Bởi yêu thương là điều không đơn giản

Bởi yêu thương là điều không đơn giản

‘Chúng ta sẽ luôn bên nhau, không xa rời’.

Năm 7 tuổi, cậu đi học về tình cờ thấy một cô bé đứng khóc run rẩy vì trước mặt
là con chó hung dữ đang gầm gừ. Không chần chừ, cậu vớ lấy cây sao nhét

bên hông cặp, chạy đến đánh đuổi con vật rồi cùng cô bé nọ chạy thoát.

Được một đoạn, cả hai dừng lại thở…

“Cám ơn cậu nha!” Cô bé lau nước mắt nói.

“Không có gì. Lần sau cậu đừng đi đường đó nữa. Chó dữ lắm”. Cậu dặn dò.

“Nhưng đường về nhà mình chỉ có thể đi qua đó thôi”.

Nghe vậy, cậu nhóc đắn do hồi lâu rồi bảo:

“Hay là đến chiều, cậu đứng chờ mình ở đầu đường khi nãy mình sẽ giúp cậu về nhà”.

“Thiệt hả? Tuyệt quá! Thế chúng ta làm bạn nhé!”.

Cậu cười tươi, gật đầu.

Năm 10 tuổi, cậu nhóc và cô bé đã là đôi bạn thân. Một hôm, cô bé mang sổ liên lạc về khoe bố mẹ vì đạt thành tích cao. Nhưng không may, bố mẹ lại đang cãi nhau. Trong lúc nóng giận, họ đã ném cuốn sổ đi và la mắng con.

Cô bé bật khóc, chạy ra khỏi nhà đến tìm cậu bạn.

Cậu nhóc không ngừng an ủi, chọc cười cô bé.

“Cám ơn cậu vì đã luôn bên mình.” Cô bé nói khẽ.

“Bất kể khi nào cậu cần, mình sẽ luôn bên cạnh!” Cậu tuyên bố.

“Vậy… chúng ta hãy hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời!”.

Lời đề nghị của cô bé vừa dứt, cậu nhóc đồng ý liền: “Ừ, hứa!”.

Năm 14 tuổi, cả hai dần có tình cảm với nhau. Ngày nọ, cô bé bị đám bạn trai cùng lớp bắt nạt. May thay cậu nhóc thấy và lập tức chạy đến bảo vệ cô. Vì chúng quá đông nên cậu bị đập một trận tơi bời.

“Xin lỗi, vì mình mà cậu ra thế này.” Cô bé vừa băng bó vết thương cho cậu vừa khóc.

“Có gì đâu, mình ổn. Cậu bị hiếp đáp, dĩ nhiên mình phải bảo vệ.” Dù rất đau nhưng cậu cứ cười lớn.

Im lặng một lúc, cô bé khẽ cất tiếng:

“Thế, chúng ta tiếp tục lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời nha?”

Mặt đột nhiên đỏ ửng nhưng cậu vẫn đáp:
“Ừm, hứa!”

Năm 18 tuổi, hai người học cùng trường.
Vào ngày sinh nhật mình, cậu đã bất ngờ hôn cô.

“Cậu thích không?” Cậu ngập ngừng hỏi.

“Mình chờ nụ hôn này lâu lắm rồi”.
Cô bẽn lẽn nói.

“Chúng ta sẽ luôn bên nhau, không xa rời!”. Cậu nắm tay cô, dịu dàng lặp lại lời hứa.

Cô không đáp chỉ mỉm cười gật đầu.

Năm 23 tuổi, anh cầu hôn cô. Một lễ cưới hạnh phúc diễn ra trong thánh đường. Khi Cha đọc lời thể xong, cả hai cùng đồng thanh.

“Con đồng ý.”

Lúc đeo nhẫn cưới vào tay cô, anh hỏi: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời?”

Cô nở nụ cười thật tươi, trả lời:
“Vâng, em hứa!”

Năm 25 tuổi, khi đã là vợ chồng được hai năm, ngày nọ, cô hẹn anh ra và trao lại nhẫn cưới.

“Mình chia tay anh nhé”. Cô chậm rãi bảo.

“Tại sao?” Anh vô cùng kinh ngạc.

“Em thật sự xin lỗi! Cảm giác yêu thương em dành cho anh đã không còn như xưa!” Cô cúi đầu, nói thật khẽ.

Khi cô rời khỏi, chàng trai cầm nhẫn cưới trong tay, im lặng rất lâu. Sau đó, anh mỉm cười: “Tiếp tục lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Hôm ấy, chỉ còn một mình anh hứa.

Năm 26 tuổi, ly dị xong cô quen người yêu mới. Còn anh, vẫn yêu cô. Mỗi ngày, anh đều đứng từ xa quan sát cô nói chuyện vui vẻ với người con trai xa lạ.

Nhìn cô, anh thì thầm: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Lúc giận bạn trai, cô ngồi khóc một mình. Anh thấy liền giả làm thú bông đến tặng cô bó hoa và  chọc cười.

Trông cảnh người yêu cầm hoa, cười trở lại, trong đầu anh nghĩ: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Năm 30 tuổi, bạn trai đi xa, cô ở lại một mình. Và anh, biết tin mình bị bệnh nan y.

Mỗi buổi chiều, dù mưa hay nắng, anh đều trốn khỏi bệnh viện đến nơi làm việc chỉ để được nhìn cô. Dù mệt mỏi, anh vẫn âm thầm đi theo để biết rằng, cô đã về nhà an toàn.

“Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.
Anh luôn nói câu đó trước khi quay lưng trở về.

Bệnh trở nặng, bác sĩ bắt anh phải ở trong bệnh viện. Nhưng anh không nghe, tiếp tục ra ngoài vì biết tối nay cô sẽ dự sinh nhật một mình.

Cô ngồi tại quán cafe ăn bánh kem trong nỗi cô đơn. Và cô đã không biết, cách đó mấy chiếc bàn, anh âm thầm bên cô đón sinh nhật.

“Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.
Anh để dành lời hứa năm xưa làm quà cho cô.

Tối đó, anh và cô cùng về muộn.

Năm 32 tuổi, người yêu cô trở về rồi cả hai quyết định kết hôn. Về phía anh, bác sĩ lắc đầu, bảo hết hy vọng. Ngày cuối cùng, mặc cơn đau của bệnh, anh vận đồ thật đẹp đến dự đám cưới lần thứ hai của cô.

Lúc chú rể đeo nhẫn cho cô, anh nở nụ cười:

“Lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời có lẽ anh không thể thực hiện được nữa. Nhưng từ giờ, đã có người thay anh tiếp tục lời hứa đó với em!”.

Khi chúc phúc cô xong, anh rời khỏi thánh đường.

Trưa hôm ấy, người ta thấy có một chàng trai chết trong công viên. Anh ngồi trên ghế đá với vẻ mặt thanh thản.

Dù yêu theo cách nào, chúng ta đều mong muốn người mình yêu được hạnh phúc, phải không?

Nguồn: FB

Nguyễn Phi Phượng gởi

SƯỚNG và KHỔ

SƯỚNG và KHỔ

Có một đề thi dành cho các thí sinh đau khổ thuộc mọi lứa tuổi như sau: “Bạn
hãy chứng minh bạn khổ.

http://www.vncentral.com/news/wp-content/uploads/2012/05/Cuong-hiep-nguoi-minh-yeu-toi-dau-kho-tuyet-vong.jpg

 

Thí sinh thứ nhất, một người đàn ông chừng sáu mươi, chứng minh: Tôi lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo. Bố mẹ tôi quanh năm ‘bán mặt cho đất – bán lưng cho trời’. Vì nhà nghèo nên tôi phải nghỉ học sớm để đi làm kiếm tiền mưu sinh. Nghĩ mà tủi thân!…

Thí sinh thứ hai, một phụ nữ trẻ, dẫn chứng: Tôi là người kém sức khoẻ. Từ nhỏ đã hay đau yếu. Mỗi lần trái gió trở trời là tôi lại xụt xịt. Rất khó chịu!…

Thí sinh thứ ba, một thanh niên tuổi chừng hăm mấy, viết ngay không chần chừ: Tôi chẳng có tài cán gì. Giữa đám đông bạn bè, tôi chẳng biết ca hát. Mấy đứa bạn cứ trêu chọc bảo tôi giọng ngang như cua bò. Bực tức và chán ghê!…

Thí sinh thứ tư toan đặt bút xuống viết thì khựng lại. Rồi anh suy nghĩ có vẻ rất căng thẳng. Cuối cùng, quyết định nộp giấy trắng.

Kết quả cuộc thi: Ba thí sinh đầu tiên được 1 điểm an ủi vì đã có… công viết. Còn thí sinh thứ tư thì phải lên gặp thầy để trình bày rõ lý do tại sao lại để giấy trắng.

Trong giờ sửa bài, giáo sư nhận xét chung:

+ Các bạn không được điểm cao vì bài các bạn không thể hiện được tư duy sâu sắc. Các bạn chỉ liệt kê những điều không như ý xảy ra trong cuộc đời. Ai cũng làm được như thế. Thực ra nó không đủ chứng minh rằng các bạn khổ vì góc nhìn đó quá hẹp.

Rồi giáo sư quay sang thí sinh thứ tư và hỏi:

+ Tại sao bạn để giấy trắng?

– Thưa giáo sư, thoạt đầu tôi cũng có khuynh hướng vội vàng liệt kê như các bạn kia. Nhưng tôi chợt giật mình…

+ Sao bạn lại giật mình?

– Dạ, xin cho phép tôi đứng lên trước mọi người để trình bày được dễ dàng hơn.

Thế rồi cậu khập khiễng bước lên trên. Quay xuống nhìn mọi người, cậu nở một nụ cười thân thiện. Người ta thấy mặt cậu một bên bị nám đen. Cậu nói:

– Hồi tôi còn nhỏ, bố mẹ phải đi làm ngoài đồng, chỉ có chị tôi và tôi ở nhà. Một hôm, chị đang nấu cơm thì bị cháy nhà. Như quý vị thấy, tôi bị phỏng nặng, bây giờ vẫn còn dấu cháy trên mặt. Năm tôi lên bảy, bố tôi qua đời. Một buổi tôi đi học, một buổi tôi phải đi bán vé số ở khu chợ gần nhà để phụ mẹ. Cách đây ít năm, trên đường đi nhà thờ về, có một chú kia nhậu say lái xe tông vào tôi khiến chân tôi bị tật từ hồi đó. Bây giờ mỗi khi trời trở lạnh, chân tôi cũng khá đau. Gần đây, tôi thú thật là tôi yêu một
người con gái, nhưng tôi thế này thì làm sao xứng với người ta được!

Trong phòng lúc ấy có nhiều người. Giọng cậu yếu ớt nhưng ai cũng nghe rõ vì bầu khí lặng im đến lạ thường.

+ Nhưng sao bạn không viết những điều đau khổ này vào bài thi?

– Dạ không, vì tôi giật mình. Tôi giật mình khi tôi chợt nhớ lại lời của bạn tôi trong nhà thờ hôm Chúa Nhật. Anh ấy nói với mấy người nghèo khổ rằng: “Anh em thật có phúc.” Thế là tôi khựng lại để suy nghĩ.

Rồi tôi nhận ra: để chứng minh tôi thực sự khổ thì tôi phải chứng minh cho được rằng tôi không có gì để hạnh phúc.

Mọi người càng chăm chú. Vị giáo sư lên tiếng:

+ Hay! Xin lỗi bạn, tôi không phải là Kitô hữu, vậy cho tôi hỏi anh bạn gì gì đó của bạn nói như thế nào về việc may phúc khiến bạn thay đổi cách nhìn như thế?

http://img.tamtay.vn/files/photo2/2009/12/2/21/348544/4b1677ae_4d9a2289_jesus-children.jpg

– Dạ thưa giáo sư, bạn tôi tên là Giêsu. Anh ấy nói: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy những điều đang thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe những điều đang nghe. Nhiều người mong mỏi được như anh em mà không được.” (Mt 13:16-17).

Thưa giáo sư, lúc ấy tôi chợt nhìn thấy và nghe được nhiều điều may mắn trong cuộc sống của tôi.

Tôi có mẹ có chị. Nhà chúng tôi tuy chẳng kín cổng cao tường nhưng đùm bọc nhau
ấm áp. Tôi có trái tim biết rung động. Tôi có lòng quảng đại. Tôi có lương tâm. Tôi có bạn bè nói chuyện. Tôi có nhiều người cầu nguyện cho tôi. Tôi được đi học. Tôi có trí khôn để nhận ra trong cái xui có cái hên, tức là trong nghịch cảnh có ân sủng.

Ví dụ: Vì lớn lên trong cảnh khó khăn, tôi thấy mình biết cảm thương với người nghèo hơn. Vì mang tật nguyền trên mình, tôi hiểu được nỗi đau của tha nhân. Vì thấy mình giới hạn, tôi đặt niềm tin vào Chúa nhiều hơn. À, cuối tuần nào tôi cũng được cùng mẹ và chị đi Lễ với bà con chòm xóm để nghe Lời Chúa.

Vì thế tôi không thể chứng minh là tôi khổ.

nguồn: Anh Nguyễn v Thập gởi

__._,_._

Ruột Thịt Tình thân .

Ruột Thịt Tình thân .

Song Nhi

Tin chị Thơm bị chồng bỏ lan ra nhanh chóng đầu trên xóm dưới .

Có người nói tội  nghiệp chị đẹp người đẹp nết , con nhà ăn học mà số long đong .

Nhưng có người lại mừng dùm và họ coi đó như giải pháp mà ông trời giải thoát cho chị khỏi cảnh khổ .

Chị Thơm là con gái duy nhất trong ba người con của thầy giáo Thức ở xứ này .

Thời sinh tiền lúc còn sống thầy và ông chủ tiệm vàng Kim Vinh là bạn tâm giao
nối khố có nhau dù một người làm buôn bán một người theo nghiệp chử nghĩa thánh
hiền .

Ngay khi chị Thơm chỉ là trẻ thơ lúc nghe ông Vinh muốn kết thông gia cho hai gia đình càng thân hơn ,thầy giáo Thức đã đồng ý ngay.

Thơm từ nhỏ đã sáng dạ học đâu nhớ đó , thương con nên lớn lên ba chị cho chị lên ở nhờ nhà người cô ruột trên Sài Gòn để tiếp tục việc học .

Bắt đầu hiểu biết Thơm đã nhiều lần dùng dằng phản đối chuyện hứa hôn của ba chị khi ai đó đề cập đến .Xét cho cùng chị cũng không sai bởi xứ này ai mà không biết Huân con trai lớn ông chủ tiệm vàng Kim Vinh học hành thì ngu dốt nhưng ăn chơi
trăng hoa thì có tiếng .

Năm đó tự nhiên ông Vinh bị một căn bệnh lạ , chạy chữa nhiều thầy thuốc mà
bệnh có vẻ không thuyên giảm .

Khi thầy giáo Thức sang thăm ông bèn nhắc chuyện xưa và muốn tiến tới hôn nhân cho con trai mình .

Trước là được yên lòng nhắm mắt vì con nên bề gia thất do ông Vinh biết rất rõ Thơm là cô gái rất tốt .

Thêm vào cái hy vọng là biết đâu hôn lể xua đi được cái vận hạn xui xẻo đang đè ám gia đình ông
.

Năm 19 tuổi Thơm được ba mình gọi về quê và lấy chồng trong cái không khí gấp rút của đám cưới đang chuẩn bị .

Lúc đầu Thơm phản đối bằng cách bỏ ăn và khóc lóc không ngừng .

Nhưng đến khi ba chị dọa thắt cổ tự vận nếu chị dám từ hôn làm trái ngược lại lời hứa mà ông coi trọng như núi .

Đến nước đó thì Thơm hết cách đành theo ý ba mình về làm vợ Huấn.

Cứ tưởng Huấn chồng chị Thơm lấy được người vợ như chị , anh ta hẳn vui mừng mới đúng .

Nhưng vốn tính nhỏ nhen thêm vào chất gia trưởng Huấn thấy chướng mắt vì sự học vấn của vợ.

Trong khi chị vận dụng cái giỏi giang của mình để gánh vác việc nhà chồng thì Huấn sau khi tỏ rỏ đường đi lối về với cô vợ trẻ anh ta lại miệt mài với những thú vui tình ái bên ngoài
.

Từ khi sinh Thu con gái đầu lòng chị Thơm nhiều lần khuyên chồng nên để đức cho con đừng đi gạt gẫm những cô gái khác nhưng Huấn gạt bỏ ngoài tai .

Thậm chí nhiều lần còn hạ cẳng tay , thượng cẳng chân với chị khi say.

Nhất là sau khi ba chồng chị là ông Vinh qua đời thì Huấn không còn phải e dè ,

kiêng kỵ̣ ̣một ai.

Một lần đoàn gánh hát của ông bầu Tám Ít về đây hát , Huân đi xem và đâm ra mê
mệt Hai Như cô đào nhì của gánh .

Khác với những lần trước lần này Huấn trong mắt Hai Như là con mồi lớn nên Hai Như quyết không buông , cô xõ mũi Huân một cách nhanh chóng .

Vốn xuất thân lang bạt nên Hai Như không dể dàng gì trở thành trò chơi của Huân cô buộc Huân phải cho cô danh chính ngôn thuận khi cô có mang .

Thế là sau 9 năm ,chị Thơm đành chịu tiếng bị chồng bỏ bởi không chịu nổi sự
cay nghiệt cũng như những trận đòn thừa sống thiếu chết của Huân gần đây .

Thầy giáo Thức ba của chị cũng qua đời vài năm trước đó nên chị cũng không muốn níu kéo.

Chị đồng ý ra đi với hai bàn tay trắng không làm phiền Huân cưới vợ mới nhưng bù lại Huân phải để chị dẩn bé Thu lúc này được 5 tuổi đi theo mình .

Buồn cho phần số dang dở của mình và cũng không muốn ở lại quê nơi có nhiều kỷ niệm gợi chuyện phiền lòng chị Thơm dẫn con gái lên lại Sài Gòn .

Ban đầu chị tá túc ở nhà cô ruột như trước .

Sau đó chị mang số tiền cha mẹ ruột cho phòng thân khi xuất giá lấy chồng làm vốn mua bán .

Chị mở một sạp bán trái cây và thuê căn nhà nhỏ gần đấy cho tiện việc đi về mẹ con chị sống yên ả vui vẻ với nhau .

Dạo gần đây có một anh chàng người Mỹ thường ghé mua trái cây chổ chị .

Anh ta gây sự chú ý cho Thơm bởi anh ta nói được tiếng Việt rất rành khác với những anh chàng Mỹ lớ ngớ thỉnh thoảng vẩn ghé chổ chị mua hàng .

Anh chàng  người Mỹ John Smith ấy cũng thật bất ngờ khi thấy cô chủ hàng nói rất chuẩn thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình và là một người có ăn học.

Lúc đầu chỉ là trò chuyện xã giao lâu dần họ thành bạn .

Dù hai người cách xa nhau về hình thức lẩn nơi sinh trưởng nhưng họ lại khá hợp nhau trong nhiều cách nghĩ .

Hơn một năm sau John ngỏ lời với muốn cưới Thơm làm vợ.

Phần Thơm thật sự chị dành rất nhiều cảm tình cho John nhưng chị cũng e ngại sự cách biệt và tiếng đời thường mĩa mai những người phụ nữ lấy Mỹ thời đấy nên chị còn lưỡng lự chần chừ .

Nhưng tấm chân tình của Louis khiến chị cảm động .

Hai năm từ ngày họ quen biết chị dẹp cửa hàng về làm bà Smith .

Mười mấy năm trôi qua gia đình chị Thơm có thêm một trai hai gái .

Peter được 13 tuổi , Mary 11 tuổi và Ann 9 tuổi.

Ngoài xã hội John là người khá thành công về kinh doanh nhưng khi về nhà John là người chồng có trách nhiệm .

Anh ta đối xử với Thu cũng như những đứa con khác của mình hết mực yêu thương không hề có sự phân biệt .

Gia đình họ sống đầm ấm hạnh phúc ngoài những lúc đến trường ở nhà chị Thơm vẩn gọi con bằng những cái tên tiếng Việt là Phú , My và Ái .

Khác biệt nhau về mái tóc và cả màu da nhưng bốn chị em Thu lại quấn quých hòa thuận ,luôn gắn bó bên nhau không rời .

Năm 1975 lúc này Thu đã 21 tuổi đang theo học một trường Dược ở Sài Gòn .

Một ngày chị Thơm nhận được tin Huấn chồng cũ của chị tức là ba ruột của Thu ở quê qua đời đột ngột vì một cơn đột qụy .

Đúng ra chị Thơm không muốn về bởi tình hình lúc đó có nhiều thay đổi và Huấn từ lâu không hề nhắc nhở hay đá động gì tới đứa con gái của mình là Thu .

Nhưng cuối cùng chị cũng dẩn Thu về chịu tang cho đúng phép tắc dù gì họ cũng là cha con .

Phần chị thì xem như nghĩa tử nghĩa tận đến thắp một nén hương cho phải đạo làm người , hơn nữa chị không an tâm để Thu về một mình .

Sau đám tang ngay lúc chị chuẩn bị trở về Sài Gòn thì thời thế thay đổi trong một đêm phải chờ đến cả tuần sau và bằng nhiều cách mẹ con chị mới lặn lội trở về được Sài Gòn .

Nhưng khi chị Thơm và Thu lên tới Sài Gòn thì mọi chuyện đã khác lạ hoàn toàn .

Dâu bể đổi dời chỉ trong khoảng thời gian ngắn , chị không thể vào được nhà cũ bởi chúng bị tịch thu nên chị không lấy được thông tin hay địa chỉ liên quan gì tới chồng mình ở Mỹ .

Cũng không thể hỏi thăm ai giữa cái lúc hổn loạn ấy chị dành dẩn Thu nương náu , mưa sinh ở một quận gần đó và cố gắng hết khả năng để nghe ngóng liên lạc với chồng và con của mình trong vô vọng.

Ngày xưa vì người ở quê hay kỳ thị , dè bĩu và lo cho sự an toàn của chồng vào thời còn chiến tranh .

Chị Thơm chỉ dẩn duy nhất Peter về quê ngoại chơi hai lần mà thôi .

Không cho John cùng hai con gái nhỏ về thăm quê lần nào.

Bởi má chị vẩn lên thăm gia đình chị ở Sài Gòn thường xuyên .

Do chị cũng ỷ y đâu có dè cuộc đời có những thay đổi như vậy .

Thời gian dần trôi không một tin tức nào về họ dù là sống chết .

Phần lo lắng thương nhớ con nên sức khoẻ chị Thơm mỗi ngày một kém .

Rồi chị qua đời vào một đêm mưa sau cơn bệnh trong tay vẩn còn nắm chặt tấm ảnh gia đình của mình .

Lúc lâm chung không biết có phải còn tiếc nuối hay ấm ức mắt chị mở trừng trừng khiến Thu khóc than tức tưởi khấn nguyện rằng sẽ cố gắng tìm được những đứa em và mang chúng về .

Phần John Smith vào lúc mọi người nhốn nháo rồng rắn di tản dù không muốn bỏ vợ
mình lại nhưng John không còn cách nào khác hơn đành dẩn ba người con của mình
lên máy bay về Mỹ trong nổi đau đáu lo lắng .

Khi về đến xứ sở anh ta cũng cố gắng liên lạc với vợ mình nhưng ngoài tên họ của vợ và con gái .

John chỉ biết thêm địa danh quê vợ là Xào Bân chứ không hề có thông tin gì khác .

Đường phố còn thay đổi  tên thì nói chi muốn tìm một con người giữa cái đất Sài Gòn mênh mông ấy .

Ba năm sau trên đường đi làm về John qua đời trong một tai nạn giao thông thảm khóc .

Những đứa con của anh được chuyển về sống với ông bà nội ở bang Texas.

Gia đình họ lạc nhau từ đó…

*****

Ba mươi lăm năm sau

Thu bây giờ tóc đã bạc hơn phân nữa và lên chức bà Ngoại chị lấy chồng có được
ba người con .Chồng chị là người đàn ông tốt và hiền lành .

Các con chị vẩn sống và làm việc ở Sài Gòn .

Còn chị và chồng về sống ở quê vào 5 năm trước trên mãnh đất hương hỏa của bà Ngoại chia cho mẹ chị ngày xưa , vui thú cùng vườn cây ao cá, như bao người có tuổi khác .

Cuộc sống chị êm đềm, hạnh phúc như bao gia đình an phận bình thường nhưng dù bao năm trôi qua trong lòng Thu vẩn không quên được nổi nhớ về những người em của mình .

Thỉnh thoảng nhìn những tấm ảnh cũ đã úa vàng mà chị lưu giữ như một báu vật, chị lại chảy nước mắt .

Chị khóc khi hồi tưỡng cái khoảng khắc ngày xưa đút cơm cho những đứa em của mình .

Chị nhớ rõ đứa nào thích ăn gì , tính nết ra sao .

Nhớ lúc chạy giởn trong khoảng sân nhỏ cùng nhau giờ không biết họ lưu lạc phương trời nào và có bình an không ?.

Hiểu nổi khổ tâm bao năm của chị Thu các con chị cũng giúp mẹ bằng mọi cách họ có thể .

Từ những phương tiện thông tin hiện đại đến nhờ cả đại sứ quán giúp đỡ , nhưng thông tin qúa ít ỏi và trôi qua nhiều năm nên sự tìm kiếm của họ cũng rơi vào im lặng .

Peter ,Mary và Ann hiện tại cũng đã có gia đình và con cái họ khác xưa hoàn
toàn .

Vốn Việt Ngữ của họ gần như là mất hết , ngoại trừ Mary do làm quản lý ở một hãng có nhiều người Việt nên cô còn nói được chút ít .

Nhưng ba người họ vẩn không quên người mẹ và chị của mình .

Họ về Việt Nam rất nhiều lần nhờ sự giúp đở của nhiều nơi .

Nhắn tin trên báo để tìm kiếm nhưng tất cả vẩn không có tin tức gì ,họ cũng không có nhiều manh mối để mở rộng việc tìm kiếm..

Năm 2010 Peter lúc này đã 48 tuổi nhân dịp nghĩ thường năm anh ta dẩn theo cô vợ người Mỹ của mình là Jessica về Sài Gòn du lịch .

Lần đó khi đang ngồi trên chuyến xe tham quan của một đoàn du lịch chuẩn bị đi đến điểm vui chơi theo lịch trình .

Là người vui tính Peter trò chuyện cùng anh hướng dẩn viên là ngày xưa mình được sinh ra ở Sài Gòn .

Nhắc về kỷ niệm vô tình Peter nói rằng quê ngoại ở Xào Bân bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ.

Có một vị khách lớn tuổi trong đoàn nghe được .

Ông ta nói là ông ta biết một nơi trước kia gọi là Xẻo Bần chứ không phải là Xào Bân .

Đó là một làng nhỏ do dân địa phương tự đặt tên ấy vì có cái rạch nhỏ chảy cắt ngang qua.

Mà bây giờ không còn ai gọi là Xẻo Bần nữa họ gọi bằng tên một thị trấn khác.

Không biết có cái gì xui khiến Peter vội lấy giấy bút ra và nhờ ông ta ghi lại
chính xác nơi đó bằng cái tên hiện hành ngày nay.

Bỏ dở chuyến đi chơi Peter cùng vợ ngược về Sài Gòn tìm đến trung tâm lữ hành du lịch và ngỏ ý muốn thuê một hướng dẩn viên thông thuộc miền Tây để đi đến địa danh mà vị khách lạ cho.

Khi họ đến nơi thì gần như không còn vết tích nào giống trong ký ức của Peter .

Anh ta nhớ ngày xưa phải đi bằng thuyền nhỏ và cây cỏ hoang dại .

Còn nơi anh ta đến ngày nay là thị trấn sầm uất đông đúc xe cộ chạy xuôi ngược .

Thấy vẻ thất vọng của Peter anh hướng dẩn viên cũng không biết làm sao hơn đành cùng người tài xế chở hai vợ chồng ông khách người Mỹ đi loanh quanh cho đúng theo trình tự một chuyến tham quan .

Xe chạy dọc những con lộ nhỏ và anh hướng dẩn viên giảng giải đây là một vùng chuyên về trồng trái cây .

Chợt lúc đó chuông nhà thờ đổ hồi chuông ban trưa thông lệ .

Như có một thứ giác quan mách bảo Peter đòi được đến nơi đó .

Cả nhóm họ rời xe đi bộ trên con đường làng khi đứng trước căn nhà thờ có tuổi thọ gần cả trăm năm được xây từ thời Pháp đô hộ.

Peter gần như là không kèm được sự xúc động bởi anh ta nhận ra đây đúng là quê ngoại mình mà ngày xưa anh được mẹ dẩn về .

Qua bao nhiêu năm nhưng cũng may là cái nhà thờ ấy vẩn không thay đổi hình dáng kiến trúc cũ .

Nhất là cái vị trí nằm ngay ngã ba sông rất đặc biệt .

Peter nhớ một cách rõ ràng như vậy do có một lần khi về quê chị lớn là Thu dẩn em trai mình đến đây chơi .

Đang vui đùa chợt Peter tự nhiên bị chảy máu cam không rõ nguyên nhân khiến Thu hốt hoảng cầu cứu.

Chính một vị ma-soeur hiền lành đã kêu Peter nằm ngay xuống trước sảnh nhà thờ và ngước mặt lên ngay cho máu ngừng chảy .

Trong khi bà đặt chiếc khăn lạnh trên trán của Peter để hạ nhiệt độ.

Theo trong trí nhớ của Peter nhà bà ngoại đi bộ cách đó một đoạn nhưng hướng nào thì anh ta mơ hồ không nhớ nổi .

Vốn nhạy bén sau một hồi suy tính Peter nhờ anh hướng dẩn viên hỏi thăm những
ai nhiều tuổi từng sống nơi đó về người đàn bà có tên Ba Thơm có con gái tên
Thu .

Nhưng già trẻ không một ai biết bởi ngày trước chị ba Thơm chỉ thỉnh thoảng về thăm quê rồi đi .

Số người còn lại họ đến ở nơi đây mới độ hai , ba chục năm thì làm sau biết chuyện ngày xưa cũ .

Thêm nữa ở quê người ta thường gọi theo thứ ít ai gọi tên nên chẳng ai biết người đàn bà mà Peter muốn kiếm là ai .

Cuối cùng Peter chỉ còn cách ghi lại địa chỉ khách sạn ở Sài Gòn nơi mình trú ngụ cùng số điện thoại cá nhân đang tạm dùng trong thời gian ở Việt Nam .

Peter hứa sẽ hậu tạ cho bất cứ ai có tin tức về hai người mình đang cần tìm .

Đúng lúc kẻ ghi người viết thì có một người đàn bà đứng tuổi đi chợ về ngang do tò mò bà ta rẽ đám đông vào xem .

Khi biết rõ câu chuyện bà ta chậm rãi nói:

-Tui biết có chị kia ở cạnh nhà bà sui gái của tui .

Nghe đâu tên của chỉ là Hai Thu mà tui không nghe chỉ có anh chị em chi hết .

Chị mới về đây sống độ mấy năm thôi không biết có phải chị Thu gì mà ông ấy muốn kiếm không ?

Nhà chị ấy tuốt dưới xóm dưới đường hơi khó đi một chút.

Sau khi nghe anh thông dịch nói lại , không bỏ sót một tia hy vọng vào , Peter
vội khẩn khoản bà ấy giúp mình.

Họ chọn ra giải pháp cả nhóm sẽ ngồi ở quán cafe đầu chợ .

Trước là chờ gặp người tên Thu mà người đàn bà ấy vừa nói .

Sau là uống ít nước và nghĩ ngơi tạm bởi vì nhóm họ điều thấm mệt sau hàng nữa ngày trời đi tới đi lui.

Người đàn bà kia thì lên một chiếc xe honda ôm đã được Peter trả tiền tới nhà chị Thu và nhắn chị ấy có người cần gặp ngồi chờ nơi quán nước trước cổng chợ.

Buổi xế trưa , sau bữa cơm chị Thu đang cho mấy con gà ăn trước sân như thường
nhật chợt có tiếng xe honda dừng trước cửa.

Khi nghe nói có ông tóc vàng mắt xanh cần gặp một người tên Thu .

Trước sống ở Sài Gòn và cở bằng độ tuổi của chị vì có chuyện cần , chị hai Thu đã luống cuống tay chân , buông luôn cái thau đựng cơm nguội xuống sân nhà .

Chị không kịp cám ơn người đàn bà tốt bụng mà vội chạy vào lấy cái nón lá và lên tiếng gọi ông chồng mình đang lui cui sau vườn.

Tay chị run rẩy đến nổi không thay nổi cái áo bà ba nên chị mặc nó tròng đôi vào cái áo đang bận .

Chị lập cập không giấu được vẻ hồi hộp của mình khi ngồi lên chiếc xe do chồng mình nổ máy chờ sẳn chạy vội ra chợ.

Ở quán cafe mọi người không dấu được ánh mắt tò mò trước hai vị khách ngoại
quốc đang ngồi chờ như ngóng trông ai đó.

Xe ngừng trước quán chị Thu bươn bả đi vào , đám đông khẽ nhích ra nhường lối cho chị .

Nãy giờ đi ngoài trời chói nắng nên chị lột vội cái nón lá quẳng vô góc để nhìn cho rõ , Peter cũng vội vã đứng lên .

Không cần phải nói hay hỏi han điều gì chỉ cần nhìn mặt Peter chị Thu đã biết đó chính là em trai của mình bởi Peter giống cha anh ta John Simth thuở xưa như tạc .

Chị Thu khóc ngất nói trong tiếng nấc :

-Em ơi ….Phú ơi ….

Cơn xúc động dâng lên cao độ khiến chị Thu loạng choạng như muốn ngất .

Peter vội đở lấy chị mình dìu chị ngồi xuống ghế anh ta cũng khóc khi nhìn gương mặt của chị Thu với những đường nét của mẹ mình ngày xưa.

Nhoài người tới ôm lấy người chị của mình Peter lắp bắp bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu :

-Chị … chị Hai … Phú nè …chị chị Hai

Tiếng chị Thu miếu máo ngắt quãng từng chập :

-Mẹ mong chờ mấy em biết bao nhiêu… hu..hu …mẹ mất rồi em ơi .

Trong khi Jessica vợ của Peter nhẹ đưa cánh tay vỗ vỗ lên lưng chồng mình như
sẻ chia dù cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra cũng như người đàn bà kia nói gì
.

Thì chồng chị hai Thu biết rõ câu chuyện hơn do vợ mình thường kể nên anh cố giấu đi vẻ xúc động bằng cách nói như phân bua:

-Em của vợ tui , chị em ruột ấy thất lạc mấy chục năm rồi không tin tức chi
hết.

Nhìn thấy một ông ngoại quốc cao lớn nắm chặt tay một người đàn bà Việt Nam mãnh
mai miệng chỉ lắp bắp được vài chữ ”chị ơi..”.Một số người trong quán hôm ấy
khẽ lén lau đi giọt nước mắt vừa ứa ra.

*****

Một buổi tối của hai tháng sau .

Nhà chị Thu đèn đuốt mở sáng choang nhiều người đi tới đi lui .

Mấy bà chị thì nhỏ to dưới bếp bên cạnh nồi cháo gà và vài món ăn nhẹ .

Họ lo không biết những ông bà người Mỹ ở nhà trên có ăn được những món ăn Việt Nam không và nêm nếm như vậy có vừa khẩu vị của họ chưa .

Vài người trẻ trong xóm ngồi ngoài mấy cái ghế tre trước hiên của nhà chị Thu .

Đôi ba ông cụ bà cụ lớn tuổi một chút ngồi trong phòng khách cùng chị hai Thu , Peter , Mary và Ann.

Họ tới mừng cho chị khi nghe được tin chị em trùng phùng sau bao năm và tò mò chờ nghe câu truyện có phần hơi ly kỳ của họ .

Bốn chị em của chị Thu ngồi trên bộ di văng nói chuyện với nhau .

Mary còn nói được chút ít tiếng Việt , Peter và thì nhớ được một vài câu xã giao ngọng nghịu .

Riêng Ann thì không nhớ một câu nào , cả ba người họ phải nói qua người phiên dịch đang ngồi trên cái ghế nhỏ cạnh đó .

Chị Hai Thu đưa khăn lên lau nước mắt khi nghe Peter kể sau khi ba chết họ về sống cùng ông bà ở nơi mới .

Đi học Peter hay bị bọn trẻ chọc ghẹo kỳ thị vì là con lai .

Khiến cậu ta đánh nhau đến nổi chút nữa thì bị đuổi học.

Chị lại cười khi Mary nói lúc về Mỹ muốn ăn trứng ấp thảo với cháo trắng như ngày xưa mẹ nấu ở Việt Nam nhưng đành chịu vì không biết cái trứng đó tên là gì.

Bao nhiêu năm Mary luôn cảm thấy tủi thân và không vui khi ai đó hỏi về nguồn cội bởi Mary không biết trả lời họ ra sau.

Ra vẻ ái ngại Ann nhìn họ rồi khẽ nói ,qua người thông dịch rằng :

” Lúc đầu khi nhìn những tấm ảnh cũ ố vàng ngày xưa và nghe anh Peter thông
báo tìm được chị và nhắn thu xếp về gặp nhau .

Cô được một vài người khuyên nên cẩn thận để tránh sự nhầm lẩn thậm chí biết đâu chừng đó là sự giả trá , lường gạt .

Vì khi đi cô là người nhỏ tuổi nhất rồi sống ở môi trường không có người Việt nên ký ức về chị trong cô không còn được rõ nét như hai anh chị mình .

Nên cô thật sự có phần dè dặt ,không tin lắm nhưng trên đường về đây khi ghé qua quán ăn tạm ở dọc đường , chị hai Thu đã ngăn cô lại khi cô định ăn một bát súp.

Chị ấy nói rằng súp đó được nấu bằng tôm mà chị biết rõ Ann từ nhỏ đã dị ứng với đồ biển. Rồi chị nhờ người thông dịch hỏi giúp chị vết sẹo trên đùi Ann có biến mất theo
thời gian không hay là to hơn .

Ann cố ý hỏi vặn lại vết sẹo gì ? Chị Hai Thu nói ngày trước Ann từng bị té vào chậu hoa sau vườn nhà nên đùi có một vết thẹo khá dài , chính chị đã băng lại giúp cô .

Ann đưa khăn giấy chậm nước mắt bằng vẻ bối rối , xúc động cô ngỏ lời xin lổi chị mình vì những nghi ngờ trước đó .

Bởi bây giờ cô đã tin chị thật sự là chị Hai của cô ngày xưa.

Ann hứa với chị khi về Mỹ sẽ cố gắng học thêm ít tiếng Việt để có thể trực tiếp nói chuyện với chị mà không cần phiên dịch .”

*****

Sáng hôm sau khi tia nắng bình minh vừa hiện ra ở chân trời , gió dìu dịu mùi sương sớm .

Trước ngôi mộ của dì Ba Thơm nơi phần đất hương hỏa giữa đồng .

Bốn mái đầu rấm rức khóc và cuối lặng thật lâu .

Trong mùi hương trầm và những bó hoa thơm lan tỏa lãng bãng , tiếng chị hai Thu nghèn nghẹn khấn :

-Má …con dẩn mấy em đến thăm má .Xin má linh thiêng phù hộ độ trị cho chị em
con và xin má an lòng yên nghĩ.

Một ngày cuối chiều ở sân bay , khi tiếng loa thông báo nhắc nhở tên ba vị
khách còn lại của chuyến bay về Mỹ nhanh chóng ra cửa khởi hành .

Vòng tay của chị em họ lại vội vã ôm lấy nhau giữa khóc – cười họ hứa sẽ quay lại sớm vào một ngày nào đó cùng gia đình của mình .

Mary vội nói cùng chị bằng cái âm chưa chuẩn và quơ tay như minh họa cho lời nói:

-Em biết Việt Nam gọi ngày chết là đám giỗ rồi .

Đám giỗ má vào mùng 9 sau tết Việt Nam.

Tụi em sẽ về vào ngày đó hằng năm .

Chị Hai yên tâm giữ sức khoẻ .

Mắt chị Hai Thu vẩn còn đỏ và đầy nước nhưng miệng chị cười tươi .

Chị đưa cánh tay lên lưu luyến vẩy theo dáng những đứa em của mình đang khuất dần sau cánh cửa kiếng
.

Có một dịp tình cờ nào đó sau tết âm lịch trong cái không khí hãy còn Xuân .

Bạn chợt ngang qua một thị trấn nhỏ xinh đẹp thuộc một tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long .

Đi tới cái xóm nhỏ mà địa danh ngày xưa gọi là Xẻo Bần vô tình bạn nhìn thấy một nhóm người trên đường làng hay trong cái quán Phở ở chợ .

Nhóm người đó trung niên có , trẻ có , tây ta lẩn lộn .

Đôi khi cô gái trẻ tóc vàng mắt xanh cao lớn đang cố trọ trẹ học câu tiếng việt từ một cô Việt Nam cũng còn khá trẻ .

Rồi cũng có lắm lúc cô gái Việt Nam nói những câu Anh Ngữ để giải thích sự việc gì đó cho cô gái kia .

Thỉnh thoảng hai người trung niên lại nói tiếng Việt bằng một âm điệu chưa chuẩn lắm làm bà chị của họ bật cười.

Bạn đừng lấy làm ngạc nhiên bởi đó chính là đại gia đình của chị em họ và

con cái thuộc thế hệ kế .

Những người họ khác biệt nhau về ngôn ngữ , chủng tộc , tập quán và ở cách xa nhau nửa quả địa cầu , hàng chục giờ bay .

Nhưng họ có chung một thứ ,đó chính là dòng máu chảy trong huyết quản của họ có sự hiện diện của cái gọi là Ruột Thịt Tình Thân .

Cuối cùng thì tất cả các dòng sông điều trở về biển như một quy luật muôn
đời ….

Song Nhi

Anh Nguyễn Đình Hữu gởi

QUÀ TẶNG GIÁNG SINH CHO MẸ

QUÀ TẶNG GIÁNG SINH CHO MẸ

Andy ngồi trên tuyết, cậu bé thấy lạnh hơn từng giây một. Andy không đi ủng – thứ mà người ta vẫn thường đi trên tuyết vào mùa đông. Cậu bé không thích ủng và dù
sao cậu bé vẫn không có ủng cơ mà. Đôi giày vải, mỏng dính, mòn vẹt mà Andy
đang mang đã có vài lỗ thủng và chúng không thể làm được việc là giữ ấm cho đôi
chân cậu bé.

Andy đã ngồi trên tuyết thật là lâu rồi. Và dù cố đến mấy, cậu bé vẫn không thể
nghĩ ra được món quà Giáng sinh cho Mẹ. Cậu bé buồn bã lắc đầu ” Vô ích
thôi, dù rằng mình có nghĩ ra món quà gì, mình cũng không có tiền mà .”

Từ khi bố Andy mất 3 năm về trước, gia đình cậu bé suy sụp nặng nề. Ban đêm Mẹ
cậu làm việc ở bệnh viện, nhưng với đồng lương ít ỏi chỉ đủ mấy mẹ con sống tạm
qua ngày. Chúng còn nhỏ lắm, chẳng biết có nghĩ ra món quà gì để tặng Mẹ hay
không. Thật không công bằng, bây giờ đã là chiều tối đêm Giáng sinh mà cậu bé
vẫn ngồi đây, chẳng thể nghĩ được điều gì cả.

Chú chùi những giọt nước mắt, Andy đứng dậy đi xuống phố – nơi có rất nhiều cửa
hàng. Cuộc sống thật khó khăn khi mà cậu bé mới 6 tuổi và không có bố, đặc biệt
là khi mà người ta cần một người đàn ông để tâm sự. Andy đi từng cửa hàng này
sang cửa hàng khác, nhìn vào từng cửa sổ rực rỡ một. Mọi thứ đều đẹp và ngoài
khả năng của cậu. Trời đã bắt đầu tối, Andy buồn bã định quay về nhà thì bỗng
nhiên cậu bé nhìn thấy một vật gì đó ánh lên trong tuyết. Andy cúi xuống: 1
đồng xu nhỏ bóng loáng dưới đất. Hẳn chưa ai có cảm giác được giàu có như là
Andy cảm thấy vào lúc ấy.

Khi Andy nắm chặt “kho tàng mới nhặt được ” của mình, cậu bé cảm thấy như có hơi ấm chạy qua cơ thể, và cậu mạnh dạn bước vào cửa hàng đầu tiên, niềm hân hoan của
Andy ngay lập tức bị đóng băng lại khi từng nhân viên bán hàng bảo với cậu rằng
chẳng thể làm gi với đồng xu nhỏ xíu đó. Cậu bé đi ra, nhìn thấy một cửa hàng
hoa, Andy liều đứng lại xếp hàng

Khi người chủ cửa hàng hỏi Andy cần gì, cậu bé đưa một đồng u và e dè hỏi liệu
mình có thể mua được 1 bông hoa tặng Mẹ trong đêm Giáng sinh với đồng xu nhỏ
xíu này không, người chủ cửa hàng nhìn Andy, đặt tay lên vai cậu bé và nói
:” Đợi một chút, con trai, để ta xem có thể làm gì cho con.”

Khi đứng chờ, Andy ngắm những bông hoa tuyệt đẹp và cậu đã hiểu vì sao Mẹ cậu
cũng như bao người phụ nữ khác lại thích hoa đến thế.

Tiếng đóng cửa sớm khi người khách cuối cùng rời khỏi cửa hàng đã đưa cậu quay
về với hiện thực. Còn lại một mình trong cửa hàng, Andy bắt đầu cảm thấy cô đơn
và hoảng sợ. Bỗng người chủ cửa hàng lại đi ra.

Trước mắt cậu bé là 12 bông hồng đỏ thắm, cuống dài, lá xanh cùng với những
bông hoa gì đó trắng, nhỏ li ti, được bọc thành một bó có dây nơ màu bạc. Tim
Andy ngừng một nhịp khi ông chủ cửa hàng đặt bó hoa vào một chiếc hộp trắng và
bảo: “Tất cả là một đồng xu, con trai.”

Andy chậm chạp đặt đồng xu vào tay ông chủ cửa hàng. Không thể là thật được!
Không ai bán cho cậu cái gì với một đồng xu đâu ! Nhận thấy sự băn khoăn trên
mặt cậu bé, ông chủ cửa hàng giải thích: ” May mắn là ta có mấy bông hoa
bán với giá một đồng xu một bó. Con trai có thích không ? ”

Lần này thì Andy không ngần ngại nữa. Ra khỏi cửa hàng, Andy nghe thấy tiếng
ông chủ nói với theo :” Giáng sinh vui vẻ, con trai .”

Khi ông chủ cửa hàng quay vào trong nhà, vợ ông hỏi :”ông vừa nói chuyện và đem hoa cho ai thế ?” Nhìn qua cửa sổ và chớp chớp mắt để ngăn không cho nước mắt trào ra, ông chủ cửa hàng khẽ nói :” Một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Sáng nay, khi
tôi chuẩn bị mở cửa hàng, tôi có cảm giác như ai đang mách bảo mình để sang bên
cạnh 12 bông hoa hồng thật đẹp vì đó sẽ là món quà đặc biệt. Tôi đã nghĩ là
mình đã tưởng tượng ra, thế nhưng tôi vẫn cứ để 12 bông hồng ra một chỗ. Và
ngay lúc nãy, một cậu bé vào cửa hàng và muốn mua hoa để chúc Giáng sinh cho Mẹ
chỉ với 1 đồng xu. Nhìn vào cậu bé, tôi thấy tôi của nhiều năm về trước. Tôi đã
là một đứa trẻ nghèo khổ không biết mua gì cho Mẹ vào đêm Giáng sinh.

Một người qua đường đã cho tôi 10 dolla không vì lý do gì. Khi tôi nhìn thấy
cậu bé tối hôm nay, tôi biết người đã mách bảo tôi là ai….

Tối Giáng sinh ấy, cả gia đình người chủ cửa hàng hoa và cả gia đình Andy nữa,
không ai cảm thấy lạnh chút nào….

Lequangchac sưu tầm

Phan Thiết đêm 22/12/2012

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

ĐÊM LẠNH

ĐÊM LẠNH

MINH DIỆN

* Ông Dương gọi điện thoại mời tôi về quê, chứng kiến lễ khánh thành cây cầu do công ty của ông ấy tài trợ.

– Anh có thể mang theo một tay quay phim? – Ông Dương nói.

– Chúng tôi đi nhờ xe của anh được chứ?

– Được! Nhưng một mình anh thôi!

– Thế còn cậu quay phim?

– Bảo nó đi xe đò! – Dương trả lời với một giọng khô khan, lạnh lùng.

Tôi vẫn biết ông Dương chẳng bao giờ cho nhân viên cấp dưới, hoặc những người địa vị thấp kém hơn mình ngồi vào chiếc xe Mercedes 500 sang trọng.

– Thôi được! Tôi sẽ nói cậu quay phim đi Honda.

Tôi vội vàng mặc quần áo và chạy đến văn phòng công ty Ánh Dương, nơi ông Dương đang làm Tổng giám đốc, sau khi động viên anh quay phim chịu khó đi xe đò hoặc xe
máy.

– Không sao! – Anh quay phim nói – Cháu quá biết tính ông Dương.

Chiếc Mercedes đen bóng đang đậu dưới sân tòa nhà mười một tầng, trụ sở công ty Ánh Dương. Trước kia,  đây là ngôi biệt thự rất đẹp và vững chắc, xây theo kiểu Pháp. Những người tiền nhiệm ông Dương đã từng làm việc dưới tầng hầm ngôi biệt thự giữa những ngày bom B52 của Mỹ rải thảm Thủ Đô. Cách đây hai năm, ông Dương đã cho đập ngôi biệt thự, rồi xây tòa nhà này. Nghe nói chi phí hết hơn ba chục tỷ đồng, nhưng chất lượng không tốt lắm, vì bị rút ruột chia chác nhau, trong đó ông Dương “ăn” phần lớn.

– Chào nhà báo ! – Ông Dương chào tôi khi từ thang máy bước ra,  chìa bàn tay múp míp cho tôi bắt. Ông mặc comple màu sữa, thắt cà-vạt đỏ tươi. Nhìn khuôn mặt bầu bầu và mái tóc mới nhuộm đen nhánh đố ai biết ông đã bước sang tuổi năm mươi chín.

Người lái xe của ông Dương cũng ăn mặc tươm tất. Anh ta tên Hà, đồng hương với vợ ông Dương. Nhờ phục vụ sếp tận tình, lại là đồng hương với vợ sếp nên Hà đã được đề
bạt thêm chức phó phòng hành chính.

– Thưa sếp, đi được chưa ạ?

Hà khúm núm hỏi sếp. Ông Dương xem đồng hồ thấy ba giờ kém mười phút, gật đầu. Một qui định bắt buộc do vợ ông Dương đặt ra là đi kém về hơn. Hằng ngày ông Dương đến cơ quan cũng như những chuyến đi công tác, đều xuất phát lúc kém, về lúc hơn. Hai ngày trước vợ ông Dương và cậu con trai về quê trước chuẩn bị buổi lễ khánh
thành cầu, họ cũng khởi hành lúc ba giờ kém mười…

Hà xách chiếc Sam-so-nai của ông Dương để vào cốp rồi mở cửa xe cho sếp. Dương chỉ chiếc ghế cạnh tài xế cho tôi. Có lẽ Dương sợ tôi không hiểu qui củ nên làm như
vậy. Thực ra tôi cũng biết sự sắp xếp thứ bậc trên dưới trong chiếc xe loại VIP
này. Ghế phía sau người lái là chỗ ngồi của sếp, không ai được đặt đít ngồi ké…

Chiếc xe ra khỏi Hà Nội và lướt êm trên quốc lộ số một. Đang giữa mùa đông lạnh khủng khiếp. Ngồi trong xe nhìn ra, dưới bầu trời xám ngắt, những dáng người liêu xiêu mờ mịt trong mưa phùn gió bấc.

Chiếc xe Mercedes 500 ấm áp và êm ái rộng thênh thang, chỉ có ba người. Ông Dương ngả đầu vào ghế da mơ màng nghe tiếng nhạc du dương. Tôi cảm thấy thương hại anh
quay phim, giờ này đang chen chúc trong xe đò hoặc tự lái xe máy giữa mưa rét.
Anh ta cũng đã biết ông Dương, chẳng bao giờ cho ai địa vị thấp kém đi nhờ xe.
Nói chung, ông ta chẳng thân thiện và muốn giúp đỡ ai bao giờ. Có chăng chỉ là
đóng kịch để phục vụ cho lợi ích của ông ta thôi.

Ngay từ hồi Dương còn rất trẻ, đã là một con người khôn ngoan, ích kỷ và tàn nhẫn. Lúc mới về công ty, Dương tỏ ra rất hiền lành, chăm chỉ và tìm mọi cách lấy lòng ông Tổng giám đốc Đinh. Nhờ vậy Dương được xếp vào diện cơ cấu cán bộ lãnh đạo, được đề bạt rất nhanh. Nhưng mới nhận chức Tổng giám đốc thay ông Đinh buổi sáng, buổi chiều Dưong đã mời ông già khốn khổ ấy ra khỏi căn phòng mà ông tự nguyện nhường cho Dư.

Còn một việc tàn nhẫn và thực dụng hơn mà Dưong đã làm lúc còn trẻ: Dưong yêu cô gái đồng hương, là sinh viên đại học. Cô gái xinh xắn, hiền lành, thông minh và yêu Dưong chân thành. Hai người đã chuẩn bị làm lễ cưới. Nhưng trong một chuyến công tác ở Kiên Giang, tình cờ Dưong gặp Trù, một cô gái dong dỏng cao, có đôi mắt sắc sảo, xấu  hơn người yêu Dưong nhưng  đang là một nhân viên hải quan có tiền. Thế là chỉ sau một tuần tìm hiểu, Dưong đã cùng Trù ra Hà Nội tổ chức đám cưới. Cô người yêu cũ toan tự tử, Dương quỳ xuống xin cô tha thứ. Cô sinh viên bỏ về quê mang theo cái thai, kết quả của mối tình đầu. Cô không tiếc và không muốn nhìn mặt một kẻ tính toán thực dụng đầy ích kỷ.

Tất nhiên đó không phải là chuyện bê bối duy nhất của  Dương. Những vi-la, biệt thự,
trang trại và của cải mà Dưong có từ khi làm Tổng giám đốc công ty Ánh Dương đã
nói lên điều đó.

Hà châm thuốc hút và mở cửa kính phía trước, ông Dư làu bàu:

– Đóng cửa lại! Không thấy lạnh à?

Vừa nói Dương vừa lấy dầu gió xoa bụng, xoa ngực. Tôi cố nín cười vì thói quen kiêng kỵ quá đáng của Dương. Dương kiêng nắng kiêng  gió như đàn bà đẻ kiêng cữ!.
Lúc nào cũng kè kè đủ thứ thuốc. Chả trách có lần Phó tổng giám đốc Ngọc đã
nói: “Tay Dương muốn sống trăm tuổi và dứt khoát không chịu về hưu sáu mươi
tuổi. Hắn muốn húp nước cả cặn!”. Có lẽ Ngọc nói đúng vì Dương đang chạy chiếc
ghế Phó chủ tịch Hội doanh nhân – một tổ chức phi chính phủ có tiếng, có miếng,
lại có thể ngồi đến già.

Dương đã mua mấy cái bắng và mấy cái giải thưởng để lấy tiếng. Hôm nay về quê cắt băng khánh thành chiếc cầu cũng không ngoài mục đích đó.

Trời sập tối. Mưa mỗi lúc một dày hạt. Con đường nhợp nhòa mờ mịt trước ánh đèn pha sũng nước. Vợ Dương gọi điện thoại hỏi chồng đã tới đâu? Ông Dương trả lời:

– Anh đã qua thành phố Vinh. Còn hơn cục cây nữa sẽ tới nơi!Thằng Xuân nhà mình có đó không?

– Nó đi chơi với bạn rồi.

Ông Dương cúp máy, khoe với tôi:

– Thằng Xuân con tôi sau kỳ nghỉ này sẽ quay lại Luân Đôn bảo vệ luận án tiến sĩ đấy.

– Thế à!

– Nó rất thông minh và có bản lĩnh…

– Vâng!

– Con gái ông thứ trưởng Màu rất yêu nó.

– Thế ư? Tôi biết cô bé ấy rất đẹp và ông thứ trưởng Màu rất giàu.
Tương lai ông ta sẽ lên bộ trưởng.

– Đúng vậy!

Bỗng phía trước thấp thoáng bóng người. Hà hãm xe lại. Một người đàn ông đứng giữa đường vẫy tay rối rít. Tôi bấm kính xuống, hỏi:

– Chuyện gì vậy bác?

Người đi đường áp gương mặt ướt sũng vào cửa xe. Đó là một ông già ốm nhom đang run lên bần bật:

– Có người bị tai nạn, xin quý ông chở giúp vô bệnh viện cấp cứu.

– Bác kiếm xe khác. – Hà từ chối.

– Trời mưa rét, không có xe…

– Đợi một chút sẽ có xe!

– Không đợi được nữa mô. Không cầm máu kịp, anh ta chết mất.

Dù đã biết tính ông Dương, nhưng trong tình huống hiểm nghèo của người bị tai nạn giữa đêm mưa rét, đường vắng, tôi năn nỉ ông Dương:

– Giúp người ta một chút anh Dương?

– Không được! – Ông Dương dứt khoát.

Chiếc xe vọt đi bỏ lại ông già chới với…

Gần một giờ sau chúng tôi về đến làng Cẩm, quê ông Dương. Dù mưa gió, rét mướt họ hàng, cán bộ địa phương cùng dân làng vẫn tập trung đón ông Dương. Nhưng ông có vẻ không vui vì vắng mặt cậu con trai yêu. Ông càng sốt ruột hơn khi gọi điện thoại di động cho con không có tín hiệu trả lời.

– Nó đi đâu bằng xe gì? Đến nhà ai? – Ông Dương sẵng giọng hạch hỏi vợ.

– Bằng xe Honda. Đi Vinh!

– Sao không đi ôtô?

– Nó thích thế! Mà sao anh lại quát nhỉ? – Vợ Dương đanh mặt.

Một nửa sự nghiệp của Dương do người đàn bà này tạo nên. Bà ta khi còn trẻ đã hiến
thân  cho cấp trên của Dương đề đồi lấy cấp chức cho Dương.  Bây giờ từ miếng ăn, giấc ngủ và giờ giấc đi lại của Dương  do bà ta chỉ đạo. Trước mặt vợ, Dương luôn dịu dàng, nín thinh, dù thực tế chỉ là diễn kịch. Ông ta ra lệnh cho Hà chạy xe hơi ra Vinh tìm đón con trai.

Hà đi được lúc lâu gọi điện về, báo tin cậu con trai ông bà Dương bị tai nạn giao thông. Bà Dương ngất xỉu.

Không còn thời gian và phương tiện để lựa chọn, anh quay phim sốt sắng lấy chiếc honda chở ông Dương và tôi đến bệnh viện.

Cậu con trai ông Dương lên thành phố Vinh chơi bằng xe honda, được tin bố về quê, anh ta vội phóng xe  đón bố. Vì trời tối, mưa rét nên lao xe xuống vực…

Trước phòng cấp cứu tôi nhìn thấy ông già vẫy tay chặn xe chúng tôi xin đi nhờ mấy giờ trước. Ông chỉ là người tình cờ qua đường gặp người thanh niên rơi xuống vực. Ông già cũng nhận ra chúng tôi, những kẻ đã từ chối không cho ông đưa người bị nạn lên xe. Ông nói với chúng tôi, giọng buồn buồn:

– Cậu ấy chết do mất nhiều máu! Giá lúc ấy các ông cho đi nhờ… đâu đến nỗi!

Ông Dương bước đi loạng choạng, rồi ông ngã dúi vào chiếc xe Mercedes bóng loáng đậu cạnh bức tường bệnh viện. Da ông nhợt nhạt, lưng còng hẳn xuống và mặt xọm đi, như ông lão tám mươi. Ông ôm mặt rú lên khủng khiếp:

– Con ơi!!!…

Tôi đỡ ông Duơng vào xe. Ông run rẩy…

M.D

Anh Nguyễn v. Thập gởi

 

 

RIÊNG MÌNH MỘT TIỆC TẠ ƠN

RIÊNG MÌNH MỘT TIỆC TẠ ƠN

Trong dịp Lễ Tạ Ơn đã qua, Tân một mình ghé quán phở đường Bolsa ăn trưa. Vì đông khách, chủ quán dùng một dãy bàn dài đặt ngay cửa ra vào, coi như bàn chung của những thực khách đi riêng rẽ. Cứ ghế nào trống thì một thực khách được xếp vào, bất kể là ai. Tình cờ, Tân được sắp ngồi đối diện với một bà khoảng ngoài sáu mươi đang ngồi ăn cơm. Tân lịch sự chào bà này trước khi ngồi xuống, xong kêu tô phở như thường lệ.

Nhìn sang phía bà này, Tân lấy làm lạ, sao bà này ăn trưa chỉ có một mình mà sao lại gọi lắm món thế, không giống ai cả. Vốn quen nghề điều tra và thẩm vấn, Tân vui vẻ gợi chuyện:

– Bà thường hay ăn trưa ở đây không?

Bà đáp:

– Lâu lắm mới sang đây, nay ăn bữa trưa cho vui rồi mai về.

Nghe tiếng Huế, người cùng miền, Tân đã hiểu một phần lý do: Người Huế vẫn còn ảnh hưởng tục vua chúa, tuy không ăn uống được nhiều hơn ai, nhưng lại thích có nhiều món trong một bữa ăn, dù nhiều ít. Tân hỏi tiếp:

– Vậy bà không phải người ở đây sao?

Được lời như mở tấm lòng bà đáp:

– Hồi trước tôi cũng có ở Cali , thỉnh thoảng cũng đến đây ăn. Kỳ Lễ Tạ Ơn này sang thăm Cali, sẵn đi lang thang, ghé vào đây ăn một bữa rồi mai về lại Texas.

À, thế Tân mới hiểu thêm lý do: Bữa ăn này coi như “Tiệc Lễ Tạ Ơn” của bà. Từ từ, Tân tiếp:

– Bà thấy vùng này bây giờ có vui không?

Nghe giọng Tân cũng là người miền Trung, hay hỏi và chịu nghe, cảm thấy như thể người thân, bà mới vừa ăn, vừa lai rai nói chuyện như để giải tỏa nỗi lòng u uẩn khôn khuây của mình. Tân chú ý nghe và nhớ, thuật lại đại khái như sau:

Từng đã bị kinh hoàng và may thoát cảnh bị đập đầu chôn sống trong trận Mậu Thân, nên khi Việt Cộng sắp tiến chiếm Huế vào mùa xuân 1975, vợ chồng bà bồng giắt bốn đứa con chạy thí mạng xuống thuyền đói khát, may mắn thoát chết vô đến ở Vũng Tàu. Rồi cuối tháng 4, tiếp đến, lại thuê thuyền ra hạm đội Mỹ, sang Guam, rồi định cư tại Nam Cali này từ hồi 1975. Con cái dần lớn khôn, ăn học thành tài, có công ăn việc làm tốt và đều ra riêng. Vợ chồng bà đều có học thức nên hội nhập vào đời sống Mỹ dễ dàng. Cả hai đều làm cho hãng xưởng kỹ nghệ. Chẳng may bà bị tai nạn lao động thế nào đó và xem như tàn phế, bà được bồi thường số tiền gần vài trăm ngàn, bà đã chia cho bốn người con để chúng làm vốn, đặt trước mua nhà cửa ở vùng Nam Cali.

Sau đó, chồng bà phải theo công việc làm, dọn sang Texas, bà cũng theo sang đó định cư luôn. Lâu nhớ Cali bà cũng muốn quay sang chơi, thăm con cái và gặp lại người quen cũ, dạo nhìn lại những cảnh bờ biển mà bà ưa thích, để gợi lại những kỷ niệm yên bình đầu tiên, khi gia đình bà mới đặt chân trên quê hương thứ hai này. Cũng đã nhiều năm qua, nay nhân dịp lễ Tạ Ơn, ông nhà phải về thăm Việt Nam lo chuyện gia tiên mồ mả. Ở nhà một mình buồn, bà ra sân bay, đứng chầu chực, đáp được chuyến bay từ Texas về Cali chơi và ghé thăm mấy người con.

Đầu tiên bà đến nhà người con trai út. Cậu này chưa vợ. Nhà cậu thường có bạn gái đến chơi. Nay sợ có bà ở đó làm mất tự do, sợ bạn gái phiền, nên cậu ta không muốn tiếp bà. Cậu khéo léo khuyên bà đến ở với các anh chị sẽ thuận tiện hơn, thêm lý do cậu bận việc không tiếp và lo cho bà được.

Bà đến người con trai áp út, nhà ở trên đồi sang trọng, nhưng cách trở khu Little Saigon nơi bà muốn lui tới, thêm nữa bà không hiểu vợ chồng anh này nghĩ gì và làm gì, cứ lái xe đi cả ngày, về đến nhà thì ngủ, không nói gì đến bà, không màng lo chuyện cơm nước gì cả, cứ để mặc bà thui thủi một mình, không hề hỏi đến. Quán xá thì xa, không ai đưa đi, đường xe buýt bà chưa rõ. Bà thấy nhà sang trọng nên cũng ngán, cái gì bà cũng không dám sờ vào vì sợ hư hỏng hay nhớp nhúa, con dâu sẽ phiền. Nhà cửa trên đồi nhìn xuống thung lũng rất đẹp, cuối thu trời gió lạnh, nhưng không mở sưởi điện, sưởi gas nào hết. Bà hỏi thì được cho biết lò sưởi hư. Bà thấy cảnh này vừa lạnh trên thể xác, vừa lạnh trong tâm tư nhiều hơn, và nghĩ đi Lễ Tạ Ơn sum họp mà cảnh này quá buồn. Cảm thấy con và dâu không muốn tiếp mình, nhưng chẳng lẽ chờ chúng đuổi đi. Một mình ở nhà, bà gọi taxi đến nhà người con gái lấy chồng Mỹ.

Đến đây, người con rể Mỹ thấy bà mang bị đến, chỉ nhìn bà và “Hi” một tiếng, rồi tỉnh bơ coi như không có bà. Con gái bà biết ý chồng, không muốn khách khứa nhà quê quấy rầy. Nhà chỉ có ba phòng ngủ, cũng chỉ đủ cho vợ chồng cô ấy và hai con mỗi đứa một phòng. Để bà ở chung phòng với cháu, sợ bà già cả, sụt sùi lây bệnh nên cô tìm cách thoái thác, bảo bà rằng vợ chồng cô và hai đứa cháu sắp sửa đi nghỉ mát ở Big Bear trượt tuyết và khuyên bà nên tạm sang ở với người anh trưởng. Xong lấy xe chở bà thả trước sân căn nhà lầu của người con trưởng, lớn rộng cả gấp đôi căn nhà trung bình.

Lâu ngày gặp lại mẹ, thay vì vui  mừng, mời mọc chở bà đi chơi hay hàn huyên tâm sự, hỏi thăm chuyện người này người khác, hoặc sắp đặt chỗ ăn ở cho bà một cách thân tình, nhưng chỉ sau một tuần trà nước với vài chuyện qua loa, vợ chồng người con trai cả trách bà: “Mạ muốn sang chơi, sao không hẹn trước để chuẩn bị. Nhà còn một phòng trống nhưng cô em vợ đã gọi điện thoại đặt chỗ trước cả 2 tuần rồi, tối nay từ New York cô ấy bay sang. Vợ chồng con đã hứa dành sẵn cho cô ấy ở đây nghỉ trong dịp lễ Tạ Ơn này một tuần, vậy đâu còn phòng nào cho mạ ở. Vậy phiền mạ sang ở với mấy em con”.

Nghe thế, bà bối rối vài phút. Lấy lại bình tĩnh, bà nói không sao để má chơi đây một lát rồi má đi. Dạo thăm sơ, sau trước căn nhà, rồi bà nói đỡ gượng: “Ờ con gọi giùm cho mạ chiếc taxi mạ đi”. Thấy bốn người con đều không ai muốn tiếp đón mình, bà bảo taxi đưa đến một motel ở vùng Little Saigon và bà được nơi đây đón nhận nồng ấm. Rồi từ hôm đó, bà đi lông bông dạo chơi xem thiên hạ mua sắm, ngắm cảnh trí vùng Nam Cali, thăm vài bà bạn cũ rồi về motel nghỉ. Trưa nay đến quán này, bà gọi bồi bàn dọn cho bà một “Tiệc Tạ Ơn” giữa những quán khách xa lạ ồn ào. Rồi mai bà sẽ sayonara California, giữa trời cuối thu tê tái, cũng có thể là lần sau cùng.

Nghe bà vừa ăn vừa kể, với một giọng Huế nhẹ nhẹ buồn buồn, khiến Tân cũng buồn lây, nhớ đến câu thơ của người xưa: “Cùng một lứa bên trời lận đận. Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau” (Tỳ Bà Hành) nên tìm lời an ủi bà ta, bằng cách nói:

– Tỵ nạn sang ở xứ này, phần nhiều là vậy, hơi đâu mà bà buồn, cũng do mình một phần là không lấy hẹn trước mà thôi. Nhiều người còn gặp trường hợp trầm trọng hơn bà nữa, nhưng người ta không nói ra vì sợ xấu hổ mà thôi. Phần đông cũng có ít nhiều gặp hoàn cảnh như vậy, bà nên tỉnh bơ đi chỗ khác chơi cho vui rồi mai về.

Bà than: – “Ra đi là kể như chìm biển đông mà”.

Tân phụ hoạ: – Sau bao năm chiến tranh, bom đạn, chạy giặc qua biển cả hiểm nguy, bà còn sống sót đến bây giờ tại Mỹ là vui rồi. Hơi nào mà buồn. Miễn sao bà được mạnh giỏi và minh mẫn là tốt, còn mọi thứ khác, sao cũng được thôi.

Nghĩ bà cũng rành chuyện xưa, Tân nhắc lại vài chữ trong câu đối đáp của danh sĩ Ngô Thời Nhậm với Đặng Trần Thường:

– “…Thời thế thế, thế thời phải thế.”

Và tiếp: – Mỗi nơi đều có phong tục và văn hóa khác nhau, có khi hoàn toàn trái ngược là chuyện bình thường. “Thanks” mà bà đã “giving” rồi thì còn gì mà “thanks” nữa, nên là hết “thanks” rồi, đừng nghĩ đến nữa. Người da đỏ đã chào mừng và giúp người da trắng, người da trắng đã quay lại đàn áp người da đỏ. Bà cũng như người lái đò, đưa người qua sông rồi thôi, mấy người ngoảnh lại mà nhớ kẻ lái đò. Người đi nhờ thuyền chùa vượt sông biển, đến nơi không cảm ơn người chủ thuyền, còn lấy ơn làm thù, hăm dọa, chửi thề vung vãi để trả công cũng là chuyện đã có.

Nghe và nói đến đây, tô phở cũng đã ăn xong, Tân vội chào từ giã, lại quày trả tiền và bước ra khỏi quán, rộng chỗ cho những khách đang chờ. Trên đường lái xe đi, suy nghĩ về chuyện bà này, Tân nhớ đến chuyện mình lúc trước, bỏ quê, tay trắng đến Sàigòn mưu sinh, kiếm một chỗ cư trú thật rất khó khăn. Nhưng sau nhiều năm, Tân đã có một căn nhà, nhỏ hơn cái garage chứa 2 xe của mỗi nhà Mỹ ở vùng này. Nhưng bà con xa gần, quen biết ở quê, mỗi lần đến Sàigòn, vì bất cứ công việc gì, họ đều ghé trọ lại năm ba ngày. Có khi một lúc đến mười mấy người, mà vẫn có đủ chỗ ngủ nghê, cơm nước. Tân không lấy đó làm phiền mà còn lấy làm vui vì được dịp hân hạnh gặp lại thăm họ và giúp đỡ cho họ khỏi phải tốn kém và thường khi còn chở họ ra quán xá đãi đằng. Tân còn nhớ một người đồng hương, chồng làm thợ hồ, vợ gánh nước mướn ở Sàigòn lúc trước, nhà cửa bằng nửa cái garage nhà Mỹ, chật chội nhưng lúc nào khách từ quê đến cũng có thể tạm trú, cơm nước được mời mọc miễn phí. Còn ở California này, những căn nhà mới thường rộng hơn cái đình làng ở
quê ta, nhưng chỉ thêm một, hai người ở tạm vài hôm lại không được, đó cũng là
một nét tương phản, nhất là ở giới chuyên môn, khá giả. Khiến Tân bâng khuâng
suy nghĩ về hai thái cực: Một bên là chỗ nghèo chật, lại rộng lòng. Còn ở xứ này lại trái ngược: chỗ ở giàu rộng, nhưng hẹp lòng. Âu cũng là một khía cạnh khác về nước Mỹ. Lớp trẻ được cha mẹ sống chết khó khăn đưa sang Mỹ, chưa hề tiếp xúc với hoàn cảnh gian nan, đói khổ, chật vật ở Việt Nam nên không hiểu được tình tương trợ đùm bọc, rất khó tính và rất cá nhân vị kỷ.

Nhật Quang, 2005

“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

Thì hãy chôn, trái tim non buồn thương.”

(Paul Simon/Scarborough Fair- Giàn Tiên Lý Đã Xa)

(Lc 21: 25-26)

Lúc tan ánh mặt trời”, giờ đã đến! “Trái tim non buồn thương”, thì hãy chôn! Ôi thôi. Phải chăng đó là giờ phút anh “lấp đất”, “hố tôi”, “giàn thiên lý đã xa mãi người ơi”? Người xa mãi, cứ tít mù lời đồn đại, về thế tận? Phải chăng ý/lời bài hát trên là lời “tiên tri”, “hạ hồi sẽ rõ”? Rõ như ban ngày. Như, ngày thế tận có thông tin dồn cục ở trang mạng?

Trả lời câu hỏi này, cũng nên tóm tắt vài bản tin đọc được ở Úc rất như sau:

“Tại sao thế giới không tận tuyệt ngày hôm ấy?

Vâng. Đó, chỉ vì mấy ông bạn làm lịch người sắc tộc Maya đã tính sai những tháng ngày còn dài, có thế thôi. Nhưng, chuyện này vẫn không ngăn cản cơ quan NASA của Hoa Kỳ vừa cho ra đĩa hình đặc biệt cho thấy lời tiên tri trên lịch của dân Maya, nước Mexicô đã không thành hiện thực.

Làm sao hiện thực được, khi ở đầu đĩa đã thấy ghi lời phân trần, như sau: “Xem đĩa, bạn sẽ thấy rõ một điều là: ngày hôm qua, thế giới của ta chưa đi vào “ngõ cụt”, tựa hồ ngày tận thế đâu. Đĩa hình nói ở trên chỉ muốn chứng tỏ một điều là: hành tinh
Nibiru được biết dưới tên “Sumêrian” sẽ đụng vào trái đất, xoá sạch sự sống của
mọi sinh vật ở đây. Nhưng sự thực, làm gì có hành tinh nào giống như thế.”

Lại có lời đồn này khác, cứ đưa ra những lời đoán rất bậy bạ những bảo rằng: Mặt trời sẽ hủy hoại trái cầu của chúng ta, cũng chóng thôi. Nhưng, một lần nữa, may cho con người, là đã có cơ quan NASA cũng chứng minh rằng điều này vẫn sai tuốt luốt. Chuyên gia Lika Guhathakurta lại cứ đoán già đoán non rồi bảo:

Ngay lúc này, mặt trời đang đi vào giai đoạn chóp đỉnh của chu kỳ 11 năm vần vũ vẫn cứ quay, nhưng nay là giai đoạn chót có hiện tượng kỳ lạ nhất trong 50 năm qua.”

Nói thế, có nghĩa là: từ trường mặt đất, lúc này đây, sẽ đi ngược chiều khiến cấu tạo nhiều biến động về khí hậu cực kỳ khó chịu? Và, hành tinh ta đang sống có rơi vào hố sâu đen ngòm mà trước đây ta chưa từng thấy? Cơ quan NASA một lần nữa lại nói tiếng“Không”, rất chắc nịch. Ts John Carlson cắt nghĩa trong đĩa hình rằng: “Ý niệm về thời gian mà sắc dân Maya khi xưa sử dụng đã đụng phải ý niệm của các nhà khoa học ngày nay, kiểu thoái hoá. Theo hiểu biết của ngành khoa học hiện đại,
thì Vụ Nổ Big Bang đã xẩy ra cách nay những 13,7 tỷ năm trời, rồi còn gì. Thế
nhưng, tháng ngày được ghi trong đống tro tàn mảnh vụn của nền khoa-học dân-tộc
Maya lại thấy những tháng ngày ngược ngạo đến tỷ tỷ năm xưa hơn thế. Lịch của
sắc dân này bới những cân-đong-đo-đếm như thế chỉ để dõi theo khoảng cách sai
biệt quá xa vời đối với hệ thống viết nên lịch chưa từng triển khai khi nào.
Thành thử, như quý vị thấy đó, chẳng có cái-gọi-là tận thế hay tận mạng gì hết
cả. Đấy chỉ là ý niệm vẩn vơ tương đương với chuyện quên không lấy lại đồng hồ
báo thức, chỉ thế thôi.”
(x. au.news.yahoo.com/world/a/-/world/15636301/why-didnt-the-world-end-yesterday 14/12/2012)

Thật đúng như phim tập! Phim, là phim về sự sống trên hành tinh mang tên địa cầu,
cũng rất rầu. Thế nghĩa là một số bà con ta hết chuyện để bàn rồi, bèn chui vào
địa hạt khoa học không gian với khoa chiêm tinh/bói toán rồi đồn rồi đoán. Đoán
thật hay đoán giả thế nào không biết, nhưng cũng đã làm nhiều người bấn loạn
lên, hết tự tử, rồi lại bắn giết các trẻ bé ở trường Mẫu giáo nọ, đến nực cười.

Thế nhưng, chuyện đáng cười của người đời không chỉ là đoán già đoán non ngày
thế tận. Mà là, những ý tưởng vẩn vơ, chết chóc, tựa hồ lời thơ với ca nhạc như
nghệ sĩ nọ vẫn từng hát:

“Tội nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà.


Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa.


Đứa bé lỡ yêu, đã lỡ yêu cô em rồi.


Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi.”

(Paul Simon – bđd)

Quả là, mỗi sớm mai im lặng trôi, tình quên thật. Người cứ mải quên sót mọi thứ
tình, để rồi luận bàn mãi những điều ít thấy, ít xảy ra. Chẳng thế mà, đấng bậc
nọ đã phải lên tiếng cả trong nhà thờ, qua bài chia sẻ rất nổi cộm như sau:

“Cuối năm 1999, dân chúng khắp nơi chừng như vẫn hối hả, ưu tư khi thế giới đang từ từ bước dần vào những ngày đầu của thiên niên kỷ mới. Có người dựa vào Phúc âm, để quyết đoán rằng: ngày thế tận đã gần kề. Và, Đức Kitô nhất định sẽ quang lâm giáng thế một lần nữa, vào ngày sinh thứ 2000 của Ngài.

Những ai quả quyết chuyện này, xem ra đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ mà các cụ ngày xưa vẫn dặn dò: hãy luôn đặt mình vào tình huống xấu nhất, để rồi từ đó mình mới tự tìm cách thoát ra, mà đi vào chốn lạc quan, đầy ân huệ. Thật ra, Đạo Chúa đã bước vào chốn lạc quan niên lịch từ thế kỷ thứ tư, sau công nguyên. Đúng hơn, đấy là năm 526 tại La Mã, tu sĩ uyên bác tên là Dionysius Exiguus đã dày công nghiên cứu các niên biểu ghi rõ ngày Đức Giêsu sinh ra, tử nạn và sống lại để biên
soạn làm niên lịch cho Hội thánh.

Nhiều năm sau, ông đã định ngày cho các nghi lễ phụng vụ để rồi đúc kết thành một bộ gọi là lịch Hội thánh. Với các dụng cụ sơ sài tự kiếm, một thày dòng chuyên tu như thày Dionysius làm được niên lịch Hội thánh như thế, cũng là chuyện phi thường, hiếm thấy. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các nguồn sử liệu bên ngoài và nhất là vào Tân Ước, khi kể về các vị cầm quyền Do Thái và La Mã ở Palestine, thì dứt khoát là lịch của Dionysius đã đi trễ, những 4 năm.

Đến năm 1582, Giáo hội biết rõ những sơ hở này, đã định sửa đổi. Tuy nhiên nếu sửa, thế giới sẽ phải bỏ phí đi, mất 4 năm. Chung cuộc, đã có quyết định là ta cứ để vậy. Như thế, tính đúng thực tại, phải thừa nhận rằng ngày Đức Giêsu quang lâm, lẽ đáng phải là năm 1996, chứ không phải 2000, như số dân con nhà Đạo từng khẳng định. Thêm một thực tế khác nữa, là: mỗi khi bắt đầu kỷ nguyên mới, tín hữu Đạo Chúa lại  được nghe kể về điềm thiêng dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao, tinh tú. Rồi đến, thiên tai hạn hán mất mùa, động đất sóng thần, cứ liên tục
xảy đến. Và, người dân ngoan hiền ở quận huyện lại sẽ cho rằng: ngày Chúa tái
lâm đã gần kề. Tuy nhiên, rõ ràng là ta vẫn chờ. Và, vẫn cứ chờ.

Nếu ai muốn xác minh về điềm báo khốc liệt như thế, có lẽ nên nhớ lại lời dặn dò của Chúa hôm trước: “Các con chẳng thể biết được thời gian và nơi chốn khi Con Người đến trong vinh quang.” Chính vì lời dặn này, mà cộng đoàn thánh Luca nghĩ rằng Đức Kitô sẽ nhanh chóng quang lâm, trong tương lai gần. Ngài sẽ đến lại trong huy hoàng, lộng lẫy. Thời gian vẫn cứ trôi. Điềm báo, dấu hiệu vẫn cứ đến. Và, cộng đoàn tiên khởi lúc đó mới vỡ lẽ rằng: ngày Chúa quang lâm không mang mốc chặng thời gian và không gian gì rõ rệt hết.

Thực tế cho thấy: thời gian và không gian luôn thuộc về Ngài. Hy vọng đợi chờ từ nơi tín hữu thời ban sơ đã phản ảnh tình huống bách hại, những là khổ đau. Tín hữu Đạo Chúa nay đà hiểu rõ: chẳng thể tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô một khi hành vi, cuộc sống của mình không phản ảnh được sự sống ở Nước Trời, Ngài hằng nói đến. Đó là mấu chốt của niềm tin. Đó mới là mốc chặng của Tin Mừng mặc khải.

Nói rõ hơn, nếu tín hữu Đạo Chúa sống và thực hiện điều Đức Kitô truyền dạy nơi Tin Mừng, bằng và qua cuộc sống thường nhật, thì chắc chắn thế giới này cần phải đổi thay. Thế  giới này sẽ có thay đổi. Thay đổi rất nhiều. Thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và khi đó, Đức Kitô mới quang lâm trong huy hoàng lộng lẫy, như mọi người chờ mong.

Cho đến nay, chưa nắm rõ được ngày giờ thế giới nhân trần đã đi vào giai đoạn tận tuyệt chưa. Nhưng ở đây, vào những giây phút đầu của niên lịch Hội thánh, ta biết rõ được hai điều: Đức Chúa sẽ trở lại bất cứ lúc nào khi ta thực hiện được tình yêu thương – tha thứ. Khi ta biết san sẻ tài sản ta có. Và, biết xót xa, độ lượng. Biết hy sinh cho những người có nhu cầu hơn ta. Thứ đến, vào ngày quang lâm Ngài đến lại, có thể sẽ không có hiện tượng mặt trời mặt trăng quay cuồng, nhảy múa. Và có thể,
cũng chẳng thấy hiện tượng thủy triều dâng sóng ngút ngàn, đâu. Và cuộc đời ta
vẫn cứ phẳng lặng. Vẫn trĩu nặng tình thương yêu, như trước.

Thực tế Nước Trời quang lâm đang diễn tiến. Quang lâm chính là lúc tình yêu dũng cảm của bậc cha mẹ đối xử với con. Quang lâm, là lòng thương yêu triển nở của vợ hoặc chồng đang diễn tiến với người phối ngẫu yếu đau.

Quang lâm còn là, lòng cảm thương yêu giúp đỡ của thế giới đã phát triển đang đùm bọc các quốc gia nghèo, thuộc thế giới thứ ba. Đại để là, mỗi khi ta có được những tình thương cao cả như thế, thì Vương quốc Nước Trời đã nguy nga, tráng lệ đủ để chứng minh rằng những điều Đức Giêsu loan báo về việc Ngài quang lâm, vẫn đến với chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ. Ở mọi nơi, vào mọi lúc.” (xem Lm Richard Leonard, Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C 02/12/2012 Bản Tin Giáo xứ Fairfield, Úc)

Có thể là bà con ta cứ mải bàn luận những chuyện tréo cẳng ngỗng như thế là do
hiểu không hết ý nghĩa của lời thánh hiền khi xưa từng viết:

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao.

Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang

trước cảnh biển gào sóng thét.

Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc,

chờ những gì sắp giáng  xuống địa cầu,

vì các quyền lực trên  trời sẽ bị lay chuyển.”

(Lc 21: 25-26)

Hiểu sự đời như thế, có khác nào người nghệ sĩ lại cứ viết:

“Này! Nàng hỡi nhớ may áo cho người.


Giàn Thiên lý đã xa tít mù khơi.


Tấm áo cắt ngay, đã cắt trên khăn lụa là.


Là, chiếc chăn đắp chung những ngày qua.”

(Paul Simon – bđd)

Chăn đắp chung, những ngày qua”, có phải là những tư tưởng buồn sầu ảo
não, vì tin vào ngày chấm hết của thế giới? “Giàn thiên lý đã xa tít mù khơi”,
phải chăng là cõi đất trời nay, tít mù tắp?

Để giải đáp, lại xin nghe những lời của đấng bậc thượng thừa, rất như sau

“Anh chị em có bao giờ về thăm nông trại nào đó vào một mùa hè nóng bỏng không? Nếu có, chắc anh chị em cũng có kinh nghiệm không ít về chuyện khan hiếm nước, như thế nào. Bản thân tôi, có nhiều dịp từng về quê thăm nông trại của ông chú ruột. Lúc ấy, chúng tôi gồm chừng 6, 7 người anh em họ, phần đông sống ở thị thành, về đây lưu lại sống trọn kỳ nghỉ. Một lần về là một lần thấy vui. Duy có điều mà chúng tôi cứ nhắc nhau mãi: phải cẩn trọng, khi sử dụng nước! Dường như, chúng ta quen sử dụng lượng nước tắm gội bao giờ cũng gấp đôi dung lượng của người anh em sống ở vùng sâu vùng xa, nơi thôn xóm.

Tôi nhớ mùa hè năm ấy ở miệt dưới, bà con chúng ta đã phải trông chờ hầu như suốt chín tháng trời ròng rã vẫn không thấy một giọt rơi vãi những nước mưa. Mãi về sau, vào buổi bóng xế hôn hoàng hôm đó, chúng tôi mới thấy cảnh “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Và, từng đám mây vần vũ từ đâu đến. Chốn thiên đàng như rộng mở. Và sau đó, từng khối và từng khối nước ào ào trút xuống đến độ chúng tôi không biết
lấy gì để hứng. Tựa như một hoạt cảnh, anh em chúng tôi vụt dậy chạy nhanh ra
đứng ngồi nơi lộ thiên, quyết vui hưởng ơn mưa móc tràn đầy những nước và nước.
Chẳng một ai muốn cất nên lời. Anh em chúng tôi, đứng đó tận hưởng những giọt
vắn giọt dài, đầy ân sủng. Mình mẩy chúng tôi ai nấy đều ướt sũng như chuột
trong hang ngập nước, nhưng vẫn cứ đứng mà đón nhận ơn mưa móc. Vạn vật, chừng như chỉ mong mỗi một điều là được triền miên tắm gội, toàn bằng nước .

Trong thư thánh Giacôbê tông đồ, hình ảnh mong chờ cơn nước lũ đổ xuống trên ta, được coi như ví dụ để hiểu rõ thế nào là sự chờ đợi ngày Đức Kitô đến lại. Đây, là hình ảnh sắc nét nhất, về Vọng chờ. Mỗi năm, vào mùa này, ta đều liên tưởng đến cảnh trí, qua đó nhân loại ao ước chờ mong dấu hiệu về cuộc sống mới, nơi Giêsu Đức Chúa.

Nhiều thế hệ cứ thế trôi qua, nhưng dân con nhà Đạo vẫn ngước mắt nhìn lên bầu trời rộng mở, ngong ngóng/kỳ vọng có được dấu hiệu nào đó cho thấy: hôm nay là ngày ơn cứu độ của Đức Chúa đổ tràn hồng ân, cho muôn dân. Thế rồi, vào buổi tối trời hôm ấy, theo cách thức không ai có thể mường tượng được; không kèn không trống, một Hài Nhi đã lao vụt về với thế giới gian trần, để lập nên triều đại cuối cùng, cho tình yêu của Đức Chúa.” (xem Lm Richard Leonard sj, Suy Niệm Lời Chúa , Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng năm C, Bản Tin Giáo xứ Fairfield Úc 16/12/2012)

Nói gì thì nói, bàn gì thì bàn, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cũng chỉ nên bàn bằng các câu truyện kể nhè nhẹ về tình yêu, hy vọng và niềm tin còn đứng vững như sau:

“Ngay từ khi lọt lòng mẹ, bác sĩ đã quả quyết rằng Kimberly Marshall không thể nào sống được. Bé bị chứng Cytic Fibrosis, một chứng bịnh bẩm sinh và di truyền mà người ta thường gọi tắt là CF. Trong sự tuyệt vọng để cứu sống con mình, mẹ của Kim đã mang bé về nhà, mỗi ngày ba bốn giờ, bà và bà ngoại của Kim đã thay phiên nhau vỗ nhẹ trên lưng và ngực của bé, với hy vọng mong manh là có thể làm tan đi những cục đờm đang đóng nghẹt trong phổi của bé. Một bác sĩ chuyên khoa về CF cho biết, diệt trừ những cục đờm bằng cách này, chẳng khác gì dùng chổi để quét mật ong trên sàn nhà.

Ngoài sự dự liệu của mọi người, bé Kimberly đã thoát được lưỡi hái của tử thần. Bé lớn lên và vào trường tiểu học.

Kim còn học vũ ballet và gia nhập đội soccer của trường. “Kìa nhìn xem công chúa của tôi” mẹ của Kim thường hãnh diện nói như vậy, mổi khi bà đứng bên lề sân cỏ để xem Kim đá bóng.

Bà vẫn mơ ước là Kim sẽ lớn lên bình thường nhưng những đứa trẻ bình thường khác. Bà mơ ước rằng Kim sẽ lên trung học, sẽ tham dự buổi khiêu vũ cuối năm lớp 12, và một buổi tối sẽ ngẩng mặt lên để đón nhận nụ hôn đầu của một chàng thanh niên đẹp trai.

Nhưng bác sĩ Robert Kramer, vị bác sĩ chuyên khoa về CF đầu tiên tại Dallas, đã nhiều lần khuyến cáo mẹ của Kim là cô bé chỉ tạm thời lướt thắng được cơn bịnh mà thôi. Giống như một tên sát nhân nguy hiểm, các bác sĩ chưa có phương cách để ngăn chận được CF. Mặc dù với nền y khoa hiện đại cùng thuốc men và máy móc tối tân, cũng chỉ giúp các bệnh nhân dễ chịu hơn, ít đau đớn hơn mà thôi. Tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân CF chỉ ở vào khoảng 29.

Ðúng như lời của bác  sĩ Kramer, sức khoẻ của Kim tự dưng tuột dốc như một cái phao bị xì hơi. Mẹ của Kim, không còn cách nào hơn, bắt buộc phải mang Kim vào bệnh viện Presbyterian tại Dallas để chữa trị. Và cứ như vậy, Kim chỉ khoẻ được vài tháng, rồi lại phải vào bệnh viện…, lại khoẻ vài tháng rồi lại vào bệnh viện.

Trong những lần phải nằm bệnh viện, Kim luôn luôn mang theo những con thú nhồi bông, cái chăn màu  hồng mà cô bé thích nhất, cùng quyển nhật ký thân yêu. Mỗi khi chứng kiến một bạn cùng phòng bị CF cướp đi mạng sống, Kim lại viết vào nhật ký của mình, chẳng hạn như: “Wendy đã chết vào lúc 8 giờ sáng nay. Tội nghiệp nó quá. Nó đã đau đớn suốt đêm”. Mẹ của bé đã nghĩ thầm “Có lẽ đây là cách Kim
chuẩn bị cho những gì có thể xảy ra cho cô bé trong tương lai chăng?”.

Trong một thời gian, Kim đã cố gắng sống như một đứa trẻ “bình thường”. Cô thường hay gọi những đứa trẻ may mắn không bị chứng CF là “bình thường”. Trong những năm ở trung học, Kim đã cố gắng để lấy điểm A hay B. Cô mặc áo đầm dài để che giấu đôi chân gầy guộc, khẳng khiu của mình. Khi những bạn học hỏi về những cơn ho không dứt của cô, thì Kim trả lời rằng cô bị hen suyễn. Cô cũng chở những
bạn gái khác trên xe hơi của mình, cũng bấm còi inh ỏi, cũng vẫy tay chào và
cười duyên với bọn con trai cùng trường.

Nhưng Kim vẫn không thể lừa dối được thực tế. Bộ tiêu hoá của cô đặc nghẹt những đờm, khiến cô bị đau bụng và tiêu chảy. Thần kinh bị xáo trộn nên Kim đi đứng không vững. Ðôi khi Kim cũng bị hoa mắt.

Cuối cùng, cuối năm lớp 12, Kim phải rời trường để học tại gia vì sức khoẻ của cô quá yếu. Trong một phút nản lòng, Kim đã từ chối không muốn hình của mình được đăng trong kỷ yếu của trường, viện cớ là cô quá ốm yếu và xấu xí. Chán chường, Kim trở nên gắt gỏng với mọi người và hay cãi cọ hoặc xung đột với em gái của mình. Ðể giải sầu, Kim xem đi xem lại bộ phim “Blue Lagoon” không biết bao nhiêu
lần. Bộ phim nói về cuộc đời của hai đứa trẻ, một trai một gái, bị đắm tàu và
sống bơ vơ trên một hoang đảo. Cuối cùng, hai người đã yêu nhau tha thiết.

David Crenshaw, một bệnh nhân CF, đã để ý đến Kim khi hai người còn điều trị tại bệnh viện Presbyterian vào mùa xuân 1986. Kim, ở tuổi 16, ốm và xanh xao nhưng không thiếu nét dễ thương với mái tóc đỏ ngang lưng, buông xoã trên chiếc áo ngủ
hồng. David, lúc đó 18, mặc áo thun rộng thùng thình, quần pajama bạc màu, mang
cặp kiếng cận to tổ bố với hai gọng kính gãy được dán lại với nhau bằng miếng
băng keo.

“Ðừng hy vọng con bé để ý đến mày”, Doug Kellman, người y tá trong bệnh viện thường trêu David như vậy mỗi khi bắt gặp David đang mê mẩn nhìn trộm Kim. Thật tình mà nói, khó có thể tưởng tượng được David và Kim sẽ trở nên một cặp tình nhân. Kim thích quần áo đắt tiền, nước hoa và mỹ phẩm. Cô thích ngồi hằng giờ trên giường để đọc tiểu thuyết tình cảm. Trong khi đó, David nổi tiếng thích lấy le với
những cô gái bằng những mầu chuyện vui tục tằn.

Trông có vẻ yêu đời và khoẻ mạnh, David là một huyền thoại của khu CF. Không một bệnh nhân nào thuộc khu CF dám làm những việc David đã làm. Chẳng hạn như khi David không phải nằm bệnh viện, anh rất thích đua xe hơi mini tại sân đua gần nhà. “Mục đích của chúng tôi là giúp cho David sống như một đứa trẻ khỏe mạnh. May ra nhờ vậy, nó có thể lướt thắng được căn bịnh hiểm nghèo này”, ba của David đã nói như vậy.

Ðúng thế, David không  bao giờ biểu lộ cho người khác biết là mình bị bệnh. Anh đã tổ chức cuộc đua xe lăn và cuộc thi ném cà chua trên từng lầu 3 của bệnh viện. Có một đêm, David đã dẫn một số bệnh nhân CF đi đua xe mini, trong sự giá lạnh của mùa đông với nhiệt độ bên ngoài xuống gần 0 độ bách phân. “Có lẽ hắn nghĩ rằng hắn bất tử”, bác sĩ Kramer thường đùa như vậy.

Trong suốt hai năm  trời, David thường đi qua cửa phòng của Kim, lấy can đảm vào phòng, tán tỉnh. Nhưng Kim chỉ mỉm cười rồi lại cắm cúi đọc sách. Nhưng David chẳng nản lòng. “Khi David được ở nhà trong khi Kim phải ở lại bệnh viện, David thường hay gọi điện thoại cho tôi để hỏi han bệnh tình của Kim, mặc dầu Kim chẳng bao giờ để ý đến David. Ngay cả những khi David hỏi giờ, Kim cũng không thèm đáp lại”, người y tá cho biết như vậy.

Một điều ngạc nghiên, rất nhiều mối tình đã được kết hợp trong khu CF. “Ðừng nghĩ rằng chỉ vì họ bệnh hoạn mà họ không nghĩ đến tình yêu”, bác sĩ Kramer nói như vậy, “Có lẽ họ nghĩ đến tình yêu còn nhiều hơn những người khoẻ mạnh. Ðó là một
cách để họ biểu lộ sức sống và sự yêu đời của họ cho mọ người biết”.

Vào cuối năm 1988, Kim  chơi thân với một bệnh nhân cùng khu CF tên là Steven. “Tôi không nghĩ mối tình của họ sẽ bền vững. Họ sợ phải sống với nhau”, David khẳng định như vậy. Ðúng như lời David, cuộc tình của Kim và Steven chỉ một sớm một chiều đã tan vỡ.

Cuối mùa thu năm 1989, khi David và Kim, cả hai cùng được dưỡng bịnh tại tư gia, David đã gọi điện thoại mời Kim đi ăn tối. Mặc dù Kim đã quyết liệt từ chối, David vẫn lì lợm bảo Kim “Anh sẽ có mặt tại nhà em vào lúc 8 giờ tối, không nhưng không nhị gì hết cả”. Hoảng sợ, Kim rủ theo cô em gái, Pettri, để cô em ngồi ghế trước
với David còn nàng thì ngồi băng sau, nhất định không thèm nói chuyện với
David. Suốt bữa ăn, Kim hoàn toàn im lặng.

Nàng đã trợn mắt lên với David khi anh đề nghị cả ba cùng đi khiêu vũ. Khi David đưa Kim về đến nhà, nàng mở cửa xe và chạy một mách thẳng lên phòng, đóng kín cửa lại.

Dù vậy, David vẫn không bỏ cuộc, lì lợm, trường kỳ mặt dày đến nhà Kim. Thế rồi anh đã rủ được Kim đi chơi bowling. Sau đó, Daivid còn dẫn Kim đến sân đua để xem anh đua xe hơi mini.

Bất kể mọi chuyện, cuối cùng mối tình của David và Kimberly cũng đã nảy nở. Kim đã thật sự yêu David. Ngày 17 tháng 11 năm 89, Kim đã viết vào nhật ký của mình “Ðêm hôm nay, mình và David đã hôn nhau lần đầu. Lạy Chúa, xin chúc phúc cho mối tình của chúng con và xin cho chúng con yêu nhau mãi mãi”.

Sáu tháng sau, Kim và David tuyên bố làm lễ đính hôn. Tin được tung ra làm tất cả mọi người trong gia đình hai bên đều sửng sốt và bàng hoàng. “Tụi mày điên cả rồi, cả hai đứa bay đều bệnh hoạn”, ba của David đã lớn tiếng ngăn cản con. Riêng mẹ của Kim cũng khuyên ngăn con bằng một giọng đầy nước mắt “Con có biết rằng một
trong hai đứa sẽ chết trong vòng tay của đứa kia hay không?”.

Nhưng Kim và David vẫn quyết định lấy nhau. “Tôi nghĩ Kim biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để nó được yêu”, mẹ của Kim cuối cùng đã nói như vậy và đã đồng ý tán thành cuộc hôn nhân.

Ngày 27 tháng 10 năm 1990, Kim trong chiếc áo cưới trắng tinh, sung sướng bước lên cung thánh, trước mặt Thiên Chúa nhận David làm chồng. Thánh lễ được cử hành trong những tiếng ho sặc sụa của các bệnh nhân khu CF. Tất cả được mời đến để tham dự, chứng kiến và chung vui ngày hôn lễ của Kim Marshall và David Crenshaw.

Họ chung sống với nhau bằng số tiền cấp dưỡng khiêm nhường trong một căn hộ nhỏ bé nhưng rất ấm cúng. Căn hộ được trang bị như một bệnh viện với những bình dưỡng khí, một tủ đầy thuốc và một tủ lạnh chứa đầy nước biển.

Việc dọn dẹp nhà cửa mới thật là khó khăn. Những khi phải dọn dẹp hoặc giặt giũ, họ phải mất cả ngày trời mới làm xong việc. Ðến tối, cả hai đều mệt lả. Dầu vậy, họ là cặp vợ chồng hạnh phúc nhất trên đời. David gọi Kim là “cọp con” vì nàng có mái
tóc hung đỏ.  Kim gọi Daivid là “gấu rừng” vì chàng phá như gấu. Chàng luôn luôn mua cho nàng những tấm thiệp ướt át nhất, càng ướt át bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Nàng luôn luôn viết cho chàng những bức thư tình thật dài, thật nồng nàn và tình tứ. “Chúng ta sẽ vượt qua mọi thử thách. Chúng ta sẽ thắng”, họ thường quả quyết với nhau như vậy.

Ðể kiếm thêm tiền tiêu vặt, David nhận thêm việc sửa xe hơi mini. Anh lại còn ghi tên học để lấy bằng Cử nhân về kế toán. Một người bạn thân ở khu CF khuyên David không nên phí sức. “Những việc tôi làm tất cả chỉ vì Kim. Ðời tôi bây giờ chỉ có Kim mà thôi”, David trả lời.

Vào năm 1992, những mạch máu trong người Kim bắt đầu tắt nghẽn. Vì cơ thể Kim không thể tiếp nhận những dinh dưỡng từ bộ tiêu hoá, Kim đã xuống cân một cách thảm hại. Thân thể nàng chỉ còn da bọc xương. Nàng rất xấu hổ khi tới những nơi công cộng. David đã viết cho Kim “Này cọp con, em là người đẹp nhất của đời anh. Anh yêu em bằng tất cả con tim, linh hồn và khối óc củ anh. Gấu rừng”.

Trong những lần Kim phải nằm bệnh viện, David không rời Kim nửa bước. Anh đã ngủ trên chiếc ghế bố kê trong phòng. Ðể giúp Kim khuây khoả, David đã đưa Kim đến khu sơ sanh, để Kim được ngắm những đứa trẻ mới chào đời. Và nếu nửa đêm Kim có đòi ăn kẹo, David chẳng ngần ngại, bất kể thời tiết, khoác áo đi mua ngay những viên kẹo mà Kim ưa thích. Lạ lùng thay, sức khoẻ của Kim càng ngày càng khá hơn. Cuối cùng, nàng đã được bác sĩ cho xuất viện.

Ðầu năm 1993, bệnh tình của David bỗng dưng trở nên trầm trọng. Những tiếng ho của anh lớn hơn. David ôm ngực ho từng cơn, ho sặc sụa. Những cơn ho như muốn phá vỡ tung lồng ngực của anh. Mặt David sưng lên như bị phù thủng. Dần dần, David đã phải thở bằng dưỡng khí. Nhưng David vẫn đoan chắc với Kim là chàng chẳng sao cả, chỉ cần tĩnh dưỡng ít lâu là sẽ khỏi. David đã giấu Kim những điều mà bác sĩ Kramer đã cho anh biết trong kỳ khám nghiệm mới đây: phổi của anh đã rách nát, thanh quản sắp nghẹt cứng. David đang chết lần, chết mòn vì thiếu dưỡng khí.

Chạy đua với thời gian, David không để lãng phí một giây phút nào. Tháng 7 năm 1993, để kỷ niệm sinh nhật thứ 26 của chàng và thứ 24 của nàng, David rủ Kim đi nghỉ hè ở bãi biển Florida. “Ðó là lần đầu tiên họ cảm thấy rất thoải mái khi ra khỏi
nhà để tới vùng biển. Cả hai đều mang theo bình dưỡng khí. Họ ngồi bên nhau,
nắm tay nhau trên bãi cát vàng”, Mandy, em gái Kim cho biết như vậy.

Ba tháng sau, David và Kim cùng đi khám bệnh. Trong khi Kim đợi ở phòng bên, bác sĩ Kramer, sau khi khám cho anh, đã nói với anh rằng “Anh phải nhập viện ngay tức khắc, lần này sẽ hơi lâu”. David trầm ngâm một hồi lâu, rồi nói “Xin bác sĩ tận tình chăm sóc cho Kim”.

Bác sĩ Kramer đến phòng Kim và cho nàng hay tin chẳng lành. Kim cúi đầu yên lặng, cố giấu hai hàng nước mắt “Xin bác sĩ tận tình giúp anh, đừng để anh phải đau
đớn”, nàng nức nở khẩn nài với bác sĩ Kramer.

Trong suốt ba mươi năm chuyên khoa về CF, bác sĩ Kramer đã từng chứng kiến hơn 400 bệnh nhân trẻ qua đời. Ðể khỏi bị ám ảnh, ông đã cố gắng không để tình cảm mình bị chi phối với những trường hợp như của David. Nhưng lần này, ông đã ôm Kim vào lòng và ông không sao cầm được nước mắt của mình.

David nhập viện ngày 21 tháng 10 năm 1993. Kim ngồi bên cạnh anh. Nàng đã cố gắng viết một bức thư cho Hội Ðồng Y Khoa của bệnh viện Presbyterian, khẩn nài xin họ thay phổi cho David. Nhưng Kim không bao giờ viếc xong lá thư.

Năm ngày sau, môi và móng tay của David trở nên bầm tím. Kim thổn thức bên anh “Anh ơi, đừng đi, đừng bỏ em”. David không nói nên lời, chỉ mấp máy đôi môi “Anh
yêu em”, rồi chàng gởi cho nàng một nụ hôn gió. Hai người cầm tay nhau
thật chặt, nhìn nhau một lần cuối thật lâu. David bóp mạnh tay Kim rồi nhắm mắt
yên giấc ngàn thu.

Sau ngày tang lễ của David, Kim trở nên điên loạn. Một tuần sau, mẹ nàng đưa nàng trở lại bệnh viện. Sau khi khám cho nàng, bác sĩ Kramer nói với mẹ nàng “Cơ thể của nàng đã kiệt lực. Kim đang chết mòn vì nhớ thương David”.

Rồi Kim rơi vào trạng thái nửa tỉnh, nửa mê trong hai ngày. Bỗng nhiên, vào sáng sớm ngày 11 tháng 11 năm 1993, Kim trở nên tỉnh táo lạ thường. Nàng mở mắt và nói bằng một giọng rất lạ, nhẹ nhàng như tiếng chim mà không ai hiểu nổi. Người nữ y tá chăm sóc nàng cho biết hình như Kim đang nói chuyện với David. Sau đó, Kim từ từ nhắm mắt, bình thản ra đi về bên kia thế giới.

Kim được liệm trong chiếc áo cưới trắng và được chôn bên cạnh David. Trên ngôi mộ đôi, dựng một tấm bia đá, với những hàng chữ được khắc sâu như sau “David S (Gấu rừng) Crenshaw và Kim (Cọp con) Crenshaw, bên nhau mãi mãi. Nghĩa phu thê trọn 3 năm”.

Gia đình và bạn bè đều đồng ý là chuyện tình của Kim và David không giống bất cứ một chuyện tình nào cả. Riêng bác sĩ Kramer đã tâm sự “Ðối với tôi, chuyện tình của họ như chuyện tình của Romeo và Julliette”.

Một tuần lễ sau, trong lúc mẹ của Kim thu dọn đồ đạc của hai con, bà đã tìm thấy một tấm thiệp mà David đã gởi cho Kim trước khi chàng rời bỏ thế gian. Tấm thiệp có những lời tình tự như sau “Em yêu, chúng ta gần nhau ngay cả khi chúng ta xa nhau. Hãy ngước mắt nhìn lên, chúng ta đang sống trong bầu trời đầy tinh
tú.”
(x. Trần Quốc Sỹ, theo “The Love Like No Other” Reader’s Digest, May 1995)

Truyện kể hôm nay, người kể không ghi thêm một lời bàn nào hết. Nhưng bàn thêm
mà làm gì. Bởi, cũng như câu chuyện về ngày sau hết của thế giới, cũng chẳng
cần bàn tán nhiều mà làm gì, chỉ cần cảm nghiệm là đủ. Cũng thế, truyện kể về
tình yêu thương, trước khi đi vào cõi hết, cũng đại để như truyện kể về ngày
thế tận.

Hôm nay đây, bàn về câu chuyện loanh quanh ngày thế tận, lại có người đến gần
bần đạo, đưa ra một câu hỏi nhỏ: “Nếu anh biết rằng ngày mai là ngày
thế tận, thì anh tính sao?”
Bần đạo nhớ mang máng câu trả lời/trả vốn
của mình chỉ thế này: “Khi ấy tôi cũng sẽ lấy giấy bút ra để viết đôi giòng
phiếm ngăn ngắn về những cảm nghiệm của mình trước khi không còn có khả năng để cầm bút mà viết nữa. Và chuyện phiếm tôi viết khi ấy, cũng chẳng có gì để ai
đọc, vì chẳng còn ai để đọc nữa, nhưng vẫn còn người để viết, ấy là tôi.”


Trần Ngọc Mười Hai


Và đôi giòng tưởng tượng về ngày tận cùng
của thế giới và cuộc đời.

Maria Thanh Mai gởi

Tình yêu chân thực

Tình yêu chân thực (Nhận xét của một bác sĩ)

Vào khoảng 8 giờ rưỡi một buổi sáng bận rộn, một ông cụ tuổi ngoài tám mươi đến để người ta rút chỉ khâu vết thương trên ngón tay cái của ông. Ông cụ nói ông vội lắm vì ông có cái hẹn lúc 9 giờ.

Thấy ông cụ có dấu hiệu nôn nóng tôi mời ông ngồi. Tôi biết sẽ phải mất hơn một tiếng đồng hồ nữa trước khi có ai đó có thể chăm sóc cho ông. Tôi nhận thấy ông bồn chồn nhìn đồng hồ và tôi quyết định xem xét vết thương của ông vì lúc ấy tôi không bận gì với bệnh nhân nào khác.

Theo chỗ tôi thấy, vết thương của ông đã khá liền miệng. Thế nên tôi bảo một
trong các bác sĩ mang dụng cụ đến để tôi tháo chỉ và băng lại cho ông ta. Trong
khi tôi chăm sóc vết thương cho ông cụ, hai chúng trôi trò chuyện với nhau. Tôi
hỏi chắc ông có hẹn đến khám nơi một bác sĩ khác hay sao mà vội thế. Ông cụ nói
không, và ông bảo rằng ông cần đến nhà dưỡng lão để ăn sáng cùng với vợ
ông.

Tôi hỏi thăm về sức khỏe bà vợ ông. Ông nói vợ ông đã ở trong viện dưỡng lão từ
lâu rồi vì bà là nạn nhân của bị bệnh Alzheimer (mất trí nhớ).

Tôi hỏi thêm, ông đến hơi trễ chắc bà ấy bực mình lắm nhỉ? Ông đáp rằng bà có
còn nhớ ông là ai đâu, và từ năm năm nay bà không còn nhận ra ông nữa! Tôi ngạc
nhiên hỏi: “Vậy mà sáng nào ông cũng đến đó dù bà ấy không còn nhận ra ông
sao?”

Ông cụ mỉm cười vỗ nhẹ lên bàn tay tôi: “Bà ấy không biết tôi, nhưng tôi vẫn
còn biết bà ấy là ai mà.”

Tôi đã phải cầm nước mắt khi ông cụ bước đi. Cánh tay tôi nổi da gà và tôi
nghĩ: “Đó là thứ tình yêu mà suốt đời tôi mong muốn có”. Tình yêu chân thực
không vì vật chất, cũng chẳng [cần phải] mang tính lãng mạn gì. Tình yêu chân
thực là sự chấp nhận tất cả những gì đang hiện hữu, đã có hay đã không có, sẽ
có hay sẽ không bao giờ có [nơi người mình yêu].

On True Love (a Doctors observation):

It was approximately 8.30 a.m. on a busy morning when an elderly gentleman in
his eighties arrived to have stitches removed from his thumb. He stated that he
was in a hurry as he had an appointment at 9.00 a.m.

I took his vital signs and had him take a seat. I knew it would take more than
an hour before someone would to able to attend to him. I saw him check his
watch anxiously for the time and decided to evaluate his wound, since I was not
busy with another patient.

On examination, the wound was well healed. Hence, I talked to one of the
doctors to get the supplies to remove his sutures and redress his wound. We
began to engage in a conversation, while I was taking care of his wound. I
asked him if he had another doctor’s appointment later as he was in such a
hurry. The gentleman told me no, and said that he needed to go to the nursing
home to have breakfast with his wife.

I inquired about her health. He told me that she had been in the nursing home
for a while as she was a victim of Alzheimer’s disease.

I probed further and asked if she would be upset, if he was slightly late. He
replied that she no longer knew who he was, and that she had not been able to
recognize him since five years ago.

I asked him in surprise, “And you still go every morning, even though she
doesn’t know who you are?”

Then he smiled as he patted my hand and said, “She doesn’t know me, but I
still know who she is!” 😉

I had to hold back my tears as he left. I had goose bumps on my arm, and I
thought, “That is the kind of love I want in my life.” True love is
neither physical, nor romantic. True love is an acceptance of all that is, has
been, was not, will be, and will not ever be…

Anh Nguyễn V.Thập gởi

 

VÔ CẢM

VÔ CẢM

MINH DIỆN

Chuyên có thật 100%


Trời bừng sáng sau cơn  mưa đêm… Bầu không khí tươi mát ùa vào căn phòng trực cấp cứu của bệnh viện.  Cô y tá trẻ mặc bộ blue trắng nhận ca trực, cô vừa lật cuốn sổ ghi chép của  ca trước vừa sửa lại bình hoa tươi trên bàn. Hai má cô ửng hồng, đôi mắt long  lanh và làn môi xinh tươi như hoa hồng mới nở.
Cách đó không xa, ông  bác sĩ tuổi trung niên ngồi trước bàn làm việc của mình, mỉm cười nhìn dòng  chữ “Thầy thuốc như mẹ hiền” uốn bằng đèn huỳnh quang màu đỏ tươi rực rỡ vừa  mới sắm.
Bỗng một chiếc xe gắn  máy phóng thẳng tới cửa phòng cấp cứu. Gã lái xe mặt mày bậm trợn, ngồi sau  là cô gái mặc mỗi chiếc áo nịt, phấn son nhòe nhoẹt. Cô ta đang ôm một thằng  bé chừng mười tuổi được quấn trong cái áo khoác phụ nữ loang máu.
Gã lái xe giật thằng bé  trên tay cô gái rồi bồng vào trong phòng, nói với cô y tá:
– Bác sĩ ơi cấp cứu!…
Cô y tá rời mắt khỏi  cuốn sổ:
– Sao vậy?
– Thằng bé bị tai nạn giao thông!
– Anh là bố nó à?
– Không, tôi lái xe ôm…
– Thế còn cô kia?
Cô y tá liếc mắt về phía cô gái ăn mặc hở hang đứng ngoài cửa rồi bĩu môi cau mặt! Nước mưa đã cuốn trôi lớp son phấn rẻ tiền trên mặt cô ta để lộ ra lớp da nhợt nhạt. “Trông chẳng khác gì gái điếm đứng đường mạt hạng. Vào nơi công cộng mà dám phô ra như thế à!?…” -Cô y tá nghĩ. Quả thật cô gái mặc áo ngực ấy là một gái điếm nghèo, sáng sớm nay cô đang đi xe ôm của gã kia về phòng trọ thì gặp thằng bé bị tai nạn nằm ngất bên đường. Chiếc xe nào đã quẹt phải nó rồi bỏ chạy luôn. Thương hại, cô cởi áo khoác quấn cho thằng bé rồi cùng anh xe ôm đưa nó đến đây.
Gã xe ôm bối rối liếc qua cô gái, ấp úng trả lời cô y tá:
– À! Cô này…
Cô y tá xinh đẹp không thèm nhìn hai người, cất giọng lạnh lùng:
– Sang bên kia làm thủ tục nhập viện.

Gã xe ôm đặt thằng bé xuống thềm, rồi chạy sang dãy nhà đối diện. Người bảo vệ chỉ cho gã cái lỗ hình vuông bằng hai bàn tay trên tấm kính dày, chung quanh bịt lưới sắt. Gã khom lưng nhìn vào trong ô vuông đó, thấy gương mặt hồng hào của người nữ nhân viên ngồi sau chiếc bàn chất đầy sổ sách. Gã nhũn nhặn:
– Chị ơi, cho tôi làm thủ tục nhập viện…
Người phụ nữ không ngẩng mặt lên, nói máy móc:
– Tên gì? Hộ khẩu? Chứng minh nhân dân?…
– Dạ… thằng nhỏ mà!…
– Thằng nhỏ à?… Anh là gì của nó?
– Tôi lái xe ôm… Thấy nó bị tai nạn nên chở tới đây.
– Rắc rối đây! Sao anh không gọi bố mẹ nó tới làm thủ tục nhập viện?
Gã xe ôm nói lắp bắp:
– Tôi đâu biết bố mẹ nó… Với lại gấp quá! Cấp cứu mà!
– Thôi được! Nộp tiền tạm ứng viện phí.
– … Bao nhiêu chị?
– Hai triệu.
Gã xe ôm ngẩn ra, hắn biết trong túi mình có chưa tới hai trăm ngàn. Gã móc hết tiền ra rồi nói với chị nhân viên:
– Tôi chỉ có bi nhiêu…
Chị làm ơn cho thằng bé nhập viện, rồi tôi sẽ tìm bố mẹ nó tới thanh toán.
– Không được! Anh không biết bố mẹ nó thì làm sao mà tìm?
– Chị làm ơn… Thằng bé sắp chết!…
– Đã bảo không được! – Chị nhân viên gắt, cộc cằn máy móc – Bệnh viện đã quy định.

Gã xe ôm đành chạy trở lại lại phòng cấp cứu, hỏi cô gái điếm:
– Cô có tiền không?…
Cô gái khẽ quay đi, moi trong chiếc áo nịt ra mấy tờ bạc được xếp cuốn chặt rồi đưa cho anh xe ôm. Anh ta mở ra: Chưa tới trăm ngàn!…
– Bi nhiêu nhằm nhò gì?
– Anh xe ôm lắc đầu cau mặt.
Mặt anh xe ôm xám ngắt, mắt đỏ ngầu, hai hàm răng nghiến chặt của anh ta như muốn nhai nát cái gì đó… Cô gái điếm nhìn bộ mặt cau có của anh ta mà phát sợ, nói như phân trần:
– Đêm qua mưa… tôi không có khách…

Thằng bé nằm dưới thềm kêu khóc thảm thiết. Nhìn nó thật thê thảm: Chiếc quần đùi rách tướp để lộ ra cẳng chân dập nát, da thịt chỗ đó bầy nhầy. Máu vẫn chảy từ vết thương chưa được băng bó. Da thằng bé bợt nhớt như con cá ươn, ngực thoi thóp và đôi mắt long lanh đảo nhìn mọi người như cầu cứu. Trong túi áo ngực của nó còn thò ra xấp vé số ướt nhẹp.
Gã xe ôm nhìn thằng bé mà ứa nước mắt. Gã chợt quỳ mọp xuống trước mặt ông bác sĩ, hai tay cầm mấy tờ bạc cô gái điếm vừa đưa đội lên đầu:
– Tôi lạy bác sĩ! Bác sĩ làm ơn cứu thằng bé!…
Khuôn mặt đen sạm của gã xe ôm méo mó khổ sở. Ông bác sĩ ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhịp nhịp chân phải…

Gã xe ôm biết có quỳ xin cũng không được. Gã đứng dậy nói với cô gái điếm:
– Thôi được! Cô trông thằng bé, để tôi đi cầm đỡ chiếc xe vậy.
Cô gái điếm lau nước mắt:
– Hay anh… để em qua phòng bên kia… bán máu?
Gã xe ôm nhìn lướt qua thân hình gầy gò của cô gái, lắc đầu:
– Cô thì có bao nhiêu máu mà bán? Chưa chắc họ đã chịu mua…
Gã nói xong hấp tấp chạy ra cửa bệnh viện.

Lúc ấy phòng cấp cứu tiếp nhận thêm mấy bệnh nhân: Một cô gái tự tử vì thất tình, một anh chàng say rượu bị trúng gió và một người đàn ông bị nhồi máu cơ tim – ông này được đưa tới bằng xe hơi Mercedes kèm hai Honda @ hộ tống. Người thân của ông nhà giàu đứng chật phòng cấp cứu. Bà vợ mập mạp của ông ta nhanh nhẹn dúi vào tay bác sĩ và cô y tá mỗi người một phong bao:
– Tốn kém bao nhiêu cũng được, bác sĩ mau mau cứu sống chồng tôi.
Ông bác sĩ vội vã rời cái bàn như bị bắt vít từ sáng, cô y tá cuống quýt đẩy băng ca… Ông bệnh nhân “đại gia” được đưa thẳng vào phòng chăm sóc đặc biệt không cần qua thủ tục nào.
Trong khi đó, thằng bé bị bỏ quên ngoài thềm cùng cô gái điếm.

… Ánh mặt trời rực rỡ chiếu xuống sân bệnh viện. Ba lá cờ phấp phới tung bay trên đỉnh cột thép không rỉ, trên cùng là cờ đảng,giữa là cờ tổ quốc và dưới cùng là cờ bệnh viện với hình con rắn mổ cái cốc thủy tinh. Cuộc chào cờ buổi sáng thứ hai của cán bộ nhân viên bệnh viện vừa kết thúc. Người thân của những bệnh nhân nghèo kéo nhau tụ tập dưới chân cột cờ để nhận cơm, nhận cháo từ thiện của một sư bà mang tới.
Đang múc cơm cháo cho mọi người, sư bà bỗng nghe tiếng kêu rên của thằng bé từ phòng cấp cứu vọng ra. Bà ngừng tay lắng nghe… tiếng kêu rên càng lúc càng rõ hơn… Bằng tâm thức của một người tu hành, sư bà thấu hiểu tiếng kêu tuyệt vọng của một sinh linh. Bà vội trao công việc phát cơm cháo cho người khác rồi chạy tới.

Thằng bé đã kiệt sức, mắt nhắm nghiền… Cô gái điếm bất lực ngồi bên cạnh. Sư bà cúi sát xuống khuôn mặt trẻ thơ trắng bệt:
– Nam mô A Di Đà Phật!…
Thằng bé mở mắt nhìn bà sư, nước mắt nó ứa ra. Sư bà nhìn chiếc áo phụ nữ vấy máu, rồi liếc qua cô gái ốm yếu ăn mặc hở hang phong phanh… Bà hiểu ngay sự tình, liền quay lại chỗ phát cơm cháo từ thiện, nói với mọi người:
– Thưa quý vị! Trong kia có một đứa trẻ đang hấp hối vì không có tiền nhập viện. Tôi biết quý vị ở đây cũng không giàu có gì…
Sư bà chỉ nói được như vậy. Những người nghèo khó lại có trái tim nhạy cảm – họ hiểu ngay điều sư bà muốn nói và việc cần làm. Thế là chiếc vung nồi cháo từ thiện biến thành thùng công đức…
Vừa lúc đó gã xe ôm trở về, mặt mướt mồ hôi. Gã đã cầm được chiếc xe gắn máy là cần câu cơm của gia đình, phải năn nỉ mãi mới được triệu rưỡi, cộng với số tiền của gã, của cô gái và lòng hảo tâm của nhiều người nghèo, may quá được hơn hai triệu! – Đủ ứng tiền nhập viện cho thằng bé.
Mọi người thở phào nhẹ nhõm, ngồi quây quần bên nhau ở góc sân chia nhau húp những bát cháo từ thiện.
Bỗng cô y tá xăm xăm đi tới nói với gã xe ôm:
– Thằng bé cần phải tiếp máu. Nhóm máu O…
– Trời! – Gã xe ôm thốt lên! Thẩn thờ đặt bát cháo đang húp dở xuống nền gạch…
Bầu không khí như chết lặng trước tình huống bất ngờ. Cô gái điếm bỗng lên tiếng:
– Máu O à!?… Tôi nhóm máu O!…
Nói xong, cô nhanh chóng theo y tá vào phòng hiến máu. Gã xe ôm cũng vội vã bước theo…

Nửa giờ sau gã xe ôm dìu cô gái điếm ra. Trên gương mặt nhợt nhạt của cô hé nở nụ cười.

Minh Diện
Anh Nguyễn v. Thập gởi

__._,_.___

Truyện Rất Ngắn

Truyện Rất Ngắn

“VỢ CHỒNG

Mỗi lần đi du lịch, anh thường bật cười trước tính nhút nhát của chị.

Xe qua đèo: sợ

Lên núi cao: sợ

Biển sóng lớn: sợ

Những lúc như thế, anh thường ôm lấy chị, vỗ
về:

– Đừng sợ, đã có anh ở đây. Can đảm lên em!

Công ty phá sản!

Từ cương vị giám đốc, anh quay về với 2 bàn tay trắng.

Anh suy sụp, hốc hác.

Chị ôm anh vào lòng, xoa xoa mái tóc:

– Đừng tuyệt vọng, anh còn có em mà.

Can đảm lên anh nhé!”

Cái bóng

Ông luôn phàn nàn về cuộc hôn nhân sắp đặt sẵn mà gia đình dành cho mình. Ông
chê bà ít học, chẳng tương xứng với sự lịch lãm của ông. Mọi việc ông thường tự
quyết, chẳng coi bà vào đâu. Bà tồn tại bên ông như cái bóng lặng lẽ trong cuộc
sống chung có nhiều thăng trầm.

Một ngày, bà nhẹ bỏ ông sau một cơn bạo bệnh. Ông ra vào ngẩn ngơ như thể đang
kiếm tìm. Nhà thiếu bà, ông mới thấy rõ những khỏang trống. Ông nhận ra sự lịch
lãm cũng chẳng tạo nên được một gia đình nếu thiếu đi sự hy sinh

Ăn cơm

Thằng Tèo ngồi tiu nghỉu. Tựa lưng vào cây trứng cá bên hông nhà, thỉnh thoảng
nó giơ tay gạt nước mắt.

Không biết chuyện gì? Cả buổi sáng nay ba má nó liên hồi ẩu đả. Bỏ ông táo lạnh
tanh. Giờ mỗi người mỗi góc.

Rồi cuộc chiến lại tiếp tục. Từ võ ba càng chuyển sang võ miệng. Bỗng má nó lớn
giọng :

– Ông ăn chả, tôi ăn nem. Mặc xác ông!

Đến đây, cái bao tử thúc giục, Tèo tham chiến :

– Con không thèm ăn thứ đó, con chỉ muốn ăn cơm thôi!”

Chiếc đài

Theo bạn bè, cô đòi bằng được bố mua cho chiếc đài nghe nhạc. Đưa cô ra hàng đồ
cũ, ông chọn cho cô chiếc đài rẻ tiền nhất nhưng với hy vọng nó là cái tốt
nhất. Hai tháng sau, đài hỏng.

“Bố chỉ ham đồ rẻ, không mua đồ tốt cho con. Tại sao bố lại keo kiệt
thế?” cô phụng phịu

“Con muốn biết thì đứng đón bố ở cửa” mẹ cô gợi ý

Từ hôm đó, ngày nào, cô cũng đứng trước cửa đợi. Ngày nào ông cũng đi về với
cùng một chiếc quần cũ sờn màu.

MÙA CÁ BÔNG LAU

Quê tôi ở ngã ba sông Vàm Nao, nơi nổi tiếng có nhiều cá bông lau. Dầu vậy, giá
cá ở đây cũng không phải rẻ.

Đến mùa, thi thoảng má mua một khứa cá nhỏ nấu nồi canh chua để cả nhà cùng ăn.
Thường anh chị em tôi nhường phần cá cho má. Má nói cá tanh, thích rau hơn.

Cậu ở thành phố xuống đòi ăn chua cá bông lau má nấu. Cậu chạy mua con cá to.
Đến bữa không thấy má gắp cá. Cậu bảo:”Hồi xưa chị thích nhất món cá này?”.

Tôi thấy má tôi bối rối.

Lời mẹ

Con đi học xa. Mẹ dặn:

– Cuộc sống ở trọ không như ở nhà. Từ nay con phải tự lo cho mình.

Chị lấy chồng. Mẹ lại bảo:

– Sống bên nhà chồng chẳng khác gì ở trọ. Con phải biết cách làm đẹp ý gia đình
chồng. Có như vậy, cuộc sống của con mới được hạnh phúc.

Thời gian trôi, con ra trường. Con không còn ở trọ mà trở về bên mẹ. Con cảm
thấy vui vẻ và ấm áp hơn.

Còn chị, chị xa chồng, cũng về với mẹ. Nhưng chị không còn tươi tắn như ngày
nào. Mẹ nhìn chị khẽ thở dài.

Dấu chấm hỏi

Ngày đầu tiên cô phụ trách một lớp học tình thương đa phần là những trẻ lang thang không nhà cửa. Cuối buổi học.

– Cô ơi. Dạy tụi con hát đi cô.

– Hát đi cô. Còn mười phút. Nhìn những cái miệng tròn vo và những đôi mắt chờ đợi, cô dạy cho tụi trẻ bài “Đi học về”.

– Hát theo cô nè… Đi học về là đi học về.
Con vào nhà con chào ba mẹ. Ba mẹ khen… Phía cuối lớp có tiếng xì xào:

– Tao không có ba mẹ thì chào ai? – … Cô chợt rùng mình, nghe mắt cay cay.”

Lệ trần

Chuyện kể rằng, ở miền nọ có chàng trai, cô gái yêu và thương nhau rất nhiều.

Họ quấn quýt bên nhau, vui cười hạnh phúc như chẳng có thứ gì có thể chia lìa
đôi lứa.

Nhưng rồi một ngày, cô gái chết đi, để lại chàng trai trong muôn vàn xót thương.

Chàng khóc. Chàng khóc ngày này qua ngày khác, người đời mủi lòng, khuyên nhủ
chàng nên để ký ức được ngủ yên. Nhưng chàng vẫn khóc, khóc rất nhiều.

Rồi một đêm, trong giấc mơ, chàng thấy mình đứng trước ngưỡng cửa thiên đường.
Có rất nhiều các cô gái trong trang phục dạ hội lộng lẫy, trên tay cầm những
ngọn nến lung linh, huyền ảo. Và chàng thấy người yêu chàng, cũng áo quần lộng
lẫy, cũng ngọn nến trên tay, nhưng nến tắt.

Chàng hỏi:

– Sao em không thắp nến lên?

Nàng rơi lệ:

– Mỗi lần em chưa kịp thắp lên thì nước mắt anh lại rơi xuống. Van anh, xin anh
đừng khóc nữa!

Nếu lỡ mất đi người thân yêu nhất, bạn chọn cố gắng sống hạnh phúc để người đó
được an nghỉ hay mãi chìm trong khổ đau của cả hai?

Anh Nguyễn Thập gởi

Chai Dầu Gió Xanh

nurseonairplane.jpg

Chai Dầu Gió Xanh

Võ Quách Thị Tường Vi

(Houston, Texas. USA)

Tôi  là người hành khách cuối cùng bước vào cửa phi cơ của chuyến bay #1490
Singapore Airline với hành trình sẽ đi về Việt Nam qua ngã Mạc Tư Khoa,
Singapore, rồi Tân Sơn Nhất. Cánh cửa phi cơ đóng ngay sau khi tôi đi
vào. Cả một ngày mệt mỏi, chạy đôn chạy đáo, sau khi quyết định sẽ về
Việt Nam lo cho một chương trình y tế và văn hoá giữa các trường đại học
bên Việt Nam và trường đại học nơi tôi giảng dạy; tôi đã đi tìm mua
những món quà hay đồ vật mà tôi nghĩ là những người bà con hay bạn bè
bên nhà sẽ ưa chuộng và thích thú.

Khi  vào đến ghế của mình, tôi lã người, mệt muốn ngất đi được. Thò tay vào
giỏ xách tôi lấy ra chai dầu gió xanh. Tôi nhón ngón tay trỏ vào đầu
chai, chấm một tí dầu và xoa vào hai đầu thái dương của mình. Trong chốc
lát, tôi đã thấy khoẻ lại. Thật cảm ơn chai dầu xanh này, nó đã theo
tôi từ không biết bao nhiêu năm nay rồi, như một người bạn chân thành,
nó lúc nào cũng có ở bên cạnh tôi. Mùi dầu xanh quen thuộc làm tôi chợt
nhớ đến những chuyện cũ năm xưa…

ooOoo

Mẹ  tôi mất khi tôi vừa 16 tuổi, ở cái tuổi đẹp nhất của người con gái. Tôi
nhớ rất rõ nhà tôi lúc ấy ở gần phi trường quân sự Biên Hoà, đêm đêm
tiếng bom đạn pháo kích nghe rất gần. Ban đầu rất sợ, tôi đã tung mền và
trốn dưới …gầm giường và làm mồi cho những con muổi đói mà không biết
rằng với những tấm ván vạc giường mỏng manh đó sẽ không có hiệu quả gì
nếu mà bom đạn vô tình rớt xuống nhà tôi. Riết rồi cũng quen, mỗi lần
pháo kích thì tôi đã không nhảy xuống gầm giường nữa mà vẫn tỉnh bơ nằm
ngủ. Con người ai cũng có số, nếu tới số chết thì ở đâu cũng chết …
Tôi thầm  biện hộ cho cái tính làm biếng của mình như thế.

Rồi  một buổi sáng kia tôi giật mình thức dậy vì một tiếng động thật to. Mở
mắt ra thì thấy trời rất sáng và lổ tai đã ù lên, không nghe gì được
hết. Ngước thẳng lên thì trời ơi … hình như bầu trời trong xanh đang
ngó xuống nhìn ngay tôi và nhà tôi với những bức tường hình như đã bay
đi đâu mất rồi. Tiếng người la khóc và ồn ào chung quanh tôi. Tôi ngồi
dậy thì thấy ba tôi đang ôm mẹ tôi máu chảy đầy người ở nhà bếp, mà mới
ngó qua thì không biết là ở đâu nếu tôi không nhận ra cái tủ đựng đồ ăn
nay chỉ còn 2 chân bị gảy. Ngay giữa nhà bếp thì có một cái hố thật sâu,
khói vẫn còn bốc  bụi hơi nghi ngút. Bên cạnh cái hố này thì con chó Tô Tô của tôi cũng đang rên rỉ với máu chảy đầy người nó. Còn con chó Ki Ki thì đứng lẩn
quẩn kế bên, miệng nó kêu lên những tiếng gầm gừ rên rỉ nghe cũng thảm
thiết lắm. Đây là cặp chó mà ba tôi đã xin về nuôi được chừng 2 năm rồi.

Có  cái gì ươn ướt trên mặt tôi. Thò tay lên vuốt mặt thì bàn tay toàn là
máu. Thì ra tôi cũng bị thương trên trán và nhà của tôi cũng đã bị pháo
kích rồi…

Sau  đó, ba tôi đưa mẹ tôi vào nhà thương Biên Hoà, rồi lại chuyển lên nhà
thương Cơ Đốc ở Phú Nhuận Sài Gòn vì bệnh không thuyên giảm, sau khi 2
tuần ở nhà thương Biên Hoà.

Tôi  ở lại trong nhà thương Cơ Đốc với mẹ tôi, có dịp tiếp xúc với các y tá
điều dưỡng và các vị bác sĩ hằng ngày đến chăm sóc cho mẹ tôi. Và tôi đã
bắt đầu có cảm tình với ngành y sĩ ngay từ dạo đó.

Bệnh  mẹ tôi cũng bớt dần nhưng mẹ không còn khoẻ mạnh như xưa. Mẹ tôi hay
đau lưng, nhức mỏi, người hay mệt và không làm được nhiều việc như lúc
chưa bị thương. Hình như mẹ tôi càng lúc càng yếu dần mà trong đầu óc
non nớt của tôi cũng bắt đầu nhận thức được. Trong túi áo bà ba của mẹ
tôi lúc nào cũng có một chai dầu gió xanh mà mỗi khi đau hay mệt trong
người mẹ thường lấy ra để xoa hay ngửi.

Tôi  thường hay tự hỏi là dầu này có công hiệu hay không, vì nói cho đúng
ra, tôi cũng “sợ” bị bôi dầu này lắm. Mỗi lần sổ mũi nhức đầu, mẹ tôi
hay đè mấy chị em tôi ra mà bôi lên người chúng tôi hay là cạo gió. Trời
ơi, mỗi lần thấy mẹ tôi với chai dầu “mắc dịch” này chúng tôi đã chạy
trốn, mặc cho mẹ tôi kêu tên từng đứa dỗ dành.

Đến  một hôm mà tôi không bao giờ quên được là ngày đó mẹ tôi rất mệt. Khuôn
mặt xanh xao, giọng nói yếu ớt, mẹ tôi sai tôi đi chợ, dặn dò mua thức
ăn rau cải và nhớ ghé qua hàng thuốc mua cho mẹ một chai dầu xanh, vì
chai ở nhà đã sắp hết rồi. Tôi tung tăng đi chợ mua thức ăn như lời mẹ
dặn. Trên đường về đầu óc tôi sao vẫn băn khoăn giống như mình đã quên
một chuyện gì rất quan trọng. Cá cơm kho tiêu, canh cải bẹ xanh nấu tôm,
rau muống xào, chuối tráng miệng … đâu còn quên gì nữa đâu. Khi đến
gần nhà, băng qua cầu Đúc, thì tôi đứng khựng lại vì chợt nhớ ra việc gì
mình đã quên. Tôi đã quên  mua chai dầu xanh cho mẹ tôi rồi! Tôi lật đật chạy vòng lại, đi lên chợ để mua chai dầu. Đường lên chợ sao bây giờ thấy quá xa, tôi chạy hoài
không tới … Rồi sau cùng tôi cũng về đến nhà, nhưng sao nhà tôi lại
đông người như vậy? Các người láng giềng đang bu chung quanh ba tôi. Khi
thấy tôi vào, các em tôi chạy lại nắm tay tôi và khóc. Ba tôi ôm tôi
vào lòng và nói với tôi trong tiếng nất “má con đã chết rồi” …Tôi sững
sờ nhìn chai dầu xanh mà tôi đang nắm chặt trong tay. Tôi đã về muộn
rồi …Mẹ tôi năm ấy chỉ có 38 tuổi mà thôi.

Rồi  từ đó, ở cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” của mình tôi đã phải đối đầu
với thật nhiều khó khăn trong cuộc sống. Từ việc nhà, nấu cơm, giặt giũ
đến việc chăm sóc các em, tự lo cho thân mình, và vất vả ngược xuôi lo
việc chi tiêu trong nhà với đồng tiền công chức giới hạn và bấp bênh của
ba tôi. Tôi phải làm rất nhiều việc mà khi còn có mẹ tôi đã không bao
giờ phải bận tâm lo lắng. Và chai dầu này đã theo tôi khắp nơi …dù qua
nhiều dâu bể của cuộc đời, nó vẫn là người bạn đồng hành với tôi từ mấy
chục năm qua.

ooOoo

Nghe  có tiếng thầm thì tôi mở mắt ra. Trước mặt tôi là mấy giáo sư đồng
nghiệp cùng trường và cả đám sinh viên học trò của chúng tôi. Thấy tôi
mở mắt ra cả đám cùng vỗ tay và la lớn:

Chào  mừng giáo sư, chào mừng y sĩ. Chúng em vui lắm vì có cô đi cùng. Thật
là vui quá. Như vậy là chuyến đi này là hoàn toàn mỹ mãn rồi đó.

Donna, một cô học trò của tôi, gốc người Mễ và rất linh hoạt dễ thương hỏi.

– Cô ơi, khi tới Việt Nam, cô có hồi hợp không cô?

Một  em khác hỏi…rồi chúng nó thay phiên mà ôm tôi để chia niềm thương cảm.
Số là cách đây 1 tuần tôi có một tai biến rất to lớn trong đời đến nổi
tôi không biết chắc là có hoàn thành chuyến đi về Việt Nam này hay
không. Chuyến đi này đã có sự chuẩn bị từ lâu rồi. Từ các giáo sư đến
các em sinh viên ai nấy cũng nao nức đợi ngày đi. Còn tôi thì muốn về
Việt Nam để có dịp thăm lại quê hương bạn hữu và cùng đem lại một chương
trình nào đó có lợi ích cho nền y tế của quê nhà. Các sự xếp đặc cũng
đã xong, nhưng nếu tôi không đi thì cũng chắc buồn lắm vì kể như bước
đầu đã không trọn vẹn.  Vào giờ phút cuối, tôi đã quyết định đi nhưng vì mua vé trể, nên không còn chổ để ngồi chung với phái đoàn của mình. Cả đám lăn xăn nói cười
ríu rít. Có đứa thì nghe nhạc, coi TV, có đứa thì bắt đầu ngủ gà ngủ
gật, còn mấy đứa thì rất là kích động ghi chép trong nhật ký những chi
tiết về chuyến đi này hay chụp hình lưu niệm.

Nói  “mấy đứa” cho thân tình chứ thật ra phái đoàn chỉ có 12 em sinh viên là
trẻ, đang học chương trình cử nhân và phần lớn là dưới 30 tuổi. Trong
nhóm này thì có 3 em gốc Việt Nam. Còn bao nhiêu em khác là thành phần
lớn tuổi hơn với kinh nghiệm sống già giặn hơn. Có một em sắp xong y sĩ
và 17 các sinh viên khác trong phái đoàn đang học chương trình tiến sĩ.
Và có 5 em sẽ ra tiến sĩ sau khi trình luận án vào mùa Hè này. Trong
nhóm này thì có 2 em đang hành nghề y sĩ ở Dallas và Houston.

Dù  thầy bằng trò hay trò bằng thầy về tuổi đời nhưng các em rất lễ phép và
rất biết kính trên nhường dưới. Như vậy phái đoàn chúng tôi 33 người
cũng có vẻ rất hùng hậu. Hy vọng chuyến đi này sẽ thành công và không có
gì không hay sẽ xảy ra.

Từ  khi không làm bên bệnh viện nữa, tôi đã nhận làm giảng sư cho trường
đại học này đã được 5 năm rồi. Tôi cũng đã dạy bán thời gian cho trường
mấy năm trước nữa. Thấy không khí dạy học cũng vui vẻ, nhất là tiếp xúc
được nhiều các em sinh viên Việt Nam gồm có các em sinh bên này hay là
du học sinh, nên tôi cũng thích vì có dịp hướng dẫn và khích lệ các em.
Các em sinh viên người Việt hay gốc Á Châu hay thường tìm đến tôi để hỏi
ý kiến hay chỉ để than thở, về việc học hành hay những việc xảy ra
trong đời sống hằng ngày. Và không biết từ bao giờ tôi đã trở thành một
giáo sư hướng dẫn cho các sinh viên gốc Á Châu ở trường đại học này. Tôi thật không ngờ mình lại trở thành một bà thầy “gỏ đầu trẻ” mà khi còn nhỏ tôi không bao giờ mơ
ước để trở thành.

Năm ngoái, tôi có khai giãng một lớp học mà tôi phụ trách dạy về văn hoá, y
học và người Việt Nam. Các sinh viên ghi tên học rất đông: Mỹ có, Việt
có. Các em gốc Việt Nam sau đó lại đến để cảm ơn tôi, vì các em đó đã có
cơ hội để tìm hiểu thêm về nguồn gốc Việt Nam của mình.

ooOoo

Trạm đầu tiên xuống Moscow nghỉ ngơi chừng nửa tiếng thì chúng tôi lại sắp
hàng vào lại máy bay. Cả đám sinh viên vẫn còn hăng hái, tay cầm nhiều
túi quà kỷ niệm và nhộn nhịp bước vào máy bay. Máy bay lại cất cánh lần
nữa. Qua khỏi chuyến này thì tôi lại gần hơn với Việt Nam. Trong lòng
tôi hình dung những bạn bè, trường ốc và những chuyện mà tôi phải làm.
Một cảm giác vừa vui mừng, vừa hồi hộp làm tôi nao nao trong lòng. Tôi
từ từ thiếp đi với những lo nghĩ chập chờn trong đầu óc. Sáng mai là tôi
sẽ có mặt trên quê hương yêu dấu của mình, sẽ có dịp thăm viếng và gặp
gở nhưng nơi mà tôi đã hoạch định chương trình để bắt đầu một cuộc hành trình mới.

Bỗng lờ mờ qua cái loa trên trần mui của phi cơ, tôi nghe có lời của cô
chiêu đãi viên hàng không kêu gọi bằng tiếng Anh qua giọng Tàu lơ lớ:

– Trường hợp cấp cứu!! Trường hợp cấp cứu!! Chúng tôi đang cần một bác sĩ
đang ở trên máy bay gấp. Nếu có ai là bác sĩ xin đứng lên giúp chúng
tôi một tay …

Tôi tỉnh ngủ hẳn, quơ vội cái túi bóp nhỏ và đi lên cabin phía trên, hỏi cô chiêu đãi viên hàng không gần nhất:

– Trường hợp cấp cứu ở đâu vậy? Tôi là Dr. V, tôi sẽ giúp cô.

– Dạ, xin bác sĩ theo tôi. Bệnh nhân đang ở trên cabin hạng nhất phía trên.

Tôi đi theo cô này qua mấy dãy ghế dài đến khu hạng nhất của phi cơ. Những
cái ghế ở khu này rộng rãi hơn và phần lớn các hành khách đang ngủ với
những chiếc khăn che mắt phủ trên mặt cho dễ ngủ.

Bệnh nhân là một thanh niên trẻ, khoảng chừng 28-30 tuổi, đang nằm sóng sượt
trên nền thảm lối đi của phi cơ, cả người co quắp lại như hình con tôm,
hai mắt nhắm nghiền và trên mặt thì có những giọt mồ hôi đã bắt đầu
đọng lại.

– Hello. Tôi là Dr. V và tôi sẽ giúp anh. Chuyện gì đã xảy ra vậy?

– Dạ em đang đau bụng quá, không chịu nổi. Chỉ nằm xuống như vầy mới bớt
một chút. Em bị cách đây gần một tiếng đồng hồ, tưởng là bị sình hơi ai
dè càng lâu càng nặng.

Em tên gì vậy? Tôi hỏi.

– Dạ em tên John. Em là chiêu đãi viên hàng không cho hãng máy bay này và thông thường em làm ở khu hạng nhất này.

Lúc này thì hai học trò y sĩ của tôi là Patti và Mai đã đến. Patti thì cặp
thuỷ đo nhiệt độ, còn Mai thì đo áp suất máu và hỏi về lượng đau của
John.

Tôi hỏi mấy người bạn đồng nghiệp của John:

– Đồ dự trữ cho trường hợp cấp cứu để đâu? Làm ơn đem ra để tôi coi có gì
dùng được không. Và cũng đem thêm mấy cái mền nữa để đắp cho John.

Quay qua mấy em y sĩ tôi bảo:

– Hãy giữ cho John ấm và đừng cho ăn uống gì hết. Có thể cho một vài giọt nước vào môi để giữ môi không bị khô mà thôi.

Dạ, nhiệt độ người của John là 99.8 F. Áp suất là 160 trên 100, nhịp tim 112 và độ đau là 9 trên 10. Mai báo cáo.

– Cảm ơn em. Cứ giữ cho John ấm và lấy áp suất như vậy cứ mỗi 10 phút nhé, hay nếu có sự thay đổi thì cho tôi biết.

Tôi và Patti kiểm soát cái túi cấp cứu mà cô chiêu đãi viên hàng không vừa
mới đem đến. Ngoài những giấy tờ lặt vặt, thì có những thuốc cấp cứu về
tim như Digoxin, Lasix nhưng không còn gì khác. Trong một túi khác cũng
nằm trong cái túi lớn này thì tôi thấy có mấy bịch nước biển se-rum và
những kim cùng dây để chuyền dung dịch này vào cơ thể.

– Patti, em chuẩn bị đồ chuyền dung dịch nếu cần nhé. Không làm ngay bây giờ nhưng nên chuẩn bị trước. Tôi nói.

Tôi khám cho John thì bộ phận nào cũng bình thường nhưng chỉ có đau phía
dưới bụng chổ tay mặt. Tôi chỉ nhấn hơi mạnh một chút thì John đã nhăn
mặt và cố gở tay tôi ra và than là quá đau. Đây có thể là trường hợp đau
ruột dư mà ở trên 50000 mét trên không trung, mình làm được gì, làm sao
bây giờ ?? Tôi suy nghĩ thật nhanh trong đầu mình. Tôi nói với Tim, xếp
của John, là tôi muốn nói chuyện với phi công trưởng của phi hành đoàn
là John bị đau ruột dư và phải cần đưa vào nhà thương để mổ và điều trị
gấp. Tim đi một lát rồi trở lại.

– Thưa y sĩ, phi công trưởng của chúng tôi nói là bây giờ máy bay đang
bay qua lãnh thổ của nước Afghanistan không thể đáp xuống được, mong y
sĩ thông cảm.

Như vậy nước tới là nước nào? Và mình có đáp xuống được không?

– Dạ, để tôi đi hỏi lại phi công trưởng. Tim trở lại lần nữa và nói.

Nước tới là Ấn Độ và việc đáp xuống có thể được, nhưng xin y sĩ xác định lại
việc cần đáp xuống vào lúc ấy, vì hiện thời bây giờ chúng ta phải bay 3
tiếng nữa mới qua khỏi biên giới của Afghanistan. Nếu đáp xuống theo
chuyện cấp cứu thì cũng phiền hà và không biết bao giờ thì mình mới bay
lên trở lại được.

Lúc ấy thì Patti gọi tôi lại:

– Dr. V, áp suất của John là 92 trên 60, nhịp tim 125 và độ đau là 10
trên 10. Em nghĩ là bệnh tình của John đang bị trở chứng đó giáo sư.

Tôi trở lại chổ John nằm thì đúng như lời Patti nói, John đang ở trong tình
trạng trở chứng, máu huyết tuần hoàn bị sụt xuống. Nếu tình trạng này
kéo dài thì rất là nguy hiểm cho tính mạng. Mồ hôi John đang ra nhễ
nhải, dù rằng Mai đang lau mồ hôi cho anh ta và tay chân thì rất lạnh.
Chung quanh John là những đồng nghiệp của anh ta đang quay quần. Ai nấy
khuôn mặt cũng rất là lo lắng. Có mấy người hành khách cũng tò mò hỏi
nhau coi thử có chuyện gì đã xảy ra.

Tôi nói Tim là nên mời hành khách về lại chổ ngồi để chúng tôi có chổ thở và làm việc.

– Bắt đầu chuyền nước biển vào đi, mở wide open rộng ra, giữ cho John ấm. Tôi nói với Patti. Quay qua John tôi bắt chuyện.

– Hi John, em sao rồi, có đau nhiều không?Bây giờ chúng tôi chuyền nước
biển cho em nhé. Mà trước giờ em có bị bệnh gì không? Có bị cao máu,
tiểu đường gì không?

– Dạ em đau quá Dr. V ơi. Em trước giờ khoẻ lắm không có bệnh gì hết.

– John có gia đình vợ con gì chưa?

John gượng cười.

– Dạ chưa Dr V. Nhưng em có bồ rồi và cô ấy đang ở Singapore đó.

– A như vậy thì em phải khoẻ lại cho mau để về gặp bạn đó nha.

Tôi nói đùa với John. Mục đích của tôi là làm John quên bớt cái đau và việc
cấp cứu bây giờ để có thể duy trì được tình trạng để John không bị nặng
thêm. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ một việc.

– John à, tôi có một vị thuốc mà khi nào cần thì tôi lấy ra dùng. Mà nó
giúp tôi rất nhiều, rất là hiệu nghiệm. Nếu em muốn thì tôi sẽ chia sẻ
với em nhé?

John gật đầu lia lịa.

Dạ bây giờ y sĩ có gì thì xin đưa ra cho em dùng. Em đau quá. Em đi đường
bay này thường lắm nên biết là mình sẽ không đáp xuống đây được đâu. Em
lo quá, không hiễu có qua nổi cơn bệnh này không.

Tôi mở cái xách tay nhỏ và lấy chai dầu gió xanh của mình ra và đưa cho John ngửi.

– Đây là chai dầu mà tôi hay dùng. Tôi đi đâu cũng có nó cả và nó rất là
hiệu nghiệm. John dùng thử nhé, nếu chịu được cái mùi hơi mạnh một chút
của nó.

Tôi đưa chai dầu lên mũi của John. John hít một hơi nhẹ và nói.

– Mùi này cũng dễ chịu lắm mà. Em cũng thích lắm.

– OK, như vậy thì tôi xức dầu cho John nhé.

Tôi bôi dầu này vào bụng ở chổ đau của John, vừa làm tôi vừa nói chuyện.
Tôi hỏi chuyện làm, chuyện bạn bè, chuyện đời sống ở Singapore hay Mỹ
như thế nào … Trong lúc nói chuyện thì Mai và Patti vẫn tiếp tục lấy
áp suất và nhiệt độ. John vẫn thích thú kể chuyện về đời mình cho chúng
tôi nghe.

Khoảng chừng một tiếng đồng hồ sau thì Patti báo cáo là áp suất của John đã
lên cao trở lại, khoảng 140 trên 90 và nhịp tim hạ xuống còn 100 nhịp
trong một phút và độ đau thì vẫn không thay đổi, vẫn ở khoảng 8 cho tới
10.

– Như vậy thì tốt quá, em cho nước biển chảy chậm lại một chút đi. Tôi nói chuyện với Patti.

Trong thời gian này thì John có vẻ không thay đổi mấy, sắc diện có phần hồng
hào hơn và tỉnh táo hơn một chút. Tôi khám lại John thì thấy không có gì
thay đổi lắm về phần ruột dư của John.

Tim, người xếp của John, trở lại.

– Thưa y sĩ, bây giờ chúng ta đang bắt đầu vào biên giới Ấn Độ. Chúng tôi
phải làm gì, ngừng lại hay đi thẳng? Nếu ngừng lại thì cũng phải xin
phép và cũng sẽ lâu lắm mà chưa biết chừng nào thì máy bay sẽ được cất
cánh trở lại.

– Sau Ấn Độ thì sẽ tới nước nào? Tôi hỏi.

– Dạ Miến Điện rồi Thái Lan trong vòng 3 tiếng đồng hồ nữa.

– Để tôi nói chuyện với John xong sẽ trả lời câu hỏi của anh.

Tôi trình bày rõ ràng với John về những chi tiết này. John trầm ngâm rồi hỏi lại tôi:

– Y sĩ nghĩ như thế nào, em có thể chịu nổi để về đến Singapore không?

Thật sự ra thì rất khó mà đoán trước cơ thể của John sẽ chuyển động như thế
nào, nhưng tôi nghĩ là sẽ được trong vòng vài tiếng nữa, ít ra thì mình
cũng có thể đến Thái Lan và việc chửa trị ở đó cũng tốt nhất nếu so với
những nơi khác. Tôi trả lời cho John.

– Như vậy thì y sĩ cứ quyết định cho em đi. Tôi quay lại nói với Tim.

– Cứ tiếp tục bay đi. Khi nào gần đến Thái Lan thì cho tôi biết.

Trong suốt mấy tiếng bay tiếp, John và tôi vẫn tiếp tục nói chuyện với nhau,
và tôi vẫn xoa dầu xanh cho John đều đều. Nhiệt độ và áp suất máu của
John vẫn không thay đổi. Chai nước biển vẫn nhỏ giọt đều nhưng chậm hơn
lúc trước vì áp suất của John đã cao hơn. Chúng tôi đã đưa John lên nằm
trên giường trong phòng dành cho phi công. John có vẻ khoẻ hơn lúc ban
đầu một chút.

Khi bay qua biên giới Thái Lan, tôi đã quyết định là không dừng lại nữa vì
từ nước này về Singapore thì chỉ còn một tiếng đồng hồ mà thôi và tình
trạng của John thì thấy không thay đổi mấy. Cả đêm ấy, 3 thầy trò chúng
tôi đã không chợp mắt một chút nào, nhưng vẫn không thấy mệt. Rốt cuộc
thì phi cơ cũng đáp xuống phi trường Singapore. Khi xe cứu thương vào
phi cơ để đưa John đi vào bệnh viện cứu cấp, cậu ấy đã nắm tay tôi và đã
ngập ngừng hỏi tôi:

Em cảm ơn Doctor V và phái đoàn của doctor nhiều lắm vì đã tận tình giúp
em. Em sẽ không bao giờ quên y sĩ V đâu. Chúc y sĩ và phái đoàn thành
công trong chuyến đi này. Nếu được, xin y sĩ cho em xin luôn chai dầu
gió xanh đó, có được không?

Tôi cảm động đến sững sờ và tự nhiên tôi muốn khóc.

Ở trên đời nếu ai cũng có một chai dầu gió xanh để đem theo bên mình làm
hành trang cho cuộc đời, chai dầu gió xanh của mỗi người có thể khác
nhau. Có thể là những kỷ niệm thời ấu thơ, một mối tình đơn phương,
những mối tình trọn vẹn hay không trọn vẹn, một ánh mặt, một nụ cười,
một dáng đi, một tà áo, một câu dỗ dành, bài hát hay một lời thơ … Đôi
khi bất chợt ngửi lại mùi hương thoang thoảng của những chai dầu gió
xanh này làm ta có thể sống lại những kỷ niệm thời xa xưa, mơ về dĩ vãng
trong giây phút để tâm hồn có thể dịu bớt đi một chút nào đó giữa cuộc
sống xô bồ. Những chai dầu gió xanh này, theo ngày tháng, cũng có thể chữa lành cho những vết thương trong lòng của mỗi người.

Trong hành trình dài của mỗi đời người, với những bể dâu gập ghềnh trong cuộc
sống, mà mình còn giữ được chai dầu gió xanh làm bạn đồng hành thì âu
đó cũng là niềm vui và hạnh phúc vậy.

Võ Quách Thị Tường Vi

Hạnh Phúc Tầm Tay…

Hạnh Phúc Tầm Tay…

“Tôi nức nở khóc…
vì thảm cỏ lưa thưa dưới chân…
và vì mình không có đôi giày…”
1. Có một chàng trai yêu đời, nhiều mộng đẹp và ước mơ.  Chàng mê thể thao, mê đèn sách và mê cả chuyện ngắm các cô gái đẹp.
Một buổi kia, chàng thưa với Chúa, “Con đã suy nghĩ nhiều… Bây giờ, con biết mình ước muốn điều gì khi trưởng thành…”
-“Điều gì vậy?”, Chúa ngạc nhiên.
`
-“Con muốn sống trong một căn nhà rộng rãi có nhiều phòng, có vườn cây, trên đồi hay gần bãi biển… Vì bây giờ, Chúa biết đấy, không khí ô nhiễm quá thể !  Mà giữa  thiên nhiên bao la của núi rừng hay biển khơi, con dễ thanh thản tâm hồn mà cầu nguyện với Chúa hơn.  Con chán cảnh ở trọ chật hẹp, tốn kém, ồn ào phiền toái thế này lắm rồi!  Con không muốn đi tu.  Chuyện tu hành, Chúa để cho tên nào chu chu chắm chắm ấy.  Con sẽ cưới vợ.  Vợ của con phải là một cô gái xinh đẹp.  Nàng cần phải có chút máu văn nghệ, biết thưởng thức văn chương, biết từng tưng chút chút.  Nàng cần phải sắc sảo, có nhan sắc, dáng người thanh tú cao ráo để
con hãnh diện được với bạn bè…”
– “Gì nữa?”, Chúa âu yếm.
– “Ừ, có vợ thì phải có con chứ.  Vậy con cũng muốn Chúa biết, là con muốn có 3 đứa con trai.  Một đứa sẽ là khoa học gia, một đứa là bác sĩ, một đứa là Giám Mục… Chúa thấy không, con mơ ước toàn những điều có “chiều kích thế giới” thôi…”
-“Thế con ước mơ điều gì cho chính con?”
-“Ồ, con quên khuấy đi mất!  Chúa thấy không, nãy giờ, con chỉ lo cho gia đình, cho Giáo Hội, cho thế giới thôi!  Con quên mất bản thân mình!  Quảng đại, phải không Chúa?!!  Thế này, con ước mình sẽ có nhiều tiền.  Gia đình thời buổi này, Chúa ạ, là một gánh nặng lớn về tài chánh.  Vật giá và các thứ bây giờ, vì lạm phát, vì cái bất tài của các nhà lãnh đạo, vì cả cái thất bại bí lối của các kinh tế gia mà leo thang cao hơn tháp Babel xưa…. Con ước mình trở thành một nhà tài phiệt.  Rồi với gia tài đồ sộ kếch xù cả thế giới bê vác không nổi ấy, con sẽ “tề” thiên, “đãi” thánh, “bình” thiên hạ… Chúa không phải mệt mỏi nhờ mấy ông cha bà phước hay các hội từ thiện khản cổ kêu gọi người ta bố thí.  Mấy ông già Noel lắc chuông mỏi tay ở các cửa hàng, các thương xá mỗi dịp Giáng Sinh mà thế giới có nhúc nhích gì đâu!  Vài đồng cắc lẻ người ta cho đi vì tránh nặng túi chẳng gãi nổi vết ghẻ của đám trẻ Phi Châu thiếu thốn thuốc men… Yên chí Chúa ạ, là tài phiệt rồi, con sẽ rửa sách mặt địa cầu, Chúa không cần phải ra tay làm chi cho mệt!… Còn một chuyện nữa..”
-“Chuyện gì?”, Chúa chăm chú.
Chàng nói không ngần ngại vì biết rằng, Chúa làm được hết mọi chuyện và với Chúa thì không cần phải vòng vo hay rào đón tế nhị…
-“Chiếc xế Camry của con 6 máy XLE nhưng đến lúc con có gia đình thì nó đã già cũ rồi.  Con sẽ đem nó đến một cơ quan từ thiện để họ bán cho kẻ cần xe mà lấy tiền nuôi kẻ nghèo khó nếu con có cái Lách Xớt, lọai xe bảo đảm đường trường và độ bền thay
vào đó.  Lách Xớt là đủ rồi chứ con không có màu mè như mấy tên tài tử Hô Li Út xài sang mà hoang phí với Ferrari hay Roll-Roys.  Không có xe ở thời đại tốc độ bây giờ là “cụt” cẳng, Chúa ạ.  Mà xe dổm thì là cẳng “đau”, phiền toái lắm…”
-“Ừ”, Chúa gật đầu trầm ngâm.  “Những điều này Ta nghe như một giấc mơ đẹp… Ta
mong muốn con luôn được hạnh phúc sung sướng…”
….
Chàng trai nhảy cẫnglên thích chí.  Chàng thỏa mãn vì Chúa cho những điều chàng ước muốn kia là đẹp đẽ… Chàng yên lòng vững dạ hơn khi nghe Chúa bảo rằng, lúc nào Ngài cũng muốn cho chàng được hạnh phúc vui vẻ, nghĩa là, Chúa “hứa” hẳn hòi,
dù chàng không hiểu rõ nội dung và tâm tình của điều phát biểu ấy…
2. Thấm thoát thời gian trôi qua…
..
Chàng hoàn tất giáo trình đại học ngành thương mại rồi khởi sự một doanh nghiệp sản xuất và cung cấp tiếp liệu y khoa y tế.
Chàng cưới một thiếu nữ đoan trang, duyên dáng, hiền hậu với mái tóc dài và đôi mắt nâu.  Nàng khỏe mạnh với vóc người thấp lùn chứ không cao ráo thon thả.  Nàng không có máu văn nghệ, cũng chẳng mê đàn hát, chẳng mê phim bộ nhưng lại giỏi việc tề gia nội trợ, giỏi bếp núc, giỏi quán xuyến gia đình. Nàng không sắc sảo nhưng
hiền thục, chân thành khiêm tốn, hết lòng thương yêu săn sóc chồng con… Nàng
là một người vợ kiểu mẫu, biết phục thiện, tự chủ, một hiền mẫu đúng nghĩa…
Chàng và nàng có 3 đứa con gái xinh đẹp ngoan ngoãn.  Trừ đứa con gái út phải ngồi xe lăn, hai đứa còn lại đang theo đuổi ngành y khoa và điện toán.  Những đứa con dễ
thương ấy lúc nào cũng yêu kính và vâng lời cha mẹ…
Vì công ăn việc làm, chàng và gia đình sống trong một căn phòng trên tầng cao nhất thuộc khu chung cư của thị xã.  Và từ căn phòng cao cấp này chàng có thể nhìn xuống biển xanh hay ngắm cả thị trấn lóng lánh ánh điện về đêm.
Là thành viên trong bộ phận quản đốc của xí nghiệp, chàng có một lợi tức khá giả, lợi tức đã đem lại cho chàng và gia đình một cuộc sống sung túc quá mức thượng lưu.  Chàng có Lexus, lọai xe của giới thượng lưu để di chuyển theo địa vị…
Một cuộc đời hạnh phúc kiểu mẫu…
Nhưng cái gọi là hạnh  phúc, là tuyệt vời… rồi cũng bị thời gian làm cho nhàm ố vì chán chường, vì những mơ ước vô biên giới, vì những đòi hỏi có tính leo thang của cuộc sống, vì cái khuynh hướng thiếu cảm nhận giá trị của mọi điều hiện tại, vì thái độ không tri ân đủ với cuộc sống và con người… “Máy móc tính” để trở nên nhàm chán mà quay cuồng.
Một buổi kia, chàng bất giác nhớ lại những ước mơ đã khấn nguyện thời trai trẻ…
Chàng bắt đầu buồn buồn…
Những điều chàng đang có sao mà chán phèo nhạt nhẽo… như tách cà phê đã nguội, như lon bia đã cạn hơi ga…
-“Tôi rất buồn”.  Với một người bạn, chàng than thở.
-“Chuyện gì vậy?”
-“Tôi mơ sống với một người vợ cao ráo, thanh tú, mắt xanh, biết văn chương và đàn hát văn nghệ… Cuối cùng thì vợ tôi lại lùn tè, chẳng thanh tú tí nào… Văn chương
văn nghệ, nàng mù tịt..!”
-“Vợ Anh xinh xắn, duyên dáng, khỏe mạnh, giỏi nội trợ, yêu chồng, thương con cái.  Anh tìm đâu được người vợ hiền thục như thế?”
Chàng không chú ý nghe.
-“Anh buồn lắm”, chàng thú thật với vợ.
-“Chuyện chi vậy Anh?”
-“Anh đã từng mơ được ở trong một căn nhà to lớn vườn cây, có cảnh trí thiên nhiên nên thơ tĩnh mịch, nhưng cuối cùng lại phải ở trong khu cao ốc rất mất công thang máy này…!”
-“Căn phòng này, Anh thấy không, rất tiện nghi.  Từ trên cao, Anh có thể nhìn xuống mà thấy thiên nhiên bao la, thấy thành phố lao xao, thấy biển, có thể chiêm ngưỡng và suy nghĩ với cái đẹp nhìn thấy từ trên cao… Anh có tình yêu của Em, lòng kính
yêu của 3 đứa con dễ thương.  Anh có tiếng cười, có người mong ngóng thương yêu, có mọi điều Anh muốn…”
Chàng không thấu tai dù người vợ nồng nàn khuyên giải.
Tại văn phòng bác sĩ tâm lý.
-“Tôi buồn lắm”, chàng giãi bày…
-“Tại sao vậy?”
-“Tôi đã mơ trở thành tài phiệt đem kho tàng của cải giúp người nghèo khó khắp nơi.  Nhưng lúc này, tôi chỉ là người lãnh lương cố định hàng tháng…”
-“Những tiếp liệu y tế mà Anh đang bán cứu được bao nhiêu mạng sống rồi…”
Chàng, con người có “ước-mơ-vô biên giới” ấy, vẫn không nghe ra…
Với Cha Sở, chàng rầu rĩ than phiền.
-“Con buồn lắm!”
-“Chuyện gì thế?”
-“Con đã từng mơ ước có 3 đứa con trai, một đứa là khoa học gia, một đứa là bác sĩ, một đứa là giám mục… Vậy mà con lại có 3 đứa con gái…”
-“Thì Anh đang có đứa con đeo đuổi ngành y.  Con cái của Anh, đứa nào cũng ngoan ngoãn, hiếu thảo, thương kính cha mẹ… Đứa út thì có nhiều tài, đóng góp cho công việc của giáo xứ..”
Chàng vẫn không lọt tai.
3. Nỗi u uất thất vọng làm chàng phát bệnh.
Chàng được đưa vào bệnh viện.
Giữa bốn khung tường màu trắng của nhà thương, người ta chằng chịt quanh chàng, thọc vào mũi, vào miệng, gắn trên người chàng nhiều thứ giây nhợ, ống dẫn phức tạp.  Những giây nhợ ống dẫn ấy nối với những máy móc đo đạc y khoa rất hiện đại.
Chính chàng trước đây là người đã cung cấp những dụng cụ linh tinh này cho bệnh
viện sau một hợp đồng thành công.  Và hiện diện chung quanh chàng, sau khi
vài thân hữu đồng nghiệp đã ra về, là chính người vợ không “đủ tiêu chuẩn” theo ý chàng, cùng với ba người con gái có gương mặt âu lo, đang yêu thương buồn bã nhìn người cha tiều tụy ốm yếu mất sắc.
Quây quần chung quanh chàng những lúc đời riêng biến cố, ở những khúc quanh ngặt nghèo như lúc này và cho đến lúc cuối cùng, hình như cũng chỉ có nhiêu đó người ruột thịt trong một gắn bó nhiệm màu mà định mệnh, những người mà tháng ngày gần gũi đã làm cho hiện hữu của họ đối với chàng trở nên nhàm chán khiến chàng không cảm nhận được giá trị cùng ý nghĩa của sự hiện diện đầy ân tình và linh thánh ấy trong đời mình.  Họ đứng ở đấy, câm lặng, khóe mắt đỏ hoe những giọt lệ chan hòa mến thương và chia sẻ trong bất lực nặng nề.  Cõi yêu thương rất linh thánh, chan chứa ân tình ấy vô hình, da diết, mỏng manh nhưng lại hiện hữu và vô cùng sống thực như chính tấm mền mỏng màu trắng đang phủ kín, đắp ấm tấm thân thể rã rượi, u uất và bất động của chàng.
Chàng trải qua giấc hôn mê…
Trong cơn mê mệt mỏi rã rời ấy, chàng thấy mình đi dạo trong một khu vườn lạ rất đẹp, và… chàng gặp Chúa cạnh một suối nước…
Quên chào hỏi xem Chúa đi đâu và đang làm gì, chàng chất vấn Chúa ngay với cung giọng thiếu bình tĩnh:
-“Chúa còn nhớ thuở trai trẻ, con đã nói cho Chúa nghe những điều gì không?”
Chúa nhìn chàng, thương mến hồi lâu rồi nhẹ nhàng ôn tồn:
-“Ừ, đó là những điều ước muốn tốt đẹp!”
-“Chúa đã hứa cho con được hạnh phúc sung sướng.  Chúa cũng công nhận những điều ước muốn cỏn con kia của con là tốt đẹp, sao Chúa không ban cho con những điều ấy?”, chàng bực dọc.
Vẫn thương mến trong hiền hậu ôn tồn, Chúa chậm rãi:
-“Ta có thể làm như vậy.  Nhưng Ta muốn con ngạc nhiên về những gì con không mơ ước.  Ta đã ban cho con một người vợ hiền thục xinh đẹp, một doanh nghiệp tốt, một
nơi ở dễ chịu, những đứa con xinh ngoan… Đấy chưa phải là những món quà tốt
đẹp nhất Ta đã ban tặng cho con sao?…”
-“Nhưng con tưởng Chúa ban cho con điều con đã xin…”
-“Còn Ta, Ta đang chờ con cho Ta điều Ta thật sự mong muốn…”
-“Chúa mong muốn gì?”, chàng thân tình, trố mắt ngạc nhiên.  Chỉ có chàng mới cần thứ này, ước cái nọ, muốn thứ kia, chứ có bao giờ chàng nghĩ rằng Chúa cũng cần,
cũng muốn một cái gì đó đâu !
-“Ta muốn con luôn được hạnh phúc sung sướng với những gì Ta ban cho con.  Ta những muốn cho chính con chứ không cho Ta.  Ta mong muốn con luôn được yên vui hạnh phúc…”
Rồi để giúp chàng nguôi ngoai nỗi khát vọng, giải tỏa cho chàng bao nỗi trầm tư u uất, Chúa đưa chàng ra khỏi khu vườn đẹp, và cùng chàng rảo bước giữa lòng phố.
Và đấy cũng là lần đầu tiên, chàng có dịp bước xuống cuộc đời để tận mắt nhìn thấy cái quang cảnh vất vả, nhốn nháo, ồn ào, tất tưởi rất mồ hôi nước mắt… Chàng thấy bao con người đang tất bật cảnh kiếm sống, những chiếc xe kéo, những thân thể gầy gò, những bộ áo quần tả tơi lem luốc, những người phu quét đường, đám người di dân đang nhễ nhại đào xúc ở công trường với đồng lương tối thiểu ốm o.    Chàng thấy đám người homeless rách nát lang thang.  Đám người vô gia cư cơ nghiệp có tóc tai râu ria xồm xoàm và tấm thân hình hôi hám dơ bẩn lâu ngày không một giọt nước tắm gội kia, đang thất thểu với chiếc xe đẩy, và chất đầy trên đó là cả cái  gia tài của đời họ. Gia tài ấy chỉ là một đống giẻ rách…  Một kẻ ăn xin chạy đến chàng (tướng tá chàng sang trọng lịch lãm với bộ đồ veston Italy đắt giá mà!).  Người ấy xoè tay, lắp bắp một lời khẩn xin bố thí.  Mủi lòng cảm thương, chàng mở bóp, nhưng chàng không có
tiền mặt mà chỉ có một xấp thẻ tín dụng đủ loại.  Chưa bao giờ chàng biết đến đồng tiền xu hay phải bận tâm giữ tiền giấy trong người… Người ăn xin kia tiu nghỉu thất vọng và nổi nóng.  Xả hết cơn tức giận, hắn  nhào tới, tống một quả đấm vào giữa mặt chàng.  Chàng choáng vàng la hoảng và giật mình thức dậy..
Ra khỏi cơn hôn mê, chàng trăn trở với giấc mơ trò chuyện vặn hỏi Chúa và cùng Chúa rảo bước giữa cuộc đời thực….
Chàng trằn trọc suy nghĩ…
4. Cuối cùng, chàng mơ một giấc mơ khác…
Chàng quyết định, rằng chàng chỉ mơ và ước muốn tất cả những gì chàng đang có… Chàng sung sướng nhìn gương mặt người vợ lúc ấy đang đứng bên cạnh trong im lặng mà âu lo săn sóc, gương mặt mà đã nhiều năm, chàng không không nhìn kỹ để không thấy được những gì là “con tim” nồng thắm nơi từng nét vẻ diễm kiều ở khóe mắt, suối
tóc, bờ môi.  Chàng hãnh diện nhìn những người con đang vui mừng thấy chàng mở mắt…  Trong nước mắt, họ ôm lấy nhau…  Và hình như đấy là lần đầu tiên trong đời, chàng cảm nhận một thực thể nào đó vô cùng bao la, một thực tại nào đó rất ư vĩ đại mà sống thật vẫn bao bọc quanh chàng mà chàng chưa hề cảm biết.  Chàng cảm thấy đây là gia đình, là chính con tim của mình, là ân huệ, là những gì duy nhất còn lại sau tất cả mọi điều.  Đây chính là giây phút mà tiền tài, danh vọng, dục vọng, ước mơ, Lách Xớt, của cải… tất cả chỉ là con số không… Niềm cảm nhận kinh khủng ấy tuy hiếm hoi muộn màng nhưng nó làm không gian của chàng thu hẹp lại, không gian ấy có những nhịp tim rạng rỡ của cảm nhận và ỵêu thương chan hòa…
Và nhận thức mới ấy đã làm chàng qua khỏi cơn bệnh.
Chàng trở về sống sung sướng trong khu chung cư cao ốc, vui hưởng tiếng cười đùa của các con, biết thế nào là vị ngọt của bờ môi người vợ, cảm nhận được thế nào là yêu thương trong đôi mắt, vòng tay.  Chàng đếm được rõ trong tim mình có bao nhiêu
người.  Chàng biết rằng, ở đáy ánh nhìn thơ ngây của đàn con, ở đáy đôi mắt tuyệt vời và nồng nàn ân tình của người vợ, là những thực tại sâu thẳm vững bền như chính sự sống… Chàng nhìn lại những hững hờ quá khứ, những đuổi bắt mệt mỏi… Chàng đọc thấy được bao nhiêu điều trên gương mặt hiền hậu của người vợ đã nhiều năm má ấp môi kề, những điều mà trước kia chàng chưa hề đọc ra…  Chàng sung sướng ngắm gương mặt từng đứa con, hoa trái của tình yêu chàng…  Những cảm nhận thiết tha…. Tim chàng đang rung đều những nhịp mới…
Và đêm đó, trên căn trọ chót vót với ánh mắt nhìn xuống thành phố lấp lánh ánh điện, xa xa là biển rộng thẫm bóng đêm, chàng quỳ gối xuống… Hình như trong đời, chàng đã chưa từng nói với Chúa lời cảm tạ để đêm ấy, chàng quỳ gối lâu lắm…
Chàng đã không xin Chúa gì thêm….
GTR
(viết theo ý tưởng của
Loren Seibold)
Anh chị Thụ & Mai gởi