Tôi là cựu giáo viên dạy nhạc tại một trường tiểu học ở DeMoines. Tôi luôn kiếm được lợi tức từ công việc dạy đàn dương cầm _ đó là một công việc mà tôi đã làm suốt 30 năm qua. Trong thời gian đó, tôi đã gặp nhiều trẻ em có những khả năng về âm nhạc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi chưa bao giờ có hứng thú trong việc có học sinh thuộc dạng “cần nâng đỡ” mặc dù tôi đã từng dạy một vài học sinh tài năng. Tuy nhiên tôi cũng dành thì giờ vào những học sinh mà tôi gọi là “trơ nhạc”. Một trong những học sinh đó là Robby.
Robby đã 11 tuổi khi mẹ cậu thả vào lớp trong bài học dương cầm đầu tiên. Tôi thích những học sinh (đặc biệt là những cậu bé) bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ hơn, và nói điều đó với Robby. Nhưng Robby nói rằng mẹ cậu luôn luôn mơ ước được nghe cậu chơi dương cầm. Vì vậy tôi đã nhận cậu vào học. Thế là Robby bắt đầu những bài học dương cầm đầu tiên và tôi nghĩ rằng đó là sự cố gắng vô vọng. Robby càng cố gắng, cậu càng thiếu khả năng cảm thụ âm nhạc cần thiết để tiến bộ. Nhưng cậu rất nghiêm túc trong việc ôn lại những bài học và những bản nhạc sơ đẳng mà tôi yêu cầu cất cả các học sinh của mình đều phải học. Sau nhiều tháng ròng rã, cậu miệt mài cố gắng và tôi vẫn cứ lắng nghe và cố động viên cậu. Cứ hết mỗi bài học hàng tuần, cậu luôn nói: “Một ngày nào đó mẹ em sẽ đến đây để nghe em chơi đàn”. Nhưng điều đó dường như vô vọng. Cậu không hề có một năng khiếu bẩm sinh nào. Tôi chỉ thấy mẹ cậu (một phụ nữ không chồng) ở một khoảng cách khá xa khi thả cậu xuống xe và chờ cậu trong một chiếc xe hơi cũ mèm khi đến đón cậu. Bà luôn vẫy tay và mỉm cười nhưng không bao giờ ở lại lâu.
Thế rồi một ngày nọ Robby không đến học nữa, tôi định gọi điện cho cậu nhưng thôi, bởi vì cậu không hề có chút năng khiếu nào, có lẽ cậu đã quyết định theo đuổi một con đường khác. Tôi cũng vui khi cậu không đến nữa. Cậu làm cho sự quảng bá trong việc dạy dỗ của tôi mất ưu thế! Vài tuần sau đó, tôi gởi đến nhà những học sinh của mình các tờ bướm thông báo cho buổi diễn tấu sắp tới. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Robby (cũng đã nhận một tờ bướm) hỏi xem cậu có được tham dự biểu diễn hay không. Tôi bảo với cậu, buổi diễn chỉ dành cho học sinh đang học, vì cậu đã thôi học nên cậu sẽ không đủ khả năng thực hiện. Cậu nói rằng mẹ cậu đang ốm và không thể chở cậu đi học nữa, nhưng cậu vẫn luôn luyện tập. “Cô Hondorf… cô cho em diễn một lần thôi…”, cậu nài nỉ. Tôi không hiểu điều gì đã xui khiến tôi cho phép cậu chơi trong buổi trình tấu đó. Có thể là cậu đã tha thiết quá, hoặc là một điều gì đó trong tôi đã bảo mách tôi rằng điều đó là đúng.
Đêm biểu diễn đã đến. Trong hội trường đông nghịt những phụ huynh, bạn bè và họ hàng. Tôi bố trí cho Robby ở cuối chương trình trước khi tôi xuất hiện để kết thúc và cảm ơn những học sinh đã trình diễn. Tôi nghĩ rằng tất cả những rủi ro mà cậu có thể gây ra cũng là lúc kết thúc và nếu có bề gì thì tôi cũng có thể “chữa cháy” cho sự biểu diễn yếu kém của cậu bằng tiết mục “hạ màn” của tôi. Và buổi biểu diễn trôi qua không một trở ngại nào. Những học sinh đã luyện tập nhuần nhuyễn và trình bày rất tốt. Thế rồi Robby bước ra sân khấu. A? quần cậu nhàu nát và mái tóc như tổ quạ.
“Tại sao cậu lại không ăn vận như những học sinh khác nhỉ? Tôi nghĩ “Tại sao ít ra mẹ cậu lại không chải tóc cho cậu vào cái đêm đặc biệt như thế này chứ?”
Robby mở nắp đàn lên và bắt đầu. Tôi ngạc nhiên khi thấy cậu tuyên bố rằng cậu chọn bản Concerto số 21 cung Đô trưởng của Mozart. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe những gì tiếp theo đó. Những ngón tay của cậu lấp lánh, nhảy múa trên những phím ngà. Cậu đã chơi những giai điệu từ nhẹ nhàng êm dịu đến hùng tráng… thật có hồn và đầy điêu luyện trong sự phối âm tuyệt diệu của nhạc Mozart. Chưa bao giờ tôi nghe một đứa trẻ ở tuổi ấy trình bày nhạc Mozart hay đến thế. Sau 6 phút rưỡi cậu đã kết thúc trong một âm thanh huy hoàng mạnh mẽ và mọi người đều đứng lên vỗ tay. Không nén được lệ tràn trong mắt, tôi chạy lên sân khấu và vòng tay ôm lấy Robby trong hạnh phúc: “Cô chưa bao giờ nghe em chơi hay như thế Robby ạ. Làm sao em có thể làm được điều đó?”. Robby giải thích qua chiếc micro “Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt”.
Tối hôm ấy, trong hội trường không đôi mắt nào không nhỏ lệ. Khi những người ở Trại Xã Hội đưa cậu từ sân khấu trở về trại mồ côi tôi nhận thấy mắt họ đỏ và sưng mọng. Tôi chợt nghĩ, đời tôi nhiều ý nghĩa biết bao khi đã từng nhận một học sinh như Robby. Không, tôi chưa bao giờ nhận một học sinh nào “cần nâng đỡ”, nhưng đêm đó tôi trở thành người được nâng đỡ bởi Robby. Cậu là thầy của tôi và tôi chỉ là một học trò. Bởi vì cậu đã dạy cho tôi ý nghĩa của sự kiên trì, của tình yêu và niềm tin trong chính con người của chúng ta và điều đó có thể tạo ra cho người khác một cơ hội mà chúng ta không biết vì sao. Điều này càng đặc biệt ý nghĩa hơn khi sau này tôi biết Robby bị chết trong vụ nổ bom điên rồ tại tòa nhà Alfred P. Murrah Federal ở thành phố Oklahoma vào tháng 4 năm 1995 nơi cậu đang biểu diễn.
S.T.
( Từ Reader’s Digest)
từ: Nguyễn Phi Phượng gởi
|
GIỌT NƯỚC CÁM ƠN
Hai chữ “cám ơn” làm cho bác Chu động lòng. Ông nhìn em gái mặc cái áo giặt trắng tinh, một cái cặp sách cũ không thể cũ hơn được nữa, cầm lòng không được, bèn thở dài nói: “Lên xe.” Em sung sướng lên xe.Xe đến khúc quanh, bé gái đột nhiên hắng giọng, nói: “Bác tài, cháu chỉ có ba đồng bạc mà thôi, cho nên, đến nửa trạm thì cháu xuống.” Bác tài nhìn trong kính chiếu hậu thấy em mặt đỏ gấc, không nói gì. (Đây là xe taxi ở thành phố, giá mỗi đoạn đường có thể là năm đồng.)
– “Bác tài, cám ơn bác, có lẽ đây là lần cuối cùng cháu ngồi xe của bác, thật làm phiền bác quá. Cháu thi đậu trường trung học Tân Tập Nhất, có lẽ nửa năm mới về nhà một lần,” em nói như thế.
Đến ngày cuối tuần, đi ngang qua trường trung học số bốn mươi, ông luôn dừng xe lại, tưởng như con gái vẫn có thể từ cổng trường chạy ra, lên xe, và lớn tiếng nói: “Ba, cám ơn ba.”
Câu chuyện của một Tiến sĩ toán học Harvard University
Câu chuyện của một Tiến sĩ toán học Harvard University
Ngày 28/9/1997, An Kim Bằng, học sinh lớp 12 trường Trung học số 1 của Thiên Tân (Trung Quốc) đã đoạt Huy chương Vàng cuộc thi Olympic Toán quốc tế lần thứ 38 tại Argentina. Sau lưng của An Kim Bằng và tấm Huy chương Vàng làm cả Thiên Tân tự hào là một câu chuyện về mẹ.
Người mẹ nông dân của tôi
Ngày 5/9/1997, là ngày tôi rời gia đình đi nhập học ở Đại học Bắc Kinh, khoa Toán.
Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc.
Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất… Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà.
Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm.
Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác.
Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu.
Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày.
Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu.
Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.
Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa. Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất “Giấy báo nhập học” thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi.
Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi: “Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?”
Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
“Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học…”
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học t
iếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: “Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi”. Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển.
Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên. Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch.
Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to…
Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc…
Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: “Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu…”. Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường.
Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ (tương đương 120-160.000 VND), thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa.
Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn. Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali – chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: “Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa.”
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì.
Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp.
Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập.
Năm 1996, lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý.
“Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!” Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi.
Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống.
Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng. Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng.
Tháng 1 năm 1997, tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường.
Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
“Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?”
Tôi chả biết nói sao, vội đáp: “Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa – trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng.”
Ngày 27/7, Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc.
Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi.
Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: “Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!”
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học TQ tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ…
Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt…
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng.
Ngày 12/8, trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
“Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách “Đại từ điển Anh-Trung” để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi.
Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 18 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa.
Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: “Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ.”
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh.
Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa..
Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi.”
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn…
Bánh bột nướng
Trang Hạ
(tổng hợp các báo Trung Quốc, cuốn “Tâm hồn cao đẹp”, tự truyện của An Kim Bằng, tự truyện của Lưu Lệ Quyên)
nguồn từ Đinh Việt Nữ gởi
Đôi Mắt Người Cha
Đôi Mắt Người Cha
tác giả: Hoài Việt
Xin cho, Chúa chẳng hẹp hòi
Gõ Ngài mở cửa, tìm soi thấy liền.
Một người cha chỉ có một đứa con trai duy nhất sống chung với ông, hai bố con đều say mê môn túc cầu trái na (football), nên hai người rất hợp tính tình và thương yêu nhau thật là mật thiết. Ngay từ khi ở trung học đệ nhất cấp (lớp 7 đến lớp 9), người con xin ghi danh chơi “Football” cho trường, ông bố ưng thuận liền.
Để khích động tinh thần con mình ông luôn luôn tham dự các trận đấu, vỗ tay hoan hô cổ võ tinh thần cho đội của con ông. Tuy biết đứa con chưa từng được tham dự các trận đấu, nhưng ông không nản vẫn luôn luôn đến xem không bỏ sót một trận đấu nào của nhà trường.
Biết con trai mình có thân hình nhỏ nhất so với đồng đội trong lớp, nên ông luôn luôn khuyến khích và cầu nguyện. Tuy nhiên để an ủi con, ông khẳng định với con là không cần thiết phải chơi môn thể thao này nếu người con không thích. Ông khuyên nhủ:
– Nếu con muốn, hãy đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa, đối với Chúa không một điều gì không làm được. Lời khuyên của Cha giúp người con niềm tin tưởng. Nên anh rất mê say, tiếp tục ghi danh tham dự khi chuyển lên trường trung học đệ nhị cấp (lớp 10 đến lớp 12) trong suốt ba niên học. Anh đã cầu nguyện và vận dụng tất cả khả năng của mình trong các buổi thực tập, hy vong sẽ được chơi khi bắt đầu lên lớp 12. Dù anh chưa bao giờ bỏ một buổi tập dợt hoặc một trận đấu nào của trường, nhưng trọn ba năm trung học anh vẫn chỉ là người ngồi dự khuyết. Thân phụ của anh tiếp tục tham dự các trận đấu cổ võ anh.
Rời ngưỡng cửa trung học, anh tiếp tục ghi danh vào đại học. Anh quyết định cố gắng theo đuổi một lần nữa môn thể thao mà anh ưa chuộng bằng cách tự do tình nguyện chơi cho nhà trường không đòi hỏi học bổng. Trong thời gian thực tập tuyển chọn, mọi người nghĩ rằng anh sẽ bị loại; nhưng khi niêm yết danh sách cuối cùng các sinh viên chính thức được chọn cho niên khóa trong đó có tên anh. Có lẽ nhờ anh đã tận tụy và nỗ lực trong mọi cuộc tập dợt, đồng thời anh cũng có một tinh thần đồng đội rất cao như khuyến khích, giúp đỡ trông nom tận tình những đồng đội bị thương vì những thoi húc quá mạnh.
Khi nhìn thấy tên mình trong danh sách cầu thủ chính thức, anh mừng rỡ vội vàng điện thoại báo tin cho Thân Phụ biết. Ông rất vui mừng và để cùng chia sẻ nỗi vui mừng với con, ông đã nhận mua vé tất cả các trận chơi của trường.
Trong bốn năm ở đại học, anh rất chăm chỉ không vắng mặt một buổi tập dợt nào, nhưng anh chưa bao giờ được chính thức ra sân. Đã tới hồi chấm dứt mùa giao đấu của năm học chót. Vào chiều Thứ Hai tuần chót của mùa giao đấu, anh cùng với các cầu thủ đang tập dượt chuẩn bị cho trận đấu vòng loại rất quan trọng; nghe thày gọi, anh hoảng hốt rời sân tập và vội vã chạy tới trình diện thày huấn luyện viên trưởng. Ông trao anh bức điện tín. Anh đọc điện tín rồi như chết đứng trong yên lặng. Cố nghẹn ngào nuốt buồn tủi, lập cập nói với thày:
– Cha con vừa qua đời sáng nay! Xin thày cho phép con vắng mặt buổi tập dượt hôm nay được không? Huấn luyện viên nhẹ nhàng đặt tay trên vai anh ôn tồn chia buồn cùng anh và nói:
– Con hãy nghỉ trọn tuần, và cũng không cần phải tới tham dự trận đấu Thứ Bảy này.
Anh lặng lẽ vội vàng về phòng thu xếp những gì cần thiết rồi lên đường về lo thu xếp ma chay cho người Cha. Sau khi an táng cha xong vào 10 giờ sáng Thứ Bảy, anh vội vã trở lại trường hy vọng kịp xem trận đấu khai mạc vào 5 giờ chiếu. Khi anh tới nơi thì trận đấu đã qua hiệp nhì. Trước đối thủ có hạng cao, đội của anh đã tận dụng khả năng nhưng vẫn chưa thay đổi tỷ số dầu chơi ở sân nhà. Gần hết bán hiệp nhì, đội của anh đã bị gác 10 điểm. Anh lặng lẽ lẻn vào phòng thay quần áo, đổi y phục cầu thủ, rồi anh chạy ra vỉa sân chơi phía đội nhà đang đứng, Các huấn luyện viên và các đồng đội rất sửng sốt khi nhìn thấy cầu thủ nhiệt thành tý hon đã trở lại quá sớm sau tang lễ của bố. Anh ta nói:
– Thưa thày, đây là trận chót, xin thầy cho phép con được chơi hôm nay, con ước ao được chơi để biểu diễn khả năng của con ngày hôm nay? Ông giả vờ như không nghe anh hỏi. Ông thầm nghĩ, không thể nào để một cầu thủ kém cỏi nhất ra sân trong trận đấu vòng loại quan trọng như thế này được. Nhưng anh ta năn nỉ hoài, làm ông mủi lòng nhất là khi nghĩ đến cái đại tang bất hạnh của anh , và nhận thấy cũng không hy vọng có thể trở thắng nổi nên ông gật đầu:
– Thôi được, ta thuận để con chơi.
Thế là anh được phép ra sân. Chỉ trong giây lát, các cầu thủ và huấn luyện viên đứng ngoài nhìn, mọi người đều ngạc nhiên không thể tin vào con mắt của họ. Vì một cầu thủ vô danh tiểu tốt chưa từng giao đấu một trận nào trước đây, nhưng anh ta đã thi thố tài năng biểu diễn rất chính xác trong tất cả vị trí.
Các địch thủ không làm sao chặn anh ta nổi. Ôm banh chạy, chuyền banh, chặn đường húc, bắt banh, ngăn địch thủ thật hữu hiệu và chính xác hơn cả những cầu thủ từng danh tiếng lỗi lạc của đội. Khiến đồng đội của anh phấn khởi, chơi rất hăng say. Chỉ trong mấy phút đã gỡ hòa. Rồi vào giây chót của trận đấu, đối thủ có banh, định làm kiểu bất ngờ “Hail Mary!” liệng banh thật xa để tránh bị mất banh ở sân nhà. Anh tiên đoán được và nhanh chân đuổi theo rồi nhảy lên chặn bắt được banh, chạy ngược lại như bay xuống cuối sân đặt trái banh kết thúc trận đấu với chiến thắng bằng 6 điểm. Cả đội tràn ra sân ôm anh và kiệu trên vai, hoan hô như chưa từng thấy bao giờ!
Cuối cùng, sân không còn một người, các cầu thủ đã tắm rửa, thay quần áo và rời phòng. Riêng thày huấn luyện viên trưởng nhìn thấy cầu thủ “tý hon” khác thường kia đang ngồi yên lặng một mình trong góc tường. Ông đến và nói:
– Này con, ta không thể nào tin được. Con tuyệt diệu như vậy ! Hãy nói cho ta biết, đã có phép lạ gì trong con? Làm sao con có thể biểu diễn được những điều lỗi lạc đó như vậy hôm nay? Anh ta nhìn lên thày huấn luyện viên với hai dòng lệ tuôn trào từ khóe mắt nói:
– Vâng, Thày biết Thân Phụ con đã ra đi vĩnh viễn! Nhưng có điều . . . Thày chưa từng biết, Cha con . . . mù hai mắt! Anh cố nuốt nghẹn rồi mỉm miệng cười, bước theo thày huấn luyện viên và tiếp:
– Thiên Chúa đã mở mắt Cha con, Người đã đến xem và mục kích trận đấu của con hôm nay. Đây cũng là lần đầu tiên Cha con được nhìn thấy con chơi, nên Chúa muốn con chứng tỏ cho Cha con rằng con có thể làm được những việc đó!
Cảm Đề
Có người hãnh diện vì ta
Yêu thương cầu nguyện cho ta vững lòng
Cậy trông Thiên Chúa quan phòng
Để ta luôn được sống trong an bình.
***
Mắt mù tâm sáng lại anh linh
Hiện tượng siêu nhiên vượt trí mình
CHÚA muốn ban cho đều được cả
Người cầu nhận thức tuyệt vời xinh
Cha luôn khích lệ lòng trông cậy
Con quyết vâng tuân ý tiến trình
Kết quả phô bày thành tích lập
Hồng ân nhắc mãi rực Tân Kinh.
(Mt 21:22)
Hoài Việt
nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi
Cái Chết Của Một Y Sĩ
Cái Chết Của Một Y Sĩ
(06/08/2012) trích Vietbao.com
Tác giả : Chu Tất Tiến
Tác giả là một nhà văn, nhà báo, đồng thời cũng từng là nhà giáo, nhà hoạt động xã hội quen thuộc với sinh hoạt văn hóa truyền thông tại quận Cam.Ông đã góp nhiều bài giá trị và từng nhận giải danh dự viết về nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới nhất.
Buổi sáng nay, trong khi đang tập khí công ngoài vườn, thấy một đôi chim lạ xà xuống trên cành hoa vàng Golden Rain ở giữa vườn rồi tung tăng nhẩy múa với nhau, tôi chợt liên tưởng đến những mối tình đẹp của con người, đến những yêu thương mà người ta dành cho nhau, đậm đà tha thiết, làm cho đời sống mỗi ngày một phong phú hơn. Không có tình yêu, nhân loại sẽ ra sao? Có lẽ chỉ là những bóng ma vô hồn, hay những Robot ngớ ngẩn, chỉ biết phá hoại cho đến khi nào thế giới này tàn lụi. Vì những liên tưởng đẹp đẽ đó, tôi say mê nhìn ngắm đôi chim non kia và muốn được ôm chúng vào lòng và thưởng cho chúng một nụ hôn thật dịu dàng.
Từ khi sang Mỹ, nhận thức của tôi về tình yêu và hôn nhân đã thay đổi rất nhiều. Trước đó, tôi vẫn tưởng những biến cố ly dị trong cộng đồng Việt ở Mỹ rất hiếm họa, vì người Việt vẫn có khuynh hướng trung thành với nền văn hóa cổ kính nhưng thanh bạch của mình, các cặp vợ chồng vẫn hay nhịn nhường lẫn nhau, cho dù người đàn ông Việt thường hay nắm vai trò chủ động trong gia đình, và đa số các ông chồng có tính áp đảo người vợ.
Nhưng sau khi sang định cư ở quốc gia này rồi, tôi mới bàng hoàng thấy rằng các quan niệm về gia đình, vợ chồng đã thay đổi rất nhiều, và người vợ ở xứ Mỹ này lại chủ động hơn các ông chồng, nhất là trong lãnh vực ly dị. Theo một luật sư cho biết, thập niên 70, hầu như rất hiếm có vụ li dị, đến thập niên 80, thì tỷ lệ ly dị trong cộng đồng Việt là từ 5-7%, nhưng sau năm 1990, tỷ lệ này tăng cao dần, đến giữa thập niên 90 thì ngang ngửa với Mỹ, nghĩa là 50%. Điều ngạc nhiên nữa là tỷ lệ người vợ xin ly dị chồng nhiều hơn chồng xin ly hôn từ 20% đến 30% tùy theo năm, nghĩa là số người “bợ vỏ” (vợ bỏ) khá cao. Sự kiện đó làm cho tinh thần người đàn ông suy sụp nặng nề, lúc nào cũng lo ngại bị “bợ vỏ”, nên cách sinh hoạt cũng thay đổi nhiều lắm.
Trên hết, là các hậu quả đau thương của việc ly dị, nghiêng về phần phái mạnh. Một trong những chuyện đau thương đó, đã xẩy đến cho người bạn của tôi, bác sĩ Phạm Thanh Nh.
Nh. nội trú cùng trường và trên tôi hai lớp, nhưng không biết nhau, chỉ nhận ra nhau sau khi tôi chuyển vào K.30, là trung tâm y tế của trại tù Suối Máu. Ngay ngày đầu gặp nhau ở trong trại, chúng tôi đã thấy muốn gần nhau, và sau vài câu chuyện xã giao về học hành, và sinh hoạt, tôi mới biết anh đã từng ở nội trú Đắc Lộ, Bẩy Hiền rồi đi khỏi đó để vào học Y Khoa, trước khi tôi bước vào đó. Từ đó, chúng tôi thân nhau, và thường ăn chung với nhau để tâm sự. Sau khi ăn tối xong, anh và tôi thường tản bộ quanh nhà, nói chuyện đời, chuyện tình yêu thời trai trẻ, và chuyện lính tráng… Anh cho tôi hay là vợ anh và các con đã vượt biên và đang định cư ở Mỹ. Tôi cũng mừng cho anh, và chúng tôi cùng tin tưởng rằng một ngày nào đó, anh được tha về và được đi Mỹ, xum họp với vợ con. Nhiều câu chuyện tưởng tượng đã được nói ra, nhiều nụ cười vang đã nở khi câu chuyện đến chỗ tiếu lâm vui vui.
Cứ thế, chúng tôi thân nhau, và cả nhóm anh em trong trại đều biết tình thân của chúng tôi. Dĩ nhiên, tình đồng đội, chiến hữu, và tình bạn tù làm cho chúng tôi cũng thân thiện với tất cả các anh em khác, nhất là nhóm y sĩ được trách nhiệm coi sóc trung tâm y tế này, trong đó, có các Bác sĩ Lê Hồng Khánh, Lương Tấn Lộc, Trương Đông, Thân Trọng Đàm, Nguyễn Trọng Dực, “cụ Bác Sĩ” Phạm Văn Triển, và Nha Sĩ Bùi Duy Đào. Riêng với Phạm Thanh Nh. thì tôi thân một cách riêng, và tình cảm của chúng tôi không qua mắt được anh em, đến nỗi, có một lần, không biết vì lý do gì, một buổi trưa, có lẽ vì sự căng thẳng của nhà giam và sự mong đợi được về nhà, tự nhiên, chúng tôi cãi nhau lớn tiếng, rồi giận nhau, hầm hầm hừ hừ, không thèm nhìn mặt nhau, thì ngay chiều tối đó, một cuộc họp giữa một nhóm bạn y sĩ khác được tổ chức, và các anh gọi tôi và Nh. ra, mỗi tên đứng một đầu nhà. Các anh bảo với tôi:
-Tụi tôi thấy hai ông thân nhau quá, mà tự nhiên nóng giận như thế thì không nên. Bây giờ, tôi đếm 1, 2, 3, ông từ từ đi vòng từ đầu nhà này, qua phía trái, còn Nh. sẽ đi từ đầu nhà bên kia, vòng qua phải, tới giữa nhà thì gặp nhau, hai ông bắt tay nhau, huề nhe!
Tôi lẳng lặng nghe lời, đi vòng qua đầu nhà, tới khi đụng Nh. thì nhe răng cười, rồi bắt tay nhau. Anh em đứng chờ, thấy chúng tôi ôm nhau, thì mọi người cùng vỗ tay ầm ĩ, vui vẻ.
Từ đó về sau, chúng tôi không bao giờ giận nhau nữa, ngay cả khi vì tôi, mà anh mất quyền lợi. Vì K.30 là trung tâm y tế của toàn trại, nên các tù nhân “cải tạo” bị bệnh nặng được chuyển vào đây và giao cho các bác sĩ “chế độ cũ” điều trị. Mỗi sáng, cô Đại Úy Y Sĩ Công An Nguyễn Thị H., là Y Sĩ Trưởng của cả trại tù Suối Máu, đến “giao ban” với các y sĩ và ra những quyết định quan trọng, hoặc cho bệnh nhân ra bệnh viện Biên Hòa để tiếp tục điều trị, hoặc tha về. Điều bất ngờ là cô H. lại có cảm tình đặc biệt với tôi, một tù nhân bình thường, không thuộc giới y khoa. Một hôm, cô H. gọi anh Nh. ra ngoài và xì xào nhờ anh đưa mấy cuốn sách và bút vẽ tặng tôi, anh gọi tôi đến, cười ha hả:
-Tiến! Tiến! Phen này cậu chết rồi! “Cán Bộ” H. mê cậu rồi!
Theo thủ tục, mỗi khi có một bệnh nhân phải chuyển viện ra ngoài thì Y Sĩ trách nhiệm chính của tù nhân ấy phải cầm hồ sơ bệnh lý đi theo Y Sĩ H. ra đến bệnh viện Biên Hòa và trình bầy bệnh lý của tù nhân ấy. Hôm ấy, tới phiên Nh. phải đi theo một bệnh nhân của anh ra ngoài, anh đã chuẩn bị hồ sơ bệnh lý và đứng chờ “cán bộ” Y sĩ H, hy vọng có một cơ hội được hưởng chút không khí tự do và nhìn thấy … loài người, không phải bọn “khỉ giam giữ tù nhân! Bất ngờ, H. trầm giọng:
-Anh Nh. ở lại trại. Anh Tiến đi theo tôi!
Nh. chỉ gật đầu, rồi quay vào, gọi tôi ra đi theo “nàng”. Đến buổi chiều, khi thấy tôi về, Nh. cười ha hả:
-Cậu phải đưa tớ khám xem còn trinh không?
Và, sau này, khi tôi cương quyết không chấp nhận mối tình ấy (đã viết trong “Chuyện Tình của Cô Công An trong tuyển tập “Bôn Sa có gì lạ không, em?”), Nh. cười hoài:
-Thật lẩm cẩm! Mỡ để miệng mèo, mà mèo lại không chịu ăn!
Tình thân của chúng tôi còn tăng thêm vì ra tù cùng lượt vào cuối năm 1980. Nh. về nhà ở Hàng Xanh, và vượt biên luôn. Nhưng xui xẻo, bị bắt lại ngay. Ở tù thêm một thời gian, Nh. không còn muốn vượt biên nữa, và chờ vợ ở Mỹ bảo lãnh. Trong khi chờ đợi, anh mở phòng mạch tại tư gia. Anh nhờ tôi vẽ cho anh cái bảng hiệu, tôi nắn nót vẽ xong, thì đem lại treo trước cửa cho anh. Tôi hỏi:
-Có giấy phép không, mà dám mở phòng mạch?
Anh lắc đầu:
-Phép mẹ gì! Cứ đút cho Phường một tí là xong ngay.
Rồi vừa mở phòng mạch, anh vừa xin đi làm tại Bệnh Viện Grall. Tôi thỉnh thoảng đến thăm anh tại bệnh viện. Thấy tôi, là anh cười liền và lẳng lặng đi trước dẫn đường tôi xuống câu lạc bộ, làm hai chén chè đậu đen. Hai đứa vừa nhâm nhi ly chè vừa nói khe khẽ chuyện tương lai. Khi nghe tin tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái Lan nhận đơn của tù “cải tạo” xin đi Mỹ, anh đến nhà tôi, nhờ tôi viết giùm đơn:
-Cậu đọc giùm tớ xem cái “Questionaires” này nó viết gì mà lằng nhằng quá. Rồi trả lời giùm tớ luôn. Viết giùm thêm một cái đơn bằng tiếng Anh nữa. Cho nó trịnh trọng.
Nh. tâm sự với một nửa hy vọng:
-Vợ tớ đang ở Mỹ với mấy đứa con. Tuy cô ấy không hề gửi thư, gửi quà gì cho tớ từ nhiều năm nay, nhưng qua một đứa em, cô ấy nói sẽ làm giấy bảo lãnh cho tớ qua Mỹ.
Giọng Nh. trầm buồn:
-Thôi, kệ, nếu cô ấy không thương yêu gì tớ nữa, mà cứ bảo lãnh cho tớ đi, thì cũng được rồi. Ở xứ này như ở với chó lợn, chỗ nào cũng có cặp mắt chó sói theo dõi, thở không nổi! Nói to tiếng cũng có thể bị tù giam.
Sau đó, một thời gian, Nh. cho tôi hay là có nhờ một anh bạn bác sĩ người Pháp, qua Mỹ tìm giùm vợ con anh. Anh bạn bác sĩ kia, sau khi trở lại Việt Nam, cho Nh. biết là ông ấy có đến gặp vợ anh và bà ấy hình như đang sống chung với một người ngoại quốc nào đó, cho nên không thư từ gì cho Nh. được. Điều làm cho Nh. tươi tỉnh lên là vợ Nh. hứa sẽ bảo lãnh cho Nh. sang rồi mới ly dị.
Hy vọng của Nh. cứ tăng lên khi số người được bảo lãnh đi Mỹ cũng tăng lên. Nh. yêu đời hơn một chút. Một ngày, tôi rủ anh đến xem tranh của một người bạn họa sĩ của tôi, anh nhận lời liền và còn rủ một cô y tá làm cùng phòng anh đi xem. Buổi sáng ấy, anh và cô y tá kia đến nhà tôi, cười nói vui vẻ. Ba người chúng tôi được một ngày đầy ắp tiếng cười.
Chừng một tuần lễ sau, tôi ghé vào Grall thăm anh. Nh. hôm đó vui quá, rủ tôi xuống câu lạc bộ, làm hai ly chè đậu đen. Anh thì thầm:
-Này, chủ nhật này, tớ đến nhà cậu, hai đứa đi ăn phở! Tớ bao.
Tôi hỏi:
-Có tin gì vui vậy?
Nh. nói nhỏ:
-Hôm qua, tớ nhận được giấy mời của phòng Xuất Nhập Cảnh, mời lên gặp họ vào Thứ Sáu này. Có lẽ tớ được đi…
Tôi vui quá:
-Thế thì mừng cho cậu. Cậu đi trước, tớ đi sau.
Và tôi dặn đi dặn lại:
-Nhớ chủ nhật này, đúng 9 giờ nghe. Tớ chờ….
Rồi tôi chờ, chờ mãi… Nh. không đến! Nh. chưa bao giờ thất hẹn với tôi trong mấy năm qua. Lòng tôi bồn chồn kỳ lạ. Có chuyện gì? Có chuyện gì vậy?
Suốt ngày, tôi cứ lặp đi lặp lại với vợ tôi:
-Anh Nh. hẹn anh 9 giờ sáng mà giờ này chưa tới? Lạ quá!
Tối Chủ Nhật trôi qua thật mệt mỏi.Tôi đi ngủ mà mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà…
Sáng thứ Hai. Mới 8 giờ sáng. Có tiếng đập cửa..”Anh Tiến! Anh Tiến! Mở mau!”
Tôi hốt hoảng ra mở cửa. Cô y tá của Nh. vừa trông thấy tôi là khóc òa:
-Anh ơi! Anh Nh. chết rồi! Chết thật rồi!
Tôi bàng hoàng, chẳng hiểu sao:
-Cô.. cô.. nói cái gì? Ai.. chết? người nào chết?
Cô y tá càng khóc to hơn, nức nở mãi mới nói lên lời:
-Anh Nh. chứ ai! Bác sĩ Nh.! Anh hiểu chưa? Anh Nh. chết sáng hôm qua rồi!
Tôi lặng người như có ai đập búa vào đầu mình, thều thào:
-Sao?…. Tại sao? …Sao lại… chết?
Chữ “chết” thật nhỏ, tưởng như không thốt ra được! Mãi một lúc sau, cô y tá mới từ từ kể:
-Sáng nay, lẽ ra anh Nh. phải có mặt từ 6 giờ vì có công tác khẩn. Không thấy anh ấy tới, em phải phóng đến nhà thì thấy anh ấy chết từ hôm qua rồi!
Tôi muốn té ngồi xuống đất vì hai chân run quá. Không biết nói sao hơn, tôi rủ cô y tá cùng đi đến nhà Nh.
Tới nơi, thấy Nh. nằm thẳng, hai tay chắp để trên bụng, khuôn mặt bình thản. Mẹ Nh., bà cụ lưng còng vì nuôi con, cho biết:
-Tối thứ Sáu, nó về nhà, chẳng nói chẳng rằng gì, chỉ gọi mấy đứa cháu gần nhà đến chơi, bảo tụi chúng nó hát múa cho chú xem, đến sáng thứ Bẩy, tự nhiên mua vé lên Bảo Lộc thật sớm, gặp em cháu ở đó, chừng 1 tiếng đồng hồ, rồi lại về liền. Sáng Chủ Nhật, không thấy nó đi lễ sớm với nhà, cứ tưởng nó mệt, khi lễ về, lay gọi mãi, không thấy động, thì ra nó chết rồi!
Tôi đứng nhìn Nh. nằm bất động, miệng lẩm bẩm gọi anh:
-Nh.! Nh.! Tại sao? Tại sao? Có gì mà không nói với tớ? Sao phải ra đi đột ngột như vậy?
Nh. vẫn im lặng. Hình như anh có mỉm một nụ cười buồn.
Đám tang Nh. có rất nhiều bạn y sĩ cùng khóa 68 (?) của anh. Bác Sĩ K. nói nhỏ vào tai tôi:
-Nh. tự tử đấy! Bà cụ gọi tôi, tôi đến ngay, thấy Nh. nằm ngay ngắn như vậy, bên cạnh, còn cái ống chích không. Chắc Nh. tự chích cho mình xong thì nằm xuống! Không hiểu sao Nh. lại tự tử như thế?
Riêng tôi thì hiểu mà không nói ra được. Vì theo lời ba của Nh. kể cho tôi biết, thứ Sáu hôm đó, khi Nh. lên phòng Xuất Nhập Cảnh, thì thay vì nhận thông hành, lại được cho hay là vợ Nh. thông báo hủy vụ bảo lãnh cho Nh. vì đã lập hôn thú với người mới rồi!
Nh. thất vọng não nề. Bao nhiêu hy vọng rời khỏi đất nước mà ma quỷ ở chung với người đã tiêu tan theo mây khói. Với bản tính ngay thẳng, hiền lành nhưng cương trực, anh không chịu nổi sự phản bội phũ phàng của người vợ tham tiền, ích kỷ, đốn mạt và phản bội kia, đành tìm đến cái chết.
Đám tang của anh được cử hành trong nước mắt. Chiếc xe tang đưa anh đến nơi an nghỉ ở ngọa ô, nơi có những cây dừa bao quanh, đất bùn nhão nhẹt. Tôi đứng lặng nhìn người ta dựng nên tấm bia lạnh lẽo dưới chân Nh. mà hồn như đang bay ở nơi nào đó, có tiếng cười sảng khoái của Nh.
Nắng đã lên. Cành hoa vàng Golden Rain giữa vườn rạng rỡ hơn. Đôi chim lạ vẫn hồn nhiên nhẩy múa, chẳng e dè thấy tôi đứng nhìn chúng. Bất ngờ, một chú chim vùng lên, tíu tít trong giây phút rồi vụt mất tăm vào không gian mênh mông để lại bạn đứng ngỡ ngàng, hụt hẫng vài giây rồi cũng tung cánh bay biến vào một phương trời khác.
Đột nhiên, tôi lại nghĩ đến những mối tình dang dở, đến các cuộc chia ly giữa những kẻ đang yêu nhau, có thể có nước mắt hoặc hoàn toàn khô lạnh.
Thôi, tạm biệt bạn hiền. Nhất định rồi mình sẽ lại gặp nhau, làm một ly chè đậu đen…
Chu Tất Tiến
Trái Đất Quay Một Vòng
Trái Đất Quay Một Vòng
Trái đất quay một vòng , mặt trăng và mặt trời thi nhau mọc lên lặn xuống , ngày mưa tháng nắng cũng luân phiên thay đổi không ngừng .Trên mái đầu hai đứa nhỏ ngày nào chung trường chung xóm giờ đây tóc trên đầu đã lốm đốm từng sợi bạc trắng như tuyết .Ông Huấn bây giờ đã có tiền về hưu trí , không vợ không con sống một mình ên , ngoài công việc thiện nguyện làm cho vui không cần lấy lương đến giúp cho một cơ quan tại địa phương , ông Huấn đứng phát đồ ăn cho những người già được chính phủ cho không biếu không . Ngoài công việc ông cũng ít bạn bè nên giết thời gian vào việc ngồi viết nhật ký . Ông viết một hơi khi đọc lại thấy những ý tưởng giấu kín trong tâm hồn của ông lại có thể làm cho ông bị cảm động đôi khi ứa nước mắt .
Ông quyết định chuyển nó qua viết truyện ngắn ,mỗi câu chuyện được hình thành trên bàn phím dưới mười ngón tay thoăn thoắt của ông . Ông viết khá nhiều rồi chợt nghĩ để cất giử lại cho riêng mình ông thấy có vẻ ích kỷ quá vì trong truyện luôn có “con nhỏ” đó mà , thôi thì bỏ nó lên diễn đàn trước tự làm cho ông vui sau biết đâu có ngày gặp lại cái người bạc bẻo đó để mà trút cái ấm ức chôn vùi bấy lâu nay . Và rồi ông tưởng trái đất to lắm , ai dè quay một vòng thì cái ngày ông mong đợi đó đã đến thiệt giống như một ” cơn bão đi qua đời mình ” .
…
Trái lại con nhỏ bạc bẻo kia ngày xa xưa đó vờ như không biết có cây si mỗi ngày thấp tha thấp thỏm trước đường hẻm , đứng xéo sau cái cột đèn đường đưa mắt vô nhìn con nhỏ đang đứng phơi đồ trước sân . Con nhỏ cái mặt non choẹt cũng bầy đặt theo phong trào của ông nhà văn Chu Tử với cuốn tiểu thuyết Yêu lãng mạn hết sức, mô tả tình yêu giữa đứa con gái mới lớn thầm yêu người đáng tuổi chú của mình . Thằng nhỏ ức lắm và hối hận cành hong vì nó là đầu tiêu dẫn con nhỏ đi mướn cuốn truyện Yêu đó , còn ngu ngốc giới thiệu là ” không hay tui chịu một chầu bánh cuốn bên góc rạp hát ” . Khỏi nói bánh cuốn nơi đó vừa dẻo , chả lụa thơm còn thêm nước mắm tuyệt hạng vừa ăn vừa húp xít xoa bị tương ớt cay quá . Hối hận thì quá muộn màng , con nhỏ từ ngày chui vô mềm bật đèn bin để coi cuốn truyện dài của người lớn đó , hấp dẫn quá xém bị ông anh nện cho u đầu vì cái tội không lo học hành cư’ suốt ngày mê đọc tiểu thuyết .
Ai nói tiểu thuyết không ảnh hưởng tới đời sống cơ chứ . Con nhỏ bỗng dưng thấy mình như lớn ra , ba cái trò chơi như dích hình , chơi banh đủa sao mà trẻ con thế . Nhỏ mới mười ba tuổi người ngợm thẳng đuột , vậy mà khi đi may áo dài để mặc cho ngày Tết cũng bày đặt hít bụng vô cho nhỏ để áo dài có eo , trời đất siết cái bụng mà không có vòng số 1 thì cái vòng số 2 làm cho cái vòng số 1 lùng thùng trống trơ thiệt khó coi . Mặc kệ nó , con nhỏ không thích làm con nít nữa nên tuy vẫn đi học chung với thằng nhỏ mỗi ngày nhưng tâm hồn của nó đã bay bỗng với nhân vật chú trong cuốn tiểu thuyết YÊU thiệt vô cùng lôi cuốn . Còn thằng nhỏ vẫn ngu ngơ không biết thưởng thức ngắm nhìn khi con nhỏ mặc áo dài , nó nhìn thiệt không quen mắt , nó chỉ muốn con nhỏ mặc mấy đồ bộ ở nhà có cột mấy cái nơ tim tím hay đính ren rua trông con nhỏ giống mấy nàng công chúa trong mấy truyện bằng hình hơn . Thằng nhỏ cũng mê đọc truyện , nhưng truyện thằng nhỏ thích thường là truyện cổ tích , truyện phiêu lưu , nhưng cuốn truyện thằng nhỏ thích nhất là chuyện công chúa Lọ Lem bởi hình ảnh con nhỏ mỗi ngày phơi đồ quét nhà sao mà trông giống nàng công chúa trong giấc mơ mà nó hằng mơ ước .
…
Hai năm trôi qua cái vù , hai đứa cùng tuổi 15 nhưng con nhỏ lớn hơn một tháng , ra đời trước một tháng thôi cũng thấy già dặn hơn nhiều . Còn thằng nhỏ trông vẫn còn khờ lắm , ngu ngơ cả trong giấc mơ nó gặp con nhỏ vẫn không dám nói tiếng thương để tỏ tình cảm của mình ấp ủ bấy lâu . Đâu ngờ mùa tựu trường năm đó con nhỏ không trở lại trường học , thằng nhỏ chưa kịp gặp để hỏi nguyên nhân thì nhà con nhỏ rộn ràng hẳn lên , người lui kẻ tới . Thằng nhỏ đi ngang qua trước cửa vẫn rụt rè chưa dám bước vô nhà để thăm con nhỏ , nó định sáng hôm sau nhất định phải tìm gặp con nhỏ hỏi cho ra lẻ . Thế là suốt đêm trằn trọc không sao ngủ được , hình như nó cũng có một sự linh cảm nào đó thật mơ hồ giống như con nhỏ ” thần giao cách cảm ” để nói với nó vậy .Trong lòng thật khó chịu nên khi trời vừa sáng nó lấy xe đạp để đạp qua nhà con nhỏ một vòng, vì nó biết thói quen của con nhỏ cũng thích dậy sớm để đứng trước sân nhà làm mấy động tác tập thể dục để tập cho có cái eo mặc dầu cái eo con nhỏ xẹp lép . Từ xa xa thằng nhỏ thấy hai chữ mạ vàng sáng lên trong cái khung màu đỏ thẩm treo trước cổng nhà , đó là hai chữ Vu Qui . Thằng nhỏ thắng xe như muốn nhào xuống đất . Tiếng thắng xe gấp nghe ra một tiếng kécccc làm cho con nhỏ đang đứng trước sân đưa mắt nhìn qua hai cánh cổng bằng những thanh sắt , những khẻ hở bé xíu đủ để con nhỏ nhìn thấy người bạn học cũng là người bạn hàng xóm thân thiết suốt cả thời thơ ấu của mình đang mặt mày xanh lè từ từ chuyển sang đen thùi như ông Bao Công .*
Con nhỏ thấy bối rối hơn bao giờ , trái tim tự dưng đập lên thình thịch , toàn người bị run rẩy vì làm sao con nhỏ không biết được tình yêu thầm lặng của người bạn chung trường chung lớp bấy lâu nay . Con nhỏ chưa định thần thì Huấn tay cầm gi đông của chiếc xe đạp tiến tới đứng sát vào cánh cửa cất tiếng gọi nho nhỏ như sợ ai nghe thấy …Nha Mân … chưa nghe Mân trả lời Huấn nói tiếp ” sao phải nghĩ học ? ” rồi cũng chưa nghe câu trả lời , Huấn hấp tấp hỏi ” đám cưới của ai ? ” . Nha Mân đứng im như bị á khẩu . Một người bên trong cánh cửa và một người đứng bên ngoài cứ thế mà nhìn nhau cho tới khi tiếng động chung quanh từ từ vang lên , sự sinh hoạt mỗi ngày của con hẻm nhỏ bắt đầu cho một ngày mới . Lúc đó Huấn mới mở lời có vẻ cay đắng ” Mân ác lắm , tui sẽ quên Mân không thèm nhớ nữa đâu ” . Nghe Huấn nói câu này tự dưng nhỏ Mân bị nổi quạu vì nó đã trưởng thành đâu mà biết đó là lời hờn dỗi của một người khi bị tình phụ ” ừa không nhớ thì thôi … shi“`” . . Người quay lưng trở về mới thấy tự dưng cái đầu óc u tối bấy lâu nay chợt sáng ra rồi cứ ôm đầu tức tối vì bị thua cho địch thủ là một người hơn mình tới 10 tuổi nghe nhỏ Mân thường hay kêu bằng chú .Còn Nha Mân bị gả chồng sớm vì trong nhà có tới 13 cô con gái giống như 13 trái mìn nổ chậm , hể có ai muốn tới xin cưới , ông bà già thấy gia thế trong sạch , công ăn việc làm đàng hoàng là ông bà chẳng ngại ngần gả con gái ngay chẳng cần biết con mình có yêu thương gì người ta không , chỉ cần thằng rể thương là ông bà chấp thuận đặt con ở đâu thì phải ngồi đấy nếu trái lời thì cây roi mây dài cứ thế quất vào mông thật đơn giản như đang giởn . Ông bà già tuy thuộc loại người xưa quê mùa mộc mạc nhưng biết nhìn người ,nhìn vào cái tâm tốt chứ không nhìn vào bên ngoài xấu đẹp ra sao . Cũng hên cho con nhỏ chồng nó tuy lớn tuổi nhưng trông rất phong độ lại có việc làm tốt bảo đảm cho vợ con no ấm về sau .
…
Nước mắt Huấn tự dưng ứa ra rồi cứ thế tự trách tại sao lại đi đầu độc tư tưởng của Mân khi dắt tay con nhỏ đi mướn cuốn truyện YÊU ngày nào làm chi để giờ tình vội xa bay .Đúng là cưới vợ cưới liền tay bởi trong nhà Nha Mân trong 13 chị em , đẹp nhất là con nhỏ giống như nữ tài tử Sa-vi-ta-ri của Ấn Độ trong cuốn phim Chồng người vợ rắn độc quyền chiếu ở rạp hát Long Phụng . Chiều hôm đó tiếng pháo cuối xóm nổ một tràng dài dòn dã để đưa cô dâu theo chồng . Ông bà già thở phào nhẹ nhỏm coi như được trút một ít muộn phiền mừng một đứa yên bề gia thất . Còn thằng Huấn nằm co ro một đống giống hệt như bài hát …” ngày nhà em pháo nổ , anh cuộn mình trong chăn, như con sâu làm tổ , trong trái vải cô đơn ” . Con sâu Huấn không ở trong trái vải mà đang ở trong cái mền bông dày cộm mặc dầu bên ngoài nắng đã lên tới cái bảng hiệu quảng cáo treo chót vót gần đụng tới nóc nhà thờ , cơn nóng toát ra từ chân tóc như bắp rang trên nồi làm thằng nhỏ giống như đang tắm hơi . Người ta thì ” anh dặm trường mê mãi , đời chia như nhánh sông ” . Còn Huấn mãi cả tháng sau khi Nha Mân theo chồng bỏ xóm giềng đi biệt dạng , nghe đâu ở tuốt dưới Biên Hòa . Chẳng lẻ thằng Huấn phải học máu như Lương Sơn Bá khi hay tin Chúc Anh Đài lên xe hoa sao !? .Một mối tình câm , câm luôn cho người ra đi khỏi vấn vương . Cha mẹ Huấn cũng biết chuyện buồn của con nên đã cho Huấn rời khỏi khu xóm nhà lá với biết bao kỷ niệm để lãng quên đi mối tình đầu đau khổ mang Huấn tới nhà người bác giàu có ở trung tâm Sài Gòn . Bác của Huấn không có con cái nên nhận Huấn làm con nuôi . Sống trong gia đình giàu sang thằng nhỏ ngày nào chạy rong ở trần với cái quần xà lỏn trong cái xóm bình dân , hôm nay bỗng trở thành một chàng công tử bảnh trai đâu khác gì hoàng tử bạch mã , giá mà con nhỏ Mân nhìn thấy lúc này biết đâu trái tim nó rẻ hướng trước khi quyết định vâng lời cha mẹ để lấy chồng . Sau khi nỗi buồn chìm xuống , chôn thật sâu giữa trái tim , Huấn không dặm trường mê mãi mà Huấn miệt mài lo chuyện học hành để cho cha mẹ khỏi âu sầu và rồi thời gian trôi đi . Cuộc đời như dòng sông chia nhánh đã đưa Huấn rời khỏi đất nước qua tới tận bên kia phương trời .
…
Nha Mân theo chồng , theo tình yêu ngây thơ của cô gái mới 15 tuổi . Hôm lễ cưới diễn ra làm cho chú rể cứ bị ngượng ngùng bởi cô dâu ôm bó hoa huệ trên tay tung tăng đi trước cả chú rể để tới nhà thờ vì con hẻm nhỏ xe hơi đón dâu vô không được hơn nữa từ đường hẻm đi ra nhà thờ đâu có xa xôi gì mà mướn xe cho tốn kém tiền bạc , cứ giản tiện chừng nào hay chừng đó , nên đám cưới của Nha Mân lại nổi đình nổi đám trên những cái miệng ” bà tám” râm rang khắp mọi nơi .
Cô dâu trong đêm tân hôn nằm ôm cuốn tiểu thuyết đọc say mê để chú rể cứ đi vào rồi lại đi ra . Phải mất cả tuần lễ dỗ dành lời ngon tiếng ngọt cô dâu mới không bị hốt hoảng khi thấy ông chồng mình trần như nhộng , còn cô dâu khỏi phải quấn mình trong cái mền giống như mấy cô cung phi ngày xưa được đưa vào phòng cho vua ban ơn mưa móc . Chuyện ái ân đã làm cho con nhỏ tuổi 15 thấy lạ lẫm rồi đi tới mê say cho nên đứa con đầu mới đầy năm thì cái bụng to vượt mặt để chờ đứa thứ hai chào đời . Cuộc sống có chồng vững chải lo lắng mọi bề nên con nhỏ cứ thế mà ăn no rồi sản xuất búp bê đều đều y hệt dòng máu di truyền của bà má cùng với những ngày tháng êm đềm hạnh phúc bên chồng bên bầy con xinh xắn . Đôi khi ngồi bồng hát ru ầu ơ dí dầu …cho con ngủ , Nha Mân cũng thầm nghĩ tới Huấn không biết bây giờ ở đâu ? đã có vợ chưa ? rồi Nha Mân vẫn không sao quên được gương mặt của Huấn tối sầm lại trong buổi sáng hôm đó cũng là ngày Nha Mân đi lấy chồng để rồi cảm thấy như mình phải nợ Huấn một món nợ tình cảm ,nhưng thôi đành phải hẹn lại kiếp sau…
…
Tình cờ bà ngoại của cháu Cindy đọc một bài viết trên một diễn đàn . Sao câu chuyện kể giống như chuyện xảy ra cho cuộc đời mình thế , bài viết kể về những kỷ niệm trong đó tên đường , quán xá và một mối tình câm … ôi thôi đúng là nơi bà đã sinh sống trước đây mà cũng giống như một người đã từng yêu bà . Tác giả cũng có một lối viết rất chân thật dễ làm rung động lòng người với những câu chuyện vui có , buồn có . Bà ngoại Cindy bỗng dưng cảm mến lối viết nhẹ nhàng này và muốn tìm cách để làm quen và chuyện trò .Thế là phải nhờ cậy tới đứa con gái chỉ bảo cho cách ghi danh vào diễn đàn . Cũng phải mất một thời gian ngắn bà ngoại cháu Cindy mới dám làm quen và chuyện trò qua lại bằng vài dòng ngăn ngắn với tác giả .Hai tâm hồn chân thật nên khi nói năng với nhau theo cái kiểu ” chưa ai đánh mà khai ” , khai một hồi thì dây mơ rể má nó thòng lòng ra một nùi , trước đố sau mở , mở một hồi thì ” ván bài bật ngửa ” , bật nghiêng …
Và thật bất ngờ là hai người đang sống chung dưới một bầu trời , cùng chung một thành phố , cùng trên một con đường không dài lắm cũng giống như con đường của con hẻm trong khu xóm nhà lá ngày xưa . Vậy mà ông trời vẫn còn đày hai đứa hai nơi cho tới khi …
…
Tác giả
_ trái đất quay một vòng
Bà ngoại Cindy
_ Một vòng quá lớn Huấn ơi
Tác giả
_Anh nhà ra sao rồi ?
Bà ngoại của Cindy
_ Anh mất lâu rồi …
…
Bên kia những ngón tay của ông Huấn như bị cứng đơ ra , ông thấy mình bậy bạ hết sức sao nghe tin một người qua đời mà lại vui không kìm hảm nổi nhịp tim như muốn bật tung ra khỏi lồng ngực . Ông thấy đầu óc quay cuồng hai lổ tai lùng bùng và ông ước gì mình đi xuyên qua màn hình ngay lập tức để chạy cho thật mau đến với con nhỏ ngày xưa . Người mà ông chưa bao giờ quên và không thể nào quên …
Mầu Hoa Khế
* Bao Công nhân vật trong truyện phim
Cô Giáo Là Mẹ
Cô Giáo Là Mẹ
Ví mà tôi đổi thời gian được,
Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười.
(Thơ Trần Trung Đạo)
Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tại trường tiểu học của thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ. Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp năm, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái, cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. “Teddy trông thật khó ưa.”
Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thật rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém). Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những gì đọc được. Cô giáo lớp 1 nhận xét Teddy như sau:“Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan… Em là nguồn vui cho người chung quanh”. Cô giáo lớp 2 nhận xét: “Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống trong gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu”.
Giáo viên lớp 3 ghi: “Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ”.Giáo viên chủ nhiệm lớp 4 nhận xét: “Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp”.
Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn. Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những gói quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xỉn mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hoá. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất một vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt ít nước hoa trong chai lên cổ.
Hôm đó Teddy đã nén lại cho đến cuối giờ để nói với cô: “Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa”. Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, cô đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học sinh cưng nhất của cô.
Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa.
Teddy viết: “Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em”. Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng 3 trong lớp và “Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em”. Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng “Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời”. Rồi bốn năm sau nữa, cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sỹ và quyết định học thêm lên. “Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em”, nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn.
Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard – giáo sư tiến sỹ.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây.
Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường dành cho mẹ chú rể. Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra?
Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất. Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: “Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ”.
Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu: “Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chưa từng biết dạy học cho tới khi cô gặp được em.”
ST
Giọt mưa trên tóc
Giọt mưa trên tóc
tác giả: Tiểu Tử
Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục:
– Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt.
Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận:
– Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?
Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:
– Mình đi chung mà Kim.
Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”… Một “cái gì”… Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm: “Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng…”. Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng…” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.
Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường… đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!
Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.
Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau…
Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:
– Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng…
– Sao Nghĩa biết?
Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.
Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:
– Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.
– Họ đi thoát không?
– Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.
Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:
– Không biết họ đi có thoát không?
Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:
– Gia đình Kim có định… có định… đi không Kim?
Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:
– Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?
Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:
– Thì… hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết…
Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng…
Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, đèo nhau trên xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!
Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:
– Còn Nghĩa? Có tính đi không?
Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:
– Kim trả thù hả?
Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:
– Thì… hỏi là hỏi vậy thôi.
Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.
Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.
Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!
Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.
– Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?
Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:
– Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó… Nó…
Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.
Nghĩa tiếp:
– Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!
– Cái gì uổng?
Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:
– Thì…
Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:
– Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.
Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.
Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.
Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:
– Thôi, “bye” nghe Kim.
Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.
***
Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:
– Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.
Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:
– Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?
Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”. Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng: “Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”. Vậy mà bây giờ… bây giờ… Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song… Vậy mà bây giờ… bây giờ… Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ… những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày… bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?… Kim?… Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!
Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:
– Con đem trả sách cho thằng Tuân.
Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:
– Trả cho nó học.
Ba gật đầu:
– Ờ… Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?
Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:
– Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.
Nghĩa “dạ” rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.
Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?… Ra sao?…”. Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh…
Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:
– Ai đó?
– Dạ thưa cháu.
Nghĩa trả lời.
– Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?
Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:
– Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao…
Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách! Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng gie ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.
Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút… như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ… Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi… Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ…
Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:
– Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?
Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.
Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ… cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn… Vĩnh viễn…”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu… tình yêu… tình yêu…
Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên…
Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh: “Nghĩa đi hả?”
Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa? Vô nghĩa!
Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt….
Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt… mai mốt… Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng…
Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:
– Chừng nào?
Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:
– Khuya!
Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa… Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như… siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!
Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.
Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất… Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.
***
Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn…
Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ…
Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….
Nghĩa đốt điếu thuốc. Hít một hơi dài bỗng nghe khói thuốc thật đắng và làm cay chảy nước mắt!
Tiểu Tử
Hai câu chuyện nên đọc.
Hai câu chuyện nên đọc.
Có rất nhiều Quân nhân can trường trong thế chiến thứ Hai.Một trong những anh hùng đó là Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch O’Hare.Trung Tá O’Hare là Phi Công khu trục tùng sự trên Hàng Không Mẫu Hạm Lexington trong vùng biển khu vực Nam Thái Bình Dương.
|
Hai nửa hy sinh
Hai nửa hy sinh
Khi cô giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh, anh thường ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi cho cô.
Cô vốn là một người con gái xinh đẹp. “Vệ tinh” xung quanh cô nhiều không kể xiết, nhưng cô bỏ ngoài tai tất cả để chọn anh – một công nhân làm việc ở nhà máy, thu nhập còn không đủ cho 3 bữa ăn hàng ngày. Cô chấp nhận từ bỏ cả gia đình, thậm chí là công việc đầy tương lai của mình để cưới anh.
Sau khi kết hôn, anh và cô mượn được nhà kho của một người bạn, họ sắp xếp lại thành một tổ ấm giản dị. Mùa đông đến, căn nhà kho trống trải hút gió lại càng trở nên lạnh giá. Khi ấy chưa đủ tiền mua chăn, cô thường bị giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh. Những lúc đó, anh chỉ biết ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi ấm cho cô.
Một ngày cô trở về nhà với vẻ mặt thất thần nhợt nhạt, anh lo lắng hỏi cô có phải bị bệnh rồi không? Cô chỉ mỉm cười nói: “Em hơi mệt thôi!” rồi hân hoan rút từ trong túi ra một tờ bạc nhét vào tay anh: “Chúng mình có tiền rồi anh ạ, mình đi mua một chiếc chăn thật ấm để đắp nhé.” Anh sững người ngạc nhiên nhìn tờ tiền trong tay cô, giọng run run: “Làm sao em lại có nhiều tiền vậy?” Cô vui vẻ kể lại cho anh tiền là do cô kiếm được khi đi phát tờ rơi. Cô phải đứng từ sáng đến tối mới được trả ngần ấy tiền. Nói rồi cô vội vàng kéo anh ra khỏi nhà, không cho anh hỏi thêm điều gì nữa. Họ mua môt cái chăn vừa tầm tiền. Từ đó, giữa đêm cô không còn bị giật mình thức giấc nữa.
Vài năm sau, anh tìm được công việc tốt hơn, rồi kiếm được nhiều tiền, tự mở công ty. Không bao lâu anh đã xây cho cô một ngôi nhà khang trang, mua ô tô cùng rất nhiều đồ dùng đắt tiền khác. Anh nói muốn dành cho cô một cuộc sống ấm no đầy đủ bù đắp lại những tháng ngày khó khăn vất vả trước đây. Cuộc sống bỗng vụt thay đổi khiến cô có phần bàng hoàng chưa kịp thích nghi với điều kiện mới.
Ngày chuyển nhà, anh bảo những đồ đạc cũ trong căn nhà kho của họ trước đây anh đều muốn vứt đi không giữ lại bất cứ cái gì. Nhưng cô khăng khăng nói muốn giữ lại cái chăn để đắp. Và rồi một thời gian dài nữa họ vẫn dùng cái chăn cũ ấy, giờ đây nó đã trở nên xù xì cũ kĩ, còn bị rách khá nhiều chỗ. Anh không ngừng phàn nàn với cô: “Thôi bỏ cái chăn cũ này đi em, mình có thể mua một cái chăn mới ấm áp và tốt hơn rất nhiều. Em xem cả nhà mình toàn những đồ đắt tiền, nhìn cái chăn cũ này trong nhà trông thật chướng mắt”. Nhưng cô vẫn cố chấp nhất quyết giữ lại cái chăn cũ ấy, vì chỉ khi đắp nó cô mới cảm thấy ấm áp và được che chở.
Một hôm, anh về nhà mang theo một cái chăn mới và nhất quyết bảo cô bỏ cái chăn cũ đi. Lần này dù không nỡ nhưng cô vẫn nghe theo lời anh. Từ đó, hàng đêm cô ngủ không còn ngon giấc nữa, trong lòng cô lúc nào cũng cảm thấy thấp thỏm lo lắng khiến cô lại không ngừng giật mình giữa đêm. Và mỗi lần tỉnh dậy như thế, hai mắt cô lại đầm đìa nước. Anh vốn không biết rằng để mua được cái chăn đó cô đã phải đi bán máu lấy tiền chứ không phải đi phát tờ rơi như cô nói với anh. Lần đầu tiên bán máu, biết bao đau đớn, cũng chỉ vì muốn có cái chăn này. Vậy mà anh lại nỡ vất bỏ nó. Cô dần cảm thấy anh không còn yêu cô như xưa nữa.
Một ngày anh có việc gấp phải ra ngoài, quên mang theo máy tính xách tay quen thuộc. Trên màn hình của anh vẫn hiện lên trang blog anh viết hàng ngày. Và cô bất chợt đọc được dòng chữ anh hình như mới viết không lâu.
“Ngày hôm ấy em từ đâu về khuôn mặt tái xanh nhợt nhạt khiến cho tôi lo lắng vô cùng. Rồi em nói em đi phát tờ rơi để mua chăn cho hai đứa. Tối hôm đó chúng tôi nằm ngủ ấm áp trong chiếc chăn mới, thấy em nằm cuộn tròn trong lòng tôi say trong giấc ngủ, tôi thương em biết bao. Đã bao đêm rồi em không được ngủ ngon đến vậy. Và rồi tình cờ tôi nhìn thấy trên tay em có một vết sưng nhỏ, dường như bị kim tiêm đâm vậy. Tôi bỗng hiểu ra tất cả. Hóa ra em nói dối tôi em đi phát tờ rơi, thực ra em đã đi bán máu để có tiền mua chăn, chỉ vì một cái chăn mà em đã phải khổ sở đau đớn đến vậy. Đêm đó tôi đã khóc vì thương em và cũng thầm hứa sẽ cố gắng làm việc, phấn đấu trở thành một người thành đạt, để có thể bù đắp lại những ngày tháng khốn khó này cho em. Và giờ đây tôi đã thực hiện được lời thề đó. Hôm qua tôi quyết định đến trạm hiến máu, tôi chỉ muốn cảm nhận một chút nỗi đau em từng trải qua. Khi chiếc kim tiêm đâm vào mạch máu, một cảm giác nhói buốt lan dọc khắp cơ thể. Nhưng tôi không thấy đau, ngược lại, rất hạnh phúc. Tôi lấy tiền bán máu và đi mua chiếc chăn mới này. Tôi muốn nó là món quà bất ngờ dành cho em…”
Nước mắt cô đã ướt đẫm tự độ nào. Hóa ra tình yêu của anh dành cho cô vẫn sâu đậm và lớn lao đến vậy. Mùa đông năm nay anh đã đổi máu của mình tặng cho cô chiếc chăn ấm, có lẽ đó cũng sẽ là chiếc chăn ấm áp nhất cô có trong đời…
Tình Anh Lính Chiến Biệt Động
Tình Anh Lính Chiến Biệt Động
Tác giả: Nguyễn Khắp Nơi
Chồng sắp cưới của em tên Tốt, ảnh với anh Thân ở cùng xóm với em.
Lớn lên, ảnh thương em, đòi ba má ảnh qua nhà em xin cưới.
Em thấy ảnh tảnh tình hổng có hạp với em nên không chịu, nhưng ba má ảnh cứ đeo theo em nói riết hà, anh Tốt cũng theo em hoài, luôn hai ba năm trời như vậy
đó, làm cho em cũng thấy tội nghiệp ảnh. Cuối cùng, em suy nghĩ, thấy mặc dù hổng hạp, nhưng ảnh cũng có thành tâm, nên em chịu lấy ảnh. Bữa làm đám nói, em có rao trước với ảnh rằng:
“Anh quen tui từ nhỏ, anh biết tánh tui rồi, tui nói gì thì tui làm cái nấy. Anh nói thương tui bảo bọc được đời của tui thì tui chiụ. Nhưng hễ tui
thấy anh làm hổng đúng như vậy, tui . . .bỏ anh liền đó.”
Anh Tốt thề sống thề chết là sẽ yêu thưong lo lắng cho em suốt đời, ba má ảnh cũng chịu làm chứng, nên em chịu làm đám cưới với ảnh. Nhà em ở bên sông, nhà ảnh ở bên chợ, nên bữa đám cưới, nhà ảnh rước dâu bằng ghe.Ảnh với em và đám bạn bè ngồi chung một chiếc ghe chèo đi trước, phía nhà trai một chiếc, nhà gái một chiếc đi theo sau. Bạn bè em ai cũng chúc mừng em lấy được chồng xứng đôi, biết thương mình. Đoàn ghe cưới chèo đi ngon lành, sắp tới nhà trai rồi, hai bên bờ bà con lối xóm đứng tụ dài dài coi đám cưới, vui lắm.
Tài công sửa soạn tấp ghe vô, anh Tài lo đốt pháo mừng, tụi bạn bè em phần vui
vẻ, phần sợ pháo rơi trúng cháy quần áo, nên chộn rộn đứng lên đứng
xuống. Ngay lúc đó, có một chiếc ghe máy chạy ngang, chiếc ghe lớn mà lại chạy mau nữa nên làm sóng lớn đánh ào lên ghe cưới, nước lọt vô tùm lum,
chiếc ghe muốn lật. Tụi em la hoảng quá chừng, kiếm đồ múc nước ra, nhưng ghe đám cưới đâu có đồ múc nước, lính quýnh một hồi, chiếc ghe bị lật luôn.Tụi em đều là dân quê, đứa nào cũng biết lội, nhưng mấy đứa con gái tụi em bữa đó hổng làm sao mà lội hết mình được, vì đứa nào cũng bận áo dài gài bông đeo nữ trang tùm lum hết.Phần em còn nhiều hơn nữa, có đôi khoen tai má em mới cho, lại chiếc cà rá đám nói rộng rinh muốn sút nên em hổng dám đụng mạnh, chỉ ráng thả nổi chờ có ai cứu. Em nghe trên bờ người ta đứng coi la lối chỉ chỏ um xùm:
“Cô dâu bị chỉm, cô dâu bị chìm, cứu cô dâu cho mau . . .”
Em thấy anh Tốt đang lội ở đằng trước, em la lên:
“Anh Tốt, cứu em . ..”
Ãnh dòm lại thấy em đang chới dới mà ảnh làm như hổng thấy em hổng nghe tiếng em kêu, ảnh cứ lội riết vô bờ.
Đám con gái tụi em ráng đập tay đập chân, đứa nào cũng la cầu cứu om xòm. Em đưa tay lên ngoắc anh Tốt một lần nữa, la thiệt lớn:
“Anh Tốt . . . Cứu em . . . Em lội hổng nổi, bị chìm rồi nè . . .”
– Em há miệng lớn quá, bị nước vô miệng hụt hơi chìm luôn, thôi chết cho rồi.
Bất ngờ, em thấy có bàn tay của ai đó kéo em lên, rồi ôm lấy em mà lội vô bờ.
Lên tới bờ, em muốn xỉu nhưng cũng ráng dòm coi anh Tốt ở đâu? Coi ảnh có bị gì hông?
Em thấy anh đang đứng trên bờ lo cởi giầy cởi áo lau người thì cũng đỡ lo.
Bà con lối xóm đi coi thấy em được cứu, người ta mừng quính, la lên:
“Cô dâu được cứu rồi .. . Cô dâu xỉu rồi, mau đem vô nhà đám cứu tỉnh . . .”
Lúc đó ghe hai bên nhà trai nhà gái cũng cặp bến được rồi, ông bà già ảnh cũng nhào lên, đỡ em vô nhà đám.
Ba má em lo đi lấy khăn quấn cho em, kiếm quần áo khác cho em thay, hỏi em có
sao hông?
Bà con chòm xóm cũng bu lại hỏi thăm em.
Em chờ hoài mà hổng thấy anh Tốt đâu hết trơn, làm em tủi thân, em khóc quá
chừng.
Chuyện chèo ghe chìm xuồng ở xứ này, bữa nào cũng có, nhưng em thấy rõ ràng anh Tốt không có lo cho em, ảnh chỉ lo cho mình ên ảnh thôi.
Chính cái miệng ảnh nói sẽ lo cho em suốt đời, vậy mà thấy em bị chìm xuồng, bỏ
luôn hồng thèm cứu; đã vậy, em lên tới bờ cũnghổng thèm chạy lại hỏi thăm coi
em có bị gì hông?
Người gì mà ác nhơn ác đức quá trời đi. hỏi sao em không buồn cho được.
Một hồi sau, cả hai gia đình tụ tập lại hết rồi, anh Tốt cũng đã thay đồ mới rồi, lúc đó ảnh mới tới hỏi thăm em.
Em có hỏi ảnh:
“Anh có thấy tui bị chìm hông? Anh có nghe tui kêu anh cứu tui hông?”
Ảnh trả lời tỉnh như không:
“Anh thấy, nhưng nghĩ rằng em biết lội, tự lội vô bờ được, đâu cần anh lo đâu!
Mà hồi sau cũng đã có mấy người nhảy xuống cứu em đưa lên bờ rồi nên anh mới lo đi thay đồ đặng lát nữa làm đám cưới tiếp…
Sao em không đi thay đồ đi mà còn ngồi đó, để trễ giờ rồi.”
Em giận quá chừng là giận, nói với ảnh:
“Anh lo cho tui cái kỉểu đó đó hả? Anh đã hổng cứu tui, giờ còn bắt lỗi tui sao hổng đi thay đồ hả?
Nếu không có người ta cứu tui, tui chết chìm rồi, lấy ai cho anh làm đám cưới…”
Em vô trong nhà thay đồ, lấy bộ đồ thường ra bận, chứ hổng chịu bận đồ mới.
Tới khi ba má ảnh đứng lên chào bà con rồi kêu em ra lạy bàn thờ ông Tổ, em một
mình đứng lên nói với ba má ảnh và ba má em nói với chòm xóm:
“Thưa ba má, các bác các dì, bữa nay là đám cưới của con với anh Tốt. Hồi làm đám nói, con có thưa với ba má và anh Tốt, ảnh phải bảo bọc được đời con thì con mới ưng ảnh. Bữa nay, con bị chìm xuồng, con kêu ảnh cứu con, ảnh hổng thèm cứu con, lo lội lên bờ mình ên. Tới khi con được cứu lên bờ rồi, ảnh cũng hổng thèm tới thăm, dòm ngó coi con còn sống hay chết.
Hên là con được người ta cứu, chứ nếu không, con chết mất rồi, đâu còn đứng đây mà làm đám cưới.
Cũng hên là con thấy cái bản mặt của ảnh ra sao[chân diện mục] trước khi làm đám cưới.
Người như ảnh, làm sao lo cho con, bảo bọc được đời con?
Con xin ba má hai bên, bỏ qua cái đám cưới này đi.”
Em day qua anh Tốt, nói với ảnh:
“Anh Tốt, bữa đám nói, anh hứa lo cho tui, bảo bọc đời tui. Vậy mà bữa nay, tui bị chìm xuồng, anh lo mình ên anh, hổng thèm cứu tui, cũng hổng thèm dòm coi tui sống chết ra sao. Tui . . . hổng lấy anh nữa đâu.
Nè, cà rá của anh nè, tui trả lại cho anh đó.”
Em nói một hơi, anh Tốt đứng xụi lơ, ba má ảnh cứng họng ngồi một đống, hổng nói được một tiếng.
Tới khi thấy em trả lại cái cà rá, ổng bả hoảng quá, chạy lại ôm em, khóc:
“Con ơi, con thương ba má đi, ai đời đám cưới mà nói gì tùm lum vậy.
Vợ chồng có gì mai mốt đóng cửa chỉ biểu nhau, làm gì mà con làm dữ vậy con.
Thôi con bớt giận đi, làm đám cưới cho rồi đi!”
Ba má em thấy em đứng sững, hổng thèm trả lời ba má ảnh. Ổng bả hổng hiểu cho em còn nổi giận la em:
“Mày dám từ hôn bữa nay hả? Thằng Tốt nó thấy mày được cứu rồi thì nó lo đi thay đồ chứ còn gì nữa mà bắt lỗi nó.
Mày mà hổng chịu làm đám cưới bữa nay, tao . . .từ mày luôn đó!”
Em hổng nói gì thêm, xá ba má ảnh, ba má em rồi bỏ đi về.
Bà con lối xóm bu theo em, người thì nói em có lý, chồng cỡ đó bỏ đi là phải, người thì nói em xui xẻo quá. . . tùm lum hết.
Em cứ lặng thinh bỏ đi một nước.
Đang đi, chợt em thấy mặt thằng Thìn, em mới hỏi nó:
“Mày có thấy hồi nãy. .. ai cứu tao hông?”
Thằng Thìn chỉ người con trai đứng kế bên, đang cởi cái áo lính vắt nước cho khô:
“Thằng này nè.”
Em nhìn người con trai, xụp xuống lạy ảnh một lạy:
“Tui thiếu anh một mạng đó.”
Rồi đứng lên đi ra bờ sông kiếm ghe về nhà.
+ + + + + + + +
Kể tới đó, Lan nắm tay Hải, cười như mắc cở.
Hải tiếp lời vợ:
“Thiếu úy biết hông, bữa đó, tiểu đoàn được về hậu cứ nghỉ, cho đi phép 24 tiếng. Em về Cần Thơ hổng kịp nên đi theo thằng Thìn về nhà nó chơi.
Về tới nhà, ba má thằng Thìn cho hay bữa nay con Lan kế bên làm đám cưới. Thằng Thìn nói với em:
“Vậy là trúng mối rồi, tao với mày đi. . . ăn ké cho vui.”
Nó dẫn em ra bờ sông, dòm nhà trai nhà gái rước râu bằng ghe, cũng ngồ ngộ.
Đang coi thì thấy có chiếc ghe máy chạy ngang, làm sóng lớn lật chìm luôn chiếc
ghe cô dâu.
Em thấy người ta bị té dồn cục dưới nước, lội lủm chủm, có người lội không nổi,
muốn chìm, em kêu thằng Thìn:
“Mau cứu người ta, cởi giầy ra lẹ lên. . .”
Em và thằng Thìn nhào xuống sông lội một hơi, thấy một cô coi bộ muốn chìm lỉm, em lội tới đỡ đưa cô vào bờ rồi lội trở ra phụ thằng Thìn cứu thêm người khác.
Tới khi tất cả đã được cứu rồi, tụi em mới lên bờ, cởi áo cởi vớ lau mặt lau
người chờ khô. Đang đứng xớ rớ, tự nhiên có một ai đó tới kế bên xụp xuống lạy
em một lạy, làm em hoảng quá, nhẩy nai, hổng hiểu chuyện gì hết?
Khi cô đó đi rồi, thằng mới cho em hay:
“Mày hổng nhớ hả? Con nhỏ đó là . . .cô dâu đó. Nó bị chìm xuồng, chính mày cứu nó đưa vô bờ đó. Thằng rể cũng bị chìm xuồng cùng với cô dâu, nhưng lo lội vô bờ mình ên, hổng lo cho nó, nó tức quá, lên tới bờ, nó . . .từ hôn, hổng thèm lấy thằng đó nữa.
Nó mới đi ngang, hỏi tao ai cứu nó? Tao chỉ mày, nên mới xụp lạy mày cám ơn cứu mạng đó.”
Quần áo khô đỡ rồi, tụi em thả bộ ra chợ ăn uống đầy một bụng, tính đi về nhà thằng Thìn ngủ một giấc, ngày mai đi trình diện tiểu đoàn, lội tiếp.
Về ngang qua chòm câygần bờ sông, thằng Thìn chợt thấy có bóng người đang ngồi chu hu dựa gốc cây.
Nó thọc cùi chỏ em:
“Giờ này mà còn ai ngồi bờ sông coi bộ buồn hiu dzậy! Tới coi coi. . .”
Tới gần, thằng Thìn dòm gái một hồi, cái mặt nó cũng buồn hiu, nói nhỏ với em:
“Coong nhỏ Lan chớ ai, con nhỏ cô dâu hồi sáng đó.
Chắc nó đang buồn vì đám cưới của nó hổng xong nên mới ra đây ngồi đó.
Mình tới nói với nó vài tiếng cho nó đỡ buồn đi, chứ để nó buồn, nó dám . .
.nhảy sông chết, uổng công mày cứu nó hồi sáng.”
Tụi em tới nơi nói chuyện, Lan dòm thằng Thân một cái rồi dòm tiếp ra mé sông, hổng muốn nghe mà cũng hổng trả lời trả vốn gì hết.
Một hồi sau Lan mới nói tâm sự của mình ra: buồn vì tưởng lấy được người chồng
xứng đáng bảo bọc được cuộc đời của mình, ai dè đụng chuyện mới biết anh ta
chết nhát chỉ biết lo cho thân mình.
Lan buồn vì tình duyên mắc cở với chòm xóm, lại bị cha mẹ từ, cô muốn bỏ xứ mà
đi cho rồi nhưng lại sợ ba má buồn nên hổng biết làm sao.
Em mới khuyên Lan:
“Cô đừng có buồn ba má. Tại ba má cô thương cô, lo cho tương lai của cô vậy thôi.
Ai cũng có số mạng, biết đâu sau này anh Tốt suy nghĩ lại, sẽ biết thương biết
lo cho cô.”
Lúc đó Lan mới ngó qua em, hỏi em:
“Anh là ai… mà bữa nay đi ngang đây dzậy?
Anh hổng quen hổng biết gì tui, khi không nhảy xuống cứu tui . . .chi dzậy?
Anh coi bộ . . .gan cùng mình đó.
Hồi nãy, tôi có . . .xá cám ơn anh rồi đó, anh nhớ hông?”
Em trả lời Lan:
“Thấy ai bị nạn thì mình cứu, đâu có cần quen biết gì đâu.
Đánh trận với Việt cộng, sống chết mỗi ngày mà tui còn hổng ngán thì nhằm nhò chi mấy cái lẻ tẻ cứu người đó mà cô phải cám ơn tui. . .Kế đó, em mới nói cho Lan biết em tên gì ở đâu…
Em nói một hồi, hổng biết nói gì thêm, ngồi lặng thinh.
Lan nghe tới hết, cũng ngồi làm thinh.
Thằng Thìn chạy đi đâu mất tiêu, chỉ còn em với Lan ngồi đó.
Lan ngồi một hồi, ngó lên nhìn em, vui vẻ cười nói:
“Ngộ há! Anh dám nhảy xuống sông cứu tui, lại nói . . .nhằm nhò chi.
Tui. . . phục anh thiệt đó.
Bộ anh hổng có biết ba má anh là ai hết hả? Buồng quá dzậy!
Sao hổng. . . lấy dzợ đi, có người lo cho anh?”
Em cũng cười lớn, nói với Lan:
“Tui như cục đá từ trên trời rớt xuống, hổng có bà con, hổng có cha mẹ gì ráo. . .
Cái mạng cùi của tui, tui còn lo hổng xong, nói chi tới lấy dzợ. Tui bây giờ là
. . .Tứ Hải Giai Huynh Đệ, đâu cũng là nhà, có mấy thằng bạn lính là dzui
rồi, hổng cần gì khác hết.”
Hai đứa cùng cười thiệt là vui. Lan lại ngồi bó gối suy nghĩ một hồi nữa, chợt nói với em:
“Anh Hải à, tui. . .thiếu anh một mạng, mà tôi cũng. . . phục anh lắm.
Anh mới là người có thể
bảo bọc cho đời tui . . .
Tụi . . .chịu anh đó . ..Anh . . .chịu . . . tui
hông?”
Em nghe cổ nói, mới dòm kỹ lại cổ. Lan coi bộ trắng trẻo, dễ thương. . .
Mà cổ coi bộ cũng là. .. thứ thiệt, dám nói dám làm.
Hổng ưa ai thì dám nói hổng ưa mà thương ai thì cũng dám nói là thương.
Em chịu thứ con gái như vậy, chứ hổng thích cái thứ nhỏng nhẽo làm chảnh.
Em dòm Lan, nắm tay Lan, từ từ nói:
“Tui có mình ên, không bà con chòm xóm, cuộc đời chưa biết đi về đâu, Lan dám . . .chịu tui hả?”
Lan cũng nắm lấy tay em, nói:
“Em phục ai thì lấy người đó. Anh là người hổng nói
nhưng mà dám làm. Em chịu anh là như vậy đó.”
Em vẫn còn ngại ngùng, nói với Lan:
“Anh hổng có ba má đứng làm đám cưới, ba má em. . . có chịu hông?”
Lan nhìn em, trả lời liền:
“Hễ mình thương nhau là có ông Trời chứng giám. Mấy cái chuyện nhỏ đó, để em lo cho.”
Vậy là tụi em hứa với nhau.
Lan dẫn em về ra mắt ông bà già:
“Thưa ba má, đây là anh Hải, người cứu con hồi sáng.
Tụi con gặp nhau, nói chuyện với nhau hạp lắm, rồi tụi con. . . thương nhau.
Con muốn . . . lấy ảnh.”
Ba má Lan cùng với bà con đã mời dự đám cưới hồi sáng đã tụ tập về nhà đông đủ, chưng hửng nhìn tụi em.
Một hồi sau, ba má Lan mới nói:
“Mới hồi sáng đây, mày từ hôn với thằng Tốt, giờ đem đứa khác về đây đòi cưới?
Bộ tụi bay quen biết với nhau trước, rồi . . .dàn cảnh chọc tức ba má hay sao
đây? ”
Hai đứa em ngồi xuống nói chuyện với ba má suốt buổi chiều.
Anh Hải thưa ngày mai sẽ về Tiểu đoàn làm đơn xin cưới vợ. Chừng nào được phép, sẽ tổ chức đám cưới, mời ba má bà con lối xóm.
Ba má em hổng biết làm sao nhưng thấy anh Hải hiền lành dễ thương, có gan cứu tử em thì ba má em cũng
đành chấp nhận.
Sẵn đồ ăn tiếp nhà trai còn dư hồi sáng, ba má em dọn ra, mời bà con . . .ăn cưới luôn, vui hết sức vậy
đó.
Sẵn ba má em đang vui, em cũng xin ổng bả cho em theo anh Hải về đơn vị xin chỗ ở, mai mốt được cấp nhà ở, sẽ làm đám cưới luôn.
Em đưa Lan về nhà dượng Há, dượng của Lan, và cũng là Tiểu đội trưởng của tụi em, đặng nhờ ổng giúp đỡ.
Vừa mới bước vô, dượng Há nắm cứng lấy hai người lính, giọng nói lạnh tanh:
“Tụi bay đi đâu mà tao kiếm quá trời hổng ra. Tiểu đoàn phải đi hành quân gấp, đang cho Quân cảnh đi kiếm hết tụi bay về đó, vô trại với tao liền đi. Còn con Lan, sao mày lại đi chung với hai cái thằng trời đánh này?”
Lan nghe ông dượng la lối om xòm, hoảng quá, vội vàng chỉ em nói với dượng:
“Dượng à, anh Hải . ..là chồng mới của con đó.
Con . . .ưng ảnh, ba má con cũng chịu rồi, tụi con tới gặp dượng đặng nhờ dượng
làm đơn xin phép cho ảnh làm đám cưới với con đó.”
Dượng Há đứng chết trân dòm hai đứa tụi em.Dì Há nghe la lối, cũng ở phía sau chạy lên.Khi nghe Lan nói, dì Há cũng đứng chắp tai sau đít dòm hai đứa tụi em, rồi cười nói:
“Hai đứa tụi bay như dzầy mới xứng. Chứ mày lấy cái thằng Tốt gà chớt đó mà coi sao cho đặng!”
Dượng Há lúc giờ mới chêm vô:
“Thấy ghe bay bị chìm, tao cũng có nhảy xuống cứu bay, lên tới bờ, nghe mày từ hôn thằng Tốt, tao . ..chịu lắm.
Thằng chồng gì mà thấy con vợ bị chìm, sợ chết hổng dám cứu, lên tới bờ cũng
hổng thèm dòm.
Thứ chết nhát đó, đem bỏ trôi sông cho rồi chớ lấy làm chồng sao được.
Khi thấy mày đi dzìa, tao thấy cái đám cưới coi như là hổng có nữa, nên tao
cũng dắc dì mày đi dzìa luôn.
Thằng Hải trọc này thì được lắm, nhưng mà nó đâu có bao giờ đi cua gái đâu, mà cũng hổng phải dân Bạc Liêu mình, sao mà mày . . .dzớc được nó hay dzậy?
Mà thôi, trễ giờ rồi, xe GMC sắp lại đây rồi đó, tụi bay vô trại hết đi, mai mốt gặp ông Thiếu úy Nam, muốn gì thì nói dzới ổng.”
Em nghe ổng hối, không biết tính làm sao:
“Nhưng mà còn con dzợ của con đây, con đâu biết để nó ở đâu bây giờ?”
Dượng Há cũng hổng biết làm sao, gấp quá rồi:
“Thì. . . đi hết vô trại đi, rồi tính sau.”
Em kiếm trong ba-lô bộ đồ Biệt Động đưa cho Lan bận vô, lấy đôi giầy và cái nón sắt cũ của dượng Há mang vô, coi cũng . . .ngầu lắm.
Lan khoái chí đi tới đi lui ngắm mình trong gương.
Vừa xong là xe nhà binh chạy lại gôm hết tụi em vô trong trại.
Lan di theo tụi em hành quân từ bữa đó, tới mấy bữa sau mới lên trình diện
Thiếu úy Nam, ổng la tụi em quá trời, nói phải trả Lan về hậu cứ trong chuyến
tiếp tế tới. . .
Nghe xong câu chuyện tình của Hải và Lan, tôi mỉm cười nhìn cả hai:
“Câu chuyện tình thật đẹp. Hai người thật xứng đôi vừa lứa.
Anh chúc cho hai em thương nhau trọn đời, sống với nhau suốt đời suốt kiếp.
Anh chỉ ghé đây có bữa nay, mai lại đi nữa rồi, có thể không có dịp gặp lại hai
em nữa đâu.
Hai em có muốn anh giúp chuyện gì không? Anh sẽ ráng làm trong khả năng của
anh.”
Hải và Lan nhìn nhau, một lúc sau, Hải ấp úng nói:
“Thiếu úy, tụi em mới gặp Thiếu úy, tự dưng. . . có cảm tình với Thiếu úy nhiều lắm.
Sẵn Thiếu úy hỏi, tụi em hổng dám, nhưng ngày mai tụi em làm đám cưới, nhỏ nhỏ
thôi, Thiếu úy có thể. . . làm anh lớn của em, đại diện bên nhà trai, đặng tụi
em làm đám cưới, được không Thiếu úy?”
– Được quá đi chứ!
TÌNH LÍNH THÌ PHẢI . ..TÍNH LIỀN.
+ + +
Đoạn chót của câu chuyện “Tình Anh Lính Biệt Động”
Ngày 10 tháng 4 năm 2010,
Chào Thiếu úy mạnh giỏi.
Vợ chồng em kiếm được Thiếu úy, thiệt là mừng hết sức. Tụi em hổng thể ngờ là có ngày kiếm ra Thiếu úy đó chớ.
Sau bữa đám cưới của tụi em, em có hỏi xin địa chỉ để mai mốt còn liên lạc, Thiếu úy trả lời là hổng biết mình sẽ đi tiểu đoàn nào thì làm sao mà có KBC cho được, chỉ cần nhớ địa chỉ của tụi em thôi, để mai mốt tính . . .
Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, cả tiểu đoàn của em còn đang hành quân, nghe đầu hàng, tụi em buồn muốn chết. Sau đó nghe tin các Sĩ quan của tiểu đoàn bị đi học tập hết, tụi em coi như là không còn hy vọng gì có ngày mai trở lại.
Ở Bạc Liêu khó sống quá, vợ chồng em lên Cần Thơ, em lo chạy xe ôm, vợ em bán quán.
Vào khoảng năm 1989, có một bữa, em chở người ta đi ngang một công sở, em thấy rất nhiều người tóc vàng tóc đỏ, da trắng da đen, mắt xanh biển mắt xanh lá cây giống như em, đang đứng xếp hàng. Em cũng chạy vô coi, thì ra chỗ đó làm hồ sơ cho con lai lính Mỹ đi Mỹ. Em đâu có biết mình lai cái giống gì? Ba mình là
ai? Nhưng cũng làm gan xếp hàng đại. Khi làm hổ sơ cho em, người ta chỉ hỏi em
tên gỉ? Rồi hẹn ngày tới khám sức khỏe.
Em về nhà nói cho con vợ hay, vợ em nó mừng quá, nhưng mà lại nói là . . . hổng chắc, vì em đâu phải con lai Mỹ đâu. Em cũng nghĩ như vậy nên không để ý tới chuyện đó nữa. Tới bữa khám sức khỏe, em cũng đi cho biết. Người ta chỉ nhỏ thuốc vô tóc của em, vô mắt của em để coi em có nhuộm tóc hay là có nhuộm con ngươi hay không mà thôi, chứ hổng hề hỏi ba em là Mỹ hay là cái giống gì?
Khoảng ba tháng sau, em nhận được thơ, nói rằng em được chấp nhận đi Mỹ với vợ và hai đứa con. Em như đang ở trên trời rớt xuống đất, hổng tin được chuyện như vậy có thể xẩy ra.
Rồi tụi em được đi Mỹ thiệt!
Vợ chồng em được gia đình người bảo trợ tới định cư ở tiểu bang Minesota. Hai đứa em lo cho hai đứa nhỏ đi học, tụi em cũng đi học luôn. Con vợ em nó lanh lắm, học một hồi nó nói tiếng Mỹ còn giỏi hơn em nữa. Gia đình người bảo trợ có một hãng nuôi gà, bán gà và trứng gà. Tụi em cũng thích nuôi gà, nên theo học nghề này. Thấy tụi em siêng năng, nên ông bà bảo trợ nhận cho tụi em làm và chỉ dẫn cho em từng chút. Tới khi ổng bả về hưu, giao nguyên cái farm cho tụi em coi, lần hồi bán luôn cái farm cho tụi em. Cuộc sống của tụi em từ đó được thoải mái,
vững vàng.
Một bữa, em vô trong internet đọc truyện, em thấy người nào đó tên Nguyễn Khắp Nơi có viết chuyện “Cà Phê Nha Chuẩn Úy?” trong đó có nhắc tới thời gian ba người Sĩ quan Biệt Động Quân đi thực tập ở Tiểu Đoàn 42 của tụi em. Em nghi một trong ba người đó là Thiếu úy, em kêu vợ em cho nó đọc lại cho chắc ăn. Tụi em đọc tới đọc lui ba bốn lần, chắc chắn là có Thiếu úy ở trỏng, nên đã theo địa chỉ trong báo Việt Luận mà hỏi thăm.
Thiếu úy gởi email trả lời cho tụi em. Đúng là Thiếu úy Đen, người đã làm đại diện nhà trai cho em lấy vợ. Tụi em mừng quá trời, coi như ông Trời có mắt cho tụi em được gặp lại Thiếu úy.
Thiếu úy nói trong thơ, cỡ tháng 5 năm 2011 Thiếu úy sẽ đi thăm mẹ ở Canada, sẵn dịp sẽ đi thăm bạn bè ở Los Angeles, tụi em mừng quá, vội vàng gởi thơ lại liền, xin địa chỉ hotel của Thiếu úy đặng mua vé máy bay đưa hết cả nhà tới trình diện Thiếu úy. Giờ này mới là tháng 1 năm 2011, còn lâu lắm, tụi em mong sao cho chóng tới ngày đó đặng gặp lại Thiếu úy.
Cầu chúc Thiếu úy mạnh giỏi, giữ gìn sức khỏe.
Lê Văn Hải & Lê thị Lan.
NGUYỄN KHẮP NƠI