CHIẾC VĨ CẦM

CHIẾC VĨ CẦM

Tác giả: Fr. Huynhquảng

Chuyến tàu định mệnh Titanic đã nằm sâu trong lòng biển, dầu vậy những tấm gương làm người vẫn được thỉnh thoảng nhắc tới cho nhiều thế hệ mãi đến hôm nay. Trong những mẫu gương ấy, mẫu gương chung thuỷ của người nhạc trưởng Wallace Hartley và Maria Robinson được nhắc đến như một câu chuyện tình buồn, nhưng đẹp – Đẹp vì là vì tính chung thuỷ và trân trọng những báu vật họ trao tặng nhau.

* * *

Trong khi mọi người đang hoảng loạn lo sợ trước cảnh chiếc tàu Titanic gặp nạn, nhằm để giữ vững tinh thần cho hành khách, người nhạc trưởng trẻ 24 tuổi, Hartley đã dũng cảm triệu tập ban nhạc gồm tám nhạc công để trình diễn trên boong tàu. Họ cứ tiếp tục chơi giữa phong ba bảo táp, giữa cảnh náo loạn kêu la, và họ đã giữ vững vai trò nhạc công của họ cho đến giây phút cuối cùng cùng với gần 1.500 hành khách chìm vào lòng biển sâu thẳm vào ngày 15 tháng 4 năm 1912.

Sau một thời gian dài, các nhà chuyên môn đã tìm được một số báu vật trong con tàu định mệnh; trong số đó họ tìm thấy chiếc vĩ cầm của nhạc trưởng Harley được đặt trong chiếc vali bằng da. Lạ thay, dù đã bị chôn kín trong lòng biển nhiều năm, chiếc vĩ cầm vẫn còn như nguyên vẹn. Cây vĩ cầm là quà tặng do bà Maria Robinson tặng cho nhạc trưởng Wallace Hartley nhân ngày họ đính hôn. Trên thân đàn, người ta tìm thấy dòng chữ: “Dành tặng anh Wallace nhân ngày đính hôn của chúng mình. Em Maria.” Sau đó, chiếc vĩ cầm được trao lại cho bà Maria Robinson, vợ của nhạc trưởng, người đã sống cuộc đời còn lại trong bậc sống độc thân. Sau khi nhận lại chiếc đàn, Bà Maria đã viết trong nhật ký, “Cây vĩ cầm giờ đây là sợi dây kết nối tình yêu giữa chúng ta.”

* * *

Bạn thân mến, câu chuyện tình đẹp là chuyện tình diễn tả sự trọn vẹn của mối tình ấy. Người ta vẫn thường rêu rao, “Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ” – cái đẹp của mối tình “dang dỡ” đó chẳng qua là “đẹp” về cảm xúc chứ không thể nói là mối tình đẹp trọn vẹn được. Vì nếu đẹp, tại sao còn dang dở; và vì nếu nó dang dở thì không thể đẹp được.

Mối tình của Wallace và Maria có đẹp không? Có dang dở không? Vâng nó đẹp và không dang dở. Đẹp và trọn vẹn vì chính Wallace và Maria chọn lựa sống mối tình mình cho đẹp cho trọn dù cho hoàn cảnh đẩy họ vào thế “dang dở” nhưng họ, nhất là bà Maria vẫn quyết chọn và làm cho mối tình của họ nên đẹp. Cuộc tình đẹp hay dang dở đều là do sự chọn lựa giữa họ với nhau mà thôi. Thử hỏi là nếu Maria chọn tái hôn, thì liệu rằng chiếc vĩ cầm mà họ tặng cho nhau có giá trị như hiện nay hay không? Liệu rằng chúng ta có bàn đến cuộc tình của họ với tất cả sự ngưỡng mộ hay không? Cả hai Wallace và Maria, họ có quyền kết thúc cuộc tình đẹp  của họ trong dang dở; dầu vậy, họ đã chọn kết thúc cuộc đẹp của họ trong trọn vẹn. Nhất là Maria, cô có quyền kết thúc cuộc tình đẹp của cô với Wallace, và cũng có quyền để xây đắp một mối tình đẹp khác. Dầu vậy, Maria đã chọn đi trọn giao ước trong cuộc tình với Wallace, vì hơn ai hết, Maria hiểu rằng, cuộc tình này chỉ thực sự đẹp khi trong khối óc và con tim của cô không có sự “dang dở.”

Cũng như tất cả những ai đã và sẽ bước vào đời sống hôn nhân, mối tình của bạn có đẹp không, có dang dở không? Vâng nó đẹp lắm – dĩ nhiên nó phải đẹp bạn mới bước vào đời sống hôn nhân; nhưng nó có dang dở không? Đây chính là câu trả lời dành cho sự chọn lựa của bạn. Những cuộc tình hôn nhân thật đẹp không có nghĩa là họ không gặp éo le, ngang trái. Thực ra, có khi họ còn gặp nhiều nghịch cảnh dang dở  nữa là đàng khác; nhưng cuộc tình của họ đẹp là vì họ vẫn chung thủy với nhau bất chấp tất cả nghịch cảnh dang dở.

Thưa bạn, nhìn vào những người thân chung quanh, chúng ta vẫn thấy gặp những con người làm nên nhiều cuộc tình đẹp vì sự chung thủy của họ. Vẫn có đó những cảnh “gà trống nuôi con.” Vẫn có đó những người mẹ đơn độc nuôi con vì chữ tính với chồng. Những con người này có gặp dang dỡ trong cuộc đời không? Thưa có, nhưng cuộc tình của họ vẫn trọn vẹn và đẹp vì lời thề nên trọn và hoàn tất.

Thưa bạn, những chọn lựa nhỏ bé trong từng ngày của bạn  cũng góp phần làm cho cuộc tình của bạn đẹp tương tự như những cuộc tình đẹp bất hủ trong lịch sử con người. Lịch sử đang ở trong tay bạn!


Fr. Huynhquảng

Bỏ Qua Oán Hận

Bỏ Qua Oán Hận

http://3.bp.blogspot.com/-b5SI3Pe-_Uk/UgUwrEQ6TqI/AAAAAAAABIc/qOatw3k7AGU/s1600/images+(6).jpg

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: – Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không ?

Người anh đáp: – Không. Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi: – Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó !

Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng: – Anh đã ở đây bao lâu rồi . Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: – Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi .

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

Anh ta đề nghị: – Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không ? Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

http://1.bp.blogspot.com/-CkNMPGZMiNg/UgUw7oT01eI/AAAAAAAABIk/MHQ4LTOlMBI/s1600/download+(2).jpg

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau. Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến

From: ngocnga_12

Anh chị Thụ – Mai gởi

CHUYẾN BAY DELTA 15

CHUYẾN BAY DELTA 15

Jerry Brown

Vào sáng ngày Thứ Ba, 11 Tháng Chín năm 2001, chúng tôi đã rời khỏi Frankfurt khoảng 5 giờ đồng hồ rồi và đang bay qua Bắc Đại Tây Dương.

Thình lình tấm màn ngăn cách giữa buồng lái với khoang tàu chứa hành khách vén mở và tôi được gọi vào buồng lái gặp phi công trưởng ngay lập tức.

Vừa bước vào buồng lái là tôi để ý nhận thấy ngay nét nghiêm trọng lộ trên khuôn mặt mọi người. Phi công trưởng đưa cho tôi một bản in ra vừa nhận từ trụ sở chính của hãng Delta Airlines ở Atlanta viết vỏn vẹn câu:Mọi tuyến không lưu trên lục địa Hoa Kỳ đều ngăn cấm giao thông hàng không thương mại. Hãy đáp khẩn cấp càng sớm càng tốt xuống phi trường nào gần nhất. Hãy thông báo điểm đáp. “

Không ai nói một lời nào cho tôi biết điều này mang ý nghĩa. Chúng tôi biết đây là một tình thế nghiêm trọng và chúng tôi cần phải tìm đất liền để đáp ngay. Phi công trưởng xác định sân bay gần nhất là phi trường Gander, Newfoundland, cách 400 dặm. Ông liên lạc với trạm không lưu Canada để xin cho thay đổi đường bay và được chấp thuận ngay mà không cần hỏi lý do. Tất nhiên sau đó chúng tôi đã hiểu ra lý do tại sao họ chấp thuận không do dự.

Trong khi phi hành đoàn chuẩn bị cho máy bay hạ cánh, một tin nhắn đến từ Atlanta báo cho chúng tôi biết có hoạt động khủng bố trong khu vực New York. Vài phút sau tin cập nhật cho biết có không tặc.

Chúng tôi quyết định nói dối với hành khách trong khi chúng tôi vẫn còn ở trên không. Chúng tôi nói với họ rằng máy bay gặp một trục trặc nhỏ về cơ khí và cần phải hạ cánh tại sân bay gần nhất ở Gander, New Foundland để kiểm tra. Chúng tôi hứa sẽ cung cấp thêm thông tin sau khi hạ cánh ở Gander. Có nhiều hành khách phàn nàn, nhưng điều đó không có gì là lạ. Bốn mươi phút sau, chúng tôi hạ cánh xuống Gander. Giờ địa phương lúc bấy giờ tại Gander là 12:30 PM tức là 11:00 AM New York.

Khi chúng tôi đáp thì đã có khoảng 20 máy bay khác trên mặt đất đến từ khắp nơi trên thế giới và họ cũng đã phải chọn lối đi vòng này trên đường đến Hoa Kỳ.

Sau khi chúng tôi đã đậu trên phi đạo chờ lệnh mới, phi công trưởng thông báo như sau: “Thưa quý vị, chắc quí vị thắc mắc phải chăng tất cả các máy bay xung quanh chúng ta có vấn đề cơ khí tương tự như chúng ta. Thật ra chúng ta đang ở đây một lý do khác.” Sau đó, ông tiếp tục giải thích thêm đôi chút cho chúng tôi biết về tình hình tại Hoa Kỳ. Có những tiếng thở hổn hển ồ to lên những tia nhìn hoài nghi thảng thốt. Phi công trưởng thông báo cho hành khách biết rằng giới hữu trách của phi trường Gander bảo chúng tôi giữ yên tại chỗ.

Bấy giờ trách nhiệm và quyền quyết định về tình trạng của chúng tôi tùy thuộc ở chính phủ Canada và lệnh của họ là không ai được ra khỏi máy bay. Và cũng không ai dưới đất được phép đến gần bất kỳ phi cơ nào. Chỉ có cảnh sát sân bay cứ lâu lâu lại đến dòm ngó chúng tôi một lúc, xong đi qua các máy bay khác. Trong khoảng một giờ đồng hồ kế tiếp, thêm nhiều máy bay hạ cánh và sau cùng Gander tiếp nhận tất cả là 53 máy bay từ khắp nơi trên thế giới, 27 chiếc trong số đó là phi cơ hàng không thương mại của Mỹ.

Trong khi đó, những mảnh tin tức bắt đầu phát ra trên hệ thống âm thanh của phi cơ. Lần đầu tiên chúng tôi được biết các phi cơ bị không tặc đã đâm vào Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới ở New York và vào Ngũ Giác Đài trong vùng Washington DC. Mọi người cố gắng ng điện thoại di động của họ, nhưng không thể kết nối hệ thống truyền sóng ở Canada khác. Một số người gọi thông qua được, nhưng chỉ có thể với tổng đài ở Canada họ cho biết rằng các làn sóng nối kết vào đất Mỹ đã bị chặn hoặc bị nghẹt.

Khoảng vào buổi tối trong ngày, tin tức cho chúng tôi rằng hai tòa cao ốc Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới đã sụp đổ và chiếc phi cơ thứ tư bị không tặc đã đâm xuống đất. Bấy giờ hành khách đều kiệt sức về thể chất lẫn cảm xúc, không kể nỗi sợ hãi, nhưng tất cả mọi người đều bình tĩnh đáng kinh ngạc. Chúng tôi chỉ cần nhìn ra ngoài cửa sổ thấy 52 phi cơ bị lạc khác để nhận ra rằng chúng tôi không phải là người duy nhất trong tình trạng khó khăn này.

Trước đó chúng tôi được thông báo rằng họ sẽ cho phép hành khách lần lượt ra khỏi máy bay mỗi lần một chiếc. Lúc 6 giờ chiều, sân bay Gander nói với chúng tôi rằng phiên chúng tôi được phép rời phi cơ sẽ 11 giờ sáng hôm sau. Hành khách không hài lòng tí nào, nhưng họ cũng buông xuôi chấp nhận tin không vui này mà không phản đối ồn ào; họ bắt đầu chuẩn bị sẵn sàng để ở qua đêm trên máy bay.

Gander hứa với chúng tôi sẽ chăm sóc y tế, nếu cần thiết, nước, và dịch vụ vệ sinh. Và họ đã giữ lời. May mắn thay chúng tôi không có tình huống y tế nào phải lo lắng. Chúng tôi có một phụ nữ trẻ mang thai 33 tuần. Chúng tôi đã chăm sóc rất chu đáo cho thai phụ đó. Đêm trôi qua không gặp biến cố nào ngoại trừ sự xếp đặt chỗ ngủ không được thoải mái.

Khoảng 10 giờ 30 sáng ngày 12, một đoàn xe buýt trường học chạy đến. Chúng tôi ra khỏi máy bay và được đưa đến nhà ga, nơi chúng tôi thông qua thủ tục nhập cảnh và quan thuế, và sau đó phải ghi danh với Hội Hồng Thập Tự.

Sau đó chúng tôi (phi hành đoàn) được tách ra khỏi đám đông hành khách và được xe van đưa đến một khách sạn nhỏ. Chúng tôi không biết hành khách của chúng tôi được đưa đi đâu. Nhân viên của Hội HTT cho chúng tôi biết rằng thị trấn Gander có dân số 10.400 người và họ đang có khoảng 10.500 hành khách phải chăm sóc từ tất cả các máy bay đã buộc phải đáp xuống Gander! Họ bảo chúng tôi hãy yên tâm nghỉ ngơi tại khách sạn và họ sẽ liên lạc khi các phi trường Mỹ mở và hoạt động trở lại, nhưng chắc cũng mất một thời gian.

Chỉ khi chúng tôi đến khách sạn và bật TV lên, chúng tôi mới biết hết toàn diện của cuộc tấn công khủng bố ở quê nhà (nước Mỹ), 24 giờ sau khi bắt đầu diễn ra.

Trong lúc đó, chúng tôi có rất nhiều thì giờ rảnh rỗinhận thấy rằng người dân Gander vô cùng thân thiện. Họ bắt đầu gọi chúng tôi là “người máy bay.” Chúng tôi hưởng nhận tính hiếu khách của họ, khám phá thị trấn Gander và kết cuộc là đã được trải qua một khoảng thời gian khá tốt đẹp ở nơi đây.

Hai ngày sau, chúng tôi được gọi và được đưa trở lại sân bay. Trên máy bay, chúng tôi đoàn tụ với các hành khách và km phá những gì họ đã làm trong hai ngày qua. Những điều chúng tôi khám phá đó thật không thể tin được.

Gander và tất cả các cộng đồng xung quanh (trong vòng bán kính 75km) đã đóng cửa tất cả các trường trung học, hội trường, nhà nghỉ, và bất kỳ nơi tập hợp lớn nào khác. Họ biến đổi tất cả các cơ sở vật chất đó thành chỗ trú ngụ chung cho tất cả lữ khách lỡ đường. Có chỗ thì trải chiếu, chỗ thì trải nệm, chỗ thì trải túi ngủ và gối nằm.

Tất cả các học sinh trung học được kêu gọi tình nguyện thì giờ để chăm sóc cho “khách.” 218 hành khách của phi cơ chúng tôi được đưa tới một thị trấn có tên là Lewisporte, cách Gander khoảng 45 cây số, nơi đó họ được trú ngụ trong một trường trung học. Hành khách phụ nữ nào muốn có khu ngủ riêng cũng được sắp xếp theo ý muốn. Các hành khách đi chung cả gia đình cũng được giữ lại chung với nhau. Tất cả các hành khách lớn tuổi được đưa tới nhà riêng.

Các bạn còn nhớ người phụ nữ trẻ mang thai chứ? Bà ấy được đưa đến một nhà riêng đối diện bên kia đường với một cơ sở chăm sóc khẩn cấp 24 giờ. Có một nha sĩ được cử sẵn nếu cần đến, các y tá nam và nữ túc trực cạnh đám đông trong suốt thời gian tạm trú.

Các cuộc gọi điện thoại và e-mail cho Mỹ và thế giới được thiết lập sẵn để tất cả mọi người có thể dùng mỗi ngày một lần. Vào ban ngày, hành khách được cung cấp các chuyến du ngoạn“. Một số chọn đi du ngoạn bằng tàu thuyền trên các hồ và bến cảng. Một số chọn đi băng đồng trong các khu rừng của địa phương. Các tiệm nướng bánh địa phương tiếp tục mở cửa để làm bánh mì tươi cho khách hàng.

Thức ăn được các cư dân nấu nướng ở nhà rồi mang đến cho các trường học. Người nào thích dùng bữa ở nhà hàng theo sự lựa chọn của họ cũng được đưa đi và được cung cấp các bữa ăn tuyệt vời. Tất cả mọi người đều được cấp phiếu đến các tiệm giặt địa phương để giặt quần áo vì tất cả hành lý vẫn còn giữ trên máy bay.

Nói cách khác, mỗi nhu cầu thuần nhất của lữ khách lỡ đường cũng đều được đáp ứng đầy đủ. Hành khách đã khóc khi kể lại với chúng tôi những câu chuyện này.

Cuối cùng, khi có tin tất cả phi trường ở Mỹ đã mở cửa trở lại, họ được chở đến sân bay đúng giờ không thiếu một hành khách nào. Hội HTT địa phương đã nắm đầy đủ tất cả các thông tin của mọi hành khách và đã đưa trả hành khách về lại đúng chuyến bay. Họ phối hợp tất cả mọi thứ một cách tốt đẹp. Thật đúng là hoàn toàn không thể tin được.

Khi hành khách đã trên tàu, nó giống như họ vừa mới đi một chuyến du hành trên biển. Tất cả mọi người đều biết tên nhau. Họ trao đổi những câu chuyện của họ trong mấy ngày qua, khoe với nhau xem người nào được đối xử tốt hơn.

Chuyến bay của chúng tôi về đến Atlanta trông giống như một chuyến bay du ngoạn ăn chơi được thuê bao. Phi hành đoàn tránh ra để họ tự do. Thật không thể tưởng. Hành khách hoàn toàn hàn gắn với nhau và gọi nhau bằng tên một cách thân mật, cùng nhau trao đổi số điện thoại, địa chỉ nhà, địa chỉ email.

Và sau đó là một điều rất lạ thường xảy ra. Một trong những hành khách của chúng tôi đến gần tôi và hỏi tôi rằng ông ta có thể dùng hệ thống âm thanh của phi cơ để nói vài lời được không. Chúng tôi không bao giờ cho phép điều đó. Nhưng lần này thì khác. Tôi nói “tất nhiên” và đưa máy vi âm cho ông. Ông nhắc mọi người về những gì họ vừa trải nghiệm trong mấy ngày qua. Ông nhắc nhở họ về lòng hiếu khách mà họ đã nhận được từ tay của những con người hoàn toàn xa lạ. Ông tiếp tục nói rằng ông muốn làm một điều gì đó để đền đáp lại cho những cư dân tốt bụng của Lewisporte.

Ông cho biết ông sẽ thành lập một Quỹ tín thác dưới tên của DELTA 15 (Số hiệu chuyến bay của chúng tôi). Mục đích của quỹ tín thác là cung cấp học bổng đại học cho học sinh trung học của Lewisporte. Ông kêu gọi mọi khách đồng hành cùng chuyến bay đóng góp bất kỳ số tiền bao nhiêu cũng được. Khi chúng tôi đã gom góp đủ hết các tờ giấy ký hứa có ghi số tiền, tên họ, số điện thoại và địa chỉ, tổng số khoản tài trợ là trên $14.000!

Người đề xướng đó là một bác sĩ ở Virginia, ông hứa phần ông sẽ đóng góp bằng với số tiền đó sẽ tiến hành thủ tục giấy tờ lập học bổng. Ông cũng nói rằng ông sẽ chuyển đề nghị này đến Công Ty Hàng Không Delta và sẽ yêu cầu họ cùng hiến tặng.

Khi tôi viết bài này, quỹ tín thác đã lên hơn $1.5 triệu và đã hỗ trợ 134 học sinh theo học đại học.

Tôi chỉ muốn chia sẻ câu chuyện này bởi vì bây giờ chúng ta cần những câu chuyện đẹp như thế này. Nó mang lại cho tôi một chút hy vọng khi biết rằng người ta dù ở nơi xa xôi vẫn có thể đối xử tử tế với người lạ trôi dạt tới. Nó nhắc tôi thế giới này có bao nhiêu điều tốt đẹp. Bất chấp mọi điều xấu xa chúng ta thấy đang diễn ra trong thế giới ngày nay, câu chuyện này khẳng định rằng vẫn còn rất nhiều người tốt và thánh thiện trên thế giới và họ sẽ hiện ra khi tình thế xấu tệ đi.

Xin thượng đế ban phước cho Hoa Kỳ. Xin thượng đế ban phước cho người dân Canada… và đặc biệt là xin thượng đế ban phước cho người dân Newfoundland.”

(Phan Hạnh chuyển ngữ)

Ý nghĩa về tình thương

Clip ch dài 3 phút đã truyn ti được hết thông đip sâu sc và ý nghĩa v tình thương, lòng tt bng không toan tính ca con người.

Clip “Giving” ca True Move H, mt công ty vin thông ca Thái Lan, là câu chuyn ngn đy cô đng v quy lut “nhân qu” ca con người. Sau khi được đăng ti vào ngày 11/9 va qua, hin clip đã thu hút được hơn 3 triu lượt theo dõi vi gn 35.000 lượt “like” và bình lun.

httpv://www.youtube.com/watch?v=7s22HX18wDY

Clip m đu vi cuc cãi vã, ging co gia người ph n bán thuc và 1 cu bé được cho là “ăn trm”. Vì m m, nhà li nghèo, cu bé buc phi liu mình đi ăn trm thuc v cha bnh cho m. Dù bi

ết rng hành đng ăn trm là xu, đáng lên án thế nhưng, đng trước cnh tượng đáng thương ca mt cu bé hiếu tho, người đàn ông tt bng đã m rng vòng tay không h toan tính mua thuc và đưa cho cu bé mt chút thc ăn.

Clip về lòng tốt rung động hàng triệu trái tim 1

Clip về lòng tốt rung động hàng triệu trái tim 2

Clip về lòng tốt rung động hàng triệu trái tim 3

Nhiu năm sau đó, cuc sng c thế bình lng trôi qua và người đàn ông cùng cô con gái tt bng y vn luôn dang tay giúp đ nhng người lang thang cơ nh hay có hoàn cnh khó khăn.

Thế nhưng, biến c xy ra khi vào mt ngày, ông ch ca hàng ăn b đt qu, buc phi nhp vin cp cu. Vin phí cao ti mc cô gái tr buc phi bán đi căn nhà ca 2 cha con. Tưởng chng cuc sng ca 2 người t đây s tht khó khăn, cht vt thế nhưng điu kỳ diu đã xy ra. Tm lòng xưa kia ca 2 cha con được báo đáp. Cu bé “ăn trm” ngày nào gi đã tr thành mt v bác s tài ba. Vi tt c tm lòng, cu thanh niên tr đã dc sc nghiên cu, cha tr cho ân nhân xưa mà không cn bt kỳ đng vin phí nào b“Vin phí ngày hôm nay đã được tr t cách đây 30 năm”.


Clip về lòng tốt rung động hàng triệu trái tim 4

Clip về lòng tốt rung động hàng triệu trái tim 5

Clip như câu chuyn c tích gia thi hin đi giúp người xem càng hiu hơn v quy lut “nhân qu” trong cuc sng. Vi ni dung súc tích cùng li din đơn gin, chân thc, clip đã thc s lay đng hàng triu trái tim trên thế gii.

Vợ đại gia… thua “chân dài”

Vợ đại gia… thua “chân dài”

Chị tôi 54 tuổi, là lãnh đạo một cơ quan cấp thành phố. Từ xưa đến giờ mọi người trong họ ai cũng bảo “chị Giang là sướng nhất”, là vì bản thân chị thành đạt, có chồng quyền cao chức trọng, gia đình êm ấm hạnh phúc, con cái giỏi giang (hai đứa con chị đều đang học ở nước ngoài)…

Ấy vậy mà đùng một cái, chị bảo tôi: “Đi với chị, phải làm cho ra nhẽ chuyện vợ bé con mọn của lão Quân mới được”. “Anh Quân làm sao?” – tôi vô cùng kinh ngạc. Chị Giang nước mắt ngắn dài kể với tôi đầu đuôi câu chuyện.

Chung sống 30 năm, chưa bao giờ chị có ý nghi ngờ chồng không chung thủy, vì tính anh rất hiền, sống có nguyên tắc, có trách nhiệm với gia đình, đi đâu, làm gì anh đều thông báo rõ ràng với vợ…

Hồi trẻ, có lần chị Giang nói đùa: “Ông Quân nhà mình đứng đắn quá, tuy rất yên tâm nhưng nhiều khi cũng thấy… nhàm chán”.

Hiện nay anh Quân là Tổng giám đốc một công ty cổ phần Nhà nước, đồng thời còn hùn hạp với Sơn, một “đệ tử”, mở công ty riêng. Chị Giang hoàn toàn không để ý chuyện tiền nong, làm ăn của chồng, nhưng khi nào anh cũng để cho vợ hai tỉ đồng trong tủ để chị “tiêu vặt”, đó là khoản riêng dành cho chị không bao giờ suy xuyển.

Bỗng một hôm chị Giang không thấy hai tỉ đồng đâu nữa, chị giật mình hỏi chồng thì anh bảo: “Đưa chú Sơn rồi, công ty đang cần gấp”. Chị lại hỏi: “Khoản 10 tỉ anh bán hai căn biệt thự liền kề cũng đã đưa chú ấy. Sao đưa nhiều vậy?”. Anh ậm ờ: “Vài bữa chú ấy sẽ trả ngay thôi”.

Thấy nóng ruột, chị Giang lặng lẽ đi gặp Sơn hỏi, Sơn thú thật: “Anh có dặn em, nếu chị hỏi thì bảo anh góp vốn vào công ty 12 tỉ đồng. Nói thật, nếu anh bảo đưa em 2 – 3 tỉ thì em còn dám nói dối chị chứ 12 tỉ thì em không dám nhận. Sự thực là anh chưa đưa cho em đồng nào cả”.

Chị Giang suýt nữa thì ngất xỉu. Chưa vội làm ầm ĩ, chị thuê thám tử theo dõi chồng và được biết anh Quân thường hay lui đến một ngôi biệt thự ở quận Tây Hồ, có cả ảnh chụp số nhà. Trước những bằng chứng không thể chối cãi, anh Quân đã phải thú nhận có “phòng nhì”, đó là một cô người mẫu nghiệp dư, họ đã có với nhau  đứa con gái 8 tuổi.

Chị Giang càng uất ức nghẹn ngào hơn khi biết toàn bộ số tiền 12 tỉ chồng mình đã “đầu tư” hết cho cô ta: 8 tỉ mua căn biệt thự, 4 tỉ dùng vào việc 2 lần “chuộc” con gái bị bọn xã hội đen “bắt cóc tống tiền”… Chị đã phải gào lên: “Sao anh ngu thế! Chính anh mới là người bị con cave ấy nó bắt cóc tống tiền, hiểu chưa?”.

Anh Quân chỉ còn biết “sửa sai” bằng cách bán lại căn biệt thự cho một người bạn để thu hồi vốn. Anh bạn đặt trước 4 tỉ rồi 2 người đi làm công chứng. Nhưng hỡi ôi, khi cô “vợ bé” đưa giấy tờ nhà ra, anh Quân mới ngã ngửa người vì cô ta thuê chứ không phải mua căn nhà.

Khi tôi đi cùng chị Giang đến căn biệt thự ở Tây Hồ thì bị “vệ sĩ” của cô ta cản lại. Thật đáng kinh ngạc, cô ta có tiền thuê vệ sĩ trông nhà và đưa đón con đi học, vậy mà vẫn hai lần nhắn tin cho anh Quân: “Con gái bị bắt cóc, chúng đòi 2 tỉ tiền chuộc. Anh đến ngay…”. Như bị ma quỷ bịt mắt, anh Quân vẫn ngoan ngoãn đưa tiền cho cô ta.

Bằng tất cả sức mạnh của sự căm hận, chị Giang tát vào mặt tay “vệ sĩ” (tôi nghĩ hắn bị đánh oan) và xông thẳng vào nhà. Cả hai chúng tôi đều bàng hoàng, choáng ngợp trước sự sang trọng chưa từng thấy bên trong căn biệt thự. Nghe nói kiến trúc sư đã “copy” thiết kế nội thất phòng ngủ của hoàng hậu Thổ Nhĩ Kỳ(!).

Phía trên đầu giường có bức “ảnh cưới” của chồng chị Giang với cô ta (chụp tại biệt thự) lồng trong khung lớn nạm vàng, hai người mặc trang phục như ông hoàng bà chúa. Điên tiết, chị Giang giật lấy bức ảnh đập vỡ tan. Ôi thôi, từ phía sau bức ảnh lớn, hàng chục tấm hình nhỏ rơi lả tả xuống nền nhà. Nhặt lên xem thì đó là những tấm hình cô ả chân dài chụp cảnh “ăn chơi” với ít nhất 3 – 4 người tình trẻ trung khác.

Hóa ra lâu nay cô ta vẫn “lấy của thằng miền xuôi nuôi thằng miền ngược”. Vậy mà ai đời cô ta còn bù lu bù loa: “Tôi sẽ kiện chồng chị vì đã cướp mất tuổi thanh xuân của tôi”… Thấy đứa con gái đứng nép bên mẹ, chị Giang liền túm lấy nó nhổ vài sợi tóc để mang đi xét nghiệm ADN.

Kết quả thật bất ngờ, đứa trẻ không phải con anh Quân. Anh choáng váng nhưng vẫn không tin, cho rằng vợ đã “giả mạo kết quả”. Cô bồ của anh cũng không tin, cô ta khẳng định thời gian đó chỉ “quan hệ” với một mình anh Quân nên nhất định đứa bé là con đẻ của anh. Không nói nhiều, chị Giang vơ hết đồ đạc, quần áo của chồng tống vào hai chiếc va li và quăng ra sân: “Anh cút đi cho tôi nhờ. Đừng bao giờ bước chân về nhà này nữa!”. Anh Quân lủi thủi đến nhà em gái ở nhờ.

Rồi chính cô bồ của anh mang con đi xét nghiệm ADN với sự giám sát của chị Giang. Lần này, khi chị cầm tờ giấy xét nghiệm về ném trước mặt chồng – kết quả vẫn không phải con anh – thì anh Quân sụp đổ hoàn toàn. Anh bị đột quỵ sau một cơn tai biến, phải nằm viện điều trị dài ngày. Hơn một tháng nay, chưa một lần chị Giang vào bệnh viện thăm chồng, tôi khuyên chị đừng quá cố chấp như vậy, nhưng chị bảo: “Hết rồi. Chị không thể nào tha thứ cho ông ấy. Sự thực là trong lòng chị, ông ấy coi như đã chết”.

Tôi không biết nói sao, nhưng quả thật, sự sụp đổ đầy kịch tính những giá trị hôn nhân như chị Giang có lẽ chỉ thời đại này mới có. Và hình như không phải là chuyện hiếm!

S.T.

From: Thiên Kim

Mẹ dạy con tự lớn thành người

Mẹ dạy con tự lớn thành người

Mẹ có thể không ở cạnh con khi con đau đớn và thất vọng nhất, nhưng khi nhìn lại mọi thứ đã qua, con nhận ra rằng mẹ yêu con nhiều lắm, vì thế mẹ dạy con cách tự mình khôn lớn và trưởng thành.

Mười tuổi, con đòi mặc áo mới nhưng mẹ lại bảo đến nhập học mẹ sẽ cho mặc. Con lôi chiếc áo cũ ra cố tình cắt một vết rách không thể vá trên chiếc áo trắng cũ.

Khi phát hiện ra, mẹ lẳng lặng cất chiếc áo mới vào cuối ngăn tủ rồi khóa cửa tủ. Thế là ngày nhập học ngày con đến lớp với chiếc áo đã ngả màu vàng úa. Tan học, con lại phải thay ra để giặt, phơi nắng cho chóng khô ngày mai còn mặc tiếp. Từ đó, con không dám đòi hỏi gì nếu mẹ chưa đồng ý.


Buổi tối, mẹ nhắc con: “Ngày mai kiểm tra nên tranh thủ ôn bài, còn đi ngủ sớm”. Con vâng dạ, rồi mãi mê chát chít với mấy đứa bạn rỗi việc. Đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Gần sáng con mới dứt khỏi cái máy vi tính và lăn ra ngủ. Con không hẹn đồng hồ, vì nghĩ thế nào ngày mai mẹ cũng gọi dậy.

Khi thức giấc muộn, con quáng quàng chạy vội đến lớp. Mẹ đang thu bài kiểm tra. Hôm sau, mẹ trả bài, cột điểm một tiết của con với con một đỏ son. Con gục mặt xuống bàn, ấm ức khóc.
Con vào đại học, con và cha thuyết phục mẹ mua xe máy cho con nhưng mẹ không đồng ý. Tháng đầu tiên xa nhà, nhận tiền mẹ gửi con đem đi mua chiếc áo mới nên tháng ấy con hết tiền sớm hơn mọi khi, con viết thư cho mẹ. Con nghĩ chắc mẹ phải lo lắng lắm và sẽ vội vàng gửi tiền lên ngay cho con như chúng bạn con vẫn thường làm với mẹ chúng.

Nhưng không… con chỉ nhận được giấy gọi lấy tiền vào đầu tháng như mọi khi. Suốt một tuần, con phải ăn mì tôm thay cơm. Từ đấy, con biết cách chi tiêu một cách hợp lý.

Một hôm, con nhận được thư. Con tưởng tượng sẽ có biết bao lời yêu thương trìu mến. Nhưng không mẹ chỉ viết ngắn gọn những dòng thông báo cùng một câu hỏi được gạch chân cẩn thận: “Sao con không kiếm gì làm thêm? Sinh viên năm hai rồi còn gì!”. Con ngạc nhiên, nhà mình có phải khó khăn, thiếu thốn gì đâu?

Nhưng vì tự ái, con cũng theo chân lũ bạn long đong đến các trung tâm gia sư. Rồi khóc nức nở vì đóng tiền mà vẫn không có được việc làm thêm. Sau mấy lần con biết cách để không bị lừa nữa.

Những trưa nắng chang chang, đạp xe đi dạy, lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Những buổi tối mưa nặng hạt, con co rúm đứng chờ xe buýt vẫn không nản. Tháng lương đầu tiên, sau khi mua quà gửi mẹ, con tự thưởng cho mình một chiếc áo. Đó không phải là chiếc áo con thích nhất nhưng con luôn giữ gìn một cách cẩn thận. Con quý nó gì đó là do công sức mình lao động để mua.

Suốt một thời gian dài, con nghĩ mẹ không hề yêu con. Mẹ nghiêm khắc, lạnh lùng và luôn đẩy con vào những hoàn cảnh khó khăn mà đáng lý con không phải chịu như thế.

Mẹ có thể không ở cạnh con, ngay cả khi con đau đớn và thất vọng nhất. Nhưng đến bây giờ, khi nhìn lại tất cả mọi điều đã qua, con nhận ra rằng mẹ yêu con nhiều lắm, vì thế mẹ dạy con cách tự mình khôn lớn và trưởng thành.

Sưu tầm

Người tình của cha

Người tình của cha

Cha tôi nói, trong gia đình, quan trọng là người đàn bà. Giữ được êm ấm hay đổ vỡ cũng là do người đàn bà.

Mẹ tôi mất cách nay đã 10 năm. Kể từ ngày ấy, cha chưa một lần rời khỏi cái tổ ấm chứa đựng 50 năm hạnh phúc với 10 đứa con “trứng gà, trứng vịt” của cha mẹ. Cha bảo, cha không muốn đi đâu khi không có mẹ.

Ấy vậy mà vừa rồi, thằng Út gọi điện: “Cha nói muốn lên Sài Gòn thăm con cháu một chuyến”. Tụi tôi thấy lo lo. Người ta hay nói, một người già bỗng dưng muốn đi thăm bạn bè, thân hữu, cháu con thì chắc chắc sẽ có thay đổi lớn. Dù vậy, nghe bảo cha chịu đi chơi thì mấy anh em tôi rất mừng, vội vàng mướn xe về đón cha lên. Mấy anh em phân công nhau: cha ở với mỗi đứa 1 tuần. Cứ thế mà xoay tua. Nếu hết tua mà cha vẫn còn muốn ở chơi thì bắt đầu làm lại tua thứ hai. Thỏa thuận xong đâu đấy rồi, vậy mà bỗng dưng cha đổi ý: “Cha ở với vợ chồng con Bảy. Trước nay, con Bảy nấu ăn giống mẹ, cha vừa miệng nhất”.

Vậy là tôi, con Bảy cuống quýt dọn dẹp nhà cửa để đón cha về. Biết ý cha, ngày nào tôi cũng hỏi: “Hôm nay cha muốn ăn gì để con mua?” Cha bảo: “Cha lớn tuổi rồi, ăn uống bao nhiêu đâu, gì cũng được”. Tuy cha nói vậy, nhưng ngày nào tôi cũng cố gắng đổi món. Hôm thì cá rô kho tộ, bữa thì tôm kho tàu, thịt ba rọi nướng; bữa thì tôi nấu bánh canh, bún bò cho cha ăn… Theo thói quen, hôm nào tôi cũng chờ cha gắp vài đũa rồi hỏi: “Cha ăn được không cha?” Cha gật đầu: “Con là đứa biết ý cha nhất”. Thấy vậy, 2 thằng con tôi cũng bắt chước. Mỗi khi lên bàn ăn, tụi nó lại tranh nhau hỏi: “Ông ngoại, ngon không ông ngoại?” Cha tôi xoa đầu hai thằng cháu: “Ngon. Nhưng mẹ con nấu không giống bà ngoại nấu…”

Sau câu nói, tôi thấy mắt cha rơm rớm. Có lẽ cha nhớ mẹ. Mấy chục năm vui buồn, tôi chưa bao giờ nghe cha mẹ nặng lời với nhau. Cha không bao giờ kêu mẹ bằng “bà” mà gọi bằng “mẹ sắp nhỏ”. Cha kêu như thế dù “sắp nhỏ” của cha mẹ có đứa đã ngót nghét năm mươi tuổi.

Mãi sau này khi mẹ mất, cha mới kể, lúc đầu, khi ông bà nội đi hỏi cưới mẹ cho cha, cha chê mẹ xấu nên đã bỏ đi biệt xứ. Hơn 3 năm sau, cha trở về, thấy mẹ vẫn còn ở vậy. Lân la làm quen, chuyện trò cha mới phát hiện mẹ là một cô gái hiền lành, đảm đang, hiếu thảo. Cha hỏi, sao mẹ chưa chịu lấy chồng thì mẹ trả lời: “Lấy người bạc bẽo như anh thì thà ở vậy còn hơn”. Lúc đó, cha trở ngược, năn nỉ mẹ ưng lấy cha. Năn nỉ riết, mẹ cũng xiêu lòng nhưng giao hẹn: “Lấy tui rồi thì không được lẹo tẹo với mấy đứa xóm trên nghen. Anh mà có gì với tụi nó thì tui chết trước bỏ anh đó”. Cha nghe vậy thì mừng húm vì “mấy đứa xóm trên” đã đi lấy chồng hết trơn rồi.

Vậy là cha mẹ thành vợ thành chồng. Rồi mẹ sinh anh Hai, anh Ba, chị Tư, chị Năm, chị Sáu, con Bảy là tôi và các em Tám, Chín, Mười, Út. Sau này, có những lúc nhà gặp khó khăn, chúng tôi cứ hay cật vấn: “Sao cha mẹ đẻ chi mà nhiều vậy?” Mẹ cười hiền lành: “Đẻ cho sạch ruột thì thôi, chớ có biết gì đâu mà kế hoạch như bây giờ?”

Cái chuyện cha mẹ đẻ tới 10 đứa con cứ bị chúng tôi đem ra làm đề tài bàn tán mỗi khi có dịp vui vầy. Đứa nào cũng nghĩ, chắc cha mẹ hạnh phúc lắm mới cho ra nhiều con như thế! Mãi sau này, trong một lần anh em tụ tập, anh Hai mới kể lại một câu chuyện mà nghe xong đứa nào cũng ôm bụng cười lăn, cười bò. Chẳng biết anh Hai có thêm thắt hay không, nhưng anh cam đoan là “nghe dượng Chín kể sao, anh kể lại i sì…”

Lần đó, mẹ sanh chị Năm được non tháng thì nghe tin cha có vợ bé. Tối tối, hai người ngủ với nhau dưới ghe đậu ngoài vàm kinh. Chả là cha tôi buôn trái cây đường dài từ miền Tây lên thành phố, hay chở trái cây đi Sài Gòn bằng ghe mà. Lần đó, cha đi 2 ngày thì có người báo cha chưa đi, còn neo ghe ngoài vàm để lên thêm hàng. Họ còn nói, thấy có người phụ nữ thấp thoáng trong mui ghe. Nghe vậy thì mẹ lên cơn ghen. Cái thói thường đàn bà, hễ đụng tới chuyện chồng chung thì đã “ba máu, sáu cơn”, cỡ nào cũng phải bắt tận tay, day tận mặt.

Nửa đêm hôm đó, mẹ mượn chiếc xuồng, bơi ra chỗ cha đậu ghe. Mẹ hành sự êm đến nổi chẳng ai hay biết. Mẹ bò vô mùng rồi mà cha vẫn ngủ say như chết. Bắt gặp tại trận cha với người đàn bà khác, mẹ suýt ngất đi, nhưng rồi mẹ bình tĩnh quơ hết quần áo của hai người rồi lia đèn pin vào mặt họ. Khi nhận ra tình thế hiểm nghèo, cha năn nỉ mẹ tha cho và hứa không bao giờ tái phạm. Mẹ chỉ vào mặt cha: “Ông ngồi yên đó, để tui dạy cái đứa dám giựt chồng tui”. Cha sợ thì ít, mà lo mẹ bị lên cơn sản hậu thì nhiều nên ngồi im re.

Mẹ đưa trả quần áo cho người phụ nữ kia, bảo chị ta mặc vào rồi nằm xuống. Chị ta răm rắp làm theo. Mẹ nhịp nhịp cái roi tre thủ sẵn lên mông chị ta: “Nè, cô có biết anh Tám là chồng tui không? Biết hả? Biết sao còn dám rù quến? Đàn ông nào cũng có thói trăng hoa, không ít thì nhiều. Chồng tui không có lỗi. Ảnh mà hư hỏng là tại cô dụ dỗ. Cái thứ đàn bà lăng loàn, hư thân mất nết. Tui đánh cô 20 roi cho cô chừa”. Người phụ nữ kia run lẩy bẩy nhưng không dám trả treo. Còn mẹ tôi thì chỉ nói được vậy rồi… xỉu!

Ấy vậy mà từ đó về sau, cha một lòng, một dạ, không bao giờ dám léng phéng nữa… Thế nên, sau khi mẹ mất, dù đã 10 năm, nhưng bữa cơm nào, cha cũng xới một chén cơm cho mẹ và rủ rỉ: “Mẹ sắp nhỏ về ăn cơm với tui”. Đã mấy lần, chúng tôi bảo cha thôi đừng cúng nữa để mẹ siêu thoát thì cha nhất định không chịu…

Cha ở chơi được một tuần thì anh Hai nhớ ra: “Cha rất thích bánh xèo. Anh em mình dẫn cha đi ăn bánh xèo đi”. Vậy là anh Hai làm chủ xị bữa tiệc bánh xèo ở cái quán nổi tiếng của thành phố. Đến nơi, chúng tôi gọi đủ thứ bánh xèo: hải sản, nấm, thập cẩm, củ hủ dừa… Khi người ta bưng bánh xèo thơm phức, giòn rụm ra, cha ngắt một miếng cho vào miệng rồi lấy đũa vạch cái bánh xèo ra săm soi: “Bánh xèo gì lạ lùng vậy?” Cha chê bánh mỡ dầu nhiều, nhân bánh “hỏng giống ai”. Đặc biệt, bột bánh vừa bỡ, vừa nhạt, vừa hôi vì cho nhiều bột nghệ được pha chế sẵn…

Biết cha nhớ bánh xèo mẹ làm, nên mấy chị em chúng tôi quyết định phải tự tay đổ bánh xèo cho cha ăn. “Cha có ăn uống bao nhiêu đâu mà làm chi cho cực vậy?” Tuy cha nói vậy, nhưng chúng tôi biết cha rất vui. Tôi ngâm gạo rồi đi mướn người ta xay, chớ không làm bằng bột pha sẵn bán ngoài tiệm. Lúc pha bột, cha ngồi kế bên chỉ dạy: cho vào bột nước cốt dừa vừa phải, đậu xanh cà ngâm một đêm cho tróc vỏ rồi đãi sạch nấu mềm, hành hương xắt nhuyễn, lòng đỏ trứng, muối, đường, chút nước nghệ tươi rồi nêm nếm vừa ăn. Nhân bánh thì chỉ có thịt vịt bằm nhuyễn xào vừa ăn, tép bạc, củ sắn, nấm rơm. Riêng món rau ăn kèm thì thật hoành tráng: Anh Hai lùng sục khắp nơi để mang về nào là đọt chiết, đọt xoài, bằng lăng, húng quế, đinh lăng, lá cách; cộng với diếp cá, sà lách, tần ô, rau thơm, húng lủi, cải bẹ xanh… Chị Năm còn cất công đi mượn về cái chảo gang và cái bếp than.

Kể ra như vậy để mọi người thấy là anh em tôi đã chuẩn bị bữa tiệc bánh xèo cho cha chu đáo như thế nào. Tôi lại được tín cẩn giao nhiệm vụ đổ bánh xèo. Trước khi làm thật, tôi đã “xé nháp” cả chục lần, để canh sao cho được cái bánh xèo giòn rụm ngoài rìa nhưng phía trong không bị khét, nhân bánh rãi đều để gắp miếng bánh chỗ nào cũng có thịt vịt, có tép, có đậu xanh… Cha ăn được non cái bánh rồi gật gù: “Cũng khá đó con, nhưng vẫn chưa bằng mẹ”.

…Ngày cuối cùng trước khi cha về lại quê, anh em chúng tôi họp mặt đầy đủ. Dâu rể, con cháu gần ba chục người, ngồi chật nhà anh Hai. “Cha yếu rồi, không biết có còn lên chơi với con cháu được nữa không. Có điều cha muốn nói với tụi con là, đàn ông hay ham thích của lạ, thích bay nhảy, nhưng cuối cùng cũng quay về nhà. Trong gia đình, quan trọng là người đàn bà. Giữ được êm ấm hay đổ vỡ cũng là do người đàn bà. Nói vậy không phải cha bao che cho mấy thằng rể hay anh Hai, anh Ba mà cha muốn nói với con Tư, con Năm, con Sáu, con Bảy, con Tám, con Chín, con Mười là phải rộng lượng, cái gì đáng nói thì nói, không đáng thì bỏ qua. Có như vậy gia đình mới êm ấm”.

Chúng tôi lặng thinh. Cha cũng trầm ngâm hồi lâu rồi cất tiếng: “Nói vậy, chớ cha cũng có lỗi với mẹ, nên mẹ mới bỏ cha mà đi sớm như vậy”. Nói rồi, cha lại rơm rớm nước mắt. Năm nay, cha đã tám mươi tư tuổi rồi mà hình như trong tim cha, không có ai ngoài mẹ…

Tuyết Anh

Đoạn kết buồn của một mối tình Ucraina – Việt Nam

Đoạn kết buồn của một mối tình Ucraina – Việt Nam

Tôi và anh quen nhau tại Kiev. Chúng tôi lấy nhau và sinh được hai đứa con tuyệt vời – con trai Andrei và con gái Maia. Lúc đầu, mẹ tôi phản đối kịch liệt quyết định lấy chồng của tôi. Thứ nhất, vì chồng tôi – Hà – là người Việt Nam bán hàng ngoài chợ. Thứ hai, vì anh hơn tôi đến 16 tuổi đời. Nhưng mặc cho những linh cảm của mẹ, chúng tôi đã cùng chung sống với nhau suốt 8 năm trời hòa hợp và hạnh phúc. Hầu như chúng tôi chưa bao giờ có những bất đồng lớn. Chồng tôi rất yêu lũ trẻ và sẵn sàng giúp tôi làm mọi việc trong nhà, từ nấu nướng đến dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống tưởng đâu cứ mãi như vậy. Cho đến một ngày, Hà nhận được tin bố ốm nặng, có thể không qua khỏi. Anh lập tức bay về Việt Nam. Một thời gian sau, anh gọi điện sang và bảo mẹ con tôi sang Việt Nam với anh. Thực tâm tôi không muốn đi cho lắm, vì đường xa mà hai con còn nhỏ – con trai tôi sáu tuổi, còn con gái mới có một năm bốn tháng. Nhưng Hà động viên tôi rất nhiều và nói chỉ ở Việt Nam vài tháng là cùng. Chủ yếu là anh muốn giới thiệu mẹ con tôi với gia đình, họ hàng bên nội. Thế là tôi quyết định lên đường, mang theo hai con mà lòng không hề nghĩ có những gì đang chờ đợi mình ở phía trước.

Ấn tượng về làng quê Việt Nam
Mẹ con tôi sang Việt Nam khi bố chồng tôi đã mồ yên mả đẹp. Ngày đầu ở nhà chồng, chúng tôi đã đưa hai con đi thăm mộ ông nội. Nghĩa địa nằm ngay gần nhà, nhưng thực sự mà nói, nó khác xa với hình ảnh quen thuộc của những nghĩa trang ở Ucraina. Người Việt Nam có một phong tục rất đặc biệt: ba năm sau khi chôn cất người quá cố, họ lại đào lên, lấy xương mang đi chôn lại(!) Lần thứ hai này mới là lần chôn cất vĩnh viễn.
Quê chồng tôi là một ngôi làng gồm khoảng 400 nóc nhà, nằm không xa thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, ở đó không hề có đường ống khí đốt. Mọi người chủ yếu nấu thức ăn bằng bếp rạ. Chỉ có một số gia đình khá giả mới dám nấu ăn bằng bình gas, vì đó là một điều xa xỉ đối với những người nông dân. Dân làng nghèo đến nỗi, khi ai đó mua sắm bất kỳ vật gì cũng đều trở thành sự kiện của cả làng. Làng mạc ở Việt Nam cũng có nhiều điểm giống với làng quê ở Ucraina, chỉ có điều đường xá không trải nhựa, mà đổ bằng bê tông. Có lẽ bê tông chịu nóng tốt hơn so với nhựa đường. Xung quanh mỗi ngôi nhà đều có rãnh thoát nước. Lúc đầu, tôi không hiểu tại sao phải làm như vậy. Sau đó, tôi đã hiểu – vì vào mùa mưa, dù có rãnh thoát nước nhưng nhiều lúc vẫn phải lội nước đến tận đầu gối! Khó chịu nhất là áo quần giặt xong phơi cả tuần cũng chẳng chịu khô cho.

Món bánh xoài
Ngày thứ hai ở nhà chồng, Hà đột ngột tuyên bố rằng chúng tôi sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Hành động của anh làm tôi hết sức ngỡ ngàng, vì anh đã tự quyết định mà không hề bàn với tôi lấy một tiếng. Tôi không thể ngờ rằng người chồng đã từng chung sống suốt tám năm trời lại có thể xử sự với tôi như vậy! Ở Việt Nam, anh đã trở thành một con người khác hẳn: anh hầu như không âu yếm, chuyện trò với tôi bao giờ, và thường tự quyết định mọi việc, kể cả những việc có liên quan trực tiếp đến tôi và các con.
Dù rất buồn trước sự thay đổi của Hà, nhưng trong một giai đoạn nào đó, tôi đã buộc mình phải chấp nhận điều đó… Vì dù không muốn, tôi cũng chẳng có con đường nào khác, tiền quay về cũng không có luôn. Nhưng dù sao, trong thâm tâm tôi vẫn luôn hy vọng sẽ thuyết phục được chồng cho mẹ con tôi trở lại Ucraina.
Thật ra, không thể nói là mọi người đối xử không tốt với tôi, nhưng có quá nhiều khác biệt trong cách sống của người Việt Nam và người Ucraina. Chẳng hạn, tôi không thể hiểu tại sao người Việt Nam có thể sống được mà không cần đến các sản phẩm sữa? Bò ở Việt Nam nuôi chỉ để lấy thịt, vì vậy thậm chí mọi người chẳng hề có khái niệm về bơ, sữa hay phó mát gì cả. Con gái Maia của tôi vẫn quen ăn cháo sữa, vì vậy tôi đã phải mua sữa đặc có đường, có lúc cả sữa đậu nành, để nấu cháo cho con. Mẹ chồng tôi không thể hiểu nổi khi thấy tôi cho sữa vào cháo. Có lẽ đối với họ, đó là một món ăn hổ lốn đáng sợ?!
Còn với tôi, có lẽ đáng sợ nhất là nhà trẻ ở quê chồng. Lịch làm việc ở đó đã rất đặc biệt: sáng 5 giờ đưa trẻ con đến (trước khi đến phải cho ăn sáng ở nhà), đến 10 giờ phải đón về cho ngủ trưa ở nhà! Các lớp được phân chia không theo lứa tuổi, mà theo nguyên tắc “ai đăng ký trước vào trước”. Vì vậy trong một lớp có thể có cả trẻ sơ sinh mới mấy tháng trời, cùng những cháu đã 5-6 tuổi. Cửa sổ các phòng không đóng bao giờ, cánh cửa ra vào cũng không có luôn. Trẻ nhỏ nằm trên chiếu trải dưới nền nhà, còn lũ lớn hơn thì chạy lăng quăng xung quanh. Nói chung, có người trông hộ trẻ con để bố mẹ đi làm đồng là tốt lắm rồi!
Thời gian đầu, mọi người định dạy tôi làm ruộng, nhưng tôi phải thú thật là chẳng hề có khái niệm gì về công việc đó cả. Tôi cũng đã từng cùng mọi người trong gia đình nhà chồng lội ruộng cấy lúa, nhưng đến khi biết rằng dưới làn nước bùn đỏ quạch đó còn có cả những con rắn nữa, thì tôi phát hoảng. Mọi người thông cảm, không bắt tôi lội ruộng nữa, mà bảo tôi học sử dụng máy tuốt lúa. Nhưng tôi làm chẳng ra hồn, khiến cho mọi người phát chán. Nhiều người trong gia đình, họ hàng nhà chồng tôi tỏ rõ vẻ thất vọng vì sự lóng ngóng trong công việc đồng áng của tôi.
Bù lại thì sự hiện diện của tôi cũng phần nào làm phong phú thêm đời sống dân làng. Nhất là trong công việc bếp núc. Người Việt Nam chỉ quen ăn khoai tây nấu canh, vì vậy, mọi người rất ngạc nhiên trước món khoai tây nghiền do tôi làm ra, khi nếm thử ai cũng khen ngon. Món bánh xèo truyền thống của người Ucraina cũng được đón nhận nhiệt tình (mọi người gọi đó là món bánh mì ngọt). Tôi đã dạy cho mọi người làm một số món ăn như món bít tết và thịt băm viên. Món bánh xèo nhân xoài do tôi “sáng tạo” ra thật sự ngon miệng và hợp khẩu vị nên ai cũng thích.

Ước muốn trở về
Hà tìm được việc làm ở Hà Nội. Anh bỗng dưng sinh ra nghiện cờ bạc, bao nhiêu tiền làm ra đều nướng hết vào trò chơi đỏ đen. Hồi ở Ucraina, tôi chưa bao giờ thấy anh như vậy. Mẹ chồng tôi không biết về điều này, nên sinh ra nghi ngờ tôi giữ hết tiền lương của anh. Từ sự nghi ngờ đó, bà bắt đầu soi mói tôi từng ly từng tý – từ việc tôi mua gói băng vệ sinh, cho đến cái kẹo cho trẻ con, đều bị bà để ý và cự nự vì tốn tiền vô ích. Càng ngày, cuộc sống càng trở nên tồi tệ đến mức ngột ngạt.
Con trai của tôi dù mới 6 tuổi đầu nhưng đã phần nào hiểu được những gì đang diễn ra xung quanh, có lần nó bảo mẹ dành tiền để về Ucraina. Tôi chỉ còn biết thở dài thương con, vì vé máy bay quay về cho ba mẹ con ít nhất cũng phải hai nghìn đô la, trong khi trong tay tôi không có nổi lấy một trăm! Andrei hứa sẽ giúp tôi kiếm tiền. Những ngày sau đó, con trai tôi đã tự động làm mọi cách, từ câu cá, hái quả mang đi bán, cho đến thu nhặt vỏ chai… để mong kiếm được chút tiền đưa về cho mẹ.
Tôi không có đủ can đảm để tâm sự thật hoàn cảnh của mình với mẹ tôi. Nhưng có một lần, khi đã không thể chịu nổi, tôi viết một bức thư cho bạn gái ở Ucraina, và cô bạn Tania đã kể lại mọi việc cho mẹ tôi. Người nhà và bạn bè tôi bắt đầu tìm mọi biện pháp để giúp mẹ con tôi trở về, thậm chí đã nhờ Bộ Ngoại giao can thiệp qua Đại sứ quán Việt Nam ở Kiev.
Vào một ngày, có một người công an đến nhà và nói có thông tin cần kiểm tra. Tất nhiên, anh ta không nói được tiếng Nga, còn tôi thì chưa đủ vốn tiếng Việt để giải thích cặn kẽ mọi việc. Chồng tôi đã lợi dụng ngay tình thế đó để nói tất cả những gì có lợi cho bản thân anh ta.
Một lần, tôi đã quyết định bỏ trốn. Mang theo hai con cùng một số quần áo, tôi bỏ chạy khỏi nhà mà chẳng biết sẽ đi đâu. Cuối cùng thì chồng tôi đuổi kịp và đưa ba mẹ con lên xe tắc xi. Đến trung tâm Hà Nội, anh ta cho mẹ con tôi xuống xe và bảo: đấy, muốn đi đâu thì cứ đi! Giữa lúc bơ vơ, tôi gặp một người đàn ông tốt bụng, sau khi hỏi han tình cảnh, biết tôi là người Ucraina (người dân Việt Nam rất quý những người từ các nước thuộc Liên Xô cũ), đã cho ba mẹ con tôi ăn và đưa đến đồn công an trình báo. Chồng tôi buộc phải đến đón chúng tôi về, kèm theo lời cảnh cáo của chính quyền: sẽ không để yên, nếu còn xảy ra sự việc tương tự. Sau lần đó, Hà không chỉ lạnh nhạt với tôi, mà cả với các con cũng vậy. Có lúc, cả nhà ăn cơm mà chẳng gọi mẹ con tôi.. Một người chị em của chồng tôi thấy vậy, thương chúng tôi nên đã mang đồ ăn đến cho chúng tôi ăn.
Cuối cùng thì dịp may cũng đến. Ông trưởng phòng lãnh sự Đại sứ quán Ucraina tại Việt Nam đã đến tận nhà thăm mẹ con tôi. Được dịp, tôi đã kể hết với ông về tình cảnh của mình, kể cả việc bị đay nghiến vì mua một tuýp thuốc đánh răng mới, cả việc mẹ chồng tôi giấu kỹ bột giặt, chỉ cấp cho tôi mỗi lần một thìa con! Đến giờ, tôi đã quên mất họ tên của ông, nhưng luôn nghĩ đến ông với lòng kính trọng và biết ơn đặc biệt, vì ông đã quan tâm rất nhiều đến chúng tôi. Ông nói, Đại sứ quán hiện không có tiền để giúp mẹ con tôi, nhưng hứa sẽ giúp đỡ bằng mọi cách. Lần sau đến, ông mang cho chúng tôi rất nhiều thứ, từ bột giặt cho tôi, chiếc xe đạp cho con trai tôi, đến các loại đồ chơi, bánh kẹo, nước ngọt… Thậm chí ông còn cho tôi tiền nữa. Chỉ có điều, sau khi ông về, tôi lại cảm thấy cay đắng hơn bao giờ hết – tôi không phải là một đứa ăn mày, vậy mà đã phải ngửa tay nhận của một người không quen biết từ gói bột giặt trở đi…
Cuộc trở về của Maia
Ông trưởng phòng lãnh sự đã tổ chức một chiến dịch vận động quyên góp tiền trong cộng đồng người Ucraina đang có mặt ở Việt Nam để giúp đỡ ba mẹ con chúng tôi. Ở Kiev, gia đình tôi cũng tìm mọi cách để dồn tiền để gửi sang cho tôi. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của mọi người, chúng tôi đã có đủ tiền để mua vé máy bay về Ucraina.
Gia đình chồng tôi tỏ ra khá hờ hững với việc mẹ con chúng tôi quay về. Có thể, họ thậm chí đã vui mừng vì thoát được một cô con dâu vô dụng như tôi. Tôi đã trở về Ucraina sau 11 tháng trời sống ở Việt Nam như vậy đó.
Tôi và con trai Andrei bay về Kiev, còn con gái Maia phải để lại cho chồng nuôi theo quyết định của tòa. Điều đó làm cho tôi day dứt khôn nguôi. Thậm chí, tôi không biết có khi nào được gặp lại con gái bé bỏng của mình không nữa…
Sự dằn vặt đeo đuổi tôi suốt ba năm trời. Tôi biết, gia đình chồng tôi sẽ không ngược đãi cháu, nhưng dù sao con sống xa mẹ cũng là một điều bất hạnh.
Một lần, Hà gọi điện cho tôi. Anh ta báo tin sắp cưới vợ mới, và vợ sắp cưới của anh ta đang mang thai. Anh ta nói cho phép tôi đón Maia về, nhưng với một điều kiện: phải đưa cho anh ta 3 nghìn đô la! Mặc dù đã từ lâu tôi không còn chút tình cảm nào đối với người đàn ông này nữa, nhưng vẫn hết sức bất ngờ, vì không bao giờ nghĩ anh ta có thể trở nên ích kỷ đến như vậy.
Thế là tôi lại phải đi xin tiền khắp họ hàng, bạn bè một lần nữa. Mỗi người cho tôi từng nào có thể cho được, nhưng gia đình tôi thuộc dạng nhà nghèo, nên cũng chẳng có người quen nào giàu có cả. Kết quả là tôi chỉ có đủ tiền để mua vé máy bay đi và về. Tuy nhiên, tôi không hề tiết lộ với Hà điều này, mà vẫn hứa là sẽ nộp đủ 3 nghìn đô la như anh ta đòi hỏi.
…Khi tôi vừa bước vào nhà, mẹ chồng tôi gần như đổ gục xuống chân tôi mà xin lỗi. Nước mắt bà chảy lã chã trên khuôn mặt già nua. Sau khi tôi rời Việt Nam, bà đã hiểu ra rằng người có lỗi không phải là tôi, mà là Hà. Người con dâu mới không giúp gì được mẹ chồng, thậm chí bà còn phải san xẻ cả số tiền lương hưu ít ỏi của mình cho con trai và con dâu. Mọi việc trong nhà bà vẫn phải tự mình làm hết, mặc dù đã gần 90 tuổi. Mẹ chồng tôi hiểu rằng giữa chúng tôi và bà chỉ có những khác biệt về văn hóa. Giá như không có sự thay đổi của chồng tôi, biết đâu tôi và bà đã trở thành những người thân thật sự trong cùng một nhà, như trong những gia đình bình thường khác?
Hà, chồng tôi, tất nhiên chỉ quan tâm đến tiền. Tôi buộc phải nói dối rằng không tin tưởng vào sự trung thực của anh ta, nên sẽ chỉ giao tiền ở sân bay, khi đã chắc chắn một trăm phần trăm là con gái tôi sẽ cùng tôi quay về Ucraina.
Đến ngày lên đường. Trong xe tắc xi ra sân bay, chồng tôi lại hỏi tiền. Tôi lại hứa sẽ đưa tiền cho anh ta khi tới sân bay. Đến khi hai mẹ con tôi đã vào trong vùng kiểm soát an ninh, Hà còn gọi với theo: “Lena, thế tiền đâu?” Tôi quay lại và… vẫy tay chào từ biệt!
Bây giờ tôi đã thực sự hạnh phúc bên hai đứa con mình. Andrei rất ham bóng đá. Còn Maia đã quen với nhà trẻ mới và dần dần học lại tiếng mẹ đẻ. Chẳng mấy người biết rằng tôi đã từng trải qua một cuộc hôn nhân đặc biệt như vậy.

Elena Elovikova

Chiếc nhẫn cưới

Chiếc nhẫn cưới

ngulãonhân

Cần Thơ – Cô Lệ là hoa khôi của Trường Trung học Russey Keo, tại Phnom Penh, thủ đô của đất nước Chùa Tháp. Một lần đi học về, cô đang chạy chiếc velo solex đổ dốc trên cầu Chroy Changvar (bây giờ là cầu hữu nghị Miên Nhật), thì xe của cô bị nổ lốp. Cùng lúc ấy, phải tránh một chiếc xe ben chạy ngược chiều, cô không làm chủ được tay lái, đụng thẳng vào sau lưng một người thanh niên đi bộ. Anh chàng ngã sấp mặt xuống đất, còn cô chỉ thấy một cú va chạm mạnh, đầu óc choáng váng, trời đất tối sầm lại. Cô không biết gì nữa… Lúc tỉnh lại, cô biết mình đang nằm trong nhà thương. Chăm sóc cô là một anh chàng lạ hoắc. Hỏi thăm mãi, cô mới biết đó chính là người cô đụng phải trên dốc cầu Chroy Changvar.

Họ quen trong hoàn cảnh éo le như vậy. Rồi họ yêu nhau. Cả hai người đều gốc gác ở Cù Lao Giêng, đều là bổn đạo gốc. Cuối năm ấy, họ trao ban bí tích hôn nhân cho nhau tại nhà thờ Russey Keo. Chỉ một năm sau nữa, họ có đứa con trai đầu lòng.

Người chồng cô Lệ là một ngư phủ, đầm đậm người, có nước da bánh mật, tay chân cuồn cuộn những đường gân và bắp thịt. Thân hình anh rắn chắc, đẹp đến nỗi nhìn anh cởi trần kéo lưới cùng đám dân chài, người ta thường nghĩ ngay đến pho tượng David của Michel Ange. Anh cùng đám vạn chài ngược xuôi, ngang dọc, rong ruổi đuổi theo những đàn cá nhiều không kể xiết, trên khắp biển hồ Tonlê Sap. Anh đã từng uống nước thốt nốt lên men tự nhiên đến say ngất ngưởng ở Kampong Thom, đi săn hươu, nai, heo rừng, đến cả voi, cọp với đám thợ săn người bản địa mãi trên Siem Reap, lang thang suốt ngày dưới bóng râm tĩnh lặng nơi đền Angkor Thom, Angkor Wat, ngồi hàng giờ trong những quán bar ngắm nhìn những cô gái người Khmer tóc đen môi đỏ ở Kampong Chhnang… Niềm đam mê của anh là chiếc tàu đánh cá 100 mã lực, được trang bị tân tiến nhất lúc bấy giờ. Nó làm anh tự hào. Nhưng anh còn tự hào hơn về người vợ đẹp người, đẹp nết, hết lòng thương yêu anh, và nhất là về thằng Duyên, đứa con trai của anh, bây giờ đã hơn hai tuổi, tóc hoe vàng, đôi mắt trong vắt như pha lê, long lanh như ánh sao đêm. Anh đặt tên con là Nguyễn Vũ Lương Duyên vừa để nhắc nhớ đến mối tình đối với anh, là đẹp nhất trần gian của hai vợ chồng anh, vừa để tạ Ơn Trên đã ban cho họ mối duyên lành. Mỗi lần thằng bé gọi anh: “Ba! Ba!…” rồi ôm chầm lấy anh, đưa tay xoa xoa hàm râu lởm chởm của anh là anh quên hết mệt nhọc sau một chuyến đánh cá lâu ngày. Khi nó khanh khách cười, tiếng cười của nó như một cơn gió mát lau khô hết mồ hôi trên người anh. Nó có đôi mắt rất giống mẹ, ấy thế mà ai cũng bảo nó giống ông nội nó như hai giọt nước, làm lòng anh rộn rã niềm vui. Nhưng vui nhất, phải là những ngày Chúa Nhật, anh chở vợ con đi nhà thờ, bằng chiếc xe Honda SS 50 cc đời 67, đen bóng, sang trọng, thanh lịch không tả nổi, anh mua bằng giá cả chục lượng vàng.

Anh bằng lòng, thậm chí hài lòng với cuộc sống. Với anh, thế là đủ, quá đủ… Nhưng rồi chiến tranh lan rộng, tràn tới như một cơn bão tàn phá hết mọi thứ. Cũng như mọi người, anh chỉ như một chiếc lá nhỏ nhoi bị cuốn đi, nhấn chìm trong cơn bão lửa. Rồi Lon Nol, Sirick Matak làm đảo chính khi quốc trưởng Norodom Shihanouk đang công cán nước ngoài. Rồi nạn cáp Duồn. Cô Lệ không sao quên được cái đêm kinh hoàng, khủng khiếp ấy. Giữa đêm, họ phá cửa vào nhà, cướp sạch, phá sạch, đốt sạch…, lôi cổ anh đi. Cô bế con lén chạy theo. Họ bắt những người dân vô tội, không một tấc sắt trong tay, lùa đến một bãi cỏ ở một cánh rừng ven sông. Dưới ánh đèn manchon vàng vọt, cô tìm thấy anh. Thằng bé Duyên thét lên: “Ba! Ba!…”. Anh buột miệng: “Con”. Chỉ có thế cũng đủ tố cáo anh là người Việt, là Duồn. Anh nhận bản án tử hình. Bản án được thi hành ngay tức khắc. Tên lính Miên gầy như một bộ xương khô, cặp môi đỏ tái như hai miếng thịt trâu ôi, hàm răng trắng ởn, da đen như quỷ hỏa ngục, lấy hết sức mình dùng cái cuốc nhà binh có in trên cán hàng chữ Made in USA, bổ thẳng xuống, lưỡi cuốc ngập vào đầu anh. Anh chỉ kịp kêu lên một tiếng “Giêsu” rồi đổ xuống, máu phun ra như vòi nước máy. Cô Lệ không sao quên được cảnh tượng chồng mình giãy giụa trong vũng máu. Cả khi anh coi như đã chết rồi, mười ngón tay vẫn còn cựa quậy theo một phản xạ tự nhiên của cơ thể, như cầu cứu, như thay lời nói vĩnh biệt cô… Cô như người mất trí, nhưng rồi cô nghe thấy tiếng máy bay trực thăng phành phạch trên đầu, cùng với tiếng súng nổ như bắp rang từ phía bờ sông. Bọn lính Miên dáo dác rồi bỏ chạy. Đám dân vô tội được cứu sống. Cô thoát chết, nhưng cô đã bỏ lại căn nhà cháy, bỏ lại xác người chồng không được chôn cất, bỏ lại tất cả. Trong một đêm, cô mất hết, không còn bất kỳ một chút của cải nào, ngoài bộ quần áo trên người, một chiếc nhẫn cưới 5 phân vàng 18 carat, một đứa con thơ và một cõi lòng tan nát. Lúc ấy là đầu năm 1970. Sau đó, cô trải qua hết trại tỵ nạn này tới trại tỵ nạn khác, hầu hết là ở các trường Tiểu học Cộng đồng và những túp lều dã chiến bằng vải bạt dựng lên sơ sài ở các sân vận động. Cuối năm, cô là một trong những người của 170 gia đình Công giáo Việt kiều Campuchea hồi hương, được chính quyền lúc bấy giờ do bác sĩ Phan Quang Đán khi đó là Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang, lập ấp đưa đến địa bàn ấp Mỹ Thạnh, xã Mỹ Xuân định cư. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Đạo, cũng là Việt kiều hồi hương, gốc giáo phận Phnôm Penh, được lệnh Tòa Khâm Sứ đến đây, thành lập giáo xứ Thanh Phong (bây giờ thuộc giáo phận Bà Rịa).

Mỗi gia đình trong giáo xứ được chia cho một nền nhà 5 x 25 m. Sau cơn hoạn nạn, người ta sống hết lòng với nhau. Mỗi người một tay, họ giúp đỡ nhau, chặt cây rừng, cắt cỏ tranh, dựng những mái nhà tạm bợ nhưng ở được. Lúc đầu, nhờ có cứu trợ, rồi nhờ trồng khoai sắn, họ sống được qua ngày. Cuộc sống, đã có muôn vàn khó khăn thì đến biến cố 30/4, càng khó khăn hơn. Cô Lệ dắt con đi bán vé số, mua ve chai lông vịt, đi cưa củi, vác cây búa 6 kg cùng đám thanh niên đi đập bê tông lấy sắt vụn đem bán… Tất cả đều vượt quá sức lực, quá khả năng chịu đựng của một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Cô phải “ăn bữa trưa, lo bữa tối”, phải “vắt mũi bỏ miệng”, những hai cái miệng.

Cô bị cái chết của chồng ám ảnh. Chẳng mấy đêm cô không mơ thấy anh. Chẳng trong giấc mơ nào mà anh không nhìn cô với đôi mắt buồn buồn, nhưng chan chứa yêu thương. Cô biết rằng cùng với cái chết kinh hoàng của chồng, trái tim cô cũng đã chết. Cô không thể yêu được bất cứ một người đàn ông nào nữa… Nhưng cuộc vật lộn với miếng cơm manh áo làm cô kiệt sức. Đã có lúc, cô nghĩ: “Nói cho cùng, muốn hay không thì mình cũng chỉ là một con người, một người đàn bà. Mà người đàn bà nào không cần có một bờ vai để tựa đầu, một vòng tay để chia sẻ buồn vui?! Cũng lại nói cho cùng, thử hỏi có tâm hồn nào không cần đến một tâm hồn, có trái tim nào không kêu gọi và đáp trả một trái tim? Người chết đã chết, đành phận người chết; người sống vẫn phải sống”. Khi ấy, cô đã yếu lòng, toan đầu hàng số phận, nghĩ tới chuyện đi bước nữa. Nhưng những giấc cô mơ, với cái nhìn buồn buồn nhưng chan chứa yêu thương của chồng, cùng với lời kinh cầu hàng đêm, với chiếc nhẫn cưới trên tay, và với Ơn Chúa, cô đã trụ được. Mấy mươi năm trời, cô ở vậy, “thờ chồng nuôi con”. Thờ chồng, đó không những là nén hương thơm thắp lên từng buổi tối, những lời kinh sớm chiều, những thương nhớ khôn nguôi, mà còn là một tấm lòng trung trinh son sắt… Nuôi con, không chỉ là thắt lưng buộc bụng cho ăn cho mặc, cho học cho hành, mà còn dạy dỗ nên người, lại là người Kitô. Cô những hy vọng thằng con của cô sẽ là chiếc gối êm ái cho cô kê lưng dựa đầu khi tuổi đời xế bóng. Nhưng không ngờ (ai ngờ được Ý Chúa?!), sau khi tốt nghiệp cao đẳng, thằng Duyên dự thi, rồi được Bề Trên tuyển chọn vào Đại Chủng Viện. Tám năm sau, thầy Duyên thụ phong linh mục.

“Năm ngắn, ngày dài”. Một ngày lam lũ, vất vả trôi đi dài lê thê, nhưng ngó đi, chưa kịp ngó lại đã hết một năm, rồi nhiều năm, rồi một đời người. Cô hoa khôi của Trường Trung học Russey Keo ngày xưa, nay đã già, đã:

“Gánh đời mẹ nặng oằn vai,

Tháng năm bạc tóc, run tay, lưng còng”.

Bà Lệ đã là bà cố. Ngày con trai mình về quê dâng Thánh Lễ Tạ Ơn, bà run run xỏ vào ngón tay út của cha Duyên chiếc nhẫn cưới của bà (phải xỏ vào ngón tay út vì chiếc nhẫn chật quá). Bà nói phều phào qua hàm răng rụng quá nửa:

-Quà của cha con. Mẹ chẳng có gì đáng giá tặng cho tân linh mục của mẹ…

Cha Duyên ôm chầm bà cố:

-Mẹ ơi! Mẹ đã cho con cả cuộc đời rồi còn gì?!

Người ta thấy cả bà cố Lệ và cha Duyên cùng rưng rưng nước mắt.

ngulãonhân

Anh Nguyễn v Thập gởi

Chim Bay Về Biển

Chim Bay Về Biển

Phạm Tín An Ninh

Một mai chim bỏ bay về biển

Ta đứng một mình ngó nhánh sông

Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy

Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng

(Sương Mai)

Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ. Hình dung đến thành phố Nha trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của những người Nha trang xa xứ.  Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang vọng mãi.

Nha trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nha trang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nhatrang, sống với Nhatrang gần trọn một đời.

Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đàn anh văn nghệ, cũng là đồng môn huynh trưởng cùng trường Võ Tánh, sau 15 năm trở lại Nhatrang, đã viết:

“Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bị xóa khỏi bản đồ của trái tim.

… tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về”(truyện Từ Đường- VOA/  01.5.2013)

Một chị bạn cùng trường Võ Tánh, hiện định cư ở thành phố Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà nộivào Sài gòn. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một đơn vị ở Nhatrang. Cô rất vui mừng được theo cha ra sống ở thành phố biển. Thi đậu vào lớp đệ thất  trường Võ Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra tận Quảng Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên cao nguyên sống với phố núi và đám học trò Kinh – Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn sống còn trong lần di tản kinh hoàng trên con đường Tỉnh Lộ 7B.Vậy mà một thời tuổi thơ ngắn ngủi ấy lại là mảng quá khứ đẹp đẽ nhất. Trong ký ức và cả trong trái tim, chị đã dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang . Sang Mỹ định cư khá lâu, chị háo hức trở về thăm Nha trang, để rồi “chỉ thấy lòng buồn rười rượi, bởi đang đi trên đất Nha trang mà cảm giác như mình là  kẻ lạ, không tìm thấy bóng dáng Nha trang của mình ngày trước”.

Hai người bạn học cùng lớp với tôi cũng ở trường Võ Tánh. Sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên và gần trọn một đời sống với Nhatrang. Trước 75 đều là thầy, cô giáo trung học, giờ chỉ âm thầm nhìn đời từng ngày trôi đi vô vị, những đêm mất ngủ thao thức viết những bài thơ buồn trước bao điều đổi thay ngao ngán. Họ vẫn ở lại với Nha trang cho đến hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng chừng Nha trang đã hất hủi, đuổi xô, không còn chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của tôi rất chí tình với bạn, sống chết với quê, vậy mà đã bao lần than thở: “không ra đi như mi, tớ ở lại với Nhatrang mà vẫn không tìm ra Nhatrang của bọn mình ngày trước! Không có gì đau hơn là sống trên chính đất nước mình mà cứ mãi hoài vọng một quê hương!” Họ chỉ còn gặp lại Nhatrang trong ký ức, trong những bài thơ họ viết về một thời quá khứ, nghe chừng đã rất xa xưa:

chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc

mảnh trăng khuya vòi või chờ ai

trong cỏ ướt dế buồn thao thức

giữa quê nhà sao mãi hoài hương.

Từ buổi ấy đồng thu cỏ biếc

nghe âm u gió tạt mùa xa

người đứng giữa trời không – luyến tiếc

nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha.

….

Bao năm tìm lại con đường

nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa

chiều thu xứ ấy mù sa

tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao.

(đ.ư.v)

Đám học trò bọn tôi thưở ấy, giờ tóc ai cũng bạc. Sau cuộc thăng trầm quá lớn, nhiều lúc bất chợt ngỡ mình giờ là một người nào khác. Dù còn sống ở quê nhà hay lưu lạc tha phương, ai cũng đã phải trải qua một cuộc đổi đời bi thảm. Nhiều người thành công trong cuộc sống mới, tưởng rằng mọi thứ đã lãng quên, nhưng thực ra vết thương lớn, nhỏ trong lòng dường như vẫn còn đó, chưa lành.

Lần trở lại Nha trang duy nhất để tìm bốc mộ thân phụ bên ngoài một trại tù “cải tạo”, cách đây đúng mười năm, tôi đi một mình trên những con đường xưa, nghe sóng vỗ xa xa mà trong lòng chỉ còn dội lại những dư âm ngày cũ.  Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong.

Một thằng bạn rất thân, cùng học ba năm cuối ở trường Võ Tánh. To con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi diện HO và đang nổi trôi nơi nào trên nước Mỹ, không ngờ tôi còn gặp lại nó ở Nhatrang. Mặc dù bây giờ nó không được phép ở lại trong ngôi nhà và thành phố xưa của nó.

Sau sáu tháng vào tù, căn nhà nhỏ của nó ở Nha trang bị tịch thu, cô vợ “Bắc Kỳ nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi) giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông…về đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú, vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là “ngụy đang cải tạo”, nên đi làm phụ hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ sửa sang một bệnh viện, anh làm quen được một chị đầu bếp. Không biết tài ăn nói thế nào mà anh làm cô động lòng trắc ẩn, thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, đã cưu mang ba đứa bé không thua gì một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái tình mẫu tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong cái thời nhá nhem tình nghĩa ấy vẫn có những tấm lòng còn hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy ngôi chùa.

Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về, cúi mình trước người con gái ân nhân để xin nói một lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau, yêu nhau rồi lấy nhau. Hôm gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn khốn cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị bảo vì không thể rời xa ba đứa nhỏ mà chị xem như con ruột của mình. Chính cái tình thương và sự gắn bó ấy mà chị trở thành vợ của ba nó. Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.

Cũng chính vì Nha trang đã tạo nên cái hộ khẩu mỗi người mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi được gọi phỏng vấn xin đi theo diện HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ chị vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ nước ra đi. Chuyện tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được ra đi vào đợt cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến Mỹ.

Bạn tôi quyết định ở lại với người vợ ân tình, mà anh coi như ông trời đã sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy cha con.

Bây giờ ba đứa con đã là người lớn. Thằng bạn tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về Diên Khánh!

Hôm đứa con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi thằng bạn tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng người Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con gái chỉ cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, bà chỉ là một cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi bây giờ.

Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để mời vợ nó. Một ly mừng và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn và ngưỡng mộ.

Tôi quay sang bảo thằng bạn:

– Dường như chính phủ Mỹ vừa cho mở lại diện HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.

Nó xua tay:

– Tao chẳng cần đi đâu nữa, vì ở đâu có bà vợ tao đây là ở đó có thiên đường.

Tôi đùa:

– Mày nói còn hay hơn mấy ông linh mục trong nhà thờ.

Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm vai tôi buồn bã:

-Mày thấy không, cái thành phố Nha trang mà tao sống cả một thời đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây cho gia đình tao bao khốn khó! Từ ngày thuộc về bọn CS, Nhatrang với tao là một vùng đất xấu, lạ lẫm. Mày còn nhớ tác phẩm tiếng Pháp “Le domaine maudit” của ông thầy Cung Giũ Nguyên?

Nha trang bây giờ là thế đó!

Tôi thực sự chưa hiểu, mơ hồ có điều gì không ổn trong cách suy tư của nó. Nhưng tôi cảm được nỗi đau của nó.

Một cô bạn học từ những năm đệ ngũ, đệ tứ bên trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng Los Angeles, bất ngờ đọc được bài viết của tôi trong Đặc San Liên trường Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần mò tìm ra tông tích của tôi. Ngày xưa là một cô bé khá xinh và học giỏi. Sau này có thời làm phóng viên. Ông chồng gốc Võ Bị Đà Lạt, chết một tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và hai cô con gái không được đến Mỹ. Dắt con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn liếng của mẹ cha để lại. Nàng bảo nhiều lúc nhớ Nhatrang lắm, thử quay về, nhưng rồi thấy lạc lõng, mọi thứ chỉ mới đây thôi sao giờ trở thành xa lạ quá, không còn nhiều cảm xúc, nếu có chỉ là đắng cay. Cuối cùng, mẹ con quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan Âm Tự ở Sài Gòn xa lạ. Cô con gái út vừa học đại học vừa tu học trong chùa. Còn nàng thì tu tại gia và cũng là một nhà thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của nàng ký tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nhatrang, nhưng không phải bây giờ mà Nha trang của nàng và của đám bọn tôi ngày trước. Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động. Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà đọc được thơ nàng chắc cũng phải rơi nước mắt xuống tòa sen.

Một thằng bạn khác cùng học trường Võ Tánh. Sau này gặp nhau trong cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất lì, nhưng luôn bị “đì” bởi bản tính ngang tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi đang ở tù ngoài Bắc, chị vợ xinh đẹp ở nhà bị đám người thắng trận theo đuổi, dụ dỗ không được rồi chèn ép dọa dẫm, chán chường cuộc sống nên chị lội xuống biển Nha trang tự vẫn, để lại một thằng con trai bốn tuồi. Nơi người ta phát hiện thi thể của chị lại chính là bờ cát, dấu tích yêu đương hẹn hò, thưở hai người mới quen nhau.

Ra tù, không thể sống trên thành phố quê hương một thời đẹp đẽ giờ chỉ còn là mảnh đất thê lương tang tóc, mỗi ngày ám ảnh bởi cái chết đau đớn của người vợ trẻ đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa con thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa đi học. Được bạn bè khen, nó bảo: “chẳng phải tao siêng năng chăm chỉ gì đâu, nhưng vì tao không muốn còn có chút thì giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi tưởng về một quá khứ đau lòng, nên cố đâm đầu vào sách vỡ!”. Nó chưa bao giở về lại Nhatrang. Bạn bè ai cũng phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm Lý ( Master of Psychology) và có công việc làm lương cao, ổn định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa thành công nhất. Bỗng một ngày được tin nó chết. Chết đau đớn. Thuê phòng trong một khách sạn ở gần nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận lá thư nó viết cho tôi, được cảnh sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn, chứng tỏ nó rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình.  Đọc xong thấy lòng đau đớn như có trăm ngàn vết chém, vậy mà không biết vì sao tôi không khóc được:

“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với biển. Mày đừng nghĩ là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, đám bạn bè thân thiết nhất của tao. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không được chết ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng Bê, thằng Pho, anh Tài, Đức”.

Những người tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn bè cùng đơn vị xưa, và một số bạn học cùng trường Võ Tánh Nha trang.

Năm ngoái, một chị bạn cùng trường Võ Tánh, học Ban C sau tôi một năm, định cư ở Canada, cũng đã ra đi, sau hơn hai năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn bè Võ Tánh rất mến phục cô bạn có nặng tấm lòng và rất khí khái này từ những năm còn dưới mái nhà trường. Mọi người đã ưu ái tặng chị biệt danh “Nữ hoàng xuống đường”. Luôn sống hết lòng với bạn bè và đất nước. Quyết liệt trước bất công, bạo lực. Ngay cả những ngày đã lâm bệnh, chị vẫn thường liên lạc trao đổi với tôi về những kỷ niệm Nha Trang, về tình hình chính trị và hy vọng chế độ Công sản man rợ độc tài sẽ sớm cáo chung trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao thương tiếc cho gia đình và tất cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn dò gia đình, sau khi chị mất được hỏa thiêu và mang tro cốt của chị rải ở ngoài khơi Thái Bình Dương để hương linh của chị theo biển trôi về quê hương. Ở đó có bãi biển Nha trang thơ mộng, nơi chị sống cả một thời tuổi thơ và lớn lên với những vui buồn, vinh nhục.Tôi hình dung một cánh chim hùng vĩ và đẹp đẽ vừa bay về với biển.

Cuối tháng 2/2013, trước khi trở về lại Bắc Âu, tôi bất ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một anh bạn qua đời vì một chứng ung thư khó chữa. Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau này là một người đàn bà tuyệt vời. Gia đình anh chị là một đại gia đình quân đội. Các con của chị đều là sĩ quan cấp tá trong quân đội Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở thành những bác sĩ, luật sư. Phu quân của chị là một người bạn, người đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh cũng như trong quân đội ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính tình hào phóng. Là môt sĩ quan trẻ đầy phong độ khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, đối tượng của nhiều cô con gái Nha trang thuở ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới với chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều nước mắt. Cuộc tình đẹp. Một gia đình thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui vẻ, hết lòng với bạn bè, đồng đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến chị. Vậy mà đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng ai ngờ.

Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh, Nữ Trung Học Nha trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi gặp anh nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt.

Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu, cửa lò đóng lại, tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ vừa bay về với biển.

Tôi nghĩ rồi sẽ có môt ngày, thế hệ bọn tôi, những cô cậu học trò rời trường Võ Tánh vào những năm đầu thập niên 60, bây giờ đều đã trên tuổi 70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối cùng rồi cũng sẽ là những cánh chim bay về với biển.

Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ, nhưng cũng đã cho họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời.  Tất cả những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa ấy, giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lại lời thằng bạn còn ở lại Nha trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên, và tác phẩm Le domaine maudit viết từ năm 1961 của thầy.

Phạm Tín An Ninh

(Bắc Âu cuối hạ 2013)

TRƯỚC CỬA THIÊN ĐÀNG

TRƯỚC CỬA THIÊN ĐÀNG

Ở trang trong của một nhật báo xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:

Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa.  Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:

– “Con đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”

Linh hồn người nông dân trả lời với hết lòng chân thật:

– “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa.  Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.

Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:

“Con đợi ta xem lại các bản phúc trình mà thiên thần bản mệnh của con đã gởi về”.  Trong giây phút im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những phúc trình về cuộc đời của người nông dân.  Quả thực, đúng như lời ông khai báo.  Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả.  Sau giây phút suy nghĩ, thánh nhân nghiêm nghị trả lời cho linh hồn người nông dân:

– “Con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”.  Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được.  Còn con thì thật là khác thường.  Con suốt đời không phạm tội gì cả.  Vậy con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng.  Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao, để con có điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng”.

**********************************

Đây là một câu chuyện vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời quá khứ của mình dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay.  Nước Trời là của những tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn năn trở về cùng Chúa.  Nào ai dám tự phụ cho mình đã không bao giờ lầm lỗi, không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc phạm đến anh chị em xung chung quanh.  Chúng ta không nên có thái độ giả hình, tự phụ, cho mình là trong sạch, tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước Trời.  Đừng tưởng như những người Do Thái, cứ tưởng là dân riêng của Chúa, là con cháu của Abraham là đương nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời.  Vì không phải bất cứ ai thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng không phải tất cả những ai đã được diễm phúc đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho một tấm vé vào cửa Thiên đàng!

Vấn đề là phải phấn đấu “vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh” mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc Nước Trời.  Bởi vì, trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù…  Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên.  Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có tính cách phô trương trình diễn.  Trái lại, đây phải là một bàn tiệc của những người chiến thắng, mà chỉ có những người đã từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.

Điều trớ trêu là không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ nhanh chân nhất và được vào bàn ăn.  Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn lội từ bốn phương trời mà đến.  Đối với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc mà đến chính là các dân ngoại.  Họ sẽ được vào đồng bàn với các Tổ phụ và các Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là con cái trong nhà, những kẻ hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng được nghe Ngài giảng dạy, lại phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng.  Vì vậy có sự đảo ngược thứ tự vào Nước Trời: “Những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn những người cuối hết sẽ trở nên trước hết”.

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch.  Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: Có chịu phép rửa tội, có theo kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không?  Có phải là Tu sĩ, Linh mục, Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng?  Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi, đó là đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, đã dạy hay không?  Vì thế, đừng lầm tưởng rằng: hễ có tên là Kitô hữu, là người Công giáo, là đạo gốc, là đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên nhìn xuống thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người không chia sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta.  Bàn tiệc Nước Trời đón nhận tất cả mọi thành tâm thiện chí.  Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi trước lại sẽ bị Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu Kitô hữu mà không có một đời sống đức tin, một đời sống Kitô hữu đích thực.

Nếu Chúa Giêsu mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa thì chính là để diễn tả sự chia sẻ niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh em.  Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).

Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc Nước Trời, nên những gì chúng ta chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi trong cuộc sống.  Nói khác đi, chúng ta không thể bẻ Bánh Thánh với nhau mà không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho anh em trong cộng đoàn mà thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được chúng ta chia sẻ. Thực hiện sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa hẹp để dự Bàn Tiệc Nước Trời vậy.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Anh chị Thụ & Mai gởi

Người con nào thì cũng thương mẹ

Người con nào thì cũng thương mẹ

(Bài ca của người du tử)

Tác Giả : Thái Phương

Tôi đậu cử nhân Luật năm 1971. Ít lâu sau thì xin được vào tập sự tại văn phòng của một vị luật sư khá nổi tiếng bạn thân với bố vợ tôi. Làm luật sư tập sự thì nhàn, đồng lương tương đối cũng khá. Hàng tuần, đi làm về tôi thường tới Trung tâm văn hóa Nhật ở đường Phan Ðình Phùng học thêm tiếng Nhật. Học cho biết vậy thôi, nghề luật sư không đòi hỏi phải biết tiếng Nhật. Sau ba năm tập sự, tôi thi đậu và được Luật sư đoàn công nhận luật sư chính thức, cho phép treo bảng đồng, lập văn phòng riêng.

Chưa đầy một năm sau thì tôi thôi không làm luật sư nữa mà cũng thôi không đi học tiếng Nhật, bởi vì các trung tâm ngoại ngữ đã đóng cửa. Tôi trông nom con cái cho vợ tôi đi dạy, thỉnh thoảng cũng kiếm ăn được chút đỉnh do liên lạc với các trung tâm dịch vụ pháp lý. Người ta đưa các đơn từ, giấy má tiếng Nhật hoặc tiếng Anh đến, chúng tôi dịch phụ. Tiền bạc trung tâm tính toán rất tốt nhưng cũng chẳng được bao nhiêu.

May sao thời kỳ mở cửa, nhờ chút ngoại ngữ tôi nộp đơn xin được vào làm trong một khách sạn kiêm nhà hàng sang trọng. Tôi giữ chân tiếp đón khách, mời họ ngồi vào bàn, ghi những món họ muốn dùng, báo cho nhà bếp biết rồi các cô tiếp viên bưng ra. Tiền lương đỡ lắm, đã vậy mà mỗi cuối tháng chúng tôi còn được thưởng thêm, vợ tôi có vẻ yên tâm lắm.

Một hôm ông giám đốc khách sạn cho người gọi tôi lên văn phòng ở trên lầu. Ông chỉ chiếc ghế trước mặt trong căn phòng lạnh bảo tôi ngồi rồi cầm gói thuốc ba số năm trên bàn mời tôi hút:

– Anh quản lý nói anh biết nói tiếng Nhật ?

– Vâng. Thưa ông giám đốc, ngày trước tôi có học tại trung tâm Nhật ngữ vài năm, giao dịch cũng đỡ nhưng bỏ lâu không xài nên đã quên nhiều.

– Bây giờ còn sử dụng được chứ ?

– Vâng, có lẽ tạm được.

– Vậy thì tốt. Công việc tôi cần nhờ anh là thế này anh Trình ạ…

Ông ngắt ngang câu chuyện, với tay lên chiếc giá ở phía bên cạnh lấy hai chiếc cốc cao cẳng bằng pha lê rồi mở một chai Champagne của Pháp, rót ra hai ly, đặt trước mặt tôi một ly: Mời anh !

– Xin cám ơn ông giám đốc.

– Cứ uống đi mà. Chúng ta làm hết chai này, vừa uống vừa nói chuyện…

Ông này là tay sành sỏi, điệu nghệ. Bây giờ ông mới mở cái món bài tủ là rút trong ngăn kéo ra một gói Dunhill ‘black label’ mới tinh còn nguyên xi chưa bóc giấy bóng, gỡ giấy kiếng, bảo tôi dụi điếu thuốc ‘ba số’ vào chiếc gạt tàn rồi lịch sự cầm cả gói chìa về phía tôi, mời tôi hút.

– Champagne Pháp phải đi đôi với thuốc Ăng-lê mới tốt !

– Vâng, thưa ông giám đốc.

– Nào, mời anh !

– Không dám, mời ông giám đốc.

Chúng tôi nâng ly. Khốn khổ, rượu Champagne dù loại ‘chính hiệu’ của Pháp hoặc thuốc lá Dunhill ‘black label’ đi nữa đối với một luật sư như tôi cũng đâu có lạ. Vậy mà bây giờ sao tôi thấy nó ngon thế, cứ mát cả ruột! Nhưng cũng sờ sợ, phải có chuyện gì ông giám đốc mới ‘ưu ái’ với tôi đến thế !

– Bên công ty du lịch họ báo cho chúng ta biết khách sạn chúng ta sắp đón một vị khách quan trọng. Ông này người Nhật, muốn đích thân sang xem xét, ký kết hợp đồng về các máy móc điện tử hay chế tạo linh kiện điện tử gì đó tôi không biết rõ. Họ nhờ chúng ta… Nói thật ra là họ chỉ thị chúng ta phải biệt đãi với khách. Phải dùng mọi cách làm thế nào khách được vừa lòng.

– Thưa ông giám đốc, chúng tôi vẫn tiếp đãi hết sức lịch sự vói mọi khách hàng.
– Ðúng thế, tôi hiểu. Nhưng theo tôi biết, ông giám đốc này hình như hơi già nên rất khó tính. Ví dụ trên công ty họ báo ông ta chỉ dùng tiếng Nhật, không dùng bất cứ một thứ tiếng nào khác. Ngoài ra, có lẽ cũng vì tuổi tác, tính nết ông ta cố chấp, khắc khổ, không thích giao thiệp với mọi người.

Xương sống lưng tôi lạnh toát. Tôi hiểu ông giám đốc khách sạn đang muốn đề cập chuyện gì. Quả nhiên, ông ta kết luận: – Tôi đã bàn tính với ông quản lý. Trường hợp này ta phải dùng tới một người tương đối lớn tuổi, có căn bản học vấn – nghĩa là dùng người trí thức đàng hoàng chứ không thể đưa ra mấy cô chiêu đãi viên trẻ đẹp hoặc vài nhân viên thông dịch tiếng Anh tiếng Nhật bình thường. Anh đồng ý với tôi chứ ?

Ðồng ý cái khỉ khô! Tôi là anh bồi khách sạn chứ là cái quái gì mà đồng ý với không đồng ý.

– Thưa ông giám đốc, tôi nghĩ cũng đúng.

– Xét trong khách sạn, anh phù hợp với các điều kiện đó. Tôi chỉ định cho anh làm công tác mới giúp đỡ khách sạn. Nếu anh tranh thủ được cảm tình của ông ta, chẳng những khách sạn có hoa hồng riêng cho anh mà bên đầu tư cũng có phần thưởng. Họ hứa như vậy. Còn nếu không tranh thủ được…

Ông ta bỏ lửng song tôi hiểu. Có thưởng thì phải có phạt. Nếu tôi loạng quạng, không làm nên cơm cháo sẽ b mất vic, ở nhà nấu cho vợ dễ như chơi. Tình hình như vậy, biết nói cách nào bây giờ ?

– Thưa ông giám đốc, tôi không giám nghĩ tới việc được thưởng nhưng sợ tiếng Nhật lâu không xài, tôi quên mất nhiều…

– Ðược, nhớ tới đâu dùng tới đó. Anh cứ yên tâm, tôi sẽ đích thân trông coi việc này và sẵn sàng cung cấp cho anh mọi phương tiện, kể cả tài xế và nhân viên khuân vác hành lý cho khách nếu cần. Dứt khoác chúng ta phải tranh thủ bằng được cảm tình của ông ta.

– Vâng, thưa ông giám đốc, tôi sẽ cố gắng.

Tôi dợm đứng dậy. Ông giám đốc ngăn lại, lục các giấy tờ trên bàn: – À này, họ cho tôi biết tên ông ta là Kwann Tae Palms… Quái, cái giấy tôi bỏ đâu mất rồi?.. À đây… Anh nhớ cho rõ, chỗ nào tôi cũng ghim sẵn người của ta, sẵn sàng hậu thuẫn cho anh một cách tốt đẹp. Anh đã có đồ vét, cravát… chưa nhỉ ?

– Thưa có.

– Vậy thì tốt. Anh cầm giấy này xuống phòng kế toán bảo cô thủ quỹ tôi quyết định ứng trước cho anh hai tháng lương. Ðây, giấy tạm ứng đây. Nếu công việc tốt đẹp sẽ tính vào tiền thưởng.

– Vâng, cám ơn ông giám đốc.

Tôi đi, tay cầm mảnh giấy. Kỳ lạ, tại sao ông ta lại tên Kwann Tae Palms, chẳng giống với Nhật chẳng giống với Tàu? – Riêng cái họ – Palms – thì giống với Mỹ. Theo tôi hiểu, người Nhật tên họ thường là Watanabe, Saburo, Yamamoto, Fuda, Fudo, Honda, Yamaha, Suzuki .v.v… Ngay đến cái tên cũng khó hiểu thế chẳng trách ông ta già, khó tính, lẩm cẩm, cố chấp, chỉ nói tiếng Nhật, không thèm nói tiếng Anh tiếng Pháp. Ôi, tôi mất việc dễ như chơi!

Hôm sau, tôi và anh phụ tá được chiếc xe du lịch màu trắng mới tinh gắn máy lạnh đưa ra phi cảng, đón ông giám đốc Nhật tận chân cầu thang máy bay. Ðây là ngoại lệ. Theo tôi hiểu, đáng lẽ chúng tôi chỉ được đón ở phía trong, sau khi ông ta đã làm thủ tục, khám xét, trình các giấy tờ.

Sau cái liếc mắt ‘ra hiệu ngầm’ của cô tiếp viên phi cảng, tôi sửng sốt: ông giám đốc Nhật trông còn trẻ, chỉ trạc ngoài bốn mươi ngang với tuổi tôi, nét mặt già dặn có thể nói là rất có duyên, nước da ngăm ngăm đen, mắt hai mí trông nhanh nhẹn tháo vát chứ không ‘một mí’ như mắt người Nhật hay người Ðại Hàn. Ðặc biệt, ông ta ăn mặc theo kiểu khách du lịch, áo sơ mi ca rô sọc chìm, quần jean, áo bỏ trong quần với sợi dây xanh tuya to bản bằng da cá sấu, giầy Adidas màu trắng. Chà chà, tôi thấy ông ta đẹp trai quá, không già lão, ‘khó tính’ một chút nào hết.

Anh phụ tá đỡ giùm chiếc va ly trong khi tôi cúi đầu thật thấp theo kiểu người Nhật, nghĩa là cứng đong đong như khúc gỗ bị bẻ gẫy, chắp tay trước ngực và cố ‘nặn’ ra từng tiếng Nhật: – Kôn ni chi wa, y ô ku i ras shai ma shi ta. Hi ji ma shi te ? (Xin kính chào ngài, chúng tôi rất vui mừng được tiếp đón ngài. Thưa ngài đi đường bình an chứ ạ?)

Ông ta ngớ người nhìn tôi, nhíu mày suy nghĩ như cố nhớ lại điều gì. Sau đó ông ta nhún vai, quyết định trao chiếc cặp Xăm-xô-nai cho cô tiếp viên xách giúp, rồi cũng chắp tay, cúi đầu thật thấp chào lại: – Kônnichiwa! Yôku irasshaima****a! (Xin kính chào ông! Tôi rất vui mừng được gặp gỡ ông!)

Giọng ông ta nhanh và mạnh, tất nhiên thông thạo như… tiếng mẹ đẻ chứ không ỳ ạch như tôi. Tôi đoán rằng tôi nói ‘hay’ quá nên thấy ánh mắt ông ta có gì vui vẻ, tinh nghịch pha lẫn nụ cười. Tôi lại hăng hái ‘nặn’ tiếp và tự giới thiệu: – Wa ta shi wa Trinh de su, ho te ru Y… y a dô zo yo ro shi ku! (Thưa ngài, tôi tên là Trình, nhân viên khách sạn Y… rất sung sướng được cử đến đây đón tiếp ngài !)

Nét mặt ông giám đốc Nhật vui hẳn lên, ông mỉm cười nhìn tôi sau đó cũng tự giới thiệu: Watashi wa ‘Kwann’ desu, dôzoyoroshiku! (Thưa ông tôi tên là Kwann, rất sung sướng được cử đến đây gặp ông)

Tiếng Nhật dùng ý giống như tiếng Việt hay tiếng Tàu, nhân xưng đại danh từ ‘tôi’ và ‘chúng tôi’ nhiều khi dùng chung với nhau, những tiếng như ‘irasshaima****a’‘yoroshiku’ vừa có nghĩa là đón tiếp lại vừa có nghĩa là gặp gỡ, tùy câu sử dụng. Hừ, lạ thật, tôi là anh bồi khách sạn chứ có phải là một VIP nào đâu mà ông ta nói rất sung sướng được ‘cử’ đến đây ‘gặp’ tôi? Ngoài ra tôi để ý thấy những câu ông ta dùng đều… bắt chước tôi y chang nhưng thu gọn lại, nhanh và thông thạo hơn. Tại sao ông ta chọc ghẹo tôi với ánh mắt hóm hỉnh như vậy? Tôi nói tiếng Nhật có gì sai sót chăng?

Kiểm tra và làm thủ tục tại khu hải quan tương đối đơn giản do có ‘người của ta’ xong, chúng tôi ra xe. Ông giám đốc Nhật đi lầm lối khác, tôi đưa tay lễ phép: Kô chi ra e dô zô! (Xin mời ngài đi lối này!) Ông khách giật mình ngửng lên, vui vẻ: – Arigatô, zogaimasu! (Vâng, xin cám ơn)

A, bây giờ thì ông ta không ‘bắt chước’ tôi nữa. Tôi thấy có cảm tình với ông ta. Rõ ràng là ông ta mau mắn, lịch duyệt, không già nua, khắc khổ như ông giám đốc khách sạn đã cho biết.

Anh tài xế đã đợi sẵn bên cạnh chiếc xe, vội vàng mở rộng các cửa mời mọi người lên và xếp va ly vào phía đằng sau. Ông giám đốc ra hiệu cho tôi ngồi bên cạnh ông ta, anh phụ tá ngồi bên trên với tài xế, sau đó xe chuyển bánh lướt êm, máy lạnh mát rượi.
Xe chạy qua cổng Phi Long, vị khách luôn luôn nhíu mày nhìn những tấm bảng quảng cáo ‘vĩ đại’ có vẻ suy nghĩ.. Cặp mắt ông ta đăm chiêu, tò mò nhìn từng gốc cây, từng ngôi nhà lớn hiện đang xây cất ở hai bên đường Nam kỳ khởi nghĩa tức Công Lý cũ, không hiểu ông ta thấy nó thế nào so với bên Nhật.

Tôi nhẹ nhàng lấy gói ba số 5 và chiếc hộp quẹt ga mới tinh mang dấu hiệu Công ty du lịch Việt Nam, lễ độ mời khách:- Ip pon i ka ga de su ka ? (Xin kính mời ngài hút thuốc ?)

Ông ta giựt mình quay lại, nhíu mày khe khẽ lắc đầu: – Kekhô desu, arigatô! (Không, tôi không muốn hút, xin cám ơn!) Ðoạn, không hiểu nghĩ sao, ông ta cầm gói thuốc, ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng ngửng lên nhìn tôi:- Do you usually smoke this kind of Three Fives cigarette?

Ôi chao, vậy thì ông ta cũng nói tiếng Anh chứ đâu phải chỉ dùng tiếng Nhật một cách cố chấp? Tôi sung sướng quá bèn khẽ lắc đầu, buột miệng nói như cái máy: – Oh no, sir, we don’t.

Ông ta hỏi tại sao, tôi đáp ‘because… ‘rồi cũng chẳng biết because… như thế nào nữa, bèn trả lời thành tht:- Because this kind of cigarette is more and more expensive than our salary, out of our ability.

Vị khách bật cười, rồi tự nhiên ông ta cười lớn khẽ vỗ vai tôi thân mật như một người bạn. Tiếng Anh ông ta dùng còn thông thạo hơn cả tiếng Nhật mẹ đẻ của ông ta: ‘Ồ, ông bạn thân mến, ông bạn nghèo lắm phải không?’. Tôi lắc đầu: ‘Không, tôi không quá nghèo nhưng cũng không nghĩ rằng tôi giàu. Chúng tôi tiết kiệm tiền bạc’. Vị khách trẻ gật đầu lia lịa:

‘Vâng, vâng, tôi hiểu. Tôi cũng có một vài người bạn Việt Nam ở hoàn cảnh của ông. Thỉnh thoảng tôi có gửi quà sang tặng họ’.

Chà, tay này được quá, người Nhật mà biết hoàn cảnh của người Việt Nam, thỉnh thoảng gửi tiền sang tặng, thật đúng kẻ có lòng.

Xe chạy ngang qua cửa Nhà khách Thống Nhất, bên trái là Nhà thờ Ðức Bà. Vị khách ngắm nghía ngôi nhà thờ lớn nhất miền Nam, gật đầu có vẻ vừa lòng. Sau đó tự nhiên ông ta hỏi tôi: ‘Tôi đoán trước năm bảy lăm ông bạn là một luật sư?’. Tôi giật mình kinh ngạc: ‘Vâng, trước đây tôi theo ngành luật. Nhưng tại sao ngài lại biết điều đó?’. Ông ta cười trả lời: ‘Tôi biết những điều người khác không biết’.

Xe về tới đường Ðồng Khởi và từ từ táp vào lề trước khách sạn. Các cô tiếp viên ra đón, xách giùm va ly cho khách. Ðích thân ông giám đốc cùng nhiều người khác dẫn vị quý khách lên lầu, giới thiệu từng ưu điểm của căn phòng hạng nhất, sang trọng.

Lúc tôi xuống, ông giám đốc đứng nán lại chờ ở chân cầu thang, thân mật vỗ vai tôi: – Khá quá, cậu được việc quá. Tôi đã nghe báo cáo đầy đủ. Từ nay tôi cử cậu đặc trách bám sát ông ta. Công việc đâu đấy xong xuôi, tốt đẹp tôi sẽ trích số tiền hoa hồng thưởng cho cậu và cả bên công ty đầu tư nữa. Tôi không quên đâu.

Vâng, xin cám ơn ông giám đốc.

Kể từ hôm ấy, tôi luôn luôn đi kèm với vị khách Nhật. Hình như đối với tôi, ông ta cũng có chút biệt đãi. Mỗi lần tới công ty đầu tư hoặc thăm các cơ sở, máy móc thiết bị của người Nhật, gặp gỡ ban giám đốc các cơ quan, lẽ ra tôi phải ngồi phía sau lưng như một thông dịch viên, ông ta giới thiệu tôi là một người bạn luật sư, bảo tôi ngồi bên cạnh và luôn luôn xem xét, bàn bạc với tôi. Người nước ngoài họ khôn lắm, dưới con mắt của một luật sư, tôi thấy rõ có những điều mới nhìn mình tưởng họ dại, sự thực họ nhường một bước để nhảy mt trăm bước. Trong khi đó, về phía bên mình, tôi không nói rằng họ dại nhưng tôi nói họ lanh. Lanh một cách khôn ngoan vặt, tiến một bước theo kiểu ‘thắng lợi tinh thần’ trong A.Q. Chính Truyện của Lỗ Tấn, sau này sẽ thiệt một trăm bước hay nhiều hơn. Toàn những ông thầy dùi cấp dưới, láu cá vặt mà cứ tưởng mình thông minh làm ‘cố vấn’ mà thôi. Quan hệ quốc tế không thể dùng các bộ óc láu cá vặt. Phải có kiến thức, phải có trí tuệ. Nếu không, được lợi về sợi dây thong thì sẽ mất cả con trâu. Gặp trường hợp đó tôi chỉ im lặng. Tôi không có quyền được góp ý kiến. Tất cả đều biết tôi chỉ là anh bồi khách sạn, nể khách nên họ cho tôi được ngồi cùng bàn một cách khiêm tốn, tất nhiên không được quyền góp ý kiến.

Một lần thấy họ ‘khôn ngoan’ quá, tôi kể cho vị khách nghe một đoạn trong Tam Quốc Chí – một tác phẩm cổ điển lớn của Trung Quốc rất quen thuộc với người Việt Nam: Tào Tháo dàn gần một triệu quân trên sông Trường Giang định chiếm Ðông Ngô. Chu Du, đại tướng Ðông Ngô muốn dùng hỏa công để phá quân Tào nhưng lại sợ các chiến thuyền Tào rời rạc, chạy kịp, đốt không hết được; bèn nhờ Bàng Thống xúi cho thuyền Tào kết lại với nhau. Giữa lúc ấy, quân Tào không quen thủy thổ, say sóng. Tào Tháo hỏi kế. Bàng Thống ‘xúi khôn’ là nên dùng vòng sắt kết các thuyền lại từng mảng, lót ván bên trên người ngựa đi được, quân sẽ hết bệnh. Tháo mừng lắm, nghe lời. Ra tới bờ sông, Thống bị một người nắm áo giữ lại: ‘À anh này gớm thật, dám xúi Tào Tháo kết thuyền cho Chu Du đốt! Tháo nó ngu, bộ anh tưởng chúng ta hết người không ai biết mưu kế của anh hay sao?’ Bàng Thống giựt mình nhìn lên, thấy đó là Từ Thứ. Rồi tôi kết luận: – Ðất nào cũng có kẻ sĩ. nước nào cũng có kẻ sĩ. Chẳng qua chúng tôi không được sử dụng phù hợp khả năng như bên các ông. Xin ông đừng nghĩ chúng tôi hết người.

Ông ta nhíu mày: Có, tôi hiểu. Và tôi nghĩ đó là một trong những điều đáng buồn. Chúng tôi muốn làm ăn một cách cân xứng, không muốn ‘đốt’ ai cả. Nhưng quy luật làm ăn, nếu họ tự đốt thì họ phải chịu.

Vị khách lâu nay gần như chỉ nói tiếng Anh, không nói tiếng Nhật.

Một lần khác, ông ta mua tặng tôi một chiếc đồng hồ Seiko five giá bốn mươi lăm đô, tức gần năm trăm ngàn đồng Việt Nam. Tôi cười nói đùa: – Ðây là ‘phần thưởng’ cho sự im lặng của tôi?

Ông ta cũng cười, lắc đầu: – Không đúng. Dù không thưởng thì các ông vẫn đứng ngoài rìa, giữ vai trò của người im lặng, không cần phải thưởng.

– Vậy thì tôi đã có đồng hồ của tôi rồi.

Nó đã cũ, nên dùng đồng hồ mới. Hãy tặng chiếc cũ cho một người bạn nào nghèo của ông nếu họ cần tới.

– Vâng, xin cám ơn, tôi sẽ làm như vậy.

Công việc ký kết hợp đồng tiến triển tốt đẹp. Tôi nhận được phong bì ‘ứng trước’ do ông giám đốc khách sạn trao. Ông bảo tiền hoa hồng dành cho tôi khá hơn, tính theo ngoại tệ, ông ứng trước một phần để tôi xây xài. Trên nguyên tắc, nếu chúng tôi giới thiệu được khách cho khách sạn thì được hưởng năm phần trăm, kêu là tiền huê hồng, tính theo tổng số tiền phòng các ngày khách đã ở trong khách sạn. Ðằng này tôi không giới thiệu nhưng ông giám đốc cũng tính theo tỷ lệ đó, coi như tiền thưởng. Làm ở những chỗ có đô la ra vô thì sướng thế đấy, toàn những món bất ngờ mà mình được hưởng chứ tôi có công gì đâu. Ðồng thời ông cũng cho tôi, biết còn hai ngày nữa, tức sáng thứ Hai, ông khách sẽ lên máy bay về nước.

Hôm đó là chiều thứ Bảy, một buổi chiều thành phố thật đẹp. Mọi việc đã xong xuôi, vị khách Nhật hình như hơi rảnh. Ông nhìn qua khung cửa kính, có vẻ suy nghĩ và bảo tôi:

Ông bạn luật sư thân mến – ông vẫn nói tiếng Anh, không dùng tiếng Nhật – Tôi sắp về nước. Tôi nghe nói người Việt Nam có món ‘thịt cầy’ (dog meat) ngon lắm. Nếu ông bạn vui lòng hướng dẫn tôi đi thưởng thức được thì tôi rất lấy làm sung sướng.

Tôi ngạc nhiên trợn tròn mắt: – Dog meat? Theo.. theo ý ông nói, đó…đó là món..’Thịt của con chó ?’

Ông ta mỉm cười:- Ðúng vậy, ‘thịt của con chó’, nếu tôi không lầm.

Ðoạn, ông ta nói tiếp: – Theo tôi hiểu, nhà văn Trung Quốc Lin Yuyang (Lâm Ngữ Ðường) có lẽ cũng thích món ‘thịt của con chó’ nên ông ta viết một truyện ngắn rất nổi tiếng lấy tên ‘Tướng Quân Thịt Chó’, tôi có đọc qua.

Ối giời ơi, thế này thì chết. Tôi như từ trên trời rơi xuống đất. Mặc dầu gốc dân Thái bình Thái lọ, rất khoái cái món ‘nai đồng quê’ nhưng tôi giải thích cho ông khách oái oăm biết rằng thường thường các quán ‘nai đồng quê’ không phải là những nhà hàng sang trọng, nếu chúng tôi dẫn khách đến đấy, lỡ có chuyện gì xảy ra thì sẽ bị cho nghỉ việc.

– Tất nhiên, ngoài món ‘dog meat’, chúng tôi còn có các đặc sản khác như ếch chiên bơ, cua rang muối, rắn xào lăn v.v… rất ngon, chúng ta nên đến đấy thì tốt hơn.

Ông ta gật đầu: – Cũng được. Nhưng chỉ có ông với tôi đi thôi. Và tôi lái xe.

Ối giời đất ơi, lại nguy hiểm nữa. Tôi báo cáo với ban giám đốc. Ông quản lý lắc đầu lè lưỡi: – Chết, ông ấy có biết đường đâu mà lái ? Người nước ngoài mà lái xe trên đường phố Sài Gòn thì coi như tiêu luôn sinh mạng. Thôi, ông Trình cố nói kheo khéo giành lấy tay lái.

Tôi lái xe. Ông giám đốc Nhật ngồi bên cạnh cứ tủm tỉm cười vì nghe tôi kể lại những lời của ông quản lý. Chúng tôi tới quán Thanh Sơn ở đường Nguyễn Cư Trinh. Ðây là hậu thân của quán Ba Thừa ở đường Bùi Viện ngày trước. Thanh Hải, Ba Thừa trước đây thường rất nổi tiếng với món la-de đặc – la-de ướp lạnh đến mức tự nó đông lại, phải vỗ vỗ đáy chai cho chảy ra, không phải bỏ đá – và những món đặc biệt miền Nam như cua rang muối, ếch chiên bơ như đã kể trên.

Chúng tôi đang ăn, ông khách Nhật luôn luôn gật đầu tấm tắc khen ngon thì bọn trẻ bán thuốc lá, bán vé số nghe tiếng nước ngoài bèn bu lại mời mua. Ông ta lấy một gói ‘ba số’ và đưa tờ năm đô la.

Nô, nô, cái này năm chục ngàn, cái này có mười mấy ngàn, hổng đủ tiền thối !

Ông ra hiệu cho cả, tụi nó mừng rỡ ‘thánh kiu’ rối rít rồi kéo nhau đi. Một đứa khác tới trễ không được chia phần bèn để cả xấp vé trước mặt ông, tý tay như nằm nửa người trên bàn mời mua bằng được. Ông lắc đầu.

– Ông này sắp về nước không mua vé số đâu em ạ.

Cậu thanh niên chạy bàn hình như con trai ông bà chủ tiệm đi ngang bèn ‘bợp’ nhẹ cho nó một cái, đuổi nó ra ngoài. Ối cha, lúc nó đứng dậy, khuỷu tay loạng quạng thế nào đụng phải đĩa lươn um, hất ráo xuống quần tôi. Nóng thì không nóng nhưng bẩn. Nhòe nhoẹt. Tôi bực quá đâm gắt:

– Thấy mẹ người ta..Ðã bảo mà ! Làm thế nào bây giờ ?

Nhà hàng đem thau nước ra lau giùm. Xong, ông khách mỉm cười, im lặng ngồi hút thuốc lá. Cái mặt tôi lúc đó chắc ‘dễ thương’ quá. Ông hỏi:

– Bạn vừa mới nói ‘th-ay me’ (thấy mẹ). Vậy ‘th-ay me’ là gì ? Một tiếng lóng hay một câu chửi ?

Trời đất, đang bực, đến bố tôi cũng không biết ‘thấy mẹ’ là một tiếng lóng hay một câu chửi. Tôi trả lời đại ‘thấy mẹ’ là… ‘see mother !

Ông ta lắc đầu: – No, it isn’t. In Vietnamese, ‘thấy mẹ’, it means…

Tôi giật mình. Hai tiếng ‘thấy mẹ’ ông ta phát âm tiếng Việt rất chuẩn… y như người Việt. Tôi ngạc nhiên: – Do you understand Vietnamese ?

Ông ta mỉm cười, gật đầu: Yes, I know very well. Because

Rồi như không nín cười được nữa, ông ta bỗng cười sằng sặc và… tuôn ra một tràng tiếng Việt pha lẫn tiếng chửi:

– Bởi vì tao là một thằng người Việt trăm phần trăm không có tí ti máu nước ngoài nào hết. Cái thằng ngốc ! Tao với mày học với nhau hằng bao nhiêu năm ở Chu Văn An mà máy không nhận ra tao. Rõ thật !…

Một tia sáng chợt thoáng qua trong óc tôi:

– Cậu… cậu là thằng Quân đen ?

– Chứ còn đứa nào vào đây nữa!

– Hèn chi…

– Hèn chi cái gì ?

– Tớ hơi ngờ ngợ, trông cậu quen quá, ngay từ lúc đầu mới gặp cậu ở chân cầu thang máy bay.Thì ra…

– Thì ra ‘cố nhơn’ phải không? Còn tớ, vừa trông thấy cậu tớ nhận được liền.
– Xin lỗi, tại tớ yên trí cậu là một tay giám đốc người Nhật. Hơn nữa cậu lấy tên Kwann Tae Palms…

– Dễ lắm, cậu nhớ tên tớ là gì không ? – Phạm Thế Quân. Lúc nhập quốc tịch Mỹ tớ đùa nghịch đổi cái tên Quân Thế Phạm thành Kwann Tae Palms chơi chơi cho vui, chỉ có vậy thôi không có gì khó.

– Cậu quốc tịch Mỹ, không phải quốc tịch Nhật ?

– Ừ. Vợ tớ người Nhật.

Quân kể cho tôi nghe: Hồi đó học xong Kỹ sư Phú Thọ, hắn được bổ đi làm kỹ sư công chánh tại một tỉnh miền Trung xa lắc. Ngày 30 tháng 4, gặp tàu, hắn nhảy sang Mỹ, vừa đi làm vừa cố gắng học về ngành điện tử. Trong trường hắn học có một cô nữ sinh viên người Nhật, hai bên quen nhau, thương nhau, sau khi tốt nghiệp bèn làm đám cưới. Hắn leo dần lên được chức phó giám đốc của một công ty Mỹ. Vợ chồng hắn có đứa con gái đầu lòng, bố mẹ vợ hắn viết thư giục thu xếp đem con về chơi bên Nhật. Té ra bố vợ hắn là một nhà tư bản, tổng giám đốc một công ty lớn có nhiều chi nhánh ở Nhật cũng chuyên về điện tử. Bây giờ vợ chồng hắn đã có đứa con thứ hai – con trai – rất xinh và hiện hắn đang làm giám đốc một công ty chi nhánh cũng nằm dưới quyền ông già…

– Ông bố vợ tớ lớn tuổi nên cẩn thận lắm cậu ạ. Cử tớ sang Việt Nam nhưng lại sợ tớ người Việt, phía bên này sẽ ỷ y, bởi vậy ông ra lệnh cho tớ phải nói toàn tiếng Nhật và đánh tiếng rằng ‘ông giám đốc’ đã già nên rất khó tánh.

– Tớ hiểu. Người nước ngoài họ vẫn thận trọng như vậy.

Hắn cười hề hề:- Tiếng Nhật thì tớ cũng tà tà như cậu vậy thôi, do vợ tớ dạy. Sang bên này gặp cậu, tớ mừng lắm. Không ngờ sau bao nhiêu năm, hai thằng chó chết tụi mình gặp nhau…

– Cậu tạo sự nghiệp bằng hai bàn tay, không phải là một thằng chó chết.

– Chó chết chứ sao lại không chó chết ? Một đời du tử…

Gương mặt hắn hơi buồn. Hắn khẽ thở dài:Tớ xin lỗi cậu về việc làm mặt xa lạ, bữa nay mới bày chuyện ‘dog meat’ để gặp riêng cậu. Từ hôm gặp cậu tớ rất mừng, đinh ninh thế nào cũng sẽ nhờ cậu một việc…

– Chuyện gì ? Tớ sẵn lòng.

– Như cậu biết đấy, tớ còn một bà mẹ già. Năm nay bà cụ tớ đã tám mươi mốt tuổi, đôi mắt đã lòa, ở với ông anh cả tớ ở Nam Ðịnh ngoài Bắc. Tớ thương mẹ tớ lắm.

– Có, tớ hiểu. Làm con thì ai cũng thương cha mẹ.

– Cám ơn cậu. Ngày trước gia đình tớ cũng nghèo như gia đình cậu. Bà cụ tớ thắt lưng buộc bụng, lai xai lưới xưới buôn bán mấy trái cam trái quýt với đứa em gái tớ ở chợ Bà Chiểu, nuôi tớ ăn học. Tớ mới tốt nghiệp, có thể nói là chưa báo hiếu gì được, đến lúc hữu sự thì lại nhảy đi sống lấy một mình không biết gì đến mẹ. Ðiều đó tớ rất ân hận. Cách đây mấy năm tớ có viết thư về quê liên lạc được với ông anh cả tớ. Từ đấy tớ luôn gửi quà và tiền về để gia đình ông anh có phương tiện phụng dưỡng mẹ tớ. Nhưng tiền bạc là một chuyện mà tình cảm gia đình lại là một chuyện khác.

– Cậu nghĩ rất đúng. Rồi sao nữa ?

– Tớ định nhờ cậu đem một món tiền khá lớn ra Bắc đưa cho ông anh tớ, giúp đỡ ý kiến ông ấy sửa sang nhà cửa, xây lại ngôi từ đường khang trang đẹp đẽ theo ý muốn của bà cụ, và nói với cụ rằng tớ hứa nội trong năm tới thế nào cũng thu xếp đem vợ con về Việt Nam thăm mẹ.

– Ðược.

– Tớ đã nói với tay giám đốc khách sạn là nhờ cậu ra Hà Nội xem xét giùm tớ tình hình giấy tờ ngoài ấy ra sao, có cần gì sửa chữa không. Tay giám đốc rất đồng ý. Việc đó rất dễ, với con mắt một luật sư cậu chỉ liếc qua là biết liền có khi còn hơn tớ nữa. Rồi cậu sẽ liên lạc với tớ sau. Nhưng chuyện chính là về Nam Ðịnh, tớ giữ kín không cho ai biết. Khoảng chín giờ sáng mai tớ đem tiền đến nhà cậu, ở chơi một ngày, tụi mình chuyện trò thật kỹ. Cậu nắm vững mọi việc rồi là sáng thứ Hai tớ lên máy bay về Nhật. Bà cụ cậu vẫn khỏe chứ ?
– Cám ơn cậu, bà cụ tớ còn nhưng năm nay đã bảy mươi chín, kém bà cụ cậu hai tuổi, không được khỏe lắm. Thỉnh thoảng cụ vẫn nhắc cậu Quân không biết bây giờ ở đâu, tớ nói có lẽ bên Mỹ.

– Thế này nhé, lát về cậu đưa tớ ghé vào chào cụ một chút rồi mai tớ đến. Cậu vẫn ở Tân Ðịnh?

– Ừ.

Hôm sau hắn tới. Buổi chiều, ăn cơm xong, hắn ngồi một mình ngoài hiên trên lầu bên thành lan can. Nhà tôi vắt hai ly cam tươi bưng ra. Hắn mỉm cười nhìn tôi, khe khẽ lắc đầu:

– Chị cẩn thận giống hệt nhà tôi ở bên Nhật… À này, Trình, cậu còn nhớ bài ‘Du tử ngâm’ của Mạnh Giao ngày trước cụ Tú Anh dạy tụi mình hồi lớp Ðệ thất Ðệ lục ở Chu Văn An không nhỉ ?

Tôi cười: – Nhớ chứ ! Không thuộc, không viết ra chữ, cụ mắng muốn chết. Ðứa nào mà chẳng nhớ…

Tay hắn đang cầm cây que. Hắn gõ nhè nhẹ lên chiếc song sắt trên thành lan can và đọc khe khẽ:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y

Lâm hành mật mật phùng

Ý khủng trì trì quy

Thùy ngôn thốn thảo tâm

Báo đắc tam xuân huy

 

(Sợi chỉ trong tay mẹ hiền

May thành chiếc áo trên thân người con du tử

Lúc con ra đi mẹ khâu thật kỹ

Vì sợ lâu ngày con chậm trở về

Nào ai dám nói một tấc lòng của cỏ

Có thể báo đáp được ánh dương của ba tháng xuân ?)

– Mỗi lần nhớ tới bài thơ ấy tớ lại ứa nước mắt, cậu ạ.

– Chuyện, thơ Ðường. Ngay đến cụ Nguyễn Du cũng còn phải mượn ý viết thành câu thơ trong truyện Kiều: ‘Dám đem tấc cỏ báo đền ba xuân’ huống chi tụi mình !

Hắn thở dài:

– Ở bên Nhật, hễ bận thì thôi, cứ lúc nào rảnh đầu óc tớ lại miên man nghĩ tới hình ảnh ba mẹ con tớ lúc mới di cư vào Nam. Ông cụ tớ mất sớm hồi gia đình còn ở ngoài Bắc. Mẹ tớ một thân một mình tần tảo nuôi tớ ăn học. Con Chi, em gái tớ (chắc cậu đã biết), lúc ấy hãy còn nhỏ mới lên bốn; còn tớ lên sáu. Khổ lắm. Mẹ tớ trước bán bánh cuốn, sau bán trái cây ở chợ Bà Chiểu. Lúc tớ thi đậu vào lớp đệ thất trường Chu Văn An là lúc mẹ tớ đã dành dụm được chút đỉnh, không phải bữa đói bữa no vậy mà như cậu thấy, trong túi tụi mình hàng ngày đi học chẳng có đứa nào có lấy một xu. Thỉnh thoảng bà cụ tớ hay bà cụ cậu cho một đồng thì hai đứa mình chia nhau uống chung một ly nước mía. Bà cụ tớ quý cậu lắm. Nay hai mắt cụ đã lòa…

– Có, tớ biết. Hôm ông anh cả vào chơi đón cụ ra Bắc, tớ có đi tiễn. Ông anh mua vé tàu hỏa Thống Nhất, ghế ngồi, bảo sẽ xuống ga Nam Ðịnh. Thấy đông người quá, trong tàu chật như nêm cối, ghế cứng mà lại phải ngồi ba ngày ba đêm không được nhúc nhích, tớ chảy nước mắt. Cụ cũng khóc, đưa hai tay quờ quạng sờ mặt tớ và nói sẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại…

Quân chớp mắt, hắn cúi mặt như cố che giấu một cái gì đó đang dâng lên trong cổ họng, sau khẽ thở dài nói nhỏ với tôi:

Tớ chỉ lo mẹ tớ mất trước khi tớ về, cậu ạ. Ra ngoài ấy cậu nhớ lạy mẹ tớ một lạy, xin cụ tha thứ cho tớ và nói, năm tới thế nào tớ cũng về thăm mẹ, càng sớm càng tốt.

– Ðược, cậu cứ yên tâm.

– Ðược ngồi ăn cơm với cụ và vợ chồng cậu tớ cảm động lắm. Tớ mong được tự tay xé thịt gà để riêng ra đĩa, tiếp vào bát cho bà cụ tớ cũng giống như cậu. Mẹ tớ hai mắt đã lòa…

Thế rồi sáng thứ Hai, hắn lên máy bay về Nhật thì sáng thứ Ba tôi ra Hà Nội. Tôi đi xe lửa, vé nằm, loại tàu nhanh hai ngày hai đêm, không đi máy bay vì tính tôi quen tiết kiệm. Những lúc ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh núi non hùng vĩ của vùng đèo Hải Vân , đèo Ngang, đầu óc tôi cứ vương mang nghĩ tới hình ảnh lúc hắn lên máy bay.

Chúng tôi đưa tiễn, hắn giơ tay chào tạm biệt ‘Sayônara !’. Rồi trong lúc mọi người không để ý, hắn kín đáo chắp tay lạy về phía tôi một lạy. Tôi hiểu ý nghĩa của cái lạy đó nên chỉ gật đầu cho hắn yên tâm và giơ tay chào tạm biệt: ‘Sayônara!’. Bây giờ tôi có bổn phận đem cái lạy đó ra Bắc, cùng với lời dặn hắn sẽ trở về. Và đầu óc tôi cứ miên man nghĩ đến bài ca của người du tử:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y…

Người con nào thì cũng thương mẹ. Tôi yêu bài thơ đó lắm.

Tác Giả : Thái Phương

Anh chị Thụ & Mai gởi