỗi tháng chàng nhận được hai mươi dollars của địa phận gởi, gọi là tiền túi. Thủa ban đầu, chàng cho là đủ, không thắc mắc, băn khoăn. Nhiều tháng hãy còn dư. Nhưng dần dà, có những cơn gió so sánh bay về. Chàng so sánh chàng với người khác. Tôi cũng có bàn tay, cũng có khối óc, sao cam nhận mỗi tháng hai chục… và chàng thấy mình nghèo! nhận mỗi tháng hai mươi đồng đó là dấu hiệu của sự khiêm nhường, dâng hiến, và sống đơn giản vì lý tưởng hay là cam chịu đời sống tầm thường? Chàng tự hỏi, rồi, những làn sóng tự ái bắt đầu gieo trên biển lặng. Người thanh niên trở nên trầm mặc, băn khoăn.

Xã hội nói về tiền. Giá trị con người cũng được đánh giá bằng tiền. Những kẽ nứt của tâm hồn bắt đầu mở rộng. Chàng thấy mình xót xa, và thực sự thấy mình nghèo. Nghèo vì tiền và nghèo cả tâm hồn. Khuôn mặt chàng không còn bình an, tâm hồn chàng không còn muốn bay bổng cho một lý tưởng. Buổi chiều cầu kinh nào cũng phủ đọng sương mù ẩm mốc. Lý tưởng là gì? Có ai cần lý tưởng nữa đâu? Chàng tự hỏi, rồi thấy con đường của chàng bước vào là cô đơn đằng trước mặt. Là mất mát, thua thiệt.

Chàng nói với lòng mình, là thanh niên như bao người khác tại sao tôi không làm ra tiền? Chàng sống giữa hai thách đố mà thách đố nào cũng lớn lao: tiền và không có tiền. Không tiền có phải là kém hơn người khác? Có phải vì tôi thiếu khả năng? Không tiền có phải là điều dại? Tự ái, như những cơn mưa nặng hạt mưa xuống đời người thanh niên. Tiền làm chàng nhớ về những người thân ở bên kia bờ biển mặn. Tiền làm chàng mơ ước một đời sống tiện nghi. Tôi có nên tiếp tục con đường tôi đang đi? Tôi có nên đem khả năng của mình vào cuộc thử sức của xã hội hôm nay? Mệt mỏi. Sóng gió đi về. Chàng muốn đặt lại lý tưởng cho cuộc sống.

Chính vì thế mà những ngày đầu mùa hè ở nhà xứ năm ấy là những ngày u ám và lặng lẽ nhất đối với chàng, chàng quay quắt suy tư. Cõi lòng hoang vắng, đìu hiu. Cũng có đôi lúc thầm lặng, chàng hỏi lại lòng mình, ngày xưa tôi đâu quá bận tâm về tiền, sao bây giờ tôi phải thao thức quá như vậy? Trong những lúc thinh lặng ấy, những lúc tỉ tê hỏi lại cõi lòng, những lúc tìm đường về thâm sâu của trái tim, chàng dần dà nhìn ra cái nghèo chua xót: Nghèo của một tâm hồn. Chàng băn khoăn tự hỏi: Khi tâm hồn nghèo thì kéo theo bao nhiêu cái nghèo khác?

Cái cao cả mà Thiên-Chúa đã làm, không phải là sống tước vị Thiên Chúa trong Thiên Chúa, nhưng là sống tước vị Thiên Chúa nơi con người. Chúa đã đem cái nghèo trở thành mùa xuân bất tận. Chàng biết vậy, nhưng đường đi của niềm tin thì siêu bạo quá. Niềm tin là giã từ tất cả. Là buông tay ra cho mình chìm xuống, lặng lẽ. Trong những tháng ngày giằng co muộn phiền thì câu chuyện xẩy đến:

Cũng như những thứ sáu khác trong tuần, hôm đó chàng mang Mình Thánh cho một bà già trong xứ đạo. Trời đã về tối. Chàng thích đi bộ để nhìn cỏ cây, để nghĩ về mình, về người. Trời chưa tối lắm nhưng phố xá đã lên đèn.

Từ nhà xứ đến nhà bà, chàng phải đi ngang qua phố, đây là một con phố nhỏ ở miệt quê rồi vào đường Broadway, Broadway là con đường lý tưởng nhất của thành phố. Ðường rộng và đẹp, có chiều đi, chiều về. Giữa hai chiều là hàng cây anh đào rợp mầu hồng khi mùa hoa nở. Chàng đi chậm rãi trên con đường ấy, nguyện mong cho đời nhẹ bớt ưu tư. Trên đường đi, có kẻ đi ngược, có người về xuôi, nhưng có ai đâu biết rằng trong túi áo chàng có Mình Thánh Chúa. Trời tối hơn. Ðèn của phố xá cũng sáng hơn. Mây tím về cuối cánh đồng, cũng là màu u uẩn của cõi lòng người thanh niên. Ðèn đường chẳng thắp sáng được linh hồn. Tâm tư chàng giăng mắc với những lựa chọn mà bên nào cũng có xót xa. Ở hay đi? Giã từ lý tưởng hay tiếp tục? Ðời linh mục là gì? Niềm vui, đau khổ? Làm sao tôi biết chắc được đây là lý tưởng mà Chúa muốn tôi đi vào? Trung thành, gian nan? Mệt mỏi. Mong thêm một chút ánh sáng cho bớt suy tư. Chàng nhìn trời cao. Chúa xa quá. Im lặng qúa. Im lặng quá. Chỉ mình chàng trên đường. Chàng mong một chút sương mai cho mảnh đất khô đỡ cằn cỗi. Chàng ước ao một lời nói rõ hơn, mạnh hơn để chàng bớt gian nan với những nghĩ ngợi. Nhưng trời cao vẫn cao. Ðêm về nhiều hơn.

* * *

Bên bụi hồng, đứa bé gái đang chạy tung tăng, cô bé đứng lại, giơ tay vẫy chàng. Bàn tay thiên thần. Nụ cười bình an. Ðôi mắt hồn nhiên như vì sao trời. Cô bé giơ tay vẫy vẫy. Những ngón tay mũm mĩm, đơn sơ. Nụ cười tươi như một búp phong lan đang hé mở. Cô bé lại tiếp tục chạy, những bước chân sáo vui tung tăng trên thảm cỏ xanh mịn. Hạnh phúc nở hoa theo từng bước chân vô tư. Cô bé đang vui. Và chắc hẳn thiên đàng cũng đang vui lắm. Người vỗ về trong tim. Cô bé vấp ngã. Bàn tay non vụng về để hạnh phúc vượt theo chiếc bong bóng đỏ bay cao. Chiếc bong bóng từ từ xa dần, lên cao, lên cao. Cô bé đứng nhìn ngẩn ngơ, tiếc nuối. Nghe như mùa xuân lắng đọng. Những viên ngọc nhỏ lăn dần trên má. Bé khóc.

Cô bé là cánh hoa bạch huệ tỏa hương hạnh phúc. Khi tung tăng với chiếc bong bóng, mỗi ngón tay nhỏ là một chiếc đũa tiên có phép mầu rải niềm vui trên từng cọng cỏ ngoan hiền. Bước chân bé đã làm cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc ca yêu thương của khu vườn. Bé đã cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc bong bóng bay cao. Xa tít. Xa tít. Buồn như chú mèo nhỏ, bé lững thững vào nhà. Qua vuông cửa sổ, chàng thấy ánh đèn. Nơi ấy, có tình yêu, có hơi thở.

Mầu vàng của khóm tulips với mầu trắng ngà của con đường trải đá cuội, hòa vào mầu cỏ non xanh, làm cho căn nhà thêm êm đềm, như một lời cầu chúc hạnh phúc cho những bước chân nào đặt tới. Giàn hoa hồng nở đỏ thẵm trên vuông cửa sổ. cạnh bụi hồng là những giây hoa tím nhỏ đang leo trên tường đá. Tất cả nhắc nhở đến sự săn sóc của một bàn tay biết nghệ thuật. Mầu đỏ thẫm của bụi hồng làm cho căn nhà có vẻ đài các, nhưng lại hoà chung một thứ buồn dịu dàng, mồ hôi của sắc hoa mầu tím thầm lặng. Lối kiến trúc của căn nhà nói lên sự giầu có của người làm chủ.

Cách nhau một hàng rào gỗ thấp mà bên kia là giầu sang, và ở đây, chàng đứng một mình như thân phận Lazaro nghèo khổ. Chàng thấy nghèo là một chua xót. Cái nghèo làm người ta mất giá. Không ai muốn làm bạn với người nghèo. Có tiền thì có quyền thế. Có quyền thế thì có điạ vị. Nghèo là một cõi vắng lặng lẽ. Nghèo thì bị coi thường, có khi còn bị khinh rẻ. Tiền như một thứ đánh giá thành công của một người. Chàng tiếp tục nghĩ: Nếu Chúa Kitô là một Ceasar giầu có thì đâu có bị xua đuổi, có khi còn có lắm người theo. Có tiền thì được kính nể. Tiền là tiêu chuẩn xác định tài năng. Chàng thấy không tiền là một nỗi chua xót.

Cô bé chẳng ra sân chơi nữa. Chắc bé đang phụng phịu kể cho má nghe về chiếc bong bóng đã bay xa. Người thanh niên để tình cảm của mình nhẹ nhàng đi về một miền cô đơn. Trong căn nhà đó, có hơi thở, có tình yêu, có tiếng khóc, có tiếng cười, có những gì là căn bản nhất mà Chúa đã dựng nên trong thân xác, linh hồn chàng. Chàng lại tự hỏi, đời sống linh mục là gì? Tôi cũng như bao nhiêu người khác sao tôi lại không thể có một tình yêu riêng tư? Người thiếu nữ nào mà đáng lẽ cùng tôi chia sẽ yêu thương? “Nàng là xương là thịt ngươi, bởi đó, ngươi sẽ bỏ cha mẹ mình mà khăng khít với nàng.” (Gen. 2:23-24) Lời Kinh-Thánh thủa xưa vẫn vang lên như một lệnh truyền thôi thúc trong chàng, chảy theo từng dòng thời gian trong cuộc sống, nhắc nhở về “một phần đời” của chàng. Nàng là ai, ở đâu? Tên nàng là gì? Ðó chỉ là huyền thoại hay là thực thể? Vì sao tôi không thể có nàng? Trong căn nhà ấy, có nụ cười trẻ thơ, có tiếng gọi ba, có tiếng gọi má, sao không thể là tôi? Máu tôi vẫn đỏ theo từng nhịp tim đập, vì sao tôi chẳng thể bao giờ được nghe tiếng ba, được gọi tiếng con. Chàng ngước nhìn trời cao. Trời vẫn lặng lẽ, vô tư. Chàng muốn vẫy gọi niềm tin. Chàng muốn nghe niềm tin đáp trả.

Không biết người thanh niên đã để hồn mình xuôi về nẻo đơn độc ấy, để lòng mình chìm vào những dòng tư tưởng ấy bao lâu, nhưng chắc hẳn là lâu lắm. Khi chàng vô tình đưa tay lên ngực thì chợt nhớ ra chiếc hộp đựng Mình Thánh còn đó. Lãng quên đưa chàng về một chút hối hận, ngỡ ngàng. Chàng úp tay trên chiếc hộp, tự hỏi. Cả bầu trời cao ở nơi đây. Cả niềm tin mà tôi đang đi tìm ở nơi đây. Có thật là niềm tin? Có thật là trời cao? Chàng mở chiếc hộp nhỏ. Những tấm bánh trắng vẫn im lặng, âm thầm.

Ngày xưa tà thần đã nói với Đức Kitô: Nếu ngươi bái thờ ta, ta sẽ cho ngươi tất cả vinh quang của trần gian (Luca 4:6-8). Người thanh niên nhìn tấm bánh thầm nghĩ, nếu hôm nay, cũng lời ấy nói với tôi: “Nếu ngươi đổi tấm bánh này cho ta, ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi đang mơ ước.” Vùng trán mang vết nhăn. Người thanh niên bối rối. Chàng không trả lời được. Có được một số tiền đã là thành công. Dệt được ước mơ là một niềm vui lớn. Giờ đây, chàng phải đối diện với câu hỏi mà chàng không bao giờ ngờ. Nếu có ai cho chàng những ước mơ chàng đang mơ ước, chàng có bằng lòng đổi tấm bánh này không. Tấm bánh nhỏ bé quá, yếu đuối quá. Dáng chàng ưu tư, chàng hỏi lại lòng: Ðây có là cả bầu trời cao? Ðây có là Thiên Chúa của vũ trụ? Người thanh niên xót xa cho mình vì chàng không đủ niềm tin để xác nhận. Chàng tin rằng Ngài là Thiên Chúa đó. Nhưng tình yêu của chàng quá nghèo nàn nên không nuôi nổi niềm tin. Chàng lặng nhìn tấm bánh trên tay mà như chàng ứa lệ. Nỗi cô đơn về mênh mông. Chàng thấy lạc lõng. Suối nguồn đã đang cạn khô. Chàng lại nhìn trời cao. Trời cao vẫn im lặng. Chàng cúi đầu xót thương mình. Vì sao trời cao không đáp trả? Trong sự im lặng ấy, dường như có tiếng nói với người thanh niên: “Nếu ngươi mất Ta trong cõi lòng ngươi thì ngươi phải trở về trái tim của mình, Vì chỉ nơi ấy ngươi mới tìm lại được Ta, mới có tiếng đáp trả mà thôi.”

* * *

Có nỗi cay ở mắt. Chàng thấy hồn mình chứa chan. Hình ảnh ông già làm chàng bối rối. Trong tim chàng, có an ủi đi trên xót xa, có ngọt ngào chen lẫn đớn đau. Nuối tiếc. Ngại ngùng. Mênh mông. Sám hối. Một thứ tình cảm bâng khuâng giữa tình trời và tình đất. Ông già đã theo chàng ra tới tận cổng. Ðôi tay gầy, lạnh lẽo, nắm chặt lấy tay chàng biết ơn. Ðã bao lần trong đời, chàng bắt tay người này, kẻ kia. Cái bắt tay nào ấm tình, cái nào xã giao. Ánh mắt nào chân thành, lời nói nào đãi khách, điều đó, ai mà chả nhận thấy. Hai tay run run cầm chặt lấy tay chàng. Người thanh niên biết ở trong bàn tay ấy gởi chàng lời cám ơn thành thật. Lời nói không thể che kín được nỗi lòng và nỗi lòng không cần ngôn ngữ để diễn tả. Ông run run xúc động: “We need you.” Ông chỉ nói với người thanh niên vỏn vẹn như thế thôi, trước khi chia tay.

Khi chàng tới nơi thì bà đã ngồi trên xe lăn, đợi sẵn ở phòng khách. Nghe bấm chuông, ông ra mở cửa. Chào chàng kính cẩn, thái độ của những người già miền quê đối với một linh mục. Căn nhà vắng lặng, chỉ có hai ông bà. Bà đã bị tê liệt từ mười bẩy năm nay. Xe lăn là quê hương duy nhất. Những mạch máu mầu xanh nổi gầy guộc trên đôi tay cố gắng giơ lên làm dấu thánh giá. Giây phút thiêng liêng nhất. Bà kính cẩn cúi đầu chịu Mình Thánh Chúa. Ông đứng bên cạnh, chắp tay. Ðôi mắt chẳng còn nhìn rõ được, không nuốt được, phải ăn bằng đồ lỏng, khó khăn. Người con gái lớn đã ly dị, đấy là niềm đau đớn vô cùng đối với bà. Hai người con trai khác ở rất xa. Ông tâm sự với chàng là tâm trí bà chỉ nhớ tới các con. Bà nguyện cầu và lo âu cho phần rỗi của chúng. Ðời sống hôn nhân ngoài Giáo-Hội của người con gái đã ly dị làm bà khổ sở, buồn phiền.

Ðã hơn mười năm nay bà chẳng có thể tới nhà thờ được. Ðó là một quê hương mà bà cứ nhắc tới hoài. Ông nói với chàng rằng chỉ còn Chúa là nguồn vui và an ủi nhất của cả hai người. Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, nỗi háo hức của bà là được chịu Mình Thánh. Có một mình cha sở, lại phải lo cho nhà thương, thêm viện dưỡng lão, nên ngài chỉ đến thăm bà một tháng một lần. Khi biết được mùa hè này có một chủng sinh về giúp xứ, và bà có thể nhận Mình Thánh hàng tuần, ông nói, đấy là niềm ước ao của ông . Trên khuôn mặt già nua mừng rỡ, ông không hỏi tên chàng. Ông không cần biết chàng từ đâu đến, dù chàng khác màu da, không cùng ngôn ngữ. Ông chỉ ôm lấy tay chàng mà nói: We are happy to have you here. We need more priests. Ông không cần biết chàng thánh thiện hay tội lỗi. Ông không cần biết chàng tài năng hay vụng về. Trong niềm tin ấy, ông chỉ biết chàng là người mang Chúa cho ông. Ðiều ấy càng làm người thanh niên nghĩ ngợi hơn về lý tưởng của chàng.

Chàng ra về với tâm hồn bùi ngùi. Tôi là ai? Vì sao họ cần tôi? Ðời sống linh mục là gì? Vì sao bàn tay linh mục có thể chúc phúc bình an? Những câu hỏi ấy lại đưa chàng về một thế giới thần thánh, mà câu trả lời không hoàn toàn đến từ trời cao. Ði tìm câu trả lời là cuộc hội ngộ giữa đất và trời. Giữa yếu đuối và cao thượng. Giữa mênh mông và mảnh đất chật hẹp. Giữa từ bỏ và lên đường. Ðối diện câu hỏi là một khắc khoải, không thể giải quyết được tự lòng người. Nhưng con người có tự do và lựa chọn. Chàng không nói, nhưng dường như trong thâm sâu của trái tim, có lời kinh như một ánh sáng nhỏ đang cố ngoi lên:

Lạy Chúa nếu chẳng có con cộng tác thì công trình cứu chuộc của Chúa có bị thiệt thòi không? Con nghĩ là có. Chẳng phải vì công lệnh của con, nhưng vì nhiệm vụ mà Cha trao phó cho con, con đã không thi hành. “Làm sao họ tin nếu họ không biết về Ngài, Làm sao họ biết nếu không có ai rao giảng cho họ.” (Rom.10:14)

Nếu con không đến đây thì ai là người đem niềm vui cho hai ông bà? Cha có gởi gắm sứ mạng ấy ở nơi con không? Cũng trong chiều nay, còn biết bao tâm hồn khác cô đơn, đang đợi một bàn tay chúc bình an, đang chờ bước chân đem Tin Mừng đi tới. Họ sẽ chờ đến bao giờ nếu người mà Cha sai tới đã không muốn đi? Những giây đàng bằng vàng ròng của Salomon đã chẳng ru khúc yêu thương được cho dân của người. Những ly rượu nồng của David cũng chẳng cho dân ngài một giấc ngủ yên. Chính là những ngày rong ruổi trên con đường Galilee của đám mười hai tông đồ. Trong huyền nhiệm thân thể của Cha, thì khi con đem niềm vui cho tha nhân là con đem cho chính con. Nếu chiều nay mà con không bước tới thì căn nhà sẽ vắng lặng làm sao. Vì sao Cha đã gọi con? Ðôi tay con vụng về chẳng xây nổi giấc mơ của mình mà sao Cha lại cho con ôm cả vũ trụ? Trên bàn tay yếu đuối ấy, sao Cha lại cho con quyền năng trọng đại? Làm sao con hiểu thấu. Đấy chỉ là ân sủng mà thôi, Cha ơi. Chàng giã từ hai ông bà với tâm trạng vấn vương. Có đau thương của một tâm hồn yếu đuối. Nhưng cũng có ơn tha thứ của trời cao. Có nỗi chua cay của một niềm tin mong manh. Nhưng cũng có lời an ủi của một kẻ hiểu đam mê của xác thân chàng. Chàng thấy cõi lòng chứa chan. Chàng muốn dâng một lời cầu mà chẳng biết cầu cho ai, cầu như thế nào. Trời vẫn cao mênh mông, dường như mênh mông hơn nữa. Những vì sao vẫn lấp lánh. Chiếc hộp đựng Mình Thánh đang ở trong túi áo. Ðây có là cả bầu trời? Ðây có là cả biển rộng thứ tha và yêu thương? Tôi là ai mà dám đi song hành với Thượng đế của nhân loại? Chàng hỏi nhỏ cõi lòng, và trong lặng lẽ, chàng nghe từ con tim, có tiếng người đáp trả.

Chàng muốn đi thật xa với Người, muốn về một cõi đời bát ngát bình yên với Người. Muốn xóa đi những giấc mơ chỉ làm chàng thêm khổ đau. Nhưng chàng nghe thấy tiếng nói: Không, con không thuộc về trần gian nhưng Cha không đem con ra khỏi thế gian. Và người thanh niên hiểu là Ngài ban cho chàng đủ ánh sáng để đi, nhưng Ngài cũng để chàng đủ tối tăm cho niềm tin của chàng phải đặt trọn vào Ngài. Chàng bỗng lo âu về những ngày sắp tới, về những tiếng gọi của giầu sang và địa vị. Chàng muốn ngài đem chàng ra khỏi những yếu đuối của chàng để đi với Ngài về một cõi xa. Nhưng ngài lại nói: Ơn thánh của Cha thì đủ cho con.

Những gì người thanh niên hỏi thì Ngài trả lời. Những gì chàng thắc mắc, băn khoăn thì Ngài đáp trả. Không phải ở bầu trời cao mà là âm thầm trong chính hồn chàng. Như xương thịt chàng là Ngài lo âu cho chàng trước khi chàng biết lo âu cho mình. Ngài bảo chàng cứ đi, và chàng thấy mùa xuân về, bát ngát, mênh mang. Chàng thấy như một bông hoa Quỳnh, trắng nõn, đang nhè nhẹ nở nụ trong sương đêm. Chàng nghe như hoa cỏ đang hồi sinh, và trong tim chàng, có dòng suối mát vỗ về. Chàng cảm thấy trên đường chàng đi, có vắng vẻ nhưng không đơn côi. Chàng cũng cảm nghiệm người chàng yêu ở trong tim chàng chứ chàng khôg phải kiếm tìm. Chàng nhủ thầm, tôi nghèo khổ khi tôi tìm kiếm, nhưng khi tôi ở trong vũ trụ và vũ trụ ở trong tôi thì tôi còn gì nữa mà để tìm kiếm đâu. Rồi chàng đã đi lang thang hết con đường này sang đường khác. Ngài cũng đi với chàng.

Chàng cứ hỏi, và ngài cứ trả lời. Ngài bảo rằng linh mục nghĩa là Kitô, đấng được xức dầu và đóng đinh. Ý nghĩa của linh mục càng thâm sâu khi càng vất vả, gian nan. Ánh nến Phục Sinh càng sáng khi máu tử nạn càng hồng.

Ngài không bảo chàng rằng đường chàng đi sẽ phủ đầy hoa hồng, nhưng chàng có thể làm cho hoa hồng nở trên đường chàng đi.

* * *

Ðêm ấy, người thanh niên cứ lang thang khắp đường. Khi về đến phố thì xuất ciné cũng vừa tan. Chàng nhìn đám người, nguyện cầu và mong ước cho từng người được bình an. Giã từ rạp cinée, chàng đi về phía những quán bar đang sực khói thuốc và men bia, chàng nguyện cầu cho mọi người tìm được niềm vui chân thật. Những cô gái đang bước lẻ loi trên đường. Biết đâu, đêm nay có những tiếng khóc thầm lặng, có những nỗi cô đơn dầy đặc. Chàng nguyện cầu cho tình yêu đi về trên những mảnh hồn đơn côi ấy. Ðêm nay, trong một góc tối nào đó, đang có những toan tính âm mưu. Chàng xin Chúa ban ánh sáng phục sinh. Cũng có lẽ đêm nay, trong căn nhà nào đó, có tiếng khóc than, có những quầng mắt thâm sâu. Có những tâm hồn lạc lõng đang tìm lãng quên bằng men đời say đổ. Có những quãng đời đang không biết đi về đâu. Có những tan nát, chia ly. Có những đổ vỡ lặng lẽ mà vô cùng xót thương. Có những dòng nước mắt tuyệt vọng. Cứ thế, chàng bước đi trên phố và xin Ngài chúc lành cho thành phố đã về đêm.

 
“Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.”

Chàng đã kiệu Mình Thánh Chúa đi trên biết bao con đường. Chẳng ai biết cả. Chỉ riêng chàng. Ðã nhiều lần trong đời, chàng đi rước, nhưng chỉ đêm đó, một đêm kiệu Mình Thánh mà chàng gần Ngài nhất. Ở một góc công viên, người thanh niên vuốt mặt, nhìn trời cao, chàng thấy hồn chàng nhẹ nhàng như đang đi trong cõi mùa xuân. Trong cõi lòng, chàng thấy một bầu trời rộng và có một cánh chim đang bay lên cao, tự do, bát ngát. Chàng thấy những giải nắng hồng rực rỡ. Nghe như vũ trụ có gió xuân nhè nhẹ đi về. Êm đềm. Những cơn mưa buồn đã theo mây đen trôi dần về biển xa. Chàng muốn giơ tay bắt giữ những giây phút thiêng liêng. Một cành lá dường như đang nẩy màu xanh hy vọng. Nhưng chợt nhớ về quá khứ, trong quá khứ đã nhiều lúc chàng xa Ngài. Bởi đó, chàng băn khoăn về tương lai. Nào chàng có biết chắc được những ngày sắp tới. Nào chàng có biết chắc cánh chim kia sẽ tiếp tục bay cao, hay lại quay về, bỏ khoảng trời mênh mông. Nào chàng có biết chắc những cành cây hy vọng kia sẽ thêm xanh hay sẽ khô dần. Người thanh niên cúi mặt sợ hãi những đám mây đen. Vì bao lần trong quá khứ, mây bay đi nhưng mây lại bay về. Trời hồng sáng rồi mưa tuôn lại làm dập dềnh khóm hạnh phúc chưa kịp trổ bông. Chàng nhìn tương lai mà không trọn vui được hiện tại. Nhưng chàng nghe dường như có tiếng Ngài nói:

– Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.

Chàng cũng nghe như Ngài nói nữa:

– Cha không chờ con thánh thiện rồi Cha mới thương con, nhưng chính vì tình thương của Cha mà Cha dìu con đi lên từ tội lỗi.

Khi về đến nhà xứ thì đã quá nửa đêm. Và hình như chàng vẫn nghe thấy âm vang từ rất xa, âm thầm mà mãnh liệt:

– Ðường con đi sẽ không phủ đầy hoa hồng. Nhưng con có thể làm cho hoa hồng nở trên đường con đi.

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ,
Trích “Tiếng gọi phía bên trong”
From: Le Ngoc Bich& KimBang Nguyen

Ngày mở tay-Cao Gia An, SJ

(Trích nhật ký của một linh mục trẻ)
Cao Gia An, SJ
(Roma)

Con ngoảnh đầu nhìn lại. Sau lưng mình chẳng có ai…

Sân nhà thờ ngập nắng. Gió lùa lồng lộng. Những dây cờ đủ màu sắc rung lên phần phật trong gió. Bên ngoài cổng nhà thờ là con đường chính của xứ đạo. Bên kia con đường là màu xanh ngút ngàn của vườn cây đang vào mùa đơm hoa kết trái.

Tiếng chiêng tiếng trống được gióng lên. Những hồi kèn ngân vang giục giã. Đoàn đồng tế bắt đầu di chuyển về phía trước. Vậy là con bước theo…

Lòng con vừa rộn ràng vừa xao xuyến. Cảm giác bồi hồi thật khó tả.Trong những ngày tháng tuổi thơ, đã rất nhiều lần con được tham dự Thánh lễ có đoàn đồng tế. Bầu khí trang trọng của những Thánh lễ ấy đã lưu lại trong lòng con nhiều dấu ấn sâu đậm. Con còn nhớ rất rõ, lần đầu tiên mình được tham dự Thánh lễ có thật nhiều Cha là vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Năm đó con vừa tròn 6 tuổi. Ba dẫn con đi tham dự Thánh lễ Truyền Dầu ở nhà thờ Chánh Tòa của Giáo phận.

Bầu khí hôm ấy thật linh thiêng và long trọng. Một đoàn linh mục đồng tế với phẩm phục áo lụa màu vàng, như một dòng chảy liên tục kéo dài từ cổng vào đến tận bậc thềm của nhà thờ. Con với ba đứng lẫn trong đoàn người dự lễ. Ba chỉ cho con các Cha mà ba quen biết. Có một số Cha đã từng ghé thăm nhà mình.

Khi đến với gia đình mình, các Cha bình dân dung dị và khác lắm. Giờ mặc phẩm phục linh mục, đứng trong hàng đồng tế, nhìn ai cũng nghiêm trang và thánh thiện vô cùng. Khi chỉ cho con các Cha ngày xưa học cùng lớp với mình, giọng ba tự nhiên như chùng xuống. Con biết, ước mơ về đời tu là một ước mơ dang dở nhưng chưa bao giờ lịm tắt trong lòng ba. Chỉ vì những đổi thay của thời cuộc. Chỉ vì sinh ra vào thời buổi khó khăn…

Ba về làm nông dân cuốc đất. Để đêm đêm, ba gởi gắm ước mơ dang dở ấy vào những câu chuyện kể ru con vào giấc ngủ. Những câu chuyện luôn bắt đầu như thế này: “Hồi xưa, lúc ba còn ở Chủng viện…”. Những câu chuyện kể của ba đã gieo vào lòng con những hạt giống đầu tiên của ước mơ sống ơn gọi dâng hiến.

Trong Thánh lễ Truyền Dầu năm ấy, con có cảm giác như những hạt mầm ơn gọi đã bắt đầu cựa mình vươn dậy trong con. Con nghe lòng mình cháy bỏng ước mơ sẽ là người viết tiếp những trang còn dang dở trong ước mơ của ba. Con ước lớn lên mình sẽ được đứng trong hàng đồng tế, sẽ được mặc phẩm phục linh mục, sẽ không phải chỉ là người đứng xem lễ từ bên ngoài, nhưng là người cử hành Thánh lễ.

Ước mơ ấy thầm kín nhưng mãnh liệt, cứ âm thầm mà lớn lên trong lòng con.

Hôm nay ước mơ ấy thành sự thật. Con bước đi trong đoàn đồng tế. Nhưng con lại không nghĩ rằng lần đầu tiên mình xuất hiện thì sau lưng mình chẳng có ai. Chưa bao giờ con phải sống cái cảm giác sau lưng mình không còn ai, nhất là trong bầu khí thiêng liêng này. Một đoàn rước kéo dài, nhưng mọi người đều đứng ở phía trước. Con là người đứng ở cuối cùng.

Hôm nay con là nhân vật chính.  Con thấy như toàn bộ sức nặng của cả hai hàng người đều được đặt trên đôi vai mình. Mọi người bước đi như một dòng chảy, cứ tự nhiên tiến về bàn thờ. Con thấy mình bị hút vào dòng chảy ấy. Bỏ lại khoảng trời sau lưng. Bỏ lại con đường đầy nắng và gió. Vậy là con bước về phía trước, theo đoàn rước tiến vào nhà thờ.

* * *

Trong đoàn rước có rất nhiều người con quen biết. Đúng hơn, đó là những người thân thiết nhất của con. Đi ngay phía trước con là cha Bề Trên, người đã nhận con vào làm ứng sinh trong nhà Dòng từ mười lăm năm về trước. Kế bên ngài là người mà con trân trọng gọi là Cha Bố, người đã hết lòng nâng đỡ con trong quãng đời sinh viên, và trong suốt khoảng thời gian đầu tiên khi con mới chập chững tìm hiểu ơn gọi. Phía trước nữa là các Cha trong đoàn đồng tế, đa số là những người thân thiết với con và gia đình, những người bạn, người anh, người cha của con.

Ngay trước đoàn đồng tế là ba má. Má hôm nay mặc một chiếc áo dài màu sậm, rất ra dáng của một bà cố. Ba thì diện một bộ đồ vest, nhìn sang và đẹp quá chừng! Con biết, cả ba và má đều rất hạnh phúc trong giây phút này. Cả hai đang sống rất sốt sắng tâm tình của người dâng con trong Đền Thánh. Vậy là cuối cùng, những hy sinh và những giọt mồ hôi của má cũng được Chúa đền đáp xứng đáng. Vậy là cuối cùng, ba cũng được đứng trong hàng đồng tế, cách mấy Cha mang phẩm phục linh mục chỉ một chút chứ có bao nhiêu!

Khi con bước theo đoàn người tiến vào lòng nhà thờ, đi vào giữa hai hàng người, tự nhiên lòng con trào dâng một niềm an ủi thật khó diễn tả. Ấm áp và hạnh phúc vô cùng. Con không còn cảm thấy lạ lẫm và e sợ nữa. Con cũng không còn thấy cô đơn vì sau lưng mình chẳng còn ai nữa. Lòng con như tan ra và bay vút lên hòa theo tiếng hát của cả cộng đoàn. Hóa ra đây đâu phải là Thánh lễ của riêng con. Hóa ra ơn gọi này đâu phải là chuyện của cá nhân con. Hóa ra con có được ngày hôm nay đâu phải chỉ nhờ công sức cố gắng và khả năng của chính mình. Đúng hơn, hôm nay con dâng Thánh lễ của mọi người. Hôm nay mọi người dâng con lên Chúa như hoa quả kết tinh từ biết bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt, bao ý nguyện âm thầm, bao lời kinh tha thiết. Hóa ra trong thiên chức linh mục của con mọi người đều có phần cả.

Vậy là con mạnh dạn bước lên cung thánh. Cúi mình thật sâu hôn bàn thờ, con mỉm cười hạnh phúc và thầm thỉ đọc lời tâm nguyện là châm ngôn đời linh mục của con: Hinneni. Lạy Chúa, con đây! Hinneni là một từ Do Thái. Từ ấy đã đánh động con ngay từ buổi đầu tiên khi con bắt đầu làm quen với ngôn ngữ này.

Cái tiếng Do Thái lạ lắm, cho phép ghép nhiều thành tố vào với nhau để lập nên một từ có nghĩa. Hinne là một từ phổ thông, được dùng chỉ như một từ đệm để thêm một chút sắc thái nào đó cho câu, chứ thật ra tự từ ấy chẳng có ý nghĩa gì.

Trong những bài học đầu tiên của con ở bộ môn chú giải Kinh Thánh, có Cha giáo sư còn khuyên: Mỗi khi gặp từ này thì nên làm lơ nó đi, khỏi mất công đọc và dịch. Nói chung, tự bản chất, hinne là một từ không mang nhiều sắc thái văn chương và rất ít giá trị diễn nghĩa. Chẳng hạn, sau khi ông A-đam và ba E-va ăn trái cấm, khi Chúa gọi ông: “A-đam, ngươi ở đâu?”, A-đam chỉ có thể đáp bâng quơ theo kiểu hinne, hinne…

Thế nhưng khi được gắn thêm tiếp vĩ ngữ -ni để thành hinneni, từ này có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Hinneni là lời đáp trả tích cực của những người được Thiên Chúa gọi. Như lời của Áp-ra-ham thưa với Đức Chúa khi Chúa gọi ông và mời ông dâng hiến con mình là I-sa-ac (St 22,1).

Như lời của Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,4). Như lời đáp nhanh nhảu của cậu bé Sa-mu-en giữa đêm trường trong Đền Thánh của Thiên Chúa (1Sam 3,4). Như lời đáp của I-sa-ia ở khởi đầu ơn gọi ngôn sứ của mình (Is 6,8). Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Maria khi được dịch sang tiếng Do Thái cũngsẽ là Hinneni.

Ngày hôm nay con liều lắm nên mới dám cất lời, hòa vào vô số những cung giọng đã vang lên dọc suốt dòng lịch sử cứu độ, để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Tiếng Do Thái còn dạy con rằng, âm nhấn của toàn chữ này nằm ở cuối cùng.-ni có nghĩa là “tôi”, là “con”, ở ngôi thứ nhất số ít. Chính “cái đuôi” này mang lại ý nghĩa và sức nặng cho toàn chữ. Chính việc đặt trọn vẹn con người của mình vào lời đáp trả mới làm nên ý nghĩa trọn vẹn của một ơn gọi. Bằng không, tất cả chỉ là một lời đáp hinne bâng quơ…

* * *

“Thánh lễ mở tay” của con diễn ra trong một ngôi nhà thờ ọp ẹp, bốn bề trống trơn. Thật ra, đó chỉ là một căn nhà tạm được dựng lên trong thời gian chờ đợi xây nhà thờ. Từ trên cung thánh nhìn xuống, con nhìn thấy những cây cột gỗ được chắp vá tạm bợ. Mái tôn thấp và cũ. Trần nhà thờ không che đậy và không trang trí. Bốn bên nhà thờ không hề có vách. Sân nhà thờ là nền đất. Mọi thứ hãy còn ngổn ngang và bề bộn…

Nhưng con dám chắc, nếu dâng lễ mở tay trong một ngôi nhà thờ khang trang và hoành tráng, có lẽ tâm tình của con sẽ không được sốt mến và đẹp như ở đây, vào lúc này. Con là đứa con đầu tiên của giáo xứ này được làm linh mục. Mọi người mừng với con, như mừng một mầm xanh sớm mọc lên trên vùng đất nghèo và cỗi cằn của sa mạc. Mầm xanh là dấu hiệu hữu hình của ân sủng, là dấu chỉ của việc được Thiên Chúa ghé mắt đoái thương. Mầm xanh báo hiệu một mùa sống mới.

Vậy là mọi sự chỉ mới khởi đầu.

From: Le Ngoc Bich & KimBằngNguyễn 

Dành riêng – Cao Gia An, SJ

 Cao Gia An, SJ

Đã có lúc hắn nghĩ rằng bi kịch cuộc đời nằm ở chỗ hắn thích đi tu từ nhỏ. Cả nhà ai cũng biết và thích cái ý thích của hắn. Thế là tự nhiên hắn trở thành kẻ được dành riêng. Đi đâu, làm gì, ở đâu, với ai, hắn đều được chăm sóc đặc biệt. Ai cũng ra sức vun đắp, để xây dựng hắn thành một ông Cha tương lai.

Muốn làm ông Cha thì không được ngủ nướng. Sáng sớm, vừa nghe tiếng chuông đồng hồ là hắn phải lồm cồm bò dậy, dù trong lòng còn vô cùng tiếc nuối cái giường êm và cái mền ấm.

Muốn làm ông Cha thì phải tập đĩnh đạc và đạo mạo chứ không có cái kiểu chạy nhảy ồn ào lung tung. Vậy nên hắn thường chỉ có thể thèm thuồng đứng từ xa nhìn đám bạn tung tăng hò hét.

Muốn làm ông Cha thì phải để ý lời ăn tiếng nói. Chỉ cần lỡ lời dùng một vài câu tiếng lóng học được đâu đó từ đám bạn bè, là hắn bị cả nhà bủa vây chỉnh đốn cho tới nơi tới chốn.

Muốn làm ông Cha thì phải siêng năng đi lễ đọc kinh và cầu nguyện. Ông Cha đâu chỉ có làm lễ mỗi tuần một lần vào ngày Chúa nhật. Ngày nào ông Cha cũng phải làm lễ. Vậy nên hắn phải tập thói quen ngày nào cũng đến nhà thờ. Chỉ cần hắn nhơm nhớm lân la với mấy cái lý do đại loại như: hôm nay trời mưa quá! Hay, hôm nay con mệt quá!… là ngay lập tức hàng trăm cái lý do khác dồn dập đổ vào hắn: ông Cha thì không làm biếng, ông Cha thì không được đổ thừa lý do này lý do kia, ông Cha thì phải đạo đức thánh thiện…

Từ ngày công khai bày tỏ ý định thích đi tu, hai cái lỗ tai của hắn cứ đầy lên với bao nhiêu là điều mà “ông Cha thì phải” và “ông Cha thì không được”. Đã có lúc mệt quá, hắn giơ hai tay lên, kêu: Trời ơi, chỉ là muốn đi tu thôi mà, phải khổ vậy sao!

Kêu thì kêu vậy thôi, chứ thực lòng hắn vẫn thích đi tu lắm, thích làm ông Cha lắm. Chỉ cần nghĩ tới chuyện lớn lên được mang trên mình cái áo dòng đen, một tay ôm quyển Sách Thánh, một tay cầm xâu chuỗi Mân Côi, đi qua đi lại ngoài hiên nhà thờ… là tâm hồn hắn đã mê mẩn.

Con nít thì luôn có khả năng hy sinh nhiều thứ để đạt được điều làm mình mê mẩn. Chẳng hạn, để mua được một quyển truyện tranh mà mình thích, con nít có thể hy sinh làm nhiều chuyện lắm, như là sẵn sàng hy sinh nhịn ănn sáng hàng tuần để tiết kiệm tiền, hoặc sẵn sàng hy sinh đội mưa đội nắng đi mò cua bắt ốc ngoài đồng.

Vì mê mẩn với ước mơ được làm ông Cha, hắn sẵn sàng hy sinh nhiều niềm vui bình thường của một đứa con nít để bắt đầu tập sống cuộc đời được dành riêng của một người đi tu. Hắn tập sống như một ông Cha, trước khi tự đặt cho mình những câu hỏi khó trả lời, đại loại như: liệu Chúa có chọn mình không? Hay, liệu Chúa có muốn dành riêng mình không? Những câu hỏi đó, sau này, lớn lên, khi được học đôi chút về điều gọi là phân định ơn gọi, mới làm cho hắn đau đầu và trằn trọc mất ngủ.

Nhưng càng lớn hắn càng khám phá ra rằng muốn sống như một người được dành riêng thật chẳng dễ tí nào.

Người được dành riêng là người mất rất nhiều những cái chung.

Bước vào thời sinh viên, hắn bắt đầu nộp đơn vào nhà Dòng để xin tìm hiểu ơn gọi. Hắn được gởi ở trong một nhà xứ gần trường, thay vì được ở chung trong ký túc xá với bạn bè. Bạn bè ai cũng khen hắn điềm đạm và có cốt cách. Chỉ có hắn mới biết cái giá của việc gọi là điềm đạm và cốt cách ấy là hắn chẳng thể nào tham gia vào mấy cái trò quậy phá nhố nhăng mà vui rầm trời của bọn bạn bè cùng lớp. Chỉ có hắn hiểu cái cảm giác tiếc ngẩn ngơ khi không được vui tới bến với bạn bè trong những đêm hội hè lửa trại. Chỉ có hắn mới là người phải sống những nghịch lý của kẻ được dành riêng giữa một đám đông bạn bè. Chỉ có hắn mới phải cảm nếm tính tạm bợ và vay mượn của những niềm vui rất đỗi bình dị đời thường…

Những ngày cuối tuần, bạn bè được nghỉ ngơi, mọi người rủ nhau đi vui vẻ tiệc tùng và hát Karaoke. Hắn thì một mình đạp xe đạp về nhà Dòng để tiếp tục chiến đấu với bao nhiêu là những môn học khác, như nhân bản, tâm lý đời tu, trưởng thành tâm cảm, vân vân và vân vân. Con đường hắn đi về nhà Dòng mỗi cuối tuần bao giờ cũng là con đường ngược gió. Gió từ bên ngoài và gió nổi lên cả từ bên trong lòng hắn. Hắn vui và vẫn nuôi rất nhiều thao thức với hành trình dành riêng mà hắn đang đi. Nhưng thỉnh thoảng hắn cũng dừng lại, tự làm cho mình đau đầu với rất nhiều câu hỏi, kiểu như: Ủa, mình đang đi đâu, đang làm gì vậy ta? Ủa, sao mình phải khác người vậy ta? Ủa, con đường phía trước sẽ dẫn mình tới đâu đây ta? Liệu mình còn đi tiếp trên con đường này được bao lâu nữa vậy ta?…

Sống như người được dành riêng, hắn phải kỹ lắm. Không chỉ trong cách sống hay trong lời ăn tiếng nói, hắn phải kỹ ngay cả trong ánh nhìn và trong tư tưởng của mình nữa. Có nhiều ánh mắt đọng lại nơi hắn hơi lâu. Hắn biết chứ, vì hắn không phải là người gỗ. Chuyện đó cũng bình thường đối với những người ở tuổi của hắn thôi. Những ánh mắt sâu thăm thẳm và buồn vời vợi cứ lần lượt đặt vào hắn, rồi trượt đi. Hắn để cho trượt đi. Vì hắn biết, chỉ cần để cho hai ánh mắt gặp nhau, dừng lại với nhau hơi lâu một chút thôi, chắn hắn sẽ chìm mất trong cái thăm thẳm và buồn vời vợi ấy… Trong giờ hồi tâm mỗi tối, hắn cứ tự dặn mình phải tập nghiêm túc và trong sáng hơn trong ánh nhìn, trong những tư tưởng vơ vẩn mà mình cưu mang. Tại hắn được dành riêng.

Ngày đầu tiên chính thức được đặt chân vào nhà Dòng, hắn đã đứng tần ngần trước tấm biển thông báo: “Khu vực dành riêng, xin miễn vào”. Chỉ là tần ngần một chút vậy thôi, rồi hắn hùng dũng đẩy cửa bước vào. Bởi hắn biết, đó là khu vực dành cho hắn, cho những cuộc đời được dành riêng. Hắn thấy lòng mình hạnh phúc gì đâu!

Có một lần hắn có bạn đến thăm. Hắn gặp lại ánh mắt thăm thẳm và buồn vời vợi đã trượt qua đời hắn ngày xưa. Ánh mắt ấy giờ đã đặt vào một người khác, người được bạn giới thiệu là bạn của bạn. Hắn và họ nói chuyện với nhau, vẫn gần gũi và thân thương như ngày nào. Kết thúc cuộc viếng thăm, người ta chở nhau hòa mình vào phố thị. Hắn một mình quay bước vào lại nhà Dòng, về lại với căn phòng riêng của hắn, về lại với nhịp sống đều đặn của đời tu, về lại với cuộc đời của người đã được dành riêng…

Nhà Dòng của hắn nằm gần bên rìa của phố thị. Âm thanh của thành phố không quá gần cũng không quá xa so với nhịp sống tĩnh lặng của hắn. Mỗi lần đêm xuống, đèn lên, hắn rút lui đời mình vào một khoảng tĩnh lặng và thanh vắng. Tối, sau khi với tay tắt ngọn đèn đọc sách, căn phòng nhỏ của hắn trở nên rộng thênh thang, tan vào màn đêm không biên giới. Đó là lúc hắn cảm nghiệm rất rõ cuộc đời được dành riêng của mình. Ngoài kia, rất nhiều những âm thanh vọng vang từ đường phố: tiếng cười nói, tiếng xe cộ, tiếng nhạc xập xình… Trong này, chỉ một mình hắn lặng lẽ. Giữa những phồn hoa đô hội của cuộc sống, một ranh giới rất rõ ràng được dựng lên cho hắn, trong đêm.

Sáng sớm, hắn thức dậy khi cả thành phố hãy còn ngủ vùi, khi đất trời còn mờ tối và sương đêm còn bãng lãng. Khi những ánh nắng đầu tiên vừa ló rạng, hắn ngẩng đầu nhìn lên, hướng lòng mình lên, để cho cả cuộc đời mình được dọi sáng và sưởi ấm trong ánh nắng ban mai tinh khiết.

Tự nhiên hắn thấy cuộc đời mình đẹp.

Hắn thấy diễm phúc vì mình sống hạnh phúc cuộc đời của người được dành riêng.

Hắn thấy mình may mắn lắm, vì thích đi tu từ hồi còn nhỏ…

【Cao Gia An, S.J, Tập Truyện Ngắn “Bên Ngoài Cổng Nhà Thờ” – 2019

From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen

CHUYỆN TÌNH HUỆ – SANG- Truyện Ngắn

Thuha T. Tran

Tiểu thuyết hóa chuyện tình?!

CHUYỆN TÌNH HUỆ – SANG

– Nguồn Hồng Thúy-

Nhìn họ, ai cũng nghĩ: Là 2 MẸ CON. Đâu thể nào tin: Họ là VỢ CHỒNG.

35 năm trước, Sang chỉ hơn 20 tuổi, đạp xích lô kiếm sống. Còn Huệ, gần 40 tuổi, bán trái cây ở chợ. Huệ thường nhờ Sang phụ chở trái cây. Thế rồi, giữa họ nảy sinh tình yêu lúc nào không hay. Một ngày, Sang nói với Huệ:

– Em muốn lấy chị làm vợ…

Huệ lắc đầu! Huệ sợ miệng đời, sợ mai kia Huệ già, Sang còn trẻ, sẽ bỏ Huệ mà đi. Nhưng rồi bằng sự chân thành sâu thẳm, Sang đã được Huệ gật đầu – họ cùng nắm tay nhau.

Sang làm đủ thứ công việc để lo cho vợ và 2 con. Sang đạp xích lô, bốc vác, phụ hồ… rồi làm bảo vệ, có nhiêu tiền kiếm được, Sang đưa hết cho vợ, khi cần gì thì chỉ xin lại vài chục ngàn.

Sang không cho vợ làm gì cả, chỉ ở nhà lo cho con vì Sang biết sức khỏe vợ mình không tốt. Chuyện lớn nhỏ, Sang gánh vác cả.

35 năm sau!

Cô hỏi ổng buồn không, có muốn đi lấy vợ khác trẻ hơn không? Ổng nói, có đi trước ổng thì ổng sẽ ở vậy, nếu có kiếp sau vẫn đi tìm cô để cưới làm vợ.

Đôi vợ chồng Huệ – Sang sống trong 1 phòng trọ nhỏ, xập xệ ở huyện Nhà Bè. Hai con có gia đình ra ở riêng, cũng vất vả trăm bề, không thể lo cho cha mẹ được gì.

Gần 35 năm gắn bó cuộc đời với nhau. Giờ đây, Huệ đã 73 tuổi, tóc bạc trắng, răng đã rụng, nhăn nheo, móm mém… Còn Sang, cách đây 5 tháng, khi đang đi làm bảo vệ thì bị choáng, gần như ngấ:t xỉu.

Đưa vào cấp cứu trong Bệnh viện, Bác sĩ nói bị chèn ép tủy cổ 4 đốt, 2 chân gần như không bước được nữa, chỉ định mổ – chi phí 26 TRIỆU ĐỒNG. Hai vợ chồng làm gì có số tiền ấy, Huệ đành xin cho chồng ra viện. Bác sĩ nói nếu về, có nguy cơ bị liệt, không có cách nào cứu chữa.

Đành chịu, Sang khóc trong bế tắc:

– Tui thành tàn phế rồi, bà đi đâu thì đi đi cho khỏe.

Người vợ 73 tuổi ấy đâu đành lòng, khi ông khỏe mạnh, ông nuôi tui, chăm sóc tui 35 năm qua, giờ sống chế:t gì cũng phải có nhau. Thế là, mỗi ngày lo ăn uống, tắm rửa xong cho chồng, Huệ đi lang thang lượm ve chai, có khi 10 -11h đêm mới về tới nhà. Số tiền ấy, Huệ để dành phần lớn mua thuốc giảm đau cho chồng.

Huệ 73 tuổi – Còn Sang 56 tuổi! Cứ ngỡ, cuộc sống của đôi vợ chồng lệch tuổi ấy sẽ trôi qua trong bế tắc, trong đớn đau và thiếu thốn trăm bề… Nhưng, một ngày kia, có người cho Huệ số điện thoại của Hồng Thúy: Hãy điện về đó nhờ giúp đỡ!

Mấy ngày trước, mình nhận được điện thoại của cô, cô vừa khóc vừa trình bày hoàn cảnh và xin đến để cứu chồng mình. Thúy hứa sẽ đến sớm nhất…

Chiều qua, Thúy, Tâm và Trung tìm về huyện Nhà Bè, tìm về với căn phòng trọ nhỏ xíu, ngổn ngang. Chú nằm đó, thở khó, cô loay hoay lau mồ hôi cho chú đỡ mệt. Thấy mình đến… 2 vợ chồng òa khóc – Ông được cứu rồi ông ơi! Cô nhìn chồng da diết, nói như thế đó.

Sáng nay, mình lại phân công Trung chạy xe xuống Nhà Bè chở cô chú lên Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, làm thủ tục nhập viện, gửi bác sĩ để lo vẹn tròn cho chú. Ứng trước 1 ít nộp viện phí cho chú, hy vọng sau đó có ai giúp cô chú được 30 TRIỆU đồng để đóng chi phí ca mổ và còn 1 ít thì sẽ dành chăm sóc hậu phẫu…

– Tui mà khỏe lại, tui không cho bà đi lượm ve chai nữa,

– Tui khỏe lại, đi làm mua đồ ngon cho bà ăn…

… Ừ, rồi Sang sẽ khỏe lại, Huệ tin là như thế!

Sang 56 – Huệ đã 73 tuổi, móm mém. Cười mà khóe mắt cay. Ánh mắt dành cho nhau da diết đến tột cùng

Nguồn: Hồng Thúy