Vợ chồng và World Cup.

Vợ chồng và World Cup.

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Vợ chồng chị Bông luôn khắc khẩu từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, hai người hai suy nghĩ và ý thích khác nhau, ngay cả chuyện thời tiết nóng lạnh lúc mở nhiệt độ trong nhà cũng xảy ra bất đồng. Nhưng may quá họ cũng có một điểm tương đồng là yêu thích bóng đá mùa World Cup.

Chị Bông muốn nhân cơ hội này để vợ chồng tìm được phút giây êm ả, chị rủ chồng :

– Hôm nay anh và em cùng xem trận bóng đá giữa đội tuyển Đức và Bồ Đào Nha nhé. Đội Bồ Đào Nha có người tài hoa, đào hoa và hào hoa Cristiano Ronaldo, còn đội tuyển Đức “truyền thống” toàn là những cầu thủ đẹp trai… Đặc biệt có Bà thủ tướng Đức tham dự…

Anh Bông từ chối :

– Bà đã chia ra hai ranh giới từ lâu, tôi có cái Ti vi trong phòng ngủ, bà toàn quyền cái Ti vi ở phòng khách mà. Với lại xem bóng đá cùng với người không hiểu gì về luật lệ bóng đá như bà chán lắm, qua bao mùa World Cup cho đến nay bà vẫn… mù mờ chưa hiểu cả khi trọng tài phất cờ việt vị. Thôi, mạnh ai nấy coi cho yên thân.

Chị Bông nói như năn nỉ :

– Không, anh ơi, lần này hai ta là một, xem bóng đá World Cup mà lẻ loi không có ai bên cạnh để bàn luận thì cũng chán lắm. Tuy em chưa rành về luật lệ nhưng em biết bóng vào lưới là đủ rồi. Sắp 11 giờ trận đấu mở màn, anh ra ngoài phòng khách với em đi.

Anh Bông đành xiêu lòng :

– Thôi được, tôi cũng hi vọng bóng đá World Cup sẽ làm cho bà dễ thương hơn mọi ngày để tôi với bà không xung khắc.

Chị Bông cảm động :

– Anh và em sẽ chỉ nói toàn về bóng đá thôi nhé ? Bóng đá World Cup sẽ là nhịp cầu duyên cho vợ chồng mình hiểu nhau hơn.

– Ừ, chuyện bóng đá mình hợp nhau. Tôi cũng mong thế.

Thế là anh Bông và chị Bông mỗi người nằm một bên ghế Sofa ngoài phòng khách. Đội Đức và Bồ Đào Nha đang ra sân, cầu thủ Đức mặc áo trắng, cầu thủ Bồ Đào Nha mặc áo đỏ…

Anh Bông dặn dò trước :

– Bà đừng như những mùa World Cup trước có màn so sánh hai đội cầu thủ bên nào đẹp trai hơn nhé. Xem họ đá bóng chứ không phải xem họ thi sắc đẹp Cũng như khi bà xem DVD ca nhạc của các trung tâm bà cứ chấm điểm Ca sĩ nào đẹp hơn là nghe họ ca hát…

– Ừ, em hứa sẽ làm vừa lòng anh…

Giây phút chào nhau trước khi lâm trận đôi bên đội bóng đều tươi cười lịch sự. Chị Bông đầy kinh nghiệm :

– Chốc nữa lại chơi xấu nhau, có khi đổ máu vì nhau chứ tử tế gì. Nhưng anh ơi, cầu thủ hai đội tuyển này đầu tóc tương đối lịch sự, mấy cầu thủ đội khác để đầu tóc thấy mà ghê, như cái bờm ngựa trên đầu, em ghét lắm.

– Đầu tóc không quan trọng, cần tư cách khi thi đấu và bàn thắng.

– Họ còn xâm đầy 2 cánh tay nữa anh ạ. Em ghét lắm.

Anh Bông hiểu ý chị Bông liền giải thích :

– Bà xem bóng đá mà cứ ghét những chuyện không đâu, để ý từ tóc tai đến tay chân cầu thủ. Tattoo cũng là thời trang, không phải ai xâm tay chân mình mẩy đều là lưu manh giang hồ như bà nghĩ đâu.

– Em cũng ghét cầu thủ ở chỗ thỉnh thoảng…nhổ nước miếng anh ơi, cả tỉ người nhìn vào chẳng thanh lịch gì cả.

– Họ chạy bộ hàng giờ trên sân cỏ phải mệt, phải ngứa miệng, bà không cho người ta nhổ nước miếng à ? Bà bắt người ta phải thanh lịch như hoàng tử trong mơ của bà à ?

– Vì em muốn giữ gìn hình ảnh đẹp cho họ, cầu thủ nào cũng vóc dáng đẹp đẽ hào hoa làm thế bớt cảm tình của người xem. Em còn ghen tị với vòng eo thon gọn săn chắc của cầu thủ nữa mà.

– Vậy thì mỗi ngày bà luyện tập chạy bộ mấy tiếng đồng hồ như cầu thủ đi, khỏi phải ghen tị.

Chị Bông quay ra thắc mắc :

– Anh ơi, em thấy có trận đấu trọng tài là người nước ngoài thì giữa 2 đội và trọng tài là 3 ngôn ngữ khác nhau vậy khi tranh cãi họ sẽ nói với nhau bằng ngôn ngữ gì hả anh ?

Anh Bông bực mình :

– Nãy giờ bà toàn hỏi chuyện vô duyên tôi cố nhịn để giải thích rồi. Yêu cầu bà đừng bàn luận những chuyện bên lề nữa được không ?

Chị Bông nhắc nhở :

– Anh nhớ là đừng vi phạm “Hiệp ước hòa bình” hôm nay với em đấy nhé, thà rằng anh nói anh không biết… Chuyện bên lề cũng…liên quan đến bóng đá chứ bộ.

Anh Bông tự ái ngồi nhỏm dậy :

– Tôi có ở đấy nghe đâu mà biết họ nói với nhau bằng ngôn ngữ gì ? Thôi, tôi vào phòng xem Ti vi của tôi, bà ngồi đây tha hồ bình luận.

– Khoan anh ơi, kẻ nói phải có người nghe, anh mà vào trong em cũng vào trong và nói tiếp. Vậy anh muốn cái nào ?

– Nhưng bà đã bàn luận hết những câu vớ vẩn chưa thì tôi mới dám nằm đây xem bóng đá với bà.cho tròn lời hứa ?

Chị Bông biết điều :

– Hết rồi, em sẽ không nói chuyện ngoài lề nữa.

Để làm vui lòng chồng chị Bông đã ngoan ngoãn ngồi im xem trận đấu. Một lúc sau thì chị đi ra bếp để lấy chai nước trong tủ lạnh, chị muốn vắt quả chanh tươi vào nước cho thêm năng lượng đồng thời nước chanh cũng giúp phần giảm cân khi chị ngồi liền tù tì mấy ngày nay vì bóng đá. Tiếng reo hò làm chị vội vàng chạy ra ngoài sửng sốt :

– Anh ơi, đội nào vừa làm bàn thế ?

– Đội Đức thắng quả phạt đền. Tỉ số là 1-0.

Chị Bông tiếc rẻ :

– Em ngồi xem nãy giờ không sao, vừa rời khỏi ti vi một chút là họ đã làm bàn. Lần sau em thà nhịn đói nhịn khát.hoặc là… anh đi lấy đồ ăn thức uống cho em nhé ?

Anh Bông cương quyết :

– Tôi cũng thà nhịn đói nhịn khát cùng bà. Hai chúng ta giống nhau vì bóng đá mà. Kìa, họ chiếu lại quả phạt đền bà xem đi.

– Biết kết quả rồi còn lý thú gì ? Cái màn phạt trực tiếp mới là gay cấn đấy anh, sức ép tâm lý rất nặng với người đá và thủ môn, nhìn nét mặt căng thẳng của người sẽ đá qủa bóng và thủ môn nhấp nha nhấp nhỏm trước khung thành tưởng như thế gian không là gì ngoài quả đá phạt này..

Đức tiếp tục thắng quả thứ hai, những cầu thủ Đức trên sân cỏ ôm nhau mừng rỡ và những người ái mộ của Đức trên khán đài cũng reo hò ầm ĩ. Chị Bông vui mừng theo họ xong lại chép miệng suýt xoa :

– Nhìn người ta biểu lộ vui mừng bàn thắng chắc đội thua ngứa mắt lắm. Tội nghiệp. Đời là thế !

– Xin bà đừng triết lý ba phải và đội nào bà cũng thương nữa. Xem bóng đá phải có lập trường, ủng hộ đội nào thì ủng hộ rõ ràng..

– Em mừng vui với kẻ ghi bàn thắng cũng phải cho em thương đau với kẻ bị thủng lưới chứ… Hôm Tây Ban Nha thua đậm Hòa Lan cũng thế, lúc cầu thủ Hòa Lan làm mưa làm gió trước khung thành Tây Ban Nha, anh thủ môn vừa phóng ra xa đỡ bóng nên khung thành bỏ trống bơ vơ, hai cầu thủ Tây Ban Nha khác vội vàng và bấn loạn “múa may” trước khung thành để bảo vệ nhưng cũng không đỡ nổi quả bóng Hòa Lan sút vào lưới. Trông vừa buồn cười vừa thương.

– Bà xem bóng đá mà như xem hài kịch, thỉnh thoảng thấy bà cười ầm ĩ .

– Đúng thế, khi hai cầu thủ tranh bóng và ngã chồng chất lên nhau ở tư thế ôm nhau “thắm thiết” dù lúc nãy vừa hầm hừ với nhau như hai con gấu đói tranh mồi và khi thủ môn chụp được quả bóng nguy hiểm vào lưới, anh ta ngã sóng soài nhưng trong tay vẫn khư khư ôm chặt quả bóng hơn cả ôm tình nhân yêu quý trong đời. Những hình ảnh ấy đều làm em thích thú và bật cười.

Anh Bông nói thêm :

– Và bộ mặt thủ môn ấy sẽ thẫn thờ thất vọng khi nhìn quả bóng tung vào lưới nhà mà anh ta không cứu nổi… Ừ, bóng đá trên sân đầy kịch tính, có đủ hỉ nộ ái ố, nhiều cảnh ngộ nghĩnh.

Chị Bông lanh chanh :

– Em biết rồi, có cầu thủ can đảm tranh bóng mặc cho hiểm nguy, người bên cạnh có thể đá vào bụng, vào đầu anh ta trong tích tắc và có cầu thủ ngã sóng soài hay vập mặt vập đầu xuống sân cỏ đau lắm mà vẫn cố gắng …khều chân ra đưa quả bóng xa lưới nhà hay giao bóng gần đồng đội. Thật đáng khâm phục.

Anh Bông hào hứng tiếp :

– Khi cầu thủ duy trì giữ bóng để tìm cách giao cho đồng đội đủ thấy sự ăn ý của họ với nhau. Đội bóng tốt là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các cầu thủ.

Chị Bông mỉm cười vui :

– Hai vợ chồng mình hôm nay cũng ăn ý nhau đây. Em bàn tới đâu anh tiếp tới đó.

Hai vợ chồng chị Bông đã xem trọn vẹn trận đấu Đức và Bồ Đào Nha với kết quả Đức thắng 4-0…

Anh Bông nói :

– Thần tượng Ronaldo của bà ghi bàn lẫy lừng ở các Club lần này là mùa World Cup thứ ba có anh ta tham gia mà chẳng làm nên công trạng gì giúp cho đội tuyển Quốc gia.

– Cũng như Wayne Rooney của đội tuyển Anh, nếu em không lầm thì lần này là lần thứ hai ở World Cup cũng chẳng giúp gì cho đội tuyển trong khi chơi ở club thì ghi bàn ngon lành. Nhưng tội nghiệp nhất vẫn là đội tuyển Tây Ban Nha đương kim vô địch thế giới ngày đầu ra quân bị Hòa Lan đè bẹp.

– Tôi cầu mong Tây Ban Nha sẽ lấy lại phong độ ở trận đấu kế tiếp.

Chưa bao giờ họ ngồi bên nhau thời gian dài và nói chuyện tâm đầu ý hợp đến thế… Hai vợ chồng ra bàn ăn cơm trưa lúc 1 giờ trưa, dù cơm chị Bông nấu qua loa canh rau cải xanh nấu với tôm khô và món trứng tráng tại chỗ nóng hổi anh Bông ăn vẫn thấy ngon lành, có lẽ từ niềm vui bóng đá và từ niềm vui hai vợ chồng thuận hòa.

– Anh ơi, ăn cơm xong mình chuẩn bị xem tiếp bóng đá đội Iran và Nigeria lúc 2 giờ pm và trận Mỹ với Ghana lúc 5 giờ PM anh nhé…

– Dĩ nhiên rồi…

Chị Bông hứa hẹn :

– Chiều nay thay đổi trận đấu thì em cũng thay đổi món ăn cho anh luôn.

Anh Bông cảm động và tò mò hỏi vợ :

– Vậy bà sẽ cho tôi ăn món gì?

– Buổi trưa em nấu canh rau cải với tôm khô, chiều nay em sẽ…luộc rau cải, buổi trưa em tráng trứng thì chiều nay em…luộc trứng.

– Tóm lại vẫn là rau cải và trứng ?

Chị Bông nũng nịu :

– Vâng, vì cả ngày xem 3 trận đá bóng em còn tâm trí và sức lực nào mà bày ra những món ăn công phu nữa chứ. Anh cũng là một tín đồ say mê bóng đá mùa World Cup thì phải hiểu và thông cảm cho em.

Anh Bông mỉm cười dễ dãi :

– Tôi welcome món rau cải và trứng của bà, vì bóng đá và nhất là vì lời nói mềm mỏng dễ thương khác hẳn bấy lâu nay của bà. Ước gì…

– Ước gì mai mốt đi nhà hàng ăn món ngon để bù lại hả anh ?

– Không, tôi ước gì năm nào cũng có bóng đá World Cup thì vợ chồng mình sẽ thôi khắc khẩu, sẽ hạnh phúc triền miên…

Chị Bông cũng mỉm cười nhìn chồng. Anh nói đúng như trong lòng chị đang nghĩ.

Hạnh phúc thay mùa bóng đá World Cup.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( June, 16, 2014)

 

Vé độc đắc như chén rượu độc!

Vé độc đắc như chén rượu độc!

Chu Nguyen

Cuối tháng 03, 2013, giới truyền thông Anh quốc được phen giới thiệu một bi hài kịch của một chàng trung niên của vương quốc sương mù. Nhân vật Roger Griffiths đang sống cuộc sống bình thường của một trí thức bậc trung, kinh tế ổn định hạnh phúc bên vợ là Lara và hai con gái kháu khỉnh thông minh, bỗng nhiên trúng số với vé trúng 1,8 triệu bảng Anh tương đương với khoảng 2,6 triệu Mỹ kim. Nhưng trong thời gian chưa đầy 6 năm, anh ta chỉ còn có 7 bảng Anh hay vào khoảng 10 Mỹ kim.

Trúng số thay đổi cuộc đời, có thể tốt hơn hay xấu hơn có khá nhiều thí dụ trong đời sống thường ngày. Nhưng có điều chắc chắn, trúng số đã khiến người ta thay đổi cuộc đời và áp lực thay đổi khiến nhiều nhà tân triệu phú mất hẳn cái bản sắc, cá tính vốn có lúc chưa trúng số.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng từng viết truyện Trúng số độc đắc. Nhân vật chính là Nguyễn văn Phúc, thất nghiệp bị gia đình và vợ khinh bỉ, xin việc thì bị chủ Tây vứt đơn vào sọt rác. Nhưng bỗng nhiên chàng trai trúng số và bắt đầu cảm thấy có sự đổi thay nơi bản thân, cả thế giới bên ngoài như đổi hẳn cách nhìn anh ta. Từ đó, tạo ra biết bao bi hài kịch của một người khố rách áo ôm chỉ vì bỗng nhiên trở nên giàu có.

Truyện đời thực không nhằm mỉa mai đời mà tập trung vào người trong cuộc. Hai vợ chồng cầm trong tay món tiền từ trên Trời rơi xuống và rất thường tình, họ bàn tán có nên bỏ việc không, làm cách nào làm giàu thêm nhờ có vốn nhưng rồi tiền bạc làm thay đổi cách sống của họ, “ăn theo thuở ở theo thời” nên chỉ trong thời gian ngắn là tiêu hết của hoạnh tài và đôi lứa “không nhìn về một phía” nữa mà nhìn nhau, trách móc nhau.

Roger Griffiths bào chữa trước lời chỉ tích của vợ: “Cô ấy trách tôi làm tiêu tan 1,8 triệu bảng… nhưng sao cô ấy không nhớ đã tiêu biết bao nhiêu ở Louisvutton ?”
Nguyên nhân nào khiến tiền bạc trôi nhanh như nước chảy về đông? Không phải kẻ bàng quan đoán mò mà chính người trong cuộc đã cho báo chí biết tình trạng của họ.

Vinh hoa kéo dài 6 năm:

Đôi vợ chồng trẻ Roger Griffiths trước 2005, sống êm đềm và đầy đủ trong một căn nhà bốn phòng ở Boston Spa ở West Yorkshire, Anh quốc, và chẳng bao giờ đóng trễ tiền mortgage. Người chồng kiếm 38.000 bảng mỗi năm. Lương người vợ cũng xấp xỉ. Có thể nói vợ chồng Griffiths “trông lên không bằng ai nhưng trông xuống cũng nhiều kẻ không bằng mình” vì lương của chồng, giám đốc một bộ phận tuyển dụng trong ngành IT, và lương vợ, giáo sư môn nghệ thuật tại một trường trung học, đủ để họ sống hết kiếp trong sung túc. Nhưng họ không tri túc mà muốn trở thành phú ông, sống như triệu phú, và cách duy nhất để nuôi hy vọng là mua vé số quốc gia. Mỗi tuần Griffiths để ra 2 bảng để đánh số. Có trúng số mới được làm triệu phú và sống vô giới hạn nghĩa là tự do, thoải mái và có thể đạt được giấc mơ trong đời mình.
May cho họ, thần tài gõ cửa vào 2005 với vé độc đắc trúng 1,8 triệu bảng Anh.

Đêm nghe tin trúng độc đắc, vợ chồng Griffiths đã tung tiền ra cho dạ tiệc và tưới sâm banh vào chiến thắng. Tiếp đó mua ngay chiếc Audi giá 18.000 bảng và Lara thì vội vàng tổ chức du lãm Dubai cùng chồng con bằng hạng dành cho kỹ nghệ gia và ở khách sạn 5 sao cho thỏa thích. Roger nhớ lại và có ý tự hào về sự xài sang: “Trong mười ngày chúng tôi đã xài hết 15.000 bảng”.

Roger còn kể thêm, Lara thì thích sắm đồ và cả ngày lượn quanh khu bán sắc tay loại xịn Louis Vuiton bất chấp giá cả hoặc chọn trang sức hột xoàn đắt tiền. Còn anh, anh khiêm tốn hơn… chỉ thích chơi xe sang và ăn mặc bảnh bao..

Trở về Anh họ tính mua nhà và chọn một kiến trúc ở Whetherby. Họ đã bỏ ra 18.000 bảng để tân trang như ý và 25.000 bảng để sắm đồ đạc.

Không ngừng tại đó, Roger thay xe Porsshe cho xứng vời danh hiệu phú ông, còn Lara thì đổi Audi sang Lexus. Hai cô con gái cũng được đổi trường, Ruby, giờ đã 9 tuổi, còn Kitti, 6, lập tức được chuyển trường tư, tốn phí 20.000 bảng mỗi năm.
Giàu thì phải sống như triệu phú mới được, họ thường tổ chức đi du lịch, sau Dubai, là New York, Florida và Rome và luôn luôn chọn khách sạn hạng sang như Royal Suite of St. Regis vì có người quản lý riêng.

Thứ bảy nếu buồn, vợ chồng tân triệu phú lên London thuê khách sạn thứ xịn là One Aldwych để hưởng thụ cho tiện nhưng giá không rẻ đâu nhé vì tới 300 bảng một đêm vui. Không sao vì họ có dịp gặp những ngôi sao màn bạc nổi danh và chụp ảnh chung làm kỷ niệm.
Vốn đẹp trai nhưng có tiền thì nên đánh bóng cho hình thức thẩm mỹ như làm trắng bộ răng ám thuốc lá, xài 300 bảng mỗi lần cho việc bơm Botox, tốn hơn 500 bảng xăm hình, trong đó trên bắp vế có cả tên người vợ là Lara.

Roger Griffiths không phải chỉ tung tiền ra mua những xe sang trọng nhất, mà còn toan đầu tư kiếm lời chứ không bằng lòng với số lợi nhuận do tiền gửi ngân hàng trả hằng tháng vào khoảng 340 bảng Anh một ngày, nhất là hai vợ chồng đã bỏ việc mà muốn chơi sang.
Có tiền thì muốn thực hiện giấc mộng khi còn tay trắng mộng đầy, Griffiths có máu nghệ sĩ, anh ta nhớ lại lúc còn học ở đại học cùng bạn bè lập một băng nhạc nhưng không có tiền để phát triển băng này nên sau khi rời trường thì thành viên tan tác. Griffiths bèn tập hợp bạn bè cũ lại và cho ra album mới sau khi đầu tư £25,000 (50.000 Mỹ kim) nhưng số xui, quảng cáo ra rả nhưng chỉ bán được 600 đĩa CD.

Không phải Griffiths không có ý đầu tư. Vợ chồâng anh ta đã bỏ ra 200.000 bảng Anh để lập thẩm mỹ viện, lấy tên là The Spa Lounge ở Boston Spa.
Griffiths cho biết đã làm cật lực để đưa Spa lên nhưng chỉ mấy tháng kinh doanh đầu tiên có lời rồi thì kinh tế khủng hoảng khiến vợ chống anh ta thua lỗ.

Như thế lỗi không hoàn toàn ở Roger Griffiths mà do thời cuộc đã làm tan giấc mộng vàng của vợ chồng anh. Hơn thế nữa, hình như đồng tiền xổ số mang lại không phải không có chút bất hạnh. Trước hết là thân phụ Lara lâm bệnh, chết năm 2009 rồi đêm trừ tịch Tết Tây 2010 một đám cháy bất ngờ phát ra làm tiêu tan biết bao tài sản trong tổ ấm của vợ chồng Griffiths. Cặp này lại bảo hành không đủ mặt nên phải móc túi ra cho việc sửa chữa. Hai tháng sau khi trở về nhà cũ và Lara đau đớn phát giác trong email của chồng có dấu hiệu ngoại tình. Roger chối và bị vợ cật vấn thì cuộc cãi nhau bùng nổ và chàng khăn gói ra đi.

Như trên đã nói, một cuộc đầu tư vụng trong thời gian kinh tế khủng hoảng, đã khiến Griffiths không những mất tiền, mất nhà và hôn nhân tan vỡ. Giờ đây chàng trai nợ nần cùng mình đi làm cũng để trả nổi những “bill” khi có tiền vung tay quá trán và giờ đây, thất thế đành ngửa tay xin tiền cha mẹ giúp lúc cùng đường. Cựu triệu phú tâm sự: “Số tiền giờ đây tôi kiếm được không đủ dùng để trả hóa đơn chồng chất cái thuở hoàng kim. Nếu không có gia đình giúp đỡ thì tôi nguy rồi. Nhìn lại mới thấm thía cầm vé số độc đắc chẳng khác gì nhận ly rượu độc”.
Hoàn cảnh Lara vô cùng áp lực. Không còn chọn lựa nào khác ngoài tiếp tục bơm tiền vào dịch vụ bằng cách cầm cố nhà lấy tiền củng cố cửa hàng. Những lỗ này tiếp theo lỗ khác nên nhà có cơ nguy bị tịch thu.

Trước đó, Roger Griffiths lại bay bướm, tìm của lạ khi có tiền trong tay và khi vỡ nợ thì gánh nặng tiền bạc đổ vào đầu Lara, chàng ta nhanh chóng dọn ra ngoài thuê phòng trọ, còn nàng nuôi con và kiếm tiền hằng tháng nhưng không đủ trang trải nợ nần và có cơ nguy mất nhà.
Cuộc tình 14 năm tan vỡ, chồng đổ cho vợ, vợ đổ tội cho chồng về việc tiêu quá nhanh “món tiền trời cho” và hậu quả tới nước trắêng tay lại mang nợ.

Lara nghĩ tới lần trúng số mà tê tái. Nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt Lara tâm sự với một ký giả: “Tôi đã nhận ra trúng số không tốt như người ta tưởng đâu. Một số người sau khi trúng số lại tệ hơn lúc trước khi hưởng độc đắc, chỉ vì chúng ta thắng được món tiền chứ không kiếm ra nó. Tôi không những phải làm lại từ đầu mà hoàn cảnh còn tệ hại hơn trước khi trúng số”.
Lara cho đến nay khi nhắc lại thất bại của đời mình đều đổ tại chồng vụng tính. Bà than thở: “Anh ấy đưa giấy tờ đầu tư mỹ viện nhưng tôi không đọc và chỉ biết ký tên và khi biết thì đã muộn phải gánh chịu hậu quả thua lỗ”.

Ngày nay Lara phải làm việc với vai trò chuyên viên thẩm mỹ cho mỹ viện mà trước kia của mình nhưng sau này phải bán sau khi lỗ 500.000 bảng Anh.
Trở lại cảnh nghèo sau khi tỉnh giấc mộng nam kha lẽ ra cả hai vợ chồng Roger Griffiths có thể đối phó được nếu Roger vẫn là chàng trai thuở ban đầu. Lara nhớ lại, cả hai gặp nhau khi cùng học ở Đại học Lanscaster và lấy nhau vào năm 1997. Lara tâm sự: “Trong dịp kỷ niệm 10 năm lễ cưới anh ta gửi cho tôi một tấm thiếp cho tôi biết anh tự hào vì có tôi và rằng mỗi giây trôi qua tình yêu của anh dành cho tôi càng tăng thêm”.

Nhưng sau khi trúng số Roger đã biến thành một người khác xa lạ với Lara. Hờ hững và đôi khi nặng lời với vợ, theo đuổi vụng trộm cô gái khác, lạnh lùng với con. Những biểu hiệu này làm hôn nhân từng kéo dài 14 năm tan vỡ. Lara tâm sự: “Tôi chấp nhận lấy Roger vì anh ta là người biết suy nghĩ và rất tốt. Anh ấy săn sóc tôi và con cái và là người cha ưu tú… Giờ đây nhìn lại chúng tôi chỉ trao đổi ý kiến qua text và nhiều khi “gặp nhau ghé nón chạm vai chẳng chào”.

Phải chăng tiền bạc vun xới ái tình và chính nó có thể dập tắt lửa tình và trúng số có thể xây dựng lâu đài hạnh phúc nhưng cũng đôi khi xói mòn chân móng hạnh phúc.

5 câu chuyện hay về người Cha

5 câu chuyện hay về người Cha

Câu chuyện thứ 1: Con có còn dư đồng nào không?

Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi. Từ nhà đếnchỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:”Có dư đồng nào không con?”. Tôi đáp:”Còn dư bốn ngàn ba ạ”. Ba nói tiếp:”Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”. Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng…
(ST)

Câu chuyện thứ hai: Quà con tặng bố

Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà màu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp giấy.

Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ vẫn mang hộp quà đến nói với cha: “Con tặng bố!”. Người cha cảm thấy bối rối vì cơn giận dữ của mình tối hôm trước, nhưng rồi cơn giận dữ lại bùng lên khi ông mở ra, thấy cái hộp trống rỗng.

Ông mắng con gái. Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, thưa: “Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào hộp để tặng bố mà!”.
Người cha giật mình. Ông vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ cầu xin con tha thứ.

Đứa con gái nhỏ, sau đấy không bao lâu, qua đời trong một tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn khư khư giữ cái hộp giấy bên mình, mỗi khi gặp chuyện nản lòng, ông lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nghĩ đến tình yêu mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.

Trong cuộc sống, chúng ta đã và sẽ nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy tình yêu và những nụ hôn vô tư từ con cái của chúng ta, từ bạn bè, gia đình. Trên đời này, chúng ta không thể có được tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu vô tư như thế.(ST)

Câu chuyện thứ ba: Ngọn nến không cháy

Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi. Người cha quá đau khổ , tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi.

Một hôm, ngưòi cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Đứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gấi bé bỏng của mình.

Ông tiến lại gần và hỏi con rằng: ” Tại sao nến của con lại không cháy?”. Bé gái đã đáp rằng: ” Con đã cố lắm nhưng không được cha à! Mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những gịot nước mắt của cha lại dập tắt hết ngọn nến của con”.

Đến đó thì người cha choàng tỉnh. Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, lại sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh bởi ông không muốn những giọt nước mắt của ông lại dập tắt ngọn nến hi vọng của con ông.

Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé! Bởi ngoài kia, đâu đó, ở một nơi nào đó, người thân của bạn đang nhìn bạn mỉm cười
(ST)

Câu chuyện thứ tư: Tô mì

Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách rất đặc biệt, một người cha và một người con. Nói đặc biệt là bởi vì người cha bị mù. Người con trai đi bên cạnh cẩn mẫn dìu người cha. Cậu con trai trạc mười tám mười chín tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng từ cậu lại toát lên nét trầm tĩnh của người có học, dường như cậu vẫn đang là học sinh..

Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi: “Cho hai bát mì bò!”, cậu nói to. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta nhoẻn miệng cười biết lỗi, rồi chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, bảo tôi rằng chỉ làm 1 bát mì cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành là được. Lúc đầu, tôi hơi hoảng, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát mì thịt bò như vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, thực ra thì tiền không đủ, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười với cậu ta tỏ vẻ hiểu ý.

Nhà bếp nhanh nhẹn bê lên ngay hai bát mì nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát mì bò đến trước mặt cha, ân cần chăm sóc: “Cha, có mì rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!”. Rồi cậu ta tự bưng bát mì nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con. “An đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội.” Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn lại sáng lên nụ cười ấm áp. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên đó là, cái cậu con trai đó không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, mà cứ im như thóc đón nhận miếng thịt từ bát của cha, rồi lại lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về.

Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. “Cái quán này thật tử tế quá, một bát mì mà biết bao nhiêu là thịt.” Ông lão cảm động nói. Kẻ đứng ngay bên cạnh là tôi, chợt toát hết cả mồ hôi, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, quắt queo bằng móng tay, lại mỏng chẳng khác gì xác ve. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: “Cha à, cha ăn mau ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này. ” “Ừ, ừ, con ăn nhanh lên, ăn mì bò thực ra cũng có chất lắm đấy.”

Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai cha con họ. Vừa lúc đó, cậu Trương đầu bếp bê lên một đĩa thịt bò vừa thái, bà chủ dẩu dẩu môi ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: “Anh để nhầm bàn rồi thì phải?, chúng tôi không gọi thịt bò.” Bà chủ mỉm cười bước lại chỗ họ: “Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỉ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng. ” Cậu con trai cười cười, không hỏi gì thêm.

Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa. Chúng tôi cứ im lặng chờ cho hai cha con ăn xong, rồi lại dõi mắt tiễn hai cha con ra khỏ quán. Mãi khi cậu Trương đi thu bát đĩa, đột nhiên kêu lên khe khẽ. Hoá ra, đáy bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò, được viết trên bảng giá của cửa hàng. Cùng lúc, Tôi, bà chủ, và cả cậu Trương chẳng ai nói lên lời, chỉ lặng lẽ thở dài, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.”
(ST)

Câu chuyện thứ năm: Đấu giá cuối cùng (đã phổ biến)

Có một người đàn ông yêu thích mỹ thuật. Ông ta say mê đến mức gần như sống vì niềm say mê của mình. Sưu tập tranh là mục tiêu cả đời của ông.

Ông làm việc rất chăm chỉ để dành tiền tiết kiệm nhằm mua thêm các tác phẩm hội họa cho bộ sưu tập của mình. Ông mua rất nhiều tác phẩm của các họa sỹ nổi tiếng.

Người đàn ông này đã góa vợ. Ông chỉ có một người con trai. Ông đã truyền lại cho con mình niềm say mê sưu tầm đó. Ông rất tự hào về con trai của mình khi anh ta cũng trở thành một nhà sưu tầm nổi tiếng như ông.

Một thời gian sau, đất nước bỗng có chiến tranh. Người con trai, cũng như mọi thanh niên khác, lên đường tòng quân. Và sau một thời gian thì câu chuyện xảy ra…

Một hôm, người cha nhận được một lá thư thông báo rằng người con đã mất tích khi đang làm nhiệm vụ. Người cha đau khổ đến tột cùng. Thật là khủng khiếp khi người cha không thể biết được điều gì đang xảy ra với con mình. Vài tuần sau ông nhận được một lá thư nữa. Lá thư này báo với ông rằng con ông đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Ông gần như chết đi một nửa người. Thật khó khăn khi đọc tiếp lá thư đó, nhưng ông vẫn cố. Trong thư, người ta báo rằng con ông đã rút lui đến nơi an toàn. Nhưng thấy trên bãi chiến trường vẫn còn những đồng đội bị thương, con ông đã quay lại và đưa về từng thương binh một. Cho đến khi đưa người cuối cùng về gần đến khu vực an toàn thì con ông đã trúng đạn và hy sinh.

Một tháng sau, đến ngày Noel, ông không muốn ra khỏi nhà. Ông không thể hình dung được một Noel mà thiếu con trai mình bên cạnh. Ông đang ở trong nhà thì có tiếng chuông gọi cửa. Đứng trước cửa nhà là một chàng trai tay cầm một bọc lớn.

Chàng trai nói “Thưa bác, bác không biết cháu, nhưng cháu là người mà con bác đã cứu trước khi hy sinh. Cháu không giàu có, nên cháu không biết đem đến cái gì để đền đáp cho điều mà con bác đã làm cho cháu. Cháu được anh ấy kể lại rằng bác thích sưu tầm tranh, bởi vậy dù cháu không phải là một họa sỹ, cháu cũng vẽ một bức chân dung con trai bác để tặngcho bác. Cháu mong bác nhận cho cháu.”

Người cha đem bức tranh vào nhà, mở ra. Tháo bức tranh giá trị nhất vẫn treo trên lò sưởi xuống, ông thay vào đó là bức chân dung người con. Nước mắt lưng tròng, ông nói với chàng trai “Đây là bức tranh giá trị nhất mà ta có được. Nó có giá trị hơn tất cả các tranh mà ta có trong căn nhà này.” Chàng trai ở lại với người cha qua Noel đó rồi hai người chia tay. Sau vài năm, người cha bị bệnh nặng. Tin tức về việc ông qua đời lan truyền đi rất xa. Mọi người đều muốn tham gia vào cuộc bán đấu giá những tác phẩm nghệ thuật mà người cha đã sưu tầm được qua thời gian.

Cuối cùng thì buổi bán đấu giá cũng được công bố vào ngày Noel năm đó. Các nhà sưu tầm và những nhà đại diện cho các viện bảo tàng đều háo hức muốn mua các tác phẩm nổi tiếng. Toà nhà bán đấu giá đầy người.

Người điều khiển đứng lên và nói “Tôi xin cám ơn mọi người đã đến đông đủ như vậy. Bức tranh đầu tiên sẽ là bức chân dung này…”

Có người la lên “Đó chỉ là chân dung đứa con trai ông cụ thôi! Sao chúng ta không bỏ qua nó, và bắt đầu bằng những bức có giá trị thật sự?”
– Người điều khiển nói “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng bức này trước!”
– Người điều khiển bắt đầu “Ai sẽ mua với giá $100?”
– Không ai trả lời nên ông ta lại tiếp “Ai sẽ mua với giá $50?”
– Cũng không có ai trả lời nên ông ta lại hỏi “Có ai mua với giá $40?”

Cũng không ai muốn mua. Người điều khiển lại hỏi “Không ai muốn trả giá cho bức tranh này sao?” Một người đàn ông già đứng lên “Anh có thể bán với giá $10 được không? Anh thấy đấy, $10 là tất cả những gì tôi có. Tôi là hàng xóm của ông cụ và tôi biết thằng bé đó. Tôi đã thấy thằng bé lớn lên và tôi thật sự yêu quý nó. Tôi rất muốn có bức tranh đó. Vậy anh có đồng ý không?”

Người điều khiển nói “$10 lần thứ nhất, lần thứ nhì, bán!”

Tiếng ồn ào vui mừng nổi lên và mọi người nói với nhau “Chúng ta có thể bắt đầu thật sự được rồi!” Người điều khiển nói “Xin cảm ơn mọi người đã đến. Thật là vinh hạnh khi có mặt những vị khách quý ở đây. Bữa nay chúng ta sẽ dừng tại đây!”

Đám đông nổi giận “Anh nói là hết đấu giá? Anh vẫn chưa đấu giá toàn bộ các tác phẩm nổi tiếng kia mà?” Người điều khiển nói “Tôi xin lỗi nhưng buổi bán đấu giá đã chấm dứt. Mọi người hãy xem chúc thư của ông cụ đây, NGƯỜI NÀO LẤY BỨC CHÂN DUNG CON TÔI SẼ ĐƯỢC TẤT CẢ CÁC BỨC TRANH CÒN LẠI! Và đó là lời cuối cùng!”

 

Sự hy sinh của Cha tôi

Sự hy sinh của Cha tôi

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com


VRNs (11.06.2014) – Sài Gòn – Nếu có ai hỏi tôi về mối quan hệ của tôi với cha tôi, tôi nói với người đó rằng tôi chỉ là đứa con gái bé bỏng của cha. Ông không nói thương tôi hoặc hãnh diện về tôi, nhưng tôi luôn biết rằng ông tin tôi. Mặc dù ông không là người đàn ông tình cảm, tôi cũng chẳng bao giờ hỏi về tình thương mà cha tôi dành cho tôi. Vai trò đầu tiên của cha tôi là người “chống mũi chịu sào” cho cả gia đình tôi. Ông làm việc tại một nhà máy sản xuất vỏ xe và không ở nhà nhiều. Nhưng điều đó không ảnh hưởng tới tình cảm của tôi. Tôi thần tượng cha tôi, cũng như những đứa con gái khác đối với cha mình. Cha con tôi có mối ràng buộc đặc biệt mà ngay cả mẹ tôi cũng không hiểu, mối quan hệ đó mãi tới nay tôi mới có thể diễn tả.

Nhưng trong gia đình tôi có những điều thay đổi. Khi tôi học xong trung học, mẹ tôi qua đời. Điều này làm thế giới của tôi đảo lộn và làm cha tôi kiệt quệ. Tôi mất mẹ đêm đó, và tôi cần cha hơn bao giờ hết. May thay, mối quan hệ gia đình của chúng tôi vẫn nở hoa. Chúng tôi bắt đầu ăn tối với nhau, đi nhà thờ với nhau, và dành thời gian cho nhau. Hệ lụy đặc biệt giữa chúng tôi phát triển mạnh mẽ và tiếp tục suốt bốn năm đại học của tôi.

Khi tôi vào đại học, cha tôi nói với tôi rằng tôi có thể học bất cứ trường nào mà tôi muốn. Cha tôi ngạc nhiên khi tôi chọn một trường đại học tư với mức học phí rất cao, và phải mất 90 phút để tới trường. Tôi được học bổng đủ để trang trải nửa chi phí ăn học, còn một nửa cha tôi lo. Khi tôi nói với cha tôi về chuyện này, ông nói: “Được”. Cha tôi hứa và đã hoàn tất lời hứa đó.

Tôi bắt đầu nhập học. Tôi học giỏi và tham gia các hoạt động khác. Nhưng tôi phải chiến đấu vì tôi sợ nói trước công chúng. Cha tôi luôn đông viên tôi. Khi tôi cần tiền, ông gởi bao thư tiền cho tôi và ghi: “Túi tiền của ba”. Thấy vậy tôi cứ cười suốt. Ông lái xe tới trường đưa tôi đi mua sắm.

Có ba lần tôi cảm thấy mình có lỗi với sự hy sinh của cha tôi. Nhưng vào một ngày Chúa Nhật, tôi hiểu tại sao ông đã làm những điều đó vì tôi. Sáng hôm đó tôi ngồi trong nhà thờ nghe giảng về ý nghĩa của người chăn chiên, có một câu đánh động lòng tôi: “Người chăn chiên hy sinh vì yêu thương đoàn chiên, từ bỏ chính mình vì người khác”. Lúc đó, tôi  mới thực sự hiểu. Cha tôi yêu tôi nhiều đến nỗi cho tôi những gì tôi cần dù điều đó khiến cha tôi tốn kém. Cha tôi hy sinh để tôi có thể học ở trường mà tôi thích, cha tôi làm vậy mà không hề than thở. Cha tôi chấp nhận mọi thứ vì ông đã hứa với tôi. Đó là cách ông bày tỏ tình thương dành cho tôi.

Vài tuần sau, cha tôi chứng kiến tôi nhận hai tấm bằng cử nhân, một về khoa sinh học và một về khoa tâm lý. Vẫn như thường, cha tôi không nói nhiều. Ông chỉ vui vì thành công của tôi. Sau lễ tốt nghiệp, cha tôi ôm tôi và nói với tôi về điều mà tôi muốn biết: Cha tôi hãnh diện về tôi dù tôi đã làm gì có lỗi.

Hằng ngày, tôi vẫn tạ ơn Chúa về cha tôi. Thật vậy, người cha là hình ảnh Chúa Cha hiện diện trên thế gian này. Người cha bảo vệ con cái khỏi điều xấu, sửa dạy con cái khi chúng lầm lỗi, hướng dẫn con cái trở thành người tốt, yêu thương con cái ngay khi chúng lầm lỗi và không còn ai yêu thương chúng. Tôi thấy Chúa Cha trong những hy sinh của cha tôi, tôi thấy tình yêu của Thiên Chúa qua tình thương của cha tôi, và tôi tạ ơn Chúa đã ban cho tôi có một người cha tuyệt vời như vậy!

Sách Huấn Ca dạy: “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân. Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, để nhờ người mà con được chúc phúc. Vì phúc lành của người cha làm cho cửa nhà con cái bền vững, lời nguyền rủa của người mẹ làm cho trốc rễ bật nền. Chớ vênh vang khi cha con phải tủi nhục, vì nỗi tủi nhục đó chẳng vinh dự gì cho con. Quả thật, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính; và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh chê. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3:1-16).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

 

Tiếng đàn Piano nửa đêm…

Tiếng đàn Piano nửa đêm…

NỖI NIỀM

(Piano solo Quỳnh Tín)

http://nguyentran.org/NT/Hinh/TiengDanPiano.jpg

Một người bạn gởi cho tôi câu chuyện này, không rõ tác giả, một câu chuyện thực sự cảm động và hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa về cuộc sống. Bài viết gần như hoàn chỉnh tôi chỉ sửa một số lỗi chính tả và hiệu chỉnh lại một số đoạn cho rõ nghĩa hơn. Tựa do tôi đặt lại. ( NĐH).

– Một ngày anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen.

Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt :- Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây ?

Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong sự hổ thẹn :

– Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm !

Chị sầm mặt xuống :

– Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc lên đầu lên được, hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy ?

Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ chị.

Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối anh :

– Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa !

Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối :

– Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được, anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, chỉ nửa năm hay vài ba tháng cũng được, em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh lại đón nó về.

Chị thở dài :

-Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi, thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã, có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.

Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn.

Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi, tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.

* Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Đông Đức. Chị theo học Đại học Sư phạm Hà Nội . Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây Đức. Chị tốt nghiệp đại học và về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình.

Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.

Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức.

Vừa sang Đức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta.

Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu, để có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được.Nên không dám mạo hiểm ra làm ăn.

“Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”, đó là câu nói cửa miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.

Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nữa năm mới được về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh. Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó. Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ.

Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.

Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.

Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.

Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.

Thành phố Bremen là thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố.

Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.

Chị không phải là người vô tâm, nên thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng con cho anh. Trong những dịp năm mới hay Noel, chị cũng có quà riêng cho con bé, nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến trực tiếp tặng quà cho con bé trước ngày lễ giáng sinh nữa.

Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ. Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Nhưng chị biết dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.

Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm.

Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.

Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng. Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được. Đi học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ của nó, mẹ nó, và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.

Em trai nó học thêm Piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn Piano rất đẹp để ở phòng khách. Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa. Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm,.. đàn..đàn…klavia….con muốn… Anh thở dài và hát cho nó nghe.

Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần.Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó dở chứng.

Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn Piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi Piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn Piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng chị nên chị không quan tâm.

Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì. Chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió…..ôi cha già đi cha biết không…”.

Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát. Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa. Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ.

Chị hỏi, bốn tháng rồi hả. Nó gật đầu.

Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.

Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ. Đại ý là nó diễn đạt rằng:

-” Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra đi được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con..”

Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói, con gái ngoan của mẹ, ngày mai nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg….

Đoạn kết :

Tôi nghe người ta kể lại câu chuyện đó, khi đi dự một cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị. Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài hát “Người Cha Yêu Dấu” bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Đức. Quá kinh ngạc nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng họ đã kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy.

* Lời phụ của Nguyễn Đại Hoàng : Câu chuyện đơn giản, không nhiều tình tiết, đã lấy đi nước mắt của nhiều người đọc. Tôi hình dung được cảnh người cha Việt Nam gầy ốm bệnh tật và đứa con gái tật nguyền tội nghiệp của anh trên đất khách quê người.

Tôi như thấy được hình ảnh đứa con gái tưởng nhớ người cha – mà em biết đã mất rồi – qua tiếng đàn Piano. Tôi biết tiếng đàn ấy đau đớn biết bao. Tôi nghe được cả lời ca nghẹn ngào của em …

–         Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió..ôi cha già đi cha biết không…”.

Em bé Việt Nam ở phương trời xa lạ kia ơi em thật là vĩ đại ! Tôi hãnh diện vì em biết bao !

–         NGUYỄN ĐẠI HOÀNG

 

KHÓC BẠN –

KHÓC BẠN –

Hồi Ký của Ấu Oanh

Tác giả Ấu Oanh là phu nhân của ca nhạc sĩ Duy Trác. Hồi ký này bà viết để khóc một người Bạn – phu nhân của nhà văn Dương Hùng Cường, cũng như để thuật lại những gì đã xảy đến cho gia đình tác giả và gia đình nhà văn Dương Hùng Cường sau cuộc “đổi đời” gây ra bởi Ngày Quốc Hận 30-4-1975.

Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Từ thuở ấu thơ, anh em chúng tôi đều được mẹ ru bằng bài thơ Khóc Bạn của cụ Tam nguyên Yên Đổ khóc ông cố nội chúng tôi là cụ Nghè Dương Khuê. Bài thơ trở thành bài ca dao nằm trong ký ức tôi từ ngày đó, hơn 40 năm sau lại bật ra như những lời nhớ thương tha thiết của tôi với người bạn thân: Vũ Hoàng Oanh. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê lúc tuổi đời đã xế chiều nên nỗi nhớ chỉ là ngậm ngùi, còn tôi khóc bạn khi tuổi đời chưa tới 50 là cái khóc xót thương vô hạn.

Ngày còn học Trưng Vương thì Oanh học trên tôi một lớp. Chúng tôi chỉ biết nhau nhưng chưa phải là bạn. Mãi đến khi thi vào trường Sư Phạm, vô tình làm sao, hai đứa trùng tên nên có số báo danh kế nhau. Gặp nhau ở trường thi, lại ngồi cạnh nhau thì không quen cũng thành quen huống chi chúng tôi cùng là dân TV lại biết nhau từ trước. Dĩ nhiên hai đứa tôi mau chóng kết hợp với nhau, cóp qua cóp lại bài nhau nên kết quả là hai đứa cùng đậu và còn được xếp chung vào một lớp. Tôi và Oanh trở thành bạn thân từ đấy.Oanh không đẹp nhưng dễ thương với đôi má bầu bĩnh, đôi mắt hơi đượm buồn, lúc nào cũng như vướng vất một câu hỏi gì chưa được giải đáp.Nhưng điều mà bạn bè nhớ nhất ở Oanh là tính tình đôn hậu, chiều bạn và tử tế với mọi người.Đời học trò, dẫu rằng lớp học trò này đang chuẩn bị làm người lớn, vẫn có biết bao niềm vui nỗi buồn non trẻ để chia sẻ cùng nhau. Đôi khi thấy bạn bè có người yêu đến đón hoặc ghé thăm, đôi mắt hỏi han cuả Oanh chợt tối lại, vương một chút buồn bã. Tôi gạn hỏi, Oanh chỉ lắc đầu, nhiều lần sau nữa, chẳng đặng đừng, Oanh cười mỉm chi đáp ”Nhớ bồ” “Thế bồ đâu rồi “ “Bồ thuộc người khác rồi”, rồi nhanh chóng Oanh lảng ngay ”Thôi khỉ ạ, đừng hỏi nữa, chuyện xưa rồi”.Thời gian trôi thật nhanh. Gần đến ngày ra trường, chúng tôi gấp rút học thi và ráo riết chuẩn bị các bài thi thực tập. Một hôm, gặp phải bài thi hóc búa, tôi hỏi mượn Oanh một bài mẫu vì Oanh rất chăm chỉ trong việc sưu tầm các bài dạy mẫu, còn tôi là con cháu họ lười nên rất chểnh mảng. Oanh đang hí hoáy viết nên bảo ”Mở cặp ra, ngăn bên trái đó”. Tôi mở cặp lục lọi. Bài mẫu chẳng thấy đâu, tôi vớ ngay được một lá thư. Quên béng ngay bài dạy, tôi len lén kéo nhẹ tờ thư ra khỏi bao và liếc thật nhanh vài giòng. “Ồ, thư tình”, tôi thầm kêu trong đầu. Vừa lúc đó Oanh quay sang, thấy vậy, Oanh vội vã quăng ngay cây bút, soài người giựt lại lá thư, miệng la bài hải ‘Ố́í, ối, trả đây, trả đây”. Lá thư không dài và cũng không có những lời lẽ yêu đương hoa mỹ nhưng đọc thì biết ngay đó là thư tình, thư tình cuả một nhà văn. Ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ cuả một người viết văn thì có muôn ngàn cách để bày tỏ tình yêu. Tôi mừng thấy bạn bẽn lẽn cất lá thư. Một chút ửng hồng trên đôi má bầu bĩnh… Từ đó tôi thấy Oanh hay cười hơn.Trong khi chờ đợi kết quả sắp hạng ra trường, chúng tôi phải đi khám sức khoẻ tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Hôm đó Oanh chở tôi bằng chiếc Vélo Solex mượn được. Chỉ còn cách bệnh viện khoảng 100m thì bất ngờ xe đang chạy ngon trớn bỗng đâm xầm vào một đống đá xanh đổ ngay giữa lòng đường. Xe mất thăng bằng đổ ập xuống, quăng hai đứa chúng tôi ra hai nơi. Lúc đó tôi đang có thai cháu đầu lòng khoảng 4 tháng. Hốt hoảng,Oanh bật dậy lao ngay về phía tôi mà không thấy rằng 1 đầu gối quần bị rách để lộ vết thương rướm máu và 1 bàn tay bị đá xanh đâm nát máu thấm đỏ cả. Oanh lính quýnh ôm nâng tôi dậy, mặt tái mét, miệng líu lại ”Oanh, Oanh có sao không? Có đau bụng không?” Tôi tuy cũng rất lo sợ cho cái thai nhưng thấy Oanh quá lo lắng cho tôi, tôi thấy lòng cồn cào thương bạn nên vội trấn an ”Mình không sao, đừng lo. Thôi mau nhấc xe dậy, vào ngay bệnh viện nhờ họ băng bó cho Oanh”.Ra trường, tôi về dạy ở Gia Định, còn Oanh xuống Biên Hoà. Như một xui khiến của số mệnh, người yêu của Oanh, nhà văn Dương Hùng Cường, còn có bút hiệu là Dê Húc Càn đồng thời là một quân nhân cũng đang làm việc tại phi trường Biên Hoà. Họ đã được gần nhau, cuộc tình dẫn đến kết cuộc tốt đẹp là cái đám cưới vào năm 1964. Năm sau, 1965, Oanh sinh cháu đầu lòng Dương Mạc Thi rồi tiếp theo Oanh sinh liền 7 cô công chúa trong vòng 10 năm. Khi anh Cường đổi về làm việc tại Sài gòn thì Oanh cũng được thuyên chuyển về dạy học taị trường Hồng Bàng (sau năm 1975 thì dạy tại trường Hùng Vương, cùng thuộc quận 5). Chúng tôi lại có dịp gần gũi nhau.Vào khoảng năm 74 tôi thấy Oanh ngoài giờ dạy ở trường công còn dạy thêm ở 2 trung tâm tư nữa. Thấy tôi thắc mắc sao Oanh dạy quá nhiều, không còn thời giờ dành cho các con nữa thì Oanh tâm sự: ”Ông Cường giành phần chăm mấy đứa nhỏ. Ông ấy bảo, ổng ru con hay hơn mình”, rồi Oanh xuống giọng “Mình phải dạy thêm lấy tiền cho ông Cường in truyện”. Nói là chăm sóc con chứ thật ra thì lúc đó gia đình nào cũng có người giúp việc, lo cơm nước, giặt giũ, bế bồng trẻ nhỏ rồi. Tôi thông cảm với Oanh vì thời gian đó, lương hai vợ chồng gom lại, dẫu rằng anh Cường còn viết báo thêm cũng chỉ đủ chi tiêu cho một gia đình mười mấy miệng ăn mà thôi. Muốn in sách truyện, Oanh phải cật lực giúp chồng. Thế là bao nhiêu tiền bạc dành dụm được đều đổ dồn vào việc cho ra đời đứa con tinh thần “Vĩnh biệt Phượng”. Thương thay, sách vừa xuất xưởng, chưa kịp phân phối ra ngoài thì ngày 30 tháng 4 như một cơn cuồng phong ập đến, xoá tan hết bao ước mơ, bao xây đắp cuả cả một miền Nam thân yêu trong đó có 2 gia đình chúng tôi. Ông xã tôi cũng như anh Dương Hùng Cường đều trở thành tù nhân cuả chế độ mới và 2 gia đình chúng tôi trở thành những nạn nhân như trăm ngàn gia đình quân nhân công chức chế độ cũ, luôn luôn bị soi mói, rình rập, theo rõi, lúc nào cũng sống trong phập phồng, lo lắng, sợ sệt… Với đồng lương chết đói, chúng tôi vẫn phải cố bám vào trường lớp để khỏi phải bị đuổi đi vùng kinh tế mới. Hai đứa tôi cùng chia nhau cái ngậm ngùi cuả số phận. Oanh 7 con và tôi 6, gia tài chỉ là hai bàn tay trắng với cõi lòng đầy ắp âu lo. Chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Hai đứa lăn lưng ra làm đủ mọi việcThoạt đầu là bán sách. Lúc bấy giờ chủ trương của chế độ mới là thiêu hủy hết số sách báo của miền Nam được gọi là văn hoá đồi truỵ, tàn dư Mỹ ngụy. Chúng tôi lại thuộc các gia đình văn nghệ sĩ, càng bị để ý, bị lục xoát thường xuyên hơn. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép vào đủ thứ tội tình. Để được yên thân nuôi con và cũng là để che mắt thế gian, chúng tôi gom góp hết số ”tàn dư Mỹ ngụy” trong nhà, nhờ người quen dẫn giắt lên chợ sách Nguyễn Huy Thiệp bày bán. Nhìn những cuốn sách mình từng nâng niu yêu quý từ từ đội nón ra đi, lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Cầm cuốn “Chạy trốn Tự do” mà ông xã tôi mới dịch trước đó không lâu, tôi thầm tự hỏi:” Tại sao laị dịch cuốn sách mang cái tên oan nghiệt này?” Cuốn Vĩnh Biệt Phượng cuả anh Dương Hùng Cường cũng cùng chung số phận, phơi mặt trên 1 tấm ni lông trải dưới mặt đường con phố NHT. Tôi và Oanh thủ 2 cái nón rộng vành, hễ liếc xa xa thấy người quen kẻ thuộc hay bạn bè gần xa cuả chồng thì lập tức cái nón được kéo sụp xuống. Ôi thời thế có ai học đến chữ ngờ!Một hôm vào khoảng xế trưa, hai đứa đang ngồi vêu ra thì một cháu gái cuả Oanh đạp xe lên tìm mẹ, báo tin em bé út vừa phải vào nhà thương. Khi đó cháu Dao Tiên mới non 1 tuổi. Oanh hốt hoảng ra về. Hôm sau, rồi hôm sau nữa cũng không thấy Oanh lên tôi đoán chắc Oanh phải ở trong bệnh viện với con. Ba, bốn hôm sau Oanh trở lại, cặp mắt còn sưng, oà khóc, nói ”Oanh ơi, cháu Dao Tiên mất rồi. Cháu mất vì thiếu dinh dưỡng , vì đói ăn đó Oanh ạ! ““ Nghề “ bán sách cuả chúng tôi do thời cuộc mà tự sinh thì cũng do thời cuộc mà tự diệt. Ch́úng tôi học quấn thuốc lá, vào bao rồi đem vô Chợ Lớn bán nhưng cũng chẳng được bao lâu thì chợ thuốc lá cũng bị càn quét. Tôi nhờ biết may vá từ nhỏ nên quay ra may quần áo con nít đem giao các chợ, còn Oanh thì đi bỏ mối bánh kẹo cho các căn tin trường học. Cứ thế, chúng tôi lần hồi sống qua ngày.Ngoài lúc đi kiếm cơm, chúng tôi còn rủ nhau đi kiếm chồng tù. Hai năm trời biền biệt không chút tin tức, chúng tôi lo sợ cho số phận các ông chồng. Dò la, thăm hỏi chẳng có kết quả, chúng tôi đánh bạo rủ nhau lên tận ban Quân quản Thành phố để hỏi han. Câu trả lời cũng chỉ như bao nơi khác:” Cứ yên tâm chờ đợi “. Cuối cùng thì cuối năm 1977 cũng có tin về sau hơn 2 năm kể từ ngày các sĩ quan cuả chế độ cũ nghe lời đường mật “Chuẩn bị đồ ăn uống và vật dụng cá nhân trong vòng 10 ngày để đi trình diện”. Ông xã tôi bị nhốt ở trại Hàm Tân, còn anh Cường thì ở Long Khánh. Cứ 3 tháng chúng tôi được phép thăm nuôi tiếp tế thức ăn và thuốc men 1 lần. Hai đứa lại có dịp chỉ bảo nhau làm món gì để được lâu, thuốc nào cần nhất v..v.. để mang lên trại.Tôi còn nhớ thời gian đó, mỗi chiều tối, sau giờ tan trường, Oanh thường ghé tôi, có khi ở đến tận khuya. Các con Oanh ở nhà đã có cô cháu gái mà Oanh cưu mang từ sau năm 75 chăm nom cơm nước. Chúng tôi ngồi bên nhau chia sẻ mọi điều. Tôi hiểu Oanh nhiều nỗi lo lắng vì nợ nần thúc giục mà không có phương cách giải quyết. Tôi đỡ hơn Oanh một chút là tôi còn có mẹ. Đôi khi hai đứa ngồi bên nhau hàng giờ mà chẳng nói với nhau một tiếng nhưng chúng tôi đều hiểu rằng chúng tôi đang chia nhau nỗi sầu khổ âm thầm.Một hôm, khoảng sau Tết năm 1978 Oanh ghé tôi theo lệ thường, nhưng hôm đó vẻ mặt Oanh rất bần thần, ngồi hoài không nói. Tôi hỏi:- Hôm nay Oanh có chuyện gì không mà như mất hồn vậy?Oanh vẫn ngồi yên không nói. Tôi đứng dậy rót cho bạn 1 ly nước, đến ngồi gần bên ân cần:- Có việc gì hả Oanh?Sau một phút ngập ngừng, Oanh nói khẽ thật khẽ như sợ có ai nghe thấy:- Ta nói cái này, đừng giật mình nhé…Mình có bầu.Tôi giật thót mình, hai lỗ tai lùng bùng.- Oanh nói gì? Ai có bầu?- Mình.- Hả?- Mình có bầu thật đấy, vừa đi khám bác sĩ về xong.Tôi trân trối nhìn Oanh, vẫn không tin ở hai tai mình. Biết vậy, Oanh mới tỉ tê khai:- Hôm Tết rồi đi thăm ông Cường, trại cho ở lại một đêm…Tôi thở phào như trút được cho chính mình gánh nặng nghìn cân. Oanh nói tiếp:- Oanh ơi, dẫn mình đi phá đi, mới được khoảng hai tháng thôi, phá chắc dễ.Tôi ngỡ ngàng hỏi lại:- Phá? Sao lại phá?- Chứ để thì làm sao coi được. Ai đời cô giáo có chồng đi tù mà lại mang bầu. Đâu có ai hiểu…- Thì nói ra cho mọi người biết.- Ai tin? Bạn bè, rồi còn học trò nữa chứ. Eo ôi, nghĩ đến là ta rùng mình rồi.Tôi chợt thấy Oanh có lý. Ừ, ai mà tin nổi, nhất là thời buổi này. Toàn ban giám hiệu đều là người cách mạng, họ sẽ có cớ để bêu riếu, để bôi tro trát trấu lên đầu lên cổ vợ con “ thằng ngụy”. Tôi thở dài:- Ừ, để mình tính xem.Nói vậy cho Oanh yên lòng chứ thật ra tôi cũng chẳng biết tính làm sao. Tối đến, trong bữa cơm gia đình, tôi nói chuyện với mẹ tôi về việc Oanh muốn tôi chia sẻ. Mẹ tôi bảo:- Ngày mai Oanh có ghé, con gọi mẹ, mẹ hỏi cô ấy một tí.- Mẹ hỏi gì hả mẹ?- Có phải Oanh toàn con gái không?- Vâng, 7 đứa, bỏ 1 còn 6, toàn là gái cả.- Mẹ muốn tính xem lần này có bầu, Oanh sẽ sinh trai hay gái.- Trai hay gái thì thay đổi được gì hả mẹ. Cũng bia miệng mà thôi.- Mình sẽ nghĩ cách giùm cô ấy. Vả lại, vì sợ bia miệng mà phá bỏ đi một đứa con của mình thì sẽ mang tội con ạ.Mẹ tôi đặc biệt có một cách tính rất tài tình để biết người mẹ sẽ sinh trai hay gái. Cụ có dạy cho tôi một bài toàn chữ Hán, tôi học mãi không thuộc (vì mình có biết tí teo chữ Hán nào đâu). Tôi đã chép vào 1 cuốn sổ để dành nhưng qua hết đợt bố ráp này đến đợt bố ráp khác nó đã không cánh mà bay.Dẫu rằng cả Oanh và anh Cường đều không mang tư tưởng “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” nhưng cha mẹ nào mà chả mong ước mình có đủ cả trai lẫn gái.Sau khi gặp mẹ tôi, Oanh mừng lắm, không còn nghĩ đến việc phá thai nữa vì tin tưởng rằng lần này sẽ sinh được một quý tử.Thông thường, cứ mỗi đầu tháng, các giáo viên chúng tôi đều phải họp toàn trường để kiểm điểm công việc dạy và thực hiện các chỉ thị của Phòng hoặc Sở giáo dục. Tôi xúi Oanh trong phiên họp kỳ này lấy cớ báo cáo 1 công việc gì đó rồi bôi mặt cám ơn nhà nước đã cho chúng tôi được gặp mặt, tiếp tế cho chồng ở trại giam lại còn gia ân cho ở lại trại 1 ngày 1 đêm nhân dịp Tết vừa qua nữa. Việc đó quả nhiên hiệu nghiệm. Oanh tuy bị trêu chọc song đã thoát được cơn hiểm nguy. Cũng may mắn cho Oanh, chỉ vài tháng sau khi cái bụng bầu của Oanh lộ rõ thì anh Cường được về.Một hôm tôi vừa từ chợ về nhà thì đã thấy anh Cường ngồi đợi. Không kịp để tôi hỏi han câu nào, anh đã vào đề liền:- Oanh sinh rồi chị, ở Bệnh viện Hùng Vương, con trai.- Ồ, chúc mừng anh. Chắc là Oanh vui lắm. Kỳ này hai ông bà có quý tử, phải ăn mừng thôiKhông trả lời câu nói đùa của tôi, anh chìa ra mảnh giấy cỏn con nói:- Oanh gửi chị cái này.Tôi vội vàng mở mảnh giấy đọc “Oanh ơi, cứu bồ, cho mình mượn 50 đồng để đóng tiền bệnh viện nhé”.Tôi vừa đi giao hàng về nhưng cũng chỉ có trong tay 30 đồng. Tôi vội vã đạp xe lại ngay nhà chị bạn cùng trường. Tuy chẳng giầu có gì nhưng chị tương đối khá giả hơn chúng tôi vì những tháng ngày xa xưa trước 75, chị là con kiến biết lo xa, ki cóp mua vàng để dành,( trong khi tôi lại là con ve, kêu ra rả hết muà hè, chỉ biết rong chơi ca hát , cho nên khi đông về thì đói rã răng). Chị lại có lòng tốt nên bạn bè khi cơ nhỡ chị đều sẵn sàng san sẻ.Trao cho anh Cường năm chục bạc xong, tôi biết ngày mai không có tiền chợ cho con song trong lòng vẫn vui vì mừng cho bạn, càng mừng hơn vì thấy cách tính của mẹ tôi thật chính xác, không làm cho Oanh mừng hụt. Nhưng người mừng nhất ắt hẳn là anh Dương Hùng Cường. Anh đặt tên cho cháu là Phụng Hoàng, Dương Phụng Hoàng, con chim quí.Khoảng 3,4 năm sau khi ra tù, anh Cường liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang cư ngụ tại Pháp xin lên tiếng kêu gọi Văn Bút Quốc Tế can thiệp và giúp đỡ cho một số các gia đình văn nghệ sĩ Miền Nam còn kẹt lại quê nhà, đang gặp rất nhiều khó khăn cả về 2 mặt vật chất lẫn tinh thần. Ít lâu sau đó, mỗi năm gia đình chúng tôi nhận được từ 1 đến 3 thùng thuốc tây gửi từ Pháp về (nhưng có lẽ đó là do chính tiền cuả anh TTTiệp, chứ không phaỉ của VBQT). Song song với thùng quà đôi khi còn có cả 1,2 tờ báo Kháng Chiến nữa. Rồi anh bảo anh em bên nhà viết bài gửi sang. Những thùng quà tuy ít ỏi này cũng đã giúp được gia đình chúng tôi qua những cơn vô cùng bĩ cực. Nhưng oan nghiệt thay, cũng chính những thùng quà này lại đưa chồng tôi, Khuất Duy Trác, anh Dương Hùng Cường và một số các văn nghệ sĩ khác như các nhà văn Dzoãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thuỷ, Hiếu Chân, các nhà thơ Lý Thụy Ý, Trần Ngọc Tự… vào tù lần thứ hai. Bọn Công an thành phố còn viết nguyên một cuốn truyện đầy tính bịa đặt và vu cáo có tên Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, hòng bôi bẩn và hạ giá nhóm văn ngệ sĩ trên, sửa soạn dư luận cho một bản án thật nặng nề. Chúng đem giam một số tại nhà giam Chí Hoà, số còn lại tại trại giam Phan Đăng Lưu, có ông xã tôi và anh Cường. Oanh và tôi lại có cùng một địa chỉ để tới lui. Số phận chúng tôi cứ gắn chặt với nhau trong những hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.Do từ việc bỏ bánh kẹo cho các căn-tin trường học, Oanh lần hồi biết được cách thức để đấu thầu toàn bộ cả căn-tin cuả mỗi trường. Oanh rủ tôi làm công việc này. Thế là hai chúng tôi cùng khởi sự tại một ngôi trường Tàu trong Chợ Lớn. Sau này rành rẽ rồi thì mỗi đứa làm ở mỗi trường khác nhau.Cứ vào cuối mỗi năm học, giáo viên các trường đều phải điều chỉnh lại tờ lý lịch đã khai từ những ngày đổi đời 30/4/75. Năm 1980, con gái thứ hai của tôi đi vượt biên, tôi không khai. Đến khi ông xã tôi bị bắt lại lần 2 tôi cũng không khai. Ban giám hiệu nhà trường chắc hẳn không biết nên tôi vẫn được yên thân. Bất ngờ, vào đầu năm 87, hiệu trưởng mời tôi lên nói chuyện. Bà hỏi han tôi về tình hình gia đình, chồng con, công việc v..v.. và cuối cùng bà hỏi tôi có up to date lý lịch đầy đủ cho mỗi năm không. Tôi manh nha thấy điều gì đó không ổn. Tuần lễ sau tôi xin nghỉ bệnh và tuần kế tiếp tôi tống tiếp lá đơn xin thôi việc. Ở thời điểm này, chiến dịch tống khứ gia đình vợ con tù cải tạo đi kinh tế mới đã chấm dứt vì hoàn toàn thất bại. Từ các vùng kinh tế mới, biết bao gia đình đói rách tả tơi, bệnh hoạn, người sống kẻ chết, lũ lượt kéo về thành phố, nằm la liệt tại các công viên, chợ, nhà thờ, chùa…chính quyền không thể xua đuổi vì họ không còn nơi chốn để dung thân nữa. Do đó tôi không còn lo sợ vì phải lên rừng lập nghiệp. Lại nữa tống khứ đi được một con vợ “ngụy”, cũng nhẹ gánh lo cho ban giám hiệu nên họ nhận đơn mà không hỏi han gì cả.Thời gian này rộ lên rất nhiều tin tức về việc Mỹ sẽ đón các sĩ quan QLVNCH bị tù cải tạo. Tuy rằng chỉ là tin đồn miệng, chẳng có một nguồn xác thực nào nhưng chúng tôi vẫn cứ nuôi hy vọng trong lòng để tiếp tục sống và tiếp tục chịu đựng.Một ngày đầu tháng 12 năm 1987, lúc đó khoảng 2-3 giờ trưa tôi đang ở nhà thì cô cháu gái cuả Oanh đến, mặt mũi phờ phạc, nói như đứt hơi: ”Cô ơi, chú Cường mất rồi, cô con đang xỉu ở nhà, cô xuống mau đi cô”Khi tôi bước chân vào đến nhà thì thấy Oanh đang vật vã vừa khóc vừa gào: “Tôi không sống một mình đâu, trời ơi là trời”. “Anh Cường ơi, em không sống một mình đâu”!! Tôi ôm lấy tấm thân gầy guộc của bạn, lòng đau xót từng cơn và nước mắt cứ mặc tình tuôn chảy… Không biết bao lâu sau, khi kêu gào đã quá mệt, tôi đỡ Oanh nằm xuống giường rồi bảo với các con Oanh: “ để yên cho mẹ nghỉ một chút “Hàng xóm xung quanh nghe tiếng khóc, vài ba người lấp ló ngoài cửa.Bình tâm trở lại, tôi hỏi thăm cháu Linh, cháu tỉ tê kể : “ Sáng nay cháu ở nhà, công an khu vực tới đòi gặp mẹ. Cháu bảo mẹ đang dạy ở trường, anh ấy nhắn bảo mẹ ra phường gấp có giấy báo cuả bố”. Khi cháu ra trường bảo cho mẹ biết thì mẹ vẫn nghĩ là tin mừng. Mẹ bảo “ chắc bố được thả…ồ, hay là…Mỹ đón”. Mẹ bảo cháu về trước, chuẩn bị đồ vest cho Bố. Đến khi hai mẹ con ra đến phường nhận giấy mới vỡ lẽ…Họ bảo sáng ra đến giờ tập họp, không thấy bố ra, đến đập cửa phòng cũng không thấy bố cháu trả lời, họ mở khoá ra thì thấy bố cháu đã mất rồi.Oanh được phép đến trại giam Phan Đăng Lưu để nhận diện xác chồng trước khi được phép chôn cất. Đám tang phải làm gấp ngày hôm sau và chỉ cho 2 người mang áo quan vào lấy xác tại khám Chí Hoà mà thôi. Hôm sau tôi đi cùng với Oanh nhưng phải ngồi chờ ngoài gốc cây trước cổng trại cùng với các con nhỏ cuả Oanh. Số bạn bè và họ hàng thân thuộc đến đưa tiễn đều không được tập trung một nơi mà phải phân tán rải rác dọc theo con đường Hoà Hưng, chờ đợi khi xe tang ra đến đầu đường rồi mới được tháp tùng theo. Ôi, quân Cộng sản sao mà độc ác. Người sống chúng không tha đã đành, người chết chúng cũng không cho chôn cất tử tế…Huyệt mộ đã lấp lại rồi nhưng Oanh vẫn đứng trơ trơ như một bức tượng. Nước mắt đâu? Có lẽ nó đã chảy ngược vào lòng. Tôi chợt nhớ đến bài thơ “Đi nhận xác chồng” của Lê Thị Ý:……………………
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng

Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêuThật tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh ra trong thời đại chúng tôi.Vết thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt ruột đẩy đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một chuyến vượt biển với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối cùng Oanh nắm đ̣ược bàn tay nhỏ bé cuả con: chuyến tàu chở cháu Thi đã không bao giờ tới bến. Chỉ trong vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người thương yêu nhất đời mình lên chùa…Rồi giòng đời lại tất bật trôi đi. Oanh vội vã bịt kín những vết thương, dấu chặt nó vào tận cùng trái tim để ngày ngày phải đối mặt với những cam go của cuộc sống, với tương lai cuả bầy con còn lại. Thời gian sau này chúng tôi ít gặp nhau hơn vì mỗi đứa thầu riêng mỗi trường mà công việc thì quá đa đoan, tất bật, cần đến rất nhiều thời gian, Oanh lại vẫn theo đuổi công việc dạy học.Mùa hè năm 1989, giữa chúng tôi có vài chuyện không vui, tôi giận Oanh. Biết mình không đúng, xin lỗi tôi không xong, Oanh nhờ một cô bạn khác đến năn nỉ, tôi vẫn gan cùng mình không chịu làm hoà. Gần 2 tháng trời chúng tôi không gặp nhau. Một buổi trời đã chạng vạng tối, một anh bạn tù cuả ông xã tôi, hốt hoảng đến báo tin Oanh bị đụng xe, đã đưa vào bệng viện Trưng Vương, nhưng tình trạng hình như không được ổn. Tôi tức tốc vào thẳng nhà thương trong tâm trạng rối bời và thật hồi hộp.Oanh nằm đó, bất động, đôi mắt đã khép lại vĩnh viễn…Tôi bật lên khóc nức nở, nắm lấy tay bạn, sờ lên mặt bạn, vuốt trên người bạn, tôi muốn gào lên “ Oanh ơi. Oanh ơi, mình đây, mình đang ở bên Oanh đây, mình không còn giận Oanh nữa đâu, tỉnh dậy đi Oanh ơi “!!! Tôi đưa tay bứt mớ tóc trên đầu xem mình có thật sự tỉnh không, có phải đây là sự thật không…Nỗi hối hận trong tôi trào lên, tôi giận tôi, tôi ghét tôi, tôi là con bạn tồi, sao tôi cố chấp thế…Tuy đã cố dằn vì chỗ đông người, cổ họng tôi vẫn bật lên tiếng gọi “Oanh ơi. Oanh ơi. Dậy đi, mình thương Oanh lắm, có nghe mình nói không?”Tôi ngồi bên Oanh như thế, nước mắt tiếp tục chảy không thôi, biết bao điều muốn vuột ra khỏi trái tim nên lồng ngực đau thắt…..Lâu lắm, chợt nghe tiếng bà dì Oanh nói “Cô phụ tôi thay quần áo cho Oanh nhé. Người bây giờ còn mềm, thay dễ “.Tôi nâng đầu Oanh dậy tay chạm ngay vết thương sau ót, máu còn dính bết vào tóc. Đến lúc thay áo lại phát hiện ra phần dưới cũng bị thương, hình như vỡ xương hông thì phải. Ôi, đau đớn biết bao!Mãi sau này các cháu con Oanh mới kể rằng, sáng hôm đó, một cậu nhỏ mới quen đến chở Oanh về Thủ Đức để đi hỏi vợ giùm cho cậu ta. Buổi chiều, trên đường về, đã gần đến nhà, đang băng qua con lộ Lý Thường Kiệt để vào ngõ thì bị một xe hơi do người tài xế say rượu đâm phải.Oanh là thế đấy, hay làm chuyện bao đồng để giúp người .Oanh mất đi bỏ lại bầy con 5 đứa. Con chim quý, Phụng Hoàng, của vợ chồng Oanh sinh bất phùng thời, mới 10 tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng như một định luật bù trừ, hai con lớn cuả Oanh tiếp tục công việc của mẹ, không những đã duy trì được mức sống đầy đủ cho gia đình mà các cháu còn dìu giắt nhau học hành tới nơi tới chốn nữa. Nếu người ta tin có linh hồn thì chính linh hồn người Mẹ, day dứt lúc ra đi đã quay trở lại thế gian này để phù trợ cho các con vươn lên trong cuộc sống.Hôm nay ngồi viết những giòng hồi tưởng này về một phần đời không nhỏ của bạn tôi, Vũ Hoàng Oanh, người phụ nữ tâm tính hiền lành, hay giúp đỡ người khác nhưng số phận cay nghiệt đã dành cho cuộc đời bao tang thương, oan trái. Khi sống, tâm tư luôn mòn mỏi vì lo toan cơm áo, còn mang nặng những vết thương không cơ hàn gắn. Đến lúc lià đời, lại ra đi trong một cơn mê khốc liệt với thân thể đớn đau, với cõi lòng đứt đoạn vì bầy con thơ dại.Oanh ơi, những giòng hồi ức hôm nay cũng còn là những nén hương muộn màng mình thắp lên để nhớ đến Oanh, nhớ đến một quãng đời hai chúng ta cùng chung bước trải dài từ tuổi học trò cho đến khi vĩnh biệt.

Ngủ đi Oanh, hỡi bạn hiền,
Ngủ cho say nhé, triền miên giấc nồng
Chuông chùa vọng giữa thinh không

Đưa hồn an lạc về vùng tịnh yên.

Hai mươi năm, ngày giỗ bạn
21/6/1989 – 21/6/2009
Ấu Oanh

Lâm Kim Trọng gởi

KÝ ỨC THÁNG 4: MỘT THOÁNG THIÊN THU

KÝ ỨC THÁNG 4: MỘT THOÁNG THIÊN THU

Bs. VĨNH CHÁNH

Trích Ephata 608

Tác giả là bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Tháng Tư 2013, bài “Không Bỏ anh em, không bỏ bạn bè” ông góp cho Viết về nước Mỹ, hiện đã có hơn 285.000 lượt người đọc. Tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sàigòn ngày 30 tháng Tư.

Chỉ vài tháng sau lần thăm nuôi duy nhất kể từ ngày bước chân vào trại cải tạo, và ngay sau Tết 1977, nhiều nhóm tù ở trong trại Xuân Lộc chúng tôi được sàng lọc, phân loại, rồi bất ngờ chở đi giữa đêm khuya. Riêng nhóm chúng tôi khoảng chưa đến 40 người được tập trung cũng vào nửa đêm, đưa lên một xe bịt bùng chở đến một khu rừng hoang dã rộng lớn.

Trong nhiều ngày kế tiếp, láng trại chúng tôi tiếp nhận nhiều toán tù cải tạo từ nhiều trại tập trung khác chở dồn đến, toán đến trước trộn chung với các toán đến sau, lập thành 10 đội.

Mỗi đội có 50 người, chia làm 10 tổ, ở chung trong một căn nhà dài do đội tự cất lấy theo mẫu chỉ định. Tổ chúng tôi có 5 người, gồm một giáo sư biệt phái, một dược sĩ, 2 nha sĩ độc thân cùng một lớp và cùng một khóa trưng tập, và một bác sĩ, là tôi. Bốn người kia sinh trưởng từ Miền Nam, chỉ một mình tôi trọ trẹ tiếng Huế. Bốn người kia thuộc Bộ Binh, tôi lại của Nhảy Dù. Nhìn quanh cả đội, có lẽ tôi là đứa “ác ôn” nhất. Nhưng không vì thế mà các bạn trong tổ “né” hay lạnh nhạt với tôi. Ngược lại, theo thời gian, chúng tôi có với nhau một liên hệ rất mật thiết, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, người này sẵn sàng choàng qua làm giùm công việc cho người khác, nấu nướng cho nhau, chuyện trò tâm sự cùng nhau…

Lán trại của chúng tôi nằm sâu trong rừng, cách con đường xe lửa khoảng một cây số. Một lán trại tù tương tự nằm phía bên kia đường sắt, đối diện với láng chúng tôi. Những khi đi lao động tự giác, như để cắt tranh, chặt tre, đốn cây, làm rẫy, chúng tôi đều bước dọc theo con đường rầy xe lửa, ngang qua một trạm ga nhỏ mang tên Ga Trảng Táo trước khi tiến vào một cánh rừng ở xa hơn và rộng lớn hơn.

Càng về sau, những chuyến đi càng it có hoặc không có lính cảnh vệ đi kèm theo ra bên ngoài trại. Rất nhiều lần, chúng tôi gặp những chuyến tàu chợ chạy ngang, nhiều gói bánh cốm của bá tánh quăng xuống cho tù cải tạo chia nhau ăn. Có một lần tổ chúng tôi nhận được cả chục cây cà rem khi đang còn ì ạch gánh tranh gần con đường sắt. Phải nói là thần tiên khi mút được một cây cà rem mát lạnh giữa nắng trưa trong lúc người ướt cả mồ hôi.

Nương theo bìa rừng, cách đường xe lửa khoảng ba bốn trăm thước hay vào sâu hơn bên trong, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp một vài bạn tù cải tạo được vợ lén tìm thăm. Không biết họ liên lạc với nhau như thế nào mà hay vậy, tôi tự hỏi. Một đôi khi, chính các anh em chúng tôi được nhờ vả canh me cho các cặp vợ chồng ấy để họ an tâm gặp gỡ, tâm tình. Chúng tôi thường tình nguyện đi chặt tre, cắt tranh thế cho phần của các bạn may mắn đó để họ có thêm được thì giờ riêng tư bên vợ hay người yêu.

Các chị thường hẹn hò rủ nhau đi từng nhóm nhỏ hai ba người. Đi cầu may, không chắc gì sẽ gặp hay kiếm được người mình muốn tìm. Dù không gặp gỡ được, rất ít khi các chị nhờ chúng tôi trao giùm quà lại cho chồng. Phần chúng tôi cũng né tránh chuyện nguy hiểm đó, vì quản giáo trong trại thường xuyên lục soát chúng tôi trong những lần điểm danh khi về đến trại.

Sau giờ lao động, trong những lúc rảnh rỗi, cùng với cả trăm bạn tù khác, năm anh em chúng tôi thường hay đứng xa xa, chờ chuyến xe lửa cuối của ngày từ hướng Phan Thiết về Sàigòn đi qua, nhìn cảnh các cô các bà trên xe lửa thảy các gói quà xuống cho thân nhân của họ hay cho các tù nhân đang đứng dọc theo đường xe lửa. Hiện tượng này ngày càng xẩy ra nhiều và khó cấm cản được. Chính nhờ một chút liên hệ với thế giới bên ngoài, dù vẫn có khoảng cách, phần nào đã giúp các bạn tù bớt căng thẳng vì cảnh chim lồng cá chậu, quên đi nỗi nhọc nhằn của lao động cùng cực.

Được tập trung với hành trang đủ cho 7 ngày, để rồi không biết đi về đâu và không biết ngày về, ngoài chuyện thương nhớ gia đình, lo âu cho vợ con không biết xoay sở trong cuộc sống mới, nỗi sợ hãi tận cùng cho mọi người cùng hoàn cảnh là bị lãng quên, bỏ rơi, phụ bạc theo thời gian. Khi niềm hy vọng đoàn tụ quá mơ hồ, những bạn tù được thân nhân lén tìm thăm, tiếp tế, là những kẻ hạnh phúc nhất đời, vì biết mình còn được yêu thương. Tuy nhiên, những gói quà nhỏ do lòng từ tâm của những người có cùng niềm đau, đôi khi gây ra cảnh giành giật hỗn độn, khiến lính cảnh vệ quát tháo ầm ỹ, lăm le bắn chỉ thiên để giải tán đám đông.

Trong một xế chiều của tháng 4, có đến gần cả trăm người đang chờ chuyến tàu hàng chạy qua. Tôi bỗng rời nhóm bạn cùng tổ và bước vội qua phía bên kia đường sắt để tránh hướng mặt trời đang gay gắt chiếu vào mắt, một điều tôi chưa hề làm trước đây vì lệnh trên cấm tù của hai láng trại qua lại chuyện trò với nhau.

Theo sau tiếng còi hú, con tàu giảm dần tốc độ vượt qua ga Trảng Táo. Nhưng khi đến gần chỗ những tù cải tạo đứng hai bên đường, tốc độ tàu tăng nhanh hơn để tránh chuyện tù cải tạo nhảy tàu trốn trại. Tiếng xình xịt, xình xịt nặng nề của con tàu và tiếng ken két của bánh xe nghiến trên đường sắt dội mạnh dần, rung động mặt đất, khiến nhịp tim tôi đập mạnh. Không tính trước và như bị con tàu hút vào, tôi thấy tôi từ từ tiến sát gần đường rầy, gần nhất từ trước đến nay, hình như chỉ cách mươi thước. Tôi bắt đầu nhìn thấy nhiều cô nhiều bà nhoài cả nửa người ra khỏi cửa sổ hay chen chúc đứng trên các thềm nối giữa các toa tàu.

Con tàu chạy ngang trước mặt tôi. Nhiều cánh tay đưa ra, nửa như vẫy chào, nửa như muốn vói nắm lấy những bàn tay bên dưới. Những khuôn mặt đăm chiêu, lo lắng. Những con mắt mở lớn tìm kiếm. Những ánh mắt sáng lên khi nhìn thấy người thân. Những cái nhìn đau buồn xót xa như chia xẻ với người tù trong bộ quần áo lao động thùng thình, bạc màu, rách rưới. Có những cái miệng cười méo trong nghẹn ngào vì chợt thấy một thân hình ốm yếu hao gầy quen thuộc. Có những đôi môi mấp máy như thầm nhắn gởi bao lời. Có những bàn tay đưa lên bịt miệng để kịp ngăn tiếng khóc nức nở. Và có cả những giọt nước mắt rơi xuống, hạnh phúc lẫn chua xót trong một thoáng nhìn thấy nhau.

Một loạt bì thư cột trong viên đá nhỏ để tránh gió thổi bay xa được quăng xuống, cùng với hàng chục gói quà to nhỏ khác nhau, kèm theo là những tiếng gọi tên thật lớn. Người đứng bên dưới chạy dọc theo đường sắt, vẫy vẫy, nói nói, cười cười với người trên tàu. Người nhanh chóng cúi lượm gói quà lẩn mất trong đám đông. Vài người chạy theo thu lượm những bức thư bỏ vào túi… Cảnh tượng cứ thế hiện ra trước mắt tôi, thực nhanh, có khi rõ ràng từng chi tiết nhỏ, có khi chợt đến chợt đi như trong một cảnh phim quay nhanh, hỗn độn.

Chừng mươi giây nữa cái đuôi con tàu sẽ chạy ngang chỗ tôi đứng. Vừa một chớp mắt, qua khung cửa, tôi thấy ba cô gái có vóc dáng nhỏ nhắn đứng cạnh nhau trên toa tàu, nhìn chăm chú vào đám người bên dưới. Từ trong tiềm thức, tôi nhận ra dáng hình và đầu tóc quen thuộc của nàng. Trời ơi, đúng là vợ của tôi, bằng xương bằng thịt, trong chiếc áo ngắn tay màu xanh da trời, bên cạnh cô em và người bạn gái. Dưới ánh sáng vàng rực của cuối ngày, chúng tôi nhìn thấy nhau trong tích tắc, kẻ ở trên tàu, người dưới đất, khoảng cách không xa nhưng tưởng như vạn dặm. Tôi la lớn, gọi tên nàng, và xoay người vội vã chạy theo con tàu.

Em chồm hẳn thân hình ra phía bên ngoài, tay nắm chặt song sắt, đôi mắt mở lớn mừng rỡ như muốn thu nhận tất cả hình ảnh của chồng. Tôi đau đớn nhìn thấy em gầy gò. Đôi mắt của em, ôi con mắt đã từng nhốt hồn tôi vào trong đó, vẫn còn nét tinh anh trong sáng và đoan trang của ngày nào. Tôi bỗng cảm thấy thân hình mình nhẹ hẫng như được đôi tay thiên thần nâng đẩy, tim tôi như ngừng đập trong đê mê, bước chân tôi như đang chạy trên mây, tay tôi rộng với về nàng như thể muốn níu ôm lấy em vào lòng.

Tất cả xung quanh tôi như chậm lại, mơ hồ. Cả hai chúng tôi tròn mắt nhìn nhau trong vô tận. Chỉ có em và tôi hiện hữu trong khoảnh khắc thần tiên này. Qua ánh nhìn, em gởi đến tôi thông điệp: “Anh an tâm. Mọi việc ở nhà bình yên. Em yêu anh. Anh phải sống. Em sẽ chờ đợi với tất cả lòng trung tín”.

Có lẽ tôi đã chạy theo con tàu chừng mấy mươi bước, tim đập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, rồi tôi thấy mình dừng lại. Đứng yên tại chỗ để nhìn nàng được rõ hơn khi con tàu từ từ đưa nàng xa dần tôi. Dù con mắt có đui, dù cái nhìn kéo dài đầy nuối tiếc, rồi cũng đến lúc mờ khuất bóng nhau. Tôi muốn em biết tôi đã yêu em đến chừng nào, tôi ước mong có cánh để bay đến bên em, ôm chặt vào lòng, truyền cho nhau sức sống. Như hiểu tôi sắp oà khóc vì quá xúc động, nàng thoáng nhẹ lắc đầu, ánh nhìn thầm nhắc nhở dặn dò đừng bao giờ bày tỏ sự yếu đuối trước kẻ hành hạ mình. Em đã cho tôi nguồn hy vọng.

Cùng lúc, em gái nàng và cô bạn ngoắc vẫy tôi liên tục, miệng cười tươi rói. Cả hai ra dấu muốn đầy giỏ quà xuống, nhưng có lẽ thấy nàng và tôi không có lấy một cử chỉ đồng thuận, nên cả hai cứ mãi do dự cho đến lúc không còn có cơ hội nữa.

Con tàu xa dần. Tiếng còi tàu báo hiệu sắp quẹo phải và lên dốc con đồi nhỏ đàng trước như xé lòng. Nàng vẫy tay chào tạm biệt trong giây phút phân ly. Văng vẳng tiếng khua động của các toa tàu đưa tôi về với thực tại.

Tôi lặng người trong một trạng thái nữa tỉnh nữa mê, ngẩn ngơ, tâm trí hoàn toàn bị tràn ngập bởi hình ảnh của nàng. Tinh thần tôi rối loạn với cảm giác vừa diễm phúc đê mê trong hạnh ngộ, vừa cay đắng ngậm ngùi với chia ly. Thể xác như lâng lâng ngây ngất của hoan lạc, choáng váng xây xẩm như một triệu chứng mất máu. Sự tình cờ may mắn thấy mặt nhau ngày hôm nay nói lên được định mệnh ràng buộc giữa chúng tôi, làm chúng tôi càng thêm gắn bó. Chỉ trong một thoáng mà cuộc tình ngỡ như thiên thu bất tận. Chỉ một lần nhìn thấy nhau trong đớn đau là cả một ghi nhận nghìn năm không phai. Tuy xa nhau mà tình vẫn còn đầy !

Quay trở về hướng các bạn đứng chờ bên kia con đường sắt ở tuốt phía xa, bước chân tôi lúc đầu chậm nhưng rồi vụt nhanh dần. Trong một kích thích khó dằn lòng, tôi vội vã kể ngay chuyện vừa mới bất ngờ thấy được vợ mình đứng trên toa xe lửa cuối cùng. Nghe qua, bạn nào cũng sững sờ, quá ngạc nhiên trước câu chuyện khó tin vừa xảy ra. Mà phải, khó tin thật, ngoại trừ đây là thiên định.

Không thể nào giải thích vì sao bỗng nhiên trong chiều hôm nay tôi lại nhảy sang đứng phía bên kia đường sắt. Các bạn tỏ vẻ vui mừng cho tôi và không tiếc lời khen vợ tôi chịu khó lặn lội đi tìm chồng, rằng đây thật là một cuộc hạnh ngộ quá đặc biệt. Một bạn còn ý kiến nếu giỏ đồ ăn được quăng xuống, không chắc gì tôi đã lấy được vì khó chứng minh với những người lượm được cái giỏ là của mình.

Hân hoan với niềm vui bất ngờ và diệu kỳ ngoài sự tưởng tượng, cũng như muốn chia sẻ hạnh phúc của mình có được trong chiều hôm nay, tôi kéo các bạn đến ga Trảng Táo, móc hết tiền túi còn lại mua ngay 5 trứng vịt lộn đem vào trại để cùng nhau ăn mừng.

Tối hôm đó, 5 chúng tôi quây quần ngồi ăn chung với nhau, gồm đồ ăn do nhóm ẩm thực của đội phân chia cho tổ, chút cơm bo bo và chút canh bí đỏ nấu với muối, dọn chung với chút đồ ăn riêng của nhau dành dụm qua lần thăm nuôi trước. Để dành món ngon nhất cho cuối bữa, sau một vài câu mở đầu, tôi trịnh trọng đặt từng cái trứng vịt lộn vào tay mỗi bạn. Mọi người ăn một cách chậm rãi, ăn luôn cả cục mề cứng và khen trứng vịt lộn ngon quá.

Không khí vui nhộn hơn nữa, khi nhiều bạn tù khác trong đội biết tin vui của tôi đã không ngần ngại mang nước trà ( nấu bằng các loại lá lấy trong rừng ), cà phê ( pha chế với râu bắp, trộn chung với rễ tranh và cơm cháy ), vài miếng đường tán chặt nhỏ, thuốc lào… đến chung vui với tổ chúng tôi. Một chương trình văn nghệ bỏ túi không chuẩn bị, không hẹn trước, tự nhiên thành hình trong đêm. Trong tình thân ái. Ấm cúng. Cảm động. Khó quên. Bạn nào hát cũng mở đầu bản nhạc với câu gởi tặng cho vợ hay người yêu ở nơi xa, cho các bạn tù, và cho tôi, mà các bạn bông gọi đùa là Dr. Zhivago, một biệt danh dính theo tôi trong thời gian kế tiếp.

Tôi ngồi nghe hát mà lòng xúc động cho thân phận. Tê tái nhớ lại giây phút nhìn thấy em. Nhớ ánh mắt, khuôn mặt, đầu tóc của em. Khi đến bản nhạc Như Cánh Vạc Bay, với đoạn: “Nơi em về ngày vui không em. Nơi em về trời xanh không em. Ta nghe nghìn giọt lệ rớt xuống thành hồ nước long lanh” tôi đã không cầm được lòng và đã khóc nức nở.

Đó là những giọt nước mắt chưa một lần đổ xuống từ ngày vào tù, dù qua bao nhiêu đọa đày bầm dập thể xác, qua bao nhiêu nhẫn tâm chà đạp lên nhân phẩm, qua sự chứng kiến cái chết tức tưởi của những bạn tù khác, nay được dịp vỡ bờ. Một bạn khác ngâm một bài thơ của Hàn Mạc Tử có câu “Người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” khiến tôi lại càng xúc động mạnh và để mặc cho nước mắt tuôn trào.

Trong đêm, tôi thao thức khó ngủ, dù sau khi đọc một kinh Lạy Cha và 3 kinh Kính Mừng – như Mạ tôi vẫn thường làm trong những lúc tuyệt vọng sau khi Ba tôi mất. Tôi cầu nguyện, thầm nhớ đến những lúc quấn quýt đắm đuối bên nàng. Chuyện nàng bị sẩy thai sau khi cả chồng và cha đều đi tù. Tôi cuộn mình như con sâu nằm trong cái vỏ ngập đầy hình ảnh và tình yêu thương của nàng, cái vỏ luôn cho tôi sức mạnh tinh thần để nâng đỡ tôi vượt qua nhọc nhằn thử thách khi nản lòng đuối sức.

Sau đó nàng còn tìm thăm lén tôi được thêm mấy lần, khi ghé nhà một người làm rẫy không quá xa lán trại, lúc tôi đang lao động ở trong rừng tranh… Khoảng hai tháng sau khi nàng có phép thăm và ở lại đêm với chồng, tôi được thả về nhà trong đợt đầu tiên của trại vào ngày 24.8.1977. Sau phân ly thì đến tương phùng. Cứ như thế chúng mình đã sống chết bên nhau, vượt biển đến bến bờ tự do…

Em yêu dấu, khi ở xứ người, có những lúc tâm hồn anh bị chìm đắm trong bóng tối, có những lúc anh chạy theo phù du mê muội, những lạc lối đáng trách, hình ảnh của em trên chuyến xe lửa ngang qua trại tù cải tạo đã làm anh sực tỉnh, đưa anh về lại con đường chính trực. Con đường của chúng mình, của hạnh phúc trời ban và của thứ tha.

Qua bài viết này, xin vinh danh các bà vợ, các người yêu và gia đình đã yêu thương và mang hy vọng đến cho các tù cải tạo qua những năm tháng đen tối của đời người.

Bs. VĨNH CHÁNH

 

“Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ”

“Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ”

Con người phải cày bừa như trâu. Cảnh này không bào giờ có ở miền Nam từ thời Đệ Nhất CH, thời Cụ Ngô Đình Diệm 1954 - cách nay 60 năm

Con người phải cày bừa như trâu. Cảnh này không bào giờ có ở miền Nam từ thời Đệ Nhất CH, thời Cụ Ngô Đình Diệm 1954 – cách nay 60 năm

Năm 1979, sau khi “hoàn thành xuất sắc” các đợt đổi tiền, đánh tư sản mại bản, tịch thu tài sản tài phiệt người Hoa… nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra đòn vơ vét mới: loan báo cho phép những người mang quốc tịch Trung Hoa “hồi hương”. Từ lệnh này, các “cơ quan chức năng” trên cả nước mặc sức hái ra tiền bằng dịch vụ bán… quốc tịch Tầu, đăng ký và tổ chức hồi hương.

Người Việt muốn mang quốc tịch Trung Hoa phải trả từ 12 đến 15 lạng vàng một nhân xuất thì được cấp thẻ căn cước mang tên Tàu để đăng ký hồi hương.

Nghe nói đây là một chiến dịch toàn quốc, do chính Phó Thủ Tướng kiêm Bộ trưởng nội vụ thời ấy là Phạm Hùng cầm đầu, ban lệnh cho các sở công an địa phương. Một gia đình hồi hương, trước hết là phải nạp nhà cửa, đất đai. Số vàng kể trên, nhà nước chính thức thu một phần, sản còn lại để cho các quan công an địa phương một phần và chủ tàu lo toan mọi việc và đối đãi với công an địa phương.

Sau bốn năm sống dưới quyền hành chuyên chế của XHCN, gia đình tôi như bao người khác, hiểu rõ chỉ còn cách ra đi. Đành là mất tất cả sản nghiệp để đổi lấy tự do. Chạy vạy bán đồ đạc lo đủ số vàng cho tổ chức để lấy đủ giấy tờ mang quốc tịch Tàu!

Vào một buổi sáng sớm đầu tháng Năm âm lịch, gia đình tôi gồm 5 người, em dâu, em gái, tôi và hai cháu nhỏ 6 và 5 tuổi (em trai và em rể đã di tản từ năm 1975, hiện ở Mỹ) rời bỏ căn nhà riêng và cũng là tư xưởng (tôi làm tiểu công nghệ, nhà khá rộng) ra đi lúc vừa tan giờ giới nghiêm.

Tôi đi xe gắn máy, hai em và hai cháu có bạn thân chở giúp bằng xe Vespa. Hành trang chỉ có 3 chiếc tay nải đựng vài bộ áo quần và ít thuốc cần thiết cho trẻ con. Khóa trái cửa, rồ máy xe, tôi nhìn lại căn nhà do chính tôi xây dựng, rồi cúi đầu đạp xe ra khỏi xóm.

Dù đi với diện “hồi hương”, giấy tờ đầy đủ nhưng vẫn phải bí mật tuyệt đối. Khi đến bến xe đò, một người Tàu hướng dẫn nhóm tôi lên một xe vận tải sắt làm nhà, trong xe có 12 hành khách toàn là dân gốc Việt và 2 tài xế. Xe chạy đi Cà Mau.

Khi đến quận Cà Mau trình giấy, công an nói phải đợi có chuyến tàu mới đi được. Họ chỉ chúng tôi sang Hộ Phòng thuê một gian nhà tạm trú ít bữa. Cả gia đình tôi sang sông thuê một gian nhà nhỏ chờ đợi. Tại đây, chuyện công an tổ chức “hồi hương cho người Hoa” là chuyện công khai, có cả trăm gia đình ăn dầm nằm dề chờ đợi, ngày ngày phải chầu chực chờ lệnh công an.

Ba tuần trôi qua. Một tối công an đến báo ngày hôm sau được khởi hành. Sáng hôm sau, dưới trời mưa tầm tã, nhóm người Việt mang quốc tịch Tàu lên trên 3 chiếc xe đò đi Gành Hào để xuống tàu “hồi hương”!
Gành Hào lúc này đã biến thành cả một “cửa khẩu hồi hương”. Nơi nơi đông chen hầu hết là khách đi diện hồi hương từ mọi tỉnh đổ đến chờ ngày khởi hành.

Tới phiên chuyến chúng tôi ra đi, buổi chiều trời vẫn mưa u ám gió lạnh.

Cả đoàn xếp hàng dài trên bờ sông để xuống thuyền. Chiếc tàu lớn 6 mã lực mang 200 người mở máy từ từ ra biển lúc xẩm tối. Hai bên bờ, đèn đã sáng trong làng xóm. Hai đứa trẻ ngây thơ nằm yên trong lòng mẹ. Em dâu và em gái tôi dưng dưng buồn bã. Còn tôi ngồi trong khoang tối nhìn ra ngoài cây, vườn, với ánh đèn thôn quê dần dần xa, lòng tan nát.

Ra tới biển, trời mưa nặng hạt, gió thổi mạnh, sóng lớn. Nhiều hành khách say sóng nằm ngổn ngang trên sàn thuyền. Bên cạnh thuyền có tàu biên phòng của công an theo sát. Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ “bảo vệ” thuyền nhân từ bến đến hải phận quốc tế, nhưng thấy gió bão qua lớn nên đã bỏ về vào lúc nửa đêm. Trước lúc bỏ về, có lệnh cho mọi người trên tầu gom góp tiền bạc tư trang còn lại để “ta ơn các bộ đội biên phòng.”

Sau 2 đêm 1 ngày chống chọi với bão gió, thuyền lại phải quay về Gành Hào. Hai trăm con người trở về bến cũ với hình dạng tơi tả, thảm thương. Sau khi nhà chức trách kiểm điểm, mọi người tìm những gian nhà bỏ trống tạm trú. Không ai còn 1 xu nhỏ vì tối trước trên tàu đã thu góp tất cả mang tặng bộ đội. Các nạn nhân lũ lượt vào chợ bán rẻ những chiếc nhẫn kỷ niệm, chiếc lắc khắc tên người thân, sợi dây truyền đeo ảnh Phật… để lấy tiền độ nhật. Một đôi người vì cũng quẫn quá nên buồn rầu bỏ cuộc quay về.

Một tuần sau, chúng tôi lại xuống thuyền ra đi. Cũng gió bão ngất trời rồi trong 3 ngày liên tiếp, khi thuyền qua biển Thái Lan bị cướp 4 lần. Cướp biển, mặt vẽ xanh đỏ, có súng tiểu liên, bóc lột tàn tệ mọi người. Một số thiếu nữ bị hãm hiếp dã man.

Trong thuyền tiếng khóc uất ức vang dội như át cả tiếng sóng đang gầm thét dã man. Tất cả mọi người đều đau xót căm hờn, tâm thần như bại liệt trong hoàn cảnh phũ phàng. Thực phẩm hết, nước uống hạn chế, trẻ em đói khát nằm dài, những người mẹ rỏ từng giọt nước trên môi khô héo của con…

Đêm ngày thứ năm, thủy thủ trên thuyền reo lên: “Các cô, bác, ông bà yên lòng, chúng tôi đã trông thấy ánh đèn của giàn khoan dầu rồi. Độ 2 giờ nữa sẽ tới nơi thôi” Nửa chết, nửa sống, mọi người trông về phía xa xa thấy có mờ mờ ánh sáng, đó là giàn khoan dầu ngoại quốc tại Mã Lai.

Hai cựu quân nhân VNCH gốc hải quân biết đôi chút ngoại ngữ đeo phao nhào xuống biển tìm cách liên lạc với giàn khoan dầu. Các anh trở về bằng ca nô của giàn khoan mang theo nhiều bình nước và mấy túi bánh mì và cho biết là thuyền phải rời xa giàn khoan độ nửa hải lý, sáng mai sẽ có tàu lớn đến tiếp cứu. Thế là chúng tôi có nước cầm hơi, các bà mẹ bẻ bánh mì nhúng nước lạnh bón cho các con nhỏ.

Sáng hôm sau nắng đẹp, trời xanh biếc, mặt biển vàng tươi ánh mặt trời nhưng sóng gió vẫn lớn. Độ 9 giờ, trên tàu xôn xao vui mừng vì nhìn thấy một chấm trắng từ phía xa tiến lại. Các bạn trẻ hét to: “Chuẩn bị, tàu cứu ta đã đến kia rồi”. Khối trắng tiến gần, trên thuyền đã nhìn rõ lá cờ 3 sắc phấp phới “A, tàu Pháp!”, họ hét vang vui vẻ. Hai thuyền nhân giỏi tiếng Pháp đeo phao vù xuống biển đến tàu liên lạc. Lát sau máy phóng thanh trên tàu gọi cho thuyền tiến đến cạnh tàu.

Trên tàu Ile de Lumière (Đảo Ánh Sang) thả dây xuống buộc thuyền chúng tôi vào mạn tàu rồi cứ một lớp sóng đưa thuyền lên cao sát mạn tàu là một số thuyền nhân được nhân viên trên tàu kéo đỡ lên khoang. Khoảng sau 2 tiếng, công việc tiếp cứu đã xong. Gần 200 người tỵ nạn đã được an bình trong chiếc thủy đỉnh rộng lớn. Tất cả mọi người tắm bằng nước biển trên tàu rồi cứ mặc nguyên quần áo ướt ngồi phơi nắng gió cho khô.
Bữa ăn trưa hôm đó, người lớn được một khúc bánh mì kèm mứt ngọt. Trẻ em thêm vài bánh quy. Tối có thêm cháo, bánh mì dòn và phó mát. Đêm đến, trên boong tàu chúng tôi nằm ngồi ngổn ngang. Vừa tảng sáng máy phóng thanh rầm rã kêu gọi mọi người lên sàn tàu nghe thông điệp của Tổng Thống Pháp.

Máy phóng thanh vang vang tuyên bố là đêm qua, Tổng Thống Pháp quốc đánh điện cho các tàu Pháp vớt 1.500 người trên biển đông, và hỏi các thuyền nhân có ưng đi Pháp không. Tiếng hoan hô vang dậ﹬ ai ai cũng đồng ý, thế là tàu trực chỉ hải cảng Singapore.

Chiều tối ngày hôm sau, tới Singpore, tàu phải đậu xa biển mấy trăm thước. Nhân viên sứ quán Pháp xuống tàu làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi lần lượt được phỏng vấn: tên, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ tại Việt Nam… Lời khai được ghi rõ trong cuốn sổ lớn rồi mỗi người được cấp một tờ giấy nhỏ ngang dọc 15 phân tây. Đó là giấy nhập cảnh Pháp quốc của chúng tôi. Thuyền của nhóm tôi đã được cứu vớt đầu tiên nên được đặc biệt ưu đãi, miễn trả vé máy bay đi Pháp.

Các viên chức thức suốt đêm làm giấy tờ. Khi công việc vừa xong thì đã 7 giờ sáng. Tàu được cập bến ngay lúc đó. Một số người ở lại Singapore để chờ đón thân nhân.

Những người đi Pháp rời khỏi tàu lúc 9 giờ. Lên bến đi qua một lối riêng, cảnh sát xét giấy rồi ra thẳng nơi phi cơ Pháp đã đậu sẵn. Phi hành đoàn và hai bác sĩ, 2 nữ y tá đón chúng tôi ở cầu thang máy bay.

Thời gian tại Pháp

Trong phi cơ sáng trưng, sạch sẽ, thơm phức. Bọn thuyền nhân chúng tôi thì lem luốc, hôi hám, dơ bẩn, tiến vào ngồi trên nệm ghế màu xanh lợt. Nơi đuôi máy bay là phòng khám bệnh, giường nằm, bàn ghế trắng tinh, bác sĩ, y tá sẵn sàng đón tiếp bệnh nhân. Bữa ăn dọn lên. Mỗi người một khay có sữa, thịt gà quay, rau trộn, bánh ngọt, phó mát và kẹo. Thằng cháu nhỏ cầm bánh vừa ăn vừa cười tươi vui làm tôi thấy lòng bồi hồi chua sót.

Phi cơ hạ cánh tại phi trường Charles de Gaulle. Nhân viên Hồng Thập Tự chờ đón tất cả lên xe bus về trạm tiếp cư Crétail. Mỗi gia đình được một phòng.

Tối hôm đó, mọi người được tắm nước nóng. Có người đến Paris chỉ mang trên người một chiếc quần đùi. Áo quần giặt xong căng phơi trên máy sưởi, mình quấn khăn tắm vào giường nệm ấm. Sáng hôm sau mới được đưa
đi lựa quần áo cũ.

Ở Crétail một tuần, nhóm tôi được lệnh đi chuyển về Toulouse để chờ giấy phép đi Mỹ. Một buổi tối, chiếc xe bus màu vàng chở 20 người gồm tài xế, 2 người Lào, tới chở đi. Quá nửa đêm, xe đến địa điểm cư trú. Đó là một khách sạn cũ hai tầng lầu có nhiều phòng. Mỗi gia đình một phòng có đủ giường nệm, chăn gối, bàn ghế. Tầng dưới, phía bên cạnh là tửu lầu, mà cũng là phòng ăn của nhóm tị nạn.

Phòng ăn rộng chia làm hai nơi. Bên kia khách của nhà hàng, bên này là chỗ ăn của nhóm thuyền nhân. Mỗi bàn bốn người, thức ăn đầy đủ các loại thịt, cá, tôm…đặc biệt là Chủ Nhật, mục sư George Irwin đến đón đi lễ nhà thờ Tin Lành. Ông là người Mỹ, bà vợ dân Canada, đã truyền giáo tại Nha Trang bảy năm nên nói tiếng Việt rất lịch sự.

Ở khách sạn tạm cư được hai tháng, chính phủ trợ cấp 8 tháng tiền nhà, tiền ăn để dọn ra phố tự túc thuê nhà, kiếm việc làm. Em dâu tôi biết tiếng Pháp nên kiếm được việc ở tiệm ăn. Em gái ở nhà trông hai cháu nhỏ. Còn tôi vì quá suy nhược lại bị đau tê thấp nặng nên được đi dưỡng bệnh tại bệnh viện Luchon.

Luchon (Baguere de Luchon) nằm trong rặng núi Pyrénées, cách Toulouse độ 100 cây số. Đó là một vùng có thời tiết ấm áp, phong cảnh đẹp nhất miền Nam nước Pháp. Bệnh viện trang trí lịch sự, cách chăm lo bệnh nhân rất chu đáo dưới quyền điều khiển của bác sĩ danh tiếng.

Tại bệnh viện, buổi sáng, sau giờ điểm tâm, bệnh nhân tê thấp xuống hồ tắm nước nóng để y tá nắn gân cốt từng người. Buổi chiều, trước giờ ăn xoa bóp tại phòng ấm, và mỗi hai tuần ngâm bùn nóng. Bùn chứa trong thùng gỗ rộng. Bệnh nhân bỏ áo quần thường, mặc đồ riêng bằng nylon trùm từ đầu tới gót chân, ngâm trong bùn ấm 40 phút rồi bỏ bộ đồ nylon, tắm nước nóng, mặc lại áo quần, nghỉ độ nửa giờ mới được về phòng.
Tại Luchon có một ông bác sĩ gốc Việt Nam, Docteur Georges Navaro, nhưng không biết nói tiếng Việt. Bà vợ người Pháp rất dễ thương. Tôi là bệnh nhân Việt Nam duy nhất nên bác sĩ Navaro săn sóc rất tận tâm. Ông còn lái xe đưa tôi đi ngoạn cảnh các công viên, sang bờ biển Tây Ban Nha (cách Luchon 13 cây số) tới xem các người tập bay khinh khí cầu. Dù tôi không thông thạo tiếng Pháp bao nhiêu nhưng tôi rất thân thiện, quý hóa.

Tổ chức trong bệnh viện chu đáo, lịch sự. Bữa ăn thừa dinh dưỡng. Bệnh viện được coi là nơi để dưỡng sức, nghỉ ngơi khi quá suy nhược tinh thần. Vậy nên người địa phương chỉ được phép ở tối đa là 6 tuần lễ, nhưng riêng tôi đã ở dưỡng viện Luchon gần 3 tháng. Khi được giấy nhập cảnh Mỹ tôi mới rời viện.
Được tin nhóm tôi đi Mỹ, Ông Bà mục sư Tin Lành khuyên nhủ tôi nên ở lại Pháp làm việc cho Hội Thánh và giúp bả mở trường nữ công gia chánh để truyền bá văn hóa Việt Nam cho phụ nữ tại vùng Toulouse. Nhưng làm sao tôi bỏ 2 thiếu phụ đang trên bước đường xa lạ tìm chồng, và hai cháu nhỏ thơ ngây đi tìm cha, và nhất là sau hơn 5 năm chẳng biết em trai, em rể hiện nay tình tiết ra sao nữa?

Lên Paris trước một tuần sau khi phỏng vấn, khám sức khỏe, ký giấy vay tiền hội từ thiện Công Giáo mua vé máy bay đi Mỹ, gia đình tôi đi vãn cảnh tại thủ đô Ánh Sáng: Điện Tuileries, Panthéon, nhà thờ Notre Dame de Paris, tháp Eiffel, sông Seine, Khải Hoàn Môn (Arc de Tromphe)…

Vào trung tuần tháng 3, 1980, lúc mờ sáng, gia đình tôi đón xe lửa qua Bỉ (Belgium) rồi lên phi cơ đi Mỹ. Từ biệt nước Pháp vào lúc đèn phố còn chiếu sáng, xe lửa lướt nhanh qua dẫy phố mái nhà cao thấp, tôi mênh mang nhớ lại 9 tháng trước đây được tầu Ile de Lumière vớt cứu, được Pháp quốc chu cấp tài chánh, lo xếp đặt nơi ăn, chốn ở, chữa bệnh một cách ân cần trọng đãi, coi nhóm thuyền nhân tị nạn chúng tôi như thân hữu từ xa đến du lịch. Những sự đãi ngộ quý hóa đó đã làm chúng tôi phấn khởi tinh thần và tin tưởng kính trọng thể chế Tự Do Dân Chủ. Trong thâm tâm tôi thầm ghi ân Pháp Quốc.

Phi cơ đều hòa lướt cánh, lòng tôi rối ren nửa vui sắp đến nơi chủ định, mà buồn vì mỗi phút một cách xa quê hương. Nước và mây đã đưa tôi từ Á Châu qua Âu Châu, rồi nay đến Mỹ Châu, sau 10 tháng đầy âu lo, mong đợi.

Nước Mỹ

Tháng Ba năm 1980, máy bay hạ cánh tại phi trường National Virginia vào lúc mờ tối. Em trai và em rể đã chờ đón tại đó. Sáu năm xa cách, gia đình gặp nhau biết bao là mừng mừng tủi tủi, rồi cùng lên xe về thành phố Virginia.

Bữa ăn đầu tiên tại Mỹ là thịt gà Kentucky gần nhà. Gian nhà đầu tiên tôi đến ở đường số 7, Virginia, gồm hai phòng ngủ và phòng khách, bếp. Căn chung cư cũ kỹ đó, hai em tôi vừa thuê với giá rẻ để đón gia đình. Yên lành tôi ngủ trong chiếc giường kéo ở divan ra. Đó là chiếc giường đầu tiên tại Mỹ.

Sáng hôm sau cả nhà đến quận hạt trình giấy lĩnh thẻ cư trú, thẻ y tế. Tất cả mọi người đều được phụ cấp hàng tháng. Công việc xét kiểm giấy tờ nhanh chóng. Ông tiếp viên luôn nở nụ cười thân thiện và vui vẻ nói “You are welcome”.

Ngoài đường nắng đẹp, lá cây xanh tươi láng bóng. Em trai cho xe chạy một vòng rồi đưa đến chợ Mỹ. Chợ lớn rộng đầy đủ các loại thực phẩm; khách mua xếp hàng thứ tự. Cô gái Mỹ tính tiền, bấm máy thoăn thoắt, nét mặt tươi vui. Lúc nhận xong tiền, cô luôn nói “Thanh you”.

Về thực phẩm, lúc đó dân địa phương không ăn da gà nên bữa cơm đầu tiên nấu tại nhà có món đặc biệt là da gà xào gừng, hành tây. Vì da gà không tốn tiền mua (free) nên dân nghèo ăn đỡ, biến chế thành món ăn rất ngon.

Mấy tháng qua đi, gia đình tôi thuần thuộc sống theo cảnh lao động Mỹ. Sáu giờ sáng, nhóm đàn ông sách hộp đồ ăn ra xe đến trường (các em đang học điện tử tại đại học), sau buổi học, cả hai đi thẳng đến một nhà hàng làm bồi bàn, 8 giờ mới về. Nhóm đàn bà đi học Anh ngữ, trẻ con đến trường mẫu giáo. Riêng tôi bệnh tê thấp và thiếu máu chưa lành nên ở nhà, mỗi tuần hai lần có xe đón đến bệnh viện chữa trị, khám bệnh, chạy điện, tiêm thuốc…

Nửa năm qua đi, tôi đã đỡ nhiều nên được một nhà nhập cảng hạt ngọc – ngọc trai, ngọc thạch – mướn xâu hạt trả công một chuỗi 3 đô. Công việc không nhiều, mỗi tháng chỉ được hơn 100 dollars nhưng tôi rất mừng vì đó là những món tiền đầu tiên tôi kiếm ra ở Mỹ.

Những ngày lễ nghỉ, các em tôi mang cả gia đình đi ngoạn cảnh thủ đô Washinton DC. Tôi đã được viếng tòa Bạch Ốc (White House), Quốc Hội (Capitol), Bảo Tàng Viện (National Gallery of Art), hồ Jefferson, xem hoa anh đào nở bên dòng sông Potomac. Ngắm anh đào gió bay cánh hoa rụng như mưa, tôi chợt nhớ đến năm xưa du lịch Nhật Bản ngồi dưới gốc anh đào đại thụ ở công viên Sinjuky và ngắm dẫy anh đào ở đường lên Niko, nhưng bây giờ nhìn hoa với tâm thần thưởng ngoạn khác ngày xưa!

Xa nữa, tôi theo các hội đoàn đi du lịch New York xem Trung tâm Thương Mại Thế Giới, vòng thuyền quanh tượng Nữ Thần Tự Do tại sông Manhattan và xa hơn, sang Canada nhìn khói nước mịt mù ở thác Niagara, du ngoạn công viên Victoria, thăm nhà thờ Saint Joseph’s tại Montreal, 1000 Islands…

Hơn một năm sau, em trai, em rể tốt nghiệp kỹ sư điện tử, xin được việc làm tại miền tây. Em trai sở làm ở Bắc Cali, em rể ở Nam Cali. Tôi theo em trai về San José thuê một gian chung cư có ba phòng nhỏ, giá rẻ.
Sáng sáng, em tôi đi làm, cháu trai vào tiểu học. Tôi và em dâu thi vào Evergreen Valley College. Em học lớp trên, tôi học lớp cuối. Em có học bổng (Scholarship), còn tôi thì không, chỉ lấy có 4 units. Tôi rất ngỡ ngàng vì mỗi khóa học đều có thanh tra đến phát giấy cho học trò phê bình hạnh kiểm của cô, thầy giáo. Trong khi thanh tra đến, thầy giáo phải ra ngoài để học trò tự nhiên viết lời phê bình lên giấy. Có một câu hỏi tôi nhớ rõ: “Đối với học trò thầy cô có hòa nhã, lễ độ không?” đó là cách thực thi dân quyền, dân ý của nước dân chủ tự do. Tất cả các trường đều vậy. Ngoài việc học, mỗi chiều thứ sáu và ngày thứ Bảy, tôi phụ giúp tiệm bánh ngọt, công mỗi giờ 3 dollars.

Từ khi đến Hoa Kỳ đến nay thấm thoát đã trên hai mươi năm. Em trai, em rể đã nhiều phen chìm, nổi với nghề nghiệp, đã 4,5 lần thay đổi sở làm và cũng vài lần thất nghiệp nằm nhà đợi “Job” hàng 5,7 tháng. Em dâu cố gắng học xuốt 4 năm để lấy bằng kế toán (acounting). Em gái sau khi khá anh ngữ, học nghề phụ tá bác sĩ về răng. Suốt bao năm vần cù làm lụng, học hỏi không ngừng nên hiện giờ hai người đàn ông đã là nhân viên kỳ cựu trong ngành điện tử, và em gái, em dâu tôi đã tìm được việc làm theo khả năng chuyên môn vững chắc. Hai cháu nhỏ lúc rời nước có 6 tuổi, nay đang theo ngành y khoa.

Còn riêng tôi sau hai năm làm lao công bán bánh ngọt, cửa hàng đổi chủ, tôi đi may thuê tại tiệm may áo dài Việt Nam. Ngoài việc may, em tôi nhận “chip” điện tử về cho làm thêm vào buổi tối. Cả gia đình làm lụng cần cù nên nay các em đã có căn nhà khang trang. Phần tôi đã đến tuổi lão được lĩnh phụ cấp (SSI). Bệnh tê thấp, thiếu máu vẫn dai dẳng, lại thêm bệnh đau dạ dày (stomach Ulcer), bác sĩ khuyên nên an tĩnh tinh thần, duy trì tuổi lão…vậy nên sự du ngoạn là một vấn đề trong chương trình cuộc sống còn của tôi.

Vì thế nên sau mười mấy năm lao động cả về thể chất lẫn tinh thần nơi đất lạ, tôi đã đi thăm các thắng cảnh tại miền Tây để bảo vệ sức khỏe, và nhất là mong được hiểu biết thêm cảnh trí, nền văn hóa, cách sinh hoạt đại chúng từng địa phương với bao công trình kiến tạo đặc sắc của nước Mỹ – một hiệp chủng quốc tân tiến, trù phú, hùng cường, có nhiều sắc dân cư ngụ khắp trong 50 tiểu bang rộng lớn.

Tôi đã từng tới công Viên Yosemite, Redwood Basin, Heart Castle, cầu Golden Gate, San Mateo, Gand Canyon, Mystery Spot (Santa Cruz), Mystery (San José), Lake Tahoe, Universal Studio, Disneyland… và cả các nơi giải trí bằng cờ bạc, đỏ đen như Las Vegas, Reno…

Năm thi quốc tịch tại San Jose, khảo thí viên, một ông Mỹ trắng, hỏi tôi trên 20 câu phần chính về lịch sử từ khi lập quốc, rồi hành pháp, tư pháp, thượng viện, hạ viện, dân biểu, nghị sĩ, và hỏi tôi có bị tù không… Câu cuối cùng, ông ta hỏi: “Tại sao bà muốn làm công dân Mỹ?”

Tôi đáp: “Bởi vì nước Mỹ là nước có Tự Do, Dân Chủ”. Ông khảo thí đưa bút và giấy bảo tôi viết. Ông đọc: “I love America”. Khi tôi viết xong, ông ta nhìn tôi mỉm cười: “Rất tối, bà đã đỗ” (Very good. You have passed).
Sau khi ký các giấy tờ thường lệ và viết tên văn bằng công dân Mỹ, tôi chào ông và nói: “Tôi nhớ ơn Mỹ quốc, xin cảm ơn ông! (I am grateful to America. Thank you)”.

Trùng Quang

* *  *
Bà Trùng Quang Sinh ngày 1-1- 1912 tại miền Bắc VN, bà Trùng Quang là nhà thơ, nhà hoạt động văn hoá, xã hội, giáo dục kỳ cựu của phụ nữ Việt Nam.

Tại Hà Nội, bà là hiệu trưởng sáng lập Trường Nữ Công Việt Nữ. Di cư vào Nam từ 1954, bà là hiệu trưởng trường Phương Chính, giảng dạy về Việt ngữ, sinh ngữ, nữ công. Bà cũng là người khai sáng ngành mỹ nghệ làm búp bê Việt Nam với kỹ thuật du nhập từ Nhật và Âu Châu.
Xuất hiện trên sân khấu, cạnh học trò cũ là Kiều Chinh, tác giả Trùng Quang bằng tiếng Anh lưu loát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa và lòng biết ơn đất nước Hoa Kỳ khi bà Viết Về Nước Mỹ.

 

Hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ

Hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ

Khi con chết, xin cô hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ. Bởi khi đang chơi với các bạn, con muốn mẹ dễ dàng nhận ra con.

Tác giả Cindy Dee Holms
(Mint dịch)

Công việc của tôi là chăm sóc những đứa trẻ mang trong người virus gây ra căn bệnh AIDS. Những mối quan hệ tôi có được với những đứa trẻ đặc biệt này chính là món quà vô giá đối với tôi. Tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện về lòng can đảm của một cậu bé tên là Tyler.

Khi mới sinh, Tyler đã bị lây nhiễm HIV từ người mẹ. Từ lúc còn là một đứa bé sơ sinh, em sống được là nhờ vào rất nhiều loại thuốc. Đôi khi, em cũng cần phải được trợ giúp thở bằng oxy.

Thế nhưng, Tyler không chịu gục ngã trong bất kỳ một phút giây nào trước căn bệnh chết người này. Chúng tôi vẫn thường thấy cậu chơi đùa hay chạy nhảy dưới sân, vừa mang trên vai chiếc ba lô trĩu nặng thuốc men, vừa kéo lê theo mình chiếc xe đẩy chứa bình oxy để thở.

kid28-5293-1389950693.jpg
Ảnh minh họa: CMS.

Niềm vui trẻ thơ của Tyler đã mang lại cho cậu bé sức mạnh và khiến tất cả chúng tôi, những người biết cậu đều rất đỗi ngạc nhiên và xem đây là một kỳ tích. Mẹ của Tyler nhận thấy cậu bé chạy quá nhanh nên bà mặc cho cậu bộ đồ màu đỏ. Bằng cách ấy, mỗi khi nhìn ra cửa sổ để trông chừng Tyler chơi đùa trên sân, bà đều có thể dễ dàng nhận ra cậu ngay.

Căn bệnh đáng sợ ấy cuối cùng rồi cũng hạ gục ngay cả một cậu bé đầy nghị lực như Tyler. Cậu yếu dần, và bất hạnh thay, cả mẹ cậu cũng trong tình trạng như vậy. Đến lúc thấy cậu bé sống không được bao lâu nữa, mẹ Tyler trò chuyện và an ủi rằng bà cũng sắp chết và bà sẽ sớm bên cạnh cậu nơi Thiên đường.

Vài ngày trước khi qua đời, Tyler ra hiệu cho tôi đến gần bên giường của cậu và thì thầm rằng: “Con sắp chết rồi cô ạ. Nhưng con không sợ đâu. Khi con chết, xin cô hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ. Mẹ đã hứa là cũng sẽ đến Thiên đường với con. Khi mẹ đến, có lẽ lúc ấy con đang chơi với các bạn, và con muốn mẹ dễ dàng nhận ra con ngay”.

 

Bố

Bố

Chuacuuthe.com

th (1)

VRNs ( 24.04.2014) – Sài Gòn-  Nhà tôi ở bên bờ sông. Sau nhà, những chiếc xà-lan gầm rú, những chiếc vỏ lãi nhỏ nhắn mỏng manh suốt ngày xuôi ngược trên sông, chở đầy ăm ắp những cây củ quả, những hàng nông sản chắc là cây nhà lá vườn. Chiếc ô-bạc-lơ bông bí đặt trên mũi đò mở hết công suất:

– Mười ngàn ba kí bắp cải, bắp cải ba kí mười ngàn.

– Ai hành hẹ, dưa leo, củ sắn, dừa tươi, dừa khô, củ cải trắng, củ cải đỏ, khoai lang, dưa hấu hôn?

Trước nhà, tiếng hú của xe cứu thương, tiếng còi giành đường inh ỏi, tiếng xe tải rầm rập. Và tiếng rao của những chiếc loa vuông trên những chiếc xe gắn máy cũ không thể cũ hơn:

– Sò huyết, sò vôi, sò cò, sò lông đây.

– Giấy thơm chùi miệng chùi tay một cây mười ngàn, bà con cô bác ơi.

– Mua ti-vi, ăm-li, tủ lạnh đây.

Và nhất là bài thuyết minh dài dằng dặc về tiến bộ của khoa học. Sau nhiều năm nghiên cứu, người ta đã phát minh ra và đưa vào sử dụng sản phẩm công nghệ cao, bảo vệ môi trường không gì hơn được. Kết luận:

– Keo dính chuột, keo dính ruồi đây.

Bấy nhiêu thứ âm thanh (gọi là tiếng động có vẻ chính xác hơn) xô bồ, suốt ngày đêm ra rả tra tấn thính giác con người, làm tôi muốn điên lên. Rồi mất ngủ, rồi thao thức, nhớ linh tinh đủ thứ chuyện, đủ thứ người. Rồi nhớ da diết một người: Bố. Bố nuôi tôi bằng nghề hàn nồi niêu soong chảo lu khạp của bố. Lời rao hàng của bố không có máy tăng âm, không thét vào tai người ta, nhưng ai đã nghe qua một lần là nhớ ngay, không quên được, vì nó buồn buồn, lại vui vui, nghĩa là buồn cười:

– Hàn nồi hàn niêu, hàn cả tình yêu, hàn cả cuộc đời. Hàn niêu hàn nồi, hàn luôn con người, hàn cả trái tim.

*  *  *

Từ khi lên lớp mười, tôi đã được nghe người ta nói gần nói xa, bóng gió rằng tôi là con nuôi. Các cô các dì tôi thường lườm nguýt:

– Anh nuông chiều nó quá. Nó lớn rồi, anh phải bảo ban dạy dỗ nó, phải nghiêm khắc mới được. Anh không nhớ cha chúng mình thường nói: “Yêu cho roi cho vọt” hay sao?

Tôi trốn học, nhà trường gởi giấy báo về nhà, bố giận lắm. Hôm ấy bố không ăn uống gì. Bố quăng tờ giấy báo đóng dấu đỏ chót của nhà trường lên bàn học của tôi. Tôi thấy rõ bố nén cơn giận:

– Con trả lời bố thế nào đây?

Tôi nói dối, bào chữa:

– Buổi trưa cô giáo dạy môn Tiếng Anh tổ chức mừng sinh nhật, tụi con về trễ 15 phút, cô chủ nhiệm không cho vào lớp.

Cơn giận của bố bùng nổ. Tuy nhiên tôi thấy bố cũng còn cố kiềm chế:

– Con trốn học ngày 2 tháng 3. Sinh nhật cô Nguyễn Thị Mông Triệu dạy môn Tiếng Anh ngày 15 tháng 8, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Con nỡ lòng nào nói dối bố? Hôm nay bố phạt con không phải vì con trốn học, cũng không phải vì tờ giấy báo kia, mà vì con nói dối bố. Đó cũng là phạt chính bố đã không dạy dỗ con thành một người chân thật. Con lên giường, nằm sấp xuống, bố đánh con ba roi.

Bố thẳng tay vụt cái roi trúc lên người tôi. Đau quá, không chịu nổi. tôi gào toáng lên. Bố ném chiếc roi vào góc nhà, nói cộc lốc:

– Còn hai roi. Để đấy. Cho nợ.

Tôi thấy bố lấy tay áo lau nước mắt. Tôi biết, từ nay, tôi không nỡ, không nên mà cũng không thể nói dối bố được nữa.

Chiều, hàng xóm láng giềng xì xầm với nhau:

– Lão già ác thật, đánh con bé đến không đi nổi, đau đến độ nó phải khóc thét lên, cả xóm nghe thấy. Rõ là khác máu tanh lòng.

Đêm, tôi gục mặt vào gối, khóc thầm cho thân phận mình. Tôi nhất quyết phải hỏi bố cho ra lẽ. Hôm sau, tôi xin lỗi bố, rồi hỏi:

– Bố cho con hỏi hai câu, bố đừng giấu con: Thứ nhất con có phải là con của bố không? Thứ hai…

– Bố biết câu hỏi thứ hai rồi.

Khuôn mặt bố căng ra, có vẻ rất nghiêm trọng:

– Bố chờ đợi câu hỏi này của con từ lâu lắm rồi. Bố hỏi con: Có khi nào con không là con của bố không? Thế này nhé! Bố hứa sẽ nói tất cả khi con khôn lớn, vào một dịp đặc biệt nào đó, ngày con vào đại học chẳng hạn (bố con mình ấn định luôn, ngày con vào đại học nhé!). Lúc ấy con đã trưởng thành. Còn bây giờ, nhiệm vụ của con là học và học được không?

*  *  *

Tôi trúng tuyển kỳ thi vào đại học. Đó là ước mơ của tôi, cũng là ước mơ của bố, nhưng đối với bố, đó là ước mơ vượt tầm vì bố phải đi vay nặng lãi làng trên xóm dưới mới có tiền cho tôi đi học. Bố chăm chút cho tôi từng li từng tí, như một người cha, đồng thời như một người mẹ. Tôi thương bố quá, vừa muốn bỏ học cho rồi, nhưng lòng lại dặn lòng phải hết sức cố gắng để không phụ công lao và niềm tin yêu của bố. Tôi cũng đã biết hai năm rõ mười về nhân thân vô thừa nhận của tôi. Tôi không nhắc gì đến lời hứa của bố. Nhưng bố không quên. Bố gọi tôi lên phòng bố:

– Bố trả lời cho con không phải hai mà là tất cả mọi câu con hỏi bố hôm nay, như món quà mừng con vào đại học. Nào, con hỏi đi.

– Thôi mà bố. Chẳng có gì quan trọng đâu.

Bố nhìn xa vắng, như thể đôi mắt bố nhìn ra ngoài cửa sổ, mãi tận chân trời quá khứ xa xăm nào đó:

– Bố nhặt được con trong một thùng rác. Tiếng khóc của con đã cứu con. Lúc ấy, người con tím ngắt, lũ kiến cắn khiến môi, mắt con sưng vù lên. Bố đưa con vào bệnh viện, người ta theo nguyên tắc, chỉ đồng ý chữa trị cho con nếu bố trả tiền viện phí, tiền thuốc men, sữa sần, quần áo, tã lót và các chi phí linh tinh khác, và cam kết chịu trách nhiệm chăm nuôi đứa bé. Ơn Chúa, vì thế mà bố con mình có nhau. Con nghĩ xem, có một người đàn bà, vì một lý do nào đó, do hoàn cảnh đưa đẩy, đã can đảm cưu mang chín tháng mười ngày đứa con của mình, rứt ruột sinh con ra mà không nuôi được, cũng có thể không được nuôi. Người đàn bà ấy, là người mẹ đẻ của con, đau khổ và đáng thương lắm chứ, phải không?  Đáng trách phải là người đàn ông bội bạc, là thành kiến xã hội đối với những người lầm lỡ, là dư luận ác tâm, là những bậc ông bà cha mẹ, là những chức dịch chánh phó trương trùm trưởng tân cựu, miệng lúc nào cũng rao giảng lời Chúa, tha thứ bảy mươi lần bảy, nhưng thực tế lại tự cho mình là quan tòa, kết án nạn nhân là chửa hoang, là lăng loàn trắc nết, là kẻ bôi tro trát trấu, làm ô danh gia đình, dòng họ, giáo khu, giáo xứ, là mọi người thấy người ta chết đuối mà không dám đưa tay ra, dù chỉ một ngón tay. Bố gọi đó là sự bất khoan dung, có được không, con gái? Con còn trẻ, đời còn dài, bố thành tâm mong Ơn Trên run rủi cho con được gặp mẹ con, con sẽ hiểu được thế nào là tấm lòng người mẹ.

Bố sòng sọc rít một hơi thuốc lào:

– Câu hỏi thứ hai. Con hỏi về bố phải không?

Tự nhiên nước mắt tôi trào ra:

– Vâng, nhưng không cần nữa đâu, bố ạ! Bố biết cho, bố là bố, là người thân yêu duy nhất, là điểm tựa đời con, thế là đủ với con, bố ạ!

*  *  *

Tôi ra trường, chưa xin được việc làm, chưa đáp đền công ơn bố được xu teng cắc bạc nào thì bố bỏ tôi mà đi. Bố mất năm bố năm mươi mốt tuổi. Trúng cơn gió độc (chắc là bị tai biến mạch máu não hay nhồi máu cơ tim gì đó), bố hôn mê sâu, không nói được một lời nào với bất cứ ai. Bố được đưa đi cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy. Khi đi, bố là một con người; khi về, bố chỉ là một cái xác không hồn. Bố chết như một chiếc lá rụng về cội. Hình như bố không muốn hay không dám làm phiền hà con gái bố và những người thân của bố, dù chỉ một viên thuốc, một hớp nước lã, một thìa cháo hoa, một câu nói cuối đời.

*  *  *

Hôm thứ tư Lễ Tro, sau khi tham dự thánh lễ khai mạc Mùa Chay Thánh, tôi ra Phục sinh đường giáo xứ viếng bố. Tôi nhìn lên nơi bố yên nghỉ. Một con người chỉ còn một dúm tro trong cái tiểu bé tí kia ư? Nắm tro ấy từ đâu đến? Như thế nào? Rồi đi đâu?…Bố đã được dựng nên và được gởi đến, được đặt để trong thế gian này cho riêng tôi, với bao nhiêu lao công khó nhọc, mồ hôi nước mắt. Bố đã là cha, là bạn thiết, là món quà quý giá nhất trên đời Chúa ban tặng cho tôi. Bố đã yêu thương, đã được chẳng bao nhiêu, nhưng mất mát lại nhiều quá. Bố đã “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” (GS). Bố đã là một con người, vậy mà giờ đây, chỉ còn một nắm tro tàn. Quả thật, cuộc hiện sinh kinh hoàng biết nhường bao. Tôi đăm đắm nhìn lên di ảnh của bố. Bố cười, nụ cười hàm chứa một chút đau đớn cam chịu, nhưng vẫn là nụ cười đã thắng vượt nỗi đau, và cả sự chết, một nụ cười không thể bị già nua đi nữa. Có khi đó còn là nụ cười vĩnh cửu không chừng. Nụ cười của bố như muốn nói với tôi rằng:

-Bố đã từ tro bụi mà đến, thì lại tro bụi mà về. Nhưng con hãy tin đi. Nắm tro bụi này sẽ trỗi dậy trong một thân xác thần thiêng ngày sau hết, giống như thân xác hiển vinh của Đấng đã bị treo lên, đã chịu chết, chịu mai táng và phục sinh, vì bố vì con, cho bố cho con.

Thân Thị Vô Dụng

Đường không em anh đếm buớc nhiều hơn…

Đường không em anh đếm buớc nhiều hơn…

Saigon có nhiều truờng đại học ..nhưng có lẽ chỉ Khoa học là ngôi truờng có đường đến thật dễ thương.

Trường Y thì con đường Hùng Vương thật đông đúc, truờng Dược và Nông lâm cùng Đại học xã hội Nhân Văn tức Văn khoa ngày xưa thì đuờng Đinh Tiên Hoàng cũng khá đẹp. Riêng Đại học kinh tế tức truờng Luật ngày xưa, đường Nguyễn Đình Chiểu có cây cao nhưng nhỏ xiú. Còn đường Duy Tân, con đường đã đi vào thơ và nhạc nhờ bài hát “Trả lại em yêu” thì tuy nhạc sỹ Phạm Duy ca tụng “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” nhưng cũng hơi nhỏ hẹp. Chỉ có đưòng Cộng Hoà cũ tức Nguyễn Văn Cừ bây giờ dẫn đến Đại Học Khoa học là đuờng đẹp nhất trong các đường đại học thời trước 75.

Đường rất rộng gồm đường chính và hai đường nhỏ hai bên dành cho xe đạp. Con đường rợp bóng mát của những cây, dường như gọi là “còng me tây”(??), cây thấp gốc to, tàn rộng xoè che phủ trông giống như cái lọng của hoàng hậu.

Tôi rất thích đi bộ trên con đuờng này. Nhớ hồi phổ thông thích đi bộ trên đường Bà Huyện Thanh Quan..Những con đường đẹp bao giờ cũng phải có cây cao, bóng mát nhất là có hai hàng me xanh chụm đầu vào nhau thì thật tuyệt và ….đừng có nhiều xe!!

Bây giờ thành phồ đông đúc hơn xưa, số lượng xe máy tràn ngập nên các con đừơng cũng tràn ngập xe và mất đi rất nhiều vẻ thơ mộng ngày nào.

Có đi bộ để tà áo dài bay trong gió hay nón lá nghiêng vành thì các thi nhân mới có hứng để làm thơ. Còn bây giờ ..tôi bật cuời khi nghĩ rằng, nếu Nguyên Sa về đây nhìn các em phóng xe Dream vù vù, mặc áo dài mà ngồi dạng hai chân, tóc tém hớt cao thì…nhà thơ có viết thơ đuược nữa không nhỉ.

Tôi có một kỷ niệm nhỏ gắn với con đường đại học cuả tôi. Hồi đó tôi chuưa biết đi xe máy nên phải đi xe lam đến truờng. Xe dừng ở đầu bùng binh, đường Hồng Thập Tự tức Nguyễn thị Minh Khai bây giờ rồi tôi đi bộ vào Khoa học trên đường Cộng Hoà… Trứơc khi đến Khoa học, tôi phải đi ngang trừơng Petrus ký tức Lê Hồng Phong bây giờ. Lúc về lại đi ngang Petrus Ký để ra lại đường Hồng Thập Tự đón xe lam về nhà. Tuy lên đại học nhưng gia đình khó nên vẫn bắt tôi mặc áo dài trắng ôm cặp y như ở phổ thông. Thỉnh thoảng tôi mặc áo dài cũ còn nguyên phù hiệu Gia Long. Khi đi ngang Petrus Ký để đón xe lam ở đầu đường HồngThập Tự về nhà, một anh chàng áo trắng quần xanh mang phù hiệu Petrus Ký đi theo. Tôi nhút nhát không dám nói gì hết mặc cho anh ta độc thoại. Mà không hiểu sao anh ta gặp tôi mấy lần như thế. Toàn là khi tôi đi về nên anh ta hoàn toàn không biết “chị Hai” đã là sinh viên.

Một lần anh ta “rống lên ” :

Nắng Saigon anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
(thơ Nguyên Sa)

Tôi bật cuời và ứng khẩu:

Lầm nghe em, chị đâu phải Gia Long
Sinh viên đó, xin đừng theo chị nữa
Ráng học đi coi chừng đi quân dịch
Hẹn gặp em trong sân truờng đại học …năm sau !

Thế là cây si đỏ mặt, không còn đi theo nữa. Tuổi trẻ nghịch ngợm thật. Nhưng cuộc đời có những cái ngồ ngộ không lý giải đuợc ..Có nguời mới nhìn đã thấy ưa, có nguời gặp hoài thấy phát ghét!

H là một trong cái mặt mới gặp ..mà không ghét. Có lẽ vì tôi là Bắc kỳ nên luôn có cảm tình với dân Bắc kỳ như mình. H đi theo tôi, trêu chọc, cứ tưng tửng, chẳng biết là thật hay giả..

Một lần hắn đua cho tôi bài thơ dễ thuơng :(cũng không biết thơ của hắn hay là của ai ?)

Đố em biết đuờng đến truờng mấy ngả
Con đuờng nào anh đếm buớc nhiều hơn
Gốc cây nào anh thuờng quen đứng đợi
Nhớ nhung gì khi bóng ngả hoàng hôn?

Gặp ngay “nữ văn sỡi “Lan Chi. Vậy là đâu có …thuơng yêu con nguời ta một ly ông cụ nào đâu mà cũng hoạ lại chơi :

Em vẫn biết đuờng đến truờng nhiều ngả
Đuờng không em anh đếm buớc nhiều hơn
Gốc me tây anh vẫn thuờng đứng đợi
Nhớ em nhiều khi bóng ngả hoàng hôn!

Đúng không các bạn trẻ?

Đuờng không em anh đếm buớc nhiều hơn

Hay là bây giờ không còn thơ mộng như thời xưa nữa? Nghĩa là đuờng không em, anh chạy sẽ nhanh hơn ?

Hoàng Lan Chi

Lâm Kim Trọng gởi

Thiên thần mang áo lính

Thiên thần mang áo lính

Qua dòng nước mắt, cha tôi kể cho người đàn ông xa lạ nghe chuyện mẹ mình đang nằm chờ chết trong bệnh viện.

Tác giả Jeannie Ecke Sowell
(Mint dịch)

Gia đình tôi có một giai thoại mà cha tôi thường hay kể cho chúng tôi nghe. Đó là câu chuyện về bà nội tôi.

Năm 1949, cha tôi trở về nhà sau chiến tranh. Trên mọi nẻo đường khắp nước Mỹ, bạn có thể thấy những người lính đang xin đi nhờ xe để trở về với gia đình mình. Chuyện đó đã trở thành bình thường ở Mỹ lúc bấy giờ.

Không may là, niềm vui sướng được trở về đoàn tụ với gia đình của cha tôi nhanh chóng lụi tàn. Bà nội tôi bị bệnh rất nặng phải đưa vào bệnh viện. Thận của bà có vấn đề. Bác sĩ nói, bà phải được truyền máu ngay nếu không sẽ không qua khỏi đêm nay.

Vấn đề là máu của bà nội thuộc nhóm AB – một loại máu cho đến ngày nay vẫn còn rất hiếm chứ đừng nói gì đến thời đó, cái thời mà chưa có các ngân hàng máu hay các chuyến bay phục vụ cho công tác y tế.

Tất cả mọi người trong gia đình đều đến làm xét nghiệm, nhưng chẳng ai có nhóm máu giống bà. Không còn hy vọng gì nữa, bà nội đang hấp hối. Cha tôi rời bệnh viện mà nước mắt ròng ròng. Ông phải đi đón mọi người trong gia đình đến để nói lời chia tay với bà nội.

 

nguoilinh1-4979-1395976565.jpg

Trên đường đi, cha tôi gặp một người lính vẫy tay xin đi quá giang về nhà. Đang buồn như vậy nên cha chẳng còn tâm trí đâu mà đi giúp người khác. Nhưng, dường như có một sức mạnh nào đó khiến ông dừng xe lại cho người lạ mặt đó bước đi nhờ.

Trong lúc tâm trạng rối bời, cha cũng không hỏi xem người lính đó tên là gì, nhưng khi vừa lên xe ông ta đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cha và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Qua dòng nước mắt, cha tôi kể cho người đàn ông xa lạ nghe chuyện mẹ mình đang nằm chờ chết trong bệnh viện vì bác sĩ không thể nào tìm ra người có nhóm máu AB giống như bà. Và nếu họ không tìm được trước đêm nay, bà chắc chắn sẽ chết.

Không khí trong xe chợt chùng xuống. Rồi người lính xa lạ đưa tay mình cho cha tôi, lòng bàn tay xòe ra. Nằm gọn trong bàn tay ông là một chiếc thẻ bài vừa tháo trên cổ xuống, trên đó ghi: “Nhóm máu AB”. Rồi người lính nọ bảo cha tôi quay xe trở lại, đưa ông đến bệnh viện.

Bà nội tôi sống thêm nhiều năm sau nữa. Thế nhưng, cho đến tận bây giờ, cả gia đình tôi không một ai biết tên người lính đó. Cha tôi vẫn thường tự hỏi, liệu người đàn ông đó có phải là một quân nhân hay chính là một thiên thần trong trang phục người lính?