NỢ TÌNH!-Truyện ngắn

Chau Trieu is with Kim Dao Lam

 NỢ TÌNH!

Trong tất cả các món nợ, nợ tình là món nợ đau đớn và dai dẳng nhất, đôi khi mất cả cuộc đời, người ta trả mãi vẫn không xong!

Tôi có một người bạn, cô ấy xinh đẹp và tài giỏi, có một mái ấm gia đình, chồng yêu thương vợ nhưng… hạnh phúc cô đang có chưa bao giờ là trọn vẹn, bởi:

Không thể biện hộ với bất cứ lý do gì, cô ấy cũng xem bản thân là “liên đới” và phải chịu trách nhiệm trước cái chết của một người, là mối tình đầu của cô ấy!

Ngày ấy, họ yêu nhau tha thiết, là một mối tình thơ đúng nghĩa. Thuở ấy, nhà cô và anh đều nghèo, anh đành phải bỏ học sớm để đi làm phụ giúp cha mẹ. Còn cô, cô may mắn được tiếp tục chuyện học hành, anh dù không giúp gì được nhiều cho cô nhưng luôn bên cạnh động viên cô mỗi ngày. Mỗi khi cô thức đêm học bài là anh cũng thao thức theo, cô đứng trên căn gác ọp ẹp nhìn xuống phía trước nhà là thấy anh đang đứng đó, tay huơ huơ cái bánh bao còn nóng hổi hay bịch cà phê để giúp cô tỉnh táo. Họ đã yêu nhau say đắm, thuần khiết và dìu đỡ nhau từng bước qua khó khăn của cái thủa hàn vi thiếu thốn trăm bề. Rồi cô vào đại học, anh vẫn tận tụy như một con ong chăm chỉ chăm sóc cho cô mỗi ngày cho tới khi:

Cô ra trường với tấm bằng loại giỏi, biết bao cơ hội nghề nghiệp chào mời, bao chàng trai khá giả săn đón và gia đình cô đã cấm cản họ tiếp tục đến với nhau. Đau đớn thay, cô cũng thay lòng!

Họ nói lời chia tay nhau trong một chiều mưa tầm tã. Cô xin anh hãy tha thứ cho cô, cô cần tương lai, cần sự nghiệp, cần một người chồng có chức vị theo ý gia đình… Còn anh, anh vẫn cặm cụi đi làm trên chiếc xe đạp cũ, lương ba cọc ba đồng, rồi chui rúc trong một căn nhà nhỏ với 9 anh chị em, gia đình cô không cam tâm để cô làm dâu nhà ấy!…

Anh đã ngồi lặng yên, đôi mắt ráo hoảnh, đôi bàn tay xiết chặt và đôi môi mím lại. Không nói một lời, anh lấy xe phóng như tên bay dưới làn mưa nặng trĩu. Chỉ ít tiếng sau, tin sét đánh dội về:

Anh ra đi trong một tai nạn, người ta bảo miệng anh nồng nặc mùi rượu, là thứ nước đắng anh chưa từng uống một lần trong đời, anh chỉ nếm một lần duy nhất và là lần cuối cùng, mãi mãi!…

Cô tưởng chừng đã chết đi sống lại hàng trăm lần bên mộ anh. Nỗi đau và sự dày vò như giết cô lần mòn. Cô đã không thể tự tha thứ cho mình, là lỗi lầm của cô, vì sự bạc tình của cô mà người ấy ra đi không nhắm mắt!

#101 hình ảnh chia tay buồn lãng mạn tiễn đưa cuộc tình tan vỡ ...

Nhưng may mắn cô đã gặp được người chồng trong hiện tại, ông ấy hơn cô khá nhiều tuổi, ông thấu hiểu được nỗi giằng xé, sự ân hận cô phải mang vác trong trái tim và trong suốt cuộc đời còn lại… Thế nên, ông yêu cô bằng tất cả tình thương, lòng bao dung và từ ái. Ông giúp cô sống trở lại bình thường nhưng “Món nợ tình” cô đã trót vay thì mãi mãi không thể trả được!

Và kế tiếp là câu chuyện của chị tôi, chị cũng “Nợ tình” nhưng lại là trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác!

Chị chia tay mối tình đầu vì hiểu lầm và tự ái. Chính xác hơn, chị đã đánh mất tình yêu thật sự của đời mình để rồi…những gì xảy ra kế tiếp chỉ là: “Người xa xăm quá tôi buồn lắm, trong một ngày vui pháo nhuộm đường!…”

Chị đã gật đầu đại, lấy một người “Môn đăng hộ đối” theo sự thúc giục của gia đình, vì thời ấy, con gái 25 tuổi chưa chồng là đã “ế” lắm. Mấy chục năm bên cạnh chồng, chị chưa hề biết đến cảm giác bằng lòng, yêu đương và hạnh phúc bởi cái “tình yêu” trong chị đã “chết” theo mối tình đầu. Chị cứ sống vật vờ bên cạnh chồng, cảm nhận cái “ái ân” lạt lẽo của chính mình bố thí cho người ta. Và thật tội nghiệp chồng chị, dù ông có cố gắng thế nào thì chị cũng nhất quyết không mở lòng. Và thế là mấy chục năm làm vợ làm mẹ, chị chỉ đau đáu, khao khát một điều duy nhất, đó là “Tự do”!

Ly hôn là gì? Khái niệm Ly hôn?

Và chị đã quyết định ly hôn chồng khi 2 con đã lớn. Chị và chồng đã ôm nhau khóc trong ngày từ giã. Chị khóc xin lỗi anh, chị dù cảm động trước tấm lòng của người ấy bao năm qua đã kiên nhẫn, khổ nhục vì chị nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó, chị không yêu nên cuộc sống chung luôn là gượng gạo và đày ải bản thân mình. Còn anh, anh khóc vì bế tắc, anh thừa nhận mình đã thua cuộc, mấy chục năm qua anh đã cố níu giữ một trái tim chưa bao giờ là của mình. Anh đã hy vọng, hy vọng rồi tuyệt vọng, anh phải cay đắng thừa nhận: anh mãi mãi là người đến sau!

Và chị xem như đã “Nợ tình” anh! Mấy chục năm qua người chồng ấy đã sống bên cạnh chị như bên cạnh một cái xác không hồn. Anh không đáng để bị chị đối xử tàn nhẫn như thế, và chị khao khát phải bù đắp cho anh, phải trả món nợ tình đó bằng một thứ, là thứ chị đang có!

Và chị đã sang tên cho anh căn biệt thự bên bờ hồ, nó hoàn toàn là tài sản riêng của chị khó nhọc gầy dựng nên. Rồi có ai ở đời này giống như chị: chị gán gép, làm mai người bạn thân của mình cho anh, tổ chức đám cưới cho họ và xem như chị đã “hoàn tất” công việc trọng đại của đời mình: “gả vợ cho chồng”!

Vậy đấy, như tôi đã nói ở trên: nợ tiền nợ bạc thì có thể trả bất cứ lúc nào, thật dễ dàng và sòng phẳng để “xóa nợ” nhưng nợ tình thì chưa chắc. Nợ tình có thể khiến người ta đeo mang cả cuộc đời, làm khổ sầu lòng nhau và biết đâu món nợ đó sẽ đeo đuổi bạn không chỉ ở kiếp này mà còn mãi tận đến ngàn sau: vô lượng kiếp!

Và tôi, tôi cũng đang mắc nợ, là món “Nợ tình” hay nợ “Ân tình” mà sao lại làm nát tan tim người và cũng làm khổ lụy cả đời tôi!…

Bạch Cúc


 

Nụ Cười Đầu Tuần: CHUYỆN BẠN TÂY SANG VN

Thanh Lan-Những câu chuyện Nhân Văn

CHUYỆN BẠN TÂY SANG VN

Một sinh viên Việt Nam du học ở châu Âu dẫn bạn Tây về VN chơi. Đi bằng xe máy, đưa cho bạn Tây cái mũ bằng nhựa mỏng dính nói đội vào, bạn Tây nói :

– Tao có mũ vải rồi.

– Không được, cái này gọi là mũ bảo hiểm nghĩa là bảo vệ cái đầu , theo luật giao thông, nếu không đội mũ này mày sẽ bị phạt.

– Nhưng cái mũ này làm sao có tác dụng bảo vệ ?

– Mày đúng là Tây, tao có nói để bảo vệ đâu, chỉ để khỏi bị phạt thôi.

Đi một đoạn, thấy mấy tay công an đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, bạn Tây hỏi :

– Luật giao thông Việt Nam không áp dụng cho công an à ?

– Có áp dụng.

– Vậy sao họ không đội,họ không lo bị phạt sao ?

Cong an vi pham luat giao thong - YouTube

– Vì đó là công an, không đội cũng không bị phạt, vì công an không ai lại đi phạt công an.

Đi tiếp, thấy mấy thanh niên không đội mũ bảo hiểm đi ngang qua cảnh sát giao thông cũng không bị phạt, bạn Tây hỏi :

– Đó cũng là công an à ?

– Mày hỏi đểu à, đó là bọn trẻ trâu, nó không bị phạt vì nó nhuộm tóc vàng và khoe hình xăm ở cánh tay, nó sẵn sàng bỏ chạy khi bị thổi còi, lâu dần nó không cần bỏ chạy cũng không bị phạt.

Clip: "Quái xế” chở dàn "chân dài", lạng lách trên đường HN-Tin tức ...

– Tại sao tóc tao cũng vàng, tay tao cũng có hình xăm mà mày bắt tao đội mũ bảo hiểm ?

Bạn Việt Nam bí quá nói đại :

– Tại tóc mày chỉ có một màu vàng, bọn kia tóc nó nhuộm hai màu. Mắt mày lại xanh, mũi lõ nên không giống mấy đứa đó được.

Đến ngã tư, có đèn đỏ bạn Việt Nam vẫn đi tiếp, bạn Tây kinh ngạc hỏi :

– Mày không nhìn thấy đèn đỏ à ?

– Có.

– Vậy sao mày không dừng ?

– Mày không hiểu cái gì hết, cần phải xem xe container đằng sau nó có dừng không, nếu nó vẫn lao nhanh thì phải chạy tiếp không nó húc chết.

Kinh nghiệm lái xe gần xe công-ten-nơ, xe tải cỡ lớn

Bạn Tây ngoái lại thấy một xe container lù lù chạy đằng sau, mặt xanh lét, vừa sợ vừa khâm phục kiến thức giao thông của bạn Việt Nam. Đến ngã tư khác, gặp đèn xanh, bạn Việt Nam dừng lại không đi, bạn Tây hỏi:

– Sao đèn xanh mày lại dừng ?

– Tại phải chờ cho các nhân dân ở đường vuông góc với đường này nó vượt đèn đỏ xong đã rồi mới đi được, không nó húc chết.

Ô nhiễm không khí: Báo động nguồn phát thải từ xe máy - Xe điện Anbico

Vừa nói xong thì một nhân dân thiếu kinh nghiệm bị xe của làn vuông góc húc ngã vì liều lĩnh vượt đèn xanh. Bạn Tây lại càng khâm phục kiến thức giao thông của bạn Việt Nam.

Xe vượt đèn đỏ gây tai nạn bỏ chạy, bạn Tây gọi bạn Việt Nam đến hỗ trợ người bị nạn, đỡ người, vẫy xe ô tô để chở nạn nhân đi viện nhưng không ai hỗ trợ, cũng không ai cùng vào giúp, bạn Tây hỏi :

– Tại sao không ai cùng giúp nạn nhân như chúng ta ?

33 người chết vì tai nạn giao thông trong ngày mùng 1 tết 2014

– Tại người Việt Nam ai cũng bận.

– Người châu âu không bận sao ?

– Nhưng người Việt Nam bận hơn người châu âu, và cứu người cũng có thể gặp phiền phức, mà thôi không hỏi nữa, mày với tao chở nạn nhân vào viện bằng xe máy.

Đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Sáu giờ sáng hôm sau, đang ngủ, bị đánh thức bởi tiếng loa phường, bạn Tây hỏi:

– Tại sao loa không thông báo muộn hơn ?

CÓ CÒN AI TIN VÀO CÁI LOA PHƯỜNG KHÔNG? (Ông Tư Sài Gòn / Saigon Nhỏ ...

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

– Vậy phát thanh sớm thì có người nghe không ?

– Cũng không có.

– Vậy tại sao phải phát thanh sớm ?

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

Sáng hôm sau , hai bạn tổ chức nấu ăn. bạn Việt Nam nấu, nhờ bạn Tây đi…đổ rác :

– Mày ra cổng, rẽ trái, đi 40 mét gặp một cái biển ghi chữ “Cấm đổ rác” thì đổ ở đó.

Đổ rác nơi bảng cấm - Báo Khánh Hòa điện tử

– Lạy Chúa, sao lại đổ rác ở chỗ cấm đổ rác ?

– Vì đó là chỗ duy nhất có thể đổ rác, cả tổ dân phố này đều ngầm quy ước đó là chỗ đổ rác.

Nấu ăn một lúc, bạn Việt Nam phát hiện ra thiếu thực phẩm, nói bạn Tây trông nhà để đi chợ, thằng Tây nói :

– Mày ở nhà, để tao thử đi chợ, tao thử đi một mình xem sao, tao muốn trải nghiệm. Mà chợ chỗ nào ?

Nơi cấm họp chợ lại đông vui nhất !!! - Baoxehoi

– Mày đi ra cổng, rẽ phải 300 mét, thấy một cái biển ghi…

– Ghi “Cấm họp chợ” phải không ?

– Đúng, mày thành người Việt Nam mất rồi. Đó, chợ ở ngay sau cái biển đó.

Ăn xong, bạn Tây muốn đi ra trạm ATM rút tiền. Bạn Việt Nam nói :

Nguyên Nhân & Cách lấy khi Bị nuốt thẻ ATM Nhanh Chóng chỉ 5 Giây!

– Chắc mày chuẩn bị muốn đi đến vùng không có máy rút tiền hả.

– Đúng, hôm trước tao rút mấy lần, có lần thì bị “nuốt thẻ”, có lần thì phải chờ gần nửa giờ chờ xong thì máy…hết tiền, nên tao muốn rút nhiều một chút đỡ phải đi rút.

– Để tao gọi taxi đi !

– Tao muốn đi xe máy, tao bắt đầu thích xe máy.

– Vậy mày cầm cái túi không quai này, ngồi sau tao chở đi rút tiền.

– Cái túi để làm gì vậy ? Đựng tiền hả ?

– Không, cái túi này không có gì, mày cứ cầm ngồi sau, cầm lỏng thôi để cho cướp giật nó giật.

Truy bắt nhóm cướp giật làm người mẹ tử vong, con gái mang thai nhập ...

– Không có quai để khi nó giật thì không bị ngã xe phải không ?

– Mày đoán như thần vậy.

– Còn tiền rút xong để đâu ?

– Mày để trong túi áo, túi quần chứ còn để đâu.

Trên đường về thì thấy một thằng ô tô biển xanh vượt qua các xe khác với tốc độ khoảng trên 100km/h ở làn đường chỉ cho ô tô chạy không quá 70km/h. Bạn Tây hỏi :

– Nó là xe ưu tiên à ?

Xe biển xanh 'vô tư' chạy ngược chiều trước cổng bệnh viện đa khoa Đông ...

– Không, như xe biển trắng thôi.

– Nhưng sao nó phóng vậy mà không bị “bắn” tốc độ, hay lái xe biển xanh nhuộm tóc vàng và xăm hình ở cánh tay ?

– Không phải, lái xe không nhuộm tóc xăm hình. Đó là xe của cơ quan nhà nước, tay sếp của cơ quan đó kiểu gì cũng quen biết bên cảnh sát giao thông, không quen trực tiếp thì quen gián tiếp. Cảnh sát giao thông có bắt thì lại phải nghe điện thoại “giải mã” rồi cũng phải thả nên thà không bắt nữa cho khỏi mất thời gian.

Trên đường đi, thấy nhiều nơi ghi “Tất cả vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Bạn Tây hỏi:

"Tat Ca Vi Su Nghiep Dan Giau, Nuoc Manh, Xa Hoi Cong Bang… | Flickr

– Ghi vậy làm gì mày?

– Khi mày đang rất đói thì mày muốn bàn chuyện đi đâu ?

– Tất nhiên là đi ăn.

– Đó … thiếu cái gì thì nói nhiều về cái đó.

S.T.


Giải trí cuối tuần: Câu chuyện ở một bệnh viện nọ…

Bùi Quang Hiếu

Quá tải bệnh viện: Vào phòng chờ...bao giờ đến lượt?

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng:

– Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “.

Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối:

– Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”.

Một cậu con trai khác cau cau lông m … ày:

-Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ?Cô con dâu trưởng phán một câu:

-Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ.

Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn.

Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người (ông cụ đã mất hết cảm giác vệ sinh), nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ.

Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời.

Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ.

Phong tục đam ma của người khơ mú yên bái - YouTube

Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang…

Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình.

Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời:

-Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền.

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau…đột nhiên im bặt.

Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

FB To Hanh

Nguyễn Phương Nhu

Tô cháo huyết -Tiểu Tử  

Tiểu Tử      

Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.
Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon! Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng sành. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết. Ngon không chê được!

tochaohuyet4
Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với… tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng. Trong… “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa… bình đẳng nữa! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và… xả láng! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”… ngon lành! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời… sướng ở chỗ đó!).
Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là… “chị xẩm” với tiếng “chị” rất… thời trang từ ngữ!
Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
– Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.
– Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
– Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
– Ủa! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy?
– Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
– Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả?
– Đâu có! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
– Cha… Xa quá há! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
– Rồi cũng quen hà. Ủa? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi?
– Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
– Rồi mấy đứa con thím đâu? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa…
– Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
– Sao thím không đi?
– Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ. Đi đâu? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu? Còn thầy? Sao thầy không đi?
– Tôi kẹt!
Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi… trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết?
Để tránh… thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngã cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn (vì đi ngang chợ) và mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến (Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à?). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi tuốt. Thật là… thích thú. Tôi phục… tôi quá chừng!
Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi… nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi… bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết!
Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đâm đâm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ:
– Thầy Hai! Thầy Hai à! Trời ơi sao đâu mất vậy? Vô ăn cháo đi!
Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho… lấy có:
– Thím mạnh hả?
Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
– Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà…
– Tôi không có tiền! (Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu!).
– Không có sao! Vô ăn đi! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà… Thầy Hai!
Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ! Như… cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.
Tiếng bà xẩm vang lên:
– Thầy Hai đừng ngại mà… Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao!
Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
– Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy?
Nó trả lời… gọn ơ:
– Tôi mắc về dưới tỉnh.
– Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả?
– Dạ, mạnh.
Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
– Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo!
Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít từng hơi mùi thơm mời mọc.
Giọng bà xẩm ôn tồn:
– Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.
Ngừng một chút rồi tiếp:
– Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà… Phải thông cảm với nhau chớ! Thầy Hai hiểu tôi không?
Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ…”, rồi nín thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn… Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết!
Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
– Không! Không! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím!
– Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà! Không tính tiền!


Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà! Ăn đi!”. Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt… Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao…

tieutu_sign

Nguồn: Tu-Phung

HAI XU MUỐI-Truyện ngắn

TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM

Lê Vũ  

HAI XU MUỐI

Xưa có một cô gái mồ côi cha mẹ, không ai nuôi. Cô phải đi ăn xin ngoài chợ. Tối lấy chiếu quấn nằm ngủ. Một hôm nghe nói Rằm Tháng Bảy cúng dường Tam Bảo có phước lắm, cô tự nghĩ làm sao mình tạo phước để khỏi nghèo khổ nữa.

Hôm đó xin được có hai xu, cô muốn cúng cái gì mà chư Tăng trong chùa đều hưởng được hết. Nghĩ vậy cô mua hai xu muối, đem vô chùa năn nỉ vị nấu cơm: “Con xin được có hai xu để mua muối, xin được cúng hết chư Tăng trong chùa, mong người giúp cho”.

Vị ấy liền bỏ nắm muối của cô vào nồi canh to, thế là chư Tăng đều được hưởng đầy đủ. Bẵng đi một thời gian dài, cô cũng không còn nhớ chuyện cúng muối nữa.

Lần lần lớn khôn, cô càng xinh đẹp lạ thường. Khi đó trong triều đình nhà Vua muốn chọn người làm vợ Thái Tử nhưng thấy mỹ nhân nào Thái Tử cũng từ chối. Vua ra lệnh cho các quan tìm người nào Thái Tử vừa ý sẽ được trọng thưởng.

Bấy giờ một ông quan đi ngang vùng đó, thấy trên trời có vầng mây đỏ, ông nghĩ nơi đây chắc có dị nhân phước lớn.

Giờ trưa, trên đường trở về, ông thấy cô bé khoảng 16 tuổi đang trùm chiếu ngủ. Ông đến gần nhìn, bất chợt cô bé thức dậy tốc chiếu ra. Thấy người con gái đẹp đẽ lạ thường lại sống đầu đường xó chợ như vậy, ông tội nghiệp đem về nuôi. Cô được cho ăn mặc dạy dỗ đàng hoàng, tới năm cô 18 tuổi ông dẫn đến trình nhà Vua.

Vua gọi Thái Tử lại, vừa thấy cô bé Thái Tử đẹp lòng ngay. Cô được Đông Cung Thái Tử cưới làm vợ.

Khi Vua băng hà, Thái Tử lên ngôi vua và cô bé trở thành Hoàng Hậu.

Khi làm Hoàng Hậu cô cứ nghĩ, không biết mình đã làm gì mà được phước thế này. Chừng ấy mới nhớ chắc do việc cúng muối năm xưa mà ra.

Một hôm, Hoàng Hậu sắm đủ thứ vật dụng sang trọng truyền chở vô ngôi chùa ngày xưa.

Nhưng lúc trước chỉ với hai xu muối của cô bé ăn xin, mà thầy trụ trì nói bữa nay có đại thí chủ đến cúng dường, bảo chư Tăng đánh chiêng trống đón.

Bây giờ Hoàng Hậu đem nhiều tài vật đến nhưng thầy trụ trì không đánh chuông trống đón.

Lấy làm lạ, Hoàng Hậu gặp thầy trụ trì hỏi

“Thưa Thầy, ngày xưa con là đứa ăn mày, chỉ cúng dường có hai xu muối mà nghe chuông trống đánh rình rang.

Ngày nay, con là Hoàng Hậu cúng cả xe trân bảo mà không nghe chuông trống gì hết?”.

Thầy đáp:

“Ngày xưa hai đồng xu rất quý vì đó là mạng sống của con. Muốn cúng chùa con phải nhịn đói, nên hai xu ấy lớn vô cùng.

Ngày nay con là Hoàng Hậu, của cải đầy xe nhưng đó là của dân chớ đâu phải của con. Lấy của người làm phước cho mình thì đâu có gì quan trọng.”

FB Võ Hữu Nhậm

VuLe Bt ( Bài & Ảnh)

CON RUỒI-Truyện ngắn

Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu. Vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình

Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi. Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó!

Tôi ốm.

Điều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa. Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi. Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, “đẹp” kinh khủng!

Thế là mọi chuyện bắt đầu.

Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tối đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không thì cứ gọi là thức trắng đêm.

Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi. Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn.

Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi:

– Sao vậy anh?

Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn:

– Có người chết trôi kia kìa!

Vợ tôi cầm ly sữa lên:

– Chết rồi! Ở đâu vậy cà?

– Còn ở đâu ra nữa! – Tôi nhấm nhẳng – Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à!

Vợ tôi nhăn mặt:

– Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào!

– Hừ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết!

Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi:

– Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác.

Tôi vẫn chưa nguôi giận:

– Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi!

Vợ tôi trố mắt:

– Nó còn trong ly kia mà!

– Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi.

– Anh thấy sao anh còn uống?

– Ai mà thấy!

– Không thấy sao anh biết có hai con?

Tôi tặc lưỡi:

– Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền.

Vợ tôi bán tính bán nghi. Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm:

– Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Để em…

Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy. Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang:

– Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy?

Vợ tôi giật mình:

– Anh bảo sao? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời?

– Chứ không phải sao?

– Không phải!

À, lại còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt:

– Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh?

– Thì có làm phải có sai sót chứ? Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em!

– Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả? Cô nói với người ốm như thế hả?

Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà…

Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang:

– Em đâu có nói vậy!

– Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay? Cô trả lời xem!

Vợ tôi nhún vai:

– Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy! Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy cửa ra mới lấy được đồ đạc?

Tôi khoát tay:

– Nhưng đó là những chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy triệu cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra?

– Chứ còn anh, sao anh không kể chuyện anh đi coi đá gà bị mất xe? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị giật mất điện thoại?

Cứ như thế, như có ma xui quỉ khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm tầng tầng lớp lớp của nhau. Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt tv đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya v.v…, chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng.

Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật không thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi:

– Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa! Tôi ngán đến tận cổ rồi!

Vợ tôi lạnh lùng:

– Tùy anh!

Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa. Tôi nghiến răng:

– Được rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ!

Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoàng trên giấy với tốc độ 100km/giờ.

Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì.

Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài. Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được!

Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa.

– Cô định làm gì đấy?

– Đem đổ đi chứ làm gì!

– Không được! Để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ!

Đặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Trong khi đó, tôi hì hục lấy muỗng vớt con ruồi ra.

Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ. Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu lá trà.

From: TU-PHUNG

NHỮNG NGƯỜI LÍNH-Truyện ngắn

Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ, tôi cũng cần chợp mắt một chút. Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần nhất:

– Các cậu đi tới đâu vậy?
– Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.

Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
– Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$. Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.
Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.

Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:
– Xin bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.
Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:
– Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy. Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu.
Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
– Thưa ông dùng gì ạ? Bò, gà rất hảo hạng.
– Xin cho tôi gà
Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB thôi mà.
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:
– Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với ông .

Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:
– Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
– Tôi muốn được bắt tay ông
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:
– Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.

Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.

Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ.

Đúng là khi ta làm việc phải thì không bao giờ lỗ lã cả.
Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:
– Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.

Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.

Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một.

Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.
Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.

Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.

Riêng tôi thì đã làm xong.

From: TU-PHUNG

Hai Bờ Đại Dương (truyện ngắn)

Hai Bờ Đại Dương (truyện ngắn)

Tuấn lái xe chạy dọc đường Bolsa, qua khỏi ngã tư đường Euclid, quẹo trái vô bãi đậu xe, ngừng lại trước tiệm hoa. Tuấn bước vô tiệm, chọn mua một bó hoa và một cái vòng đeo cổ kết bằng hoa lan. Vòng hoa này, người Mỹ gọi là lei, thường được dùng để tặng cho những sinh viên để mang trên cổ trong ngày ra trường. Mua hoa xong Tuấn lái xe lên đường cao tốc 57 đi về hướng Pomona, nơi có ngôi trường đại học bách khoa California State University Pomona. Hôm nay là ngày lễ tốt nghiệp của Vũ, con trai của Tuấn.

Trời California hôm nay nắng ấm, đã bước sang mùa hè, bầu trời trong xanh không một gợn mây. Đoạn đường cao tốc này, Tuấn đã đi nhiều lần, nhưng hôm nay cảnh vật có vẻ vui tươi, có lẽ vì trong lòng Tuấn đang vui. Mười lăm năm kể từ ngày đặt chân đến Mỹ, hôm nay có lẽ là ngày vui nhất của Tuấn, vì con trai tốt nghiệp đại học. Tuấn nghĩ thầm trong lòng: hôm nay chắc Ngọc sẽ rất vui khi thấy đứa con trai yêu dấu của mình đã thành đạt.

Tuấn và Ngọc gặp nhau trong khói lửa chiến tranh. Ngày ấy Tuấn là một sĩ quan thiếu úy vừa tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, được sung vào Sư đoàn 3 Bộ binh, đóng ở căn cứ Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị vào đầu năm 1972. Quảng Trị là tỉnh thuộc địa đầu giới tuyến của cuộc chiến hai miền Nam-Bắc. Phía bắc Quảng Trị là sông Bến Hải, nơi phân chia hai miền. Mặc dù ở địa đầu giới tuyến nhưng tình hình Quảng Trị lúc đó yên tĩnh. Theo tinh thần của Hiệp định Geneve được ký kết năm 1954 thì vùng giới tuyến là vùng phi quân sự, hai bên cam kết sẽ không có những hoạt động quân sự gần vùng này. Vì vậy mà các đơn vị đóng ở đây được coi là an nhàn.

Những lần rảnh rỗi, Tuấn thường qua khu vực gần thành cổ Quàng Trị (còn gọi là thành Đinh Công Tráng) bên kia sông Thạch Hãn, nơi có phố phường đông đúc, để ăn uống, dạo chơi, và nhất là ngắm các cô nữ sinh giờ tan trường. Một lần, đang ngồi uống cafe tại một quán nhỏ bên lề đường, Tuấn nhìn thấy một cô nữ sinh mặc áo dài trắng cắp cặp đi thong thả. Cô này có mái tóc đen nhánh chảy xuống bờ vai, cặp mắt long lanh, môi xinh như cánh hoa hống, dáng người thon thả, thướt tha trong tà áo dài trắng. Vừa nhìn thấy, Tuấn đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của cô gái. Từ hôm đó, mỗi khi có dịp, Tuấn lại ra quán ngồi đúng giờ tan trường để được ngắm người đẹp.

Tuấn cố suy nghĩ cách nào để làm quen với người đẹp, nhưng nghĩ hoài không ra. Mặc dù là quân nhân, nhưng đằng sau bộ quân phục Tuấn vẫn là một chàng thanh niên nhút nhát trước phụ nữ. Rồi một lần, một sự việc xảy ra như cơ duyên đưa đẩy.

Hôm đó ngồi ờ quán như thường lệ, Tuấn thấy bóng dáng cô nữ sinh từ xa, nhưng lần này lại có hai thanh niên lái xe gắn máy đi kè kè sát lề. Hai thanh niên này để tóc dài, mặc quần ống loe theo mốt hippy, có vẻ con nhà giàu, đang kè theo cô gái để tán tỉnh. Cô gái cỏ vẻ hơi khó chịu, nhưng vẫn cố giữ vẻ mặt bình thản, mắt nhìn thẳng và tiếp tục đi. Khi đi ngang chỗ Tuấn ngồi, chàng bất chợt đứng dậy, bước ra mé đường và nói với hai thanh niên kia: “Hai chú làm ơn để yên cho cô em của tôi được không?” Nhìn thấy Tuấn trong bộ quân phục sĩ quan, hai thanh niên kia hết hồn, rồ máy đi thẳng. Cô gái đứng lại, tần ngẩn nhìn Tuấn, cúi đầu nói lí nhí: “Dạ em cảm ơn anh.”

Tuấn gật đầu, rồi cũng không biết nói gì. Cô gái cúi đầu chào rồi đi tiếp. Tuấn đứng bâng khuâng nhìn theo cho đến khi cô gái đi khuất rồi cũng rời quán. Tự nhiên Tuấn thấy giận mình sao quá ngu ngơ, lẽ ra nên nhân cơ hội này hỏi thăm vài câu làm quen, hay ít nhất cũng hỏi tên cô gái.

Từ sau lần đó, mỗi lần đi ngang quán nhìn thấy Tuấn, cô gái hơi mĩm cười và khẽ cúi đầu chào. Tuấn cũng gật đầu đáp trả, cố làm ra vẻ bình thản, dù trong lồng ngực con tim đang đập rộn ràng reo vui. Nhưng sự việc có vẻ như chỉ giới hạn ở mức đó. Tuấn cố moi óc tìm cách nào để tiến xa hơn nữa. Cứ mỗi lần thấy cô gái từ xa, trong lòng Tuấn lại thôi thúc: “Đứng dậy đi. Đứng dậy bước ra hỏi thăm nàng vài câu đi!” Nhưng rồi cũng chỉ một nụ cười và một cái gật đầu, rồi bóng nàng lại xa khuất.

Một lần đi ngang, nàng chợt làm rớt cây viết máy mà không biết, cứ tiếp tục đi. Tuấn vội đứng dậy, lượm cây viết, rảo bước theo và nói: “Em ơi, em làm rớt cây viết.” Cô gái đứng lại, nhận cây viết từ Tuấn, mĩm miệng cười duyên dáng: “Dạ em cảm ơn anh.”

Một thoáng giây im lặng, cô gái dường như có ý chờ đợi. Tuấn thu hết can đảm, hỏi: “Em học trường nào?” Tuấn chợt thấy câu hỏi của mình hơi thừa vì trên ngực áo nàng có mang huy hiệu trường. Nhưng nàng dường như không quan tâm tới cái sự thừa thãi đó, vẫn trả lời: “Dạ em học trường Trung Học Nguyễn Hoàng.” Trường Trung Học Nguyễn Hoàng là một trong những ngôi trường khang trang nhất Quảng Trị lúc đó.

“Em học lớp mấy?” Tuấn hỏi tiếp.

“Dạ lớp mười hai.”

Cô gái nhìn cái lon thiếu úy có bông mai vàng trên cổ áo Tuấn, hỏi: “Anh ở đơn vị mô?”

“À anh thuộc Sư đoàn 3, đóng ở căn cứ Ái Tử.”

Đến đây thì Tuấn không biết hỏi gì hơn. Cái tính nhút nhát trước phụ nữ của Tuấn vẫn không thay đổi. Cô gái lại cúi chào rồi quay đi. Tuấn nhìn theo và sực nhớ là mình quên chưa hỏi tên cô gái. Còn cô thì không cần hỏi chắc cũng biết được tên Tuấn vì trên ngực áo quân nhân ai cũng có in tên.

Những lần sau đó, Tuấn đã bắt đầu dạn dĩ hơn. Mỗi khi nàng đi ngang, Tuấn đứng dậy đi theo nàng một quãng. Tuấn biết được tên nàng là Ngọc. Ngọc có ba đứa em. Ba mẹ Ngọc không giàu nhưng đủ sức nuôi các con ăn học. Ngoài giờ học Ngọc còn phụ giúp mẹ buôn bán. Biết được địa chỉ nhà Ngọc, Tuấn định bụng hôm nào sẽ đến thăm. Nhưng Tuấn chưa thực hiện được ý định đó thì một biến cố xảy ra, như một trận cuồng phong nổi lên làm đảo lộn mọi thứ.

Tuấn bật đèn báo hiệu, đổi qua làn đường bên phải, rồi thoát khỏi cao tốc. Đến đường Temple, Tuấn quẹo trái, đi một quãng nữa là tới trường. Trường nằm cạnh một trang trại nuôi ngựa của dòng họ Kellogg. Dòng họ này nổi tiếng với công ty Kellogg’s chuyên sản xuất các thức ăn chế biến từ ngũ cốc. Con đường dẫn vô trường đi ngang qua một cánh đồng rộng có những con ngựa được thả chạy rông, giống ngựa cao lớn, chân thon dài dùng để chạy đua. Ngoài ngựa, trang trại còn nuôi một số gia súc, trồng hoa và một số cây ăn trái. Sinh viên học ngành nông nghiệp của trường dùng trang trại này làm nơi thực tập.

Đến bãi đậu xe của trường, Tuấn theo bảng chỉ dẫn tìm chỗ đậu gần lối đi vào nơi cử hành lễ rồi xuống xe đi bộ. Trường rất rộng, diện tích hơn 5 cây số vuông, nếu không có bảng chỉ dẫn thỉ có thể đi lạc, mất nhiều thì giờ tìm nơi mình muốn tới. Trong trường rộn rịp sinh viên mặc áo choàng thụng, đầu đội mũ chóp vuông có gắn tua. Thân nhân, bạn bè của sinh viên cũng tới dự lễ rất đông, trên tay nhiều người cầm hoa và bong bóng. Đi qua khỏi thư viện trường là tới một cái sân cỏ rộng, có dựng khán đài. Tuấn đưa mắt tìm kiếm. Vũ đã tới trường từ sớm. Thật khó mà tìm được người thân trong cái sân rộng mênh mông có hàng ngàn người đi lại. Tuấn đành nghĩ thầm, thôi để tới lúc các sinh viên xếp hàng tiến vào nơi hành lễ thì mình sẽ đứng một chỗ canh tìm.

Trưa ngày 30-3-1972, đạn pháo kích của quân Cộng Sản dội như mưa vào Quảng Trị, mở màn cho một chiến dịch quân sự đẫm máu kéo dài sáu tháng mà Cộng Sản gọi là “Chiến dịch Xuân-Hè 1972”, quân sử Việt Nam Cộng Hòa sau này gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Căn cứ Ái Tử là một trong những nơi đầu tiên hứng đạn pháo kích nặng nề. Các đơn vị đóng khắp Quảng Trị cũng lần lượt hứng đạn pháo kích và sau đó là những đợt tấn công liên tiếp bằng biển người. Dân chúng khắp nơi chạy loạn, gồng gánh kéo nhau vào thị xã Quảng Trị, nương nhờ sự che chở của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi khi có chiến sự xảy ra thì dân chúng luôn chạy tìm nơi có quân Cộng Hòa đóng để được che chở hoặc giúp phương tiện di tản.

Cuộc tấn công ở Quảng Trị là một đòn bất ngờ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hiệp định Geneve quy định rằng khu vực hai bên sông Bến Hải, lằn ranh phân chia hai miền Nam-Bắc, là vùng phi quân sự. Hai bên cam kết không tiến hành bất cứ hoạt động quân sự nào trong vòng 5 km ở mỗi bên. Phía Việt Nam Cộng Hòa luôn giữ cam kết này, vì vậy mà Sư đoàn 3 bộ binh đóng ở đây đa số là các binh sĩ ít có kinh nghiệm chiến đấu. Phía Cộng Sản thì ký kết là một chuyện, giữ lời là một chuyện hoàn toàn khác. Hơn 40 ngàn quân Cộng Sản đã vượt sông Bến Hải tấn công Quảng Trị trong những ngày đầu tiên của chiến dịch. Ngoài ra, quân Cộng Sản còn tấn công ở Kontum và Bình Long, cũng ác liệt không kém.

Tuấn cùng đồng đội của mình chiến đấu cố thủ tại căn cứ Ái Tử gần một tháng, sau đó đơn vị của Tuấn rút vào Thành cổ Ðinh Công Tráng bên kia sông Thạch Hãn. Nhân dịp này Tuấn vội vã tìm tới nhà Ngọc. Đây là lần đầu tiên Tuấn gặp ba mẹ và các em của Ngọc. Trong cơn dầu sôi lửa bỏng, sự xuất hiện của Tuấn như một ngọn nến thắp lên trong đêm đen, đem lại niềm hy vọng cho gia đình Ngọc. Trong con mắt Ngọc, Tuấn giờ là một người hùng. Còn Tuấn, suốt gần một tháng đứng dưới chiến hào chịu trận mưa bom đạn, đầu óc quay cuồng giữa sự sống và sự chết, nay nhìn thấy bóng dáng yêu kiều của Ngọc, chàng bỗng nhận ra rằng cuộc chiến đấu của mình không vô nghĩa. Chàng đang liều chết để bảo vệ cho tình yêu của mình.

Gia đình Ngọc muốn di tản về Huế nhưng chưa có phương tiện. Ngay hôm đó Tuấn liền liên lạc với các đồng đội, nhờ họ thu xếp cho gia đình Ngọc được đi chung xe với các gia đình khác. Hôm sau, gia đình Ngọc rời Quảng Trị. Trước khi đi Ngọc trao cho Tuấn một mảnh giấy ghi địa chỉ người thân ở Huế.

Ngày 1 tháng 5, chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3, tuyên bố rút quân khỏi Quảng Trị. Khi nghe tin này, dân chúng đã ùn ùn chạy theo đoàn quân rút lui trên quốc lộ 1 về hướng Mỹ Chánh, tạo ra cảnh hỗn loạn, dân chúng đi lẫn với quân đội, gây khó khăn trong việc rút quân. Trong cơn hoảng loạn, một tai ương khác lại ập đến: pháo kích của Cộng quân đổ chụp lên đoàn người đang rút chạy. Cả lính và dân đều hứng đạn, chết la liệt. Những chiếc xe quân xa và xe chở thường dân bị trúng đạn bốc cháy, xác người chết và bị thương nằm rên la suốt một đoạn đường dài 10 cây số từ phía nam Quàng trị đến cầu Mỹ Chánh. Cộng Sản biết thừa có nhiều dân chúng đi lẫn với binh lính, nhưng họ không quan tâm. Đối với Cộng Sản, mạng người dân không đáng kể, chỉ có chiến thắng mới quan trọng. Trong số những cảnh thương tâm, hình ảnh gây xúc động nhất cho Tuấn là cảnh một em bé nằm trên xác người mẹ đã chết cố nút vú mẹ. Một người lính đã bế em bé lên và tiếp tục đi về phía Nam. Đoạn đường này về sau phóng viên Ngy Thanh của báo Sóng Thần khi làm phóng sự đã gọi là “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Thành ngữ này đã ghi đậm vào ký ức của người dân miền Nam lúc đó.

Qua khỏi cầu Mỹ Chánh, tình hình an toàn hơn vì có một lữ đoàn Thủy quân Lục chiến trấn giữ nơi đây. Tuấn đi thẳng về Huế, tìm tới địa chỉ mà Ngọc đã đưa. Người nhà cho biết không có tin tức gì của gia đình Ngọc, không biết họ đang ở đâu. Trong lòng Tuấn dấy nên một nỗi lo sợ, không biết gia đình Ngọc có bị trúng đạn pháo kích trên đường chạy loạn không. Biết đâu trong số xác những người nằm trên Quốc lộ 1 có gia đình của Ngọc? Lòng Tuấn rối bời, không biết phải làm sao.

“Ba tới lâu chưa?” Tiếng của Lan làm Tuấn giật mình. Quay lại nhìn Lan, tuấn đáp: “Ba mới vừa tới, anh Vũ đâu con?” Lan đáp: “Dạ ảnh đang đứng ở gần chỗ Student Union, để con dẫn ba tới.” Tuấn đưa bó hoa cho Lan cầm, “Con giữ đi, chút nữa cuối lễ đưa cho anh.” Sáng này Lan đã đi cùng anh tới trường trước. Lan vừa học hết năm thứ hai tại trường đại học UC Irvine. Lan học ngành Biology (Sinh học). Ước muốn của Lan là sau khi tốt nghiệp cử nhân sẽ nộp đơn vào ngành y. Còn Vũ thì tốt nghiệp ngành Computer Science (Khoa Học Vi Tính).

Tuấn đi theo Lan về phía tòa nhà có hàng chữ “Student Union”. Tòa nhà này dành cho các sinh hoạt của sinh viên ngoài giờ học. Trong đó có  cafeteria bán thức ăn (giống như căn-tin ở Việt Nam), có phòng hội họp, hội trường, phòng chơi game. Hôm nay không phải ngày học nên tòa nhà đóng cửa. Vũ và một số bạn bè mặc áo thụng, đội nón chóp vuông đang đứng trên bậc tam cấp chụp hình. Tuấn bước tới, choàng vòng hoa vào cổ Vũ. Vũ ôm Tuấn, nói: “Cám ơn ba.” Tuấn vỗ vai Vũ: “Bữa nay chắc mẹ vui lắm.” Vũ nhìn Tuấn, chưa kịp nói gì thì tiếng loa vang lên, yêu cầu các sinh viên đến địa điểm tập trung để chuẩn bị tiến về khán đài. Vũ vội chào ba rồi đi theo đám bạn.

Tuấn và Lan đi tìm chỗ ngồi. Trên sân cỏ đã sắp sẵn hàng ngàn chiếc ghế, chia ra thành nhiều khu vực. Khu vực gần khán đài dành riêng cho các khách mời, giáo sư và sinh viên. Thân nhân và bạn hữu thì ngồi xa hơn phía sau. Tuấn và Lan may mắn tìm được chỗ ngồi gần lối sinh viên sẽ đi qua. Tuấn định bụng sẽ chụp mấy tấm hình lúc Vũ đi ngang. Số người đi dự quá đông nên nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng đàng sau. Tiếng loa vang vang, tuyên bố buổi lễ bắt đầu, một điệu nhạc vui tươi nổi lên. Đoàn người bắt đầu tiến về phía khán đài. Đi đầu là ban giám hiệu, đến các giáo sư, rồi đến các sinh viên. Đoàn người đông đến gần cả ngàn. Trường có vài chục ngàn học sinh theo học. Mỗi năm số sinh viên ra trường đến vài ngàn, vì vậy mà lễ tốt nghiệp của mỗi ngành phải chia ra nhiều giờ và ngày khác nhau.

Tuấn ở Huế được mấy ngày thì nghe tin trung tướng Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Đoàn I thay thế tướng Hoàng Xuân Lãm. Quân Đoàn I có nhiệm vụ trấn giữ Vùng 1 chiến thuật, bao gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quãng Ngãi. Điều đó có nghĩa là tướng Trưởng sẽ là người có trách nhiệm điều quân đánh chiếm lại Quảng Trị.

Lệnh ban ra: tất cả binh sĩ đang ở Huế phải lập tức trình diện để được tái phối trí. Sư đoàn 3 của Tuấn là đơn vị trực thuộc Quân đoàn I, nhưng vì binh sĩ đã bị phân tán nên phải rút về Đà Nẵng để tổ chức lại. Tuấn không đi theo sư đoàn mà ở lại Huế trình diện và được bổ sung vào một đơn vị tại chỗ, chuẩn bị tham gia vào cuộc chiến tái chiếm lại Quảng Trị.

Ngày 28 tháng 6, 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu cuộc Hành Quân Lam Sơn 72 tái chiếm lại Quảng Trị với các đơn vị chủ lực của Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Kích Dù. Quân Cộng Sản cũng quyết tâm giữ Quảng Trị nên đã điều động nhiều sư đoàn bộ đội vượt sông Bến Hải sang tăng viện. Cuộc chiến ác liệt kéo dài 81 ngày đêm. Đến ngày 16 tháng 9, quân Cộng Hòa chiếm lại được cổ thành Quảng Trị. Kể từ trận chiến Tết Mậu Thân 1968 đến nay, đây là trận chiến ác liệt nhất, với con số thương vong mỗi bên hàng chục ngàn binh sĩ, chưa tính tới thường dân. Tuy chiếm lại được cổ thành Quảng Trị, nhưng vùng đất bên kia sông Thạch Hãn trở ra sông Bến Hải vẫn do phe Cộng Sản chiếm giữ.

Còn về phần tướng Vũ Văn Giai, ông ta bị cách chức Tư lệnh Sư đoàn 3 và bị đưa ra tòa án binh vì tội để mất Quảng Trị. Lẽ ra nếu tướng Giai cố gắng tổ chức phòng thủ cổ thành Quảng Trị thì có thể giữ được, nhưng ông ta đã vội vàng cho lệnh rút quân, dù có lệnh của Quân Đoàn I là phải cố thủ Quảng Trị. Khi tuyên bố rút khỏi Quảng Trị, ông ta đã hứa với thuộc cấp là sẽ cùng anh em binh sĩ đi đường bộ, nhưng rốt cuộc ông ta cùng bộ tư lệnh sư đoàn lên trực thăng bay thẳng về Đà Nẵng, khiến đoàn quân rút lui như rắn mắt đầu, hứng chịu thảm cảnh trên Quốc Lộ 1. Tướng Giai bị lãnh án 5 năm tù.

Giữa lúc này, có tin đồn Hoa Kỳ sắp rút hết quân khỏi Việt Nam. Người Mỹ đã mệt mỏi vì cuộc chiến. Dân Mỹ đã chán ngán chiến tranh và không muốn con em của mình phải chết trên một đất nước xa lạ. Kể từ năm 1970, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút bớt quân khỏi Việt Nam. Cho đến cuối năm 1972, số lính Mỹ chỉ còn lại khoảng gần 30 ngàn người. Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn, Hoa Kỳ chỉ yểm trợ pháo binh và không quân, các cuộc chiến trực tiếp trên bộ đều do các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đảm trách. Lý do người Mỹ chưa thể rút hết quân khỏi Việt Nam là vì còn mấy trăm tù binh Mỹ đang bị giam giữ ở miền Bắc. Những người này là các phi công lái máy bay ném bom bị bắn rơi. Người Mỹ muốn ký một thỏa hiệp với Cộng Sản miền Bắc để họ trao trả tù binh, đổi lại Mỹ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam.

Chiến dịch chấm dứt, Tuấn trở lại Huế thì được người nhà của Ngọc cho hay gia đình Ngọc đã đi thắng đến Đà Nẵng trong cuộc di tản. Tuấn vội vàng xin cấp trên cho trở về Sư đoàn 3 đang đóng ở Đà Nẵng. Cấp trên đồng ý, vậy là Tuấn đi ngay tới Đà Nẵng. Tuy biết là gia đình Ngọc về được Đà Nẵng, nhưng Tuấn không biết có ai nằm lại trên đường không, vì vậy mà trên đường đi Tuấn luôn thấy bồn chồn lo lắng.

Lần theo địa chỉ, Tuấn tới trước một căn nhà trong hẻm, bấm chuông. Trong nhà thấp thoáng một người con gái đi ra, dáng dấp quen thuộc. Trong lòng Tuấn hồi hộp. Cửa mở, Ngọc xuất hiện, nhìn Tuấn ngỡ ngàng. Vẫn dáng dấp yêu kiều ấy, vẫn mái tóc dài tha thướt, nhưng Ngọc gầy và trông mệt mỏi. Nàng như cánh hoa đang bị cơn gió lốc chiến tranh cuốn đi. Tuấn thấy lòng dâng lên một niềm thương yêu không bờ bến. Chàng muốn ôm ghì nàng vào lòng, nhưng không dám. Tuấn thu hết can đảm, nắm lấy tay Ngọc. Bàn tay thon nhỏ, ấm mềm của Ngọc nằm gọn trong lòng bàn tay sắt thép của người lính trận vừa trở về từ vùng máu lửa. Bốn mắt nhìn nhau, chan chứa ân tình. Khóe mắt của Ngọc long lanh giọt lệ.

Trước khi chiến sự xảy ra, Ngọc chỉ còn mấy tháng nữa là hoàn tất trung học, nhưng đành phải bỏ dở. Thời chiến tranh, học đến lớp 12 đã là một cố gắng vượt bực rồi, nay còn phải phụ giúp gia đình ổn định lại cuộc sống và giúp các em đi học trở lại, Ngọc đành thôi học. Mấy tháng sau, vào đầu năm 1973, Tuấn và Ngọc thành hôn. Ba má Tuấn từ Sài Gòn đáp máy bay của hãng hàng không Air Vietnam ra Đà Nẵng dự đám cưới.

Lúc này một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra: Hiệp Định Hòa Bình Paris (Paris Peace Accords). Theo hiệp định này thì Hoa Kỳ đồng ý rút hết quân khỏi Việt Nam, đổi lại, phía Cộng Sản trao trả hết tù binh Hoa Kỳ và cam kết không dùng vũ lực để tấn công miền Nam. Tháng Ba năm đó, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Tuy gọi là hiệp định hòa bình, nhưng nó không đem lại hòa bình như tên gọi. Phía Cộng Sản không bao giờ ngừng tấn công, cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Với việc rút quân của người Mỹ, cuộc chiến giờ đây chính thức là cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc.

Hè năm 1974, con trai đầu lòng là Vũ ra đời. Thời gian này cuộc sống của hai vợ chồng Tuấn tạm thời bình yên. Ngoài những chuyến công vụ, Tuấn không phải rời xa Ngọc.

Cho tới đầu năm 1975, một cơn bão thời cuộc lại nổi lên, và lẩn này nó đảo lộn tất cả.

Tuấn và Lan dõi mắt nhìn đoàn người đi qua, cố tìm Vũ. Khi thấy Vũ trong đoàn người, Tuấn đưa máy ảnh lên, bấm liên tiếp mấy cái. Vũ nhìn thấy ba và em, tươi cười vẫy tay. Đoàn người lần lượt đến các dãy ghế, ngồi theo thứ tự được sắp đặt trước. Sau khi tất cả đã ngồi vào ghế, các nghi thức bắt đầu. Đầu tiên là một nhóm các em Boy Scouts (Hướng Đạo Sinh) rước lá cờ Hoa Kỳ lên khán đài. Sau khi cắm cây cờ vào giá, lễ chào quốc kỳ và hát quốc ca bắt đầu. Không giống như nhiều nước khác, quốc ca Hoa Kỳ chỉ do một người hát. Ai muốn thì cứ hát theo, nhưng chỉ có một người cầm microphone hát đơn ca là chính.

Sau nghi thức chào cờ là phần phát biểu của thầy hiệu trưởng, một vài giáo chức và khách mời danh dự. Các bài diễn văn thường rất ngắn, chỉ chừng 3-5 phút. Người Mỹ rất thực tế, họ biết thừa rằng ít ai muốn nghe những bài diễn văn dài lê thê. Diễn văn càng dài thì khán giả càng ít muốn nghe, vì vậy ai cũng phát biểu ngắn gọn. Tiếp đó là phần phát biểu của sinh viên thủ khoa và một vài sinh viên có thành tích hoạt động nổi bật. Rồi đến phần phát bằng ban khen cho một số giáo sư và sinh viên. Cuối cùng là phần xướng danh các sinh viên và từng người sẽ lần được bước lên khán đài để được bắt tay, chụp hình và trao một tấm giấy tượng trưng cho bằng tốt nghiệp. Đây là phần chính của buổi lễ, là giây phút mong đợi của tất cả các sinh viên.

Đầu tháng 3, 1975, quân Cộng Sản mở chiến dịch tấn công Tây Nguyên và Huế-Đà Nẵng. Chiến cuộc lần này cũng quy mô và ác liệt không kém cuộc chiến năm 1972. Ngọc và gia đình lại một lần nữa phải chạy trốn chiến tranh. Gia đình di tản về Sài Gòn. Tuấn ở lại cùng đơn vị chiến đấu. Đến ngày 29 tháng 3 thì Đà Nẵng rơi vào tay quân Cộng Sản. Tuấn cùng đơn vị rút về Sài Gòn.

Người dân Sài Gòn lúc này sống trong hoảng loạn, lo sợ. Những ai có phương tiện rời Việt Nam được thì họ bắt đầu nhốn nháo thu xếp để ra đi. Người Mỹ bắt đầu di tản những ai trước kia đã từng làm việc với quân đội Mỹ, họ sợ những người này ở lại sẽ gặp nguy hiểm nếu quân Cộng Sản chiếm được Sài Gòn. Chính cuộc di tản này đã gây thêm tâm trạng hoang mang trong dân chúng. Tình hình biến chuyển xấu đi rất nhanh. Ngày 21 tháng 4, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Bảy ngày sau, Trần Văn Hương từ chức, trao quyền lại cho đại tướng Dương Văn Minh. Những ngày này, dân chúng tìm mọt cách để rời khỏi Việt Nam. Trước cổng tòa đại sứ Mỹ tràn ngập người muốn vào để được trực thăng di chuyển ra Đệ thất Hạm đội ngoài khơi Thái Bình Dương. Nhiều người không thuộc diện được Hoa Kỳ chọn lựa nhưng họ vẫn chen lấn, cố vào cho được tòa đại sứ, vì họ biết rằng một khi vào được bên trong thì sẽ được bốc đi. Người Mỹ không bỏ rơi bất cứ ai đang ở trong tầm tay của họ. Bến Bạch Đằng cũng tràn ngập người chen nhau lên các con tàu. Nhiều người chạy xuống tận Vũng Tàu tìm ghe đi.

Hai ngày sau, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, yêu cầu quân lực Việt Nam Cộng Hòa buông vũ khí. Đó là ngày định mệnh 30 tháng 4, 1975.

Lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh làm Tuấn và các đồng đội bàng hoàng. Nhiều người gục đầu xuống khóc. Chỉ mới hai tháng trước đây, không ai nghĩ rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Quân đội còn đó, vũ khí còn đó, lòng dân còn đang mong mỏi quân đội lật ngược tình thế, nhưng giới lãnh đạo lại hèn nhát, người thì từ chức, bỏ chạy, kẻ thì vội vàng tuyên bố đầu hàng. Cho tới giờ phút đó, chưa một đơn vị nào của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phất cở trắng, kể cả những đơn vị bị vây khốn nguy cấp, mà kẻ lãnh đạo cao nhất đã tuyên bố đầu hàng! Một vài đồng đội của Tuấn đã tự sát vì không muốn sống trong sự nhục nhã. Tuấn không đủ can đảm tự sát vì chàng không muốn Ngọc và đứa con trai của mình phải sống bơ vơ. Chàng cởi bỏ quân phục, trở về cùng Ngọc.

Những ngày sau đó, Tuấn hỏi dò tin tức của các bạn đồng đội, có người bỏ về quê, có người đã di tản ra Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở ngoài khơi Thái Bình Dương. Đau xót nhất là tin tức về những sĩ quan, binh lính đã tự sát, trong đó có năm vị tướng: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai va Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ. Ngoài ra còn nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy, hạ sĩ quan và binh lính, không thể kể hết.

Các sinh viên lần lượt xếp hàng hai bên hông khán đài. Khi được xướng danh, từng người bước lên sân khấu, bắt tay hiệu trường, giáo sư trưởng khoa, và một vài giáo chức khác, rồi nhận tấm giấy cuốn tròn, tượng trưng cho bằng tốt nghiệp (bằng tốt nghiệp chính thức sẽ được gởi về nhà sau). Tuấn mở tập sách nhỏ được phát cho mọi người dự lễ, trong sách này có in chương trình lễ và danh sách các sinh viên được xướng danh theo thứ tự. Vừa nghe xướng danh, vừa rà danh sách để xem khi nào đến lượt Vũ.

Khi đến lượt Vũ bước lên khán đài, Tuấn giơ máy ảnh lên chụp. Chụp cho có lệ, chứ ở khoảng cách xa như vậy, khi lên hình khó nhận ra mặt mũi ai. Nhà trường có thuê một công ty chụp hình, có các thợ đứng gần sân khấu chụp từng người. Mỗi sinh viên khi nhận bằng chính thức sẽ được nhận kèm một tấm hình lúc đứng trên khán đài.

Sau khi tất cả các sinh viên đã được xướng danh, một giáo chức lên đọc bài diễn văn bế mạc. Sau bài diễn văn, vị hiệu trưởng long trọng tuyên bố: các sinh viên giờ có thể gạt cái tua trên mũ từ bên phải qua bên trái. Đây là nghi thức đánh dấu giây phút các sinh viên đã chính thức tốt nghiệp.

Màn cuối cùng, cũng là màn vui nhất, là các sinh viên cởi mũ tung lên trời. Tiếng reo hò, vỗ tay vang dậy. Tung mũ xong, mạnh ai nấy chạy đi tìm nhặt lại, nhiều người lẫn lộn mũ của nhau, không khí vui nhộn. Rồi nhạc nổi lên, đoàn sinh viên lần lượt rời ghế, xếp hàng đi ngược hướng lúc nãy. Khi các sinh viên đã rời khu vực hành lễ, mọi người đứng dậy, đi tìm con em của mình.

Sau ngày 30 tháng 4, Tuấn hạn chế ra đường, chỉ ở nhà với Ngọc. Mở TV lên coi thấy cảnh bộ đội được dân chúng Sài Gòn chào đón với những bó hoa và khuôn mặt hớn hở, Tuấn biết đó là những cảnh được dàn dựng. Nhưng Tuấn không quan tâm mấy đến điều này, điều Tuấn quan tâm là: chính quyền mới sẽ đối xử ra sao với những quân nhân như Tuấn?

Mấy tuần sau, có thông báo của chính quyền mới tuyên bố khoan hồng cho những quân nhân của chế độ “ngụy quyền”—danh từ họ dùng để gọi chế độ cũ. Họ kêu gọi những binh lính và sĩ quan cấp thấp ra trình diện để được “học tập cải tạo tư tưởng”. Một số người ra trình diện, nhiều người lo sợ vẫn trốn tránh. Những người này được tập trung học tập trong vài ngày rồi ra về. Sau đó, chính quyền lại kêu gọi những người chưa được học tập phải ra trình diện. Lần này số người ra trình diện đông hơn, cũng được học tập rồi về. Đến giữa tháng Sáu, có lệnh tất cả các sĩ quan từ cấp úy trở lên đều phải trình diện và đem theo vật dụng “đủ dùng trong 10 ngày”. Tuấn ra trình diện. Đúng lúc đó, Ngọc có dấu hiệu mang thai.

Lần này, số người ra trình diện rất đông, vì ai cũng nghĩ, đi học tập 10 ngày thì không có gì phải trốn tránh. Nhưng có ai ngờ đâu, đó là một cái bẫy. Chính quyền chỉ dặn đem đồ đủ dùng 10 ngày, chứ không hề nói là đi học tập 10 ngày. Hàng trăm ngàn người bị lùa vào các trại tập trung, vài tháng sau chuyển ra Bắc trong nhiều đợt. Những người tù cải tạo bị lùa xuống tàu, nhốt dưới hầm như nhốt súc vật, một số người chết ngộp trong hầm. Đến Hải Phòng, họ bị nhét vào các toa xe lửa, loại toa không có ghế ngồi thường dùng để chở hàng hóa hay súc vật, tiếp tục di chuyển. Đích đến là vùng đồi núi Hoàng Liên Sơn lạnh lẽo heo hút.

Ấn tượng đầu tiên của Tuấn khi đặt chân lên miền Bắc là quang cảnh khốn khó, nghèo nàn, không như miền Nam trù phú, sung túc. Tuấn chợt thấy một cảm giác chua xót. Xưa nay trong lịch sử, người giàu có sung túc mới đi giải phóng kẻ nghèo khổ, chứ có bao giờ kẻ nghèo khổ lại đi “giải phóng” người giàu có bao giờ. Càng nghĩ, Tuấn càng cảm thấy buồn, điều đó có nghĩa là miền Nam rồi đây cũng sẽ rơi vào cảnh nghèo khổ như miền Bắc.

Khi tới phà Ô Lâu để qua Yên Bái thì mọi người xuống tàu để qua phà. Một đám đông dân chúng đứng chờ sẵn. Họ ném đá vào đoàn người tù và chửi bới: “Quân Mỹ-Ngụy ăn thịt người.” Tuy không ai bị thương nhưng sự việc này gây tác động tâm lý rất nặng cho đoàn tù. Về sau khi vào các trại cải tạo, nói chuyện với nhiều người, Tuấn mới biết hầu như ai cũng trải qua cảnh đó. Trong những lần hiếm hoi tiếp xúc với người dân miền Bắc, Tuấn được biết rằng người miền Bắc luôn được tuyên truyền rằng người miền Nam sống khổ cực dưới sự kềm kẹp của Mỹ-Ngụy, rằng quân Mỹ-Ngụy tàn ác lắm, ăn cả thịt người. Tuấn đoán rằng đó nguyên nhân của các cuộc ném đá. Tuy nhiên, sự việc này xảy ra cho hầu hết những chuyến xe chở tù cải tạo khiến Tuấn không thể cho đó là sự ngẫu nhiên, mà chắc nó phải có sự sắp đặt của chính quyền. Đây có lẽ là một cách để phủ đầu bọn tù cải tạo, cho họ biết rằng từ đây họ chỉ là những tên tội phạm, và đã là tội phạm thì không được đối xử như con người.

Những năm tháng tù đày trong các trại cải tạo trên vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, ăn uống thiếu thốn, lao động cực nhọc. Hàng ngày bọn Tuấn phải đi làm các công việc đồng áng hoặc lên rừng chặt cây, tối về bị nhốt vào các căn nhà trại chật chội, hôi thối. Mặc dù làm việc đồng áng quanh năm, nhưng hoa màu thu hoạch được phần lớn chở đi đâu hết, người tù chỉ ăn toàn khoai sắn, chỉ những ngày lễ, tết mới được ăn cơm, cái đói luôn dày vò. Nhiều người tự “cải thiện” bẳng cách dấu diếm những củ khoai, củ sắn hoặc ếch, nhái, rắn bắt được trong lúc đi lao động để đem vể trại lén nấu ăn. Nhưng khi về trại bị khám xét, nếu bị bắt được thì họ sẽ bị cán bộ đánh bằng báng súng. Trong trại hầu như không có thuốc men gì. Ai bị bệnh chỉ được phát cho một loại thuốc duy nhất: xuyên tâm liên. Ngoại trừ những người bị bệnh nằm liệt không đi được, ai bệnh mà còn đi được thì vẫn phải đi lao động. Nhiều người tù đã gục ngã, bỏ xác nơi vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn. Thỉnh thoảng có người trốn trại, nếu bị bắt lại thì hoặc là bị xử tử, hoặc là bị đánh bằng báng súng đến ngất xỉu rồi bị giam vào hầm đá.

Trong những năm tháng đen tối đó, tình yêu của của Ngọc là nguồn động lực giúp Tuấn vượt qua tất cả. Những lá thư, những gói quà của Ngọc chắt chiu gởi từ miền Nam ra, là minh chứng cho lòng chung thủy và tình yêu của nàng. Ngọc đã hạ sinh Lan, đứa con gái mà Tuấn chưa hề được gặp mặt. Sau bốn năm ở trong trại, một ngày nọ Tuấn được thông báo: có người ra thăm nuôi. Tuấn đoán ngay đó là Ngọc.

Tuấn và Lan rời ghế, đi tìm Vũ. Đang loanh quanh giữa đám đông thì có người vỗ vai, Tuấn quay lại nhìn thì thấy Hiệp, một người bạn lớn tuổi hơn Tuấn. Anh ta hỏi: “Con mày học ở đây à?” Tuấn gật đầu: “Ừ, hôm nay cháu nó tốt nghiệp. Còn anh, cũng có con học ở đây à?” Hiệp lắc đầu: “Không, hôm tay tao đi vì đứa cháu.”

Hiệp và Tuấn quen nhau trong trại cải tạo. Câu chuyện của Hiệp cũng khá ly kỳ. Hiệp là sĩ quan hải quân. Vào những ngày Sài Gòn đang hấp hối, Hiệp đang ở trên chiến hạm gần đảo Phú Quốc. Khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, người hạm trưởng ra lệnh cho tàu chạy thẳng ra phía Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Hải quân Hoa Kỳ đã hướng dẫn tàu đi đến đảo Guam, nơi có căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. Trên đảo lúc này có hàng trăm ngàn người Việt đã được di tản đến đây. Trong những tháng kế tiếp, phần lớn những người này đã được đưa vào Hoa Kỳ định cư, duy còn lại hơn một ngàn người không chịu đi mà muốn quay lại Việt Nam, trong số đó có Hiệp. Mặc cho các đồng hương và các sĩ quan Hoa Kỳ cố gắng thuyết phục, những người này nhất quyết quay về. Nhiều người trong số họ đã ra đi bất đắc dĩ, như trường hợp của Hiệp, vợ con của họ còn bị kẹt lại ở Việt Nam nên họ muốn quay về, bất kể số phận sẽ ra sao.

Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã phải đứng ra dàn xếp cho chuyến hồi hương này. Họ liên lạc với chính quyền Cộng Sản Việt Nam nhưng không nhận được câu trả lời dứt khoát, trong khi đó những người muốn hồi hương thì biểu tình, tuyệt thực, đòi về gấp. Cuối cùng hải quân Hoa Kỳ phải sắp xếp cho họ quay về trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín. Đây là chiếc tàu sắt vận tải lớn đã chở hơn 600 người Việt di tản vào ngày 30 tháng Tư từ Sài Gòn đến đảo Guam. Tàu được sữa chữa và trang bị các tiện nghi đầy đủ cho đoàn người hồi hương. Tàu cũng được cung cấp lương thực và nhiên liệu dư thừa, để trong trường hợp những người hồi hương đổi ý thì họ có thể quay trở lại Guam. Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ được chỉ định làm thuyền trưởng. Tàu rời Guam ngày 16 tháng 10, 1975, đem theo hơn 1600 người, trong đó có nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa.

Lần đầu tiên gặp lại Ngọc sau 4 năm xa cách, Tuấn cố giữ vẻ mặt bình tĩnh. Chàng không muốn Ngọc lo nghĩ nhiều về mình. Khi đối diện với Ngọc, Tuấn không kềm được nỗi niềm thương xót. Ngọc vẫn đẹp như xưa, nhưng nhan sắc giờ phảng phất một màn sương u tối. Mái tóc dài giờ đã cắt ngắn, môi như cánh hồng phai, mắt đượm vẻ buồn. Phần Tuấn, chàng trai trẻ lính chiến dạn dày sương gió xưa kia giờ là một tên tù gầy gò, má hóp, mắt trũng sâu, da thâm đen. Cũng như lần gặp gỡ trước ở Đà Nẵng, tay trong tay, bốn mắt nhìn nhau, nhưng lần này trong lòng hai người là những cơn bão, nước mắt muốn tràn mi nhưng bị kềm giữ. Trước những đôi mắt dò xét của các cán bộ trại, Tuấn không muốn bộc lộ cảm xúc của mình.

Cuộc gặp gỡ diễn ra vài giờ trong phòng thăm nuôi, có sự hiện diện của cán bộ. Hai người chỉ thầm thì trao đổi, không dám nói những điều nhạy cảm, cấm kỵ. Ngọc chỉ đi một mình vì hai con còn nhỏ. Khi chia tay, Tuấn nói với Ngọc: “Em ra thăm anh lần này là đủ rồi, không cần đi thăm nữa đâu. Em cứ ở nhà lo cho con là anh vui rồi.”

Năm 1981, Tuấn được thả về sau 6 năm bị giam giữ.

Ngày đoàn tụ gia đình, lòng Tuấn vui buồn lẫn lộn. Vui vì được về với gia đình, buồn vì thời thế đổi thay. Tuấn giờ đây thành một tên “ngụy” bị chính quyền mới coi như một công dân hạng bét. Không những vậy, các con của Tuấn, cũng như con cái của hàng triệu quân nhân của chế độ cũ, bị đối xử phân biệt. Cái lý lịch “gia đình ngụy” không bao giờ gột rửa được.

Tuấn đã từng đọc lịch sử Hoa Kỳ, biết rằng sau năm 1865, khi cuộc nội chiến Nam-Bắc chấm dứt, chính quyền Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách hòa giải dân tộc. Không có những trại tù cải tạo, không phân biệt đối xử với gia đình, con cái những người trong quân đội miền Nam, không có những từ ngữ khinh miệt, gọi chế độ cũ là “ngụy”. Chỉ trong vòng một thập niên, nước Mỹ gần như xóa bỏ mọi vết tích chiến tranh, dân tộc đoàn kết, đất nước phát triển.

Điều làm Tuấn lo sợ hơn hết là các thế hệ thanh thiếu niên bị nhồi nhét vào đầu những điều dối trá, sai lệch về chế độ cũ, về những gì cha anh họ đã chiến đấu để bảo vệ. Tuấn đã được xem phim “Mùa Gió Chướng”, một cuốn phim được sản xuất sau năm 1975. Cuốn phim này hoàn toàn xuyên tạc hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa và chế độ miền Nam cũ. Trong phim còn có cảnh một cán bộ nằm vùng Cộng Sản bị chính quyền miền Nam bắt và chôn sống, một điều không hề xảy ra trong chế độ cũ. Đối với Tuấn, con đường duy nhất mà Tuấn phải chọn lựa cho cá nhân và gia đình là vượt biên, thoát khỏi chế độ này.

Khi chiếc tàu Việt Nam Thương Tín về đến Vũng Tàu thì nó không được cập bến mà phải neo đậu ngoài khơi. Hôm sau, chính quyền ra lệnh cho tàu hướng về phía Nha Trang. Khi cập bến ở Nha Trang, tất cả mọi người sau khi bị khám xét và tịch thu gần hết đồ đạt, bị đưa thẳng vào nơi giam giữ. Sau đó họ bị thẩm vấn liên tục trong nhiều tháng. Nhiều người đã hối hận vì quyết định sai lầm của mình. Vài tháng sau họ được phân chia ra từng nhóm. Một số phụ nữ và trẻ em được thả về, một số bị đưa vào các trại giam. Khoảng một phần ba trong số họ là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, số này đã bị đưa vào các trại cải tạo. Đa số bị giam từ 5 đến 10 năm. Trung Tá Trần Đình Trụ bị giam 13 năm. Hiệp bị giam cùng trại với Tuấn.

Có lần Tuấn hỏi Hiệp: “Anh đã tới đảo Guam rồi, sao không đi Mỹ phứt đi, nghĩ sao mà lại đòi quay về?” Hiệp trầm ngâm nói: “Lúc đó vợ con tao còn ở Việt Nam, không biết sống chết ra sao, tao không nỡ bỏ đi. Vả lại tao nghĩ, cùng là người Việt với nhau, hết chiến tranh rồi, còn gì nữa mà thù hận nhau. Tao có ngờ đâu là có những trại cải tạo như vầy.” Tuấn vỗ vai Hiệp, nói: “Không phải chỉ có mình anh, mà có cả triệu người đã lầm.”

Phong trào vượt biên lúc đó đang rầm rộ ở miền Nam. Ai có tiền bạc, phương tiện đều tìm cách ra đi. Tuấn không có tiền để đi, chàng đang cố nghĩ cách thì nhận được tin Hiệp được ra trại. Là cựu sĩ quan hải quân, những người như Hiệp thường được các nhóm tổ chức vượt biên cho đi miễn phí vì họ cần người có kinh nghiệm đi biển để hướng dẫn tàu. Tuấn rủ Hiệp, cùng liên lạc với một nhóm tổ chức. Tuấn phải liên lạc, móc nối với những người muốn đi, chịu đóng góp vàng cho đủ số lượng yêu cầu. Hè năm 1982, Tuấn và Ngọc dắt hai con xuống tàu vượt biên cùng với gia đình Hiệp. Hiệp được chỉ định làm thuyền trưởng.

Tàu chở gẩn trăm người, đi từ Bến Tre, xuôi dòng ra cửa biển, chạy thẳng ra hài phận quốc tế rồi nhắm hướng Nam. Mục tiêu của tàu là đến Indonesia hay Malaysia. Nếu không có gì trở ngại thì khoảng 2-3 ngày sẽ đến nơi. Nhưng chạy được hơn một ngày đêm thì tàu chết máy, lênh đênh giữa đại dương.

Trong mấy ngày lênh đênh đó, thỉnh thoảng có những chiếc tàu hàng khổng lồ chạy xa xa. Bọn Tuấn ra sức vẫy, đốt lửa báo hiệu, nhưng họ vẫn chạy thẳng. Có thể họ không thấy, hoặc cũng có thể họ biết là tàu vượt biên nên lờ đi vì không muốn cưu mang. Sang đến ngày thứ ba, một chiếc tàu đánh cá giương cờ Thái Lan chạy tới. Mọi người trên tàu hồi hộp, không biết lành dữ ra sao. Ai cũng đã từng nghe kể những câu chuyện người vượt biên bị tàu đánh cá Thái Lan cướp, hãm hiếp và giết chết. Ngược lại, cũng có những người may mắn được tàu Thái Lan giúp đỡ.

Chiếc tàu Thái lượn một vòng như dò xét. Trên tàu lô nhô những thanh niên cởi trần, da ngăm đen, đầu quấn khăn rẳn, miệng cười nham nhở. Một số tên cầm mã tấu, một tên cầm súng trường. Mọi người bắt đầu lo sợ. Phụ nữ vội vã trốn xuống hầm tàu, họ lấy dầu máy bôi vào mặt cho dơ dáy, xấu xí đi. Chiếc tàu Thái cặp sát, một nhóm người nhày sang, lăm lăm mã tấu và súng. Chúng ra hiệu cho đàn ông đứng sang một phía, trẻ em và phụ nữ một phía, rồi bắt đầu lục soát tìm vàng bạc. Sau khi thu gom được một số vàng, chúng lôi gần chục người phu nữ sang tàu chúng, trong số đó có Ngọc.

Trò chuyện với Hiệp vài câu, rồi Tuấn và Lan lại đi tìm Vũ. Thấy Vũ đứng túm tụm với đám bạn để chụp hình, Lan bước tới, trao bó hoa cho Vũ, rồi mấy cha con cùng chụp hình. Nhìn Vũ hân hoan vui sướng, Tuấn thấy lòng mình cũng vui lây. Mười lăm năm từ ngày đặt chân tới Mỹ, Tuấn đã trông đợi giây phút này. Bao nhiêu tháng năm vất vả làm lụng nuôi con, hôm nay là ngày Tuấn mãn nguyện nhất.

Đám bạn của Tuấn rủ nhau ra bars liên hoan. Thấy Vũ ngần ngừ, Tuấn hiểu ý, nói: “Con cứ đi chơi với bạn. Tối nay gia đình mình sẽ cùng chung vui với nhau sau.” Vũ cúi đầu nói: “Dạ con cám ơn ba.”

Tuấn nhìn bó hoa Vũ đang ôm trên tay, rồi chợt nói: “Cho ba rút một cành nhe!” Vũ chưa kịp trả lời thì Tuấn nói luôn: “Mẹ rất thích hoa Thạch Thảo, ba muốn dành một cành cho mẹ.” Vũ nhìn Tuấn, im lặng không nói gì. Tuấn nhẹ rút một cành hoa, rồi vỗ vai Vũ: “Thôi con đi chơi với bạn đi, chiều gặp lại.” Tuấn quay qua bảo Lan: “Con đi với anh cho vui đi. Ba về trước.” Lan dạ.

Tuấn đứng nhìn Ngọc bị lôi kéo kêu khóc mà đành bất lực. Mấy ngày lênh đênh trên biển, đói khát, say sóng, bao nhiêu sức lực tiêu hao hết. Trong tay lại không một tấc sắt, không thể chống lại bọn cầm mã tấu, súng trường. Một người đàn ông nóng lòng vì vợ mình bị lôi đi, xông lại giằng co, bị chúng chém một mã tấu gục tại chỗ.

Lôi các phụ nữ sang tàu mình xong, chúng rời xa một khoàng, neo lại, rồi bắt đầu giở trò thú tính. Tiếng kêu khóc, gào thét của những người phụ nữ làm mọi người trên tàu xé lòng. Độ vài giờ sau, lại có thêm mấy chiếc tàu Thái kéo đến nữa. Chúng dùng máy vô tuyến liên lạc để thông báo cho nhau. Những tên mới đến lại tiếp tục giở trò đồi bại. Tuấn ngồi gục đầu, ôm hai con, cố tìm cách bưng tai để không nghe những tiếng kêu khóc rền rĩ, nhưng không tài nào thoát được. Lòng Tuấn tan nát như mảnh giấy bị dao đâm rách toang.

Sau một ngày đêm, chúng ném trả những người phụ nữ sang tàu lại rồi bỏ đi. Trước khi đi chúng còn dùng tàu húc vào chiếc tàu vượt biên khốn khổ mấy lần, ý như muốn đánh chìm, nhưng may mắn tàu chỉ bị sứt mẻ một bên.

Ngọc nằm mê man trong tay Tuấn, thân xác rã rời, tan nát.

Chia tay hai con xong, Tuấn lững thững đi về hướng bãi đậu xe. Chợt Tuấn đổi ý, thay vì đi thẳng ra xe, lại đi lòng vòng, thơ thẩn dạo trong khuôn viên trường. Nhìn những tòa nhà đẹp đẽ uy nghi, Tuấn chạnh nhớ lại ước mơ thởi trẻ của mình. Hồi còn đi học, Tuấn ước ao sẽ được bước chân vào trường đại học, được ngồi trong giảng đường nghe các giáo sư giảng những kiến thức cao xa. Nhưng giấc mơ đó không bao giờ thành. Chiến tranh đã làm tan biến bao nhiêu ước vọng của cả một thế hệ thanh niên thời đó. Tuấn cũng như bao nhiêu người lúc đó, đã mong ước một ngày hòa bình, một ngày quê hương không còn tiếng súng. Rồi ngày hòa bình đó cũng tới. Nó tới một cách bất ngờ, hụt hẫng, không như cách người ta mong đợi. Thay vì hạnh phúc, hòa hợp,  nó đem lại bao điều cay đắng, chia rẽ.

Tuấn lái xe theo đường cũ quay về. Thoát khỏi cao tốc, Tuấn không về nhà mà chạy thẳng ra hướng biển. Tuấn theo đường Magnolia về hướng nam, chạy chửng 15 phút là tới biển. Tìm chỗ đậu xe xong, Tuấn cầm cành hoa, băng qua bãi cát trắng, rồi thong thả đi bộ dọc bờ biển.

Biển hôm nay trong xanh hiền hòa, sóng rì rầm. Tuấn tìm một đụn cát, ngồi xuống, nhìn ra xa xăm. Bên kia bờ đại dương là quê hương, nơi Tuấn và Ngọc đã rời bỏ để đi tìm tự do. Ngọc đã không đến được bờ bến nơi nàng mong muốn. Nàng đã nằm lại dưới lòng đại dương. Khi chiếc tàu hàng của Hoa Kỳ phát hiện ra tàu của Tuấn và ra tay cứu vớt thì Ngọc đã tắt thở. Nàng không chịu đựng được nỗi đau thân xác và sự ô nhục. Nàng và người đàn ông bị chém chết đã được thủy táng.

Đôi khi Tuấn tự hỏi lòng, nếu ngày đó Tuấn không dẫn gia đình đi vượt biên, chấp nhận ở lại sống với chế độ mới, thì sẽ ra sao? Ngọc sẽ sống, sẽ vẫn còn bên Tuấn. Nhưng đổi lại, các con Tuấn sẽ bị nhổi nhét những điều dối trá, sẽ học những bài học lịch sử bị bóp méo, xuyên tạc. Chúng sẽ hiểu sai lạc về chế độ miền Nam cũ, chế độ mà cha anh của chúng đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ, nhưng thất bại. Chúng sẽ luôn bị đối xử như những công dân hạng bét. Cái lý lịch con cái “ngụy” sẽ không bao giờ được bỏ qua. Thời phong kiến có luật tru di tam tộc, một người phạm tội cả ba họ bị hành hình. Dưới chế độ mới, dù không bị hành hình nhưng cái lý lịch ba đời nó đeo bám người ta suốt đời. Cái chết của Ngọc là cái giá phải trả để đánh đổi cho tương lai các con. Nếu không ra đi, các con Tuấn đã không có ngày hôm nay.

Tuấn đến sát mé nước, ngắt từng cánh hoa ném xuống biển. Hoa bập bềnh theo sóng trôi đi. Không biết những cánh hoa này có trôi được ra đại dương, về phía bờ bên kia, đến nơi Ngọc đang nằm lại không. Ngọc rất yêu hoa Thạch Thảo, những cánh hoa màu tím, giống như màu trời lúc hoàng hôn. Tuấn chợt nhớ bài hát “Mùa Thu Chết” của Phạm Duy, bài hát có nhắc đến hoa Thạch Thảo:

Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!

Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau

Em nhớ cho, rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em…

Tuấn cởi giày, lội xuống nước, vung tay ném cành hoa ra xa. Cành hoa dập dềnh một lát rồi trôi đi. Sóng biển mơn man dưới chân. Tuấn hơi cúi người, thì thầm với sóng: “Anh và em không còn thấy nhau trên cõi đời này nữa, nhưng anh vẫn chờ em. Anh chờ gặp lại em ở thế giới bên kia.”

(Hết)

***

Viết tặng những ai đã từng trải qua hành trình tìm tự do.
Xin thắp nén hương lòng cho những người đã nằm lại dưới lòng đại dương.
(Bản thân người viết cũng có người thân nằm lại.)

Tháng Tư, 2023
Vương Hoàng Minh

(blogger Người Vá Trời)

 

Thưa bà Marie Curie, bà ở đâu?

Tạp bút

Pierre & Marie Curie trong phòng thí nghiệm.

Bà luôn ở cùng chúng ta, vì trong đời sống này có ai mà không một lần đi chụp quang tuyến X? Đi chữa một cái răng đau, nhổ răng khôn. Đi chụp phổi, đi soi bao tử fribroscopie, hay đơn giản nhất là té ngã, cũng phải đi cà nhắc tới imagerie médicale rọi tia X-quang xem xương bị tổn thương ra làm sao. Đơn giản mà là vậy, bác sĩ đâu có chữa bệnh lơ mơ, phải thấy rõ, thì đó là chúng ta sống và nhiều lúc phải nương tựa vào những tìm kiếm và phát minh của bà, không có bài bản chụp quang tuyến cuộc đời gắn liền với bệnh e gặp nhiều khó khăn.

Ở nước Ba Lan, quê hương hào hiệp, nơi sinh ra nhà bác học vĩ đại Marie Curie, người đã mang, đã tìm thấy và ứng dụng Uranium vào kỹ nghệ khoa học, để tìm bệnh và chữa bệnh cho nhân loại. Radium hôm nay rất thịnh hành ở khắp mọi nơi. Suốt cuộc đời bà, bà đã bỏ ra nhiều năm ròng rã nung quặng. Bà đi tiếp theo công trình nghiên cứu của hai nhà vật lý học, một người Pháp là giáo sư Henri Becquerel, một người Đức là giáo sư Rontgen, hai vị đưa ra đề tài về « tia phóng xạ và năng lượng của phóng xạ. » Bà giầu nghị lực bắt tay vào việc tìm kiếm, nhìn thấy và sử dụng Uranium.

Suốt 4 năm ròng rã nung chẩy các quặng hóa học nghi là có chất phóng xạ, bà có lần khoe với chồng: Em đang tìm nó, chưa tìm ra nó, và em đã đặt cho nó, và em đã đặt cho các chất có thể tự phát ra tia phóng xạ có cường độ như nhau là năng lượng phóng xạ.

Đúng vậy sau mấy năm ròng rã nung nấu quặng Uranium để tìm ra phóng xạ mạnh hơn là Uranium thuần chất. Tháng 7 năm 1898, bà tìm ra nguyên tố mới Uranium, với lòng gắn bó yêu quê hương, bà gọi nó là Polorium, mạnh hơn Uranium. Tháng 12 năm 1898, bà tìm thấy Radium mạnh gấp 100 lần Polraium.

Tháng 6 năm 1903 bà trình luận án đặc biệt tiến sĩ xuất sắc về tính năng của phóng xạ. Bà Marie Curie cần cù suốt đời, vừa tìm kiếm khoa học, vừa lo cho gia đình con cái, vừa dậy học… Bà làm rất nhiều việc lợi ích cho đời. Bà có một hình ảnh đẹp, đẹp rực rỡ của tuổi thơ là cái nổi trội gắn bó với quê hương chôn nhau cắt rốn Ba Lan, vừa cũng cho chúng ta hiểu tại sao.

Tại sao ngày nay người xứ sở Ba Lan tích cực giúp đỡ, đóng góp ân tình với đồng minh Ukraine chống lại bạo lực của Nga. Vì cả hai nước đó có chung một kẻ thù Moscou từ rất xa xưa. Thù lắm! Trở lại, lại nói về Marie Curie, bà ra đời tháng 11 năm 1867, ở thủ đô Varsava trong một gia đình trung lưu, hơi hạn hẹp vì cha mẹ đều đi dậy học. Quê hương Ba Lan của bà lúc ấy đang bị nước Nga đô hộ, các trường học Ba Lan bị Nga kiềm tỏa, đồng hóa, bị bắt buộc họ phải học và dậy học bằng tiếng Nga. Sau đệ I thế chiến, tới năm 1918, đất đai lãnh thổ Âu Châu được chia lại, Ba Lan mới thoát khỏi sự cai trị của Nga hoàng. Ngày đó, các nhân vật Nga sang cai trị thuộc địa, hay các nhân vật Ba Lan làm tay sai cho chính phủ Nga đều phải gọi kính cẩn như thế đó: Bệ Hạ!

Các em học sinh tiểu học và các cấp khác, đặc biệt trường tiểu học của các em vào lớp tuổi Manie (tên thời thơ ấu của bà Marie Curie) đều phải học thuộc lòng lịch sử của Moscou. Các em phải trả lời lưu loát khi có thanh tra người Nga tới thăm và tra vấn về sử học, như phải kể đủ tên thứ tự các vị vua.

Mania nhanh nhẹn kể: “Catherine II, Paul I, Alexander I, Nicolas I, Alexander II”. Cô giáo và cô hiệu trưởng đổ mồ hôi hột khi Manie bị tra vấn. Nghe xong học sinh bé bỏng của mình trả lời lưu loát, cả hai cô đều thở phào nhẹ nhõm, họ vừa thương hại vừa cám ơn Manie. Tất cả họ vừa thoát một lần bị kỷ luật.

Nhưng cô giáo, cô hiệu trưởng, ngay cả viên thanh tra, họ nào biết một câu chuyện riêng tư của Mania và một cô bạn rất thân, ngồi cạnh và cùng lớp với Mania, tên gọi Kachia, Kachia và Mania học cùng lớp tiểu học, mỗi ngày hai cô bé ríu rít rủ nhau cùng đi học và cùng về học. Trên đường đến trường, cả hai luôn phải băng ngang một công viên rộng mát thoáng đẹp, trong lối vào cổng công viên, phía trong là một đài tưởng niệm, xây cất công phu, trên đó, người Nga ghi khắc các viên chức Nga đến đây đầu tiên, có công đặt nền tảng đô hộ, và cả tên vài ba người bản xứ phục vụ hợp tác với phía Nga, đó là những kẻ xâm chiếm và những kẻ phản quốc, Mania giải nghĩa như vậy, rõ ràng như vậy cho Kachia hiểu. Rồi mỗi buổi đi học về ngay ngang tấm bia đá kỷ niệm đó, hai cô học trò bé bỏng, lượm đầy một túi áo sỏi, dừng chân trước bức tường kỷ niệm, hai đứa lần lượt lấy sỏi trong túi chọi vào tên từng người, từng đứa, và quy định mỗi người bao năm tù. Hết túi sỏi, kết án đầy đủ mọi cái tên, hai đứa rủ nhau vui vẻ về nhà. Hôm đấy, Mania bảo Kachia là xử án tụi nó xong, mình khỏe ru hả. Chiều nay ăn xúp ngon hơn nhe!

Có lần trời mưa sỏi ướt nhép không lượm được, thì hai đứa thi nhau nhổ bọt lên đài kỷ niệm. Một lần mưa lớn quá, vội, quên, về tới nhà Mania, thì Kachia quay đầu chạy ngược trở lại, sau đó, Mania hỏi bạn làm rơi rớt gì ư? — Không, không rơi gì cả, mà tại hồi nãy vội quá và khô cổ quên nhổ lên tụi nó, giờ làm bù! Mania chạy đi kiếm rồi đưa nguyên một chai nước cho bạn. Hai đứa cười, nhìn nhau đồng ý, hẹn ngày mai nhé.

Trong máu thịt, ngay thuở ấu thơ, Kachia và Mania đã hiểu sâu sắc tình yêu quê hương, yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Với những khái niệm từ ấu thơ là thế, người dân Ba Lan mặc nhiên như có một bản năng bẩm sinh ghét, thù ghét kẻ ngoại xâm Nga Hoàng ngày xưa và bây giờ là Putin.

Mania, lúc nhỏ được gọi ở nhà như thế vì gia đình muốn nhắc nhở khi ấu thơ, bà rất giống Đức Mẹ Maria. Gặp hoàn cảnh sa sút của gia đình, từ lúc cộng quân Nga tràn tới, cha bà bị đuổi trường đuổi dậy. Mẹ bà mất luôn chức hiệu trưởng trường nữ, gia đình họ sống rất cơ cực, mẹ sau đó bị bệnh nặng và qua đời. Bà mồ côi mẹ từ lúc mới 10 tuổi. Cảnh nghèo túng và nỗi buồn tuổi thơ hun đúc cho Mania tính chuyên cần, bền bỉ vươn lên trong việc học hành và nghiên cứu khoa học về sau. Trước mắt Mania chỉ có con đường đó thôi. Cộng với lòng ham học hỏi là lòng nhân ái và tính yêu thích tìm tòi những khám phá mới lạ. Học xong bậc trung học, thấy chị gái Blonia muốn đi học y khoa, bà đi làm gia sư kèm trẻ em ở tư gia nuôi chị học trước, bốn năm năm sau chị thành tài, bà ra khỏi quê, hướng về Paris, chủ tâm vào đại học Sorbonne học Toán và Vật lý rồi tiến vào công trình khảo sát khoa học. Bắt đầu về Sorbonne, lịch học tập của Mania dầy đặc, vừa phải học thêm Pháp văn để vượt qua ải ngoại ngữ, vừa đọc sách bù đắp lỗ hổng về tri thức, vừa phải cố gắng chuyên chú theo kịp các bài ở giảng đường.

Mania phải vượt qua mọi khó khăn đó cho đến lúc bà cần một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn cho riêng mình, anh chị và bạn đã giới thiệu cho bà gặp ông Pierre Curie. Họ yêu nhau trong tình yêu khám phá khoa học, và bà thành thân với ông. Bà mang tên Marie Curie từ đó. Ông Pierre đã đứng ngoài phòng thí nghiệm, theo dõi cô sinh viên Ba Lan rất khả ái, thành thạo trong mọi thao tác kỹ thuật, nàng chịu khó miệt mài, giầu sức sáng tạo. Bà kém ông 8 tuổi, bà sống chung với ông được 11 năm, thì sinh được hai cô con gái. Mặc dù sau khi sinh nở, bận nuôi con, nhưng bà vẫn chuyên cần đến phòng thí nghiệm ngồi khoắng quặng tổng hợp, dù gió rét hay tuyết rơi, bà vẫn đốt củi, hong nóng nồi gang, đổ chất hắc ín là tổng hợp kim loại có chất Uranium vào chảo. Bà nắm thanh sắt dài, cố sức khuấy đều chất tạp trong chảo, củi cháy đỏ, phải thỉnh thoảng đưa thêm than vào lò để tăng đủ độ nóng. Tạp chất từ từ chẩy nhão, rồi sôi, nổi bong bóng, bà vẫn luôn tay khuấy đều chất hồ nhão màu đen ấy lâu và lâu cho đậm đặc, dù tay bị phỏng nhiều lần, dù thay khăn lót tay nhiều lần. Đợi khi tạp chất đen đậm đặc, khói bay mù mịt làm cay mắt, bà dùng vá sắt múc chất lỏng nóng bỏng đó đổ vào từng lọ lớn, nhiều lọ, rồi bê lọ lên để trên từng cao trong phòng cho chúng lắng xuống. Tiếp đó, lại đổ lượt tạp chất, lại nấu, khuấy sôi đều cho đậm đặc, lại múc ra và bê cất lên cao. Cứ thế bà đã nấu trong 4 năm 8 tấm quặng, sau cùng tinh luyện ra được 1 décigramme Radium.

Làm việc nặng nhọc, cơ thể đau nhức, tay bị phỏng nhiều chỗ, chân sưng phồng. Nhưng bên cạnh công việc, tối về, vẫn chăm sóc chồng, con, và may vá áo quần cho con. Phòng khách nhà bà chỉ có hai ghế ngồi. Hỏi tại sao ít ghế thế, bà bảo để cho khách đến rồi khách đi mau lẹ vì bà còn bận nung quặng. Trong khi đó, ông Pierre vẫn đi dậy học, khi có đôi chút thì giờ rảnh, ông ghé xuống giúp bà cho bà nghỉ mệt. Ông hơi buồn vì thấy bà cực nhọc, mệt mỏi, sa sút. Ông đề nghị bà nghỉ ngơi một vài ngày, hay tốt hơn là một vài tuần lễ. Bà khoát tay từ chối, có một lần, một lần duy nhất trong đời, bà gắt gỏng với ông: « Em chẳng thấy mệt mỏi gì đâu. Em không thích bỏ cuộc giữa đường. Chỉ những người chí bạc tài hèn mới làm như vậy…»

Rồi một lần vào buổi tối, lo cho con cái ăn uống xong, sắp đi ngủ, thì bà nắm chặt tay ông nói rằng: « Anh ơi, em có cảm giác có tiếng đang gọi em ». « Cái phòng thí nghiệm nó gọi em chứ gì. » « Đúng thế, hay chúng ta trở lại đó xem sao ». « Chúng ta mới rời nơi đó khoảng 2 giờ đồng hồ, chớ có lâu lắc gì, nhưng thôi, em muốn thì chúng ta đến xem, mới đó, chắc có đứa con cưng đang ra đời ». Và họ cùng đến nơi. « Pierre, coi kìa, coi kìa!» Cả hai sung sướng nhìn thấy những tia sáng huỳnh quang hơi màu xanh lục đang lấp lánh trong các lọ thủy tinh để trên các kệ bàn cũ kỹ, ánh sáng huyền bí ấy quét lên các máy móc cửa phòng thí nghiệm và cả 4 bức tường xung quanh. Căn phòng bình dị của bà sáng lên như một cung điện pha lê trong truyện cổ tích huyền diệu. Cả hai người, đắm chìm trong hạnh phúc thành công, họ không nói lên lời mà cùng đẫm nước mắt, cùng với chất Radium đang tỏa sáng lấp lánh, lấp lánh.

***

Việc phát hiện ra Radium mở ra thời đại nguyên tử, có năng lượng nguyên tử, loài người mới đi vào vũ trụ. Chất Radium áp dụng trong kỹ nghệ không ngừng, ngoài ra nó còn mang hạnh phúc đến cho con người, dùng trong y khoa, chống lại bệnh ung thư. Sau hai lần nhận giải Nobel, bà mang số tiền gửi cho các quỹ mở nhà thương, tu bổ bệnh viện cũ và trang trải học phí cho các sinh viên nghèo.

Sau 11 năm chung sống với ông, ngày 19 thang 4 năm 1906, Pierre mất bất ngờ vì tai nạn xe, bà đã gục xuống vì đau buồn, nhưng rồi bà lại can đảm đứng lên, bà đi lấy một tấm hình của bà ngày còn trẻ mà ông thích nhất, đặt tấm hình ây lên ngực thi thể chồng và nói: « Đây cô sinh viên thông minh, anh đã đến và yêu cô ấy, nay hãy để cô ấy theo anh về nơi lạnh giá, anh sẽ cảm thấy hạnh phúc… »

Tai nạn khủng khiếp của Pierre Curie làm chấn động mọi người. Chính phủ Pháp và trường đại học đến chia buồn và kính tặng gia đình bà một số tiền lớn, nhưng bà từ chối, xin để cho các sinh viên nghèo. Trường đề nghị bà làm giáo sư vật lý kiêm giám đốc phòng thí nghiệm lý hóa Paris. Hai tuần lễ sau, bà ổn định tư tưởng, bình thản bước lên bục giảng của giảng đường, giảng tiếp những bài học mà Pierre Curie đang dậy nửa chừng. Các phóng viên và học giả đến nghe xem bà bắt đầu như thế nào, họ ngạc hiên thấy bà điềm nhiên mở lời: « Chúng ta học tiếp bài về điện và vật chất… » Buổi giảng đầu tiên thành công mỹ mãn, có sinh viên rơi nước mắt xuống bài vở.

Nhưng bà không ngủ say trước những lời khen ngợi, bà vẫn say mê với công việc, với bổn phận và dù có lúc thương nhớ Pierre vô cùng, bà lại tự nhủ: Gánh có nặng thêm, đường dù có gian truân hơn, mình vẫn tiếp tục đi, đi cho các con, đi cho tương lai hậu thế, đi cho cuộc đời.

Khi đã vào tuổi 50, bà qua vương quốc Anh, Thụy Điển, trở về quê hương Varsava, đi nhiều nơi và viện nghiên cứu Radium được thành lập làm trung tâm nghiên cứu khoa học, chữa trị ung bướu. Bà từng phát biểu ở mỗi quốc gia bà đặt chân đến: “Bất cứ ai cũng không nên làm giầu từ chất Radium. Nó là một nguyên tố thuộc về tất cả mọi người trên thế giới. Chinh vì thế đó mà Pierre và tôi từ bỏ ý nghĩ về độc quyền chất Radium”.

Năm 54 tuổi, bà được tổng thống Winson chào đón thân tình, tổng thống gọi Marie Curie là hóa thân của trí tuệ. Thành phố New York vào tháng 5 năm 1921 hoa nở rực rỡ, người dân ở đây ăn mặc đẹp đẽ, hát, múa chào đón “bà mẹ, vị ân nhân của loài người”. Người ta bảo là lòng quý mến nhiệt tình của người dân Mỹ dành cho bà nhiều hơn hẳn nhiều nguyên thủ quốc gia đã đến đó trước bà.

Einstein cũng vậy, ông từng nói là “Trong những người nổi tiếng, chỉ có Marie Curie là người duy nhất không thay đổi trước danh lợi”.

Mười năm sau ngày Pierre Curie mất, tháng 2 năm 1916, trận chiến khốc liệt diễn ra ở Pháp quê hương chồng cũng là quê hương thứ hai của bà. Cũng tháng 2  đó Marie Curie từ bỏ tạm thời phòng thí nghiệm và giảng đường. Bà đến miền Verdun, nơi 270000 binh sĩ Đức đang mở cuộc tấn công vào nước Pháp. Bà đã ngày đêm hiện diện ở chiến trường, di chuyển theo xe cứu thương, bà luôn tay luôn mắt điều chỉnh dòng điện, tự chụp hình các vết thương trong bóng tối, cứu sống từng thương bệnh binh đang cận kề sống chết. 20 chiếc xe cấp cứu và 200 trạm chiếu X-quang được dựng lên, được di chuyển làm việc không ngừng của bà Marie Curie đã mang lại sự sống cho hàng triệu chiến sĩ.

Ngày hôm nay, trong thế kỷ này, năm 2023, chiến cuộc do Nga áp đặt đang bùng lên dữ dội tàn phá Ukraine, chiến cuộc Đông Âu vẫn đang là dầu sôi lửa bỏng. Kẻ bắn giết cứ bắn giết, người đi cứu thương vẫn tiếp tục đi cứu thương, mỗi người đều chăm chú vào nhiệm vụ của mình. Những dòng xe, những bệnh viện dã chiến di chuyển ở Bakhmut, Kherson, Zaporizhia hay Mariopul… nối đuôi nhau như hoảng hốt, vội vã và kiên trì chạy đua với tử thần, với bom đạn hỏa tiển để cứu các thương binh cả bên này lẫn bên kia.

Người ta có lúc tự hỏi có bà Marie Curie trong đoàn y tế cứu thương đó không? Có, hẳn là có, bà ở đó, hiện diện làm việc và chỉ đạo sáng suốt vì X-quang là con đẻ của bà mà!

Bà là ai? Nhà bác học vĩ đại! Có thể là hiện thân của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Maria! Có thể là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn!

Đoàn xe cứu thương của bà Marie Curie đã nối đuôi nhau vùn vụt đi xa, xa rồi, chẳng đặng đừng, họ bỏ lại đó, bỏ lại chiến trường những xác thây binh sĩ nằm la liệt. Ai lượm? Ai thu dọn ? Ai cho họ những nấm mồ? Chẳng chóng thì chầy, sẽ có đoàn người đi lượm, đi liệm và đi chôn xác người chết trận. Họ chết không toàn thây, văng vãi, tung tóe, ngổn ngang… vì vũ khí ngày nay văn minh quá độ.

Là như thế, là những tấm lòng vị tha, nhân ái luôn ở cạnh chúng ta, ở trong cuộc đời này!

Chúc Thanh

(Paris, 10-04-2023)

From:  Long Nguyen

Tôi từng có một thời niên thiếu như thế

(Giai Đoạn 1959-1975).

Tôi sinh ra và lớn lên tại Biên Hòa, một thành phố hiền hòa nằm bên cạnh dòng sông Đồng Nai thơ mộng.

Nhà tôi ở gần bệnh viện Phạm Hữu Chí (nay là bệnh viện Đồng Nai) – một nhà thương thí nơi chuyên chữa bệnh miễn phí cho mọi người, nơi đây không hề phân biệt người có tiền hoặc không, không hề từ chốι chữa bệnh cho người dân dù phí tổn cao như thế nào. Mọi người bệnh đều được đối xử bình đẳng như nhau.Tôi nhớ có một lần bị đạp phải gai nhọn trong lòng bàn chân, bị mưng mủ, đau nhức kinh кhủnɢ, mẹ tôi đưa tôi vào bệnh viện này, các y tá & bác sĩ, tiếp chúng tôi một cách ân cần tử tế, với thái độ tôn trọng người bệnh mà không hề hách dịch hay gợi ý vòi tiền hoặc quà cáp từ người nhà của tôi. Trên tường bệnh viện, tôi không hề thấy có khẩu hiệu “Lương y như từ mẫu” nào cả, nhưng thái độ cư xử hòa nhã của nhân viên y tế ở đây không khác chi là mẹ hiền. Ngoài  cổng bệnh viện có một bảng hiệu cấm bóp kèn cho các loại  xe cộ để không ảnhhưởng đến người bệnh.

Ngày xưa, thời niên thiếu của tôi đã từng có một hệ thống y tế do dân vì dân như vậy.

Phía đối diện bệnh viện là hội đồng xã Bình Trước, có lần tôi theo mẹ vào văn phòng xã để nhờ xác nhận giấy tờ, văn phòng lúc ấy đông người nhưng trật tự, người trước người sau không hề ồn ào. Trên tường có bảng hiệu nhắc nhở “Xin giữ yên lặng” hoặc “Xin vui lòng vắn tắt & rõ ràng”.

Cô chú công chức tiếp người dân một cách niềm nở tôn trọng, biết lắng nghe, giải quyết công việc nhanh chóng, không hề to tiếng, hạch sách hay vòi vĩnh phong bì từ người dân.

Khi đến tuổi làm thẻ căn cước, tôi vào ty cảnh sát Biên Hòa để chụp hình, lăn tay. Mọi người trật tự. Các anh cảnh sát ở đây rất hiền hòa, lịch sự và ân cần hướng dẫn mọi người, không hề hạch sách quấy nhiễu, quát nạt hay vòi vĩnh gây phiền hà cho người dân.

Ty cảnh sát Biên Hòa

Ngày xưa, thời niên thiếu của tôi đã từng có một hệ thống hành chính gọn nhẹ, phục vụ người dân hữu hiệu và lịch sự như vậy, chứ không phải “hành” dân là chính.

Ngày xưa, tôi đã từng biết về một xã hội mang đầy tình nhân văn qua cách cư xử của mọi người:

Tôi còn nhớ khi cha tôi mất vào năm 1973, khi  xe tang đưa linh cửu ông đến nơi an nghỉ sau cùng, ngồi trên  xe tang tôi quan sát thấy các anh cảnh sát, quân cảnh đang làm nhiệm vụ trên các giao lộ, khi gặp  xe tang đi ngang qua, các anh đứng nghiêm chào theo nghi thức quân cách. Và một điều ngạc nhiên lý thú khác là tôi thấy những người dân mà gia đình tôi không quen biết, khi họ đi  xe gắn máy hoặc  xe đạp vượt qua  xe tang, không ai bảo ai, họ đều giở nón cúi đầu chào tiễn biệt cha tôi. Hình ảnh này đã cho tôi một dấu ấn và cảm xúc thật mạnh mẽ. Sau này tìm hiểu, tôi mới biết đó là lề thói ứng xử thông thường của mọi người để tỏ lòng tôn trọng đối với người đã khuất.

Vào thời ấy, mỗi khi ngồi học bài khuya, đến 10 giờ, tôi thường nghe từ radio hoặc TV nhắc nhở mọi người nên điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe để không phiền lòng hàng xóm.

Tôi còn nhớ mỗi sáng thứ hai chúng tôi làm lễ chào cờ ở trường tiểu học Nguyễn Du, khi quốc kỳ được kéo lên trong tiếng quốc ca vang lên của toàn thể học sinh, tôi thấy phía bên ngoài  cổng trường: chú xích lô dừng  xe lại, những người bộ hành đi ngang dừng lại và bà bán hàng rong cũng bỏ quang gánh, tất cả tự giác đứng nghiêm chỉnh hướng về quốc kỳ cùng hát quốc ca cho đến khi lễ chào cờ kết thúc. Ý thức công dân của người dân miền nam Việt Nam thời ấy là như thế.

Khi có dịp đi Saigon,tôi để ý thấy tại các giao  lộ, các loại  xe  lộ đều tự giác dừng lại khi đèn đỏ cho dù không có cảnh sát. Lúc ấy, không hề có chuyện vượt đèn đỏ chạy bạt mạng khi không có người kiểm soát. Trong giao tế, cảm ơn và xin lỗi là câu nói thường xuyên của người dân thời ấy.

Ngày xưa thời niên thiếu của tôi đã từng có một xã hội tuy còn nhiều bất cập nhưng rất là văn minh và có được một nền dân trí cao như vậy.

Ngày xưa, tôi đã từng thụ hưởng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng. Nền giáo dục này đã dạy tôi làm người trước khi dạy tôi học thức

Năm 1966, tôi vào học lớp năm (nay là lớp một) tại trường tiểu học Nguyễn Du, trên tường của lớp học vỡ lòng này có một câu cách ngôn “Tiên học lễ hậu học văn” treo cố định suốt cả một năm học. Sau này lớn lên, tôi mới hiểu đó là tiêu chuẩn căn bản của nền giáo dục VNCH.

Tôi đã từng có những thầy cô ở bậc tiểu học tận tâm giảng dạy cho tôi những bài học rèn luyện nhân cách qua sách giáo khoa như: Em tập tính tốt, Các bài tập đọc, sử ký, địa lý, khoa học thường thức, những bài học thuộc lòng từ quốc văn giáo khoa thư, Gia huấn ca, Nhị thập tứ hiếu, Tâm hồn cao thượng … Các giáo trình này đề cao các giá trị lịch sử, dân tộc, tự chủ, nghệ thuật,văn hóa … để rèn luyện cho học sinh giỏi về kiến thức tổng quát và có tấm lòng nhân hậu yêu nước thương nòi, có lòng biết ơn mọi người trong xã hội.

Bậc tiểu học, hàng tuần thầy cô giáo đều viết lên bảng câu cách ngôn của tuần từ các ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lý tình thương để in sâu vào tâm khảm của học sinh. Hàng tháng thầy cô thiết lập bảng danh dự để xếp hạng học sinh theo điểm số. Ngày ấy phẩm chất học sinh được phân loại rõ ràng chính xác chứ không hề có tình trạng nhà trường chạy theo thành tích với tỷ lệ 100% học sinh giỏi không có yếu kém!

Năm 1970, tôi vào trường Trung học công lập Ngô Quyền sau một kỳ thi tuyển sinh đệ thất (nay là lớp 6) đầy gay go nhưng cũng rất công bằng. Ở bậc trung học, tôi đã có những vị giáo sư tận tâm truyền đạt cho tôi kiến thức tổng quát, ý thức công dân và dạy cho chúng tôi về Công pháp quốc tế, Tam quyền phân lập, về giá trị của một xã hội tự do, dân chủ. Khi học lớp 9, chúng tôi đã được thầy luyện cho kỹ năng thuyết trình trước đám đông, tập tính phản biện và biết phân tích, so sánh đối chiếu, biết tranh luận trước những vấn đề mà chúng tôi không đồng ý, chứ không phải răm rắp cúi đầu nghe theo một chiều từ người khác như bầy cừu mà không dám phản kháng.

Ngày xưa Biên Hòa quê tôi có nhà sách Huỳnh Hiệp bán đủ mọi thể loại sách rất đa dạng phong phú từ nhiều tác giả khác nhau, từ nhiều quan điểm khác nhau, không có vùng cấm. Ở nơi ấy, không cần mua sách, nhưng tôi có thể tự do thoải mái đọc “cọp” tất cả các loại sách mình ưa thích mà không bị trở ngại nào. Chúng tôi thường gọi nhà sách này là thư viện tri thức cho học sinh nghèo.

Thời niên thiếu đã đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm tuyệt vời và tự hào về một xã hội tươi đẹp mà tôi đã từng sống. Nhưng một thời hoa mộng ấy đã thật sự kết thúc một cách oan nghiệt vào cuối tháng 4 năm 1975 khi tôi 16 tuổi.

Giờ đây, khi thời gian qua nhanh tuổi đờι đã xế, trí nhớ đôi lúc cũng còn lẫn  lộn, nhưng quên gì thì quên, tôi không thể nào quên được những năm tháng được sống trong một xã hội hiền lương tốt đẹp, dù ở trong thời kỳ chιến tranh khốc liệt nhất. Tôi không thể nào quên được ngày xưa tôi đã từng có một thời niên thiếu như thế. Tôi cũng sẽ kể lại cho con tôi là tôi đã từng sống trong một nước Việt Nam Cộng Hòa văn minh và nhân bản như thế trong quá khứ, mà thế hệ con cháu tôi ngày nay không thể nào tìm lại được các giá trị ấy ngay trên chính quê hương của tôi.

Hiep Phan

From: Truong Le

HOA XƯƠNG RỒNG TRÊN CÁT-Truyện ngắn

Long Tran-Những câu chuyện thú vị-Ncctv.net

Cuộc đời là con đường hai chiều! Nếu ở chiều này: có rất nhiều người rời bỏ nước Mỹ (không thích, ghét bỏ, theo gia đình, công việc , về hưu…) thì ở chiều ngược lại cũng có rất nhiều người mong muốn được đến Mỹ sống!

Dù bị chê bai này nọ…. thực tế cho thấy số người muốn vào Mỹ sống vẫn nhiều hơn số người muốn bỏ đi! Tại sao??? Giấc mơ Mỹ là gì? Kính mời quí vị đọc bài:

HOA XƯƠNG RỒNG TRÊN CÁT !!!!

Năm 2000, đến Mỹ, định cư ở thành phố Sioux City, bang IOWA, hai lúa nhận ra nhiều người thích đến Mỹ vì đơn giản là ở đây có rất nhiều việc làm….

Các lò mỗ heo, bò gà… thiếu lao động trầm trọng vì người Mỹ chính gốc họ không thích làm công việc đơn điệu và tẻ nhạt lập đi lập lại… trên dây chuyền nhà máy giết mổ!!!

Vì vậy, người Việt mới qua không biết tiếng Anh, ngay các cụ ông cụ bà U 70 muốn đi làm thì chỉ cần ghi tên đăng ký! Họ khuyến khích thưởng cho công nhân đang làm giới thiệu người mới vô, nếu người đó chịu làm việc quá 3 tháng (thời gian thử thách) thì người đem vô được thưởng 1000 đô Mỹ tiền cò!!!

Mèn đét ơi! Lúc ở VN mới qua năm 2000 , một ngàn đồng là số tiền rất lớn, nhất là gởi về VN giúp gia đình thì… nó mát cái bụng lắm!

Sau khi phỏng vấn (có phiên dịch viên người Việt, họ sẽ bố trí công việc tuỳ theo sức khỏe và khả năng! Có người lùn 1.4 m họ đặt cái ghế thấp đứng! Mạnh khỏe trẻ thì làm việc nặng (kéo thịt, cắt thịt) … lương cao hơn người già yếu: bỏ thịt vào túi ni lông hay dán nhãn….

Lương tối thiểu khi đó khoảng 6 đô một giờ nhưng thực tế người làm được trả cao hơn!

Thích làm thêm tăng ca trả gấp 1.5 hay 2 lần tuỳ theo ngày cuối tuần hay làm thêm do luật qui định!!

Vì thành phố Sioux City nhỏ nên hầu như ai cũng biết ai! Không có xe, không biết lái xe thì có người cho đi nhờ!!!!

Vì vậy dù không biết tiếng, không bằng cấp , già cả ốm yếu…. mà cứ thích làm thì sẽ có tiền!!!! Muốn làm sức nào có việc sức đó! Có người ngày làm 16 tiếng cũng OK salem!!!! Mấy người này dư tiền nhiều vì giá nhà cửa ở IOWA khá thấp… nhất là se phòng thì càng rẻ hơn… Tuần có khi làm 6 đến 7 ngày, mỗi ngày 16 tiếng… thì cuối tuần được nghỉ là rất thèm ngủ nên không hề tiêu xài…. Làm bao nhiêu dư bấy nhiêu!!! Niềm vui sống và hạnh phúc duy nhất là gọi điện thoại về VN ngày cuối tuần, được nghe người thân nói, thấy người thân mua nhà sắm xe hay điện thoại mới…!!!

– Ba ơi, bác ơi, cô ơi, chú ơi anh ơi… Sao không mua cái máy tính hay iPad để nghe tiếng…. và liên lạc

– Dạ ! Em bên này đâu có thì giờ đâu! Rảnh là ngủ bù!!!

Nghiên cứu của Mỹ cho thấy 80 phần trăm con cái của những người nghèo khổ không biết tiếng Anh không bằng cấp đến Mỹ (thế hệ I) sau 10 đến 20 năm sẽ có cuộc sống trung lưu! Tại sao???

Thế hệ 1.5 (con cái họ thấy cha mẹ khổ cực nên cố gắng vừa làm vừa học). Giáo dục công lập từ lớp 1 đến 12 là bắt buộc và miễn phí. Vào đại học thì có thể vay tiền đi học rồi ra trường làm trả dần… Có sức nào học sức đó… Phần lớn sau một thời gian con cái những người di dân nghèo khổ đó sẽ trở thành kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ hay những công nhân có tay nghề cao, hoặc có cơ sở buôn bán kinh doanh… như nhà hàng, tiệm nail…và họ không làm các công việc nặng nhọc như cha mẹ họ nữa!!! Khi người di dân thế hệ I về hưu, không ít gia đình có nhiều con cái rất thành đạt… Và họ ngắm nhìn cháu của họ , thế hệ di dân thứ hai, hội nhập hoàn toàn nói tiếng Anh, lái xe, ăn uống sinh hoạt giống như người Mỹ!!! Họ an nhiên hưởng thụ tuổi già, du lịch và vui vầy với con cháu mà không phải lo ai lên ai xuống ai sẽ là củi bị ném vô lò!!!

Túm lại: Nếu ai đó ở VN có mức sống trên trung bình, có nhà cửa xe cộ, có tài xế, có ô sin … mà muốn qua Mỹ sống để hưởng thụ thì… sẽ te tua và thất vọng!!

Tại sao? Vì ở Mỹ cỡ Bill Gates còn phải tự lái xe!

Nói một cách khác, nước Mỹ sẽ là thiên đường, là miền đất hứa cho những ai có khát vọng, muốn dấn thân và sống cho một mục đích cao hơn xa hơn , cho tương lai con cháu , cho người thân, cho khoa học, cho nhân loại…) và sẽ là địa ngục cho những ai đang có cuộc sống sung sướng người hầu kẻ hạ ở quê nhà mà muốn đến Mỹ hưởng thụ và làm le…

Vì sao! Ở Mỹ tổng thống cũng như dân thường, bình đẳng trước pháp luật!! Chạy xe sang, đeo vàng hay hột xoàn to, đồng hồ đắt tiền… ở Mỹ chẳng ai thèm dòm! Có khi làm mồi cho trộm cướp!

I can you, I van you! Nếu you có tiền, có địa vị và muốn hưởng thụ cho bản thân thì ở VN sướng hơn!!! Đừng qua Mỹ ở mà hối hận!!! Xạo chết liền!

PS: Không phải ai đến Mỹ cũng thành công!

Sòng bài khắp nơi, cần sa, súng ống được phép mua bán tự do…. Có người sa vào cờ bạc hút xách làm gia đình tan nát… Con cái chán đời… bỏ học ra đường theo băng đảng… bắn giết nhau tù tội… cũng không ít! Đó là mặt trái của một xã hội quá tự do!!! Phần lớn là do duyên nghiệp của mỗi người!!!

Chẳng ai bắt buộc mình vào sòng bài hay hút cần sa hết! Hai lúa yếu nên không dám ra gió! Tránh thiệt xa, không chơi không thử cho nó lành!!!

Tôi viết đến đây mắt tôi rơi lệ vì em, bông hoa xương rồng trên cát của tôi ơi!!

Bị cha bỏ rơi từ nhỏ, mẹ nghiện cờ bạc làm chuyện phi pháp vào tù ra khám như cơm bữa!!!

Cuộc đời em là một chuỗi ngày theo mẹ ở ít bữa sau đó vào trại mồ côi khi mẹ vào tù!!’

Mẹ đi đâu đem em theo đó!!!

Chao ôi!!

Còn cha

Chân con gót đỏ như son!

Một mai cha chết gót con đen sì! (Ca dao)

Còn mẹ, mẹ thương tiếc mẹ bù chì!

Mẹ mê cờ bạc… còn gì cho con??!!

Kỳ lạ thay, bạn đọc quí mến của tôi ơi, cậu bé như cây xương rồng trên cát…trong sa mạc, có một sức sống và lòng hướng thiện mãnh liệt!Khi lớn lên cậu viết thư cho mẹ trong tù:

“ Mẹ vô vàn yêu thương của con!

Xin mẹ hãy tha thứ cho con khi con từ chối đi theo mẹ hết nhà tù này đến nhà tù khác để được gần mẹ! Mặc dù con rất thèm một mái ấm, khao khát được mẹ ôm hôn nhưng con sẽ không theo mẹ nữa !!!

Con sẽ ở một trại tế bần cố định để tập trung vừa làm vừa học!!! Con sẽ không đi vào vết xe đổ của mẹ! Khi nào mẹ thay đổi hay có dịp thì đến thăm con”!

Như một phép màu của Thượng Đế, từ nhà tế bần ra em cố gắng vừa làm vừa học!!! Tinh thần vượt khó của em làm các giáo sư của Đại Học Harvard xúc động, họ cấp cho em học bổng!!!!

Hôm tốt nghiệp thì người mẹ cũng được ra tù và đến tham dự! Hai mẹ con ôm nhau khóc làm nhiều người khác cũng rơi lệ!!!!

Người mẹ được đứa con cảm hoá hoàn lương và ôm cháu nội, đưa cháu nội đi học…

Em ơi, Đời hai lúa cũng trải qua bao cay đắng nhọc nhằn nhưng chưa đến nỗi như em! Cho tôi được cúi đầu bái phục em vì em là tấm gương sáng cho bao người khác và tôi học hỏi !!!

Giấc mơ Mỹ là gì? Là nơi mà tất cả mọi người, bất kể nguồn gốc màu da (như hoa xương rồng trên cát là một ví dụ) có quyền, có rất nhiều cơ hội và có sự bình đẳng về cơ hội để tiền thân! Và quan trọng nhất là được tự do theo đuổi những khát vọng đời mình để biến nó thành sự thật!

60 NĂM VỤ ĐÁNH GHEN TÀN BẠO TẠI SÀI GÒN

Trúc Giang

Khoảng 8g tối ngày 17-7-1963, một phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà, tiến về chiếc taxi chờ sẵn, thì bỗng nhiên một người đàn ông xuất hiện, tay bưng một ca axit tạt vào mặt người phụ nữ. Cô thét lên trong đau đớn: “Chết tôi rồi!. Cứu tôi với”, rồi ôm mặt ngã quỵ. Một người đàn ông chạy đến bế cô lên chiếc taxi, chạy vào Bệnh viện Sài Gòn cấp cứu, sau đó được chuyển đến Bệnh viện Đồn Đất (Grall) vào lúc 2g sáng hôm sau.

Cái tin vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt axit gây xôn xao trong giới thượng lưu thường lui tới các vũ trường. Báo chí đăng tấm hình rất xinh đẹp của Cẩm Nhung, đã gây xúc động và thương tiếc của người Sài Gòn.

Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi theo gia đình di cư vào Nam. Vào Sài Gòn ít năm, khi cuộc sống vừa ổn định, thì người cha mất vì bệnh. Gia đình còn lại ba người phụ nữ: bà mẹ, bà vú và Cẩm Nhung. Không đủ điều kiện tiếp tục học, Cẩm Nhung bỏ học, đi học khiêu vũ. Cô gái 17 tuổi có cái nhan sắc trời cho, nói chung là rất đẹp và hấp dẫn. Cô theo học khiêu vũ ở một lớp dạy tư, do hai nhạc sĩ-vũ sư Nguyễn Tình và Nguyễn Thống phụ trách. Hai nhạc sĩ nổi tiếng về ngón đàn Hạ uy cầm (Hawaiian guitar), đã từng đào tạo hàng chục vũ nữ cho các vũ trường thời đó.

Nhờ có sắc đẹp hấp dẫn, với năng khiếu xuất sắc, Cẩm Nhung nổi bật trong nghệ thuật khiêu vũ. Vũ sư Nguyễn Tình nói với người “tài pán” Marie Sang: “Đôi chân của nó, thân hình gợi cảm của nó, rồi đây sẽ có cả khối đàn ông ngã rạp dưới chân nó mà chết cho coi”. “Tài pán” là người quản lý vũ nữ ở vũ trường, còn gọi là “cai gà”. Khách đi solo muốn nhảy với vũ nữ đều phải do người cai gà đó sắp xếp. Phải mua ticket thời đó là 20$. Mỗi ticket chỉ nhảy được một vài bản mà thôi. Muốn bao thầu cả đêm thì phải mua trọn gói chừng 15 ticket. Năm 19 tuổi, Cẩm Nhung trở thành vũ nữ chuyên nghiệp, được mệnh danh là “Nữ hoàng vũ trường”. Khách sành điệu cùng vũ nữ rời vũ trường này đến một vũ trường khác, vừa khiêu vũ thoải mái vừa giữ được tiếng tăm về đức hạnh của vũ nữ, vừa giữ được địa vị trung lập để câu những khách nhảy khác.

Tại vũ trường Kim Sơn, đường Tự Do, Cẩm Nhung phải lòng một khách nhảy hào hoa, dân chơi có tiếng tại các vũ trường, đó là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Việc ông Thức cặp kè với Cẩm Nhung đến tai bà vợ là Lâm Thị Nguyệt, biệt danh là Bà Năm Rado, vì bà chuyên bán đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Rado, rất giàu có. Máu Hoạn Thư nổi lên. Bà Nguyệt thuê hai người tạt axit vào mặt Cẩm Nhung với giá hai lượng vàng.

Bà Ngô Đình Nhu vào cuộc

Vụ đánh ghen diễn ra trong khi bà Ngô Đình Nhu – Trần Lệ Xuân, đang ở nước ngoài. Nghe được tin, bà vô cùng tức giận. Ngay sau khi về nước, bà đến Bệnh viện Đồn Đất thăm Cẩm Nhung. Ban đầu cô được cho nằm ở khu dành cho thường dân, ai vào thăm cũng được. Bạn bè Cẩm Nhung vận động, gom góp tiền, thuê luật sư kiện thủ phạm.

Một hôm, có một khách thăm, kề vào tai Cẩm Nhung nói nhỏ: “Muốn yên thân thì hãy câm miệng, nếu làm lớn chuyện thì “bà” sẽ giết chết cô”. Sau đó bà vú báo cáo với ban giám đốc bệnh viện. Nghe được tin đó, bà Nhu đề nghị cho Cẩm Nhung vào nằm ở khu chăm sóc đặc biệt, ai vào thăm phải có sự chấp thuận của bệnh viện.

Với tư cách là người lãnh đạo Phong trào Liên đới Phụ nữ Việt Nam, bênh vực quyền lợi và sự bình đẳng của phụ nữ, bà Trần Lệ Xuân thúc đẩy điều tra và lập hồ sơ đưa ra tòa. Sau đó, bà đề nghị đóng cửa các vũ trường, vì cho đó là nơi ăn chơi sa đọa, làm tan nát nhiều gia đình.

Phiên tòa xét xử

Vào tháng 10-1963, tòa kết án Lâm Thị Nguyệt, vợ của Trung tá Trần Ngọc Thức, và người đàn ông tạt axit, mỗi người 20 năm tù. Một người đàn ông liên hệ 15 năm. Ông trung tá bị cho giải ngũ, sau 1975, bị đi tù cải tạo ở Trại Z.30C, Hàm Tân.

Sau khi bị tạt axit, dung nhan kiều diễm của Cẩm Nhung bị hủy hoại hoàn toàn. Do sự vận động của bà Nhu, cô được đưa qua Nhật chữa trị, hy vọng phục hồi gương mặt như trước kia song bác sĩ bó tay. Hơn hai tháng sau, khi Cẩm Nhung về nước thì nền Đệ nhất Cộng hòa đã sụp đổ. Bà Nhu sống lưu vong ở nước ngoài. Người vũ nữ nổi tiếng một thời đã biến mất trong các sinh hoạt ở Sài Gòn. Những biến cố chính trị dồn dập, khiến cho việc đánh ghen rơi vào quên lãng và chìm vào quá khứ.

Đi ăn mày khắp nơi

Từ địa vị của một “nữ hoàng” sống trên đỉnh cao danh vọng, rực rỡ dưới ánh đèn màu và điệu nhạc, các công tử phong lưu bay bướm đa tình và các thương gia giàu sụ săn đón, thì bỗng nhiên trở thành thân tàn ma dại, ngậm đắng nuốt cay cho số phận hẩm hiu, Cẩm Nhung lao vào con đường đập phá, rượu chè, nghiện ngập, sa đọa… Năm 1964 người mẹ qua đời. Cẩm Nhung sống với bà vú. Tiền bạc, nữ trang lần lượt từng bước ra đi. Cô bán căn nhà 200 lượng vàng và cùng với bà vú ra ở thuê nhà trọ. Bà vú qua đời, Cẩm Nhung tật nguyền, không nghề nghiệp, không nơi nương tựa, nên chỉ có con đường là đi ăn xin.

Trước Tết năm 1969, người ăn mày xuất hiện ở chợ Bến Thành. Mặt mày dị dạng, đeo trên ngực tấm hình chụp chung với người tình là ông trung tá, cô lê bước trên các con đường Sài Gòn, trên hành lang của thương xá Tax rồi đến chợ Bà Chiểu, Bình Tây…và sau cùng về miền Tây, ở bến phà Mỹ Thuận, Vĩnh Long.

Thời gian này ở Sài Gòn xuất hiện bản nhạc “Bài Ca Cho Người Kỹ Nữ” của hai nhạc sĩ Nhật Ngân và Duy Trung. Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung. Bài hát có đoạn:

“Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người

Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi

Loài người vô tình giẫm nát thân em

Loài người vô tình giày xéo thân em

Loài người vô tình giết chết đời em…”

Nhà thơ Nguyên Sa nói về Cẩm Nhung

Trong hồi ký “Đời 1998”, Nguyên Sa thuật lại nhiều lần ông và nhà văn Mai Thảo đến nhà chở Cẩm Nhung đi vũ trường Arc en Ciel, ăn kem và hóng mát ở Bến Bạch Đằng. Lần sau cùng ông gặp Cẩm Nhung như sau:

“Lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng lại, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích. Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút. Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển sang tay kia, để tìm kiếm thêm. Tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên, những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm, dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn.

Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế. Nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”, Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng, có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên.

Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất. Tôi chưa kịp nói thì Mai Thảo kéo tôi băng qua đường. Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung. Tên người vũ nữ thường thay quần áo sau tấm bình phong, mỗi lần Mai Thảo và tôi đến đón nàng đi làm, hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs (Bến Bạch Đằng) hóng mát. Cẩm Nhung bị tạt axit trong một trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hô hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:

– Cẩm Nhung!

Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:

– Nhung đấy!” (Nguyên Sa)

Cẩm Nhung qua đời

Sau nhiều năm bôn ba khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bà ẩn mình sống trong cô đơn, những năm cuối đời ở vùng đất thuộc chùa Tam Bảo, Hà Tiên. Một “đồng nghiệp” bán vé số thuật lại như sau: “Bà dáng người cao ráo, gương mặt đầy những vết sẹo lồi lõm. Đôi mắt mù, có một bên lồi ra. Lúc mới đến, bà dắt theo một bé trai, nhưng vài năm sau thì không thấy nó nữa. Bà sống khép kín. Đơn độc. Có một lần nói chuyện với bà, nghe giọng nói lơ lớ, tôi biết bà ở miền Bắc.

Sống một mình. Ban ngày đến trước cổng chùa bán vé số. Ở đó, nhiều người đi lễ Phật, động lòng trắc ẩn, giàu lòng nhân ái, mua nhiều vé số để giúp những người già mù lòa, bạc phận.

Một hôm, vào đầu năm 2013, nhiều ngày không thấy bà ra bán vé số, mọi người vào phòng thì thấy bà đã chết tự bao giờ. Những người đồng cảnh ngộ, quyên góp mua một chiếc áo quan rẻ tiền để tẩn liệm. Trong mớ hành lý của bà, có một tấm hình khổ lớn đã cũ, có nhiều chỗ bong tróc. Trong hình, một thiếu nữ đôi mươi, rất đẹp, bên cạnh người đàn ông đẹp trai, dáng người lịch lãm. Đã hơn 50 năm qua, không ngờ người thiếu nữ tuyệt đẹp trong hình, bây giờ lại ở bên cạnh những người nghèo khổ như chúng tôi. Và khi từ giã cõi đời cũng chính chúng tôi tiễn bà đi. Bà ra đi, tài sản không có gì. Không một người thân tiễn bà, chỉ có những mảnh đời bất hạnh, vất vưởng như chúng tôi, đưa bà về chín suối”. Bà 73 tuổi.

T.G

Fb Le Van Quy