CHIẾC ÁO RÁCH

CHIẾC ÁO RÁCH

Một linh sư Ấn giáo rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy anh ta không cần sự dìu dắt của mình nữa, nên ông bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên cạnh bờ sông. Một hôm buổi sáng, khi thức dậy, người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách của mình. Đó là tài sản duy nhất của anh.

Ngày kia, anh nhận ra chiếc áo của mình phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn rách tả tơi. Anh đành phải vào làng xin một chiếc áo khác. Cái áo này cũng bị chuột gặm nát như tương. Anh mới xin về một con mèo. Lần này, anh khỏi phải lo chuột quấy phá. Nhưng không xin áo thì phải xin cơm bánh .Ngày ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Vì thế, anh tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự mình cắt cỏ. Về lâu về dài, anh đành phải thuê người cắt cỏ vì không có thì giờ cầu nguyện. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng.

Chẳng mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều của anh đã trở thành nông trại. Con người đã một thời muốn bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên làm một chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, nên anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ.

Khi vị linh sư có dịp về thăm ngôi làng cũ, ông ngạc nhiên vô cùng vì túp lều nghèo nàn bên bờ sông nay đã là cả một cơ nghiệp. Ông hỏi người đệ tử:

-Thế này nghĩa là gì hở con?

Người đệ tử mới trả lời:

– Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo rách!

***

Cám dỗ nào cũng ngọt ngào như mật lôi kéo bầy ong, như hương hoa cuốn hút đàn bướm. Có nhiều thứ săn đuổi chúng ta trong cuộc sống lắm! Bao lâu còn mang bản tính con người, bấy lâu người ta còn thích hưởng thụ, dễ dãi, thoải mái. Con người chỉ có thể thắng vượt cơn cám dỗ khi họ tự biết chính mình. Con người chỉ thực sự khôn ngoan khi biết mình mang thân phận yếu hèn tội lỗi. Người đệ tử của vị linh sự Ấn Giáo ngày càng rời xa nếp sống tu hành vì chính anh chưa một lần nhìn lại bản thân. Có nhìn lại bản thân con người mới thấy mình cần phải hoán cải, canh tân.

Thiên Phúc

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

VRNs (27.01.2014) – Sài Gòn – Hồi ký của ông Bảo Lộc, bút hiệu Hồng Châu, ông là Phó Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Huế) trong thời gian Tết Mậu Thân, đã bị VC bắt khi chúng đột nhập Huế…

Đây là chuyện thật của một nhân chứng sống sót trong biến cố Mậu Thân tại Huế, ông may mắn không bị CS sát hại, nhưng bị đưa ra Bắc cầm tù 13 năm từ 1968 đến 1980 và đã đào thoát được trong một trường hợp hy hữu.

* * *

14012707

Tôi thức dậy với tiếng nổ lớn phía cầu Kho Rèn vọng lại. Từ nhà tôi đến nhà máy điện chỉ nửa cây số. Chấn động lan tỏa làm cửa ngõ và đồ đạc trong nhà rung chuyển dữ dội. Tôi cố bật đèn để tìm chiếc máy điện thoại, nhưng chỉ thấy tối om, điện đã bị cắt. Dưới ánh sáng ngắn ngủi của chiếc bật lửa, tôi cố quay số gọi vài nơi để tìm hiểu tình hình, nhưng vô ích, không nơi nào chuông đổ, đường điện thoại đã bị đứt. Mở chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ, tôi hy vọng qua những làn sóng xa xôi, có thể bắt gặp vài tin tức hữu ích. Nhưng cố gắng này của tôi cũng chẳng đem lại chút kết quả gì, chỉ có những bản nhạc xa lạ và tiếng sè sè của những băng tần không phát sóng kéo dài chán nản.

– Thôi anh ạ, có gì đợi sáng rồi sẽ hay. Bây giờ mình vào hầm trú ẩn đi, có thể chúng lại pháo kích tiếp như lần trước đấy.

Vợ tôi chia sẻ mối băn khoăn của tôi bằng hành động thực tế là nghĩ đến sự an toàn trước mắt đã. Chúng tôi chạy vội sang phòng kế bên, ẵm đứa con nhỏ đầu lòng mới tròn 6 tháng, đưa vào chiếc hầm nổi cất bằng những bao cát nhỏ xếp lại ở góc hành lang nối liền phòng khách với phòng ngủ, không vững chắc lắm, nhưng cũng đủ che chở cho một gia đình nhỏ chống lại những quả đạn cối bắn trộm.

Trước đó, cũng như nhiều gia đình khác ở khu Tả ngạn, chúng tôi đã mấy lần nếm mùi pháo kích Cộng sản và cảm thấy coi thường cái trò chơi dọa nạt này khi chỉ với một chiếc hầm cất tạm, chúng tôi đã có thể yên tâm tiếp tục giấc ngủ bị phá quấy, để sáng mai trở dậy thấy cuộc sống vẫn bình thường như không có gì đã xảy ra.

Lần này, tuy những dấu hiệu mới cho tôi linh cảm đã có một cái gì khác lạ. Nhưng sự im lặng tạm thời tiếp sau đó đã đánh lừa tính cảnh giác trong tôi, để dần dần du tôi vào nếp nghĩ đã thành quán tính. Thiu thiu ngồi đợi sáng trong căn hầm chật, tôi không còn nghe những tiếng nổ gần và rời rạc như tiếng pháo đã có lúc ran lên giữa đêm.

– Chắc chúng đã rút đi rồi. Giờ nầy chúng không còn dám pháo nữa đâu, sợ lộ tọa độ đó, đại bác của ta câu xuống là chúng hết đường chạy.

Anh Duy, người Cảnh sát Dã chiến trẻ tuổi vừa cưới vợ tháng trước, được tôi cho ở nhờ căn nhà dưới, dè dặt góp ý. Anh đang vận động để được biệt phái giúp việc cho tôi, nhưng chưa được. Anh cũng đang sốt ruột đợi sáng để trở về đơn vị.

Tôi không tỏ ý kiến nào, nhưng trong trí tôi đang diễn lại những lần trao đổi với Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu (Sau này là Đại Tá Tỉnh Trưởng, còn bị Cộng sản cầm tù) về một biện pháp khả dĩ có thể trừ khử những ổ pháo di động của Cộng sản ngay khi chúng vừa bắn lén vào Thành phố. Thiếu Tá T. vừa khoe, sau nhiều tháng theo dõi, ông đã tóm cổ được bọn đặc công đã tham gia vụ pháo kích Khách sạn Hương Giang trước đây trong một cuộc hành quân lục soát ở quận Phú Thứ. Ông cũng nắm được tin tức về những toán phá hoại khác, thường theo ngã Vân Dương từ phía Nam lên hay Chín Hầm từ hướng Tây xuống để đặt pháo bắn vào Huế. Bọn này chỉ dám bắn cấp tập từng đợt ngắn rồi rút ngay vì sợ phản pháo.

Khi chúng tôi dậy mở cửa nhìn ra đường thì trời đã sáng hẳn. Ngày mùng 2 Tết bắt đầu với một vừng triêu dương xán lạn và những cơn gió Xuân phớt đùa trên ngọn cỏ long lanh sương sớm, thiên nhiên vô tình như không hề hay biết sự chết chóc, nỗi hãi hùng ngạt thở đang diễn ra đâu đây dưới những mái nhà cửa còn khép kín. Con đường Lý Thường Kiệt trải dài trước mắt tôi, vẫn thân thiết với những biệt thự nhu mì ẩn sau hàng dậu gỗ thanh bai, sáng nay ngoài vẻ kín đáo thường nhật, có một cái gì như hoang vắng, im lìm. Tôi vươn vai hít thở cái không khí ban mai tươi mát cho bõ những giờ ngột ngạt dưới hầm. Chung quanh hoàn toàn yên tĩnh. Anh Duy đã thay xong bộ y phục Dã chiến, định ra đi, còn cẩn thận nhắc nhở tôi can thiệp dùm với cấp trên của anh nếu sau này lỡ anh bị kỷ luật vì trình diện trễ.

Giữa khi đó thì tôi phát giác có những toán quân đang im lặng di chuyển trên đường. Họ đi từng người một, cách nhau vài trăm thước, ở cả hai phía vệ đường, từ phía cầu Kho Rèn hướng thẳng xuống nhà Bưu Điện Trung Ương và Khu Đại học. Lặng lẽ, rất lặng lẽ, những bóng người áo vàng, đầu trần, súng hờm sẵn đang tiến dần đến nhà tôi. Việt Cộng xuất hiện trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật – cho đến giờ phút ấy thật tình vẫn chưa hề có trong ý nghĩ tôi. Trong cái ấn tượng đột ngột ở ngoài nhận thức, tôi cứ cho họ là một thứ quân nào đó của Quốc gia và chỉ có thể là như thế. Vả lại, trông họ không giống với những hình ảnh của những Việt Cộng nằm chết ngài trận địa mà tôi đã mấy lần trông thấy từ mặt trận Cùa (Cam Lộ) cho đến Gia Đẳng, Nhan Biều (Triệu Phong) trên mình chỉ có chiếc quần đùi và mảnh áo bà ba đen, với nắm cơm vắt tung tóe bên người. Bọn này mặc Kaki, trên tay áo lại buộc một giải băng màu.

Tôi khép bớt cánh cửa để có thể tự do quan sát kỹ hơn. Tên đi đầu đã ngang tới cổng nhà tôi. Một cảm giác lành lạnh chợt chạy suốt người tôi. Tôi đã thấy rõ những ống quần xắn móng lợn cao thấu gối, những đôi dép Bình Trị Thiên trên đôi chân đen đủi, nét mặt vàng vọt, với khẩu AK băng đạn cong trên tay, lăm lăm họng súng đen ngòm. “Đúng là Việt Cộng rồi.” Tôi tự nhủ thầm như thế, rồi như một phản xạ tự nhiên, tôi chạy vội vào phòng lấy khẩu Carbine dấu sau cánh tủ, lắp đạn vào, đoạn trở lại phòng khách, đứng sau cánh cửa khép hờ, nơi tôi có thể nhìn rõ mọi cử động của chúng. Hồi đó, công chức chưa có lệnh vũ trang nhưng bác Thẩm, Trưởng Ty Nội An, đã dúi cho tôi một khẩu Carbine Ấp chiến lược còn mới nguyên, với lời dặn dò “Ông Phó cứ đem về nhà cất để dùng, biết đâu lại chẳng có lúc phải cần tới nó.”

Đúng, giờ phút này tôi mới thấy một cây súng trong tay là cần biết bao và tôi thầm cảm ơn bác bạn già đã biết lo xa cho tôi.

Toán quân Cộng Sản này không di chuyển trên đường chính, mà chạy lom khom dọc theo hai bên đường mương, mắt dáo dác nhìn quanh những ngôi nhà cửa đóng kín. Những tên đi đầu đã vượt qua nhà tôi, đang xây lưng lại phía tôi trong khi còn giữ một khoảng cách khá xa với những tên phía sau . Tôi không ghìm được mình, hướng mũi súng về một tấm lưng gần nhất sẵn sàng bóp cò. Tôi chưa hề giết người và cũng ghê tởm sự giết người, vốn là một giới cấm trong tín ngưỡng của tôi. Nhưng hôm nay, khi đặt tay lên cò súng, tôi như thấy mình đang làm một việc chính đáng.

Bỗng một bàn tay đặt lên vai tôi rồi một giọng nói nghe như van lơn, can gián:

– Đừng, đừng bắn, ông ơi. Họ đông lắm, ngã sau vườn mình cũng có họ nữa. Nếu biết có mình trong này, họ tràn vào thì mình chống không nổi đâu. Trong nhà còn có cô, có em nữa (Vợ và con tôi) ông cố đừng để cho họ biết. Người Cảnh sát trẻ cố can ngăn tôi trong một cử chỉ thật đầy lo âu.

Tôi thở dài, hạ mũi súng xuống đất, và ngẫm nghĩ : “Nếu ai cũng như mình, tránh né trước kẻ thù thì đại cuộc sẽ đi về đâu ?” – Nhưng lời nói của Duy cũng có lý, còn sinh mệnh của những người vô tội trong ngôi nhà này nữa. Tôi không thể vô trách nhiệm đối với họ. Tôi bảo anh Duy đi đóng chặt cửa ngõ lại, quyết tâm cố thủ, nếu chúng có ý định tấn công nhà tôi. Chúng tôi củng cố lại chiếc hầm, đặt chướng ngại vật trên lối đi, đoạn leo lên trần nhà quan sát. Từ chiếc cửa tò vò trên mái, tôi thấy những hàng quân Cộng sản cứ tiếp tục đổ về hướng nhà Bưu Điện, chậm chạp và thận trọng. Ngôi biệt thự hai tầng sơn trắng xế trước nhà tôi, tư thất của Manhard, viên đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Huế, vẫn yên lặng, nhưng thấp thoáng có bóng Việt Cộng ra vào. Tôi nhận rõ mối nguy hiểm mới. Tòa Đại Diện Mỹ đã bị chiếm và Cộng Sản đang đóng chốt ở đây dùng nơi này làm bàn đạp xuất phát cho những cánh quân tiền tiêu của chúng. Sớm muộn gì chúng cũng khám phá ra tôi, vì nhà tôi đã bị lọt vào thế bao vây của chúng.

Bỗng tiếng nổ chợt ran lên phía nhà Bưu Điện và ngã tư Lê Thánh Tôn – Lý Thường Kiệt, một đầu mối giao thông quan trọng dẫn đến nhiều cơ sở đầu não Việt, Mỹ. Cánh quân Cộng sản đã bị chận ở đây và chiến trận đang diễn ra ác liệt. Tiếng nổ đủ loại súng đã tạo ra một lưới đạn khủng khiếp đan chéo nhau ngay giữa mặt đường, đâm thẳng vào ngôi nhà tôi từ cả 2 phía. Chính lưới đạn tai ác nầy, kéo dài từ ngày này qua ngày khác, đã làm nhụt lòng những ai muốn tìm lại sinh lộ xuyên qua con đường bị Cộng sản khống chế ngay từ phút đầu này.

Mặc dầu đạn vẫn bắn xối xả, phòng khách, phòng ăn nhà tôi đã bắt đầu lỗ chỗ những vết đạn lớn nhỏ, tôi quyết trụ ở rầm thượng để dễ bề đối phó với địch. Nếu xuống hầm, tôi sẽ bị mất khả năng theo dõi mọi động tịnh chung quanh và trở nên bị động một cách nguy hiểm. Từ trên, tôi nhìn thấy bao quát khu vực quanh tôi đang hoang vắng, một quang cảnh chết chóc. Vắt ngang ngôi nhà kế bên của ông Thẩm phán Phạm Văn Hiền là một chiếc dù hỏa châu màu trắng từ đâu rơi xuống nằm sóng sượt như một giải băng tang. Bên kia đường là nhà ông Chánh án Nguyễn Khoa Hoàng, cửa vẫn đóng im, không ngờ một bi kịch thương tâm đã xảy ra. Ngay hôm đó, ông và người con, một luật sư trẻ tuổi, đã bị Cộng sản ập vào bắt dẫn đi. Và cho đến nay, gia đình vẫn chưa biết họ đã chết ở đâu. Nhìn về hướng đường Đống Đa, ngôi nhà sơn trắng nằm dưới hàng xoan xanh, nhà của Đại tá Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I, vẫn kín cổng, chưa có vẻ gì bị đột nhập. Tôi tự hỏi giờ phút này ông ở đâu, đang cầm quân cự địch hay cũng kẹt lại như tôi. Nhưng mối quan tâm của tôi hướng nhiều hơn đến góc đường Lê Thánh Tôn, nơi mà các đợt xung phong dành kho bạc, nhà giây thép, trụ sở Dân Ý Vụ vẫn xảy ra dữ dội. Tôi nghe như có cả tiếng xích xe tăng đang nghiến mặt đường.

Cái biệt thự cao cao nằm kế bên nhà hàng Chaffanjon cũ đang phơi mình hứng đạn từ bốn phía kia, là công ốc dành cho ông Chưởng Lý Bùi Hòe Thực. Cụ Thực đã mấy lần đến năn nỉ tôi đổi nhà với cụ, vì muốn ở gần những bạn đồng tòa như cụ Biện Lý Phạm Trung Côn, ông hội thẩm Hiền, đều là láng giềng của tôi. Nếu tôi đồng ý với đề nghị của cụ, không hiểu số phận gia đình tôi đã thế nào, có thể tốt hơn nhưng cũng có thể xấu hơn. Cách đó trăm thước là tư thất Tướng Ngô Quang Trưởng. Ngôi nhà hai tầng chỉ có một công sự nhỏ bằng bao cát để lính gác kiểm soát người ra vào, nơi mà ông sống với gia đình, liệu có đứng nổi trước sức tràn ngập của quân Cộng sản ? Nhớ lại tình hình chiều 29 Tết, khi Sĩ quan các đơn vị lễ mễ mang những cành mai đến chúc Tết vị Tư Lệnh theo phong tục cổ truyền, tôi đã thấy Tướng Trưởng nghiêm khắc ra lệnh cho họ phải về ngay đơn vị để chuẩn bị đối phó với tình thế mới. Chứng kiến thái độ cảnh giác của ông hôm ấy, tôi bớt thấy bồn chồn khi cảm thấy Việt Cộng như có vẻ đã làm chủ tình hình khắp nơi. Thực tế, sau khi ban hành lệnh cấm trại 100% cho tất cả Quân nhân, Tướng Trưởng đã có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ngay đêm mồng một và từ đó ông đích thân Chỉ huy các cuộc phản kích bảo vệ căn cứ, khi cuộc tấn công bắt đầu xảy ra.

Tôi đang loay hoay dựng lại những khúc gỗ cản đạn trên trần thì bỗng “xoẹt, xoẹt”. Mái ngói trên đầu tôi vỡ toang hai lỗ lớn, hai viên đại liên ghim thẳng xuống cách tôi vài phân. Một chiếc trực thăng vũ trang UH-I A của Mỹ đang nghiêng nghé quan sát bên trên nhà Manhard, bỗng một tràng thượng liên từ bên trong bắn lên làm chiếc máy bay hoảng hốt vọt lùi và bắn trả nhiều loạt đạn dài, tiếng vang như sấm trước khi bay đi. Viên đạn suýt trúng tôi là từ máy bay bắn xuống. Trong trí viên Phi công, cả khu này đều đã lọt vào tay Cộng sản rồi, nhà nào cũng có thể có Cộng sản ẩn núp bên trong, nên đã tự cho mình cái quyền tự do oanh kích. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của tai họa khác.

Với việc di động ngày càng nhiều các đơn vị Cộng sản xuất phát từ trường Thiên Hựu và các dinh thự bị chiếm cứ ven đường, khu Lý Thường Kiệt bổng trở nên một bàn đạp nguy hiểm để Cộng sản phóng ra những trận tấn công mới. Lực lượng giải tỏa đã thấy điều đó và những quả đạn cối thăm dò đã bắt đầu rơi xuống. Lúc đầu còn thưa, nhưng sau càng ngày càng dồn dập. Ngày đầu tiên chỉ có loại 60 ly, về sau là 80 ly, rồi đến đại bác. Đạn rơi ngoài đường, đạn rơi quanh nhà, xuống nhà hàng xóm. Ngôi nhà tôi vật vã dữ dội dưới sức ép và tiếng nổ như một cây nhỏ trước cuồng phong, một đồn hoang sắp bị hạ. Hai con chó Nhật bản khôn ngoan thường không rời chúng tôi nửa bước cũng quá khiếp đảm, tông cửa phóng chạy như điên ra đường để rồi gục xuống trước những luồng đạn hung bạo. Đó đây tôi cũng nhìn thấy thất thểu đoàn người chạy loạn, xô tới, dạt lui không biết tránh vào đâu lưới lửa tứ bề, cuối cùng , từng người, từng người gục ngã dần, xác gối vỉa đường, cho đến khi không còn ai.

Tình thế của tôi mỗi lúc mỗi hiểm nghèo thêm. Dưới nhà, vợ tôi không dám di chuyển nửa bước khỏi hầm núp. Con tôi không có nước pha sữa, đành cho ngậm Soda cầm hơi. Tinh thần ai cũng căng thẳng chờ đợi những nguy hiểm mới. Bỗng một quả đạn cối rơi trúng ngay phòng ngủ tôi, khói bụi bay mù mịt, vôi vữa rơi đổ rào rào. Tôi cảm thấy rát ở trán, sờ có máu. Một mảng đạn đã sướt qua đầu tôi, may chỉ bị thương nhẹ. Mái nhà bị sạt một bên làm lộ chỗ tôi đang ẩn núp. Việt Cộng đứng trên lầu nhà Manhard nhìn sang có thể thấy tôi. Một câu ngạn ngữ Pháp mà tôi tin chợt lóe ra trong trí tôi lúc đó khiến tôi phải xét lại quyết định của mình…”Jamais deux sans trois” (Việc gì đã xảy ra hai lần thì không tránh được sẽ xảy thêm lần thứ ba). Tôi đã hai lần hụt chết, làm sao tôi có thể thoát khỏi lần thứ ba, khi mà cái chết chưa biết sẽ ập xuống khi nào. Phải xuống nhà ngay, rồi tìm cơ hội thoát sau, tôi nhủ mình như thế và đưa mắt đảo qua tình hình chung quanh trước khi tôi không thể nhìn thấy chúng được nữa. Bọn cộng sản lỳ lợm hình như không sợ pháo của ta. Chúng vẫn đi lại, bố trí không ngừng. Quãng nào trống chúng chạy vội qua, đến chỗ kín, chúng lại di chuyển bình thường. Phía ruộng rau muống sau vườn nhà tôi nhấp nhô những mái tóc để rẽ theo lối trẻ con, nửa người lớn trên bộ Quân phục vừa vàng vừa xanh lá cây. Có những quả đạn B 40 như bắp chuối trên vai, khi phân tán, lúc tập trung, nham hiểm, rình rập.

– “Tình hình này thì cũng khó phá vòng vây của chúng đây”, tôi vừa mở nắp trần nhà để trụt xuống dưới vừa nghĩ bụng như thế.

Vào hầm thấy vợ tôi mệt mỏi, hốc hác ngồi tựa vào bao cát ôm con, đứa bé mềm oặt khóc không ra tiếng, trên tay lần dở cuốn kinh nhỏ in hình Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tôi chợt mềm nhũn một tình cảm mến thương vô hạn. Tội nghiệp, người vợ trẻ còn nguyên nét học trò nếu không về với tôi, giờ đây có lẽ vẫn là một Sinh viên vô tư hồn đầy mộng ước, thả bước lá hoa trên ngưỡng trường Đại học, có đâu phải chia sẻ với tôi một số kiếp đoạn trường, lê lết những giờ phút kinh hoàng bấn loạn trong chiếc hầm tối đen ngột ngạt như địa ngục này. Và con tôi mới hôm kia còn hồng mởn, thanh tú như một nụ sưng, giờ đã gầy rộc, tái xanh như một tàu lá héo. Thế mà những hình ảnh thân yêu này chưa biết phút nào đây rồi sẽ phải xa lìa vĩnh viễn. Tôi phải phá vây tìm một sinh lộ, may ra đến được chốn an toàn, nhưng cũng rất nhiều rủi ro sẽ âm thầm ngã xuống tại một bụi bờ nào đấy ở ven đường. Tôi thấy trước số phận mình qua hình ảnh những đoàn chạy loạn gục dần, gục dần, đến khi không một ai còn lại trên đường. Nhưng cũng không thể bó mình trong chiếc hầm nhỏ để chờ giặc đến. Điều đó còn tệ hại hơn chết. Tôi hôn con và nắm tay vợ tôi như một dấu hiệu giã từ. Bên ngoài đại bác vẫn rơi đều, treo lơ lửng lưỡi hái tử thần trên chiếc hầm mong manh. Tôi nóng ruột đợi trời tối xuống để thoát ra khỏi nhà, định bụng sẽ băng qua hàng rào kẽm gai sau hè, men theo thửa ruộng cạn dẫn đến con đường tắt xuống Tiểu Khu, ở đó tôi hy vọng sẽ gặp được những đồng bạn đang chiến đấu. Tôi bảo anh Duy dấu bớt những thứ có thể làm lộ hình tích để lỡ bất chợt gặp địch, vẫn linh động đối phó được với chúng. Vũ khí chỉ sử dụng trong trường hợp tối cần thiết để tự vệ.

Chúng tôi vừa sửa soạn xong, đang chất lại mấy bao cát đã quá xiêu vẹo vì sức nổ lớn, để thêm chút vững chãi cho chiếc hầm thì bỗng “đoàng, đoàng, đoàng”. Ba tiếng nổ đanh lạnh vang lên từ phía bếp, tiếp đó một tiếng quát lớn giọng Bắc dội vào:

– “Ra ngay ! Tất cả mọi người trong nhà phải ra ngay. Chậm trễ hay kháng cự sẽ bị tiêu diệt. Ra, ra mau.”

Tôi vội ra ngay nhà ngoài xem cái gì đã xảy ra, vừa ngang ngưỡng cửa phòng khách, bỗng hai họng súng đen ngòm dí ngay vào hông, chận tôi lại. Hai tên lính Việt Cộng còn trẻ, mặt mày lạnh lẽo, phục sẵn từ hồi nào, im lặng chĩa súng vào người tôi. Chúng hất mũi súng, ra hiệu bảo tôi đi tới. Tiến thêm ít bước, tôi thấy nép sau tấm bình phong ngăn đôi phòng khách với phòng ăn, hai tên khác, súng hờm sẵn cũng đang chĩa về phía tôi. Và trấn ngay khung cửa dẫn xuống nhà để xe, nơi tôi định theo đó thoát ra ngoài, lại hai tên nữa, đương gườm gườm, sẵn sàng yểm trợ cho bọn đã lẻn sâu vào bên trong. Thì ra, khi những quả đạn oan nghiệt buộc tôi phải rời vị trí quan sát để tạm ẩn vào hầm thì bọn Cộng sản thâm hiểm đã lợi dụng hông cửa bị đạn pháo làm bung vỡ, lén đưa cả một bán tiểu đội vào phục sẵn trong nhà. Sự bất ngờ làm tôi không kịp trở tay, đứng sững nhìn những tên địch lần đầu đối diện, đau đớn nhận ra tình cảnh thất thế của mình. Chúng đã bố trí kỹ thế này, cho dù tôi muốn chúng phải trả giá cho sự hy sinh của tôi cũng không còn được nữa rồi. Chúng sẽ hạ tôi trước khi tôi kịp có một phản ứng nhỏ.

Bọn bên ngoài đã bắt đầu kéo vào. Một tên trung niên không mang chút phù hiệu nào trên người ngoài tấm vải nhỏ màu vàng buộc ngang cánh tay áo xắn cao, có vẻ là chỉ huy, thận trọng tiến lên, mắt nhớn nhác nhìn các gác phòng, nhìn lên trần nhà, như sợ có những mũi súng vô hình còn mai phục đâu đây.

– “Anh là Tỉnh phó ? ” Hắn hỏi, giọng cấp bách.

Tôi nhận ra là cái giọng vừa quát gọi phía sau nhà. Tôi không trả lời, đang nghĩ có nên có một hành động kháng cự để ngã trước mũi súng của chúng, ngay trên mảnh đất Huế, quê hương mà tôi cảm thấy đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ, hay cứ để xem, tìm một cơ hội khác. Thật tình, tôi không còn biết sợ mà chỉ thấy điếng tê một cảm giác chát chua. Cuộc đời tôi coi như đã hết. Có điều nên tự hủy cho tròn khí tiết một kẻ sa cơ hay chờ cái chết sẽ đến từ tay kẻ thù thì tôi chưa quyết định. Vừa lúc ấy vợ con tôi và anh Duy bị uy hiếp dưới những họng súng, được đưa ra từ cửa hầm, đứng sắp thành một hàng ngang bên tôi. Có tiếng lên đạn lách cách. Tôi rùng mình nghĩ đến hành động dã man thường có của Cộng sản. Tên chỉ huy sấn đến, chĩa súng vào vợ tôi, mặt đầy sát khí :

– Chị phải nói cho thật, hắn chính là Tỉnh phó phải không ?

Khi đó, tôi thấy vợ tôi bình tĩnh một cách kỳ lạ, bình tĩnh theo linh cảm đàn bà. Vừa cố dỗ cho đứa con khỏi khóc, vợ tôi nhìn thẳng vào tên chỉ huy, rành rọt đáp, sắc mặt không đổi.

– Nếu ông biết có Tỉnh phó nào trong nhà này thì ông cứ việc lục soát. Riêng tôi, tôi không biết ai như vậy cả.

– Được rồi, chúng tôi hỏi là để thử xem sự thành khẩn của các người thôi. Cách mạng đã theo dõi và nắm đủ tin tức trong tay, các người đừng hòng ngoan cố che mắt Cách mạng.

– Các đồng chí, dẫn tên này đi. Hắn cười gằn rồi quay lại ra lệnh cho đồng bọn.

Mặt tôi đanh lại, nhớ đến những tên học sinh thường lượn lờ trước cổng nhà tôi và nhà Manhard. Chính bọn chỉ điểm nầy đã làm tai mắt trước cho những tên bắt người. Tôi thấy nóng ở cổ khi hai tên rút cuộn thừng dắt sẵn ở thắt lưng, tiến lại phía tôi. Tôi như không còn chịu đựng nổi cái ý nghĩ phải thúc thủ nhìn chúng nó trói mình, thà chết chứ không như thế này được. Tôi vừa rướn người trong một tư thế định vùng dậy thì vợ tôi chợt nhìn thấy.

– Anh cứ đi đi, đừng lo nghĩ gì đến em và con.

Tôi hiểu vợ tôi đoán biết ý nghĩ liều lĩnh của tôi và không muốn trông thấy cái chết của chồng xảy ra ngay trước mắt mình. Ánh mắt đau thương của người vợ trẻ đã cầm chân tôi lại trong cái ý định nửa chừng. Một lần nữa, tôi lại thở dài. Tôi sắp vĩnh viễn chia lìa vợ con, hình ảnh cuối cùng để lại trong lòng người thân thương không thể là một hình ảnh đầy máu. Vợ tôi khó sống nổi với cái ám ảnh chết chóc của chồng. Hai tên Bộ đội bắt đầu đẩy tôi đi. Ngoái nhìn, tôi thấy vợ tôi nước mắt ràn rụa, đứng sững trông theo não nùng như pho tượng vọng phu. Đó là lần cuối chúng tôi trông thấy nhau trên phần đất Tự do của Tổ quốc.

Tôi ra đi mang theo hình ảnh Huế đô điêu tàn vật vã và người vợ chờ đơn độc đứng ôm con. Phải 13 năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau sau khi đã nếm trải đủ mùi đày đọa và tưởng nhau đều đã chết, duy quê hương thì mãi mãi đã không còn. Tôi bước đi như cái xác không hồn theo sự xô đẩy của hai tên Bộ đội người Bắc. Qua cung cách hành hạ của chúng, tôi biết chúng muốn tôi chết đi cho rảnh thân hơn là phải mất công coi ngó, giữa lúc bom rơi đạn lạc như thế này. Bắt đầu ra khoảng trống, nhất là lúc băng qua mặt lộ, chúng đẩy tôi lên, bắt chạy trước, còn chúng thì nằm xuống vệ đường để tránh đạn, mũi súng luôn chĩa thẳng vào lưng tôi. Thâm ý chúng là dùng tôi làm cái bia hứng đạn, chỉ khi nào thấy tôi vượt qua không hề hấn gì, chúng mới vội vàng nhổm dậy chạy theo. Đó cũng là cách thức giải người thường thấy của Cộng sản trong những khu vực còn giao tranh ở Huế. Biết bao nhiêu người đã không vượt qua khỏi lằn đạn như tôi, phải ngã xuống giữa đường khi vừa bị Cộng sản bắt đi. Những con đường Huế đầy xác người vắt ngang hay sắp lớp bên lề, phải chăng là hình ảnh không chối cãi của một tội ác tày trời.

Tôi tưởng chúng sẽ dẫn tôi đến tận đâu, ai ngờ chúng chỉ đưa tôi đến nhà Manhard rồi trói lại, bỏ tôi ngồi đấy. Một người đeo kính trắng bị trói, ngồi ủ rũ gần cửa ra vào. Nhìn kỹ tôi mới biết là người láng giềng, dạy Pháp văn ở trường Quốc Học, có lẽ cũng mới bị bắt sáng nay. Một lát sau, tên Chỉ huy bước vào, hắn cật vấn lại vài câu, đoạn ra lệnh cởi trói và cho người này về. Chỉ mình tôi còn lại trong phòng khách trống hoác, không còn chút đồ đạc gì ngoài những vỏ chai rượu vỡ vứt nằm lỏng chỏng đó đây. Cũng tại căn phòng này, hôm 29 Tết, Manhard còn ngồi tiếp tôi trong chiếc ghế bành sang trọng và một tủ rượu đầy ắp rượu quý. Hôm đó, vừa theo phái đoàn Thủ Tướng Lộc đi thăm ấp chiến lược kiểu mẫu ở quận Hương Thủy về, thì Manhard cho người mang cặp rượu sang biếu Tết. Tiện đường, tôi ghé thăm đáp lễ, đem theo bức tranh sơn dầu “Người đội mũ đỏ”, một tác phẩm có giá trị nghệ thuật của họa sĩ Đinh Cường mà tôi vừa mua trong một cuộc triển lãm hội họa mùa Đông của anh, tặng lại Manhard. Viên đại diện Mỹ đầu tiên thuộc ngạch ngoại giao và có một lối giao tế nhân sự cũng hết sức… ngoại giao (Và cũng để nhân đó giới thiệu với người Mỹ một sinh hoạt Nghệ thuật địa phương).

Vào năm 1967, “Việt Nam hóa chiến tranh“, mới còn là một khái niệm chỉ thỉnh thoảng xuất hiện một cách dè dặt trên báo chí Mỹ. Nhưng nhìn vào những thay đổi nhân sự trong cơ cấu viện trợ Mỹ tại địa phương, thì hình như kế hoạch đã được khởi động từ những ngày sớm hơn người ta biết. Nếu trước đó, những đại diện USAID, thường là những người, hoặc là có cái xông xáo, ôm đồm của một cán bộ tận tình với công tác, dám hy sinh vì lý tưởng, hoặc mang cái tinh thần hẹp hòi, cứng ngắc của một loại thư lại máy móc, coi thủ tục giấy tờ nặng hơn mục tiêu chính trị, thì từ sau ngày được biến cải thành Cơ quan CORDS, những đại diện mới rõ ràng đã đem lại một phong cách mới, không chỉ trong công tác, mà cả trong quan hệ đối xử với đồng minh.

Ở Quảng Trị, khi Whitfield, viên đại diện USAID nói tiếng Việt sõi như người Việt, giữa hoàng hôn vẫn dám một mình một xe lên Cam Lộ, ra Gio Linh, vào Hải Lăng thâu thập tin tức, kiểm chứng tình hình, mãn hạn hợp đồng về Mỹ thì người thay thế là một cựu lãnh sự Mỹ ở Ý, cao gần hai thước, nhưng rất nhỏ nhẹ hiền lành, đến với tỉnh địa đầu giới tuyến như một sứ giả của Hữu nghị và Hòa bình, hơn là một đồng minh đang chiến đấu. Cũng thế, khi trụ sở CORDS ở Huế thôi đặt bên cạnh Tòa Hành Chánh tỉnh, để dời về địa điểm mới phía sau nhà Bưu điện, thì cũng là lúc chấm dứt cái thời kỳ trì trệ của Lofton, viên đại diện già quá nhiệt thành với nguyên tắc kiểm soát, đến thành cản trở chương trình yểm trợ và làm vẩn đục mối quan hệ cộng tác giữa đôi bên.

Đến đảm nhiệm chức vụ đại diện CORDS thay thế Lofton, Manhard vẫn mang ngạch số ngoại giao và hành sử công việc như thể vẫn còn là một lãnh sự ở Milan. Bên cạnh công tác bình định, giờ được phối hợp uyển chuyển hơn, Manhard chú trọng nhiều đến việc xây dựng mối quan hệ hiểu biết với các nhân vật có tên tuổi, các nhóm áp lực có ảnh hưởng tại địa phương. Qua những cố gắng mới, có thể thấy, vị trí và tiềm năng của Việt Nam Cộng Hòa đã bắt đầu được chú ý đến một cách đáng kể trong chương trình bình định và nỗ lực chống cộng. Trong những ngày còn bận rộn với chương trình bình định cuối năm, Manhard đã tỏ vẻ thực sự lo ngại về tin tức một cuộc tấn công vào Huế của Cộng sản. Đoàn Công Lập cho tôi hay Manhard đã nhiều lần đích thân đến gặp Lập để xin cho người đến bảo vệ. Đây là một hành động khá khác thường đối với một giới chức cao cấp Mỹ.

Thẳng thắn mà nói, hồi đó người Mỹ thường không mấy tin tưởng vào khả năng bảo vệ của cơ quan an ninh Việt Nam. Các cố vấn Mỹ bằng phương tiện riêng, tự tổ chức lấy việc bảo vệ an ninh cho bản thân mình. Thường cứ vài người thuê chung một biệt thự, có lính Lôi Hổ đứng canh gác. Lôi Hổ là một đơn vị đặc biệt do người Mỹ trực tiếp tuyển mộ và trả lương, gồm những thanh niên ngang tàng không sợ đánh nhau và không sợ cả kỷ luật, đa số là người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn. Ở khu vực hữu ngạn, khi cộng sản – được chỉ điểm trước – tấn công bao vây nhà các cố vấn Mỹ, đã bị các binh sĩ Lôi Hổ đánh trả dữ dội, chúng bị chết rất nhiều. Có nhiều nhà quân Cộng sản chết sắp lớp mà vẫn không chiếm được, sau chúng phải dùng quỷ kế dụ hàng và vây hãm nhiều ngày cho hết đạn bên trong mới chịu buông súng. Những anh em Lôi Hổ cùng đường này, khi bị bắt lên núi, ngồi nhìn cái chết chậm vì đói rét, bệnh tật đang từ từ đến, đã đấm ngực tự trách sao không quyết tử đến cùng với quân Cộng sản, để dù có ngã xuống thì vẫn còn nhẹ nhàng hơn “Sống như chết” thế này.

Yêu cầu của Manhard được Ty Cảnh sát Huế thỏa mãn và vào những ngày giáp Tết, nhìn qua nhà viên đại diện Mỹ, tôi bắt đầu thấy có Cảnh sát Dã chiến đến canh ở cổng.

Khi ngôi nhà bị chiếm, tôi không biết có sự kháng cự nào không, nhưng giờ đây, ngồi giữa căn phòng đã được Cộng sản biến thành một cứ điểm tiền tiêu của chúng, tôi không thấy một ai còn lại trong nhà, ngoại trừ những tên lính chiến đấu Việt Cộng mặt mày âm u hiểm ác, lưng choàng tấm vải dù loang lổ, ẩn hiện đi về như những cánh dơi ăn đêm. Dấu vết phá phách, đập vỡ và sự tan biến của mọi đồ vật chứng tỏ ngôi nhà đã bị lục soát, cướp bóc nhiều lần. Sau này, tại một vùng hẻo lánh rất xa Huế, tôi thấy chiếc xe của Manhard nằm bẹp dí dưới một lùm tre bên đường khi tôi bị Cộng sản đưa lên núi. Bọn Cán bộ đã dùng xe này đi lại để che mắt máy bay rồi khi hết nhiên liệu, chúng vứt lại bên đường. Đó là dấu vết duy nhất của Manhard mà tôi được biết sau khi cuộc tấn công xẩy ra.

Bọn Việt Cộng mải mê với việc tiếp viện cho đồng bọn gần đấy, có lúc tưởng như đã quên tôi. Nhưng không, dụng ý của chúng gian ác hơn nhiều. Ngôi nhà mà chúng giữ tôi đang là mục tiêu bắn phá của nhiều loại pháo không hiểu từ đâu câu lại. Chúng trói bỏ tôi ngồi ngay ngưỡng cửa nhìn ra chiếc sân cỏ chốc chốc khói bụi và đất cát lại nẩy lên vì đạn rơi trúng. Đạn nổ sát bên tôi nhiều lần, nhưng không hiểu sao tôi lại chưa chết. Việt cộng muốn mượn bom đạn ta để giết người của ta – như chúng đã lùa đồng bào chạy loạn bên Thành Nội lên cửa Chánh Tây để cho máy bay Mỹ bắn chết – nhưng thêm lần nữa, mưu định của chúng không thành. Trong chiến tranh, bom rơi đạn lạc là sự thường tình nhưng nhiều khi muốn chết cũng không phải là dễ.

Một lát sau, dãy tường cao, cổ kính ảm đạm dưới trời mây của ngôi trường Thiên Hựu đã hiện ra trước mắt tôi. Những khung cửa lớn màu nâu mở toang hoang, trống trải cho thấy nhiều bóng người đi lại bên trong. Nhưng không phải hình ảnh thường thấy của những linh mục người Pháp cao lênh khênh trong bộ áo chùng đen thậm thượt, hay những Học sinh nội trú hiền lành mà là sự chuyển động đen tối của bóng dáng yêu ma, lấy mái học đường làm nơi tụ ác. Bước qua những mảnh cửa kính vỡ dọc hành lang ngôi trường và xác những con lợn lai to lớn, không hiểu tại sao nằm chết ở đó, tôi bị dẫn vào một phòng học bỏ trống, cửa ngõ mở banh, không khí rùng rợn như một trạm hành quyết. Góc tường, nhiều vết đạn lỗ chỗ và một vũng máu lớn lan đọng trên nền, chỗ còn đỏ tươi, chỗ đã đen thẫm, bốc lên một mùi tanh khó tả của máu người. Cổ họng tôi nghẹn đắng một cảm giác căm hận. Không nghi ngờ gì nữa, đây là chỗ Việt Cộng thủ tiêu người. Bao nhiêu người đã bị xô vào góc tường này để hứng lấy những phát đạn bắn gần. Máu họ còn đó, nhưng thân xác bị vùi dập nơi đâu ?

Lúc đó, thật tình tôi không biết ở khu vực quanh tôi nhiều người cũng bị bắt đến đây như tôi và càng không thể ngờ rằng trong số những người không may đó, có rất nhiều gương mặt, quen cũng như không quen, đến nay vẫn tuyệt mù tăm tích, không biết sống chết ra sao. Trường học là nơi đóng quân trong Thành phố của Cộng Sản, cũng là bãi giết người tập thể. Hầu như ít ai đã lọt vào đây mà được trở về. Tôi bị bắt khi Cộng quân đang chuẩn bị rút. Chúng bận rộn lo di tản thương binh và chống đỡ với phi pháo nên hoạt động khủng bố phần nào bị hạn chế. Suốt hôm đó tôi không thấy có ai thêm bị đưa vào trường ngoại trừ anh Luận. Nhưng những xác chết trong đêm mà tôi thấy nằm rải rác trên đường đi từ ngã tư Nguyễn Huệ – Lý Thường Kiệt cho đến phía bên kia Cầu Kho. Hèn chi Cộng sản bắt đầu đưa tôi lên núi, thì rất có thể họ là nạn nhân của những vụ hành quyết tại chỗ.

Càng gần thất bại, Cộng quân càng trở nên dã man. Diễn tiến tình hình tại Huế đã cho thấy như vậy. Chỉ tiếc màn đêm và sự canh chừng của Cộng sản đã không cho phép tôi nhận diện được họ rõ hơn. Chỉ biết đấy là xác những thường dân, trên người còn mặc bộ áo quần ngủ. Tôi thông cảm sâu sắc niềm đau miên viễn của gia đình những người bất hạnh. Mười mấy năm qua vẫn chưa thôi truy tìm dấu vết người thân, dầu là một chứng tích bi thảm cũng đành lòng, hơn chút ảo tưởng sống còn, ngày càng mơ hồ vô vọng. Bản thân tôi, gia đình tôi không chỉ hết nước mắt nhớ thương, mà hết luôn cả hy vọng nhặt xác con về. Có hầm chôn tập thể, khe suối vùi người nào được khai quật mà gia đình tôi không đến lật tìm từng mảnh vải còn vương, đến hàm răng, chiếc sọ bầy nhầy, để xem có di thể tôi trong đó không. Những người thân yêu nhất trong đời tôi, mẹ tôi, chị tôi – khi nhắm mắt vẫn còn yên trí tôi đã là một hồn ma không còn trên cõi thế.

Trở về sau 13 năm trôi dạt ngục tù, tôi xem ra thành kẻ chứng nhân cho một chuỗi ngày khổ tận. Không phải tất cả những người mất tích đều đã chết. Nhưng sự sống sót chỉ là hạt cát trong biển máu không lồ. Mỗi trại giam lụp xụp giữa Trường Sơn là một khu mồ dựng sẵn. Nhưng bản năng sinh tồn cũng có những sức đề kháng kỳ lạ. Có những lời nhắn gởi bị dìm đi, nhưng cũng có những lá thư nhà đầy khí khái của kẻ sĩ sa cơ, coi nước đã mất thì nhà không còn…

Nhìn chúng đi lại tôi ước lượng khoảng một đại đội Việt cộng đang chiếm đóng khu trường. Nhiều tên ghé lại đứng nhìn ngắm chúng tôi rồi chỉ trỏ bàn tán với nhau. Có vẻ chúng đang chuẩn bị đem chúng tôi ra bắn. Một tên du kích mặt non choẹt, toàn thân vàng bủng nhưng điệu bộ cực kỳ hung ác được giao canh giữ chúng tôi. Bằng một giọng Thừa Thiên quê đặc, hắn vừa phun ra những lời chửi rủa độc địa, vừa dí mũi súng Carbine vào người tôi, ngón tay cong lại như sắp bóp cò. Vừa khi đó hai chiếc trực thăng vũ trang bỗng từ đâu sà đến, nhả liền mấy quả rốc kết vào bọn Việt cộng trên lầu. Khói bụi bốc mù mịt, vôi vữa rơi đổ ào ào. Mấy tên du kích hốt hoảng tìm chỗ ẩn núp, quên khuấy chúng tôi. Ngồi trên chiếc bục giảng bài của thầy giáo, tôi ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh chiến đấu đang diễn ra. Tôi thầm cảm phục sự can đảm của hai viên Phi công trực thăng. Từ các cửa sổ tầng trên ngôi trường, các họng súng đại liên, trung liên, cộng với hằng trăm cây súng cá nhân Cộng sản thi nhau nhả đạn vào hai chiếc máy bay, tưởng như thế nào cũng bị tiêu cháy đến nơi. Nhìn từ phía trận địa địch, rõ ràng trong chiến đấu, trực thăng là một đối tượng rất dễ bị tổn thương. Thế mà cái khối chậm chạp lắc lư đó như không biết sợ là gì, vẫn bình tĩnh lượn gần quan sát, thỉnh thoảng nghiêng mình bắn trả những đường đạn chính xác. Tôi nghe rõ nhiều tiếng kêu la trên lầu vọng xuống.

Bọn Cộng sản đã bị trừng trị. Trong tiếng la thất thanh tôi nghe cả giọng đàn bà. Chúng điên cuồng hò nhau bắn trả, nhưng hai chiếc trực thăng chỉ dạt ra rồi lại sà xuống tiếp tục bắn phá. Ở những vòng lượn thấp, tôi nhìn thấy viên xạ thủ người Mỹ phơi mình bên khẩu đại liên, giữa lúc lao vào ổ địch mặt vẫn lạnh băng như không biết sợ là gì. Cũng những người lính viễn chính ấy tôi thường gặp trong những phi vụ đưa đón phái đoàn, từ sân bay Thành Nội, bãi đáp MACV đến không trạm quân đoàn, trông họ rất đỗi bình thường, lặng lẽ và lễ độ. Thế mà giờ đây trong mắt tôi họ bỗng trở thành một thứ Hiệp sĩ thần kỳ, phù nguy diệt bạo. Tôi hoàn toàn không nghĩ là mình đã được giải cứu, nhưng vẫn cảm thấy một cái gì như hả dạ khi biết rằng bọn sát nhân đang bị những đòn giáng trả đích đáng. Có thể chúng sẽ giận dữ hơn, tàn bạo hơn đối với những người rơi vào tay chúng, nhưng ít ra chúng cũng hiểu không kẻ nào gieo gió mà không gặt bão.

Nhưng tiếc thay sự hiện diện của lực lượng Đồng minh hôm đó chỉ có thế. Sau khi hai chiếc trực thăng bỏ đi, bầu trời im ắng trở lại, trả cho bọn Cộng Sản cái quyền thao túng mặt đất mà chúng đang nắm giữ bằng sắt và máu. Cũng như tất cả những người bị cô lập với bên ngoài, tôi có cảm tưởng lực lượng ta đã rã hết rồi. Và chiếc máy bay chợt đến rồi lại chợt đi như đóm lửa chưa kịp bùng cháy mà đã vội tắt. Thấy tạm yên, mấy tên du kích đanh ác lại ngóc đầu lên. Nhưng lần nầy chúng có vẻ hơi gờm, chỉ gườm gườm nhìn chúng tôi chứ không chửi rủa và đòi dọa bắn.

Đến tối, hình như có lệnh mới, chúng tôi được dẫn tới một phòng khác có vẻ là nơi chuẩn bị để di chuyển. Đi qua những hành lang dài hun hút nhưng tuyệt không một ánh đèn, chúng tôi bước mò mẫm trên những mảnh kính vỡ và nhiều chướng ngại không tên, để cuối cùng dừng lại trước một cánh cửa tối om. Chúng đẩy tôi vào và bảo ngồi đấy đợi. Quơ tay, tôi sờ thấy một chiếc mền dạ không hiểu của ai vứt lại trên thềm. Tối quá tôi không biết ngoài tôi và anh Luận còn có ai trong phòng nữa không. Nhưng chắc chắn là có người vừa từ ở đây bị dẫn đi và vì vội quá nên không kịp đem theo chăn mền của mình. Chiếc khăn dạ tốt, loại nhà binh Pháp để lại, nhất định không phải thứ mà Cộng sản có được. Đêm tháng Giêng trời lạnh, trên mình lại chỉ phong phanh một bộ đồ mỏng, không dày dép, tôi và anh Luận quấn luôn chiếc mền vào người và cũng không có ý định giao nó lại cho những tên Việt cộng tham lam. Sau này, khi chuyển trại, chiếc chăn được xé làm đôi, tôi một nửa, anh Luận một nửa. Chính nhờ mảnh chăn đó mà tôi đã có thể cầm cự nổi với cái rét cắt da thịt của Trường Sơn, và đã không sớm ngã xuống như nhiều anh em khác. Khi đưa ra giam ở Miền Bắc, tuy có được phát mền sợi Trung cộng, nhưng tôi vẫn giữ mảnh chăn bên người với ý định sau này nếu có cơ hội sẽ tìm gia đình người có tấm chăn trả lại như một dấu tích của người thân để lại.

Càng về đêm, bọn Cộng sản lại càng đi rộn rịp. Như một loài ma ăn đêm, chúng có vẻ quen thuộc với bóng tối. Mọi sự chuyển vận, hoạt động đều không cần tới ánh sáng. Tiếng dép lốp nghiến xào xạc trên mảnh chai, tiếng súng khua lách cách. Thỉnh thoảng có ánh diêm chớp lóe đỏ, soi lên tường những bóng đen qua lại. Bỗng trong sâu thẳm của tối tăm nổi lên nhiều tiếng rên rỉ đau đớn. Tiếng rên đau phát ra từ dãy phòng phía hữu gần cổng chính ngôi trường. Ở đó có các thương binh của chúng nằm dài trên nền xi măng chờ được cáng đi. Qua thoáng nhìn vội, tôi thấy được cảnh tượng mà Cộng sản ít khi để lộ ra ngoài. Những thân người sắp lớp từ phòng này qua phòng khác, cái đã bất động, cái còn cựa quậy rên la, chứng tỏ khi đi gây tội ác, chúng đã tổn thất. Dấu giếm là sở trường của Cộng Sản. Sợ dân chúng biết, chúng đã dồn hết những đồng bọn không may vào đây, chờ đêm tối mới bắt đầu chuyển về sào huyệt. Những chiếc khăn màu xám dơ bẩn buộc túm hai đầu luồn dưới một thanh tre dùng làm đòn khiêng là cáng tải thương đường dài của chúng. Trong khi những tên bị thương khóc lóc, kêu khát đòi xin nước thì những tên khác vẫn thản nhiên bước qua, không buồn dừng lại hỏi han một tiếng.

Hồng Châu

Tết Tây – Tết Ta

Tết Tây – Tết Ta

2014 vừa đến thì Giáp Ngọ cũng phi nước đại vào. Mỗi năm, người Á Đông chúng ta được ăn Tết hai lần. Trong dịp này, tôi bỗng cần “ôn” lại phong tục tập quán ngày Tết ta và nhân thể nhắc qua ngày Tết “Tây” ở những quê-hương thứ hai của mình, nhân thể khai bút luôn.

Ngày đầu năm là một ngày lễ đã được ăn mừng từ lâu năm, lần đầu tiên hình như đã hơn bốn ngàn năm tại Babylone (hiện thuộc nước Iraq).
Thuở nguyên thuỷ, lúc kinh-tế dựa trên canh nông, người ta thường đánh dấu năm mới vào đầu mùa xuân, lúc vạn-vật bắt đầu sống lại và người nông dân bắt đầu gieo hạt đầu mùa. Dần dần, năm mới được “đồng hoá” vào ngày 1 tháng 1 đầu năm trong tất cả các loại lịch (âm-lịch hay dương-lịch).

1. Âm lịch – Dương lịch

Ngày Tết của người Tây phương được tính theo dương lịch (do Giáo-Hoàng Gregorio XIII lập nên). Ngày, tháng, năm được tính theo vị tri của quả đất chuyển động chung quanh mặt trời (do đó gọi là dương lịch): 365,5 ngày một năm (365 ngày hoặc 366 ngày những năm nhuận, mỗi 4 năm).
Ngày Tết ta thì được tính theo âm lịch, nghĩa là tháng được tính theo chu kỳ vận-hành của mặt trăng chung quanh quả đất: ngày đầu tháng là tháng mới (new moon / nouvelle lune) và ngày thứ 15 là trăng tròn (full moon / pleine lune) và 1 năm chỉ có 354 (29,5 x 12) ngày.
Trên thực tế, các loại lịch này phải được gọi là âm-dương lịch vì tháng được tính theo mặt trăng nhưng năm thì lại tính theo mặt trời để trùng khớp với mùa màng, cho nên cứ 2 (hoặc 3) năm phải thêm vào 1 tháng để 1 năm có đủ 365,5 ngày..
Ngày nay, dương lịch đã trở thành lịch quốc-tế, âm-dương lịch chỉ còn dùng cho những ngày lễ cổ-truyền hay tôn giáo (ngày Tết, Trung Thu, lễ Vu Lan…) hay trong thiên văn, tử vi.

2. Tết Tây

Hết năm cũ, sang năm mới là một cơ-hội để ăn mừng trên toàn thế-giới và ngày mồng 1 tháng giêng dương-lịch đã trở thành ngày lễ mừng năm mới trên (gần như) toàn cầu.
Nếu Giáng Sinh được xem như một ngày lễ trong gia-đình và ở nhà thì người ta thường ăn mừng năm mới với bạn bè ở ngoài (tiệm ăn, vũ trường, …).
Và đã gọi là sang năm mới thì năm cũ phải kết-thúc, cho nên thời-điểm quan-trọng phải là lúc chuyển-tiếp, nghĩa là ngày 31 tháng 12 (dương-lịch), và đặc biệt là lúc 12 giờ khuya, trước khi bước qua năm sau.
Giao thừa bên Pháp gọi là “Réveillon de la Saint Sylvestre”. Người Pháp thường đón giao-thừa bằng một bữa ăn thịnh soạn với gan ngỗng (foie gras) và champagne, rồi nhảy đầm; đến 12 giờ đêm thì hôn má và chúc mừng năm mới nhau dưới một cành tầm gửi (gui). Ở Paris, thì mọi người hay tụ tập nơi tháp Eiffel hay trên đại-lộ Champs Elysées.
Mừng năm mới thường chấm dứt vào ngày lễ Hiển Linh (Épiphanie) ngày 6 tháng 1 và hôm đó mọi người chia nhau ăn “bánh vua” (galette des rois).

Bên Mỹ, đặc biệt là ngày New Year’s Eve (giao thừa), ở Nữu Ước (New York City), mọi người tụ tập ở 1, Time Square để xem quả cầu pha-lê (to 2 thước đường kính, nặng 500 ký) được từ từ hạ xuống, một phút trước 12 giờ đêm.

Một tục-lệ khác là gửi nhau thiệp chúc mừng năm mới, nhưng thời buổi Internet, thiệp giấy dần dần bị thay thế bằng thiệp điện-tử (email, text messages, …).

Đầu năm, người Tây-phương còn có một tục-lệ có ý nghĩa là “ý định cương quyết” (tôi thật không biết phải dịch chữ “resolutions / résolutions” như thế nào?) : “Năm nay, tôi cương quyết sẽ… bỏ hút thuốc, xuống 10 ký-lô, đi học đàn/nhảy/nấu bếp…, bớt làm việc và dành nhiều giờ với gia-đình hơn, …”
Tinh thần của những “nghị quyết” này là mượn dịp năm mới để sống lại (rebirth / renaissance), để làm lại từ đầu (starting fresh / repartir du bon pied), là không phó mặc cho số phận mà nhất quyết làm chủ đời mình. Làm được hay không lại là chuyện khác…

Đấy, tham khảo đó đây đại khái chỉ bấy nhiêu, ăn Tết kiểu Tây phương chỉ giản-dị vậy, đến khi vào Wikipedia xem “Tết Nguyên Đán” thì sơ sơ cũng hơn chục trang.

3. Tết Nguyên Đán
(phỏng theo Wikipedia)

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt-Nam.
Chữ “Tết” do chữ “Tiết” (節) mà thành. Hai chữ “Nguyên đán” (元旦) có gốc chữ Hán: “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”.
Phong-tục, tập quán của người Á-Đông chung quanh ngày Tết thì thật phức-tạp, có thể nói là “rườm rà” nên, nhất là thời buổi này, ít có gia-đình nào, trong hay ngoài nước, áp dụng hoàn toàn được. Chúng ta cũng nên duyệt sơ qua, gọi là ôn lại chút ít truyền-thống văn-hoá của dân-tộc mình.

3.1 Những giai-đoạn chính:

Sự khác biệt giữa âm lịch và âm-dương lịch khiến cho ngày Tết ta muộn hơn Tết tây và thường rơi vào giữa ngày 21 tháng 1 (dương lịch) và ngày 19 tháng 2 (dương lịch).
“Tháng giêng là tháng ăn chơi,
tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà…”
Bài ca dao này muốn nói người ta ăn Tết không phải chỉ một ngày mồng một.

Nói đúng hơn nữa, không khí Tết đã bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo Quân). Ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà gia chủ đã làm trong năm cũ và báo cáo về Ngọc Hoàng.

Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu để chống lại quỷ dữ và những điềm gở.

Ngày Tất niên (trước Tết) có thể là ngày 30 tháng chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu).
Buổi tối ngày này, gia đình sum họp lại với nhau để ăn cỗ cúng Giao thừa, là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng giêng (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), giờ Tý là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao giữa năm cũ và năm mới và được gọi là Giao thừa.
Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.

Qua ngày mồng 1, chúng ta bước vào Tân niên (năm mới, sau Tết) và ăn Tết 7 ngày.
Ngày mồng Một tháng Giêng (còn gọi là ngày Chính đán) là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình.
Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.

Cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên.
Ngược lại, người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là “Tiền mở hàng”.
Ngày mồng Hai là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, nguời ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục “Đi sêu”.
Ngày mồng Ba là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy,
đúng theo truyền-thống
Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
hay nói cách khác
Mùng Một tết cha,
Mùng Hai tết mẹ,
Mùng Ba tết thầy.

Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt-nam.
Với quan niệm ngày mồng Một “khai trương” một năm mới, vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.
Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Nếu không tìm được người “lý tưởng” thì gia chủ tự xông đất bằng cách ra khỏi nhà rồi bước vào trở lại.

Hoá vàng: Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này (hoặc ngày mồng 5), người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, mà phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.

Ngoài ra, còn có những tục lệ khác như:
– xuất hành: lần đi ra khỏi nhà ngày đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình, có người đi du xuân luôn;
– khai xuân tuỳ theo nghề nghiệp: khai trương, khai thương mở hàng, khai ấn (nếu là người có chức tước), khai bút (học trò, sĩ phu), khai canh (nhà nông) hay… khai pháo;
– hái cành lộc: ở các nơi đền, chùa miền Bắc ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật;
– khai hạ: hạ cây nêu ngày mồng 7 Tết, chấm dứt Tết nguyên đán để sau đó bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới;
– … …

3.2 Sắm Tết – Trang hoàng

Đã gọi là Tết thì phải linh đình, năm mới cái gì cũng phải mới và đây là dịp để đi sắm Tết. Chợ Tết là những phiên họp chợ vào trước Tết, từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết Nguyên đán. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân.Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ.
Cây Tết tiêu biểu nhất là cây nêu, một loại tre cao khoảng 5-6 thước, ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy để táo quân dùng làm phương tiện về trời,…
Ngoài ra, cây quất được trang trí trong phòng khách, cây xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.

Mâm ngũ quả là một mâm có khoảng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết.
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm chuối, bưởi, đào, hồng, quýt, nhưng hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, xoài, sung, với ngụ ý “cầu sung vừa đủ xài”.

Cũng không thể quên quả dưa hấu mà An Tiêm đã mang lại cho chúng ta và đã được người Trung Hoa khen: “Hẩu”.
Hoa Tết thì không thể thiếu hoa đào (để xua đuổi ma quỷ, theo sự tích hai vị thần ở núi Sóc Sơn) và hoa mai (màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, cho sự phát triển nòi giống).
Hoa để cúng có thể là vạn thọ, cúc, huệ, … và hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hồng, thuỷ tiên, lan, cẩm chướng, thạch thảo, …

Để trang trí trong những ngày Tết, đặc biệt còn có tranh Tết và câu đối Tết.
Tranh Tết là một phần không thể thiếu và những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.

Câu đối Tết được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
(Xin mời đọc thêm về câu đối trong bài “Tôi yêu tiếng nước tôi: Chơi chữ” tháng này

Và không ai là không nhớ bài thơ “ông đồ” của Vũ Đình Liên:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay

Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?

3.3 Ẩm-thực ngày Tết

Thành ngữ Việt Nam có câu “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho “già được bát canh, trẻ có manh áo mới”. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người, nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ.
Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là “ăn Tết”.

Thức ăn mặn thì nhất định phải có những bánh truyền-thống như bánh chưng (vuông), bánh dày, bánh tét (còn gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, tròn và dài) với dưa hành, gắn liền với các sự-tích cổ thời vua Hùng.
Tôi vẫn nhớ các món ăn giỗ ông bà hay cỗ Tết người Bắc có thể có bóng bì, canh măng, chân giò, miến gà, xôi gấc đỏ, thịt gà, thịt đông với dưa muối, giò lụa, nộm, cơm rượu, …
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho, nước dừa (thịt kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày Tết. Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Miền Trung có dưa món và món tré (giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng), thịt chua và tai heo, …

Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Tôi cũng nhớ những lần cắn hạt dưa đến đỏ cả môi và tay, hạt bí, hạt hướng dương, …
Thức uống ngày Tết vẫn là rượu: rượu truyền-thống như rượu nếp thơm, nếp nương, nếp cẩm, rượu đế, … hay những rượu Tây-phương như cognac, whisky, bia, …
Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh.

3.4 Phong-tục, tập quán và sinh hoạt Tết
Phong-tục Tết thì nhiều lắm. Ngoài những gì đã đề-cập ở phần trên, còn có:

Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền để xua ma, trừ quỷ.

Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.

Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, cuối năm là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ.

Tuỳ theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những phần “lễ” và phần “hội” chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Các lễ hội truyền-thống thường có thi đấu cờ người (không phải loại của bà Hồ Xuân Hương đâu nhé), đua thuyền, đấu vật, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu…
Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, đánh đu, chọi gà và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.

Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, chắn, tổ tôm, cờ gánh, ai thích gì thì cứ chơi. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm… hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.

Còn nhiều phong-tục thất -truyền nữa như “đi sêu Tết” (trước ngày Tết, con rể tương lai mang lễ đến biếu bố mẹ vợ), lạy sống ông bà, hát sặc bùa (trẻ con nghèo đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ trống để được chủ nhà phát tiền mừng tuổi), …
3.5 Tín ngưỡng ngày Tết

Đi lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm, nhất là vào buổi sáng mồng một. Phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc.
Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miền Bắc có tục “bốc quẻ thẻ” giống như tục “xin xăm” ở phía Nam.

Người Việt ta hay tin dị-đoan.
Mong sao có những điềm lành như:
– Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh;
– Chó lạ vào nhà: theo tục ngữ “Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang”;
– Cây đào nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc;
– Cây quất nếu có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm;
… … …

Và cũng có nhiều điều kiêng kỵ nên tránh như:
– Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng và gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc;
– Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, nên giữ, không nên cho đi;
– Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc “tiền vào như nước”, nếu cho nước thì coi như mất lộc;- Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị “rông” (xui xẻo) cả năm;
– Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong);
– Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… nếu không sẽ “xúi quẩy”.
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, cãi nhau, nói xấu, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình;
Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết, kiêng mặc quần áo màu trắng và đen (màu của tang lễ);- … … …
3.6 Tết tha-hương

Tôi nhớ mãi những buổi văn-nghệ Tết bên Bỉ, bên Pháp khi tôi còn là du học sinh, bao giờ cũng vừa vui, vừa buồn. Vui vì có dịp vui chơi với bao nhiêu bạn bè, buồn vì có vui mấy cũng chỉ là vui “tạm bợ” nơi xứ người, xa gia-đình, xa quê-hương.
Và bây giờ tôi vẫn “phải” tiếp tục vui Tết tha hương.

Người Việt hải-ngoại nếu không có điều kiện về Việt Nam cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa.
Những nơi đông Việt Nam như quận Cam, San Jose, Houston, Cabramatta-Úc, Paris, … cũng có chợ Tết, chợ hoa, những khu thương xá cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, …, cũng có đốt pháo, múa lân, …
Các cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa, các giáo xứ, các hội sinh-viên, … có tổ chức Hội tết và ca nhạc văn nghệ Tết.
Chúng tôi có dịp đi giúp vui văn-nghệ trong những buổi Tết cộng-đồng, thường có đốt pháo, múa lân, ăn uống (món ăn Tết), bầu cua, cá cọp, lì xì cho trẻ em, văn nghệ thường có nhạc Tết, nhạc quê-hương, cải lương, nhạc vui, có những màn múa thanh thiếu niên và trẻ em.

Hội Tết nào cũng thật vui, nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy bùi ngùi, không hiểu vì sao?
Con người “xa mặt, cách lòng” và dù muốn dù không, xa quê-hương, chúng ta cũng mất mát đi một chút gì văn hoá truyền-thống của mình.
Tết ngày hôm nay nơi xứ người, chúng ta còn giữ được những gì trong tất cả những phong-tục, tập quán của người Việt-Nam ta? Còn giữ được bao lâu?
Vui buồn lẫn lộn.

Yên Hà,

tháng Giêng, 2014

NÓ…

NÓ…

Mẩu Bút Chì

Nó lớn lên đơn sơ như bông cúc dại. Mọi thứ trôi vào đời nó cứ tự nhiên như vốn dĩ phải thế – kể cả cái nghèo xác xơ, hay cái bản ngã yếu đuối của con người.

Nghĩ cũng lạ, lúc bé thơ chẳng biết gì, thế nhưng người ta luôn muốn làm ngược lại ý muốn của người lớn: Nếu người mẹ muốn giữ đứa bé nằm yên trong chiếu, chắc chắn nó sẽ cố tìm cách bò ra ngoài; khóa cửa trước giữ nó trong nhà, nó sẽ luồn cửa sau chạy ra ngõ… Dường như có một “sức hút” mãnh liệt từ những thứ ngoài tầm tay của con người, và ý chí muốn thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa như một phản xạ tự nhiên.

Lúc nhỏ nó vẫn nghĩ rằng làm trẻ con thật mất tự do, phải làm cái này, không được làm cái kia. Nhất nhất mọi việc phải theo ý muốn của người lớn. Làng quê nó thời ấy nghèo lắm, làm gì có ti vi trong nhà để giải trí. Thỉnh thoảng ở sân bãi mới chiếu một bộ phim trắng đen để mọi người đến xem. Thế là trong làng y như có hội! Hiếm lắm mới có một bộ phim màu. Chẳng cần biết phim gì, của ai, miễn là “phim màu chiến đấu” thì kể như trẻ con cả làng không thể ngồi yên. Nó cũng háo hức chẳng học hành gì được. Thế nhưng ba nó “phán một lời” thì anh em nó phải ở nhà hết! Có khi nó liều lĩnh trốn đi xem vì phim hay quá, chịu trận đòn cũng đáng! Nhưng lắm lúc nó tức anh ách vì phải bị đòn mà chỉ xem được cái loại “phim màu lợt lợt, chiến đấu sơ sơ”!!! Lúc đó, nó chỉ ước sao lớn thật nhanh. Trong nhận thức non nớt của mình, nó nghĩ người lớn muốn làm gì cũng được. Từ đó, trong lòng nó ấp ủ “giấc mơ giải phóng”. Với nó thuở ấy, tự do là được làm theo những gì mình muốn. Đơn giản vậy thôi!

Ở đời người ta thường đứng núi này trông núi nọ. Lúc bé nó ước được làm người lớn, khi lớn rồi mới hay cuộc đời không như nó tưởng. Nếu như lúc bé nó chỉ chịu sự ràng buộc và điều khiển bởi cha mẹ, người thân – là những người luôn thương yêu và muốn nó nên người – thì khi lớn lên, nó lại bị ràng buộc và điều khiển bởi những thứ “lạnh như tiền”.

Nó đi tìm bầu trời, nhưng hình như đường đời (hay chính cái bản ngã yếu đuối của nó) chỉ dẫn đưa nó vào những chiếc túi. Khó hiểu quá, nó hiểu không tới. Rõ ràng chẳng có gì sai khi nó muốn tìm kiếm một cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn. Cũng không có gì đáng trách khi nó muốn ăn ngon, mặc đẹp, chạy xe xịn. Nhưng tự trong lương tâm, hình như nó thấy có cái gì đó chưa đủ. Nó mơ hồ tự hỏi: “Liệu chỉ có những thứ làm thỏa mãn, đã đầy thân xác này, có làm cho nó trở nên NGƯỜI hơn chăng? Hơn nữa, NGƯỜI còn là hình ảnh của Thiên Chúa – chứ không “người” theo ngôn ngữ hài hước của “hội thui rơm” rằng: “Sống trên đời (làm người) ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?” Hoặc “người” theo kiểu nó vẫn thường nghe người đời ao ước: “Sống đời này sắm được nhà lầu xe hơi thì có chết cũng mãn nguyện kiếp người”.

Nó suy tư dữ dội hơn: Vượt thắng những trở lực để đạt được những thứ mình khao khát có phải là chạm được đến tự do, đã THÀNH NGƯỜI? Và nếu là thế thì hình như thứ tự do đó cũng phụ thuộc vào cách người ta nhìn đời, phụ thuộc vào cái nghĩa làm “người” mà mỗi người muốn trở nên. Đó là một kiểu tự do dễ đổi thay, dễ tan vỡ theo cảm tính con người.

Nó vẫn chưa tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của một con người có tự do. Nó vẫn thường nghe người ta nói “đấu tranh cho tự do” để con người được sống xứng với nhân phẩm của mình: tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại v.v… Tự do là một phần của nhân quyền. Những điều này rõ ràng là chính đáng và cần thiết. Đó là những mảng của tự do. Nhưng hình như những thứ đó vẫn chưa đủ, chưa diễn tả hết được những chiều kích của tự do.

Giả tưởng có một cấu trúc xã hội tiến bộ, nơi đó con người có thể có được tất cả những quyền tự do chính đáng, có điều kiện để phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội, thì liệu rằng nơi thẳm sâu trong lương tâm và linh hồn, con người có được bình an tự tại? Con người có nhờ vào đời sống xã hội ấy mà được giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham – sân – si, của ích kỷ, của sự nặng nề thuộc tính xác thịt để có được một sự tự do tròn đầy, viên mãn?

Nếu điểm xuất phát của đời người là thế gian và cũng kết thúc ở thế gian này, thì tất cả chỉ là phù hoa và ngõ cụt tối tăm: Chỉ toàn lo âu, đau khổ, vật lộn để dành được những thứ dễ hư nát. Nếu có được giàu sang, sung sướng, cũng không ai thoát được hành trình sinh – bệnh – lão – tử, sinh ra trong tiếng khóc của chính mình và chết đi trong tiếng khóc của người thân.

Tự do ở đâu? Ai có thể giải thoát nó ra khỏi sự ràng buộc ấy? Ai có thể tách được nó ra khỏi những khôn ngoan duy lý, những toan tính đo lường dựa trên tài năng và sức lực – vốn là những cái nay còn mai mất – rồi gắn niềm vui và hạnh phúc đời mình vào đó, phập phồng lo âu? Ai có thể cho nó cái tự do thẳm sâu trong tâm hồn, vượt lên tất cả các chiều kích vật chất thường tình của con người? Còn ai làm được điều đó ngoài Đấng đã tác tạo nên nó, có quyền năng trên linh hồn và thân xác nó, và chờ đón nó nơi cõi vĩnh hằng?

Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô. Ngài đã đến thế gian làm NGƯỜI và đã chết để muôn người được sống, trong đó có nó. Nó phải sống phó thác vào Đấng ấy: Tự do của nó là nương theo ý Ngài.

Có anh bạn nhìn nó ái ngại. Rằng nó nên hòa mình vào xã hội, xây dựng xã hội bằng ngôn ngữ và chuẩn mực chung của mọi người. Đâu phải ai cũng thờ Chúa như nó! Nó thấy hổ thẹn trong lòng: Giá mà lúc nào nó cũng yêu Chúa được như nó nói, như bề ngoài người ta thấy về nó. Phải, nó phải hòa mình vào xã hội, nhưng không vì thế mà phải che giấu Thiên Chúa, Đấng đã cứu độ cuộc đời nó. Chân nó phải chạm đất, phải bám rễ vào xã hội và làm cho xã hội ấy phát triển, nhưng nó không thể quên rằng mắt nó phải hướng về trời cao, nếu không, Thiên Chúa chết cho nó là vô nghĩa và vô ích! Nó phải “mở” nó ra cho người ta thấy Chúa, thấy lòng thương xót vô bờ Người đã đổ xuống đời nó.

Ước chi mỗi ngày trong đời này, nó đều có thể phô bày được một chút ánh sáng lung linh mà Chúa đã thương nhen nhóm trong nó. Chút ánh sáng ấy chính là thứ tự do trong vắt, thoát khỏi những âu lo của đời sống trần tục nhờ vào lòng tín thác – đức tin. Ánh Sáng ấy không phải từ nó, mà phát xuất từ Đấng ngự trong nó…

( trích tập san Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo số 11)

Tác giả: Mẩu Bút Chì

NGƯỜI CHẾT KHÔNG… ĂN

NGƯỜI CHẾT KHÔNG… ĂN

Truyện ngắn của Hồ Thuỷ

Vừa mới sáng sớm, bên nhà người láng giềng đã nhộn nhịp chuẩn bị làm đám giỗ chung cho cả ông bố và bà mẹ; nghe nói chết cũng đã chục năm nay, và năm nào cũng làm đám giỗ thật lớn, mời xóm giềng, bạn bè, người thân rồi còn anh em bà con…đông lắm, đâu chừng mười bàn lận đó.
Gia đình tôi dọn về đây chưa tới một năm, nhà tôi sát ngay bên phải nhà “cố cựu” mà hôm nay có đám giỗ; ông bà chủ nhà tên là Hướng, mẹ tôi thường nói :
– Bà con xa không bằng láng giềng gần.
Rồi mẹ còn dạy thêm một câu:
– Bán anh em xa mua láng giếng gần.
Vì vậy khi vừa mới dọn về mẹ đã qua làm quen, chào hỏi và dần dần thân thiện với nhà bên ấy.
Hôm qua bà Hướng mời cha mẹ và luôn cả mấy chị em tôi trưa nay qua nhà bà “ăn đám giỗ”, sáng nay mẹ đi chợ mua một giỏ trái cây loại ngon nhất và sai tôi đem qua trước để cúng, mẹ dặn dò tôi:
– Con phải thắp nhang vái lạy cung kính trước bàn thờ Ông Bà, rồi về nhà phụ với mẹ nấu cơm cho các em, biết rằng người ta mời cả nhà mình nhưng mình cũng phải giữ ý giữ tứ, mẹ qua bên ấy phụ với bác gái, chừng cha đi làm về thì qua sau, cón các con thì ăn cơm ở nhà.
Nhà bác ấy khá rộng, có hai tầng lầu, đám giỗ đãi mười bàn, phía trong phòng khách kê được sáu bàn, còn bốn bàn thì kê nhờ trước hiên nhà của hai bên hàng xóm. Thời đại mới này; hơn nữa lại ở Sài Gòn thì cái chuyện người nhà phải lo nấu nướng mỗi khi có đám tiệc là coi như:-“xưa rồi Diễm”, chỉ cần Alô cho dịch vụ nhóm nấu ăn là được đáp ứng ngay, món gì cũng có, tùy theo túi tiền của gia chủ mà ngon nhiều hay ngon ít.

Tôi không còn nhỏ, cũng chưa hẵn là lớn, nhưng trí óc thì cũng đã biết nhận định được nhiều điều phải và không phải. Mang trái cây sang nhà bác và đặt trước bàn thờ ông bà cụ, tôi thắp ba cây nhang rồi cung kính vái lạy ba cái như lời mẹ dạy, khói nhang nghi ngút làm cay sè chảy nước mắt, nhưng tôi cũng ráng cố gắng nhìn lên mặt hai cụ, bởi vì tôi có tánh xấu ưa tò mò quan sát nọ kia, mặc dù tôi là con gái, hình hai ông bà cụ được lộng chung vào một cái khung viền vàng lộng lẫy, trong hình không ai cười mà nét mặt lại rất nghiêm nghị, ánh mắt có vẻ buồn. Trước bàn thờ của ông bà cụ đã bày sẵn một cái bàn; trên bàn bày biện rất nhiều thức ăn ngon, lạ, nhìn thôi cũng đủ thèm, thật là hấp dẫn, lại có thêm một bình trà, rượu và ly tách chén bát bông hoa, trái cây…không thiếu thứ gì.
Hình như hai cụ…khóc thì phải?… hình như tôi thấy trong bốn khóe mắt của hai cụ long lanh bốn giọt nước?…và hình như nó sắp sửa…rơi ra?… Tự nhiên tôi nổi da gà, lạy hai cụ thêm một lạy và chạy nhanh ra khỏi phòng thờ. Có mấy người đang đi vào thắp nhang xá xá mấy cái. Không biết có ai thấy điều tôi vừa thấy? Hay tại tôi tưởng tượng mà ra?

Người đến “ăn” đám giỗ của hai cụ đông quá trời, đàn ông đàn bà ai nấy cũng quần là áo lượt, cũng son phấn chưng diện ngất trời, xịt nước hoa thơm phưng phức…đến ăn giỗ của người chết mà như đi ăn đám cưới của người sống vậy đó, mọi người nói cười rôm rã, họ đang cố nhớ ra một kỷ niệm nào đó đã có với người chết; vui hay buồn gì cũng được, miễn là có để kể cho nhau nghe, nhưng mà ông bà cụ già lắm rồi – ngoài bà con, con cháu và một số rất ít người hàng xóm biết về hai cụ – còn những người khác khi được mời đến ăn giỗ thì phần đông họ còn trẻ,hoặc mới dọn đến như gia đình tôi, câu đầu tiên khi nhắc hoặc kể về hai cụ hầu như đều bắt đầu bằng ba chữ: “ – Tui nghe nói…”.
Đám giỗ vui thật, rất ồn ào náo nhiệt, tôi nghĩ thầm trong đầu: mổi năm nên làm một lần để nhớ đến người đã khuất bóng, nhưng mà…
Mẹ tôi qua nhà bác, thật giản dị trong cái áo bà ba và quần xoa đen, mẹ đẩy tôi về nhà, mắng nhỏ vào tai tôi:
– Về nhà mà ăn cơm với các em, đứng chi ở đây đặng mà nhiều chuyện. Để mẹ vào phụ với bác gái.
Thật tình thì mẹ cũng biết rỏ là tôi ham đông vui. Nhưng sao hai giọt nước trong hai khóe mắt của các cụ cứ ám ảnh tôi mãi.

Tôi và hai đứa em lóng ngóng nhìn qua nhà bác Hướng, phê bình khách này khách nọ đẹp xấu…lung tung, có một bà sồn sồn trắng trẻo sang trọng, hình như là Việt kiều thì phải, bà ta ngồi gần mẹ tôi, nói cười thật rôm rã và hào hứng, tôi nghe câu được câu mất nhưng nếu gom góp lại thì cũng biết chút chút…
Những người đàn ông cùng nhau nâng ly lên, “hồ hỡi phấn khởi” mà hét to:
-…Dô…”chăm” phần “chăm”…dô…uống hết à nghen, không hết là bị phạt à nghen…dô…
Mặt người nào người nấy trông đỏ như gấc. Bia rượu khui ra không tiếc tay, thức ăn ê hề phủ phê. Một sự thừa mứa không nên có.
Em gái kế tôi nói :
– Chị Hai nè, nhà bác ấy làm đám giỗ lớn quá ha, em thấy nhà mình cha mẹ có bao giờ làm đám giỗ cho ông bà nội ngoại lớn như vậy đâu, năm nào cũng chỉ đãi chừng hai hoặc ba bàn thôi hà, mà chỉ toàn là bà con…
Em trai út ngây thơ trả lời thay tôi:
– Tại cha mẹ đâu có nhiều tiền như nhà bác ấy…chị Hai nhỉ. Mà sao làm đám giỗ hai người cùng một ngày?
Tôi không trả lời, tôi nghĩ không phải tại cha mẹ tôi không có nhiều tiền để làm đám giỗ to, cũng như tôi không biết tại sao hai cụ cùng được giỗ chung một ngày.
Tàn đám giỗ mẹ tôi lại phụ bác gái dọn dẹp nhà cửa. Nhờ được mời “ăn giỗ” hôm nay nên mẹ tôi biết được rất nhiều chuyện bên nhà bác Hướng; vì đây là lần đầu tiên mẹ tôi được bác mời qua nhà (ăn đám giỗ).

Bốn giọt nước trong bốn khóe mắt của hai ông bà cụ rơi xuống, lọt ra ngoài khung hình rồi nhập lại thành một giọt nước to đùng, giọt nước ấy lăn tròn… lăn tròn… nhảy nhót lưng tưng như trái pingpong dội trên nền xi măng, lúc đầu nó tròn vo sau đó thì méo mó biến dạng, nó bám theo chân bàn rồi trườn lên những dĩa thức ăn đặt trước bàn thờ, nó luồn lách, lùng sục, ngọ ngoạy và ngoáy sâu vào kẻ hở của tất cả những món ăn, hết đĩa này nó lại bò qua đĩa khác; không bỏ sót một dĩa nào, rồi từ dưới lòng những dĩa thức ăn đó nó laị rướn mình chui ra để leo lên ly rượu, và như một cái lưởi dài nó liếm quanh miệng ly; quậy sâu xuống đáy ly, sau đó thì nó bò qua dĩa trái cây, biến dạng thành hình lưỡi dao nhọn để chui vô trong ruột của từng trái, cuối cùng thì nó lảo đảo ngả nghiêng té nhào vào tách nước trà…Giọt nước mắt rong chơi trên mâm cơm cúng chừng như cũng đã thỏa thuê, nó quay lại bò lên bàn thờ, tách ra làm bốn giọt nước nhỏ như trước rồi trườn lên khung hình để trở về vị trí cũ, nơi nó đã thoát ra: đó là bốn khóe mắt của hai ông bà cụ…

Tôi giật mình tỉnh dậy, trán đẩm mồ hôi, thì ra đây chỉ là giấc mơ, một giấc mơ kỳ quặc hết sức nhưng cũng làm tôi sợ điếng người. Các em tôi đã ngủ say, tôi lần mò trong bóng tối để xuống bếp kiếm nước uống…
Có tiếng nói chuyện của cha mẹ tôi, dù rất nhỏ nhưng trong đêm khuya thanh vắng tôi nghe thật là rõ…

– Mình à, ông bà cụ nhà bác Hướng tội nghiệp ghê vậy đó. Em nghe kể mà thương.
– Úi chà, em lúc nào mà chẳng thương vay khóc mướn.
– Anh kỳ quá đi…em nghe kể chuyện về ông bà cụ ấy mà xót xa, anh để yên nghe em kể lại…
…Cụ có ba người con, hai gái một trai, hai người con gái ở nước ngoài, thay nhau mỗi người về một lần vào dịp đám giỗ, mà lạ lắm anh, cụ bà mất trước cụ ông một năm nhưng ngày mất thì xê xích nhau chút đỉnh nên chi gộp chung lại làm đám giỗ hai ông bà một ngày cho tiện.
Cha tôi cười:
– Hì hì…em đúng là bà tám…
– Đã nói im nghe người ta kể…
– Kể ngắn gọn thôi, anh buồn ngủ lắm rồi đó nghen…
– Ừ, thì nghe tiếp đây, lúc còn trẻ hai cụ nghèo khổ lắm. Ông đạp xích lô còn bà bán ve chai, nhờ chịu khó với lại cần kiệm nên từ từ tích cóp được ít tiền mua một cái nhà rách trong hẻm, rồi lại chịu thương chịu khó cần kiệm để dành tiền phá cái nhà rách xây được ngôi nhà nhỏ…nói chung hai ông bà giỏi tiết kiệm, dè xẻn từng đồng, lại chịu khó lo làm lụng vất vã nuôi con ăn học, từ từ bán nhà trong hẻm, mua nhà mặt tiền đường rồi mở cửa hàng buôn bán, ngày càng giàu. Bác Hướng là con trai lớn có cấp bằng cử nhân lận đó anh, bác vừa ra trường là có việc làm và ngay lập tức bác cưới vợ, ông bà cụ cho ra riêng nhưng vợ bác ấy làm ăn thất bại, họ bán nhà quay về xin ở chung với hai cụ để gọi là “phụng dưỡng cha mẹ già”…
– Chuyện bình thường thôi, có gì đâu mà tội nghiệp ông bà cụ?
Mẹ tôi gắt:
– Anh này, yên nghe em kể tiếp…còn hai cô con gái lấy chồng rồi theo chồng ra nước ngoài; người thì vượt biên, người thì đi theo diện đoàn tụ, hai bà này cũng thương bố mẹ, bảo lãnh cho hai cụ qua định cư ở Mỷ, vì vậy hai cụ giao hết nhà cửa cho anh trai lớn. Nhưng qua Mỹ buồn quá chịu không nổi vì suốt ngày phải ở trong nhà, cứ luân phiên tháng này thì ở nhà đứa này, tháng sau qua nhà đứa khác…như con thoi, mà qua nhà người nào đi nữa thì cũng chỉ ở trong nhà, đâu dám ra đi ra đường, một tiếng Mỹ cắn đôi cũng không biết, gặp thằng Mỹ nào hỏi gì thì chỉ gật gật lắc lắc: – ô kê… ô kê… dét… dét…nô…nô…
…Cuối cùng hai ông bà về lại VN, ở lại trong chính căn nhà của mình nhưng nay là nhà của con trai và con dâu. Anh à, em đâu ngờ chị Hướng mà ghê gớm đến như vậy, còn anh Hướng thì quá nhu nhược và sợ vợ. Hai ông bà cụ ở chung mà ăn riêng đó nghen, cái phòng của hai cụ bị dời lên trên lầu, ông bà cụ nhờ khéo chắt chiu dánh dụm, cất dấu nên có được một ít tiền rồi đem gởi tiết kiệm, lấy lời hàng tháng để tiêu xài, không ngữa tay xin xỏ con cái. Thời gian đầu họ cũng có chăm lo cho ông bà cụ, nhưng từ từ những bữa cơm trở nên trễ nải, lắm khi hai cụ phải chờ đợi,chầu chực…còn về phần thức ăn thì…nghe nói tội lắm anh, con dâu nấu gì ăn đó, đôi khi vợ chồng con cái bác ấy ăn đâu ngoài đường toàn là thứ ngon, nhưng về nhà chỉ luộc cho ông bà cụ cái hột vịt dằm với nước mắm…Thời gian sau cô con dâu lấy cớ bận rộn nên không nấu nướng cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng được, thôi thì ai ăn người đó nấu cho tiện, vậy nên chi trên lầu, ngoài phòng hai cụ có thêm cái bếp…từ đó hai ông bà già lụm cụm lủi thủi lo cho nhau…
Bây giờ thì có tiếng thở dài của cha tôi, mẹ tôi kể tiếp:
– Bà cụ bịnh rồi mất, nghe đâu lúc mất cũng bảy sáu tuổi, một năm sau thì ông đi theo bà…Em nghe nói đám ma của cụ ông lớn lắm anh à, tốn hết mấy cây vàng lận đó.
Cha tôi thở hắt ra thật mạnh nên tôi nghe thật rõ:
– Sống không cho ăn uống đàng hoàng đầy đủ, chết rồi thì làm đám ma cho lớn, đám giỗ linh đình mà chi, người đã chết rồi nào có ăn được gì đâu, trước tiên là để cho ruồi bu kiến đậu, sau đó tới phiên mình ăn… Người già khi còn sống cũng chẳng ăn được nhiều, chừng hai lưng chén cơm là cùng, khi chết rồi…khỏi ăn được luôn.
Mẹ tôi nói một cách mĩa mai:
– Có lẻ bác ấy nghĩ rằng phải lo hầu hạ…một năm đến ba trăm sáu mươi lăm ngày thì…mệt, thôi thì dồn lại để dành đến lúc chết, mổi năm chỉ lo một ngày Giỗ thôi, vậy nên phải làm cho linh đình để mọi người biết mình có hiếu với cha mẹ.
Cha tôi tiếp lời:
– Em…cũng “bà tám” thật đó, nhưng thôi, anh khuyên em không nên qua lại nhiều với nhà bác ấy, cũng như không nên “tám” chuyện với hàng xóm láng giềng, dễ sinh mích lòng, mình chỉ nên sơ giao thôi em à. Chuyện thị phi nói mấy cũng không vừa bụng thiên hạ, ai thì cũng ưa bới móc cái xấu của nhau ra để hạ bệ nhau…”Đèn nhà ai nấy sáng”, biết đâu họ cũng xấm xì bươi móc chuyện nhà mình?…anh sợ nhất những bà ưa ngồi lê đôi mách…đốt nhà người ta cháy như chơi…
– Em biết rồi…anh nè, cũng may lúc Tứ Thân Phụ Mẫu của tụi mình còn sống, anh thì lo cho cha mẹ em đầy đủ nên được tiếng là “Rễ thảo”, còn em thì lo cho cha má anh chu đáo nên được khen là “Dâu hiền”, tụi mình đều không để cho cha mẹ hai bên phải thiếu thốn thèm thuồng…
Mẹ hỏi cha một câu làm cho tôi phát ớn sau gáy:
– Anh có để ý hình của cha mẹ hai đứa mình không? Đôi con mắt của các cụ lúc nào cũng vui, mỗi lần nhìn vào là em thấy như các cụ đang cười. Còn đôi mắt của hai ông bà cụ bên ấy…lúc lên thắp nhang…em thấy mắt các cụ ướt như là muốn khóc, nó buồn rười rượi ghê vậy đó; anh à.
Cha tôi trở mình trên giường và trả lời mẹ:
– Người già rất nhạy cảm và thường dễ tủi thân, mà ai thì cũng phải già…mà thôi…ngủ đi em, khuya lắm rồi.
Mẹ tôi cố nói thêm một câu cuối cùng nhưng rất quan trọng:
– Làm con phải để chử Hiếu lên hàng đầu, trả Hiếu cho cha mẹ thì phải trả lúc cha mẹ còn sống, không chỉ là “cơm bưng nước rót” mà còn là cách đối xử có đạo nghĩa hay không? Có làm vừa lòng đẹp ý cha mẹ hay không?. Đạo Chúa hay Đạo Phật cũng dạy con người ta phải “ làm tròn chừ Hiếu mới là Đạo con”, đừng nên lấy sự bận rộn ra mà làm cái cớ để trốn tránh bổn phận làm con…thôi, em ngủ đây.

Tôi thức một đêm để suy nghĩ, câu chuyện cha mẹ nói trong đêm khuya mà tôi tình cờ nghe lóm được, nó như một thông điệp gởi đến cho tôi, rồi từ nơi tôi nó sẽ đến với các em của tôi. Tôi thật sự rất xúc động và vui mừng. Sẽ không muộn màng khi tôi biết được điều mình CẦN, NÊN và PHẢI làm đối với cha mẹ lúc NGƯỜI còn sống.
Gần sáng tôi mới viết xong một lá thư gởi cho cha mẹ đọc, lá thư tôi đẩy vào khe cửa phòng ngủ của cha mẹ, thế nào cha mẹ tôi cũng đọc nó trước khi ra khỏi phòng. Thư rằng:

“Cha mẹ kính yêu, con biết con phải làm gì để báo hiếu cho cha mẹ rồi, con sẽ làm cho cha mẹ vui lòng đẹp ý. Cầu xin Chúa Mẹ ban cho cha mẹ có được nhiều sức khỏe để sống lâu với tụi con, con cũng sẽ dạy hai em con biết giữ tròn chử HIẾU ngay lúc cha mẹ còn sống. Mai sau khi cha mẹ qua đời, đến ngày giỗ của cha mẹ chúng con sẽ không làm cho lớn đâu, vì khi đó cha mẹ chết rồi, đâu có ăn được. Bây giờ chúng con sẽ cố gắng học thật giỏi, giúp đỡ cha mẹ công việc nhà…Mai này khi học xong đi làm có tiền con sẽ không để cha mẹ phải thiếu và thèm cái gì hết.
Con thương cha mẹ vô cùng.”

Không cần viết tên tôi vào đó, vì cha mẹ tôi đâu còn lạ gì nét chữ của tôi, chữ tôi viết không đẹp cho lắm nhưng rất rõ ràng, dễ đọc.

HỒ THỦY (SAIGON)

Người Tù Binh Trở Về

Người Tù Binh Trở Về

Thanh Vân phóng tác theo “Le retour du prisonnier” của André Maurois

tubinh

Sau đây là một câu chuyện có thật. Chuyện xảy ra vào mùa xuân 1945, trong một thành phố của nước Pháp tạm gọi là Chardeuil, mà vì những lý do ngoài ý muốn ,chúng tôi không thể nêu tên thật ra được.

Câu chuyện bắt đầu từ trên một chuyến xe lửa chở những người tù Pháp từ Đức trở về. Họ ngồi từng nhóm 12 người một trong những toa tàu chỉ để dành cho mười người mà thôi. Vì vậy, họ phải ngồi thật sát vào nhau, nhưng chẳng ai để ý hay tỏ dấu phiền hà gì về chuyện đó cả. Mọi người, tuy đã kiệt sức vì những năm tháng tù đày và chuyến hành trình quá dài, vẫn thấy lòng nôn nao hạnh phúc vì họ biết rằng, sau năm năm vắng nhà , họ đã về lại được Quê Hương, sẽ được nhìn lại mái nhà yêu dấu và nhất là sẽ được gặp lại gia đình.

Hình như trong đầu óc của mọi người, hình ảnh nổi bật nhất là hình ảnh người đàn bà, người vợ thương yêu mà họ đã phải xa vắng mấy lâu nay. Mặc dù phần đông đều nghĩ về vợ mình với tất cả lòng thương nhớ , nhiều người vẩn không giấu nổi sự lo lắng, bồn chồn. Không hiểu người vợ có còn như xưa , vẩn trung thành hay đã thay đổi ? Vợ họ đã chứng kiến những gì , đã làm gì trong thời gian họ vắng nhà ? Không hiểu sự cô đơn kéo dài có làm cho họ sờn lòng và phản bội lại người chồng đang bị cầm tù ở một nước khác hay không ? Những người tù đã có con thì còn cảm thấy yên bụng , dù sao vợ họ vẩn còn phải chăm sóc con cái và không thể sống buông thả , tự do quá được. Những đứa con là những sợi giây ràng buộc giúp họ thoát khỏi sự cô đơn và cám dỗ trong những ngày xa nhau.

Trong góc trái của toa xe, một người đàn ông cao lớn nhưng gầy ốm ngồi thật yên lặng, đôi mắt ông sáng ngời trong khuôn mặt căng thẳng vì chờ đợi và suy tư. Đó là ông Renaud Leymarie, quê quán ở Chardeuil thuộc miền Nam nước Pháp. Con tàu vẫn chạy đều trong đêm tối , tiếng còi tàu cùng tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt càng làm cho lòng người ly hương đang trở về thêm bồn chồn, háo hức. Người đàn ông chợt nói với người bạm đồng hành ngồi sát bên ông ta :

-Anh đã có vợ chưa hở anh Saturnin ?

-Tôi đã có vợ hai năm trước chiến tranh và đã có hai con . Vợ tôi tên Marthe! Anh muốn xem hình nàng không ?

Saturnin là một người đàn ông nhỏ bé và vui tính. Anh ta rút từ trong chiếc ví cũ ra một tấm hình đã bị rách vài nơi.

-Vợ anh đẹp quá! Leymarie nói. Anh có lo lắng gì trong lần trở về này không ?

-Lo lắng ? Tôi điên lên vì mừng thì có! Tại sao lại lo lắng ?

-Tại vợ anh đẹp, vợ anh lại ở nhà một mình và ngoài đời có thật nhiều đàn ông.

-Anh làm tôi buồn cười quá! Không có một người đàn ông nào khác trong đời vợ tôi cả! Chúng tôi đã từng sống thật hạnh phúc bên nhau. . . Anh có muốn xem những bức thơ vợ tôi viết cho tôi suốt trong năm năm nay hay không ?

-Thơ từ chẳng chứng minh được gì cả. Tôi cũng vậy, tôi đã nhận được thật nhiều những lá thơ thật đẹp, thật nồng nàn . Vậy mà sao lòng tôi vẫn cảm thấy lo lắng ?

-Bộ anh không tin tưởng ở vợ của anh hay sao ?

-Có chứ!. . .! Lúc đầu mới xa nhau , tôi không tin ai bằng tin vợ tôi cả. Chúng tôi đã ở với nhau sáu năm và trong thời gian đó , chưa có một đám mây nào có thể làm vẩn đục được hạnh phúc của chúng tôi. . .

-Vậy tại sao bây giờ. . . ?

-Đó chỉ là chuyện thường tình thôi ông bạn ạ! . . . Tôi là một người không khi nào tin tưởng được vào hạnh phúc của chính mình. . . Tôi lúc nào cũng nhủ thầm rằng Hélène, vợ tôi, quá đẹp, quá tuyệt vời, quá thông minh đối với một người như tôi. Nàng là một người có kiến thức rộng và hình như chuyện gì có bàn tay nàng nhúng vào đều thành công tốt đẹp cả. Nàng cầm khúc vải, khúc vải biến ngay thành cái áo thật đẹp, nàng trang hoàng một túp lều , nó sẽ biến thành một thiên đàng nơi hạ giới. . . . Vì vậy, trong lúc chiến tranh , có thật nhiều người đàn ông đã đến thành phố này ẩn náu. . . Và trong những người đó, có biết bao nhiêu người hơn tôi trên tất cả mọi phương diện. . . Lại còn những người ngoại quốc , những người lính đồng minh. . . Họ tất nhiên đã phải để ý đến ngay người đàn bà đẹp nhất thành phố. . .

-Rồi có làm sao đâu ?. . . nếu vợ anh vẫn yêu anh ?

-Anh bạn nói rất đúng ! Nhưng anh thử đặt địa vị của anh vào địa vị của nàng. Năm năm sống cô đơn, thêm nữa, thành phố này đâu phải là thành phố của nàng. Tôi yêu nàng, cưới nàng và nàng về đây ở với tôi mà thôi! Nàng không có gia đình hay anh em bà con gì cả. Sự cám dỗ, vì vậy, sẽ mãnh liệt vô cùng. . .

-Anh làm tôi buồn cười! Đầu óc anh thật lộn xộn. . . Vả lại, nếu có chuyện gì xảy ra đi nữa thì có chi quan trọng đâu một khi nàng đã quên, đã bỏ hết tất cả khi anh trở về ? Anh biết không, nếu có ai nói với tôi chuyện gì về Marthe , vợ tôi, tôi sẽ nói ngay “Đừng nói gì thêm nữa. . . . Người đàn bà ấy là vợ tôi và khi đó chiến tranh đang xảy ra , bây giờ hòa bình đã trở lại. . . Chúng tôi đang khởi sự lại từ đầu. . . “!

-Tôi không thể nào làm như anh được! Leymarie trả lời. Nếu khi về đến nhà mà tôi biết có chuyện gì đã xảy ra trong thời gian tôi đi vắng, dù bất cứ chuyện gì. . .

-Thì anh sẽ làm gì ? Bóp cổ vợ chăng ? Giết vợ à ? Bộ anh đã khùng chưa ?

-Không, tôi sẽ chẳng làm cái gì cả! Tôi cũng sẽ chẳng trách móc một lời. Nhưng tôi sẽ biến khỏi thành phố ngay!Tôi sẽ đi làm lại cuộc đời ở một nơi thật xa , với một tên họ khác. Tôi sẽ để lại tiền bạc , nhà cửa cho nàng. . . Tôi chẳng cần gì . Có lẻ tôi hơi ngu ngốc. Nhưng tánh tôi như vậy, một là có tất cả , hai là chẳng có chút gì. . .

Một hồi còi tàu rú lên. . . Tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt . . . Tàu đã vào sân ga.Hai người đàn ông chợt trở nên im lặng.

****************

images (4)

Ông thị trưởng của thành phố Chardeuil cũng là ông giáo của trường học duy nhất trong thành phố. Đó là một người đàn ông thật tốt bụng, cẩn thận, thích giúp đở những người chung quanh. Khi ông ta nhận được giấy của bộ quốc phòng thông báo ngày 20 tháng Giêng sẽ là ngày mà Renaud Leymarie trở về Chardeuil trong chuyến tàu lửa đi về miền Tây Nam , ông đã đến báo tin ngay cho vợ ông này biết. Ông gặp vợ của Renaud đang săn sóc khu vườn nhỏ. Đó là khu vườn đẹp nhất thành phố với những bụi hồng đủ màu sắc trồng dọc theo hàng rào và hai cây hồng leo màu đỏ thẫm bao bọc hai bên khung cửa ra vào.

Ông thị trưởng nói với nàng:

-Tôi biết bà không thuộc thành phần những bà vợ mà tôi phải báo trước ngày trở về của chồng để họ khỏi bị những bất ngờ không được tốt đẹp. . . Tôi cần phải nói thêm rằng , nếu như bà cho phép, tôi phải xác nhận là sự kín đáo , đoan trang của bà đã làm cho cả thành phố này khâm phục. . . Ngay đối với cả những người đàn bà ngồi lê đôi mách , chỉ thích đi tìm hoặc bịa đặt những chuyện xấu xa của những người đàn bà khác để bươi móc, dè bỉu, họ cũng không thể nào tìm được sự gì để có thể nói xấu bà. . .

-Thưa ông thị trưởng, nói vậy chứ rồi người ta cũng sẽ tìm ra được một chuyện gì để chê trách tôi. . . Nàng tươi cười trả lời.

– Tôi cũng đã từng có ý nghĩ như vậy, nhưng thật tình, bà đã hoàn toàn chinh phục được tất cả mọi người. Nhưng tôi đến đây không phải vì chuyện đó, tôi chỉ đến đây để báo tin mừng cho bà mà thôi. . . và tôi cũng muốn chia vui với bà luôn thể. Tôi nghĩ chắc bà cũng muốn sữa soạn một cái gì thật đặc biệt cho ngày trở về của ông nhà.

– Thưa ông thị trưởng, ông đã có ý nghĩ không sai lầm , ý kiến của ông thật tuyệt vời . Tôi sẽ sữa soạn cho ngày trở về của Renaud biến thành một ngày thật khó quên, một ngày mà tôi đã chờ đợi từ bao nhiêu năm qua. . . Nó phải thật đẹp, thật hoàn toàn hạnh phúc . . . Ông nói ngày 20 phải không ? Ông có biết giờ nào thì tàu đến ?

-Điện tín chỉ có ghi vắn tắt “Xe lửa sẽ rời Paris vào lúc 23 giờ. . . “Những chuyến tàu đêm thường đi rất chậm.Tàu sẽ ngừng ở sân ga của tỉnh Thiviers , như vậy ông nhà phải đi bộ chừng 4 cây số mới về tới Chardeuil. Tôi nghĩ ông sẽ về nhà vào khoảng giữa trưa.

– Tôi hứa chắc với ông là chồng tôi sẽ có một buổi ăn trưa ngon lành cho bỏ những ngày thiếu thốn trong tù. Tôi chỉ  xin ông thị trưởng hiểu cho rằng tôi không thể nào mời ông đến dùng cơm trưa với chúng tôi ngày hôm đó được. Nhưng tôi rất cảm ơn và xúc động trước sự quan tâm và những lời khen ngợi của ông đã dành cho tôi.

– Tất cả mọi người trong thành phố này đều một lòng yêu thương, kính phục bà, bà Leymarie ạ. Dù thành phố này không phải là nơi sinh trưởng của bà , nhưng dân chúng ở đây đã nhìn nhận bà là người của họ. Và bà đã chứng tỏ đã không phụ lòng tin yêu của mọi người.
Sáng ngày 20, Hélène Leymarie thức giấc từ sáu giờ sáng. Đúng ra, suốt đêm nàng không hề chợp mắt. Từ tối hôm trước, nàng đã dọn dẹp, lau chùi nhà cửa từ trong ra ngoài , nàng lau cửa kính cho thật trong, nàng thay tất cả màn cửa bằng những tấm màn màu hồng tươi đẹp. Nàng đến tiệm làm đầu để sửa sang lại mái tóc mà đã từ năm năm nay nàng không buồn chăm sóc. Suốt đêm nàng đã bọc mái tóc lại bằng một cái lưới mỏng cho tóc khỏi mất nếp , và sau cùng, với tất cả niềm yêu thương chôn giấu từ mấy lâu nay , nàng đã chọn một chiếc áo bằng lụa mà nàng chưa bao giờ mặc trong thời gian sống cô đơn một mình. Nàng đã phân vân không biết sẽ mặc chiếc áo nào đây? Ngày xưa Renaud thích nhất chiếc áo xanh điểm những bông hoa trắng nhỏ xíu , chàng nói khi mặc chiếc áo đó nàng trông tươi mát như một mảnh trời vào ngày đầu Xuân. Nàng đã ướm thử chiếc áo xong thở dài cổi ra vì thất vọng. Chiếc áo đã trở thành quá rộng trên thân thể gầy yếu vì thiếu dinh dưỡng của nàng. Năm năm xa chồng, nàng đã sống quá thiếu thốn và khắc khổ. Thôi nàng đành phải mặc chiếc áo lụa đen mà nàng đã tự tay cắt, may lấy vậy. Dù sao nó vẩn còn mới , nàng chưa mặc đến lần nào. Với một cái thắt lưng và chiếc cổ màu thật tươi, chiếc áo đã trở nên trang nhả và vui mắt.

Trước khi làm buổi ăn trưa,nàng cố nhớ lại. . . Ngày xưa chồng nàng thường thích ăn món nào nhất ? Nhưng nước Pháp vào năm 1945 thật thiếu thốn đủ thứ. . . Một chiếc bánh chocolat ? Đúng rồi, chồng nàng vẩn thích nhất món đó! Nhưng nhà lại không có chocolat! May mà nàng còn có vài quả trứng gà tươi nhờ mấy con gà nàng nuôi ở sân sau. Chồng nàng vẩn thường khen chưa ai chiên trứng ngon bằng nàng. Ồ ,chàng cũng thích nhất khoai chiên và thịt bò. . . nhưng ở thành phố này không có hàng thịt. Nàng quyết định làm thịt bớt một con gà vậy . Nàng nghe nói ở thành phố bên cạnh có một cửa tiệm bán chocolat. Nàng sẽ qua bên đó mua, như vậy, sau năm năm gian khổ, ít nhất trong bửa cơm đầu tiên ở nhà Renaud sẽ có một món ăn mà chàng đã từng ưa thích.

Hélène nghĩ thầm “nếu mình đi vào lúc tám hay chín giờ ,mình sẽ có mặt ở nhà để đón chàng .Mình sẽ sửa soạn tất cả trước khi đi,như vậy khi về mình chỉ cần nấu mấy món ăn là xong”.

Mặc dù thật xúc động và nôn nao,nhưng lòng nàng chan chứa hạnh phúc. Sáng nay trời thật đẹp. Chưa bao giờ , trong thung lủng này, mặt trời buổi sáng lại rực rở như hôm nay. Nàng vừa sắp dọn bàn ăn vừa hát khe khẻ. . .

. . . Ô . . . chiếc khăn trải bàn có những ô vuông trắng đỏ này, hai vợ chồng nàng đã ăn bửa cơm đầu tiên với nhau. . . những chiếc đĩa bằng sứ màu hồng nhạt với những chiếc lá phong nhỏ xíu màu đỏ sẩm, chàng vẩn khen là ngộ nghĩnh . . . và nhất là hoa. . . Renaud vẩn thích có hoa trên bàn ăn , chàng đã từng khen nàng có tài cắm hoa . Hélène để một bình hoa nhiều màu trên bàn, hoa cúc trắng , hoa cẩm chướng và hoa hồng đỏ chen nhau làm thành một bình hoa đẹp mắt.

Trước khi lên xe đạp rời nhà , nàng nhìn lại căn phòng ăn qua tấm màn cửa . Tất cả thật hoàn toàn! Sau bao nhiêu gian khổ, Renaud sẽ ngạc nhiên và thích thú. . . Từ cửa sổ, nàng tự ngắm mình trong chiếc gương lớn được gắn trên bức tường chính của phòng ăn. Nàng thấy mình hơi gầy nhưng thật trắng, thật trẻ , và. . . dĩ nhiên tràn ngập yêu thương. Nàng cảm thấy bồi hồi , náo nức như lần đầu tiên được chàng ngỏ ý. Thân hình nàng như tan đi vì hạnh phúc.

“Thôi,nàng tự bảo thầm,bây giờ thì nhất định phải đi. Mấy giờ rồi nhỉ ? Trời , đã chín giờ rồi . . . Mấy cái công việc vặt vãnh này cũng làm mình mất thì giờ quá nhiều, nhiều hơn mình dự liệu. . . Ông thị trưởng nói mấy giờ thì Renaud về tới nhà nhỉ ? Ồ, vào khoảng giữa trưa. . . mình sẽ có mặt ở nhà trước giờ đó. . . “.

***

Căn nhà nhỏ của Renaud nằm khuất trên một con đường vắng của thành phố, vì vậy không ai nhìn thấy một người lính gầy yếu với đôi mắt ngời sáng và dáng điệu hấp tấp bước vào khu vườn. Cửa vườn đóng lại, người lính đứng im lặng một hồi thật lâu, chàng như mê đi vì hạnh phúc , như bị chói lòa vì ánh nắng rực rở ban mai, như say sưa vì cảnh đẹp của hoa lá. Chàng đứng lặng người lắng nghe tiếng rì rào của loài ong đang bay đi kiếm mật. . . Rồi chàng cất tiếng kêu khe khẻ:

-Hélène. . . !

Không có tiếng trả lời ,chàng lại kêu lên lần nữa:

-Hélène! Hélène!

Lo sợ vì sự im lặng vẫn bao trùm căn nhà nhỏ,chàng tiến lại phía cửa sổ và nhìn vào trong nhà, chàng nhìn thấy bàn ăn đã đặt sẵn cho hai người , bình hoa, chai rượu. . .

Renaud cảm thấy trời đất như quay cuồng ,chàng phải dưạ lưng vào tường cho khỏi ngã:

“Trời,lạy Chúa! Nàng không ở một mình!” chàng lẩm bẩm. . .

***

Một giờ sau, khi Hélène trở về , bà láng giềng gọi giật nàng lại:

-Tôi đã nhìn thấy chồng bà. Ông cắm đầu chạy thật nhanh trên đường . Tôi có gọi nhưng ông không thèm nhìn lại.

-Chồng tôi bỏ chạy! Mà về hướng nào bà biết không ?

-Về hướng Thiviers. . .

Hélène lên xe đạp gấp rút đến nhà ông thị trưởng:

-Thưa ông tôi sợ quá! Chồng tôi dưới một bề ngoài cứng rắn và khắc khổ là một người rất nhậy cảm và ghen tuông. . . Anh ấy đã nhìn thấy bàn ăn sữa soạn cho hai người . . . Anh không thể hiểu là tôi chờ đón anh ấy. Làm sao tìm ra ngay anh ấy bây giờ ? Phải tìm ra ngay anh ấy ông ơi! Anh có thể bỏ đi luôn lắm đó, mà . . . tôi thì. . . tôi quá yêu chàng!

Ông thị trưởng nhờ một người đạp xe ra ngay Thiviers, nhưng Renaud đã biến mất. Hélène đã thức suốt đêm ngời cạnh bàn ăn, trên đó bình hoa đã bắt đầu héo úa. Mùa Xuân đã về nhưng sao khí hậu quá oi bức, nặng nề. Màn đêm đã xuống từ lâu, người thiếu phụ chợt cảm thấy nghẹn ngào, tuyệt vọng. . . Nàng chẳng ăn uống gì. Một ngày. . . một tuần . . . rồi một năm đã trôi qua.

Từ cái ngày đau thương đó , Hélène không còn nghe ai nhắc nhở đến tên chồng. . . Lại một mùa Xuân nữa trở về trên thành phố Chardeuil , nhưng căn nhà nhỏ vẩn im lìm trong khu vườn đầy hoa hồng đang khoe sắc , đàn ong vẩn rì rào trong nắng ấm nhưng Hélène đã mất hẳn nụ cười. Ngày ngày nàng vẩn ngồi bên song cửa sổ nhìn ra con đường nhỏ chạy qua nhà nàng . . . và cố lắng nghe tiếng bước chân trở về của người chồng mà nàng vẩn hoài mong, thương nhớ. . .

Trong nhà , chiếc bàn ăn vẩn được phủ bằng chiếc khăn carô trắng đỏ, bình hoa tươi vẩn được thay hoa mổi ngày , người thiếu phụ vẩn mỏi mòn chờ đợi. . . Kỹ niệm còn đây sao người đi xa không thấy trở về ?

Tôi viết lên câu chuyện này để, nếu Renaud Leymarie có đọc được, hãy về lại cùng nàng. Đã sáu mùa Xuân anh đi xa, đã sáu mùa Xuân Hélène đợi chờ . Năm vừa qua là năm buồn tủi nhất của nàng . Nếu đọc được, hãy trở về nghe Renaud , hãy cho Hélène, người vợ trung thành và yêu thương chồng nhất , một mùa Xuân thật sự. Nàng chưa và sẽ không bao giờ hết yêu thương anh nên nàng vẩn chờ đợi. . . Ngày trở về của anh, dù có mong manh như nắng lụa, vẫn là niềm hy vọng duy nhất giữ nàng lại trên cuộc đời này….

Thanh Vân

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

Ngày còn bé con cứ thắc mắc, tại sao trên đất nước này cái gì cũng mang dấu ấn sự tôn vinh người Mẹ. Dòng sông lớn nhất ở phía Bắc đất nước ta quen gọi sông Hồng cũng còn có tên khác là sông Cái. Con đường nào lớn gọi là “đường cái”. Thứ tiếng ta nói hàng ngày cũng gọi là tiếng “Mẹ đẻ”.

Tổ Quốc thiêng liêng cũng được gọi với giọng tha thiết là “đất Mẹ”. Trên dải đất nhỏ hẹp mang hình chữ S này đâu đâu cũng có những đền thờ Mẫu. Bài học đầu tiên con trẻ được học cũng là từ trường Mẫu giáo và do các cô bảo mẫu truyền dạy. Đến cái đũa lớn nhất để xới cơm ở quê mình cũng gọi là “đũa cái”, “đũa cả”.

NHỚ LỜI MẸ DẶN

Mẹ không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, có một lần mẹ đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Mẹ viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu”.

Lời dặn của mẹ đã làm con khóc. Và con tâm niệm điều đó suốt cả cuộc đời và nó đã trở thành lẽ sống của con.

Hôm con phỏng vấn xin việc vào công ty của Nhật cùng với ba chục người khác. Con không giỏi vi tính và ngoại ngữ như họ, song người được lựa chọn lại là con. Mẹ có biết họ hỏi con câu gì không? Họ hỏi con câu nói nào và của ai gây ấn tượng và có tác động mạnh đến cuộc sống của con, con đã nói lại lời mẹ dặn.

Họ bảo: “Vi tính và ngoại ngữ cần, nhưng bạn có thể học trong vài tháng. Chúng tôi cần hợp tác với một người nặng lòng biết ơn và biết chắt lọc trong học hỏi”. Mẹ ơi, chính mẹ đã để phúc đức cho con!

NHỮNG LÁ THƯ CŨ

Con và chồng con có xích mích lớn vì con nghi anh ấy vẫn gặp gỡ với người bạn gái cũ. Con bực mình bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mang từ trong chiếc hòm cũ ra một tập thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của người yêu cũ gửi cho bố con trước đây.

Mẹ bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố định đem hết đám thư và ảnh của người yêu cũ ra đốt đi để chứng minh sự “một lòng một dạ với mẹ”. Mẹ đã ngăn lại và bảo: “Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ để em giữ lại làm kỉ niệm.

Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù sao đấy cũng là những kỉ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu ráo máng như vậy”. Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm. Thỉnh thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, nhưng bố cả đời thuỷ chung với mẹ.

Hôm ấy con đã khóc thật nhiều và con tự tìm về nhà làm lành với chồng. Mẹ nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã lấy lại cho con hạnh phúc!

HAI VÙNG SÁNG TỐI

Khi em trai con đưa người yêu về ra mắt, con không ưng ý lắm. Mẹ im lặng không nói gì. Sau hôm gặp mẹ cô ấy, mẹ nhận xét: Mẹ cô ấy hiền hậu, phúc đức lắm. Người mẹ như thế chắc chắn cô con gái sẽ là đứa con ngoan, dâu hiền.

Mẹ đã không lầm. Hôm mẹ chồng tương lai của con sang chơi với mẹ, cụ cũng nhận xét về con y như thế. Hoá ra nhiều người nhìn nết mẹ mà đoán tính cách của con.

Năm trước con đọc báo thấy có chuyện một cô gái đang tâm đẩy con chồng xuống sông Hồng. Một thời gian sau thấy có bà dì ghẻ bắt con chồng tự khâu miệng mình lại. Con nhận xét rằng phụ nữ nhiều người ác quá. Mẹ lại bảo “phúc đức tại mẫu, những người như thế rồi lại ác giả ác báo thôi”.

Mẹ nói với con rằng những người ác chỉ là số ít, đừng vì thế mà vơ đũa cả nắm. Mẹ chỉ cho con thấy bao nhiêu người mẹ đã hy sinh hết lòng vì con, không ít người phụ nữ đã nhận nuôi hàng mấy chục trẻ mồ côi mặc dù bản thân mình còn khó khăn, vất vả. Trong đời có hai vùng sáng tối, mẹ bảo con nhìn ánh sáng mà đi!

BÀI HỌC LÀM GƯƠNG

Thấy con phàn nàn về sự chểnh mảng học tập của các cháu, mẹ bảo: “Con nhắc các cháu đi học bài, mà vợ chồng con cứ ngồi xem vô tuyến. Con chê các cháu lười học tiếng Anh mà bản thân con là cán bộ cũng không thông tỏ ngoại ngữ thì dạy bảo chúng nó thế nào?”.

Ngẫm kĩ lời mẹ nói, con đã quyết định đi học lớp tiếng Anh buổi tối cùng cháu. Tối về mẹ con trao đổi bài rôm rả. Đúng như mẹ nói, khi thấy cả bố và mẹ đều miệt mài làm việc, các cháu cũng tự động lấy sách ra làm bài.

Đến nay chúng con rất yên tâm về việc học hành của các cháu. Sao có mỗi bài học đơn giản rằng “muốn con chăm thì mẹ phải siêng, muốn con hiền thì mẹ phải thảo” mà con không nhớ, phải để mẹ nhắc nhở!

Mẹ nghèo không có tiền bạc cho con, nhưng mẹ đã cho con hiểu giá trị của sự tần tảo, lòng bao dung, đức hy sinh. Mẹ không đi học, nhưng mẹ dạy con biết sống đúng mực, trọng ân tình.

Cuộc đời con lúc nào cũng có mẹ ở bên. Con có cuộc sống hạnh phúc hôm nay là do bàn tay mẹ tạo dựng. Đến bây giờ con đã hiểu rằng công sinh thành dưỡng dục do cả mẹ cả cha chung sức, nhưng không phải vô tình người ta mới chỉ phong danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và trong nhạc, trong thơ, nơi đâu cũng thấy vang lên những “Huyền Thoại Mẹ”, ” Tình mẹ”, ” Lòng mẹ”…

Đinh Thủy

Không một ai có được niềm vui thực sự

Không một ai có được niềm vui thực sự, trừ khi người ấy được sống trong tình yêu thương.

1/Điều nên làm ngay

Trong một khoá học chuyên tu ngành tâm lý học, vị giáo sư ra đề bài về nhà: “Trong vòng một tuần, anh chị hãy đến gặp người mà mình quan tâm và nói với họ rằng anh chị yêu mến họ. Đó phải là người mà trước đây, hoặc đã lâu anh chị không nói những lời như vậy.”

Đề bài xem ra đơn giản. Thế nhưng, hầu hết cánh đàn ông trong lớp đều đã trên 30 tuổi và cảm thấy vô cùng khó khăn khi thể hiện đề bài này vì họ hiếm khi thể hiện tình cảm của mình với một ai đó.
Đầu giờ học tuần sau, vị giáo sư hỏi có ai muốn kể lại cho cả lớp nghe câu chuyện của mình hay không. Dường như ông chờ đợi một phụ nữ xung phong trả lời. Thế nhưng, một cánh tay nam giới đã giơ lên. Anh ta trông có vẻ xúc động lắm:
“Cách đây 5 năm, giữa tôi và bố có một bất đồng sâu sắc, và từ đó đến nay vẫn chưa giải quyết được. Tôi tránh gặp mặt ông ngoại trừ những trường hợp chẳng đặng đừng khi phải họp mặt gia đình. Nhưng ngay cả những lúc ấy, chúng tôi cũng hầu như không nói với nhau một lời nào. Vì vậy, tôi đã tự thuyết phục bản thân đến để xin lỗi và nói với bố tôi rằng tôi yêu ông ấy.
Quyết định ấy dường như đã làm giảm đi phần nào áp lực nặng nề trong lòng tôi. Đêm hôm đó, tôi hầu như chẳng chợp mắt được. Ngày hôm sau, tôi đến nhà bố mẹ và bấm chuông, lòng thầm mong bố sẽ mở cửa cho tôi. Tôi lo sợ rằng nếu mẹ mở cửa thì dự định của tôi sẽ không thành, tôi sẽ bày tỏ với mẹ thay vì với bố. Nhưng may quá, bố tôi đã ra mở cửa.
Tôi bước vào và nói: “Con không làm mất thời gian của bố đâu, con đến chỉ để nói với bố rằng bố hãy tha lỗi cho con và con yêu bố”.
Có một sự chuyển biến trên khuôn mặt bố tôi. Gương mặt ông dãn ra, những nếp nhăn dường như biến mất và ông bắt đầu khóc. Ông bước đến, ôm chầm lấy tôi và nói: “Bố cũng yêu con, con trai ạ. Nhưng bố chưa biết làm thế nào để có thể nói với con điều đó”.
Đó là thời khắc quý báu nhất trong đời tôi. Hai ngày sau, bố tôi đột ngột bị một cơn đau tim và vẫn còn nằm trong bệnh viện cho đến bây giờ. Nếu như tôi trì hoãn bộc lộ với bố, có lẽ tôi không bao giờ còn có cơ hội nào nữa”.
Dennis E. Mannering

2/ Bộ quần áo cũ.

Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội…ông luôn đặt lý trí lên trên tình cảm. Tôi biết ông là người tốt, nhưng có cảm giác ông sống vì khối óc chứ không vì con tim, thiếu sự thông cảm.
Hôm nay đưa ông đi lễ ở nhà thờ, một lần nữa ông lại mặc bộ đồ vest cũ sờn rách mang từ Việt Nam sang. Tôi nnhàng:
-Bố nên thay bộ đồ con mua hôm trước, bộ quần áo này cũ quá.
-Nhưng bố thích mặc bộ này !
Tôi bắt đầu cau có:
-Nhưng mặc như vậy đi chỗ đông người rất kỳ, người ta sẽ nghĩ tụi con bỏ bê không chăm sóc bố.
Ông già buồn rầu, lập lại:
-Bố thích bộ quần áo này lắm.
Tôi cũng cương quyết:
-Bố nên thay ngay kẻo trễ, con không thấy có lý do gì để bố thích nó.
Ông già trả lời rất gọn ghẽ, chân thành, lâu nay ít khi nào tôi thấy ông minh mẫn như vậy:
-Chính mẹ đã tặng bố bộ quần áo này để mặc ngày kỷ niệm thành hôn. Khi chồng con ra trường, bố cũng mặc bộ quần áo này. Ngày đưa mẹ con ra nghĩa trang, bố cũng mặc bộ đồ này, bố thấy thật vui và xúc động khi mặc nó.
Nước mắt ông già hoen trên mi, rơi xuống gò má nhăn nheo. Tôi hụt hẫng và hết sức bối rối. Bố chồng tôi sống tình cảm và có lý hơn tôi nghĩ.
Trước khi quyết đoán người nào đó khô khan không có trái tim, tôi nên xét lại trái tim mình đã.

3/Bệnh và Lười.

Cũng như các bà vợ khác ở hải ngoại, vợ tui kỳ này làm biếng quá. Đi làm về là nằm trên giường xem phim bộ, chẳng chịu nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa gì ráo. Tôi có la, nó ấp úng trả lời:
-Em thấy mệt quá, chẳng làm gì được cả. Nằm nhưng không ngủ được nên mới bật máy xem phim, chứ không cố ý xem phim.
Con vợ tui chơi chữ ghê, xem mà không xem, nó biện hộ kiểu này ai nghe cho được.
Tui định bụng hôm nay về mà bếp núc lạnh tanh, sẽ đập tan cái TV ra cho biết mặt. Về nhà, quả nhiên cơm canh không có, đứa con nhỏ hoảng hốt:
-Ba ơi, anh Hai đưa má vào bệnh viện rồi, má bị xỉu phải cấp cứu.
Tui vội vã vào nhà thương. Người ta đã chẩn bệnh xong. Vợ tui có lẽ bị ung thư xương. Hèn chi mấy tuần nay nó đau nhức, than thở mà tui nghĩ nó giả bộ nên không thèm nghe, cũng chẳng đưa đi bác sĩ.
Bệnh ung thư phát mạnh quá, sau vài tuần, bác sĩ cho biết nó không còn ở với tui được bao lâu nữa. Ung thư ngực thì cắt vú, ung thư xương không biết cắt ở đâu! Phổi vợ tui cũng có vấn đề, vì bao năm qua phải hửi mùi thuốc lá tui hút. Tui không dám nói với nó tui đã nghĩ xấu và giận nó không chịu nấu cơm, dọn dẹp. Cô vợ đầu ấp tay gối bao nhiều năm mà nó đau đớn, bịnh nặng tui cũng không biết. Vậy mà nó vẫn cố gắng đi làm kiếm tiền, chỉ khi về mới nằm liệt ra thôi. Tui hối hận quá chừng, trốn vào nhà vệ sinh của bệnh viện khóc rấm rứt. Thằng Tây đen nhìn tui ái ngại, hỏi tui có OK không. Tui không biết than thở cùng ai, nên dù tiếng Anh dở ẹt, cũng sổ một tràng. Nó có vẻ thông cảm nhưng chỉ phán được một tiếng “sorry” rồi đi ra.
Tui trở vào phòng thăm vợ. Mới mấy tuần mà nó ốm nhom xanh lè, tay chân dây rợ, kim chích chằng chịt. Nó thì thầm:
-Ở đây buồn và ồn quá, em muốn về nhà. Em sẽ nấu món giả cày mà anh thích đó.
Tui vỗ về:
-Em ráng lo nghỉ ngơi, đừng bận tâm.
Tui ráng nấu mấy món ngon đem vào nhà thương, nhưng nó không ăn được nữa. Tui lại khóc. Lạ ghê, trước giờ tui rất oai phong, la mắng vợ con mỗi ngày, uy quyền lắm mà bây giờ mít ướt quá sức …

– Bạn hãy dành thời gian cho những người xung quanh mình – cho dù chỉ là để làm một việc nhỏ nhoi.
Albert Schweitzer

Người phu xích lô 51 năm trước của tôi và một thông điệp cho mùa Giáng Sinh

Người phu xích lô 51 năm trước của tôi và một thông điệp cho mùa Giáng Sinh

xich lo

Bạn thân,

Tôi muốn kể hầu bạn một câu chuyện mới xẩy đến cho tôi trong mùa Giáng Sinh năm nay.  Ngày 24, một ngày trước Giáng Sinh, tôi nhận được một thiệp Giáng Sinh làm tôi ngạc nhiên.

Thiệp viết như sau: Kính thẩm phán Phan Quang Tuệ.  Em được biết thẩm phán khi còn ở Việt Nam.  Thẩm phán đã về hưu, em thấy trong facebook nên để lại message nhưng không thấy thẩm phán trả lời.  Xin xem lại message em đã gởi.  Em,……., đã gặp trong đêm khuya trên đường Phan t. Giản.  Kính chúc thẩm phán có mùa Noel và năm mới với nhiều sức khỏe cùng quý quyến.”

Tôi để tấm thiệp lạ kỳ này qua một bên, trên bàn giấy trong phòng làm việc.  Vợ tôi thường để tất cả thiệp Giáng Sinh trên một bàn nhỏ gần cây thông Giáng Sinh trong phòng khách.  Tối hôm ấy vợ chồng tôi, em vợ, cháu gái, các con trai, con dâu, cháu nội quây quần trong buổi tiệc gia đình mừng Đấng Cứu Thế ra đời.  Chúng tôi mở quà, chơi trò chơi “white elephant”.  Mãi đến khuya tiệc tàn, các con cháu ra về.  Tôi giúp nhà tôi dọn dẹp.

Sáng hôm sau tôi dậy trong khi nhà tôi còn yên giấc.  Tôi vẫn thích không khí yên tĩnh trong nhà trong buổi sáng tinh sương.  Tôi xuống dưới nhà, vào phòng giấy, đem tấm thiệp ra ngồi trước computer.  Tôi vào facebook và sau một lúc tìm ra được lời nhắn viết cho tôi từ giữa tháng 9.  Quả thực tôi đã vô tình không đọc lời nhắn này trên facebook.

Và đây là lời nhắn gởi cho tôi đề ngày 18 tháng 9, 2013 trên facebook.  Tôi ghi lại nguyên văn và để y nguyên cách viết:

“Kính chào Thẩm Phán Phan Quang Tuệ.  Em đã tìm Thẩm Phán hơn 30 năm nay (vị Ân Nhân của em!).  Em xin gợi lại kỷ niệm.  Lần gặp đầu tiên trong đêm khuya trên đường Phan Thanh Giản, Saigon (1962…?).  Em là đứa 15 tuổi, đạp xe xích lô đã chở Người Ân Nhân về nhà (sát cạnh chợ Bà Chiểu) lúc đó cửa sắt trước nhà của Bác Sĩ Phan Quang Đán bị chính phủ Ngô Đình Diệm niêm phong!  Trên đường em chở vị ân nhân này về nhà, em được khuyên bảo: ”em còn nhỏ mà phải sống vất vả quá vậy, em cố gắng học nghe, ba của anh, bác sĩ Phan Quang Đán đang bị chính phủ Ngô Đình Diệm bỏ tù nên anh không có cơ hội giúp em được nhiều, nhưng….Vừa bước xuống xe, ông anh Đẹp Trai móc hết các túi, tìm tiền cho em hết!  Ráng học giỏi nghe em…

Với lời nói Chân Tình khuyên bảo đó, và cử chỉ thân thương, mãi mãi còn trong tim óc của em!  Từ đó em được “thành công”… em bị động viên khóa 3/68 Thủ Đức ( huynh trưởng khóa 2/68 Thủ Đức).  Em đến Mỹ qua tàu Trường Xuân (rời Bến Bạch Đằng, Saigon, chiều ngày 30/4/1975, chưa từng về VN bao giờ).

Thứ 7, 15/9/2013 anh HQB đến nhà em từ Portland, em tâm sự về dịp gặp Ân Nhân khi đạp xe xích lô ở Saigon với số tiền Ân Nhân cho và lời khuyên bảo đáng quý nên em mới được như ngày hôm nay.  Anh B nói rằng anh đã được gặp Huynh Trưởng Thẩm Phán rồi, em mừng quá, liền hỏi số điện thoại của Huynh Trưởng Thẩm Phán nhưng anh không nhớ.

Em có vợ và 2 con trai, cả 2 tốt nghiệp từ Georgia Tech; 1 đứa dạy chemistry tại trường này, 1 đứa làm kỹ sư cho công ty Boston Consulting Group, vợ làm manager, pharmacist, có con gái hơn 8 tháng;  gia đình 2 đứa đang sinh sống tại downtown Atlanta.

Nếu Huynh Trưởng đọc được những dòng chữ tâm huyết này, xin gọi em gấp để em mừng sau nhiều năm tìm kiếm Huynh Trưởng Thẩm Phán.

Nguyện xin ơn trên trả công bồi hậu cho tất cả gia đình của Huynh Trưởng Thẩm Phán qua nhiều công đức mà Huynh Trưởng đã làm cho em trước đây 51 năm.

Kính chào vị Ân Nhân đáng kính.

Em,…..”

Tôi đã liên lạc với người này sáng hôm sau.  Vợ chồng chúng tôi đã chuyện trò với hai ông bà trên điện thoại cả tiếng đồng hồ.  Được biết sau lần gặp nhau đêm hôm ấy, người thiếu niên 15 tuổi đã chuyên cần đèn sách, dùi mài kinh sử.   Cậu đỗ tú tài ban B (toán).  Sau Tết Mậu Thân người thanh niên nhập ngũ khóa 3/68 Thủ Đức (tôi nhập ngũ khóa 2/68).  Vì giỏi toán, ông chọn ngành Pháo Binh.  Ông trở thành Sĩ Quan Pháo Binh.  Năm 1972 ông được gởi đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ và mãn khóa trở lại Việt Nam tiếp tục phục vụ trong ngành Pháo Binh.  Ngày 30-4-1975 Ông rời Việt Nam trên tàu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.  Tại Hoa Kỳ, hiện nay ông là công chức tại một quận hạt.  Bà làm công chức cho tiểu bang.   Ông bà có bà con ở San Jose.  Hai ông bà được 2 con trai, đều đã thành đạt.

Chuyện xẩy ra cách đây đã 51 năm. Lúc ấy tôi vừa tròn 20, nhân vật phu xích lô trong câu chuyện là một thiếu niên 15 tuổi.  Ba tôi bị giam ở Côn Đảo sau cuộc đảo chánh 11-11-1960.  Sau một thời gian trốn ở nhà bố mẹ của Vương Quốc Cường (sau này là chánh án Quảng Ngãi), tôi trở lại trường Luật , vừa đi học vừa đi dạy ở một trường tư thục, vừa kèm thêm mấy người con của nhà triệu phú Nguyễn Đình Quát .  Thường tôi vẫn đi xe Buýt Vàng để về nhà ở Bà Chiểu, Gia Định.  Khi nào về quá khuya, sau giờ xe Buýt Vàng chạy, tôi phải đi xích lô.  Và tôi đã gặp người thiếu niên này một buổi tối trên đường Phan Thanh Giản.  Câu chuyện đặc biệt không phải ở hành động cử chỉ của người sinh viên Luật 20 tuổi, mà ở tư cách của người thiếu niên 15 tuổi.  Đối với tôi chính người này mới là ân nhân, sứ giả của niềm tin trong Mùa Giáng Sinh.  Và tôi đã nói như vậy qua buổi tiếp xúc trên điện thoại lần đầu tiên giữa ông bà này với vợ chồng chúng tôi.

Câu chuyện của tôi, của chúng tôi, tuy là một chuyện giữa hai cá nhân, nhưng mang một ý nghĩa, về lòng tin, định mệnh, và đời sống.  Tôi nghĩ câu chuyện cần được chia xẻ.  Vì thế tôi xin mạn phép gởi đến các bạn câu chuyện như một món quà Giáng Sinh tinh thần.

(Viết trong Mùa Giáng Sinh 2013)

© Phan Quang Tuệ

© Đàn Chim Việt

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (1)

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (1)

Tác giả : Du Tử Nguyễn Định

Tác giả là cựu sĩ quan VNCH, khoá 8/68 Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, bị bắt tại Ban Mê Thuột ngày 14 tháng 3 năm 1975; Đến Mỹ tháng 4/2005, hiện cư ngụ tại Carlsbad, California.

Đây là chuyện có thật của đứa trẻ bị thất lạc khi đi vượt biển chỉ mới 8 tuổi .

1. Cuộc Tìm Kiếm Vô Vọng

Thuận xếp tập hồ sơ lại, nhìn người con gái đối diện, mỉm cười đứng dậy bắt tay cô gái và nói:

– Chúc mừng cô gia nhập vào Biomedical Research của chúng tôi. Khi nào cô có thể đi làm được?

– Dạ em cần về công ty cũ báo cho họ biết, có thể cho em 2 tuần để thu xếp được không?

– Vâng, nếu có trở ngại cô cho tôi biết nhé.

– Dạ. Xin cám ơn anh nhiều lắm. Chào anh.

Chờ cho người con gái bước ra khỏi phòng, anh ngồi xuống, băn khoăn tự hỏi, không biết mình còn quên điều gì chưa dặn cô ta không, và còn sót điều gì chưa làm? Sao mình lại có cảm giác hồi hộp và bâng khuâng?

Nhìn khuôn mặt cô ta rất quen và dường như thân thiết lắm, không hiểu mình gặp cô ta ở đâu, High School, hay lúc còn học Bio. Anh mở lại hồ sơ, đọc thêm một lần nữa Resume của cô gái, Thái, Thủy-Vi, tốt nghiệp Master of Biomedical Sciences tại DMU (Des Moines University, Iowa)… Thuận giật mình. Cô ta họ Thái, cùng họ với Thuận. Iowa, nơi cô ta học, không phải tiểu bang mình đã học. Vậy là chưa từng gặp, mà sao như linh cảm thấy điều gì lạ lùng. Lúc phỏng vấn, hai ba lần Thuận định hỏi, nhưng rồi lại e ngại, sợ qúa đường đột gây ngộ nhận.

Giữ chức vụ này đã 5 năm, Thuận đã interview nhiều người, anh hết sức né tránh những ngộ nhận không cần thiết, nhất là khi phải interview đồng hương của mình, dù có ý muốn nâng đỡ, cũng chỉ ngấm ngầm và để trong lòng, nhưng đây là lần thứ nhất anh có cảm giác này. Đọc mức lương đề nghị, anh như một cái máy, để mức lương tối đa cho phép phỏng vấn viên, anh nghĩ, cô ta thật xứng đáng được như thế.

Những suy nghĩ về cô gái làm anh bận rộn và quên mất cả thời gian, cho đển khi tiếng điện thoại reo lên, anh mới biết là đã đến giờ, mở cặp da, bỏ hồ sơ vào và ra về, mà tâm hồn cứ quẩn quanh trong ý nghĩ “không biết có còn sót điều nào chưa bảo cô ấy không, thôi để cô ta đi làm rồi mình sẽ hỏi cho rõ ngọn ngành là đã gặp cô ta ở đâu, có khi là đi lễ Chủ nhật gặp được không chừng” .

Về đến nhà, lúc ngồi ăn cơm, Thuận kể cho vợ anh nghe về cuộc phỏng vấn một người con gái Việt Nam mang họ Thái và những tình cảm mơ hồ, lạ lùng trong anh, anh thú nhận là giờ này vẫn còn hình dung ra khuôn mặt và dáng dung của cô ấy, anh biết rất rõ ràng, tình cảm ấy không phải là loại tình cảm nam nữ, nhưng thực sự anh lại không hiểu.

– Có gì đâu, ngày nào cô ấy đi làm thì anh hỏi chuyện cô ấy là được rồi, hay anh lại muốn em giúp? Tại anh nhạy cảm thôi, em hiểu anh đang nghĩ tới điều gì, bên nội hay bên ngoại phải không? Đâu phải là lần đầu anh suy nghĩ như thế. Nhưng anh không có em gái mà.

– Thì đành như vậy, nhưng anh lại sợ mình vụng về không khéo léo lại gây hiểu lầm.

– OK, đến ngày đó em tới ăn trưa với anh, rồi giả như tình cờ em gặp cô ấy, chúng ta hỏi chuyện xã giao được không?

– Được vậy thì tốt lắm.

– Nhưng mà cô ấy chắc là dễ thương, duyên dáng, mặn mà lắm phải không? Nếu không làm sao ông chồng em lại tơ vương đến như thế.

– Dạo này hình như tiếng Việt của em giỏi hơn nhiều, nói chuyện nghe văn hoa bóng bẩy quá, phải như ngày xưa em học Văn chương hay Nhân chủng học thì dễ nổi tiếng lắm đó.

– Đùa anh vậy thôi chứ ngay khi biết cô ta cùng họ với anh, em hiểu ngay điều anh đang bận tâm. Em sẽ giúp anh.

Thuận nhìn vợ với lòng cảm kích. Loan là bác sĩ ngoại khoa. Hai người lập gia đình đã hơn 15 năm, có hai đứa con gái, nhưng tình cảm vợ chồng lúc nào cũng thân ái mặn nồng, đúng như câu các cụ bảo “vợ chồng lúc nào cũng tương kính như tân”. Phần Loan, nàng hiểu nỗi khắc khoải của người chồng sau bao năm tìm kiếm vô vọng.

*

Thuận vượt biển đến Mỹ năm 1978, khi chỉ mới 8 tuổi, được một gia đình người bản xứ không có con nhận nuôi và đón tại phi trường, khi Thuận vừa từ đảo đến.

Thuận không nhớ gì về gia đình mình, ngoài tấm hình được bọc plastic, luồn trong lưng quần mà lúc ra đi mẹ Thuận đã để vào, tấm hình ấy gồm có ba mẹ Thuận, Thuận và một người em trai nhỏ hơn Thuận 3 tuổi, mặt sau của tấm hình có ghi là: Thái Ngọc Trác (1947), Chung thị ngọc Hân (1953), Thái Ngọc Thuận (1970), và Thái ngọc Trị (1973).

Ba má nuôi của Thuận đã kể cho Thuận nghe về tai nạn của chiếc tàu chở Thuận và 48 người khác vượt biển, bị lạc đường trên biển, hết lương thực và nước uống, rất nhiều người đã chết vì đói và khát, chỉ còn Thuận và 5 người khác gồm 3 trẻ em còn sống sót. Đó là những gì Thuận biết về chuyến vượt biển của mình, những người sống sót đó là ai, hiện nay ở đâu anh không hề biết. Ba má nuôi của Thuận cũng đã dùng tấm hình ấy để hỏi thăm tin tức về gia đình Thuận ở các cộng đồng người Việt trên đất nước này, hay hầu hết các nước Pháp, Anh, Canada, Úc … nhưng không hề nhận được một tin tức nào.

Tuy là người bản xứ, nhưng giữa anh và ba má nuôi, thật rất gần gủi và thân thiết không khác gì ruột thịt, có lẽ tại từ những ngày đầu anh côi cút, lạc loài, và bơ vơ, được ba má nuôi chăm sóc dưỡng dục, đã cho anh một ấn tượng hoàn hảo về hai ông bà, và làm cho anh trở nên gần gũi với người bản xứ thực sự. Nhất là thời gian anh còn ở tiểu học, lúc nào cũng được má nuôi đưa đón đến trường. Ngày anh tốt nghiệp đại học, ba má nuôi ôm hôn anh trước sân trường làm anh xúc động đến rơi nước mắt.

Từ nhiều năm qua, Thuận cũng đã cố công tìm lại gia đình ruột thịt của mình. Chàng rất muốn về Việt Nam để tìm lại gia đình, nhưng không biết phải bắt đầu tìm từ chổ nào, hỏi thăm những người hàng xóm cũ, hay hỏi tin tức từ quê của ông bà nội ngoại. Điều không may là lúc ra đi Thuận chưa đầy 8 tuổi, đầu óc non nớt đó không thể nhớ được nơi Thuận đã ở, ngoài con đường Phan Chu Trinh mà Thuận như mang máng nhớ, còn lại chỉ là những hình ảnh mơ hồ.

Thuận chỉ biết nhà của gia đình anh ở rất gần chợ, từ nhà có thể đi bộ đến một Tiệm may, gần đó là những quán xá như tiệm chè, quán kem, và vườn sau của nhà là một cây mai rất nhiều cành, mà Thuận nhớ hàng năm khi Tết đến, mẹ vẫn thường hay cắt nhánh đem vào chưng bàn thờ hay là cắm ở phòng khách, ngoài ra Thuận không còn nhớ được gì nữa. Bác Khôi ở cạnh nhà Thuận, hàng xóm mà Thuận thường chui qua vườn sau để cùng chơi đùa với Lân và chị Cúc, cũng đã dọn đi sau khi Sài gòn bị chiếm. Rất nhiều những gia đình khu Thuận ở đã bỏ đi hay bị đuổi khỏi nhà.

Ngày Thuận ra đi, căn nhà bác Khôi và chị Cúc đã bị một gia đình bộ đội dọn vào, và gia đình bác Khôi ra sao cũng không nghe mẹ nhắc đến, chính vì thế mà hàng xóm của Thuận đã toàn là những người lạ không ai tiếp xúc .

Còn về gia đình nội, ngoại thì Thuận chỉ nhớ trước đây ông bà nội ở Đà Lạt, mất miền Nam, gia đình nội và các cô chú nghe mẹ nói về Phước Tuy và đã mất tin tức liên lạc. Bên ngoại còn cậu Tuấn, đi tù, cậu Hưng đã vượt biên, nhưng không liên lạc được, còn dì Út thì lên ở với gia đình Thuận và đi cùng chuyến tàu với Thuận nhưng đã chết vì đói và khát. Đó là lý do mà Thuận không về Việt Nam để tìm kiếm.

Với tất cả phương tiện mà Thuận biết và có thể, Thuận đã dùng hết, để hỏi thăm tin gia đình trên các tiểu bang của nước Mỹ hay là tìm đến Canada, theo sự chỉ dẫn của một vị đại tá, nguyên Trưởng phòng II của Quân Đoàn II, “Hãy bắt đầu từ đơn vị ít người nhất, như các Liên đoàn, Sư đoàn, Bộ Tư lênh. Từ nước gần nhất, đến nước xa xôi . . . ” và Thuận đã tìm đến Canada, gặp một vị đại tá Hải Quân, Chủ tịch liên Hội người Việt, Ông cư ngụ ở một thành phố ngoại ô của Thủ đô Canada, thành phố Nepean, rồi gặp vị Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân tại Ottawa, nhưng không ai biết tin tức về gia đình anh. Anh lại lần lượt tìm liên lạc với các liên đoàn, như Liên đoàn 21, 22 Biệt động Quân, Liên đoàn 6 BDQ, Liên đoàn công Binh, Liên đoàn Quân Y, các bệnh viện từ Duy Tân, Nguyễn Huệ, đến Tổng Y Viện Cộng Hòa, các Phòng I của các Sư đoàn Vùng Hỏa tuyến, đến 22, 23, 18, 25, 7, 9… Sư đoàn Dù, TQLC, nhưng chỉ là những cuộc tìm kiếm vô vọng.

Cách đây mấy năm, anh nghe vị cựu Chỉ Huy Trưởng LD 72 Quân Y kể chuyện về đời sống ở Úc, anh đã tìm cách làm quen với những người ở Úc và quen được một ông cụ mà ngày xưa có con làm Phó tỉnh Gia định và Giám sát viện, từ đó, anh liên lạc được với các sở ANQD, Hành Chánh TC, các Trung Tâm HCTV Tiểu khu , và kết quả vẫn là câu “Trời Phật nhất định sẽ không phụ lòng hiếu thuận của cháu đâu, rồi có ngày cha con mẹ con lại đoàn tụ”

Anh thất vọng, bỏ cách thức tìm kiếm từ các đơn vị Quân đội, và quay về với đầu mối cũ mà ba má nuôi anh từng tìm, đó là các Trại tù Cải tạo, từ Bắc chí Nam. Anh được tiếp xúc với rất nhiều người tù Cải tạo, chứng kiến cuộc sống của họ, những vất vả và cố gắng của họ làm anh ngậm ngùi và xúc động, những lúc như vậy, anh lại thầm nghĩ đến ba mẹ, “nếu ba mẹ còn sống, con sẽ không để ba mẹ vất vả đâu”.

Vào năm cuối của Biomedical scientist, Thuận nghe tin có một vị Linh mục ở nhà tù Trại Đưng, Thanh Hóa, biết tin về một Sĩ quan tên Trác, trốn trại bị Việt cộng bắn chết, Thuận đã bỏ nửa chừng để bay đi Nouvelle Calédonie (Tân đảo), nơi cha Stanislas Cosca Hoa đang làm cha xứ, để hỏi thăm tin tức,

– Thưa cha con là Thái Ngọc Thuận, ở xa đến xin gặp cha để hỏi về tin của ba con là Thái ngọc Trác, đây là hình của gia đình chúng con.

– Hình mờ quá, tôi nhìn không rõ, nhưng mà tôi cũng không biết gì về ông cụ đâu. Ai nói cho anh biết tin này?

– Một người quen ở Tân Tây Lan nói cho con, nhưng họ cũng không biết đích xác, họ chỉ bảo con viết thư hỏi tin tức ở cha mà thôi.

– Thật là tội nghiệp, lòng của con Chúa sẽ biết. Đã đến đây thì hãy ở vài ngày coi cho biết Tân Đảo, người Việt ít có ai đi du lịch tới nơi này.

– Thưa cha ở đây có bao nhiêu giáo dân.

– Chừng hơn 500 người, nhưng lòng tin kính Chúa thì rất sốt sắng.

Thuận rời Giáo xứ Nouméa Kitô Vua mà lòng mang đầy nỗi tuyệt vọng mênh mông.

Trở về Thuận viết thư nhờ bà Khúc Minh Thơ giúp đỡ, rồi theo dõi Chương trình HO của các người đi tù cải tạo trở về, nhưng vẫn không tìm ra manh mối của gia đình, người thân, nội hay ngoại. Điều đáng tiếc là Thuận không biết cấp bậc của ba, đơn vị của ba, hay của cậu Tuấn, cậu Hưng, để mà dò la, cho nên đến chổ nào, hay viết thư đi đâu cũng không ai biết cách nào giúp đỡ. Hàng năm, kể từ sau khi tốt nghiệp, Thuận xông xáo vào các hoạt động của cộng đồng người Việt, nhất là của các hội Cựu Quân Nhân để làm quen hỏi thăm , nhưng câu hỏi mà Thuận luôn luôn nghe là “ba cháu cấp bậc gì, đơn vị sau cùng ở đâu?” Thuận chỉ lắc đầu không biết, có người thấy vậy còn nghi ngờ Thuận có lòng tới quấy nhiễu đã tỏ thái độ xua đuổi.

Hình ảnh cuối cùng còn rõ nhất trong đầu Thuận là buổi chiều ra đi, mẹ ôm Thuận và dì Út vừa mếu máo vừa nói, “Gia đình chỉ còn hai dì cháu, em phải lo cho cháu giúp anh chị, rồi mẹ cúi xuống hôn anh và nói, con phải nghe lời dì Út nhé” và Thuận thấy nước mắt chảy đầy trên mặt mẹ khi anh và dì Út bước lên chiếc xe ra đi.

Cuộc hành trình vượt biên xảy ra như thế nào thực sự Thuận không hay biết, vì anh và nhiều người khi bước lên tàu, đã bị đưa xuống hầm tàu nằm co ro không biết ngày đêm, chỉ khi nào đói thì kêu dì Út, cho đến một ngày dì Út bảo là đã hết thức ăn, hãy cố ngủ đi, và rồi không biết bao nhiêu ngày Thuận đã mệt lả bất tĩnh cho đến lúc được tàu vớt và đưa lên đảo, tỉnh lại, Thuận mới biết là dì đã chết.

Nhờ được ba má nuôi người Mỹ tận tình dưỡng dục, Thuận đã có hoàn cảnh thuận lợi để học hành, thành đạt và anh luôn luôn thương kính ba má nuôi. Khi ông bà còn sinh tiền, vào những ngày lễ như ThanksGiving, Christmas, anh luôn luôn đem vợ con về ở chơi một hay hai ngày với ba má, làm cho ông bà cũng rất hãnh diện và thực sự vui vẻ. Nhưng rồi liên tiếp hai năm, ba nuôi mất rồi má cũng mất. Cuộc tìm kiếm ba mẹ ruột và em trai đã trở thành vô vọng.

Hàng năm, Thuận lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ cho ba mẹ và em, ngày ấy cả nhà đi lễ cầu nguyện cho gia đình.

Điều làm Thuận thương cảm nhất là anh không còn hình dung ra được ba mình như thế nào, trong đầu óc anh khi nghĩ về ba, chỉ là hình ảnh nhạt nhòa trên tấm hình trắng đen mà mẹ trao cho lúc ra đi, và mỗi lần nhìn lại tấm hình, Thuận không làm sao kềm được cảm xúc và các con anh đã bắt gặp rất nhiều lần, những khi như vậy, bao giờ vợ anh cũng chỉ vổ về anh bằng câu nói ” hãy cố quên đi, cố vui với các con, và hãy cầu nguyện cho họ, biết đâu như người ta nói, xa tận chân mây, nhưng gần lại trước mặt, nếu ba mẹ chưa mất, thế nào gia đình mình cũng có ngày đoàn tụ”.

Là một y sĩ, Loan hiểu nỗi khắc khoải của Thuận và luôn tìm cách chia sẻ nỗi ưu tư của chàng, nhưng Thuận còn một nỗi niềm riêng, mà không cách nào anh có thể chia xẻ với vợ: cho tới nay, hai vợ chồng chưa có con trai. Nếu ba mẹ và em đã chết, quả là dòng họ Thái đành đứt đoạn, Thuận thấy mình có lỗi với ba mẹ và ông bà nội hay tổ tiên. Tư tưởng này cứ nhậm gấm tâm hồn Thuận mỗi khi nhìn vợ con vui vẻ bên nhau.

Câu chuyện xảy ra đã mấy chục năm, và cơ hội tìm gặp ba mẹ và em Thuận đã gần như không nghĩ tới. Đúng lúc ấy thì có cuộc phỏng vấn tuyển chuyên viên Biomedical Sciences và cô gái họ Thái xuất hiện.

Khuôn mặt, nụ cười tiếng nói của cô gái họ Thái làm Thuận trằn trọc mãi. Trong bong đêm, Thuận nhắm mắt như cầu nguyện “Ba mẹ ơi, đây là Thành phố Hy Vọng, City of Hope, con và những người làm việc ở đây lúc nào cũng mong ước đem được hy vọng đến cho từng người, và dù chỉ có một tia hy vọng nhỏ nhoi, chúng con và cả những bệnh nhân, cũng không bao giờ dám bỏ lỡ. Ba mẹ hãy chỉ cho con biết phải làm thế nào, nếu quả thật ba mẹ đã về nơi yên nghỉ, xin hãy báo mộng cho con”!

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ(2)

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (2)

2. Như Một Giấc Mơ

Vi về đến khách sạn mà Biomedical Research đặt cho Vi ở để interview, việc đầu tiên là nàng báo cho ba mẹ biết đã xin được việc làm sau 3 ngày interview liên tiếp, “thật hú vía và bất ngờ”, nàng nói với mẹ qua điện thoại, và báo cho ba mẹ biết đón nàng ở phi trường.

Nàng phải trở về công ty cũ để báo nghĩ việc và thu xếp để cùng đem ba mẹ rời tiểu bang lạnh, nơi mà gia đình Vi đã định cư từ ngày đến nước Mỹ cho tới hôm nay. Ước vọng của Vi là làm sao đưa ba mẹ rời được xứ lạnh để không thấy ba còm cỏi, lụ khụ mỗi mùa tuyết đổ. Lạnh và giá buốt làm nhức các khớp xương ngón tay, ngón chân, đầu gối và cổ chân mà ba than phiền mỗi khi đông đến, làm Vi nghe cũng xót xa. Nhất là sau ngày ba mẹ nghỉ hưu, “Ngồi nhà nhìn tuyết rơi thật là chán quá”, đó là câu mẹ Vi vẫn thường than mỗi ngày tuyết đổ.

Cái ông anh “nối dõi” của Vi còn ở tận bên Trung đông, làm Vi vừa thương vừa lo, để mặc ba mẹ cho một mình Vi phải bận tâm. Nói thế nhưng thực ra, cuộc sống của ba mẹ và Vi lúc Vi chưa ra trường, anh đã gánh vác rất nhiều. Tiền lương của ba mẹ chỉ đủ chi dùng cho cuộc sống gia đình, còn tiền tiêu của Vi, nhất là những kỳ Vi không lấy được học bổng toàn phần, đều nhờ cả vào anh. “Con trai độc thân đi làm dĩ nhiên là đưa tiền cho mẹ, không lý anh lại đi phấn son hay làm thẩm mỹ để cua người đẹp bên đó, mà có khi cũng phải, vì bên đó con trai được cưới 3, 4 bà vợ, mai mốt mẹ tha hồ có người hầu hạ”. Đó là những câu trêu chọc Vi tặng cho anh, những ngày anh về nghỉ với gia đình.

Nghĩ tới việc rời xa Life technology, Vi cũng có chút ngậm ngùi. Vi ra trường, tìm được việc ở công ty này, trong lúc rảnh rỗi, Vi vào trang web của Chính phủ, biết được Biomedical Research cần người, Vi liền gởi Resume xin việc. Resume gởi đi gần 2 tháng trời không có tin tức, Vi tưởng là đã chìm xuống Thái Bình Dương rồi, không ngờ lại được thư gọi interview và được nhận. Vi hồi tưởng lại khuôn mặt người interview mình sau cùng, cũng là người quyết định nhận Vi, thấy anh ta thật dễ thương và rất bình dị, không có vẻ kiêu kỳ, lạnh lùng như những người giữ chức vụ đó. Trông anh ấy giống Đại Hàn hơn là người Việt, nếu anh ta không nói câu sau cùng “Chúc mừng cô gia nhập biomedical research … “, thì Vi không thể biết anh là người Việt. Để mai mốt đi làm, mình tìm hiểu về anh ta thử xem là đã đến Mỹ lâu chưa mà giữ chức vụ ấy, không chừng mình gặp được quới nhân cũng nên. Vi mỉm cười với ý nghĩ của mình và vui mừng vì những ngộ nghĩnh, mà may mắn nàng đã gặp.

Vi theo gia đình đến Mỹ theo Chương trình HO dành cho những tù nhân chính trị như ba Vi, lúc đó Vi mới 7 tuổi. Nàng theo học từ Elementary, đến High School rồi Biomedical sciences. Thời gian đầu nàng thật không thích trường lớp tý nào. Đi học về hôm nào cũng khóc, mãi cho đến khi lên High school nàng mới có bạn và mới thích nghi được sinh hoạt học đường ở Mỹ.

Vi có rất nhiều kỷ niệm ở xứ lạnh này. Cuộc đời học trò, thủa chân ướt chân ráo của những ngày đầu bước chân vào lớp học. Nhìn những học sinh Mỹ, Vi sợ nhiều hơn là vui, không dám làm quen, chúng nói gì Vi cũng không nghe, không hiểu, chỉ cầu xin mau mau hết giờ để mẹ đón về, về nhà lại khóc vì sợ phải đi học, phải mất đến mấy tháng Vi mới quen, mới bắt đầu nghe hiểu. Một điều rất may là Vi rất giỏi toán, những bài toán, hay là các bài tập homework Vi chỉ đọc một lần hoặc liếc qua là hiểu và làm rất nhanh và rồi từ từ, Vi lên High school rồi lấy Biomedical Sciences mà đôi khi nghĩ lại, Vi thật cũng không ngờ. Điều may mắn Vi gặp được thời gian ở High school là Vi có một bà cô dạy Bio rất thương Vi, quê bà ở Nhật, lấy chồng Tân Tây Lan, làm việc cho một bệnh viện tại Mỹ, chuyên về Vi trùng học. Bà cô này đã khuyến khích Vi học biomedical, lương cao, dễ xin việc, và không vất vả như các ngành Medicine, hay Pharmacy . . .

Cuộc đời thật có những việc không ngờ, như việc Vi theo gia đình đến Mỹ. Vi nhớ khi đến đây nhằm vào mùa tuyết, tuyết rơi giống như hoa bông dưới ánh đèn đêm, Vi thích thú vô cùng. Mấy năm đầu, tuyết thật dễ thương, không thấy lạnh gì lắm, nhưng những năm về sau, mùa tuyết bỗng như lạnh hơn, nhất là những khi có ánh nắng, Vi không hiểu được tại sao, chỉ biết là khi tuyết đang rơi, người ta thấy ấm hơn là những ngày tuyết mà có ánh mặt trời.

Mười mấy năm sống ở đây, Vi đã quen thân từng dãy phố, góc đường, Tiệm Cafe, bánh ngọt… Những khuôn mặt khả ái mà mỗi khi bắt gặp vẫn dùng một kiểu xã giao trên đất Mỹ “long time no see” bây giờ phải xa họ, Vi không khỏi xao xuyến trong lòng. Tiếc nuối cũng đành ra đi, vì ba má đã già không chịu nổi giá tuyết ở nơi đây, vả lại công việc mới thích hợp với ngành học của nàng hơn, mà đặc biệt là lương cao hơn. Nàng miên man trong dòng cảm xúc của mình, thì tiếng điện thoại reo . . .

– Vi phải không, mẹ đây, vậy là mấy giờ con sẽ đến phi trường?

– Nếu không bị trễ là 10 giờ 45, nếu ba mẹ sợ lạnh thì khi nào xuống máy bay con sẽ gọi ba mẹ ra không sao.

– Ba con bảo hỏi cho chắc thôi, ba con nhờ mấy ông bạn già bên đó tìm nhà thuê giùm, họ bảo nhà cho thuê nhiều lắm, trong hai tuần thế nào cũng tìm ra nhà, mình sang sẽ có nhà ở rồi. Coi bộ ba con vui lắm, vì thoát khỏi mùa Đông ở đậy, mà nhất là gặp lại đám bạn già của ba ở bên đó.

– Được vậy thì tốt lắm, thôi nha mẹ, để con thu xếp và gọi book vé về khỏi trễ.

– Bye bye con.

Vé máy bay đi và về đã được Biomedical Research đặt sẵn cho những ai được mời interview, cả về ăn ở, do vậy Vi chỉ cần báo ngày giờ cho hãng Hàng Không là được.

Chuyến bay Vi đi thật đúng giờ, 10:50 Vi rời máy bay, vô quầy nhận hành lý thì đã thấy ba mẹ chờ ở đó, Vi ôm ba mẹ và nói tíu tit như rất vui mừng, niềm vui bộc lộ hẳn ra trên khuôn mặt, nụ cười.

– Nhìn con thì biết là công việc này con thích thú lắm phải không.

– Phải rồi mẹ ạ, tiền lương cao hơn Life technology nhiều, nơi làm việc thật khang trang với mấy dãy building vây quanh, đẹp như một thành phố, con thích lắm

– Thôi về nhà đi rồi hãy nói chuyện, ba Vi xen vào.

Về nhà, lúc ngồi ăn cơm Vi kể cho ba mẹ nghe cuộc Interview nàng đã gặp,

– Run lắm ba mẹ biết không, tới 3 người interview con trong ngày đầu, và hơn 6 tiếng liên tiếp, con phải trả lời theo sách vở, những gì đã học, và cứ lo lắng không hiểu những câu mình trả lời đúng hay là sai, nhất là về Immunology và Cellular and molecular Biology, cho đến khi đứng dậy, một trong 3 người họ bảo con, hôm nay cô làm tốt lắm, ngày mai cô có mặt đúng 8 giờ. Ngày thứ 2, con lại gặp 3 người khác, họ hỏi con về những việc con làm tại Life technology và các loại tools hay equipment con đã dùng, những dụng cụ trong phòng lab mà con biết xử dụng, nhưng chưa sử dụng, rồi họ dẫn con đến các departments như là Immunology, Molecular and Cellular Biology, Molecular medicine… Và sau cùng là Molecular Pharmacology. Họ yêu cầu con sử dụng một vài dụng cụ trong lab như Ocular Micrometer, Micropipettor, một vài software dùng trong research, tên software mà con đang sử dụng và testing… Nghĩa là họ hỏi con đủ thứ. Con vừa hồi hộp vừa lo sợ mình làm không xong, một lúc con chợt nghĩ tới bỏ cuộc. Rất may là chính lúc ấy họ bảo con “Chắc là cô đã mệt, cô có thể về, và ngày mai Mr. James sẽ gặp cô từ 9:30 đến trưa”.

Ngày thứ 3 con có mặt lúc 9 giờ, chờ chừng 15 phút thì Bác sĩ James tới gặp con, ông hỏi về Chemistry và Bio, DNA (DeoxyriboNucleicAcid), RNA, (RiboNucleicAcid), ASO (Alle Specific Oligonucleotide), PCR (Polymerase Chain Reaction) rồi một vài kiến thức về Pharmacology, sau đó ông giới thiệu về Department của ông, Molecular and cellular Biology, công việc chính của Department là nghiên cứu về di truyền (Gene structure), các mẫu của kháng thể (Modeling of antibodies) và lý thuyết của sinh học (Theoretical biology). Sau đó ông đưa con vào phòng họp của Staff và chờ interview lần chót.

Con hồi hộp đến muốn khóc khi ngồi chờ ở đây, căn phòng không rộng, nhưng cảm giác vắng vẻ làm con sợ hãi như lần làm bài thi tốt nghiệp cuối cùng. Thật là hú vía, cuối cùng rồi người interview con cũng mở cửa bước vào, con run đến nỗi quên câu chào xã giao khi đưa tay cho ông ta bắt, mà nghệ thuật interview dạy phải làm.

Ba mẹ biết không, ông phỏng vấn con cuối cùng là người Việt, cũng là người có thẩm quyền quyết định mướn con hay từ chối mướn. Thoạt nhìn, con cứ tưởng là người Đại Hàn, rất ít nói, nhưng khi nói lại có vẻ nhiệt tình và thân thiện, ông ta luôn luôn nhìn mặt con, làm con rất bối rối, con phải xin phép ra ngoài để bớt căng thẳng, điều mà khi interview không hề cho phép, con nghĩ là fail rồi, nhưng khi trở vào, ông ta chỉ hỏi con OK không, có thể tiếp tục không, và những câu ông hỏi rất nhẹ nhàng, như về antibodies, transgene, Southern blot method, và về dược học. Cuối cùng, ông ta đứng dậy bắt tay chúc mừng con tham gia vào Biomedical Research… và cho con biết bác sĩ James muốn con về làm ở Department của ông ta, (Molecular and cellular Biology). Nhờ ông ta chúc mừng bằng tiếng Việt, lúc đó con mới biết ông ta là người Việt.

-Chắc là còn trẻ và đẹp giai, nên con bối rối !

– Hì hì . . . Không phải đâu, ai mà nghĩ như má, lúc đó con rất lo sợ và hồi hộp thôi.

– Bà làm như con bà đẹp lắm, ba Vi xen vào.

– Dĩ nhiên con gái tôi thì bảnh rồi.

*

Thế là gia đình Vi rời tiểu bang lạnh giữa mùa Đông. Sau hơn 4 giờ bay, gia đình Vi đã đến nơi , và bác Tuân, bạn của ba Vi đã chờ sẵn ở phi trường để đón về nhà bác ấy tạm trú trong lúc chờ mướn nhà.

Vi có 3 ngày để chưng diện cho chính mình trong ngày đầu tiên nhận việc và mua tạm một chiếc xe để đi làm. Mẹ nàng cũng đã dặn đi dặn lại phải chưng diện một chút cho tươi tắn, “ở đây nắng ấm, không nên lùi xùi như xứ lạnh nha con”.

Vi đến chổ làm trước 15 phút, nàng vào HR để làm các thủ tục cần thiết, và làm thẻ vào cửa, rồi đến thẳng Department of Molecular and Cellular Biology gặp bác sĩ James như HR hướng dẫn, và được bác sĩ James giới thiệu với các đồng nghiệp và chỉ dẫn vắn tắt công việc của nàng, ông cho biết nàng có 4 tuần training, và giới thiệu với nàng Bác sĩ John Martin, người sẽ training và là Lead của nàng.

Đến lúc này Vi cảm thấy nhẹ nhàng thực sự, nàng nghĩ thầm, có tới 4 tuần training thì mình đâu có lo gì làm không xong. Bác sĩ John cho nàng biết về thời gian làm việc, giờ cơm và không ấn định giờ nghĩ giữa buổi, giờ nghĩ này có thể là 10 giờ, 10 giờ 30, tùy theo công việc của mỗi người, và có thể không lấy giờ nghĩ cũng không sao. Nhưng giờ làm việc ấn định là từ 8 giờ , có thể trễ một chút, nhưng phải giữ đúng mỗi ngày là 8 giờ làm việc, riêng thời gian training, bác sĩ John yêu cầu nàng đi theo giờ của ông ta là 8 giờ 30 sáng phải có mặt.

Thế là Vi đi làm đã được 4 ngày, Vi rất mong gặp lại người interview nàng lần cuối cùng, để cám ơn ông ta một tiếng, mà lúc đó nàng mừng rỡ quá đã quên mất, nhưng không gặp được ông ta, nàng cũng không dám hỏi người khác vì sợ người ta hiểu lầm là mình o bế giám đốc! Đã hết giờ, Vi vừa thu dọn hồ sơ vừa suy nghĩ, thật là may mắn, mọi người ở đây rất tử tế và thân thiện, chỉ là mình chưa gặp lại anh ấy mà thôi. Vi bước ra khỏi phòng, đi về hướng parking, mà lòng dâng lên một niềm vui nhè nhẹ… Chợt có tiếng hỏi:

– Cô là người mới tới làm ở đây phải không?

Vi giật mình quay lại,

– Dạ vâng, sao bà biết?

– Nhà tôi có bảo là mới interview một cô người Việt nên tôi đoán thôi. Ở đây không có nhiều người Việt đâu, bà bắt tay Vi và tự giới thiệu, tôi là bác sĩ Michelle, ở khoa ngoại.

– Ồ thì ra người mướn tôi là ông nhà, tôi cũng đang mong gặp ông ấy để cám ơn ông ta đã nhận tôi, mà chưa gặp được, thú thật với bà là lúc đó vui mừng quá nên tôi đã quên mất cám ơn.

– Anh ấy cũng mong gặp cô. Chỉ tiếc là anh ấy phải về trường đại học làm việc đến cuối tuần nên chưa gặp cô đó thôi.

– Thưa bà, ông bà được mấy cháu?

– Cám ơn cô, chúng tôi có 2 cháu gái, 8 tuổi và 5 tuổi. Đừng gọi bằng bà, gọi tôi là chị Loan, hay Michelle, tôi sẽ gọi cô là cô hay em cho thân mật, ở đây chỉ có 4 người Việt, một dược sĩ, một bác sĩ mới vào. Để anh ấy về, tôi mời cô tới chơi cho biết nhà, anh ấy quí người Việt lắm, nhất là những người học giỏi như cô.

– Chị quá khen, anh chị mới giỏi chứ, anh là Scientist, chị là doctor. Chắc anh chị ở gần đây?

– Cách đây chừng 30 phút lái xe.

Hai người còn đang nói chuyện thì tiếng cell phone reo lên,

– Phone của chị đó,

-Vâng, xin lỗi tôi nghe phone một chút: “Alo, Doctor Michelle. . .”

Vi không nghe được gì, nhưng một lúc sau, bác sĩ Michelle tắt phone và nói, tôi phải về phòng mổ, không hiểu có chuyện gì, xin lỗi nhé, thế nào tôi cũng gặp lại em, vừa nói vừa bước lên xe và lái đi.

Vi nhìn chiếc xe chạy ra khỏi parking mà mang cảm giác như mất một vật gì, lòng bổng nghe buồn buồn và miệng lẩm bẩm “anh ấy hạnh phúc quá.”

*

Chiều thứ Sáu, xong công việc với trường đại học, Thuận lái xe về nhà mà trong lòng vẫn băn khoăn nghĩ tới cô nhân viên mới tuyển dụng, không hiểu cô ấy có gặp trở ngại gì không, nhất là khi hay tin BS. James đã bảo nàng theo học với John, một vị bác sĩ giàu kinh nghiệm, và thông minh, nhưng lại quá nghiêm túc nên sợ mấy người trẻ sẽ gặp phản ứng.

Đã nhiều lần chàng tự hỏi mình là tại sao lại bận tâm tới cô ấy như vậy? Tình cảm này vốn vi diệu hơn bất cứ những mối tình bạn bè, hay chồng vợ, ngay cả đối với ba má nuôi chàng. Khi ba má nuôi mất đi, lòng chàng cảm thấy trống rổng và cô đơn vô cùng, nhưng nỗi đau ấy và tình cảm đó hoàn toàn khác biệt với cái nhẹ nhàng nhưng lại quấn quít và ràng buộc như tình cảm mà Thuận cảm nhận khi nghĩ đến cô nhân viên người Việt này. Nó lại càng không phải là mối tình cảm nam nữ háo hức và luyến ái, hoặc chiêm ngưỡng và mong muốn chiếm hữu.

Thật là khó mà phân tích mà không hiểu được tại sao? Chỉ biết một điều là trong những ngày qua, lúc nào Thuận cũng lo sợ cô ấy gặp phản ứng bất lợi từ các vị bác sĩ và chuyên viên kinh nghiệm trong công việc hàng ngày. Thuận đã từng có ý nghĩ cần phải để lộ một vài ưu ái cho mọi người hiểu rằng chàng thực sự cần đến người trẻ này và mọi người cần quan tâm đào tạo cô trở thành một người đảm lược của Department Research. Mà cùng chính vì điều này mà chàng thấy cần phải gặp bác sĩ James và bác sĩ John để hỏi xem khả năng cô ta như thế nào, có mẫn tiệp, và nhạy bén hay năng động với công việc hay không?

Về đến nhà, khi ngồi ăn cơm, vợ Thuận đã kế cho anh nghe cuộc gặp gở giữa nàng và cô nhân viên mới,

– Chỉ tiếc là lúc chúng em đang nói chuyện thì Phòng mổ gọi em về nên chưa hỏi thăm được gì cả, nhận xét của em là cô ấy còn vô tư, nhưng đẹp và dễ thương lắm.

– Em lại có ý kiến gì?

– Anh nên để tâm đến cô ấy một chút, nếu cô ấy gặp trở ngại, còn không thì hãy để bình thường là được rồi. Đồng hương ở đây rất ít, mà cô ta lại mang họ của anh, anh hãy tìm cơ hội gỡ đi cái rắm rối trong lòng, để tìm lấy sự thanh tịnh cho tâm hồn mà làm việc, em nghĩ đó là điều tốt nhất

– Để thứ hai anh sẽ hỏi ý kiến của John và James về khả năng cô ta trước.

– Vậy là tốt nhất.

Sáng thứ 2, sau khi họp đầu tuần với các Manager và Lead xong, Thuận đã gặp riêng bác sĩ John và hỏi về khả năng thích ứng với công việc của Vi, ông ta cho biết cô ấy rất thông minh và thích ứng rất mau chóng. Nghe vậy Thuận như bỏ được nỗi ưu tư trong lòng, và bắt đầu lo công việc hàng ngày của chàng.

Công việc của Biomedical Research thật ra rất phức tạp và bận rộn, nếu thiếu quan tâm một chút là sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng vô cùng. Từ nghiên cứu (basic research), đến ứng dụng (Applied research), hay việc đánh giá phương pháp chữa trị mới (Evaluation new treatment), cả về an toàn lẫn hiệu quả của phương pháp (Clinical trials), điều nào cũng đòi hỏi khả năng và tính nhẫn nại. Đó là chưa nói đến các nghiên cứu về Hóa Sinh, các cell và gene structure, hay là về Dược học (Pharmacology), các phát minh về thuốc và ứng dụng của nó trong các clinics, vân vân và vân vân… Do vậy, dù đã hỏi ý kiến bác sĩ John, Thuận vẫn muốn gặp Thủy Vi vào chiều nay, để lượng định khả năng cô ta và cũng là để thăm dò những điều còn khúc mắc trong lòng Thuận.

Thuận đi ngang qua nơi Vi đang training, anh thấy Vi đang chăm chú vào công việc và có vẻ bận rộn lắm, nên bỏ ý định gặp Vi trong lúc này, hãy để lúc thuận tiện đã, Thuận nghĩ vậy và trở lại văn phòng, vừa lúc vợ gọi điện thoại đến :

– Hello em đây, con gái anh đòi chiều nay đi ăn món ăn Việt Nam có được không?

– Được, nhưng anh về đón cả nhà phải không?

– OK, đúng vậy.

– Được rồi, 5 giờ anh về.

Thuận nhìn đồng hồ, còn 30 phút nữa là 5 giờ, chàng thu dọn giấy tờ trên bàn, soát xét lại công việc, ghi lấy những điều cần làm cho ngày mai và đóng cửa ra về. Đến Parking, anh thấy Vi còn mở máy xe, nhưng xe không nổ,

– Xe cô không nổ máy

– Em không biết nữa, sáng nay đi còn ngon lành.

– Cô mang từ bên đó sang?

– Không, em mua ở đây $4,500.00 đó.

– Để tôi xem thử, Vi bước ra khỏi xe, nhường chỗ cho Thuận, anh mở máy liên tiếp hai lần, không có dấu hiệu nạp điện, biết là bình acquy hết điện,

– Không sao, tại ac quy thôi, cô biết boost không?

– Không đâu.

– Được, hãy làm theo tôi dặn,

Thuận lái xe chàng tới parking lot đối diện, để đầu xe của chàng gần sát đầu xe của Vi rồi lấy cáp nối bình acquy xe chàng và xe Vi,

– Cô vào xe của cô mở máy thử đi.

– Vi làm theo sự chỉ dẫn của Thuận và chiếc xe nổ máy.

– Xe cũ là như vậy, bình cũng cũ luôn, hoặc là thay bình, hoặc là cô mua chiếc mới, cô có thể down payment một vài ngàn rồi trả hàng tháng được mà.

– Vâng để em thử, cám ơn anh nhiều lắm. Trong lúc đó điện thoại của Thuận lai reo…

– Em đây, anh ra cửa chưa,

– Anh ra rồi, nhưng xe cô Vi hết bình, anh vừa boost cho cô ấy,

– Vậy há, dịp may đấy, anh mời cô ta đi ăn theo nhà mình đi, hãy nói là birthday của con gái anh, may ra cô ta mới chịu đi.

– Ok để anh thứ nha.

– Cô Vi ạ, nhà tôi vừa gọi điện thoại tới muốn mời cô đi ăn tối với chúng tôi, chẳng có gì quan trọng đâu, chỉ là Birthday của con gái thôi.

– Ủa Birthday cháu há? Vậy cho em đi theo, nhưng em không chuẩn bị quà gì cho cháu cả, thật ngại lắm.

– Có gì đâu, coi như cô nợ cháu vậy, mai mốt cô đền cho cháu là được rồi.

– Birthday mà cũng có thể nợ quà sao?

– Ở bên này cái gì cũng có thể, huống chi là quà Birthday!

– Được, vậy thì cho em theo anh.

Thuận gọi vợ cho biết là có Vi cùng đi, và hỏi tên nhà hàng và địa chỉ, để anh đưa Vi tới mà không muốn ghé về nhà nữa sợ phiền Vi.

Thuận và Vi tới nơi thì vợ con Thuận đã tới rồi, vợ Thuận giới thiệu các con với Vi và bảo chúng gọi Vi bằng cô, trong lúc chờ chọn thức ăn, Vi gọi về nhà cho ba mẹ biết là nàng sẽ về muộn vì đi ăn Birthday của con gái boss, và dặn ba mẹ ăn cơm trước. Lấy cơ hội ấy, vợ Thuận liền hỏi Vi,

– Gia đình Vi có bao nhiêu người, Vi được mấy anh chị em?

– Em có một ông anh là quân đội, đang đóng ở bên Trung đông, ở đây chỉ còn em với ba mẹ, gia đình em cũng ít người lắm.

– Cô đang ở đâu, gần đây không?

– Em nghĩ là cũng gần, tý nữa em phải nhờ anh chị chỉ đường về mới được, gia đình em đang ở tạm nhà của bạn ba em. Còn anh chị thì sao, ông bà nội ngoại cũng ở đây?

– Ba má tôi đã qua đời, tôi là con một, nhà tôi cũng vậy.

Hai người đàn bà mãi lo nói chuyện, còn Thuận thì vui đùa với hai con, nhưng chàng vẫn để ý theo dõi câu chuyện và biết Vi chỉ có hai anh em và ba má mà thôi, đột nhiên Thuận nghe lòng mình trống rỗng, và tiếng nói của vợ dường như từ xa xôi đồng vọng dội về .

– Xin mời quí khách dùng bữa.

– À quên mất, cô Vi thích món gì? Và uống gì đây, anh gọi thức uống đi.

– Chị uống gì cho em thứ ấy, còn thức ăn thì em đã thấy trên bàn rồi.

– Món gì?

– Cá hấp cuốn bánh tráng.

– Trời ơi, sao ăn giống ông Thuận nhà này vậy.

– Anh Thuận cũng thích cá hấp hả?

– Đúng vây, món ruột của anh ấy đó.

– Hai người ăn đi chứ, nguội hết rồi, cua và tôm nếu để nguội sẽ mất ngon? Thuận nói.

– Em xin lỗi, bất ngờ quá, em không mua quà mừng sinh nhật cho cháu được, thật là ái ngại.

– Vợ chồng Thuận nhìn nhau mỉm cười, rồi quay sang hai cô con gái, vợ thuận hỏi,

– Hôm nay sinh nhật ai vậy? Dionne hay Dianna?

– Đâu có má. Ừm hừm … Ma mi vo gạo, Dionne nói.

– Mami vo gao. À ha . . . Dianna thêm vào!

– Con mới vo gạo, con mà không ăn nhanh thì đúng là vo gạo!

– Vo gạo là sao? Vi nhìn hai đứa nhỏ và hỏi.

Dionne và Dianna nhìn mẹ mĩm cười không nói. Thuận vo đầu Dianna giải thích, khi vo gạo, cô nghe âm thanh phát ra xào xạo, nên hai đứa nhỏ bảo là mẹ nói dối.

– Wow . . . con của anh chị nói tiếng Việt giỏi quá xá, biết cả tiếng lóng.

– Cũng phải cám ơn sư phụ của hai cháu đấy!

– Không có đâu, trong nhà tôi chỉ là sư đệ thôi, Thuận trả lời và tiếp, nhà tôi sợ mời cô, cô không đi nên bảo tôi nói dối là sinh nhật của cháu.

– Ra là thế, thôi hôm nay anh chị đãi em, để mướn nhà xong, em mời anh chị và hai cháu đến ăn tân gia. Nhìn thức ăn ở đây, nhất là rau em thấy ngon quá, mấy tuần nay mẹ em đi chợ toàn mua rau và cá, chả bù cho tiểu bang lạnh.

– Tôi cũng nghe người ta nói thế. À mà bây giờ cô đang ở đâu? Vợ Thuận hỏi..

– Cả nhà đang ở tạm nhà bạn của ba em.

Đột nhiên bé Dionne cắt ngang câu chuyên,

– Mẹ ơi, cô đẹp quá ha mẹ.

– Phải rồi, cô đẹp và dễ thương, lại học giỏi nữa, mai mốt con lớn phải giống cô nha.

– Dạ mẹ, Dionne trả lời.

– Hai cháu mới đẹp chứ, mai mốt nhất định là học giỏi giống ba má rồi.

– Thôi ăn giùm, cô cháu đừng có khen lẫn nhau nữa, người ta nghe thì mắc cở lắm, vã lại hình như trễ rồi, cô phải về kẻo hai bác lo, mà hai con cũng phải về ngủ để mai còn đi học, vợ Thuận nói.

– Cô về khuya có ngại không? Thuận hỏi.

– Em không sao, anh chỉ hộ em đường về là được rồi.

– Cô ở đâu?

– Em ở . . . ngã tư Poway và Bernard Rd.

– Ồ gần thôi, tý nữa cô ra thì quẹo phải, bỏ 2 ngã tư, đèn xanh đèn đỏ, đến ngã thứ 3 quẹo trái là tới rồi.

– Anh rành ở đây quá vậy?

– Nhà tôi là ông Địa ở đây đó cô.

– Em à, chúng ta để cô Vi về kẻo hai bác ở nhà đợi, vã lại hai đứa nhỏ cũng phải về ngủ, trễ rồi.

– Hai con đứng dậy chào cô đi rồi về, và vợ Thuận gọi tiếp viên tính tiền . . .

Về đến nhà, vợ Thuận bảo, thật tiếc là trong gia đình anh không có em gái. Nếu có thì đúng cô ta phải là em gái anh. Cô ta có những nét rất giống anh, như là khi cười, khi nói, mà nhất là khi cô ấy ăn, kể cả cử chỉ đưa tay lên mà nói cũng giống như anh luôn, lại còn sở tích về ăn nữa chứ. Em thật chưa cam!

Sáng hôm sau Thuận đi làm, khi ngang qua nơi Vi làm việc, nhìn sau lưng Vi, anh lại mang cảm giác lạ lùng của ngày đầu mới găp, dường như hình bóng Vi luôn luôn lẩn quất trong đầu anh. Thật là khó mà hiểu, không lý mình yêu thầm cô ta, Thuận chợt nghĩ!

Về phần Vi, cô cũng thầm hỏi, tại sao hai vợ chồng họ lại tốt với mình như vậy, phải chi chỉ có anh ấy cư xử tốt với mình thôi thì thật là dễ hiểu. Tuy nhiên Vi dấu kín tình cảm của mình và không kể cho mẹ nghe giống như những lần trước.

*

Mấy tuần nay, thứ 7 nào Vi cũng đưa ba mẹ đi tìm nhà.

– Con thấy căn nhà này ra sao Vi? Câu hỏi của ba Vi đưa Vi rời cơn mộng,

– Ừ, dạ . . . con thấy cũng tốt lắm.

– Con có sao không Vi? Bệnh há? Mẹ Vi hỏi,

– Không có, tại con đang suy nghĩ thôi. Nhà này được đó ba, 3 phòng ngủ 2 phòng tắm, thêm một Restroom, 2 garages, giá phải chăng, được phải không mẹ?

– Phải có phòng cho anh con khi nó về nữa chứ!

– Ừ thì anh “nối dõi” 1 phòng, con 1 phòng, ba mẹ 1 phòng.

Nghe Vi nhắc đến người anh nối dõi, mẹ Vi lại tưởng nhớ đến người con lớn. Đã mấy mươi năm rồi bà vẫn chưa hết ân hận việc bảo em gái của bà dẫn đứa con đi vượt biển, lúc nào bà cũng mang trong lòng cảm giác đưa con và em đi chết, và những lúc nghĩ tới việc này, bà chỉ khóc thầm rồi đấm ngực ăn năn! Thấy Vi nhìn mình, bà vội đánh trống lảng,

– Nhà này không hiểu có xa chổ con làm không?

– Để con hỏi chủ nhà xem sao?

Vi hỏi lại chủ nhà, được biết nhà này cách chợ Việt Nam 20 phút, chỉ 10 phút đi bộ qua bên kia góc đường là nhà Thờ Sainte Gabrielle, còn nơi cô làm việc . . . chắc 25 đến 30 phút. Tôi biết chắc chắn không xa đâu.

– Tường à, từ nhà này tới ngã tư Albert và Calmet mấy phút lái xe?

– Con lái thì 22 đến 25 phút, con đi hàng ngày mà. Con trai ông chủ trả lời.

Vừa lúc ấy, người bạn già của ba Vi chạy ngang qua bắt gặp, bác Thụ, bác đậu xe lại và hỏi,

– Này gia đình tính mướn nhà này há?

– Vâng, bác cho ý kiến đi.

– Nhà tôi cách đây một ngã tư, bác đi bộ tới tôi khoảng 10 đến 15 phút, mướn đi, để tôi và bác đi bộ cho vui, khu này an toàn lắm, mấy chục năm tôi ở đây thật không có gì cả.

– Vi à, vậy mình mướn nha con? Ba Vi lên tiếng.

Trên đường về, nàng dặn ba mẹ ở nhà cứ gói đồ lại rồi chiều về con chở đi từ từ ngày một ít, hy vọng tuần tới mình sang nhà mới được.

Thứ hai nàng đi làm về thì đồ đạc đã chở hết, chì còn đồ dùng hàng ngày của mỗi người mà thôi. Ba nàng và bác Tuân đang nói chuyện tâm tình, thấy Vi về, bác Tuân bảo Vi, đã đi thì để bác chở cho, lại coi xem giường, nệm, bàn ghế phòng khách, phòng ăn nhà bếp . . . cần thứ gì để bác giúp gọi điện thoại đặt mua, không cần khách sáo, rồi quay nhìn ba Vi ông nói, “Tôi vẫn còn một chút tiền có thể giúp bác được. Bạn già như bác và tôi hay ông Thụ, còn được mấy người, nói là bạn thì như mấy đứa chúng mình mới là bạn, làm bạn cũng phải trải qua thời gian, có quá khứ và kỷ niệm, như ông với tôi, chơi với nhau từ thời tiểu học, lên đệ Tam mới gặp ông Thụ, ba đứa thân nhau từ đó đến giờ, đâu phải là bạn bè khi sang đây mới gặp, thấy nhau ở các hội hè, họp mặt hay shopping, . . . Bắt tay bắt chân, nhưng khi xa nơi đó rồi mỗi người một cõi, không liên lạc, không thăm hỏi, có đâu thâm tình, có đâu tri kỷ”.

Vâng, bác, tôi và ông Thụ quả thật là tri âm mà cũng là tri kỷ, chỉ là khi đi tù cải tạo, tôi không gặp hai bác, có hỏi vài người, nhưng không ai gặp, đâu có ngờ hai bác không được “vi hành xuất tuần” thị sát dân tình Hà Bắc, Thăng long, Thanh hóa để được dàn chào ở ga Hàng Cỏ như tôi !

Cứ mặc hai ông già kể chuyện, Vi nhẫm tính túi tiền, nàng thấy vẫn còn đủ chi dùng, vã lại nàng sẽ có lương trong tuần tới, nên khi nghe bác Tuân nói tới tiền bạc Vi dặn mẹ tìm cách từ chối.

*

Công việc nhà cửa thế là đã ổn, Vi yên tâm đi làm, hàng ngày ở nhà ba mẹ nàng có thể qua nhà bác Thụ, hay đi bộ dạo chơi cho quen khu phố mình ở, không phải co ro như ngày còn ở tiểu bang lạnh.

Hai tuần sau, Vi trang hoàng xong nhà cửa, so với nơi ở cũ quả là khang trang hơn nhiêu, mẹ Vi bảo thế, còn ba thì rất vui thích, ba bắt đầu nghe lại những bản nhạc xưa như ” Chiều mưa biên giới, Tấm ảnh ngày xưa, Hoa soan bên thềm cũ, Sang ngang . . . Ba nghe hoài mỗi ngày làm Vi cũng thuộc luôn.

Vi nói với ba mẹ là nàng muốn mời gia đình ông boss của nàng tới nhà ăn cơm, và ba mẹ cũng nên mời các bác Tuân, bác Thụ và mấy bạn già của ba tới chơi cho phải lễ, khi mình tới đây được họ ân cần đón tiếp.

Dĩ nhiên là ba Vi mong muốn như thế rồi, và Vi muốn là tối thứ 7 tuần tới, để sáng thứ 7 nàng cần mua sắm chút ít đồ trang trí cho ra vẻ thanh tân.

Nhưng một chuyện bất ngờ đã xảy ra, mà sau này Vi cứ gọi đùa ba mẹ là” những vĩ nhân tạo ra kỳ tích”!

Sáng thứ 7 của hôm mời khách, Ba đưa Vi và mẹ tới chợ Vons mua khăn giấy, đĩa, muổng, nĩa, khăn bàn . . . để dùng cho tiện, không mất công rửa. Khi đi ngang qua mấy người bán bông, Vi nói với mẹ nàng muốn mua bông, và xuống xe, còn ba mẹ thì đưa xe vô parking đậu, nhưng có lẽ xe chưa nằm gọn trong lằn ranh, ông de lui de tới, đụng phải chiếc Hummer ở hàng phía sau, ông nghe tiếng đụng rồi tiếng khóc của trẻ con, nên hốt hoảng đậu xe nguyên chổ, bước ra xe cùng với vợ chạy tới xin lỗi chủ xe và coi tình hình đứa nhỏ,

– Không sao, không sao, ba mẹ đây. Người đàn bà dỗ con.

– Xin lỗi, tôi vô ý, hai cháu có sao không? Ba Vi nói.

Người đàn bà ngước nhìn ông có vẻ không hài lòng, còn người đàn ông thì hỏi lại,

– Bác có sao không? Hai cháu không sao đâu, xe đậu mà, chúng chỉ hoảng sợ thôi,

– Anh à, hãy thăm chừng xem các con đã, cẩn thận vẫn hơn.

– Để anh xem, anh trả lời vợ và hỏi các con,

– Dionne con đau chổ nào, ghế có đụng con không?

– Không có, con sợ thôi, ba hỏi em đi.

– Em đâu có sao, I’m sure!

Anh nhìn lại chiếc xe đụng xe mình bổng thấy chiếc xe quen quen, bảng số cũng quen quen hình như thấy chổ nào, nhưng thoạt nhiên anh không nhớ được.

– Anh à, hỏi bảo hiểm của bác ấy đi, xe bác bị hư, đề phòng bất trắc, ý của người đàn bà là sợ ông bà này thưa ngược lai, người đàn ông ngần ngại một lúc, rồi hỏi ,

– Bác có thể cho cháu xem giấy bảo hiểm của bác được không, hay bằng lái xe cũng được?

– Vâng, ông già trả lời và móc ví lấy bằng lái xe đưa cho người đàn ông và nói,

– Giấy bảo hiểm con gái tôi giữ, nó đang mua bông đằng kia, ông quay sang vợ, “Bà gọi con Vi tới đây đi”.

Nghe vậy người đàn ông chưa kịp coi bằng lái xe đã vội hỏi,

– Xe này của cô Vi phải không? Cô Vi làm ở Biomedical Research? Vậy bác là ba cô Vi?

– Vâng, Vi là con tôi.

Hai vợ chồng chủ chiếc Hummer cùng nhìn nhau cười, rồi cùng nhìn bằng lái xe, Thái, Trác-Ngọc, DOB 1947. Bằng lái xe rơi khỏi tay người chồng, rớt xuống đất, khuôn mặt anh nhợt nhạt, bà vợ hiểu tình trạng chồng mình liền ôm anh và bảo, hãy bình tĩnh, anh hãy bình tĩnh … Vừa lúc đó Vi và mẹ chạy tới, thấy vợ chồng Thuận, Vi sửng sốt, vội hỏi?

– Anh có sao không chị?

– Chỉ xúc động thôi, để tôi xoa bóp thái dương cho anh ấy một lúc sẽ không sao.

Nhìn ba mẹ, Vi bảo,

– Đây là bác sĩ Michelle, vợ anh Thuận, anh Thuận là Giám đốc của con.

Lúc ấy Thuận mở mắt và bảo nhỏ vợ, anh hơi mệt, em hỏi thử bác ấy đi,

– Vâng, vợ Thuận trả lời, và hỏi,

– Xin lỗi, tên bác là Thái Ngọc Trác, sinh năm 1947, Thái Ngọc Trác hay Thái Trác Ngọc?

– Thái Ngọc Trác,

– Vậy bác có thể cho nhà cháu biết tên bác gái được không?

Nghe vậy Vi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng thay mẹ trả lời, mẹ em là Chung Thị Ngọc Hân.

Thuận lẩm bẩm một mình, Thái Ngọc Trác, Chung Thị Ngoc Hân, Thái Ngọc Trác, Chung thị Ngọc Hân . . . Và vội vàng lấy trong ví ra tấm hình mà 32 năm trước đây mẹ đưa cho anh, rồi hỏi,

– Hai bác có nhận ra tấm hình này không?

Ông già nhìn tấm hình còn phân vân, người vợ vội dành lấy tấm hình xem rồi lật mặt sau ra đọc, Thái Ngọc Trác (1947), Chung Thị Ngọc Hân (1953), Thái Ngoc Thuận (1970), Thái Ngọc Trị (1973) bà vô cùng xúc động vì nhìn ra tấm hình gia đình và nét chữ của mình, bà run run giọng hỏi, “Đây là hình gia đình tôi, tại sao anh có”?

Thuận vươn tới ôm bà cùng với ông già mà nói với giọng đầy cảm xúc, gần như đứt đoạn,

– Ba mẹ ơi, con là thằng Thuận đây, con tìm ba mẹ và em hơn 30 năm rồi, tìm khắp nước Mỹ, Úc, Canada, cả Tân Đảo… Và òa lên khóc như một đứa tre.

– Thuận, con là Thuận đây sao, bà ôm Thuận và khóc trong nỗi vui mừng lẫn xúc động. Vi và Vợ Thuận cũng bước tới ôm lấy mọi người và kêu lên “Ba… mẹ…“

– Ba Vi với tay choàng lấy nàng và nói, đây là em gái con, ba đi tù về mẹ con mới sinh nó.

Vợ Thuận quay lại mở cửa xe bảo hai đứa con ra chào ông bà nội, khi hai đứa nhỏ bước tới, Thuận lấy tay lau nước mắt và nói, “Đây là hai đứa con gái của con, đây là vợ con, tên Loan”.

Vợ Thuận bảo Vi,

– Em xem xe còn lái được không thì đưa về rồi hẳn hay.

– Vâng để em thử.

Cả nhà đưa nhau về căn nhà Vi mới dọn vào, rồi bao nhiêu tâm tình hơn 30 năm Thuận và ba mẹ ngồi kể lại cho nhau, mà lòng không hết bi ai lẫn mừng rỡ.

Chiều nay, gia đình Vi không những mời bạn bè tới dự bữa cơm tân gia, mà còn là bữa ăn chúc mừng sự đoàn tụ sau hơn 30 năm chia lìa và lưu lạc.

 

Một câu chuyện cảm động trong mùa Giáng Sinh

Một câu chuyện cảm động trong mùa Giáng Sinh

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy.
Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.
Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ Giáng Sinh.
Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.
· Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.
Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mĩm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm Jim, James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.
Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.
Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.
Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.
Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh. Thứ còn lại là mái tóc của Della.
Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.
Della bước chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu “Madame Eloise”. Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ “Eloise” nào cả.
Della cất tiếng hỏi: “Bà mua tóc tôi không?”
– “Tôi chuyên mua tóc mà”, bà ta đáp và bảo : “Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi”.
Suối tóc nâu đẹp tụyệt vời buông xuống.
– “Hai mươi đồng” – bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.
– “Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi” – Della nói.
Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Ðó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.
Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.
Ðến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm :”Mình có thể làm gì với nó đây?”. Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. “Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!”. Cô tự nhủ: “Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?”
Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.
Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: “Ðừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói “Giáng sinh vui vẻ”, em có một món quà rất hay cho anh này!”
– Em đã cắt mất tóc rồi à? – Jim hỏi.
– Ðúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà! – Della nói.
Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: “Em nói là em đã bán tóc à?”
– Ðúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?
Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: “Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy”.
Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung sướng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!
Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc: “Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim”, nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.
– Ðẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.
Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cười nói: “Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em ạ”.
O-Henry