Chiều, ở một tiệm vàng-Truyện rất ngắn

(Trên mạng)

Ông chú trạc tuổi ba mình, cũng gầy gò y vậy, bước vào, tần ngần tháo kim băng trên túi áo, lấy ra một gói nhỏ. Mở mấy lớp giấy, tháo nốt chiếc khăn tay cuối cùng, chú đưa đôi bông tai nói muốn bán. Anh chủ cân xong, báo hai triệu tám.

Chú lại tần ngần hồi lâu “Dạ thôi, tui hông bán đâu. Tui xin lỗi”.

Thằng Hải xen vào “Tiệm này làm ăn đàng hoàng lắm chú, họ không ép chú đâu”.

– Dạ không phải tui chê. Chỉ là tiếc quá đó cậu ơi.
Rồi chú dắt xe đạp xa về.
Xuống lòng đường được mấy thước, chú dắt xe quay vào. Lần này, chú bán.
Cầm tiền, chẳng buồn đếm, chú thất thểu bước ra về. Vừa quay mặt đi, lại đứng chôn chân ngẩng mặt lên trời. Nhưng cuối cùng cũng không ngăn nổi, chú khóc.
Sau vài cái xoa vai an ủi, chú mở lòng với tôi. Vợ chồng chú lấy nhau không có đám cưới, cô vất vả cả đời cũng chẳng có nổi phân vàng để đeo cho có với người ta. Đâu chừng mười năm trước, ráng lắm, chú cũng sắm cho cô được đôi bông vàng 18 hơn chỉ. Cô mừng lắm, quý lắm. Nhưng đeo được mới chừng nửa năm, cô mất. Chú giữ nó như một kỷ vật quý giá và duy nhất của cô, của nghĩa vợ chồng. Cả năm nay chú bệnh nhiều, không làm được gì, đắn đo mãi mà vẫn ráng giữ. Nhưng nay đành bấm bụng bán đi, lấy tiền mua thuốc…
– Thôi không sao đâu. Chú đừng buồn nữa. Đứng đây đợi con một chút.
Quay vào tiệm “Anh ơi, em muốn mua lại đôi bông tai chú mới bán”.
– Em đợi chút, anh đánh bóng lại cho.
– Không cần đâu. Em mua để tặng lại chú ấy mà…
Nói thêm vài câu, kể lý do, ảnh biểu đưa ảnh triệu tư thôi. Coi như mỗi người góp một tay…
Cuộc đời này, thiệt nhiều người rộng lòng.
Nhìn đôi tay chú run run khi được cầm lại đôi bông, tôi nhớ ba mình quá chừng. Cái lần cầm chiếc nhẫn vàng đầu tiên do thằng con tặng, ba cũng run hệt như vầy.
ST

* Khi cha cho con, cả hai đều cười; khi con biếu cha, cả hai cùng khóc.

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen


 

SỨC NẶNG CỦA LỜI CẦU NGUYỆN …-Truyện ngắn

 

Một phụ nữ bước vào cửa tiệm tạp hóa lớn, cô ngó quanh dáo dát rồi đến bên quầy tính tiền nói với ông chủ.

– “Thưa ông, tôi cần mua một ít thức ăn, nhưng tôi không có tiền ngày hôm nay. Ông có thể cho tôi mua chịu được không? Tôi hứa sẽ đem tiền đến trả ngay khi sớm nhất có thể“, cô cuối đầu ngượng ngùng nói.

– “Oh, không được đâu. Tôi đâu biết cô là ai? Làm sao tôi có thể bán chịu cho cô khi cô chưa từng là khách quen ở cửa tiệm tôi?“, ông chủ lắc đầu.

Nước mắt lưng tròng, người phụ nữ van xin:

– “Chồng tôi bị bệnh nặng, không thể đi làm được. Chúng tôi có 5 đứa con, và chúng đang rất đói. Xin ông hãy rủ lòng thuơng giúp đỡ cho một lần này thôi. Tôi hứa khi có tiền sẽ đem đến trả ông ngay!“

Ông chủ tiệm chỉ tay ra phía cửa nói:

– “Cô vui lòng ra khỏi đây ngay. Đừng cản trở tôi mua bán chứ. Khách đang xếp hàng sau lưng cô kia kìa …“

Từ phía sau người phụ nữ, một người đàn ông nãy giờ đã nghe 2 người đối thoại bước lên. Ông nói:

– “Hãy để tôi ứng tiền cho cô ấy, ông cứ để cô ấy lấy những gì cô ấy cần.“

Người chủ tiệm nhìn 2 người, lưỡng lự một chút, rồi ông ta chợt nảy ra ý tưởng hay. Ông hỏi người phụ nữ:

– “Cô có biết cô cần mua gì không? Nếu biết thì hãy viết ra giấy đưa cho tôi.“

Người phụ nữ mừng rỡ nói:

– “Vâng, thưa ông. Tôi sẽ viết ngay đây.“

Nhưng ông chủ tiệm lại tiếp:

– “Viết xong đưa tờ giấy đó cho tôi, tôi sẽ bỏ lên bàn cân này. Nó nặng bao nhiêu thì cô cứ lấy những gì cô cần cho đến khi đủ. Tôi sẽ không tính tiền những gì cô lấy!“. Ông chủ tiệm cúi xuống gầm lôi lên bàn một cái cân to tướng, và chỉ vào một phía.

Người phụ nữ và ông khách phía sau ngạc nhiên trước thái độ ông chủ, nhưng cô không còn lựa chọn nào khác. Người phụ nữ lục trong túi xách một mảnh giấy nhàu nát, cô run run viết lên tờ giấy đó … Rồi cô gấp đôi tờ giấy lại đưa cho ông ta.

Ông chủ tiệm nhếch mép cười, rồi bỏ tờ giấy lên một bên cân. Nhưng lạ thay, mảnh giấy từ từ chìm xuống cho đến đụng đáy trước sự ngạc nhiên của 3 người. Người phụ nữ vội đi gom thức ăn bỏ vào bên thau bên kia, nhưng dù cô có bỏ lên bao nhiêu, phía bên tờ giấy vẫn không nhúc nhích. Ông chủ tiệm nhìn kỹ 2 bên cân, nhưng rõ ràng nó không có gì khác thường …

Cho đến khi thau đồ đã đầy, ông chủ tiệm đành để người phụ nữ ôm túi đầy thức ăn bước ra tiệm mà không thể tính tiền trước sự ngạc nhiên của người khách lạ.

Ông chủ tiệm lật hẳn cái cân lên coi, thì ra phía dưới một bên cân đã gãy. Ông tức tối nhặt tờ giấy người phụ nữ gấp lại mở ra để xem cô đã lấy đi những gì của ông, thì ra cô chẳng hề viết list đồ cô cần mua, mà chỉ vỏn vẹn có giòng chữ:

« Lạy Chúa, Người biết chúng con đang cần gì, con xin phó thác tất cả trong tay Người. »

Ông chủ tiệm nhắm mắt ngước lên trời, giờ thì ông đã hiểu …

Bạn, xin hãy đừng đánh giá thấp một lời cầu nguyện. Chỉ có Chúa mới biết được lời nguyện cầu nặng bao nhiêu.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

MỘT CUỘC TÌNH TUYỆT ĐẸP – Vĩnh Chánh – Truyện ngắn

Vĩnh Chánh

Từ lâu, tôi muốn viết câu chuyện đời của một cặp bạn thân tình, nhưng mãi chưa có cơ hội. Nay nhân dịp kỷ niệm 50 năm đám cưới của anh chị, tôi không thể chần chờ viết lên đôi dòng, xem như một món quà gởi đến đôi bạn mừng ngày Lễ Vàng vào đầu tháng 12, 2023.

Anh Nghê Minh Hiệp sinh và lớn lên tại Saigon, trong một gia đình có thân phụ là một sĩ quan từng phục vụ các Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh, với chức vụ sau cùng là Thiếu Tá thuộc SĐ 21 BB, và 3 người anh em cũng là quân nhân, với người anh cả phục vụ trong Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, người anh kế là một phi công trực thăng, và người em rể cũng là một phi công trực thăng võ trang – cả 2 người này đều tốt nghiệp phi hành từ Hoa Kỳ. Do sống gần thân phụ, Hiệp chuyển trường nhiều lần, học qua các trường trung học Vĩnh Bình và trung học Tống Phước Hiệp, ở Vĩnh Long. Sau khi đậu Tú Tài vào năm 1968, Hiệp tình nguyện đầu quân vào Không Quân VNCH khi anh vừa tròn tuổi 19. Vào năm 1969, Hiệp được gởi sang Hoa Kỳ học bay.  Tháng 11, năm 1971, sau khi hoàn tất chương trình học lái máy bay phản lực trong một năm rưỡi, Hiệp trở về Việt Nam, và được đưa ra Đà Nẵng phục vu Phi Đoàn 516, lái khu trục phản lực A 37. Cuối năm 1972, Hiệp được điều vào Biên Hòa học lái chiến đấu cơ phản lực F5. Xong khóa học vào tháng 3, 1973 Hiệp nhận sứ vụ lệnh trở về lại Đà Nẵng, phục vụ Phi Đoàn 538 Hồng Tiển, một phi đoàn F5 vừa mới thành lập của Sư Đoàn 1 Không Quân.

Chị Nguyễn Thị Anh Ngọc sinh và lớn lên từ Đất Thần Kinh trong một gia đình có thân phụ trong quân đội, với chức vụ cuối cùng là Trung Tá, chánh văn phòng cho Trung Tướng Vĩnh Lộc tại Quân Đoàn II, Pleiku, trước khi hồi hưu mấy năm sau. Vì thân phụ là quân nhân di chuyển thường xuyên, nên Anh Ngọc cũng phải chuyển trường nhiều lần từ tiểu học cho đến trung học, như là trường Đồng Khánh, Huế , trường trung học Pleiku, rồi về lại trường Thiên Hữu, Huế. Tôi từng biết Ngọc thời chị còn học ở trường Đồng Khánh; có nước da “mặn mà có duyên”, tóc ngắn, thường mặc áo đầm, nào là jupe serrée, jupe plissée, jupe taille haute, jupe trapeze… thay vì áo dài tha thướt của nữ sinh Huế. Tuy là con gái gốc Huế, nhưng Ngọc mang một phong cách tân thời, à la mode, với một chút tinh nghịch, một chút ngổ ngáo, linh hoạt, không tỏ vẻ e lệ, rụt rè – nói chung: không mấy Huế- ngoại trừ giọng nói, điều này minh chứng Ngọc từng sống nhiều nơi khi theo thân phụ.

Một phi công gốc Nam Kỳ, một thiếu nữ gốc Cố Đô, vậy thì duyên tơ hồng nào giúp họ gặp nhau. Không phải qua giới thiệu của bạn bè hay gia đình, không phải trong một buổi liên hoan hay tiệc tiếp tân, mà cũng chẳng phải làm quen với nhau trong một quán cà phê hay tình cờ nhìn thấy nhau trong một buổi chiều núp mưa trên đường phố. Cuộc tình duyên của anh Hiệp và chị Anh Ngọc được anh chị mô tả như một cuộc tình “Wrong Number”. Nghe qua thấy quá lạ, nhưng đây đúng là một chuyện tình diệu kỳ với sự bắt đầu có tính cách thần tiên. Năm 1973, ở tuổi 21, Ngọc là nữ thư ký cho một trại quân vận ở Đà Nẵng mà vị chỉ huy trưởng là cậu của mình. Ngoài giờ làm việc, nhất là vào khoảng giờ ăn trưa, Ngọc thường táy máy bốc điện thoại quân đội, vui đùa bấm các con số, để rồi gác máy xuống khi nghe tiếng trả lời ở đầu dây bên kia.

Vào một buổi trưa đẹp trời tháng 5, 1973, Nàng bấm một dẩy số lạ và ngay lập tức nghe tiếng trả lời nhanh gọn, với giọng Miền Nam rất hấp dẫn “Thiếu Úy Nghê Minh Hiệp, tôi nghe đây”. Vào lúc ấy, cậu của Nàng bước vào phòng trực điện thoại, lập tức Nàng gác máy. Khoảng 20 phút sau, điện thoại trước mặt Nàng reo lên, giọng nói đầu dây kia vang nhanh “tôi là Thiếu Úy Nghê Minh Hiệp gọi lại đây. Có phải cô là người vừa kêu tôi rồi tắt máy…” Thế là bắt đầu một trò chơi, hầu như mỗi ngày hai bên đều kêu điện thoại nói chuyện với nhau. Sau một tháng trên điện thoại, trước lạ sau quen, họ bằng lòng gặp nhau. Nàng chiếm trọn tim Chàng ngay phút ban đầu “lưu luyến ấy”.

Trong cuộc tình này, Chàng thật sự choáng ngợp trước vẻ đẹp duyên dáng, nhí nhảnh, tuơi trẻ của Nàng, dù Chàng phải làm quen dần với một giọng Huế ngọt ngào, thật đáng yêu nhưng khó hiểu. Trong bất cứ cuộc tình nào cũng phải có một người yêu người đối diện trước. Hiệp luôn công nhận, không những Hiệp tha thiết yêu Ngọc mà anh thật sự si mê người đẹp của mình. Từ giọng nói, dáng điệu, phong cách. Từ cách ăn mặc, cách ứng đáp tự nhiên, cách trả lời ngay thẳng, không giả bộ quanh co, ngây thơ vô tội vạ. Tuy nhiên, vốn là một phi công thường xuyên bay vào vùng trời chi chít đạn thù chớp nổ trong tiếng gầm thét của động cơ phản lực, dù Hiệp có thể xem nhẹ cái chết của chính mình, Hiệp vẫn phải đắn đo dậm chân tại chỗ khi nghĩ đến thân phận dấn thân vào chốn nguy hiểm của mình. Còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong vòm trời đầy lửa đạn, nơi mà sự sống chết đang chờ đợi trong từng mỗi phi vụ, nơi mà thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Và khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người phi công, nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc.

Gần nửa năm sau, Hiệp vụng về tỏ lời xin cầu hôn với Nàng. Không trả lời Chàng liền, Nàng về Huế hỏi ý kiến của thân mẫu. Nàng kể hết tất cả những gì mình biết về Chàng, về con người, tính tình của Chàng, về công việc về cách giao thiệp của Cháng, về gia đình của Chàng…Thân mẫu của Nàng lắng nghe, để chỉ hỏi một câu cuối cùng “nếu con không lấy được Hiệp thì con có muốn lấy ai khác không?” Nàng trả lời “Nếu không lấy được anh Hiệp thì con sẽ không lấy ai hết”. Trong thâm tâm của Nàng, chính Nàng đã ước nguyện chia sẻ nổi đau buồn của Chàng sau khi biết gia đình Chàng gặp phải nhiều biến cố mất mát đau thương liên tục; Nàng muốn choàng ôm Chàng, cho Chàng sức sống, hy vọng và niềm tin qua nguyện cầu sẽ có nhau mãi mãi trong cuộc đời. Như muốn dang đôi cánh thiên thần bảo vệ, chặt đứt vòng tử thần lởn vởn trên đầu người yêu. Nàng bất chấp nghĩ rằng mình có thể trở thành một quả phụ, như trường hợp một vài bạn thuở trung học của mình lấy chồng quân nhân. Không những đây là một mối tình tuyệt đẹp, mà còn là một mối tình sắc son. Hỏi ai trong chúng ta mà không biết đến bài thơ “Ôi, Saigon Giờ Giới Nghiêm” của nhà thơ Tô Thùy Yên, được nhạc sĩ Trần Thanh phổ nhạc “Chiều Trên Phá Tam Giang”

Giờ nàу thành phố chợt bùng lên
em giòng lệ bất giác chảу tuôn
nghĩ tới một điều em không rõ
nghĩ tới một điều em sợ không dám nghĩ
đến một người đi giữa chiến tranh
lại nghĩ tới anh… nghĩ tới anh…

https://youtu.be/XYEkuqfYDf4?si=uFNSBCOOQ6mE40cE

Trong một tâm trạng vừa hân hoan vừa xót xa cho hoàn cảnh có tang của gia đình, Chàng và Nàng chính thức trở thành vợ chồng vào đầu tháng 12, 1973, bằng một buổi cơm trong gia đình tại Đà Nẵng. Cô dâu không có áo cưới, vợ chồng không có tuần trăng mật. Khi về thăm quê chồng, Nàng được bà gia giới thiệu với bà con hàng xóm “nó không phải là người Dziệt, mà là người Wuế”. Khi Nàng mặc đồ ngắn đi chơi bên ngoài, bà gia cũng lấy làm lo lắng, sợ con dâu bị lạnh mà trúng gió!

Có lần ngồi cạnh nhau, nghe Hiệp tâm sự về gia đình mình, nhất là về cái chết của những người thân trong gia đình mình, tôi thật bàng hoàng, xúc động và xót xa, liên tưởng ngay đến chuyện phim nổi tiếng “Saving Private Ryan”. Người anh cả của Hiệp là người đầu tiên trong gia đình tử trận năm 1969, tại quận Bình Chánh, khi đang là một đại đội trưởng của Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, ngay trong thời gian Hiệp đang chờ du học phi hành tại Hoa Kỳ. Chỉ vài tháng sau khi từ Biên Hòa Hiệp về lại Đà Nẵng bay chiến đấu cơ phản lực F5, và cùng trong thời gian Hiệp bắt đầu làm quen với Ngọc, người anh thứ nhì của Hiệp, một phi công trực thăng thuộc Phi Đoàn 229 Lạc Long, bị chết cháy ngay tại ghế ngồi khi trực thăng do anh lái bị trúng đạn và rơi xuống vùng rừng núi tại Pleiku, vào tháng 6, 1973. Và không đầy 4 tháng sau, vào tháng 10, 1973, người em rể, vốn là một phi công trực thăng võ trang, thuộc phi đoàn 213 tại Đà Nẵng, tình nguyện bay chiếc trực thăng bị trục trặc động cơ về Đà nẵng, nhưng anh buộc phải hạ cánh chiếc trực thăng tại một vùng bất an ninh ở Quảng Ngãi, nên sau đó bị du kích VC địa phương sát hại bằng một nhát dao đâm vào cổ, trong khi đã bị thương và kẹt trong phi cơ.

Để trả lời câu hỏi của tôi vì sao gia đình Hiệp không xin cấp trên cho con trai duy nhất còn lại của mình được làm việc dưới đất thay vì tiếp tục bay để tránh nguy hiểm, Hiệp trả lời một cách can cường “đã là một Cánh Thép thì mãi mãi là một Cánh Thép cho Tổ Quốc – Không Gian”. Tuy nhiên, với lời thỉnh cầu của cha mẹ Hiệp, Bộ Tư Lệnh Không Quân cho vợ chồng Hiệp thuyên chuyển từ Đà Nẵng về Biên Hòa vào tháng 3, 1974, cho gần gia đình Hiệp, nhưng Hiệp vẫn tiếp tục bay chiến đấu cơ F5 trong phi đoàn  522 Thần Ưng của Sư Đoàn 3 Không Quân. Tại căn cứ Biên Hòa, gia đình bé nhỏ của Hiệp Ngọc gánh một nỗi đau nghiệt ngã. Con gái đầu lòng của vợ chồng, vì sinh thiếu tháng, được cho nằm trong lồng ấp điều hòa, có dưỡng khí. Vào một đêm căn cứ không quân Biên Hòa bị địch pháo kích, hệ thống điện được lệnh tắt. Lồng ấp sơ sinh không có điện, lại thêm người y tá trực không có mặt nên bé không có dưỡng khí để thở, bị ngột và chết. Với cái chết của bé sơ sinh này, đại gia đình của vợ chồng Hiệp Ngọc mất tất cả 4 sinh mạng. Vì chiến tranh. Ôi chiến tranh thật tàn nhẫn!!

Cận ngày 30 tháng 4, 1975, vợ chồng Hiệp Ngọc được di tản khỏi Viêt Nam. Họ sớm có công việc tạm ổn định trong thời gian đầu tiên tại Quân Cam. Nhưng có lẻ điều may mắn nhất – theo tôi nghĩ – là Hiệp Ngọc chọn Quân Cam làm nơi định cư vĩnh viễn, từ thủa lập nghiệp cho đến lúc về hưu. Và hiện tại. Qua sự nhận xét của tôi, Hiệp Ngọc không có nhiều tham vọng, họ chỉ chú trọng nuôi con khôn lớn, có một đời sống đơn giản, không đua đòi, vẫn ở tại một căn nhà mua từ giữa thập niên 80. Hiệp về hưu sau 36 năm làm việc cho hảng Mobil, đi từ nhân viên cấp nhỏ trong phân sở bảo trì cho đến chức vụ cuối là Supervisor về Planning; Ngọc thì làm kế toàn cho một hảng tư.

Hiện tại Hiệp Ngọc có 3 cô con gái và 5 cháu ngoại. Sống hạnh phúc và sức khỏe. Đây là một cặp vợ chồng rất thuận hòa, đi đâu hay làm chuyện gì cũng tâm đầu ý hợp, luôn có nhau bên cạnh, du lịch nhiều nhất trong những bạn “giang hồ” mà tôi từng biết, có thể cả 1/3 thời gian trong năm. Họ đi cruises nhiều chuyến, đi du lịch thế giới, du lịch khắp nước Mỹ, thăm gia đình định cư tại Úc, về VN hằng mỗi năm, thăm gia đình ở Saigon, Cà Mau (là gốc của đại gia đình phía Hiệp), thăm gia đình ở Huế…

Tính tình Hiệp Ngọc rất hòa nhã, thoải mái, cởi mở và hào phóng; vợ chồng luôn hành xữ đẹp, tử tế và tận tình với bạn bè, và vô cùng hiếu khách, luôn tạo cơ hội để mời mọc họp mặt vui chơi với nhau, nên căn nhà của Hiệp Ngọc là nơi thường xuyên tụ tập của các bạn Không Quân của Chàng, bạn thời trung học của Nàng, nhất là trong các cuối tuần, các dịp Tất Niên, Tân Niên, mừng sinh nhật, July 4th, Veteran Day…Khi mùa Đông đến, Hiệp Ngọc thường hay mời vài ba cặp bạn lên Big Bear ở nhà mình chơi tuyết. Nhìn Chàng và Nàng lã lước khiêu vũ trên sàn nhảy, chúng tôi rất ngưỡng mộ.

50 năm, một nửa của thế kỷ, là một khoảng thời gian quá dài để nhớ hết tất cả những gì đáng nhớ, nhất là khi đã trải qua những năm liền với quá nhiều biến cố trong chinh chiến, với sự mất mát của bao người thân trong gia đình, cơn đại nạn của đất nước và khi xây dựng lại cuộc đời trên xứ người. Nhưng 50 năm đã qua như một cơn gió thoảng. Có chăng để lại trong đời người nhiều kỷ niệm, nhưng có những kỷ niệm thật đáng nhớ mà ta gọi là hoài niệm không hề phai trong tâm cảm. Cũng vậy, trên đường đời, chúng ta gặp nhiều cảnh ngộ tốt xấu, nhiều bạn hiền trong các hội ngộ. Tuy nhiên có những hội ngộ đặc biệt để lại xúc cảm trân quý thì ta gọi là đó hạnh ngộ. Tôi ước mong Hiệp Ngọc sẽ mãi gìn giữ những hoài niệm chung, được xây đắp qua những cảnh ngộ, hạnh ngộ khó phai.

Từ những giấc mơ nhỏ nhoi, chúng ta đan thành những thực tế to lớn dần, thành công có, thất bại có. Để bây giờ khi mùa Thu tựa cửa cuộc đời, còn đâu nữa là những vấn vương lẫm cẫm.

Qua rồi là công danh sự nghiệp. Qua rồi là trách nhiệm với đời. Giờ đây chỉ lấy niềm vui gia đình con cháu làm lẽ sống, lấy tình bạn làm vui qua ngày và tìm đường mây rộng thênh thang để rong chơi. Nếu như vậy, Chàng nên ca bài “Anh Còn Nợ Em” hằng ngày và mỗi ngày. Và đừng quên đấm bóp, nắn chân, vuốt tóc cho Nàng mỗi đêm.

Xin được chúc mừng Lễ Hấp Hôn lần thứ 50 của vợ chồng Hiệp Ngọc với bài thơ sau đây:

“Vạn lý đường đời ta chung bước

Trường thành xây đắp tình thiên thu

Cùng nhau sánh vai cùng chung hướng

Khổ đau vui sướng mãi bên nhau”

Ngày 29 tháng 11, 2023

Vĩnh Chánh.


 

Tôi làm Mẹ- Truyện ngắn-Nguyễn Diệu Anh Trinh

Tác giả và con gái (ảnh tác giả gửi)

Người ta thường làm vợ rồi làm mẹ. Tôi bắt đầu thiên chức làm mẹ khi chưa được hãnh diện làm vợ như bao nhiêu phụ nữ bình thường khác. Bởi vậy đoạn đường tôi đi chông chênh, gập ghềnh hơn.

Lần đầu tiên tôi đi khám thai ở phòng mạch của bác sĩ Minh Dung, nữ bác sĩ danh tiếng về sản khoa ở Đà Nẵng, một mình với cái bụng lum lúp. Khuôn mặt tôi còn trẻ thơ dù năm ấy tôi đã hăm lăm tuổi. Thấy tôi ứa nước mắt cúi mặt, không trả lời khi bà thăm hỏi xã giao vài câu về gia cảnh. Vị nữ bác sĩ dày dạn kinh nghiệm như ngầm hiểu được phần nào cái éo le của người thai phụ đơn độc. Bà đã cho tôi những lời khuyên thân mật, đầy nữ tính. Tôi man mán nhớ bà nói mấy câu không ăn nhập gì đến việc khám thai, từa tựa như lời dạy Đức Phật: “Con người ta sống ở đời, nhất là phụ nữ cần phải có lòng nhân hậu. Gieo hạt nào thì hái được quả đó em ạ. Không ai trồng cây cam mà hái trái khổ qua đâu!”

Tôi rời phòng khám, mang theo lời khuyên của vị bác sĩ nhân từ, như những hạt cam đang gieo mầm trong lòng tôi. Nước mắt quanh bờ mi. Rồi tôi đến phòng sanh, đớn đau, bất hạnh, leo lên bàn sinh vượt cạn một mình, không có má tôi cạnh bên để tôi có thể níu tay mà rên rỉ: “Con đau quá má ơi!”. Bé chào đời lúc sáu giờ sáng một ngày mùa hè, tôi còn nhớ chính xác như thế vì ngay khi tiếng khóc oe oe vang lên cùng với lời reo của cô y sĩ “A, con gái…”, tôi nghe văng vẳng từ loa phóng thanh treo bên cổng trạm hộ sinh, “Đây là tiếng nói đài phát thanh…, bây giờ là 6 giờ sáng”…

Con tôi ra đời khoẻ mạnh bụ bẫm. Tôi vụng về ẵm con gái, cảm giác thương yêu tràn ngập. Bé cân nặng hơn bốn ký. Đôi mắt trong vắt, tròn xoe, hai mí, không nhắm nghiền như những bé sơ sinh khác mà mở lớn, ngơ ngác nhìn tôi như phó thác sinh mạng bé nhỏ vào tay tôi. Tôi đã đánh đổi mạng sống của mình cho sự ra đời hoàn hảo ấy, suýt mất mạng vì một trận băng huyết dữ dội sau khi sanh.

Ba của bé, người đàn ông đầu tiên trong cuộc đời tôi, người không thể cùng tôi đi chung chuyến đò duyên nợ, với lý do “lý lịch, thành phần gia đình… không được chấp nhận”… Hôm nghe tin nhắn, anh vội vàng có mặt ngay đêm hôm đó, cũng vụng về khi ẵm con. Anh nói, con bé giống anh cái bàn tay, bàn chân và cả vành tai nữa. Anh chia sẻ với mẹ con tôi nguyên đêm dài hôm đó, đưa cho tôi thêm ít tiền trang trải viện phí, ẵm bé để tôi ngủ yên giấc. Sáng hôm sau, khi tiếng loa phóng thanh ở cổng trạm xá chưa kịp vang lên tiếng gọi tập thể dục, anh đã ra bến xe trở về Đà Nẵng, hối hả, vội vàng, như không muốn kéo dài giây phút luyến lưu từ biệt. Chỉ một đêm, đó là thời gian dài nhất trong đời mà con gái tôi được cận kề ba nó, kể từ đó đến tận bây giờ.

__________

Tôi quyết định đem con về Đà Nẵng, ở chung với gia đình mình, bắt đầu đoạn đường dài một mình ôm nuôi đứa con thơ dại. Chén cay, chén đắng cuộc đời, tôi một mình nếm lấy. Năm 1985, thời kỳ mở cửa, việc buôn bán tương đối thoải mái, tôi buôn bán đủ thứ, thức khuya dậy sớm, để con có được miếng ngon, cái đẹp như người ta. Tôi còm cõi tàn tạ ra sao không cần biết, miễn sao con tôi no đủ đẹp đẽ. Có thời tôi làm thuê cho một quán cơm ở gần ga Đà Nẵng, lương tháng mấy chục bạc, tôi dè sẻn mua mấy quả cam sành để dành vắt nước uống cho con có chất vitamin C. Mới dùng được một quả, tuần sau dòm lại thì nguyên bịch cam đều vàng úng, chảy nước. Tôi cất kỹ quá, trong khi mùa hè Đà Nẵng trời rất nóng. Tự trách mình ngu ngốc, tôi vất mấy quả cam vào thùng rác mà nước mắt chảy dài.

Tôi nuôi con trong chật vật không thể tả, với những dòng nước mắt âm thầm hằng đêm những ngày đông lạnh, và những giọt mồ hôi đẫm ướt áo những buổi trưa mùa hè, khi tôi cọc cạch chở sách báo đi bỏ mối cho các quày bán lẻ. Bụng tôi lúc nào cũng đói meo và tim óc rối tung vì nợ nần chồng chất. Bù lại, con bé càng lớn xinh đẹp và thông minh, có lúc đoạt giải “Bé Đẹp, Bé Ngoan” của thành phố. Bé mang họ mẹ; tên và nghề nghiệp cha trong tờ khai sinh thì ghi: “Con ngoài giá thú”! Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ nhắc đến hoàn cảnh ra đời của bé với giọng oán hờn, cũng như tôi không bao giờ gieo vào tâm hồn thơ dại của con tôi hình ảnh không đẹp về người cha.

___________

Thế rồi, trong tận cùng vực thẳm của nghèo khổ và đói ránh, một điều kỳ diệu đã đến với số phận tôi. Hai mẹ con vui mừng khóc hết nước mắt khi được nhân viên Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn bắt tay chúc mừng thông báo chúng tôi được định cư Hoa Kỳ, theo chương trình ra đi vì nhân đạo (HO) của Ba tôi, sau khi ông nằm tù hơn 10 năm. Đó là mùa Hè 1994. Đến Mỹ, như một trang vở mới, con tôi, mới mười tuổi, bắt đầu làm quen với ngôn ngữ và văn hóa mới. Tôi ra sức làm việc. Bạn bè quê nhà ai cũng chúc mừng nhưng không ai biết tôi kiệt lực như thế nào. Phải, tôi đi làm quên cả trời đất. Mỗi sáng tôi đón xe bus, rồi qua mười trạm tàu điện, đổi hai tuyến xe bus khác mới đến được chỗ làm. Trời lạnh buốt, vớ mang không đủ ấm, tôi phải dùng bao nylon để bọc hai bàn chân trước khi xỏ vào giày…

Mùa Noel đầu tiên nơi đất khách, con tôi được nhận nguyên một xe truck đầy quà, gồm áo quần, sách vở, giày dép, đồ chơi… do chính cô giáo Mỹ chở đến tận nhà. Thì ra mấy tuần trước, khi bé đến trường trong cái áo đầm hồng do một cơ quan từ thiện tặng, cô giáo nhìn thấy sự nghèo nàn qua bộ đồ ngủ mà bé đi học, nên đề nghị nhà trường cho bé phần quà nhiều nhất trong trường. Tôi còn nhớ hôm đó trời lạnh lắm, cô giáo phụ chúng tôi mang quà vào nhà. Con tôi leo lên tấm nệm nhảy nhót reo mừng “Má ơi, bữa nay là ngày con sung sướng nhất. Trời ơi, nhiều đồ chơi quá, nhiều áo quần quá…”. Cô giáo trìu mến ôm con tôi; và cũng như tôi, cô khóc!

Thay đổi vài nơi làm việc, từ dọn phòng khách sạn cho đến thư ký văn phòng bác sĩ, sau đó chúng tôi dọn nhà lên hướng Bắc của tiểu bang. Tôi được nhận vào làm cho một nhà in, khâu đóng gói. Bàn tay tôi do cứ làm nặng một động tác nên bị giãn gân, ngón tay giữa cứng đơ không cử động được. Tôi phải đi phẫu thuật.

Tôi làm việc nặng nhọc ở khâu đóng gói trong nhà máy in được chừng bốn, năm năm. Hơn bốn mươi tuổi, mỗi ngày đi làm về hai vai tôi nhức mỏi không thể tả, đôi chân đứng suốt ngày như tê dại, tôi biết sức mình khó có thể tiếp tục lao động nặng nhọc như những di dân khỏe mạnh Nam Mỹ. Nhân dịp nhà in cho công nhân đi học thêm tiếng Anh có ăn lương, tôi ghi tên đi học lại. Con gái lúc này đã có thể giúp tôi ít nhiều bài làm ở nhà. Xong khóa học, tôi làm đơn xin ban giám đốc nhà in cho tôi làm việc khác, và được chấp thuận. Từ đó tôi thoát cảnh làm việc lao động nặng, lương ít và bấp bênh.

___________

Tôi muốn con tôi biết giá trị đồng tiền nên tôi cho con đi làm thêm sau buổi học và một ngày cuối tuần. Tôi không hề nghe con bé kể lể hay than khổ. Nó cũng hỏi han gì thêm về ba nó. Tận trong lòng, nếu con tôi có ý muốn tìm hiểu, tôi sẽ nói rất thật lòng, ba mẹ vì không nợ duyên nên ông trời sắp đặt ở hai hoàn cảnh khác nhau, không ai có lỗi và không ai oán hờn ai. Chuyện qua lâu rồi. Ba con bây giờ trở thành cố nhân, và không nên để chuyện đời xưa làm buồn những giây phút vui tươi hiện tại.

Một mình dạy con, chao ơi là khó! Ngày xưa không đủ cơm no áo ấm, tôi ra sức làm lụng. Ngày nay tôi hiểu, tạo cho con một đời sống sung túc gay go như thế nào thì việc chăm sóc vấn đề tinh thần, đạo đức còn khó gấp trăm lần. Với tôi, cách dạy con cụ thể nhất là phải làm gương cho nó, không thể dùng lời nói suông. Nhất là phải làm sao cho có uy tín, có một chỗ đứng trong lòng đứa con, để khi vui con có thể chia sẻ với mình và khi buồn hay vấp ngã thì con cũng biết tìm về mẹ để giãi bày.

Ngày tháng trôi qua, có khi êm đềm và hiền hòa như mặt hồ không gợn sóng, có khi cũng cuồn cuộn dữ dằn như cơn bão ngoài biển khơi. Tình cảm con người có khi lắng sâu, có khi bột phát. Con gái tôi có khi khát khao, có khi bất cần. Tuy vậy, dù cứng rắn mạnh mẽ, cá tính đến bao nhiêu đi nữa thì chúng tôi vẫn không che giấu được nỗi khắc khoải trong ánh mắt khi tình cờ bắt gặp đâu đó trong cuộc sống hàng ngày vài khoảnh khắc tỏ bày cảm tình của một người cha đối với đứa con nhỏ.

Nhu cầu được yêu thương như một cái bóng cứ đi theo chúng ta mãi suốt cuộc đời. Chúng ta có thể tự ra đời bươn chải, tự tìm miếng cơm để nuôi thân nhưng yêu thương thì khác. Phải có quan hệ qua lại lâu dài, không thể nào một giờ một khắc, một buổi nói chuyện là có thể tạo nên cảm tình sâu đậm. Dòng sông trăm nhánh đều xuôi ra biển cả, giọt nước mắt nào cũng rơi xuống, tình thâm máu mủ ruột rà từ bậc sinh thành nào cũng luôn trao xuống các con, núm ruột của mình.

Ngày con tôi dọn ra ở riêng, tôi giúp con bằng tất cả khả năng tôi có, về vật chất lẫn tinh thần. Tuy vừa đi học, vừa đi làm nhưng con bé cũng dành dụm mua được một căn nhà nhỏ, mới mẻ và xinh xắn, ở gần nhà tôi. Con bé tánh tình tự lập, đoạn đường đời ngắn ngủi mà con tôi trải qua cũng đôi lần vấp ngã. Hai mẹ con lúc nào cũng có nhau, chuyện vui buồn đều chia sẻ như hai người bạn thân. Tôi thật xúc động mỗi khi nghe con bé thỏ thẻ tâm sự và dĩ nhiên khi con có chuyện buồn, tôi là người đau xót và chảy nước mắt trước.

Tôi làm mẹ, một người mẹ chưa hoàn hảo bởi tôi đã không cho con tôi một đời sống tình cảm đầy đủ như bao nhiêu đứa trẻ khác. Trong khi tôi hãnh diện biết bao về người cha của mình thì con tôi lại khiếm khuyết cái thâm tình phụ tử. Tôi làm mẹ, dẫu hết lòng hết sức, nhưng vì một chọn lựa sai lầm của trái tim, tôi đã phải là một người mẹ cô độc trong những tháng năm con tôi lớn làm người. Do vậy, con tôi chưa bao giờ được hưởng thụ cảnh đầm ấm của một mái gia đình sum họp.

Người ta nói, những đứa trẻ thiếu chỗ dựa tinh thần của người cha thường dễ tủi thân. Đúng vậy, con tôi dễ mủi lòng. Cá tính mạnh mẽ bên ngoài không thể nào che hết sự mềm yếu trong tâm hồn. Điều này tôi thấy được rõ ràng và đó là điều khiến lòng tôi ray rứt. Dù thê nào, tôi luôn hãnh diện với đứa con ngày nó tự lực bước ra đời, ra ngoài vòng tay bảo bọc của tôi mà vẫn biết cư xử có tình có nghĩa. Một hình hài hoàn hảo và một tấm lòng vì mọi người. Cuộc đời làm mẹ của tôi từ ngày đứa con gái chào đời cho đến khi nó quyết định rời khỏi vòng tay mẹ ra đời tự lập cứ hiện ra, tới lui trong lòng tôi như một cuốn phim dài nhiều tập.

Muôn nẻo đường đời từ quê nhà đến quê người, bao kỷ niệm, bao nụ cười, và bao nhiêu đắng cay…, tất cả tôi đã nếm trải và tôi xem đó là tất cả hành trang mà tôi mang theo cho đến ngày nhắm mắt.

Atlanta, GA

Nguyễn Diệu Anh Trinh


 

Cậu Thợ Khóa – Hướng Thiện -Truyen ngan

 Hướng Thiện

Tôi đến cậu thợ khóa hay ngồi ở đầu phố để làm thêm một chìa khóa dự trữ đề phòng khi thất lạc , mình già rồi, hay lẩn thẩn.

Cậu thao tác thoăn thoắt, loáng một cái đã xong, chưa đến 10 phút. Tôi đứng lên vừa trả tiền vừa khen:

– Rất nhanh, rất sáng tạo. Thiết bị cũng gọn nhẹ. Cháu giỏi lắm!

– Cháu làm nghề này thú vị đấy!

– Dạ, đâu có gì thú vị ạ. Cái nghề này tuy chân chính mà lại gắn bó với một biểu tượng nhục nhã của xã hội đó bác.

– Sao?

– Dạ, cái khóa là một biểu tượng của sự không tin cậy giữa con người với con người.

Hết sức ngạc nhiên trước câu nói này, tôi lại ngồi xuống nghe chuyện. Nhìn kỹ cậu thợ khóa trẻ, cũng có vẽ thư sinh. Hơi đen chắc do cả ngày ngoài nắng gió.

-Cháu làm thợ khóa bao lâu rồi ?

– Dạ ba năm rồi ạ.

– Trước đó cháu làm gì?

– Dạ … dạ… con dạy học.

Tôi lấy làm lạ .

– Cháu dạy môn gì và vì sao thôi dạy hoc?

– Dạ con dạy Sử cấp ba. Do con bị viêm thanh quản, nói tiếng khao khao như thế này. Không chữa được. Cũng không muốn nhà trường khó nhọc tìm việc khác cho mình, con xin nghỉ.

– Thế làm thợ khóa thu nhập ra sao?

– Dạ cũng tương đương khi đi dạy.

Tôi thấy thích anh chàng nầy.

– Cháu nói về cái khóa sâu sắc lắm .

Dường như tôi bắt đúng làn sóng của cậu ấy, cậu sôi nổi:

– Bác thấy đó, người ta liên tục sáng tạo ra các loại khóa mà kẻ gian cũng liên tục sáng tạo ra cách mở trộm. Có người ghé hiệu thuốc chỉ 5 phút cũng phải khóa xe máy, nhưng kẻ gian chỉ cần 10 giây để mở được khóa và trộm xe.

Trong Thành phố , biết bao ngôi nhà phải có rào sắt kiên cố, trên đỉnh rào còn phải có hàng lưới mác nhọn ghê hồn. Có người còn chưa yên tâm, quấn thêm dây thép gai lưỡi búa sắc như dao trên đầu rào. Còn ổ khóa cổng thì muôn phần hiện đại chắc chắn. Sao lại phải đến thế?

Có vẻ thấy tôi chăm chú nghe, cậu nói tiếp:

– Hằng ngày con thường đi qua một nhà hàng ở phường Thảo Điền này. Ông bà chủ người Tây ban Nha phải dùng xích sắt khóa cái thùng rác bằng nhựa của họ vì đã từng bị mất cắp. Có nhục không? Họ nghĩ về môi trường xã hội, về con người VN thế nào?

Tôi thở dài:

– Ờ, trưoc đây từng có thời nhà không cần cổng, vườn không cần rào. Có thể khép cửa không cần khóa mà yên tâm cấy cày cả buổi ngoài đồng.

– Dạ đó quả là một xã hội thân thiện, tin cậy lẫn nhau đến thế. Con cũng từng nghe như vậy, nay đâu rồi bác?

Tôi hiểu cậu ấy không chờ tôi trả lời. Cậu không nhìn tôi, thấp giọng nói tiếp:

– Lòng tin con người bị sứt mẻ ở khắp nơi. Sáng đi chợ, mua một mớ rau cho vợ con ăn, con cũng xót xa rằng khó mà tránh được hóa chất độc hại do người trồng sử dụng vì hám lợi. Trưa ghé hiệu thuốc mua một hộp tinh bột nghệ chữa dạ dày cho vợ, không biết có pha bột màu xây dựng trong đó không? Nếu tinh bột nghệ giả bằng bột sắn dây hay bột mì thì đó còn là sự lừa đảo có lương tâm. Ôi lòng tin ở con người !

Cậu nói với sự xúc động của một cha, một người chồng bất lực.

Chúng tôi cùng im lặng.

Một người trẻ như cậu ấy cũng trăn trở với tình trạng xuống cấp đạo đức xã hội. Sự dối trá, vô cảm, bạo lực xảy ra quá phổ biến nên trở thành bình thường. Trên TV, trên báo mạng đưa đầy rẫy chuyện cướp bóc, trộm cắp, đâm chém… nghe mãi rồi thành quen, không còn quá xót xa vì nhân tình, không còn quá nhức nhối vì quốc thể, ấy mới là điều đáng sợ.

Cậu ấy cầm cái dũa gạch gạch mạnh trên nền xi măng. Tôi cảm nhận sự bức xúc của cậu .

– Cháu nói đúng với thực tế lắm. Bác cũng có những trải nghiệm và nhận xét tương tự.

Nhưng…

Tôi định làm không khí nhẹ bớt bằng những câu chuyện đầy tình người trong đại dịch vừa qua thì đúng lúc đó một khách hàng khác đến chữa khóa, chấm dứt câu chuyện của chúng tôi. .

Tôi đứng dậy chào ra về. Cái ống khóa trì nặng trong túi tôi như dòng suy tư nặng nề chưa dứt.

Hướng Thiện

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen

TÌNH NGƯỜI …. VÔ GIÁ ! Truyện ngắn

Nghệ Lâm Hồng

Anh lính nắm chặt tay cha hấp hối suốt đêm trong viện, sau đó anh tiết lộ sự thật khiến cô y tá sững sờ…

*******

Câu chuyện ngắn dưới đây được viết lại dựa theo một sự kiện có thật. Tác phẩm khi được giới thiệu ra công chúng lần đầu tiên đã làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả…

Cô y tá bước vào phòng bệnh với gương mặt lo âu, hồi hộp, xen lẫn chút mệt mỏi, theo sau là anh lính Hải quân điềm đạm với những nét khắc khổ trên khuôn mặt. Hai người lặng lẽ tiến lại gần người đàn ông đang nằm bất động trên giường bệnh. Cô gái thủ thỉ vào tai ông: “Bác kính yêu, con trai bác đã đến rồi đây!”

Người đàn ông không có phản ứng gì. Có vẻ những liều thuốc an thần “nặng kí” để giảm những cơn đau tim quằn quại đã khiến ông chìm vào giấc ngủ mê mệt… Cô y tá phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần ông mới nặng nề mở được đôi mắt vốn đã mờ đi vì bệnh tật. Những cơn đau tim dữ dội khiến cơ thể ông không còn một chút sức lực. Ông yếu ớt nhìn anh lính cạnh giường mình, rồi nắm lấy tay anh…

Anh lính Hải quân vội vàng nâng đôi tay xanh xao gầy guộc của ông lão lên rồi nắm chặt, như thể muốn truyền cả tình yêu và lòng dũng cảm của anh sang cho ông lão. Ông chỉ nhìn anh run run mà không thể nói gì. Cô y tá biết cuộc hội ngộ này có ý nghĩa thế nào với ông lão và sẽ rất lâu để hai người có thể giãi bày hết tâm tư, nên cô lặng lẽ mang đến cho anh một chiếc ghế, đặt cạnh giường.

Suốt đêm ấy, anh lính cứ nắm lấy tay ông lão chẳng rời. Anh kể cho ông nghe những câu chuyện “sinh tử” khi làm nhiệm vụ. Có một lần anh đã suýt chết đuối. Hôm ấy biển động dữ dội, trời mưa rét, gió lạnh căm căm, hạm đội của anh phải đi tuần tra thăm dò một vùng biển được cho là bị phục kích. Thời tiết khắc nghiệt khiến tầm nhìn cả đoàn tàu bị hạn chế. Anh là đội trưởng, phải có trách nhiệm hướng dẫn cả đoàn. Trong lúc mải mê quan sát, cơn bão to dữ dội xô anh ngã khỏi tàu. Ai nấy đều hốt hoảng nhìn anh vùng vẫy trong cơn sóng to, rồi dần dần chìm xuống.

“Cha biết không? Lúc ấy, con tưởng cuộc đời mình chuẩn bị kết thúc rồi. Nước xộc vào mũi, cả cơ thể bị bao vây bởi nước, ngực nặng trĩu… Con tự hỏi, chết bây giờ thì có hối tiếc không?… Con chẳng nghĩ được nhiều nhưng thấy trái tim mình bình yên đến lạ… Con nghĩ đến đấng tối cao trong con và tấm lòng từ bi của Ngài… Nếu được đến với Ngài trong giây phúc này, con chắc chắn sẽ không hối hận…”

Anh nghẹn ngào tiếp lời: “…và thế là, một phép lạ đã xảy ra… Con thấy cơ thể mình nhẹ nhàng từ từ nổi lên trên khỏi những cơn sóng, đồng đội con lúc ấy cũng đã kịp hoàn hồn dùng dây thả xuống để con bám mà kéo lên… Con đã được cứu sống một cách kỳ diệu như vậy đấy…!”

Anh bảo chính tình yêu cuộc sống và sức mạnh của niềm tin vào đấng tối cao đã giúp anh vượt qua những tình huống khó khăn, hiểm nghèo. Anh muốn ông hãy mạnh mẽ như cái cách anh đã làm để bảo vệ Tổ quốc. Khi tình yêu thương chiến thắng nỗi sợ hãi, sẽ không có chỗ cho khổ đau và bi kịch.

Rồi anh cũng kể về một mối tình đẹp đẽ nhưng không thành. Ngày ấy, khi anh chuẩn bị cầu hôn người đã chia ngọt sẻ bùi với anh suốt thời niên thiếu, thì nhận được tin anh phải đi đến Iraq tham chiến. Anh đã cảm thấy rất đau khổ và bế tắc khi bỏ lại người con gái anh yêu thương nhất. Nhưng giữa đất nước và tình yêu, anh chọn đất nước. Vì anh nghĩ rằng, nếu đất nước yên bình, người anh yêu cũng vì thế mà an vui. Anh khuyên cô hãy tìm một người đàn ông khác có thể chăm lo thật tốt cho cô, đừng đợi anh để rồi thất vọng. Vì anh chẳng biết đến ngày nào mình mới có thể về… Cũng không biết liệu mình có thể về được không. Nhưng anh không muốn kìm hãm sự tự do của người mà anh yêu.

Ông lão chẳng nói được gì, chỉ thỉnh thoảng gắng gượng nở một nụ cười mãn nguyện. Anh thấy cả những giọt nước mắt lăn dài trên má ông…

…Thấy trời đã khuya, cô y tá dịu dàng bước lại rồi bảo anh: “Anh nên nghỉ ngơi một chút, đã sang ngày mới rồi!”. Anh mỉm cười từ chối: “Cô hãy đi nghỉ đi, tôi muốn ở lại đây thêm một lúc nữa…”

Cô y tá ngập ngừng đáp lại: “Vậy tôi muốn ngồi lại đây với anh một lát”.

Rồi cô bắt đầu nói với anh, trước khi ông lão bị những cơn đau tim quái ác dày vò, ông hay kể với cô về con trai. Ông rất yêu đứa con này và luôn tự hào về anh. Ông nói anh rất dũng cảm và có một trái tim quảng đại. Ngày bé anh nghịch lắm, lúc nào cũng chỉ chăm chăm tìm vật dụng để hóa thân thành những anh hùng. Anh có đam mê với biển cả và những con tàu. Anh muốn sau này lớn lên sẽ trở thành một lính Hải quân, bảo vệ Tổ Quốc. Mỗi lần nhắc đến anh, hiện trong mắt ông lão đều là một sự hân hoan khó tả. Ông bảo anh đã xa ông từ rất lâu rồi. Ông chỉ ước một ngày được gặp lại con trai… Và thật may mắn khi anh đã có mặt ở đây…

Anh lính trẻ không nói gì, chỉ cúi xuống hôn lên trán người đàn ông đã thiếp đi lúc nào không hay… Và anh cứ ngồi túc trực bên ông như thế, mãi cho đến khi bình minh ló rạng…

Sáng hôm sau, khi sát lại gần đánh thức ông, anh mới hay ông lão đã trút hơi thở cuối cùng… Lúc ấy, anh mới buông tay ông ra và gọi y tá…

Sau khi bình tĩnh lại, anh lính trẻ quay sang nói với cô y tá: “Tôi muốn cho cô biết một sự thật…”. Cô y tá chỉ tròn xoe mắt: “Là sự thật gì vậy?”. “Tôi không phải con trai của ông ấy…Tôi chưa gặp ông bao giờ cả…”.

Cô y tá đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Cô hỏi anh nếu ông lão không phải cha anh vậy tại sao anh lại ở đó suốt đêm và trò chuyện với ông lão.

Anh mỉm cười hiền từ: “Cô biết đấy… ông lão đang rất cần tình yêu của một đứa con trai. Tôi chỉ muốn bù đắp cho ông bằng tấm lòng của mình… Ông ấy già rồi, mà vẫn chưa một lần được gặp lại con mình…Và… tôi cũng mất cha từ khi còn rất bé, lâu rồi tôi không có ai để chia sẻ nhiều như thế…”.

Cô y tá không nén nổi xúc động, thắc mắc điều kỳ diệu gì đã mang anh đến đây. Anh nói đó là một sự tình cờ ngẫu nhiên. Anh đến bệnh viện tìm ông William Grey nào đó để báo tin con ông đã hy sinh ở Iraq, nhưng duyên phận đã khiến anh có mặt tại căn phòng này…

Cô y tá nhìn anh run run: “Người đàn ông mà anh đã ở cạnh suốt đêm chính là William Grey…”

Cái đêm đặc biệt ấy đã khiến tâm hồn của ba con người thay đổi hoàn toàn. Ông lão được thỏa mãn nguyện ước cuối cùng của đời mình và có thể thanh thản để về bên kia thế giới.

Chàng trai trẻ mồ côi cha lần đầu tiên được nắm tay một người để có thể chia sẻ, bộc bạch mọi khó khăn, bước ngoặt cuộc đời mà anh đã cô đơn bước qua.

Cô y tá được chứng kiến tận mắt một câu chuyện nhân sinh quan rất xúc động có thật trên đời, có lẽ sẽ càng khiến cô trở thành một người chăm sóc nhân hậu, thông cảm và thấu hiểu hơn nữa tình người. Trong cõi xa xăm nào đó, hai cha con ông lão hẳn sẽ được đoàn tụ với nhau, và anh lính Hải quân sẽ không phải nuối tiếc vì thiếu hơi ấm của người cha khi còn quá trẻ…

Một lúc nào đó, giữa dòng đời tấp nập, nếu có ai đó cần bạn thật sự, hãy mở rộng tấm lòng mình như cái cách mà anh lính Hải quân đã làm với ông lão và với cuộc đời mình, để cảm nhận tình người và vị ngọt của sự chia sẻ, đồng cảm. Yêu thương người khác là yêu thương chính mình, bạn sẽ không bao giờ biết được hết giá trị của tình yêu không cần hồi đáp mà bạn cho đi.

(Sư Phạm Và Bằng Hữu)


 

Một câu chuyện có thật trong lịch sử – Truyện ngắn

 
Cô giáo trẻ mới về trường chỉ hỏi đúng 1 câu, đám học sinh hư hỏng chết lặng…

Đây là một câu chuyện có thật trong lịch sử. Tại một trường trung học ở Mỹ, có một lớp học nọ với 26 em học sinh cá biệt. Những em học sinh trong lớp học này đều có tiểu sử không mấy hay ho: em từng tiêm chích ma túy, em từng vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ mà trong một năm đã phá thai tới 3 lần.

Gia đình đều chán nản và đã buông bỏ chúng, các thầy cô giáo trong trường thậm chí cũng coi chúng là đồ bỏ đi. Tưởng chừng cuộc sống đã hết hi vọng thì một ngày kia, Phila, một cô giáo mới về trường đã tình nguyện làm chủ nhiệm của những đứa trẻ hư hỏng này.Khác với suy đoán của bọn trẻ, trong ngày đầu tiên nhận lớp, Phila đã không hề quát nạt hay ra oai với chúng. Trong chiếc đầm lụa màu xanh nhạt, mái tóc màu nâu hạt dẻ búi cao, Phila bước nhẹ lên bục giảng. Cô dịu dàng nhìn xuống lũ trẻ một lượt rồi cất tiếng với vẻ trầm ngâm:“Cô sẽ kể cho các em nghe về quá khứ của 3 người đàn ông khác nhau:Người thứ nhất đã từng có những vụ bê bối về chính trị, rất tin vào y thuật của thầy cúng, ông ta từng có tới 2 tình nhân, hút thuốc nhiều và uống 8-10 ly rượu mạnh mỗi ngày.Người thứ hai đã 2 lần bị đuổi việc, hôm nào cũng ngủ tới trưa mới dậy và tối nào cũng uống 1 lít rượu brandy. Ông ta từng hít thuốc phiện khi còn là sinh viên…Người thứ ba là anh hùng chiến tranh của một đất nước. Ông ta ăn chay trường, không bao giờ hút thuốc và thỉnh thoảng mới uống rượu, có uống bia nhưng uống không nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp và chưa từng có một vụ bê bối tình ái nào.Cô hỏi cả lớp, trong 3 người, ai sau này sẽ có cống hiến nhiều nhất cho nhân loại?”

Những đứa trẻ đồng thanh chọn người thứ ba sau khi nghe xong câu chuyện, nhưng câu trả lời của Phila đã khiến lũ trẻ chết lặng.“Các em thân mến! Cô biết chắc là các em sẽ chọn người thứ 3 và cho rằng chỉ ông ta mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy. Ba người này đều là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2.Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường. Ông ta đã đảm nhận chức vụ Tổng thống Mỹ trong bốn nhiệm kỳ liên tiếp.Người thứ hai là Winston Churchill, vị Thủ tướng nổi tiếng và tài ba nhất trong lịch sử nước Anh.Còn người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít Đức đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội”.Cô giáo trẻ mới về trường chỉ hỏi đúng 1 câu, đám học sinh hư hỏng chết lặng…Người thứ nhất – Roosevelt, người thứ 2 – Churchill, và người thứ 3 là Adolf Hitler, thật không thể ngờ… Những đứa trẻ như ngây người trước câu trả lời của Phila và dường như không thể tin nổi vào những gì chúng vừa nghe thấy.“Các em có biết không, những điều mà cô vừa nói là quá khứ của họ, còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi đã thoát ra khỏi cái quá khứ đó. Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu. Vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ, còn cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai. Hãy bước ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm, và cô tin các em sẽ trở thành những người xuất chúng…” – Phila vừa nói vừa nhìn chúng với ánh mắt đầy hi vọng.Và bạn biết không, sau này khi trưởng thành, rất nhiều học sinh trong số họ đã trở thành những người thành đạt trong cuộc sống. Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người lại trở thành nhà du hành vũ trụ. Và trong số đó phải kể đến Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, nay đã trở thành Robert Harrison – Giám đốc tài chính phố Wall.

Ý nghĩa của câu chuyện ở đây là bạn hãy đừng bao giờ ngừng hi vọng, ngừng yêu thương, ngừng cố gắng bởi hôm qua chỉ là quá khứ, ngày mai là một điều bí mật, còn ngày hôm nay là một món quà. Và đó là lý sao nó được gọi là “The Present” (hiện tại/món quà).Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ còn những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều chỉ là dĩ vãng. Những việc trong quá khứ nói cho người khác biết bạn đã từng là người như thế nào, nhưng chính những việc làm ở hiện tại và tương lai mới nói lên bạn là ai.Cô giáo trẻ mới về trường chỉ hỏi đúng 1 câu, đám học sinh hư hỏng chết lặng…Thế nên:

Đừng bao giờ hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh với người khác.Đừng bao giờ đặt mục tiêu của mình dựa vào những gì mà người khác cho là quan trọng. Chỉ bạn mới biết được những gì tốt nhất đối với chính mình.Đừng bao giờ để cuộc sống vuột khỏi tầm tay bằng cách sống khép mình vào trong quá khứ, hay uốn mình vào trong tương lai. Hãy sống cho hiện tại, lúc này và ở đây.Hãy hướng về phía mặt trời và bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy bóng tối.Và cuối cùng, hãy nhớ rằng, dù người khác có nói với bạn điều gì đi nữa, hãy tin rằng cuộc sống này là kỳ diệu và đẹp đẽ.

MAINHUNG

SƯU TẦM.


 

NHỮNG CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH : 57 XU…

57 XU…

Một cô bé đang đứng thổn thức bên cạnh một nhà thờ nhỏ sau khi đã chạy vòng vòng mà không vào được bên trong vì “nhà thờ chật cứng”.

“Con không vào được lớp học Chủ Nhật” (Sunday School: lớp học mà nhà thờ thường mở vào ngày chủ nhật để dạy giáo lý và chữ cho trẻ em ), cô bé nức nở nói với vị linh mục vừa đi tới. Nhìn bộ dạng tiều tụy, nhếch nhác của cô bé, vị linh mục hiểu ngay ra nguyên do, và cầm tay cô bé dẫn vào trong, tìm cho cô một chỗ trong lớp học.

Đêm hôm đó, cô bé lên giường ngủ mà đầu chỉ nghĩ tới những đứa trẻ không có chỗ để thể hiện lòng tôn kính đối với Chúa. Khoảng 2 năm sau đó, cô bé đã chết trong một chung cư tồi tàn. Cha mẹ của cô bé gọi điện cho vị linh mục – người đã trở nên rất thân thiết với cô bé, đến để chủ trì buổi lễ tang.

Khi di chuyển thi hài của cô bé nghèo, người ta đã tìm thấy một chiếc ví rách nát và bẩn thỉu tựa như được moi ra từ đống rác, trong đó có 57 xu và một tờ giấy xé nham nhở viết trên đó vài dòng chữ nghoệch ngoạc của đứa trẻ: “Để giúp đỡ xây dựng một nhà thờ lớn hơn cho nhiều đứa trẻ có thể đến Lớp học ngày Chủ nhật”. Đó là kết quả trong 2 năm trời dành dụm với cả tấm lòng hy sinh không chút vụ lợi của cô bé. Khi đọc những dòng chữ này, vị linh mục đã không thể cầm được nước mắt.

Mang theo mảnh giấy và chiếc ví rách nát trong những buổi lễ, vị linh mục kể cho mọi người câu chuyện về tấm lòng hy sinh cao cả của đứa bé. Ông đã bỏ ra rất nhiều công sức để kêu gọi, quyên góp tiền xây dựng một nhà thờ rộng hơn. Nhưng câu chuyện này không chỉ dừng lại ở đó.

Một tờ báo có uy tín đăng câu chuyện về cô bé, và có một nhà kinh doanh bất động sản đã đọc được nó. Ông ta đề nghị nhượng bán cho nhà thờ một mảnh đất rộng, mà giá trị hồi đó lên tới nhiều ngàn đô la, với giá chỉ có… 57 xu. Các tín đồ đã tổ chức một đợt quyên góp quy mô rộng và lớn chưa từng có, chỉ chưa đầy 5 năm số tiền đã lên tới 250.000 đô la – một số tiền rất lớn thời bấy giờ (cách đây gần một thế kỷ). Tấm lòng nhân hậu cao cả của cô bé đã được đền đáp một cách xứng đáng.

Nếu có dịp qua thành phố Philadelphia, mời bạn ghé thăm Nhà thờ Temple Baptist (Nhà thờ Thánh rửa tội) với sức chứa 3.300 người; và trường đại học Temple, nơi mà hàng trăm sinh viên đang theo học. Và bạn cũng nên ghé thăm Bệnh viện Good Samaritan (Bệnh viện hội bác ái) cùng với Trường học ngày Chủ nhật, nơi dành cho hàng trăm đứa trẻ tham dự Lớp học ngày Chủ nhật, và sẽ không còn đứa trẻ nào trong vùng phải đứng bên ngoài vào ngày chủ nhật nữa.

Trong một căn phòng của toà nhà, bạn có thể tìm thấy một tấm hình với khuôn mặt dễ thương của cô bé gái, người với 57 xu và sự hy sinh của mình, đã làm nên một câu chuyện thần thoại.

Ngay bên cạnh đó, tấm hình của vị linh mục – Dr.Russell H.Conwell, tác giả của cuốn sách “Cánh đồng Kim cương”.

Đó là một câu chuyện có thật, hoàn toàn thật, minh chứng cho những gì mà một tâm hồn cao thượng và tấm lòng hy sinh cao cả có thể làm được, chỉ với 57 xu.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Chuyện BÙI GIÁNG

Người ta kể, có lần thứ trưởng bộ văn hóa Huy Cận về nói chuyện ở Cao đẳng Mỹ Thuật, Bùi Giáng xuất hiện, đi tới đi lui ở trước cổng trường và chửi đổng:

-“Mẹ mày Huy Cận, mẹ mày Huy Cận.”

Sinh viên vào báo cho ban giám hiệu, nhưng tất cả đều im lặng.

Họa sĩ đồng hương Hồ Thành Đức, phu quân họa sĩ Bé Ký, có lẽ là người biết rất nhiều về Bùi Giáng trong giai đoạn ‘hậu giải phóng’:

– Nhà thơ Huy Cận, có bài thơ được Bùi Giáng sửa lại khi mang ra giảng dạy. Huy Cận biết được, phục tài sửa thơ của họ Bùi nên lúc vào miền Nam đã cho người tìm Bùi Giáng để thăm.

Nhưng, sau 75 Bùi Giáng đã thành ‘Chủ Cái Bang’, biết đâu mà tìm.

+123 Bài Thơ Bùi Giáng - Những Sáng Tác Hay Của Nhà Thơ Bùi Giáng ...

Nhân viên ông Thứ Trưởng tìm đến nhờ họa sĩ Hồ Thành Đức, bởi sau 75 nơi ở của họa sĩ xem như chỗ vãng lai của nhiều nhân vật văn nghệ miền Bắc.

Anh Đức chạy kiếm nhà thơ và khuyên ông:

– “Anh à, đến thăm ông Thứ Trưởng, anh phải ăn mặc cho đàng hoàng, về nhà em tắm rửa rồi lấy áo quần em thay.”

Bùi Giáng không nghe cứ mặc nguyên áo quần rách rưới hôi hám, ai đời quần xà lỏn mà thắt cà vạt, lại tòn ten trên người lon hũ linh tinh.

… Huy Cận ra tận cửa đón Bùi Giáng, nhưng thoạt nhìn đã phải quay đi vì không thể nhịn được cười.

Huy Cận gọi nhà thơ là Tiên Sinh, chuyện vãn thân mật. Cuối cùng ông hỏi Bùi Giáng:

– “Tiên Sinh có cần giúp đỡ gì không xin cho biết?”

Bùi Giáng nói như thật:

– “Ông Thứ Trưởng giúp cho mấy chữ để tôi trình công an chớ họ gặp là đánh tôi bầm mình bầm mẩy.”

Huy Cận viết cho Bùi Giáng mảnh giấy đại ý:

*** Nhà thơ Bùi Giáng là bạn tôi.

Ông ta có tính hay đi lang thang.

Các đồng chí công lực thông cảm giúp đỡ.***

Mảnh giấy như lá bùa hộ mệnh, anh Đức bảo đưa photo để cất bản chính, nhưng Bùi Giáng không chịu.

Mấy bữa sau, gặp lại, anh Đức hỏi:

– “Sao công an còn khó dễ với anh không?”

– “Nó vẫn đánh tao học máu.”

– “Sao không trình giấy cho họ?”

– “Thì tao có lấy giấy ra, nhưng đọc xong nó vẫn đánh.”

Những giai thoại về cuộc đời Bùi Giáng

Người ta đồn rằng có hôm nhà thơ lang thang trên đường Lê Lợi, gặp một phụ nữ người Âu, ông thản nhiên… bóp vú cô đầm.

Công an can thiệp, ông nói tỉnh bơ:

– “Tôi chỉ muốn thử xem hai bầu vú Liên Sô có còn nuôi nổi Việt Nam không.”

Một lần khác trong chợ An Đông, ông giật một chiếc xe đạp của bà bán dạo trên hè.

Bà hàng đuổi theo, ông trả lại và nói:

– “Mất cả nước thì không la, mất cái xe đạp lại la oai oái!”

Xin hãy đọc một trong những bài thơ sau cùng của ông:

Uống xong ly rượu cuối cùng

Bỗng nhiên chợt nhớ, đã từng đầu tiên.

Uống như uống nước ngọc tuyền

Từ đầu tiên mộng, tới phiền muộn sau.

Uống xong ly rượu cùng nhau

Hẹn rằng mai sẽ, quên nhau muôn đời.

Em còn ở lại vui chơi

Suốt năm suốt tháng, suốt nơi lan tràn.

Riêng anh về suốt suối vàng

Trùng phùng Lý Bạch, nghênh ngang Tản Ðà.

Em còn ở với sơn hà

Anh còn mất hút, gần xa mất hoài.

(Bao Nguyen Quang ST & T/H)

From: Phong Duong


 

CHÚ CHÓ…ÂN TÌNH (Truyện rất ngắn)

Một người đàn ông vừa mất, và con chó thân thích của ông ấy được người con trai chăm sóc….
Mấy ngày sau, anh mới phát hiện ra rằng:
– Con chó đã biến mất…
5 ngày sau! Từ nghĩa trang điện thoại báo với anh ấy rằng… Có một con chó đã đào mộ của cha anh ấy và cứ lẩn quẩn ở đó không chịu đi.
Anh ra nghĩa trang bắt chó về, lấp đất lại cho ngôi mộ Nhưng hôm sau nó lại bỏ đi… và lại đào mộ lên.
Và cứ như thế nhiều lần…
Anh đành bỏ chó lại bên ngôi mộ cha mình và hàng ngày chịu khó đem cơm nước ra cho nó.
Nhưng tuyệt nhiên, con chó không đụng đến cơm nước và không cho ai bước gần tới ngôi mộ…
Một tuần sau, nó chết trên mộ của người chủ sở hữu mình.

– Bạn thấy đấy, chó là sinh vật duy nhất trên trái đất này… sẵn sàng hy sinh cho bạn vì bạn mà quên thân mình.

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen

HÀ GIANG…. NGƯỜI ĐÀN BÀ HIẾM CÓ TRONG ”TRẠI TÙ” LAO CẢI (Phạm Tín An Ninh)-Truyện ngắn hay

Tác giả Phạm Tín An Ninh:

Phạm Tín An Ninh : Sinh ra và lớn lên tại Khánh Hòa, Tuổi Quý Mùi. Mất mẹ lúc 3 tuổi, nên sống với ông bà nội. Lúc nhỏ, theo học tại trường Trung học Văn Hóa và Võ Tánh Nha Trang. Nhập ngũ: Khóa 18 SQ Trừ Bị Thủ Đức. Phục vụ tại Sư Đoàn 23 BB. Sau tháng 4/75: Đi tù tại các trại tù Nam và Bắc Việt Nam.(Thân sinh cũng bị đi tù và chết trong tù cải tạo vào tháng 6/1976). Vượt biên, định cư tại Vương Quốc Na-Uy từ năm 1984. Đi học và làm việc trong ngành Ngân Hàng Bưu Điện. Về hưu từ đầu năm 2008. Tác phẩm: Ở Cuối Hai Con Đường (2008), Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân (sẽ xuất bản)
Nghỉ hè ở Mallorca

1-
Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.

Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành phố cảng, sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ xe. Chúng tôi chọn nơi này, vì bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dãy núi Victoria, nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.
Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả cho con bé cháu nội. Trước đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết được tiếng Việt. Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút. (Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment, mỗi phòng trọ, ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và bếp với đầy đủ dụng cụ nấu ăn). Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có nhiều dịp được ra biển tắm, nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào, mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi đến chiều, khi trời sắp tắt nắng mới chịu trở về. Đã vậy khi về đến khách sạn, cô bé còn xin được tiếp tục bơi lội trong hồ tắm của khách sạn đến tối mịt mới chịu vào phòng. Trong khi bà xã làm thức ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng con bé.

Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người Bắc Âu và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á châu nào, ngoại trừ gia đình người Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một người nào đó. Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm và đùa giỡn với con bé. Thấy tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương dễ quen nhau.

Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều làm tôi chú ý chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một địa danh vẫn còn đậm trong ký ức, cho dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết bao nhiêu cái tên để nhớ.

Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối trong nhà hàng buffet của một người chủ gốc Tàu, thì bất ngờ thấy Lam Khê đi vào cùng với một người đàn bà Việt Nam và một người đàn ông ngoại quốc. Có lẽ Lam Khê đã kể về chúng tôi, nên cả hai người đến chào và bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ đến giật mình khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình, thì bà nở nụ cười giới thiệu người đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:
-Đây là ông xã em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố Hamburg.
Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi bà:
-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?
-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nhìn chúng tôi ngạc nhiên.
-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây – Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời cả ba người- Hóa ra chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin được mời ông bà và cháu Lam Khê.
Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn còn nguyên trên mặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:
– Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay khi gặp và biết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghĩ ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê, tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn tình cảm và lòng tốt của bà đã dành cho chúng tôi trong những ngày sa cơ khốn khó.
Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày vui buồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều gì đó.

Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa, tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo” chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng một lâm trường, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả thịt da.
Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm”!

Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ bên bìa rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”. Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.

Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn. Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân tình. Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy cô thường ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương vô vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt. Thấy một anh đeo trên cổ tấm ảnh của vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung tình”.

Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về Lâm Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản phát động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào Cai, hướng dẫn những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng. Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa phương, thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua biên giới. Rất may mắn, lúc ấy cô đang về học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành lập lâm trường mới. Đó chính là lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra đây chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là 60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!

Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô. Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã tâm sự. Người đàn ông ấy là một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được đảng bộ sắp xếp để lâp gia đình với cô, làm gương cho kế hoạch “trí thức cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn khởi trước sự ưu ái của đảng, đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với đảng. Đây cũng là “phần thưởng” để cô được bổ nhậm về lâm trường mới này với chức danh giám đốc!

Chúng tôi ngạc nhiên, vì gã công nhân tiên tiến này trông lớn hơn cô nhiều tuổi, rổ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp với cô con gái có học và dễ thương này. Cô còn bảo là trong trái tim cô, không hề có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, vì vậy cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang trong thời kỳ “nín thở qua sông”!

Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề cao cảnh giác” không dám nói điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng tôi biết, Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện “mỹ nhân kế” không phải bây giờ mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi người một củ khoai lang luôc, rồi buột miệng hỏi:
-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm phải không?
– Bọn tôi là những người thua trận, thì chuyện bị tù đày, hành hạ cũng là lẽ thường tình – Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.
Cô trầm ngâm giây lác rồi lên tiếng:
– Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và miền Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội, luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng là mình đại thắng, để cầm tù và hành hạ lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ đời: một lũ ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo” những người trí thức, mà đòi hỏi người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật!

Bọn tôi chỉ im lặng. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay thoát ra, phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia đình. Điều làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần phải đạt một chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm mang theo, Cô nhận mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực phẩm khác.
Lâm trường mới khởi công vừa được hơn ba tuần thì trại tù có lệnh biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những ngày lao động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần bảy năm tù.

2-
Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn, tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi.
Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà vừa cạn, bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi:
– Anh còn nhớ anh Đôn không ?
Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:
– Trần Chánh Đôn!
Tôi hỏi lại:
– Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm trường?
Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà:
– Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đã cung cấp cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la bàn, em lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ cho anh cách thức trốn khỏi lâm trường cùng với ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ, cái la bàn và sự hướng dẫn tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới. Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang khấp khởi mừng thầm thì được tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số cán bộ công an trại giam.

Họ cho biết là tất cả bốn anh đều bị công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại, bởi các anh đã chống cự để tìm cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh, dù có tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo sợ bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả khôn lường, nên em đã khẩn trương chạy về Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em được trở lại Đông Đức hai tuần, đệ trình cho trường đại học cũ một số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông ta gật đầu, và liên lạc can thiệp bên tòa đại sứ Đức cấp visa sớm. Chỉ hơn mười ngày là em rời khỏi nước. Tất nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức, em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đã hết lòng lo lắng và chở che em.

Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đình, em còn mang theo hình ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết, đẹp trai với nụ cười độ lượng, em còn nhìn thấy bên trong của anh Đôn là sự thủy chung và lòng tự trong, có cả một chút nghệ sĩ lãng mạn nữa.Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam Khê ấy, em đã học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh hát những bản tình ca, đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời. Trái tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.

Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nước mắt chảy dài trên gò má. Tôi rót thêm trà mời cô.
Bà xã tôi hỏi:
– Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?
– Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về địa chỉ ấy đều bị trả lại, với lý do: người nhận không còn ở tại địa chỉ này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi vùng kinh tế mới hay không?
Tôi đưa tay ngăn lời cô:
– Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cũng đều là người gốc Nha Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng muốn biếu cha mẹ anh ít tiền, vì Đôn cũng là bạn tù của tôi.
Hà Giang chau mày:
– Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở nhà. Em xin địa chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em tìm lại được. Em thiết tha muốn gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người còn sống.

Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ. Bao nhiêu năm trong cảnh khốn cùng, đã không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và tư cách của Đôn. Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người bạn tù khác trốn trại, khi tôi đã bị chuyển đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi người mỗi cách.

Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận được e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.
Tôi viết thư nhờ người bạn thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia đình Đôn đã dọn đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết đâu có thể tìm ra manh mối.

Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một đoạn trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:
“Đúng như mày viết, gia đình người này đã dọn đi khá lâu rồi. Nhưng có người láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời hơn hai mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, hình như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao dò tìm khắp nơi theo lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến nay vẫn chưa gặp được…“
Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất“, rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn: Mày cố gắng mọi cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải tên là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện gọi điện thoại cho tao biết.

Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của người bạn từ Việt Nam:
“Tao đã tìm được anh ta. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm dưới triền núi, phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương, cách Đà Lạt gần bốn mươi cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm trụ trì. Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù một con mắt và què cả hai chân, nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông không bao giờ rời khỏi chùa, vì từ dưới chân núi đi lên, tao đếm hơn năm mươi bậc tam cấp.“
Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo mãi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần cô lau nước mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghĩ là cô sẽ đau lòng lắm khi nhận được tin này.

Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:
“Anh Chị ơi.
Em đã khóc hết nước mắt khi nhận được tin anh Đôn. Suốt cả đêm hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây giờ lòng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn còn sống. Em vừa mừng nhưng cũng vừa đau lòng lắm, khi biết anh đã bị mù một mắt và tàn phế cả đôi chân.
Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, vì anh cũng là bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú.
– Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở Mallorca, chính là giọt máu của anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng, em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải qua bao nhiêu giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để đoàn viên. Nhưng rồi ông trời đã hại em, vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết. Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ người. Bây giờ biết được anh Đôn còn sống, nhưng đã trở thành một vị đại đức, em vừa hối hận vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để em biết mình sẽ phải làm gì. Bây giờ chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào, nhưng còn Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt máu của anh. Làm thế nào để cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết. Thỉnh thoảng cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hãnh diện về ba cháu lắm.“

3-
Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhưng cũng không tìm ra một lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng núi Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.

Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi về Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt Nam. Số chuyến bay và giờ đến phi trường, cô sẽ cho biết sớm.

Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng:
…Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt. Thầy đem cả triết lý đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất trắc. Thầy nói thật hay và cảm động.

Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định không khai người nào đã giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm bản đồ và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.
Sau khi mọi người tìm lại được sự bình tĩnh, Hà Giang xin cúng dường cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa từ chối, bảo là nhà chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin được đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù lòa, thầy cũng chối từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất mát ấy, hơn nữa bây giờ thầy đã tu hành, năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy các em học sinh nghèo hiếu học trong vùng, nhưng phòng học là gian nhà trống vách ngay phía sau chùa.

Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở lại một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới, thay những bậc tam cấp bằng con đường lát đá, đặc biệt phía sau chùa, từ gian phòng Thầy dạy học nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít hoa dã quỳ, cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ, trồng thêm hoa, làm suối nước, và xin đặt tên là Lam Khê Viên, vì chữ Lam nghe cũng hợp với khung cảnh chùa chiền…

Khi ngồi viết những dòng này, tôi không biết là những điều mong ước của Hà Giang có được thầy Thích Thiện Hòa chấp nhận hay không, và cuộc tình đẹp và bi tráng này có còn sống mãi trong lòng mỗi người cho đến thiên thu.

PHẠM TÍN AN NINH


 

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU!-Truyện ngắn

Mẹ không được học hành nhiều, vậy mà khi con học xa nhà, có một lần mẹ đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tậρ viết. Mẹ viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người ta, con tạc ân vào lòng vào dạ. Học một chữ ở đời, con xem nặng nhẹ bao nhiêu…!”

Lời dặn của mẹ đã làm con khóc….!Con tâm niệm điều đó suốt cả cuộc đời, và nó đã trở thành lẽ sống của con… Hôm con đi ρhỏng vấn xin việc ở công ty của Nhật cùng với ba chục người khác. Con không giỏi vi tính và ngoại ngữ như họ, nhưng người được lựa chọn lại là con. Mẹ có biết họ hỏi con câu gì không…?

Họ hỏi con rằng câu nói nào và của ai gây ấn tượng và có tác động mạnh đến cuộc sống của con; con đã thuật lại lời mẹ dặn…

Họ bảo: “Vi tính và ngoại ngữ cần, nhưng bạn có thể học trong vài tháng. Chúng tôi cần hợρ tác với một người nặng lòng biết ơn và biết chắt lọc trong học hỏi…

-“Mẹ ơi, chính mẹ đã để ρhúc đức cho con…!”

Con và chồng con có xung đột vì con nghi ngờ anh ấy vẫn lén gặρ bạn gái cũ. Con giận, bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mở chiếc hộρ cũ lấy ra một tậρ thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của người yêu cũ gửi cho bố con trước đây. Mẹ bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố toan đem hết mớ thư từ và ảnh người yêu cũ ra đốt sạch để chứng minh bố một lòng một dạ với mẹ. Nhưng mẹ đã ngăn lại và bảo:

“Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ để em giữ lại làm kỷ niệm. Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù sao đấy cũng là những kỷ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu ráo máng như vậy…?”. Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm…!

Thỉnh thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, và bố cả đời thủy chung với mẹ. Hôm ấy con đã khóc thật nhiều và con trở về nhà làm lành với chồng. Mẹ nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã đem lại cho con hạnh ρhúc…!

Khi em trai con đưa người yêu về ra mắt, con không ưng ý lắm. Mẹ im lặng không nói gì… Sau hôm gặρ mẹ cô ấy, mẹ nhận xét: “Mẹ cô ấy hiền hậu, ρhúc đức lắm. Người mẹ như thế chắc chắn cô con gái sẽ là đứa con ngoan, dâu hiền…!”.

Mẹ đã không lầm. Hôm mẹ chồng tương lai của con sang chơi với mẹ, cụ cũng nhận xét về con y như thế. Hóa ra nhiều người nhìn nết mẹ mà đoán tính cách của con….!
Năm trước con đọc báo thấy có chuyện một cô gái đang tâm đẩy con chồng xuống sông Hồng. Một thời gian sau thấy báo đưa tin có bà dì ghẻ bắt con chồng tự khâu miệng mình lại. Con nhận xét rằng ρhụ nữ nhiều người ác quá. Mẹ lại bảo “Phúc đức tại mẫu. Những người như thế rồi lại ác giả ác báo thôi…!”

Mẹ nói với con rằng những người ác chỉ là số ít, đừng vì thế mà vơ đũa cả nắm. Mẹ chỉ cho con thấy bao nhiêu người mẹ đã hy siпh hết lòng vì con, không ít người ρhụ nữ đã nhận nuôi hàng mấy chục trẻ mồ côi mặc dù bản thân mình còn khó khăn, vất vả. Trong đời có hai vùng sáng tối, mẹ bảo con nhìn ánh sáng mà đi….!

Thấy con ρhàn nàn về sự chểnh mảng học tậρ của các cháu, mẹ bảo: “Con giục các cháu đi học bài, mà vợ chồng con cứ ngồi xem ti vi. Con chê các cháu lười học tiếng Anh mà bản thân con cũng không biết ngoại ngữ thì dạy bảo chúng nó thế nào…?” Ngẫm kỹ lời mẹ nói, con đã quyết định đi học lớρ tiếng Anh buổi tối cùng cháu. Tối về, mẹ con trao đổi bài rôm rả. Đúng như mẹ nói, khi thấy cả bố và mẹ đều miệt mài làm việc, các cháu cũng tự động lấy sách ra làm bài. Đến nay chúng con rất yên tâm về việc học hành của các cháu. Sao có mỗi bài học đơn giản rằng muốn con chăm thì mẹ ρhải siêng; muốn con hiền thì mẹ ρhải thảo mà con không nhớ, ρhải để mẹ nhắc nhở…!

Mẹ nghèo không có tiền bạc cho con, nhưng mẹ đã cho con hiểu giá trị của sự tần tảo, lòng bao dung, đức hy siпh. Mẹ không đi học, không được như con, nhưng mẹ dạy con biết sống đúng mực, trọng ân tình. Cuộc đời con lúc nào cũng có mẹ ở bên. Con có cuộc sống hạnh ρhúc hôm nay là do bàn tay mẹ tạo dựng. Đến bây giờ con đã hiểu rằng công sinh thành dưỡng dục do cả mẹ cả cha chung sức. Không ρhải vô cớ mà trong nhạc, trong thơ,… đâu đâu cũng thấy vang lên những “Huyền thoại mẹ”, “Tình mẹ”, “Lòng mẹ”,….
Con à…, Mẹ đã tạo Phúc Đức cho chính các con của mẹ…!

Sưu tầm.

From: giang pham & KimBang Nguyen