“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

“Lấp đất, hố tôi, lấp với tay cô nàng,”

Thì hãy chôn, trái tim non buồn thương.”

(Paul Simon/Scarborough Fair- Giàn Tiên Lý Đã Xa)

(Lc 21: 25-26)

Lúc tan ánh mặt trời”, giờ đã đến! “Trái tim non buồn thương”, thì hãy chôn! Ôi thôi. Phải chăng đó là giờ phút anh “lấp đất”, “hố tôi”, “giàn thiên lý đã xa mãi người ơi”? Người xa mãi, cứ tít mù lời đồn đại, về thế tận? Phải chăng ý/lời bài hát trên là lời “tiên tri”, “hạ hồi sẽ rõ”? Rõ như ban ngày. Như, ngày thế tận có thông tin dồn cục ở trang mạng?

Trả lời câu hỏi này, cũng nên tóm tắt vài bản tin đọc được ở Úc rất như sau:

“Tại sao thế giới không tận tuyệt ngày hôm ấy?

Vâng. Đó, chỉ vì mấy ông bạn làm lịch người sắc tộc Maya đã tính sai những tháng ngày còn dài, có thế thôi. Nhưng, chuyện này vẫn không ngăn cản cơ quan NASA của Hoa Kỳ vừa cho ra đĩa hình đặc biệt cho thấy lời tiên tri trên lịch của dân Maya, nước Mexicô đã không thành hiện thực.

Làm sao hiện thực được, khi ở đầu đĩa đã thấy ghi lời phân trần, như sau: “Xem đĩa, bạn sẽ thấy rõ một điều là: ngày hôm qua, thế giới của ta chưa đi vào “ngõ cụt”, tựa hồ ngày tận thế đâu. Đĩa hình nói ở trên chỉ muốn chứng tỏ một điều là: hành tinh
Nibiru được biết dưới tên “Sumêrian” sẽ đụng vào trái đất, xoá sạch sự sống của
mọi sinh vật ở đây. Nhưng sự thực, làm gì có hành tinh nào giống như thế.”

Lại có lời đồn này khác, cứ đưa ra những lời đoán rất bậy bạ những bảo rằng: Mặt trời sẽ hủy hoại trái cầu của chúng ta, cũng chóng thôi. Nhưng, một lần nữa, may cho con người, là đã có cơ quan NASA cũng chứng minh rằng điều này vẫn sai tuốt luốt. Chuyên gia Lika Guhathakurta lại cứ đoán già đoán non rồi bảo:

Ngay lúc này, mặt trời đang đi vào giai đoạn chóp đỉnh của chu kỳ 11 năm vần vũ vẫn cứ quay, nhưng nay là giai đoạn chót có hiện tượng kỳ lạ nhất trong 50 năm qua.”

Nói thế, có nghĩa là: từ trường mặt đất, lúc này đây, sẽ đi ngược chiều khiến cấu tạo nhiều biến động về khí hậu cực kỳ khó chịu? Và, hành tinh ta đang sống có rơi vào hố sâu đen ngòm mà trước đây ta chưa từng thấy? Cơ quan NASA một lần nữa lại nói tiếng“Không”, rất chắc nịch. Ts John Carlson cắt nghĩa trong đĩa hình rằng: “Ý niệm về thời gian mà sắc dân Maya khi xưa sử dụng đã đụng phải ý niệm của các nhà khoa học ngày nay, kiểu thoái hoá. Theo hiểu biết của ngành khoa học hiện đại,
thì Vụ Nổ Big Bang đã xẩy ra cách nay những 13,7 tỷ năm trời, rồi còn gì. Thế
nhưng, tháng ngày được ghi trong đống tro tàn mảnh vụn của nền khoa-học dân-tộc
Maya lại thấy những tháng ngày ngược ngạo đến tỷ tỷ năm xưa hơn thế. Lịch của
sắc dân này bới những cân-đong-đo-đếm như thế chỉ để dõi theo khoảng cách sai
biệt quá xa vời đối với hệ thống viết nên lịch chưa từng triển khai khi nào.
Thành thử, như quý vị thấy đó, chẳng có cái-gọi-là tận thế hay tận mạng gì hết
cả. Đấy chỉ là ý niệm vẩn vơ tương đương với chuyện quên không lấy lại đồng hồ
báo thức, chỉ thế thôi.”
(x. au.news.yahoo.com/world/a/-/world/15636301/why-didnt-the-world-end-yesterday 14/12/2012)

Thật đúng như phim tập! Phim, là phim về sự sống trên hành tinh mang tên địa cầu,
cũng rất rầu. Thế nghĩa là một số bà con ta hết chuyện để bàn rồi, bèn chui vào
địa hạt khoa học không gian với khoa chiêm tinh/bói toán rồi đồn rồi đoán. Đoán
thật hay đoán giả thế nào không biết, nhưng cũng đã làm nhiều người bấn loạn
lên, hết tự tử, rồi lại bắn giết các trẻ bé ở trường Mẫu giáo nọ, đến nực cười.

Thế nhưng, chuyện đáng cười của người đời không chỉ là đoán già đoán non ngày
thế tận. Mà là, những ý tưởng vẩn vơ, chết chóc, tựa hồ lời thơ với ca nhạc như
nghệ sĩ nọ vẫn từng hát:

“Tội nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà.


Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa.


Đứa bé lỡ yêu, đã lỡ yêu cô em rồi.


Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi.”

(Paul Simon – bđd)

Quả là, mỗi sớm mai im lặng trôi, tình quên thật. Người cứ mải quên sót mọi thứ
tình, để rồi luận bàn mãi những điều ít thấy, ít xảy ra. Chẳng thế mà, đấng bậc
nọ đã phải lên tiếng cả trong nhà thờ, qua bài chia sẻ rất nổi cộm như sau:

“Cuối năm 1999, dân chúng khắp nơi chừng như vẫn hối hả, ưu tư khi thế giới đang từ từ bước dần vào những ngày đầu của thiên niên kỷ mới. Có người dựa vào Phúc âm, để quyết đoán rằng: ngày thế tận đã gần kề. Và, Đức Kitô nhất định sẽ quang lâm giáng thế một lần nữa, vào ngày sinh thứ 2000 của Ngài.

Những ai quả quyết chuyện này, xem ra đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ mà các cụ ngày xưa vẫn dặn dò: hãy luôn đặt mình vào tình huống xấu nhất, để rồi từ đó mình mới tự tìm cách thoát ra, mà đi vào chốn lạc quan, đầy ân huệ. Thật ra, Đạo Chúa đã bước vào chốn lạc quan niên lịch từ thế kỷ thứ tư, sau công nguyên. Đúng hơn, đấy là năm 526 tại La Mã, tu sĩ uyên bác tên là Dionysius Exiguus đã dày công nghiên cứu các niên biểu ghi rõ ngày Đức Giêsu sinh ra, tử nạn và sống lại để biên
soạn làm niên lịch cho Hội thánh.

Nhiều năm sau, ông đã định ngày cho các nghi lễ phụng vụ để rồi đúc kết thành một bộ gọi là lịch Hội thánh. Với các dụng cụ sơ sài tự kiếm, một thày dòng chuyên tu như thày Dionysius làm được niên lịch Hội thánh như thế, cũng là chuyện phi thường, hiếm thấy. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các nguồn sử liệu bên ngoài và nhất là vào Tân Ước, khi kể về các vị cầm quyền Do Thái và La Mã ở Palestine, thì dứt khoát là lịch của Dionysius đã đi trễ, những 4 năm.

Đến năm 1582, Giáo hội biết rõ những sơ hở này, đã định sửa đổi. Tuy nhiên nếu sửa, thế giới sẽ phải bỏ phí đi, mất 4 năm. Chung cuộc, đã có quyết định là ta cứ để vậy. Như thế, tính đúng thực tại, phải thừa nhận rằng ngày Đức Giêsu quang lâm, lẽ đáng phải là năm 1996, chứ không phải 2000, như số dân con nhà Đạo từng khẳng định. Thêm một thực tế khác nữa, là: mỗi khi bắt đầu kỷ nguyên mới, tín hữu Đạo Chúa lại  được nghe kể về điềm thiêng dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao, tinh tú. Rồi đến, thiên tai hạn hán mất mùa, động đất sóng thần, cứ liên tục
xảy đến. Và, người dân ngoan hiền ở quận huyện lại sẽ cho rằng: ngày Chúa tái
lâm đã gần kề. Tuy nhiên, rõ ràng là ta vẫn chờ. Và, vẫn cứ chờ.

Nếu ai muốn xác minh về điềm báo khốc liệt như thế, có lẽ nên nhớ lại lời dặn dò của Chúa hôm trước: “Các con chẳng thể biết được thời gian và nơi chốn khi Con Người đến trong vinh quang.” Chính vì lời dặn này, mà cộng đoàn thánh Luca nghĩ rằng Đức Kitô sẽ nhanh chóng quang lâm, trong tương lai gần. Ngài sẽ đến lại trong huy hoàng, lộng lẫy. Thời gian vẫn cứ trôi. Điềm báo, dấu hiệu vẫn cứ đến. Và, cộng đoàn tiên khởi lúc đó mới vỡ lẽ rằng: ngày Chúa quang lâm không mang mốc chặng thời gian và không gian gì rõ rệt hết.

Thực tế cho thấy: thời gian và không gian luôn thuộc về Ngài. Hy vọng đợi chờ từ nơi tín hữu thời ban sơ đã phản ảnh tình huống bách hại, những là khổ đau. Tín hữu Đạo Chúa nay đà hiểu rõ: chẳng thể tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô một khi hành vi, cuộc sống của mình không phản ảnh được sự sống ở Nước Trời, Ngài hằng nói đến. Đó là mấu chốt của niềm tin. Đó mới là mốc chặng của Tin Mừng mặc khải.

Nói rõ hơn, nếu tín hữu Đạo Chúa sống và thực hiện điều Đức Kitô truyền dạy nơi Tin Mừng, bằng và qua cuộc sống thường nhật, thì chắc chắn thế giới này cần phải đổi thay. Thế  giới này sẽ có thay đổi. Thay đổi rất nhiều. Thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và khi đó, Đức Kitô mới quang lâm trong huy hoàng lộng lẫy, như mọi người chờ mong.

Cho đến nay, chưa nắm rõ được ngày giờ thế giới nhân trần đã đi vào giai đoạn tận tuyệt chưa. Nhưng ở đây, vào những giây phút đầu của niên lịch Hội thánh, ta biết rõ được hai điều: Đức Chúa sẽ trở lại bất cứ lúc nào khi ta thực hiện được tình yêu thương – tha thứ. Khi ta biết san sẻ tài sản ta có. Và, biết xót xa, độ lượng. Biết hy sinh cho những người có nhu cầu hơn ta. Thứ đến, vào ngày quang lâm Ngài đến lại, có thể sẽ không có hiện tượng mặt trời mặt trăng quay cuồng, nhảy múa. Và có thể,
cũng chẳng thấy hiện tượng thủy triều dâng sóng ngút ngàn, đâu. Và cuộc đời ta
vẫn cứ phẳng lặng. Vẫn trĩu nặng tình thương yêu, như trước.

Thực tế Nước Trời quang lâm đang diễn tiến. Quang lâm chính là lúc tình yêu dũng cảm của bậc cha mẹ đối xử với con. Quang lâm, là lòng thương yêu triển nở của vợ hoặc chồng đang diễn tiến với người phối ngẫu yếu đau.

Quang lâm còn là, lòng cảm thương yêu giúp đỡ của thế giới đã phát triển đang đùm bọc các quốc gia nghèo, thuộc thế giới thứ ba. Đại để là, mỗi khi ta có được những tình thương cao cả như thế, thì Vương quốc Nước Trời đã nguy nga, tráng lệ đủ để chứng minh rằng những điều Đức Giêsu loan báo về việc Ngài quang lâm, vẫn đến với chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ. Ở mọi nơi, vào mọi lúc.” (xem Lm Richard Leonard, Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C 02/12/2012 Bản Tin Giáo xứ Fairfield, Úc)

Có thể là bà con ta cứ mải bàn luận những chuyện tréo cẳng ngỗng như thế là do
hiểu không hết ý nghĩa của lời thánh hiền khi xưa từng viết:

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao.

Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang

trước cảnh biển gào sóng thét.

Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc,

chờ những gì sắp giáng  xuống địa cầu,

vì các quyền lực trên  trời sẽ bị lay chuyển.”

(Lc 21: 25-26)

Hiểu sự đời như thế, có khác nào người nghệ sĩ lại cứ viết:

“Này! Nàng hỡi nhớ may áo cho người.


Giàn Thiên lý đã xa tít mù khơi.


Tấm áo cắt ngay, đã cắt trên khăn lụa là.


Là, chiếc chăn đắp chung những ngày qua.”

(Paul Simon – bđd)

Chăn đắp chung, những ngày qua”, có phải là những tư tưởng buồn sầu ảo
não, vì tin vào ngày chấm hết của thế giới? “Giàn thiên lý đã xa tít mù khơi”,
phải chăng là cõi đất trời nay, tít mù tắp?

Để giải đáp, lại xin nghe những lời của đấng bậc thượng thừa, rất như sau

“Anh chị em có bao giờ về thăm nông trại nào đó vào một mùa hè nóng bỏng không? Nếu có, chắc anh chị em cũng có kinh nghiệm không ít về chuyện khan hiếm nước, như thế nào. Bản thân tôi, có nhiều dịp từng về quê thăm nông trại của ông chú ruột. Lúc ấy, chúng tôi gồm chừng 6, 7 người anh em họ, phần đông sống ở thị thành, về đây lưu lại sống trọn kỳ nghỉ. Một lần về là một lần thấy vui. Duy có điều mà chúng tôi cứ nhắc nhau mãi: phải cẩn trọng, khi sử dụng nước! Dường như, chúng ta quen sử dụng lượng nước tắm gội bao giờ cũng gấp đôi dung lượng của người anh em sống ở vùng sâu vùng xa, nơi thôn xóm.

Tôi nhớ mùa hè năm ấy ở miệt dưới, bà con chúng ta đã phải trông chờ hầu như suốt chín tháng trời ròng rã vẫn không thấy một giọt rơi vãi những nước mưa. Mãi về sau, vào buổi bóng xế hôn hoàng hôm đó, chúng tôi mới thấy cảnh “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Và, từng đám mây vần vũ từ đâu đến. Chốn thiên đàng như rộng mở. Và sau đó, từng khối và từng khối nước ào ào trút xuống đến độ chúng tôi không biết
lấy gì để hứng. Tựa như một hoạt cảnh, anh em chúng tôi vụt dậy chạy nhanh ra
đứng ngồi nơi lộ thiên, quyết vui hưởng ơn mưa móc tràn đầy những nước và nước.
Chẳng một ai muốn cất nên lời. Anh em chúng tôi, đứng đó tận hưởng những giọt
vắn giọt dài, đầy ân sủng. Mình mẩy chúng tôi ai nấy đều ướt sũng như chuột
trong hang ngập nước, nhưng vẫn cứ đứng mà đón nhận ơn mưa móc. Vạn vật, chừng như chỉ mong mỗi một điều là được triền miên tắm gội, toàn bằng nước .

Trong thư thánh Giacôbê tông đồ, hình ảnh mong chờ cơn nước lũ đổ xuống trên ta, được coi như ví dụ để hiểu rõ thế nào là sự chờ đợi ngày Đức Kitô đến lại. Đây, là hình ảnh sắc nét nhất, về Vọng chờ. Mỗi năm, vào mùa này, ta đều liên tưởng đến cảnh trí, qua đó nhân loại ao ước chờ mong dấu hiệu về cuộc sống mới, nơi Giêsu Đức Chúa.

Nhiều thế hệ cứ thế trôi qua, nhưng dân con nhà Đạo vẫn ngước mắt nhìn lên bầu trời rộng mở, ngong ngóng/kỳ vọng có được dấu hiệu nào đó cho thấy: hôm nay là ngày ơn cứu độ của Đức Chúa đổ tràn hồng ân, cho muôn dân. Thế rồi, vào buổi tối trời hôm ấy, theo cách thức không ai có thể mường tượng được; không kèn không trống, một Hài Nhi đã lao vụt về với thế giới gian trần, để lập nên triều đại cuối cùng, cho tình yêu của Đức Chúa.” (xem Lm Richard Leonard sj, Suy Niệm Lời Chúa , Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng năm C, Bản Tin Giáo xứ Fairfield Úc 16/12/2012)

Nói gì thì nói, bàn gì thì bàn, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cũng chỉ nên bàn bằng các câu truyện kể nhè nhẹ về tình yêu, hy vọng và niềm tin còn đứng vững như sau:

“Ngay từ khi lọt lòng mẹ, bác sĩ đã quả quyết rằng Kimberly Marshall không thể nào sống được. Bé bị chứng Cytic Fibrosis, một chứng bịnh bẩm sinh và di truyền mà người ta thường gọi tắt là CF. Trong sự tuyệt vọng để cứu sống con mình, mẹ của Kim đã mang bé về nhà, mỗi ngày ba bốn giờ, bà và bà ngoại của Kim đã thay phiên nhau vỗ nhẹ trên lưng và ngực của bé, với hy vọng mong manh là có thể làm tan đi những cục đờm đang đóng nghẹt trong phổi của bé. Một bác sĩ chuyên khoa về CF cho biết, diệt trừ những cục đờm bằng cách này, chẳng khác gì dùng chổi để quét mật ong trên sàn nhà.

Ngoài sự dự liệu của mọi người, bé Kimberly đã thoát được lưỡi hái của tử thần. Bé lớn lên và vào trường tiểu học.

Kim còn học vũ ballet và gia nhập đội soccer của trường. “Kìa nhìn xem công chúa của tôi” mẹ của Kim thường hãnh diện nói như vậy, mổi khi bà đứng bên lề sân cỏ để xem Kim đá bóng.

Bà vẫn mơ ước là Kim sẽ lớn lên bình thường nhưng những đứa trẻ bình thường khác. Bà mơ ước rằng Kim sẽ lên trung học, sẽ tham dự buổi khiêu vũ cuối năm lớp 12, và một buổi tối sẽ ngẩng mặt lên để đón nhận nụ hôn đầu của một chàng thanh niên đẹp trai.

Nhưng bác sĩ Robert Kramer, vị bác sĩ chuyên khoa về CF đầu tiên tại Dallas, đã nhiều lần khuyến cáo mẹ của Kim là cô bé chỉ tạm thời lướt thắng được cơn bịnh mà thôi. Giống như một tên sát nhân nguy hiểm, các bác sĩ chưa có phương cách để ngăn chận được CF. Mặc dù với nền y khoa hiện đại cùng thuốc men và máy móc tối tân, cũng chỉ giúp các bệnh nhân dễ chịu hơn, ít đau đớn hơn mà thôi. Tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân CF chỉ ở vào khoảng 29.

Ðúng như lời của bác  sĩ Kramer, sức khoẻ của Kim tự dưng tuột dốc như một cái phao bị xì hơi. Mẹ của Kim, không còn cách nào hơn, bắt buộc phải mang Kim vào bệnh viện Presbyterian tại Dallas để chữa trị. Và cứ như vậy, Kim chỉ khoẻ được vài tháng, rồi lại phải vào bệnh viện…, lại khoẻ vài tháng rồi lại vào bệnh viện.

Trong những lần phải nằm bệnh viện, Kim luôn luôn mang theo những con thú nhồi bông, cái chăn màu  hồng mà cô bé thích nhất, cùng quyển nhật ký thân yêu. Mỗi khi chứng kiến một bạn cùng phòng bị CF cướp đi mạng sống, Kim lại viết vào nhật ký của mình, chẳng hạn như: “Wendy đã chết vào lúc 8 giờ sáng nay. Tội nghiệp nó quá. Nó đã đau đớn suốt đêm”. Mẹ của bé đã nghĩ thầm “Có lẽ đây là cách Kim
chuẩn bị cho những gì có thể xảy ra cho cô bé trong tương lai chăng?”.

Trong một thời gian, Kim đã cố gắng sống như một đứa trẻ “bình thường”. Cô thường hay gọi những đứa trẻ may mắn không bị chứng CF là “bình thường”. Trong những năm ở trung học, Kim đã cố gắng để lấy điểm A hay B. Cô mặc áo đầm dài để che giấu đôi chân gầy guộc, khẳng khiu của mình. Khi những bạn học hỏi về những cơn ho không dứt của cô, thì Kim trả lời rằng cô bị hen suyễn. Cô cũng chở những
bạn gái khác trên xe hơi của mình, cũng bấm còi inh ỏi, cũng vẫy tay chào và
cười duyên với bọn con trai cùng trường.

Nhưng Kim vẫn không thể lừa dối được thực tế. Bộ tiêu hoá của cô đặc nghẹt những đờm, khiến cô bị đau bụng và tiêu chảy. Thần kinh bị xáo trộn nên Kim đi đứng không vững. Ðôi khi Kim cũng bị hoa mắt.

Cuối cùng, cuối năm lớp 12, Kim phải rời trường để học tại gia vì sức khoẻ của cô quá yếu. Trong một phút nản lòng, Kim đã từ chối không muốn hình của mình được đăng trong kỷ yếu của trường, viện cớ là cô quá ốm yếu và xấu xí. Chán chường, Kim trở nên gắt gỏng với mọi người và hay cãi cọ hoặc xung đột với em gái của mình. Ðể giải sầu, Kim xem đi xem lại bộ phim “Blue Lagoon” không biết bao nhiêu
lần. Bộ phim nói về cuộc đời của hai đứa trẻ, một trai một gái, bị đắm tàu và
sống bơ vơ trên một hoang đảo. Cuối cùng, hai người đã yêu nhau tha thiết.

David Crenshaw, một bệnh nhân CF, đã để ý đến Kim khi hai người còn điều trị tại bệnh viện Presbyterian vào mùa xuân 1986. Kim, ở tuổi 16, ốm và xanh xao nhưng không thiếu nét dễ thương với mái tóc đỏ ngang lưng, buông xoã trên chiếc áo ngủ
hồng. David, lúc đó 18, mặc áo thun rộng thùng thình, quần pajama bạc màu, mang
cặp kiếng cận to tổ bố với hai gọng kính gãy được dán lại với nhau bằng miếng
băng keo.

“Ðừng hy vọng con bé để ý đến mày”, Doug Kellman, người y tá trong bệnh viện thường trêu David như vậy mỗi khi bắt gặp David đang mê mẩn nhìn trộm Kim. Thật tình mà nói, khó có thể tưởng tượng được David và Kim sẽ trở nên một cặp tình nhân. Kim thích quần áo đắt tiền, nước hoa và mỹ phẩm. Cô thích ngồi hằng giờ trên giường để đọc tiểu thuyết tình cảm. Trong khi đó, David nổi tiếng thích lấy le với
những cô gái bằng những mầu chuyện vui tục tằn.

Trông có vẻ yêu đời và khoẻ mạnh, David là một huyền thoại của khu CF. Không một bệnh nhân nào thuộc khu CF dám làm những việc David đã làm. Chẳng hạn như khi David không phải nằm bệnh viện, anh rất thích đua xe hơi mini tại sân đua gần nhà. “Mục đích của chúng tôi là giúp cho David sống như một đứa trẻ khỏe mạnh. May ra nhờ vậy, nó có thể lướt thắng được căn bịnh hiểm nghèo này”, ba của David đã nói như vậy.

Ðúng thế, David không  bao giờ biểu lộ cho người khác biết là mình bị bệnh. Anh đã tổ chức cuộc đua xe lăn và cuộc thi ném cà chua trên từng lầu 3 của bệnh viện. Có một đêm, David đã dẫn một số bệnh nhân CF đi đua xe mini, trong sự giá lạnh của mùa đông với nhiệt độ bên ngoài xuống gần 0 độ bách phân. “Có lẽ hắn nghĩ rằng hắn bất tử”, bác sĩ Kramer thường đùa như vậy.

Trong suốt hai năm  trời, David thường đi qua cửa phòng của Kim, lấy can đảm vào phòng, tán tỉnh. Nhưng Kim chỉ mỉm cười rồi lại cắm cúi đọc sách. Nhưng David chẳng nản lòng. “Khi David được ở nhà trong khi Kim phải ở lại bệnh viện, David thường hay gọi điện thoại cho tôi để hỏi han bệnh tình của Kim, mặc dầu Kim chẳng bao giờ để ý đến David. Ngay cả những khi David hỏi giờ, Kim cũng không thèm đáp lại”, người y tá cho biết như vậy.

Một điều ngạc nghiên, rất nhiều mối tình đã được kết hợp trong khu CF. “Ðừng nghĩ rằng chỉ vì họ bệnh hoạn mà họ không nghĩ đến tình yêu”, bác sĩ Kramer nói như vậy, “Có lẽ họ nghĩ đến tình yêu còn nhiều hơn những người khoẻ mạnh. Ðó là một
cách để họ biểu lộ sức sống và sự yêu đời của họ cho mọ người biết”.

Vào cuối năm 1988, Kim  chơi thân với một bệnh nhân cùng khu CF tên là Steven. “Tôi không nghĩ mối tình của họ sẽ bền vững. Họ sợ phải sống với nhau”, David khẳng định như vậy. Ðúng như lời David, cuộc tình của Kim và Steven chỉ một sớm một chiều đã tan vỡ.

Cuối mùa thu năm 1989, khi David và Kim, cả hai cùng được dưỡng bịnh tại tư gia, David đã gọi điện thoại mời Kim đi ăn tối. Mặc dù Kim đã quyết liệt từ chối, David vẫn lì lợm bảo Kim “Anh sẽ có mặt tại nhà em vào lúc 8 giờ tối, không nhưng không nhị gì hết cả”. Hoảng sợ, Kim rủ theo cô em gái, Pettri, để cô em ngồi ghế trước
với David còn nàng thì ngồi băng sau, nhất định không thèm nói chuyện với
David. Suốt bữa ăn, Kim hoàn toàn im lặng.

Nàng đã trợn mắt lên với David khi anh đề nghị cả ba cùng đi khiêu vũ. Khi David đưa Kim về đến nhà, nàng mở cửa xe và chạy một mách thẳng lên phòng, đóng kín cửa lại.

Dù vậy, David vẫn không bỏ cuộc, lì lợm, trường kỳ mặt dày đến nhà Kim. Thế rồi anh đã rủ được Kim đi chơi bowling. Sau đó, Daivid còn dẫn Kim đến sân đua để xem anh đua xe hơi mini.

Bất kể mọi chuyện, cuối cùng mối tình của David và Kimberly cũng đã nảy nở. Kim đã thật sự yêu David. Ngày 17 tháng 11 năm 89, Kim đã viết vào nhật ký của mình “Ðêm hôm nay, mình và David đã hôn nhau lần đầu. Lạy Chúa, xin chúc phúc cho mối tình của chúng con và xin cho chúng con yêu nhau mãi mãi”.

Sáu tháng sau, Kim và David tuyên bố làm lễ đính hôn. Tin được tung ra làm tất cả mọi người trong gia đình hai bên đều sửng sốt và bàng hoàng. “Tụi mày điên cả rồi, cả hai đứa bay đều bệnh hoạn”, ba của David đã lớn tiếng ngăn cản con. Riêng mẹ của Kim cũng khuyên ngăn con bằng một giọng đầy nước mắt “Con có biết rằng một
trong hai đứa sẽ chết trong vòng tay của đứa kia hay không?”.

Nhưng Kim và David vẫn quyết định lấy nhau. “Tôi nghĩ Kim biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để nó được yêu”, mẹ của Kim cuối cùng đã nói như vậy và đã đồng ý tán thành cuộc hôn nhân.

Ngày 27 tháng 10 năm 1990, Kim trong chiếc áo cưới trắng tinh, sung sướng bước lên cung thánh, trước mặt Thiên Chúa nhận David làm chồng. Thánh lễ được cử hành trong những tiếng ho sặc sụa của các bệnh nhân khu CF. Tất cả được mời đến để tham dự, chứng kiến và chung vui ngày hôn lễ của Kim Marshall và David Crenshaw.

Họ chung sống với nhau bằng số tiền cấp dưỡng khiêm nhường trong một căn hộ nhỏ bé nhưng rất ấm cúng. Căn hộ được trang bị như một bệnh viện với những bình dưỡng khí, một tủ đầy thuốc và một tủ lạnh chứa đầy nước biển.

Việc dọn dẹp nhà cửa mới thật là khó khăn. Những khi phải dọn dẹp hoặc giặt giũ, họ phải mất cả ngày trời mới làm xong việc. Ðến tối, cả hai đều mệt lả. Dầu vậy, họ là cặp vợ chồng hạnh phúc nhất trên đời. David gọi Kim là “cọp con” vì nàng có mái
tóc hung đỏ.  Kim gọi Daivid là “gấu rừng” vì chàng phá như gấu. Chàng luôn luôn mua cho nàng những tấm thiệp ướt át nhất, càng ướt át bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Nàng luôn luôn viết cho chàng những bức thư tình thật dài, thật nồng nàn và tình tứ. “Chúng ta sẽ vượt qua mọi thử thách. Chúng ta sẽ thắng”, họ thường quả quyết với nhau như vậy.

Ðể kiếm thêm tiền tiêu vặt, David nhận thêm việc sửa xe hơi mini. Anh lại còn ghi tên học để lấy bằng Cử nhân về kế toán. Một người bạn thân ở khu CF khuyên David không nên phí sức. “Những việc tôi làm tất cả chỉ vì Kim. Ðời tôi bây giờ chỉ có Kim mà thôi”, David trả lời.

Vào năm 1992, những mạch máu trong người Kim bắt đầu tắt nghẽn. Vì cơ thể Kim không thể tiếp nhận những dinh dưỡng từ bộ tiêu hoá, Kim đã xuống cân một cách thảm hại. Thân thể nàng chỉ còn da bọc xương. Nàng rất xấu hổ khi tới những nơi công cộng. David đã viết cho Kim “Này cọp con, em là người đẹp nhất của đời anh. Anh yêu em bằng tất cả con tim, linh hồn và khối óc củ anh. Gấu rừng”.

Trong những lần Kim phải nằm bệnh viện, David không rời Kim nửa bước. Anh đã ngủ trên chiếc ghế bố kê trong phòng. Ðể giúp Kim khuây khoả, David đã đưa Kim đến khu sơ sanh, để Kim được ngắm những đứa trẻ mới chào đời. Và nếu nửa đêm Kim có đòi ăn kẹo, David chẳng ngần ngại, bất kể thời tiết, khoác áo đi mua ngay những viên kẹo mà Kim ưa thích. Lạ lùng thay, sức khoẻ của Kim càng ngày càng khá hơn. Cuối cùng, nàng đã được bác sĩ cho xuất viện.

Ðầu năm 1993, bệnh tình của David bỗng dưng trở nên trầm trọng. Những tiếng ho của anh lớn hơn. David ôm ngực ho từng cơn, ho sặc sụa. Những cơn ho như muốn phá vỡ tung lồng ngực của anh. Mặt David sưng lên như bị phù thủng. Dần dần, David đã phải thở bằng dưỡng khí. Nhưng David vẫn đoan chắc với Kim là chàng chẳng sao cả, chỉ cần tĩnh dưỡng ít lâu là sẽ khỏi. David đã giấu Kim những điều mà bác sĩ Kramer đã cho anh biết trong kỳ khám nghiệm mới đây: phổi của anh đã rách nát, thanh quản sắp nghẹt cứng. David đang chết lần, chết mòn vì thiếu dưỡng khí.

Chạy đua với thời gian, David không để lãng phí một giây phút nào. Tháng 7 năm 1993, để kỷ niệm sinh nhật thứ 26 của chàng và thứ 24 của nàng, David rủ Kim đi nghỉ hè ở bãi biển Florida. “Ðó là lần đầu tiên họ cảm thấy rất thoải mái khi ra khỏi
nhà để tới vùng biển. Cả hai đều mang theo bình dưỡng khí. Họ ngồi bên nhau,
nắm tay nhau trên bãi cát vàng”, Mandy, em gái Kim cho biết như vậy.

Ba tháng sau, David và Kim cùng đi khám bệnh. Trong khi Kim đợi ở phòng bên, bác sĩ Kramer, sau khi khám cho anh, đã nói với anh rằng “Anh phải nhập viện ngay tức khắc, lần này sẽ hơi lâu”. David trầm ngâm một hồi lâu, rồi nói “Xin bác sĩ tận tình chăm sóc cho Kim”.

Bác sĩ Kramer đến phòng Kim và cho nàng hay tin chẳng lành. Kim cúi đầu yên lặng, cố giấu hai hàng nước mắt “Xin bác sĩ tận tình giúp anh, đừng để anh phải đau
đớn”, nàng nức nở khẩn nài với bác sĩ Kramer.

Trong suốt ba mươi năm chuyên khoa về CF, bác sĩ Kramer đã từng chứng kiến hơn 400 bệnh nhân trẻ qua đời. Ðể khỏi bị ám ảnh, ông đã cố gắng không để tình cảm mình bị chi phối với những trường hợp như của David. Nhưng lần này, ông đã ôm Kim vào lòng và ông không sao cầm được nước mắt của mình.

David nhập viện ngày 21 tháng 10 năm 1993. Kim ngồi bên cạnh anh. Nàng đã cố gắng viết một bức thư cho Hội Ðồng Y Khoa của bệnh viện Presbyterian, khẩn nài xin họ thay phổi cho David. Nhưng Kim không bao giờ viếc xong lá thư.

Năm ngày sau, môi và móng tay của David trở nên bầm tím. Kim thổn thức bên anh “Anh ơi, đừng đi, đừng bỏ em”. David không nói nên lời, chỉ mấp máy đôi môi “Anh
yêu em”, rồi chàng gởi cho nàng một nụ hôn gió. Hai người cầm tay nhau
thật chặt, nhìn nhau một lần cuối thật lâu. David bóp mạnh tay Kim rồi nhắm mắt
yên giấc ngàn thu.

Sau ngày tang lễ của David, Kim trở nên điên loạn. Một tuần sau, mẹ nàng đưa nàng trở lại bệnh viện. Sau khi khám cho nàng, bác sĩ Kramer nói với mẹ nàng “Cơ thể của nàng đã kiệt lực. Kim đang chết mòn vì nhớ thương David”.

Rồi Kim rơi vào trạng thái nửa tỉnh, nửa mê trong hai ngày. Bỗng nhiên, vào sáng sớm ngày 11 tháng 11 năm 1993, Kim trở nên tỉnh táo lạ thường. Nàng mở mắt và nói bằng một giọng rất lạ, nhẹ nhàng như tiếng chim mà không ai hiểu nổi. Người nữ y tá chăm sóc nàng cho biết hình như Kim đang nói chuyện với David. Sau đó, Kim từ từ nhắm mắt, bình thản ra đi về bên kia thế giới.

Kim được liệm trong chiếc áo cưới trắng và được chôn bên cạnh David. Trên ngôi mộ đôi, dựng một tấm bia đá, với những hàng chữ được khắc sâu như sau “David S (Gấu rừng) Crenshaw và Kim (Cọp con) Crenshaw, bên nhau mãi mãi. Nghĩa phu thê trọn 3 năm”.

Gia đình và bạn bè đều đồng ý là chuyện tình của Kim và David không giống bất cứ một chuyện tình nào cả. Riêng bác sĩ Kramer đã tâm sự “Ðối với tôi, chuyện tình của họ như chuyện tình của Romeo và Julliette”.

Một tuần lễ sau, trong lúc mẹ của Kim thu dọn đồ đạc của hai con, bà đã tìm thấy một tấm thiệp mà David đã gởi cho Kim trước khi chàng rời bỏ thế gian. Tấm thiệp có những lời tình tự như sau “Em yêu, chúng ta gần nhau ngay cả khi chúng ta xa nhau. Hãy ngước mắt nhìn lên, chúng ta đang sống trong bầu trời đầy tinh
tú.”
(x. Trần Quốc Sỹ, theo “The Love Like No Other” Reader’s Digest, May 1995)

Truyện kể hôm nay, người kể không ghi thêm một lời bàn nào hết. Nhưng bàn thêm
mà làm gì. Bởi, cũng như câu chuyện về ngày sau hết của thế giới, cũng chẳng
cần bàn tán nhiều mà làm gì, chỉ cần cảm nghiệm là đủ. Cũng thế, truyện kể về
tình yêu thương, trước khi đi vào cõi hết, cũng đại để như truyện kể về ngày
thế tận.

Hôm nay đây, bàn về câu chuyện loanh quanh ngày thế tận, lại có người đến gần
bần đạo, đưa ra một câu hỏi nhỏ: “Nếu anh biết rằng ngày mai là ngày
thế tận, thì anh tính sao?”
Bần đạo nhớ mang máng câu trả lời/trả vốn
của mình chỉ thế này: “Khi ấy tôi cũng sẽ lấy giấy bút ra để viết đôi giòng
phiếm ngăn ngắn về những cảm nghiệm của mình trước khi không còn có khả năng để cầm bút mà viết nữa. Và chuyện phiếm tôi viết khi ấy, cũng chẳng có gì để ai
đọc, vì chẳng còn ai để đọc nữa, nhưng vẫn còn người để viết, ấy là tôi.”


Trần Ngọc Mười Hai


Và đôi giòng tưởng tượng về ngày tận cùng
của thế giới và cuộc đời.

Maria Thanh Mai gởi

Tình yêu chân thực

Tình yêu chân thực (Nhận xét của một bác sĩ)

Vào khoảng 8 giờ rưỡi một buổi sáng bận rộn, một ông cụ tuổi ngoài tám mươi đến để người ta rút chỉ khâu vết thương trên ngón tay cái của ông. Ông cụ nói ông vội lắm vì ông có cái hẹn lúc 9 giờ.

Thấy ông cụ có dấu hiệu nôn nóng tôi mời ông ngồi. Tôi biết sẽ phải mất hơn một tiếng đồng hồ nữa trước khi có ai đó có thể chăm sóc cho ông. Tôi nhận thấy ông bồn chồn nhìn đồng hồ và tôi quyết định xem xét vết thương của ông vì lúc ấy tôi không bận gì với bệnh nhân nào khác.

Theo chỗ tôi thấy, vết thương của ông đã khá liền miệng. Thế nên tôi bảo một
trong các bác sĩ mang dụng cụ đến để tôi tháo chỉ và băng lại cho ông ta. Trong
khi tôi chăm sóc vết thương cho ông cụ, hai chúng trôi trò chuyện với nhau. Tôi
hỏi chắc ông có hẹn đến khám nơi một bác sĩ khác hay sao mà vội thế. Ông cụ nói
không, và ông bảo rằng ông cần đến nhà dưỡng lão để ăn sáng cùng với vợ
ông.

Tôi hỏi thăm về sức khỏe bà vợ ông. Ông nói vợ ông đã ở trong viện dưỡng lão từ
lâu rồi vì bà là nạn nhân của bị bệnh Alzheimer (mất trí nhớ).

Tôi hỏi thêm, ông đến hơi trễ chắc bà ấy bực mình lắm nhỉ? Ông đáp rằng bà có
còn nhớ ông là ai đâu, và từ năm năm nay bà không còn nhận ra ông nữa! Tôi ngạc
nhiên hỏi: “Vậy mà sáng nào ông cũng đến đó dù bà ấy không còn nhận ra ông
sao?”

Ông cụ mỉm cười vỗ nhẹ lên bàn tay tôi: “Bà ấy không biết tôi, nhưng tôi vẫn
còn biết bà ấy là ai mà.”

Tôi đã phải cầm nước mắt khi ông cụ bước đi. Cánh tay tôi nổi da gà và tôi
nghĩ: “Đó là thứ tình yêu mà suốt đời tôi mong muốn có”. Tình yêu chân thực
không vì vật chất, cũng chẳng [cần phải] mang tính lãng mạn gì. Tình yêu chân
thực là sự chấp nhận tất cả những gì đang hiện hữu, đã có hay đã không có, sẽ
có hay sẽ không bao giờ có [nơi người mình yêu].

On True Love (a Doctors observation):

It was approximately 8.30 a.m. on a busy morning when an elderly gentleman in
his eighties arrived to have stitches removed from his thumb. He stated that he
was in a hurry as he had an appointment at 9.00 a.m.

I took his vital signs and had him take a seat. I knew it would take more than
an hour before someone would to able to attend to him. I saw him check his
watch anxiously for the time and decided to evaluate his wound, since I was not
busy with another patient.

On examination, the wound was well healed. Hence, I talked to one of the
doctors to get the supplies to remove his sutures and redress his wound. We
began to engage in a conversation, while I was taking care of his wound. I
asked him if he had another doctor’s appointment later as he was in such a
hurry. The gentleman told me no, and said that he needed to go to the nursing
home to have breakfast with his wife.

I inquired about her health. He told me that she had been in the nursing home
for a while as she was a victim of Alzheimer’s disease.

I probed further and asked if she would be upset, if he was slightly late. He
replied that she no longer knew who he was, and that she had not been able to
recognize him since five years ago.

I asked him in surprise, “And you still go every morning, even though she
doesn’t know who you are?”

Then he smiled as he patted my hand and said, “She doesn’t know me, but I
still know who she is!” 😉

I had to hold back my tears as he left. I had goose bumps on my arm, and I
thought, “That is the kind of love I want in my life.” True love is
neither physical, nor romantic. True love is an acceptance of all that is, has
been, was not, will be, and will not ever be…

Anh Nguyễn V.Thập gởi

 

VÔ CẢM

VÔ CẢM

MINH DIỆN

Chuyên có thật 100%


Trời bừng sáng sau cơn  mưa đêm… Bầu không khí tươi mát ùa vào căn phòng trực cấp cứu của bệnh viện.  Cô y tá trẻ mặc bộ blue trắng nhận ca trực, cô vừa lật cuốn sổ ghi chép của  ca trước vừa sửa lại bình hoa tươi trên bàn. Hai má cô ửng hồng, đôi mắt long  lanh và làn môi xinh tươi như hoa hồng mới nở.
Cách đó không xa, ông  bác sĩ tuổi trung niên ngồi trước bàn làm việc của mình, mỉm cười nhìn dòng  chữ “Thầy thuốc như mẹ hiền” uốn bằng đèn huỳnh quang màu đỏ tươi rực rỡ vừa  mới sắm.
Bỗng một chiếc xe gắn  máy phóng thẳng tới cửa phòng cấp cứu. Gã lái xe mặt mày bậm trợn, ngồi sau  là cô gái mặc mỗi chiếc áo nịt, phấn son nhòe nhoẹt. Cô ta đang ôm một thằng  bé chừng mười tuổi được quấn trong cái áo khoác phụ nữ loang máu.
Gã lái xe giật thằng bé  trên tay cô gái rồi bồng vào trong phòng, nói với cô y tá:
– Bác sĩ ơi cấp cứu!…
Cô y tá rời mắt khỏi  cuốn sổ:
– Sao vậy?
– Thằng bé bị tai nạn giao thông!
– Anh là bố nó à?
– Không, tôi lái xe ôm…
– Thế còn cô kia?
Cô y tá liếc mắt về phía cô gái ăn mặc hở hang đứng ngoài cửa rồi bĩu môi cau mặt! Nước mưa đã cuốn trôi lớp son phấn rẻ tiền trên mặt cô ta để lộ ra lớp da nhợt nhạt. “Trông chẳng khác gì gái điếm đứng đường mạt hạng. Vào nơi công cộng mà dám phô ra như thế à!?…” -Cô y tá nghĩ. Quả thật cô gái mặc áo ngực ấy là một gái điếm nghèo, sáng sớm nay cô đang đi xe ôm của gã kia về phòng trọ thì gặp thằng bé bị tai nạn nằm ngất bên đường. Chiếc xe nào đã quẹt phải nó rồi bỏ chạy luôn. Thương hại, cô cởi áo khoác quấn cho thằng bé rồi cùng anh xe ôm đưa nó đến đây.
Gã xe ôm bối rối liếc qua cô gái, ấp úng trả lời cô y tá:
– À! Cô này…
Cô y tá xinh đẹp không thèm nhìn hai người, cất giọng lạnh lùng:
– Sang bên kia làm thủ tục nhập viện.

Gã xe ôm đặt thằng bé xuống thềm, rồi chạy sang dãy nhà đối diện. Người bảo vệ chỉ cho gã cái lỗ hình vuông bằng hai bàn tay trên tấm kính dày, chung quanh bịt lưới sắt. Gã khom lưng nhìn vào trong ô vuông đó, thấy gương mặt hồng hào của người nữ nhân viên ngồi sau chiếc bàn chất đầy sổ sách. Gã nhũn nhặn:
– Chị ơi, cho tôi làm thủ tục nhập viện…
Người phụ nữ không ngẩng mặt lên, nói máy móc:
– Tên gì? Hộ khẩu? Chứng minh nhân dân?…
– Dạ… thằng nhỏ mà!…
– Thằng nhỏ à?… Anh là gì của nó?
– Tôi lái xe ôm… Thấy nó bị tai nạn nên chở tới đây.
– Rắc rối đây! Sao anh không gọi bố mẹ nó tới làm thủ tục nhập viện?
Gã xe ôm nói lắp bắp:
– Tôi đâu biết bố mẹ nó… Với lại gấp quá! Cấp cứu mà!
– Thôi được! Nộp tiền tạm ứng viện phí.
– … Bao nhiêu chị?
– Hai triệu.
Gã xe ôm ngẩn ra, hắn biết trong túi mình có chưa tới hai trăm ngàn. Gã móc hết tiền ra rồi nói với chị nhân viên:
– Tôi chỉ có bi nhiêu…
Chị làm ơn cho thằng bé nhập viện, rồi tôi sẽ tìm bố mẹ nó tới thanh toán.
– Không được! Anh không biết bố mẹ nó thì làm sao mà tìm?
– Chị làm ơn… Thằng bé sắp chết!…
– Đã bảo không được! – Chị nhân viên gắt, cộc cằn máy móc – Bệnh viện đã quy định.

Gã xe ôm đành chạy trở lại lại phòng cấp cứu, hỏi cô gái điếm:
– Cô có tiền không?…
Cô gái khẽ quay đi, moi trong chiếc áo nịt ra mấy tờ bạc được xếp cuốn chặt rồi đưa cho anh xe ôm. Anh ta mở ra: Chưa tới trăm ngàn!…
– Bi nhiêu nhằm nhò gì?
– Anh xe ôm lắc đầu cau mặt.
Mặt anh xe ôm xám ngắt, mắt đỏ ngầu, hai hàm răng nghiến chặt của anh ta như muốn nhai nát cái gì đó… Cô gái điếm nhìn bộ mặt cau có của anh ta mà phát sợ, nói như phân trần:
– Đêm qua mưa… tôi không có khách…

Thằng bé nằm dưới thềm kêu khóc thảm thiết. Nhìn nó thật thê thảm: Chiếc quần đùi rách tướp để lộ ra cẳng chân dập nát, da thịt chỗ đó bầy nhầy. Máu vẫn chảy từ vết thương chưa được băng bó. Da thằng bé bợt nhớt như con cá ươn, ngực thoi thóp và đôi mắt long lanh đảo nhìn mọi người như cầu cứu. Trong túi áo ngực của nó còn thò ra xấp vé số ướt nhẹp.
Gã xe ôm nhìn thằng bé mà ứa nước mắt. Gã chợt quỳ mọp xuống trước mặt ông bác sĩ, hai tay cầm mấy tờ bạc cô gái điếm vừa đưa đội lên đầu:
– Tôi lạy bác sĩ! Bác sĩ làm ơn cứu thằng bé!…
Khuôn mặt đen sạm của gã xe ôm méo mó khổ sở. Ông bác sĩ ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhịp nhịp chân phải…

Gã xe ôm biết có quỳ xin cũng không được. Gã đứng dậy nói với cô gái điếm:
– Thôi được! Cô trông thằng bé, để tôi đi cầm đỡ chiếc xe vậy.
Cô gái điếm lau nước mắt:
– Hay anh… để em qua phòng bên kia… bán máu?
Gã xe ôm nhìn lướt qua thân hình gầy gò của cô gái, lắc đầu:
– Cô thì có bao nhiêu máu mà bán? Chưa chắc họ đã chịu mua…
Gã nói xong hấp tấp chạy ra cửa bệnh viện.

Lúc ấy phòng cấp cứu tiếp nhận thêm mấy bệnh nhân: Một cô gái tự tử vì thất tình, một anh chàng say rượu bị trúng gió và một người đàn ông bị nhồi máu cơ tim – ông này được đưa tới bằng xe hơi Mercedes kèm hai Honda @ hộ tống. Người thân của ông nhà giàu đứng chật phòng cấp cứu. Bà vợ mập mạp của ông ta nhanh nhẹn dúi vào tay bác sĩ và cô y tá mỗi người một phong bao:
– Tốn kém bao nhiêu cũng được, bác sĩ mau mau cứu sống chồng tôi.
Ông bác sĩ vội vã rời cái bàn như bị bắt vít từ sáng, cô y tá cuống quýt đẩy băng ca… Ông bệnh nhân “đại gia” được đưa thẳng vào phòng chăm sóc đặc biệt không cần qua thủ tục nào.
Trong khi đó, thằng bé bị bỏ quên ngoài thềm cùng cô gái điếm.

… Ánh mặt trời rực rỡ chiếu xuống sân bệnh viện. Ba lá cờ phấp phới tung bay trên đỉnh cột thép không rỉ, trên cùng là cờ đảng,giữa là cờ tổ quốc và dưới cùng là cờ bệnh viện với hình con rắn mổ cái cốc thủy tinh. Cuộc chào cờ buổi sáng thứ hai của cán bộ nhân viên bệnh viện vừa kết thúc. Người thân của những bệnh nhân nghèo kéo nhau tụ tập dưới chân cột cờ để nhận cơm, nhận cháo từ thiện của một sư bà mang tới.
Đang múc cơm cháo cho mọi người, sư bà bỗng nghe tiếng kêu rên của thằng bé từ phòng cấp cứu vọng ra. Bà ngừng tay lắng nghe… tiếng kêu rên càng lúc càng rõ hơn… Bằng tâm thức của một người tu hành, sư bà thấu hiểu tiếng kêu tuyệt vọng của một sinh linh. Bà vội trao công việc phát cơm cháo cho người khác rồi chạy tới.

Thằng bé đã kiệt sức, mắt nhắm nghiền… Cô gái điếm bất lực ngồi bên cạnh. Sư bà cúi sát xuống khuôn mặt trẻ thơ trắng bệt:
– Nam mô A Di Đà Phật!…
Thằng bé mở mắt nhìn bà sư, nước mắt nó ứa ra. Sư bà nhìn chiếc áo phụ nữ vấy máu, rồi liếc qua cô gái ốm yếu ăn mặc hở hang phong phanh… Bà hiểu ngay sự tình, liền quay lại chỗ phát cơm cháo từ thiện, nói với mọi người:
– Thưa quý vị! Trong kia có một đứa trẻ đang hấp hối vì không có tiền nhập viện. Tôi biết quý vị ở đây cũng không giàu có gì…
Sư bà chỉ nói được như vậy. Những người nghèo khó lại có trái tim nhạy cảm – họ hiểu ngay điều sư bà muốn nói và việc cần làm. Thế là chiếc vung nồi cháo từ thiện biến thành thùng công đức…
Vừa lúc đó gã xe ôm trở về, mặt mướt mồ hôi. Gã đã cầm được chiếc xe gắn máy là cần câu cơm của gia đình, phải năn nỉ mãi mới được triệu rưỡi, cộng với số tiền của gã, của cô gái và lòng hảo tâm của nhiều người nghèo, may quá được hơn hai triệu! – Đủ ứng tiền nhập viện cho thằng bé.
Mọi người thở phào nhẹ nhõm, ngồi quây quần bên nhau ở góc sân chia nhau húp những bát cháo từ thiện.
Bỗng cô y tá xăm xăm đi tới nói với gã xe ôm:
– Thằng bé cần phải tiếp máu. Nhóm máu O…
– Trời! – Gã xe ôm thốt lên! Thẩn thờ đặt bát cháo đang húp dở xuống nền gạch…
Bầu không khí như chết lặng trước tình huống bất ngờ. Cô gái điếm bỗng lên tiếng:
– Máu O à!?… Tôi nhóm máu O!…
Nói xong, cô nhanh chóng theo y tá vào phòng hiến máu. Gã xe ôm cũng vội vã bước theo…

Nửa giờ sau gã xe ôm dìu cô gái điếm ra. Trên gương mặt nhợt nhạt của cô hé nở nụ cười.

Minh Diện
Anh Nguyễn v. Thập gởi

__._,_.___

Truyện Rất Ngắn

Truyện Rất Ngắn

“VỢ CHỒNG

Mỗi lần đi du lịch, anh thường bật cười trước tính nhút nhát của chị.

Xe qua đèo: sợ

Lên núi cao: sợ

Biển sóng lớn: sợ

Những lúc như thế, anh thường ôm lấy chị, vỗ
về:

– Đừng sợ, đã có anh ở đây. Can đảm lên em!

Công ty phá sản!

Từ cương vị giám đốc, anh quay về với 2 bàn tay trắng.

Anh suy sụp, hốc hác.

Chị ôm anh vào lòng, xoa xoa mái tóc:

– Đừng tuyệt vọng, anh còn có em mà.

Can đảm lên anh nhé!”

Cái bóng

Ông luôn phàn nàn về cuộc hôn nhân sắp đặt sẵn mà gia đình dành cho mình. Ông
chê bà ít học, chẳng tương xứng với sự lịch lãm của ông. Mọi việc ông thường tự
quyết, chẳng coi bà vào đâu. Bà tồn tại bên ông như cái bóng lặng lẽ trong cuộc
sống chung có nhiều thăng trầm.

Một ngày, bà nhẹ bỏ ông sau một cơn bạo bệnh. Ông ra vào ngẩn ngơ như thể đang
kiếm tìm. Nhà thiếu bà, ông mới thấy rõ những khỏang trống. Ông nhận ra sự lịch
lãm cũng chẳng tạo nên được một gia đình nếu thiếu đi sự hy sinh

Ăn cơm

Thằng Tèo ngồi tiu nghỉu. Tựa lưng vào cây trứng cá bên hông nhà, thỉnh thoảng
nó giơ tay gạt nước mắt.

Không biết chuyện gì? Cả buổi sáng nay ba má nó liên hồi ẩu đả. Bỏ ông táo lạnh
tanh. Giờ mỗi người mỗi góc.

Rồi cuộc chiến lại tiếp tục. Từ võ ba càng chuyển sang võ miệng. Bỗng má nó lớn
giọng :

– Ông ăn chả, tôi ăn nem. Mặc xác ông!

Đến đây, cái bao tử thúc giục, Tèo tham chiến :

– Con không thèm ăn thứ đó, con chỉ muốn ăn cơm thôi!”

Chiếc đài

Theo bạn bè, cô đòi bằng được bố mua cho chiếc đài nghe nhạc. Đưa cô ra hàng đồ
cũ, ông chọn cho cô chiếc đài rẻ tiền nhất nhưng với hy vọng nó là cái tốt
nhất. Hai tháng sau, đài hỏng.

“Bố chỉ ham đồ rẻ, không mua đồ tốt cho con. Tại sao bố lại keo kiệt
thế?” cô phụng phịu

“Con muốn biết thì đứng đón bố ở cửa” mẹ cô gợi ý

Từ hôm đó, ngày nào, cô cũng đứng trước cửa đợi. Ngày nào ông cũng đi về với
cùng một chiếc quần cũ sờn màu.

MÙA CÁ BÔNG LAU

Quê tôi ở ngã ba sông Vàm Nao, nơi nổi tiếng có nhiều cá bông lau. Dầu vậy, giá
cá ở đây cũng không phải rẻ.

Đến mùa, thi thoảng má mua một khứa cá nhỏ nấu nồi canh chua để cả nhà cùng ăn.
Thường anh chị em tôi nhường phần cá cho má. Má nói cá tanh, thích rau hơn.

Cậu ở thành phố xuống đòi ăn chua cá bông lau má nấu. Cậu chạy mua con cá to.
Đến bữa không thấy má gắp cá. Cậu bảo:”Hồi xưa chị thích nhất món cá này?”.

Tôi thấy má tôi bối rối.

Lời mẹ

Con đi học xa. Mẹ dặn:

– Cuộc sống ở trọ không như ở nhà. Từ nay con phải tự lo cho mình.

Chị lấy chồng. Mẹ lại bảo:

– Sống bên nhà chồng chẳng khác gì ở trọ. Con phải biết cách làm đẹp ý gia đình
chồng. Có như vậy, cuộc sống của con mới được hạnh phúc.

Thời gian trôi, con ra trường. Con không còn ở trọ mà trở về bên mẹ. Con cảm
thấy vui vẻ và ấm áp hơn.

Còn chị, chị xa chồng, cũng về với mẹ. Nhưng chị không còn tươi tắn như ngày
nào. Mẹ nhìn chị khẽ thở dài.

Dấu chấm hỏi

Ngày đầu tiên cô phụ trách một lớp học tình thương đa phần là những trẻ lang thang không nhà cửa. Cuối buổi học.

– Cô ơi. Dạy tụi con hát đi cô.

– Hát đi cô. Còn mười phút. Nhìn những cái miệng tròn vo và những đôi mắt chờ đợi, cô dạy cho tụi trẻ bài “Đi học về”.

– Hát theo cô nè… Đi học về là đi học về.
Con vào nhà con chào ba mẹ. Ba mẹ khen… Phía cuối lớp có tiếng xì xào:

– Tao không có ba mẹ thì chào ai? – … Cô chợt rùng mình, nghe mắt cay cay.”

Lệ trần

Chuyện kể rằng, ở miền nọ có chàng trai, cô gái yêu và thương nhau rất nhiều.

Họ quấn quýt bên nhau, vui cười hạnh phúc như chẳng có thứ gì có thể chia lìa
đôi lứa.

Nhưng rồi một ngày, cô gái chết đi, để lại chàng trai trong muôn vàn xót thương.

Chàng khóc. Chàng khóc ngày này qua ngày khác, người đời mủi lòng, khuyên nhủ
chàng nên để ký ức được ngủ yên. Nhưng chàng vẫn khóc, khóc rất nhiều.

Rồi một đêm, trong giấc mơ, chàng thấy mình đứng trước ngưỡng cửa thiên đường.
Có rất nhiều các cô gái trong trang phục dạ hội lộng lẫy, trên tay cầm những
ngọn nến lung linh, huyền ảo. Và chàng thấy người yêu chàng, cũng áo quần lộng
lẫy, cũng ngọn nến trên tay, nhưng nến tắt.

Chàng hỏi:

– Sao em không thắp nến lên?

Nàng rơi lệ:

– Mỗi lần em chưa kịp thắp lên thì nước mắt anh lại rơi xuống. Van anh, xin anh
đừng khóc nữa!

Nếu lỡ mất đi người thân yêu nhất, bạn chọn cố gắng sống hạnh phúc để người đó
được an nghỉ hay mãi chìm trong khổ đau của cả hai?

Anh Nguyễn Thập gởi

Chai Dầu Gió Xanh

nurseonairplane.jpg

Chai Dầu Gió Xanh

Võ Quách Thị Tường Vi

(Houston, Texas. USA)

Tôi  là người hành khách cuối cùng bước vào cửa phi cơ của chuyến bay #1490
Singapore Airline với hành trình sẽ đi về Việt Nam qua ngã Mạc Tư Khoa,
Singapore, rồi Tân Sơn Nhất. Cánh cửa phi cơ đóng ngay sau khi tôi đi
vào. Cả một ngày mệt mỏi, chạy đôn chạy đáo, sau khi quyết định sẽ về
Việt Nam lo cho một chương trình y tế và văn hoá giữa các trường đại học
bên Việt Nam và trường đại học nơi tôi giảng dạy; tôi đã đi tìm mua
những món quà hay đồ vật mà tôi nghĩ là những người bà con hay bạn bè
bên nhà sẽ ưa chuộng và thích thú.

Khi  vào đến ghế của mình, tôi lã người, mệt muốn ngất đi được. Thò tay vào
giỏ xách tôi lấy ra chai dầu gió xanh. Tôi nhón ngón tay trỏ vào đầu
chai, chấm một tí dầu và xoa vào hai đầu thái dương của mình. Trong chốc
lát, tôi đã thấy khoẻ lại. Thật cảm ơn chai dầu xanh này, nó đã theo
tôi từ không biết bao nhiêu năm nay rồi, như một người bạn chân thành,
nó lúc nào cũng có ở bên cạnh tôi. Mùi dầu xanh quen thuộc làm tôi chợt
nhớ đến những chuyện cũ năm xưa…

ooOoo

Mẹ  tôi mất khi tôi vừa 16 tuổi, ở cái tuổi đẹp nhất của người con gái. Tôi
nhớ rất rõ nhà tôi lúc ấy ở gần phi trường quân sự Biên Hoà, đêm đêm
tiếng bom đạn pháo kích nghe rất gần. Ban đầu rất sợ, tôi đã tung mền và
trốn dưới …gầm giường và làm mồi cho những con muổi đói mà không biết
rằng với những tấm ván vạc giường mỏng manh đó sẽ không có hiệu quả gì
nếu mà bom đạn vô tình rớt xuống nhà tôi. Riết rồi cũng quen, mỗi lần
pháo kích thì tôi đã không nhảy xuống gầm giường nữa mà vẫn tỉnh bơ nằm
ngủ. Con người ai cũng có số, nếu tới số chết thì ở đâu cũng chết …
Tôi thầm  biện hộ cho cái tính làm biếng của mình như thế.

Rồi  một buổi sáng kia tôi giật mình thức dậy vì một tiếng động thật to. Mở
mắt ra thì thấy trời rất sáng và lổ tai đã ù lên, không nghe gì được
hết. Ngước thẳng lên thì trời ơi … hình như bầu trời trong xanh đang
ngó xuống nhìn ngay tôi và nhà tôi với những bức tường hình như đã bay
đi đâu mất rồi. Tiếng người la khóc và ồn ào chung quanh tôi. Tôi ngồi
dậy thì thấy ba tôi đang ôm mẹ tôi máu chảy đầy người ở nhà bếp, mà mới
ngó qua thì không biết là ở đâu nếu tôi không nhận ra cái tủ đựng đồ ăn
nay chỉ còn 2 chân bị gảy. Ngay giữa nhà bếp thì có một cái hố thật sâu,
khói vẫn còn bốc  bụi hơi nghi ngút. Bên cạnh cái hố này thì con chó Tô Tô của tôi cũng đang rên rỉ với máu chảy đầy người nó. Còn con chó Ki Ki thì đứng lẩn
quẩn kế bên, miệng nó kêu lên những tiếng gầm gừ rên rỉ nghe cũng thảm
thiết lắm. Đây là cặp chó mà ba tôi đã xin về nuôi được chừng 2 năm rồi.

Có  cái gì ươn ướt trên mặt tôi. Thò tay lên vuốt mặt thì bàn tay toàn là
máu. Thì ra tôi cũng bị thương trên trán và nhà của tôi cũng đã bị pháo
kích rồi…

Sau  đó, ba tôi đưa mẹ tôi vào nhà thương Biên Hoà, rồi lại chuyển lên nhà
thương Cơ Đốc ở Phú Nhuận Sài Gòn vì bệnh không thuyên giảm, sau khi 2
tuần ở nhà thương Biên Hoà.

Tôi  ở lại trong nhà thương Cơ Đốc với mẹ tôi, có dịp tiếp xúc với các y tá
điều dưỡng và các vị bác sĩ hằng ngày đến chăm sóc cho mẹ tôi. Và tôi đã
bắt đầu có cảm tình với ngành y sĩ ngay từ dạo đó.

Bệnh  mẹ tôi cũng bớt dần nhưng mẹ không còn khoẻ mạnh như xưa. Mẹ tôi hay
đau lưng, nhức mỏi, người hay mệt và không làm được nhiều việc như lúc
chưa bị thương. Hình như mẹ tôi càng lúc càng yếu dần mà trong đầu óc
non nớt của tôi cũng bắt đầu nhận thức được. Trong túi áo bà ba của mẹ
tôi lúc nào cũng có một chai dầu gió xanh mà mỗi khi đau hay mệt trong
người mẹ thường lấy ra để xoa hay ngửi.

Tôi  thường hay tự hỏi là dầu này có công hiệu hay không, vì nói cho đúng
ra, tôi cũng “sợ” bị bôi dầu này lắm. Mỗi lần sổ mũi nhức đầu, mẹ tôi
hay đè mấy chị em tôi ra mà bôi lên người chúng tôi hay là cạo gió. Trời
ơi, mỗi lần thấy mẹ tôi với chai dầu “mắc dịch” này chúng tôi đã chạy
trốn, mặc cho mẹ tôi kêu tên từng đứa dỗ dành.

Đến  một hôm mà tôi không bao giờ quên được là ngày đó mẹ tôi rất mệt. Khuôn
mặt xanh xao, giọng nói yếu ớt, mẹ tôi sai tôi đi chợ, dặn dò mua thức
ăn rau cải và nhớ ghé qua hàng thuốc mua cho mẹ một chai dầu xanh, vì
chai ở nhà đã sắp hết rồi. Tôi tung tăng đi chợ mua thức ăn như lời mẹ
dặn. Trên đường về đầu óc tôi sao vẫn băn khoăn giống như mình đã quên
một chuyện gì rất quan trọng. Cá cơm kho tiêu, canh cải bẹ xanh nấu tôm,
rau muống xào, chuối tráng miệng … đâu còn quên gì nữa đâu. Khi đến
gần nhà, băng qua cầu Đúc, thì tôi đứng khựng lại vì chợt nhớ ra việc gì
mình đã quên. Tôi đã quên  mua chai dầu xanh cho mẹ tôi rồi! Tôi lật đật chạy vòng lại, đi lên chợ để mua chai dầu. Đường lên chợ sao bây giờ thấy quá xa, tôi chạy hoài
không tới … Rồi sau cùng tôi cũng về đến nhà, nhưng sao nhà tôi lại
đông người như vậy? Các người láng giềng đang bu chung quanh ba tôi. Khi
thấy tôi vào, các em tôi chạy lại nắm tay tôi và khóc. Ba tôi ôm tôi
vào lòng và nói với tôi trong tiếng nất “má con đã chết rồi” …Tôi sững
sờ nhìn chai dầu xanh mà tôi đang nắm chặt trong tay. Tôi đã về muộn
rồi …Mẹ tôi năm ấy chỉ có 38 tuổi mà thôi.

Rồi  từ đó, ở cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” của mình tôi đã phải đối đầu
với thật nhiều khó khăn trong cuộc sống. Từ việc nhà, nấu cơm, giặt giũ
đến việc chăm sóc các em, tự lo cho thân mình, và vất vả ngược xuôi lo
việc chi tiêu trong nhà với đồng tiền công chức giới hạn và bấp bênh của
ba tôi. Tôi phải làm rất nhiều việc mà khi còn có mẹ tôi đã không bao
giờ phải bận tâm lo lắng. Và chai dầu này đã theo tôi khắp nơi …dù qua
nhiều dâu bể của cuộc đời, nó vẫn là người bạn đồng hành với tôi từ mấy
chục năm qua.

ooOoo

Nghe  có tiếng thầm thì tôi mở mắt ra. Trước mặt tôi là mấy giáo sư đồng
nghiệp cùng trường và cả đám sinh viên học trò của chúng tôi. Thấy tôi
mở mắt ra cả đám cùng vỗ tay và la lớn:

Chào  mừng giáo sư, chào mừng y sĩ. Chúng em vui lắm vì có cô đi cùng. Thật
là vui quá. Như vậy là chuyến đi này là hoàn toàn mỹ mãn rồi đó.

Donna, một cô học trò của tôi, gốc người Mễ và rất linh hoạt dễ thương hỏi.

– Cô ơi, khi tới Việt Nam, cô có hồi hợp không cô?

Một  em khác hỏi…rồi chúng nó thay phiên mà ôm tôi để chia niềm thương cảm.
Số là cách đây 1 tuần tôi có một tai biến rất to lớn trong đời đến nổi
tôi không biết chắc là có hoàn thành chuyến đi về Việt Nam này hay
không. Chuyến đi này đã có sự chuẩn bị từ lâu rồi. Từ các giáo sư đến
các em sinh viên ai nấy cũng nao nức đợi ngày đi. Còn tôi thì muốn về
Việt Nam để có dịp thăm lại quê hương bạn hữu và cùng đem lại một chương
trình nào đó có lợi ích cho nền y tế của quê nhà. Các sự xếp đặc cũng
đã xong, nhưng nếu tôi không đi thì cũng chắc buồn lắm vì kể như bước
đầu đã không trọn vẹn.  Vào giờ phút cuối, tôi đã quyết định đi nhưng vì mua vé trể, nên không còn chổ để ngồi chung với phái đoàn của mình. Cả đám lăn xăn nói cười
ríu rít. Có đứa thì nghe nhạc, coi TV, có đứa thì bắt đầu ngủ gà ngủ
gật, còn mấy đứa thì rất là kích động ghi chép trong nhật ký những chi
tiết về chuyến đi này hay chụp hình lưu niệm.

Nói  “mấy đứa” cho thân tình chứ thật ra phái đoàn chỉ có 12 em sinh viên là
trẻ, đang học chương trình cử nhân và phần lớn là dưới 30 tuổi. Trong
nhóm này thì có 3 em gốc Việt Nam. Còn bao nhiêu em khác là thành phần
lớn tuổi hơn với kinh nghiệm sống già giặn hơn. Có một em sắp xong y sĩ
và 17 các sinh viên khác trong phái đoàn đang học chương trình tiến sĩ.
Và có 5 em sẽ ra tiến sĩ sau khi trình luận án vào mùa Hè này. Trong
nhóm này thì có 2 em đang hành nghề y sĩ ở Dallas và Houston.

Dù  thầy bằng trò hay trò bằng thầy về tuổi đời nhưng các em rất lễ phép và
rất biết kính trên nhường dưới. Như vậy phái đoàn chúng tôi 33 người
cũng có vẻ rất hùng hậu. Hy vọng chuyến đi này sẽ thành công và không có
gì không hay sẽ xảy ra.

Từ  khi không làm bên bệnh viện nữa, tôi đã nhận làm giảng sư cho trường
đại học này đã được 5 năm rồi. Tôi cũng đã dạy bán thời gian cho trường
mấy năm trước nữa. Thấy không khí dạy học cũng vui vẻ, nhất là tiếp xúc
được nhiều các em sinh viên Việt Nam gồm có các em sinh bên này hay là
du học sinh, nên tôi cũng thích vì có dịp hướng dẫn và khích lệ các em.
Các em sinh viên người Việt hay gốc Á Châu hay thường tìm đến tôi để hỏi
ý kiến hay chỉ để than thở, về việc học hành hay những việc xảy ra
trong đời sống hằng ngày. Và không biết từ bao giờ tôi đã trở thành một
giáo sư hướng dẫn cho các sinh viên gốc Á Châu ở trường đại học này. Tôi thật không ngờ mình lại trở thành một bà thầy “gỏ đầu trẻ” mà khi còn nhỏ tôi không bao giờ mơ
ước để trở thành.

Năm ngoái, tôi có khai giãng một lớp học mà tôi phụ trách dạy về văn hoá, y
học và người Việt Nam. Các sinh viên ghi tên học rất đông: Mỹ có, Việt
có. Các em gốc Việt Nam sau đó lại đến để cảm ơn tôi, vì các em đó đã có
cơ hội để tìm hiểu thêm về nguồn gốc Việt Nam của mình.

ooOoo

Trạm đầu tiên xuống Moscow nghỉ ngơi chừng nửa tiếng thì chúng tôi lại sắp
hàng vào lại máy bay. Cả đám sinh viên vẫn còn hăng hái, tay cầm nhiều
túi quà kỷ niệm và nhộn nhịp bước vào máy bay. Máy bay lại cất cánh lần
nữa. Qua khỏi chuyến này thì tôi lại gần hơn với Việt Nam. Trong lòng
tôi hình dung những bạn bè, trường ốc và những chuyện mà tôi phải làm.
Một cảm giác vừa vui mừng, vừa hồi hộp làm tôi nao nao trong lòng. Tôi
từ từ thiếp đi với những lo nghĩ chập chờn trong đầu óc. Sáng mai là tôi
sẽ có mặt trên quê hương yêu dấu của mình, sẽ có dịp thăm viếng và gặp
gở nhưng nơi mà tôi đã hoạch định chương trình để bắt đầu một cuộc hành trình mới.

Bỗng lờ mờ qua cái loa trên trần mui của phi cơ, tôi nghe có lời của cô
chiêu đãi viên hàng không kêu gọi bằng tiếng Anh qua giọng Tàu lơ lớ:

– Trường hợp cấp cứu!! Trường hợp cấp cứu!! Chúng tôi đang cần một bác sĩ
đang ở trên máy bay gấp. Nếu có ai là bác sĩ xin đứng lên giúp chúng
tôi một tay …

Tôi tỉnh ngủ hẳn, quơ vội cái túi bóp nhỏ và đi lên cabin phía trên, hỏi cô chiêu đãi viên hàng không gần nhất:

– Trường hợp cấp cứu ở đâu vậy? Tôi là Dr. V, tôi sẽ giúp cô.

– Dạ, xin bác sĩ theo tôi. Bệnh nhân đang ở trên cabin hạng nhất phía trên.

Tôi đi theo cô này qua mấy dãy ghế dài đến khu hạng nhất của phi cơ. Những
cái ghế ở khu này rộng rãi hơn và phần lớn các hành khách đang ngủ với
những chiếc khăn che mắt phủ trên mặt cho dễ ngủ.

Bệnh nhân là một thanh niên trẻ, khoảng chừng 28-30 tuổi, đang nằm sóng sượt
trên nền thảm lối đi của phi cơ, cả người co quắp lại như hình con tôm,
hai mắt nhắm nghiền và trên mặt thì có những giọt mồ hôi đã bắt đầu
đọng lại.

– Hello. Tôi là Dr. V và tôi sẽ giúp anh. Chuyện gì đã xảy ra vậy?

– Dạ em đang đau bụng quá, không chịu nổi. Chỉ nằm xuống như vầy mới bớt
một chút. Em bị cách đây gần một tiếng đồng hồ, tưởng là bị sình hơi ai
dè càng lâu càng nặng.

Em tên gì vậy? Tôi hỏi.

– Dạ em tên John. Em là chiêu đãi viên hàng không cho hãng máy bay này và thông thường em làm ở khu hạng nhất này.

Lúc này thì hai học trò y sĩ của tôi là Patti và Mai đã đến. Patti thì cặp
thuỷ đo nhiệt độ, còn Mai thì đo áp suất máu và hỏi về lượng đau của
John.

Tôi hỏi mấy người bạn đồng nghiệp của John:

– Đồ dự trữ cho trường hợp cấp cứu để đâu? Làm ơn đem ra để tôi coi có gì
dùng được không. Và cũng đem thêm mấy cái mền nữa để đắp cho John.

Quay qua mấy em y sĩ tôi bảo:

– Hãy giữ cho John ấm và đừng cho ăn uống gì hết. Có thể cho một vài giọt nước vào môi để giữ môi không bị khô mà thôi.

Dạ, nhiệt độ người của John là 99.8 F. Áp suất là 160 trên 100, nhịp tim 112 và độ đau là 9 trên 10. Mai báo cáo.

– Cảm ơn em. Cứ giữ cho John ấm và lấy áp suất như vậy cứ mỗi 10 phút nhé, hay nếu có sự thay đổi thì cho tôi biết.

Tôi và Patti kiểm soát cái túi cấp cứu mà cô chiêu đãi viên hàng không vừa
mới đem đến. Ngoài những giấy tờ lặt vặt, thì có những thuốc cấp cứu về
tim như Digoxin, Lasix nhưng không còn gì khác. Trong một túi khác cũng
nằm trong cái túi lớn này thì tôi thấy có mấy bịch nước biển se-rum và
những kim cùng dây để chuyền dung dịch này vào cơ thể.

– Patti, em chuẩn bị đồ chuyền dung dịch nếu cần nhé. Không làm ngay bây giờ nhưng nên chuẩn bị trước. Tôi nói.

Tôi khám cho John thì bộ phận nào cũng bình thường nhưng chỉ có đau phía
dưới bụng chổ tay mặt. Tôi chỉ nhấn hơi mạnh một chút thì John đã nhăn
mặt và cố gở tay tôi ra và than là quá đau. Đây có thể là trường hợp đau
ruột dư mà ở trên 50000 mét trên không trung, mình làm được gì, làm sao
bây giờ ?? Tôi suy nghĩ thật nhanh trong đầu mình. Tôi nói với Tim, xếp
của John, là tôi muốn nói chuyện với phi công trưởng của phi hành đoàn
là John bị đau ruột dư và phải cần đưa vào nhà thương để mổ và điều trị
gấp. Tim đi một lát rồi trở lại.

– Thưa y sĩ, phi công trưởng của chúng tôi nói là bây giờ máy bay đang
bay qua lãnh thổ của nước Afghanistan không thể đáp xuống được, mong y
sĩ thông cảm.

Như vậy nước tới là nước nào? Và mình có đáp xuống được không?

– Dạ, để tôi đi hỏi lại phi công trưởng. Tim trở lại lần nữa và nói.

Nước tới là Ấn Độ và việc đáp xuống có thể được, nhưng xin y sĩ xác định lại
việc cần đáp xuống vào lúc ấy, vì hiện thời bây giờ chúng ta phải bay 3
tiếng nữa mới qua khỏi biên giới của Afghanistan. Nếu đáp xuống theo
chuyện cấp cứu thì cũng phiền hà và không biết bao giờ thì mình mới bay
lên trở lại được.

Lúc ấy thì Patti gọi tôi lại:

– Dr. V, áp suất của John là 92 trên 60, nhịp tim 125 và độ đau là 10
trên 10. Em nghĩ là bệnh tình của John đang bị trở chứng đó giáo sư.

Tôi trở lại chổ John nằm thì đúng như lời Patti nói, John đang ở trong tình
trạng trở chứng, máu huyết tuần hoàn bị sụt xuống. Nếu tình trạng này
kéo dài thì rất là nguy hiểm cho tính mạng. Mồ hôi John đang ra nhễ
nhải, dù rằng Mai đang lau mồ hôi cho anh ta và tay chân thì rất lạnh.
Chung quanh John là những đồng nghiệp của anh ta đang quay quần. Ai nấy
khuôn mặt cũng rất là lo lắng. Có mấy người hành khách cũng tò mò hỏi
nhau coi thử có chuyện gì đã xảy ra.

Tôi nói Tim là nên mời hành khách về lại chổ ngồi để chúng tôi có chổ thở và làm việc.

– Bắt đầu chuyền nước biển vào đi, mở wide open rộng ra, giữ cho John ấm. Tôi nói với Patti. Quay qua John tôi bắt chuyện.

– Hi John, em sao rồi, có đau nhiều không?Bây giờ chúng tôi chuyền nước
biển cho em nhé. Mà trước giờ em có bị bệnh gì không? Có bị cao máu,
tiểu đường gì không?

– Dạ em đau quá Dr. V ơi. Em trước giờ khoẻ lắm không có bệnh gì hết.

– John có gia đình vợ con gì chưa?

John gượng cười.

– Dạ chưa Dr V. Nhưng em có bồ rồi và cô ấy đang ở Singapore đó.

– A như vậy thì em phải khoẻ lại cho mau để về gặp bạn đó nha.

Tôi nói đùa với John. Mục đích của tôi là làm John quên bớt cái đau và việc
cấp cứu bây giờ để có thể duy trì được tình trạng để John không bị nặng
thêm. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ một việc.

– John à, tôi có một vị thuốc mà khi nào cần thì tôi lấy ra dùng. Mà nó
giúp tôi rất nhiều, rất là hiệu nghiệm. Nếu em muốn thì tôi sẽ chia sẻ
với em nhé?

John gật đầu lia lịa.

Dạ bây giờ y sĩ có gì thì xin đưa ra cho em dùng. Em đau quá. Em đi đường
bay này thường lắm nên biết là mình sẽ không đáp xuống đây được đâu. Em
lo quá, không hiễu có qua nổi cơn bệnh này không.

Tôi mở cái xách tay nhỏ và lấy chai dầu gió xanh của mình ra và đưa cho John ngửi.

– Đây là chai dầu mà tôi hay dùng. Tôi đi đâu cũng có nó cả và nó rất là
hiệu nghiệm. John dùng thử nhé, nếu chịu được cái mùi hơi mạnh một chút
của nó.

Tôi đưa chai dầu lên mũi của John. John hít một hơi nhẹ và nói.

– Mùi này cũng dễ chịu lắm mà. Em cũng thích lắm.

– OK, như vậy thì tôi xức dầu cho John nhé.

Tôi bôi dầu này vào bụng ở chổ đau của John, vừa làm tôi vừa nói chuyện.
Tôi hỏi chuyện làm, chuyện bạn bè, chuyện đời sống ở Singapore hay Mỹ
như thế nào … Trong lúc nói chuyện thì Mai và Patti vẫn tiếp tục lấy
áp suất và nhiệt độ. John vẫn thích thú kể chuyện về đời mình cho chúng
tôi nghe.

Khoảng chừng một tiếng đồng hồ sau thì Patti báo cáo là áp suất của John đã
lên cao trở lại, khoảng 140 trên 90 và nhịp tim hạ xuống còn 100 nhịp
trong một phút và độ đau thì vẫn không thay đổi, vẫn ở khoảng 8 cho tới
10.

– Như vậy thì tốt quá, em cho nước biển chảy chậm lại một chút đi. Tôi nói chuyện với Patti.

Trong thời gian này thì John có vẻ không thay đổi mấy, sắc diện có phần hồng
hào hơn và tỉnh táo hơn một chút. Tôi khám lại John thì thấy không có gì
thay đổi lắm về phần ruột dư của John.

Tim, người xếp của John, trở lại.

– Thưa y sĩ, bây giờ chúng ta đang bắt đầu vào biên giới Ấn Độ. Chúng tôi
phải làm gì, ngừng lại hay đi thẳng? Nếu ngừng lại thì cũng phải xin
phép và cũng sẽ lâu lắm mà chưa biết chừng nào thì máy bay sẽ được cất
cánh trở lại.

– Sau Ấn Độ thì sẽ tới nước nào? Tôi hỏi.

– Dạ Miến Điện rồi Thái Lan trong vòng 3 tiếng đồng hồ nữa.

– Để tôi nói chuyện với John xong sẽ trả lời câu hỏi của anh.

Tôi trình bày rõ ràng với John về những chi tiết này. John trầm ngâm rồi hỏi lại tôi:

– Y sĩ nghĩ như thế nào, em có thể chịu nổi để về đến Singapore không?

Thật sự ra thì rất khó mà đoán trước cơ thể của John sẽ chuyển động như thế
nào, nhưng tôi nghĩ là sẽ được trong vòng vài tiếng nữa, ít ra thì mình
cũng có thể đến Thái Lan và việc chửa trị ở đó cũng tốt nhất nếu so với
những nơi khác. Tôi trả lời cho John.

– Như vậy thì y sĩ cứ quyết định cho em đi. Tôi quay lại nói với Tim.

– Cứ tiếp tục bay đi. Khi nào gần đến Thái Lan thì cho tôi biết.

Trong suốt mấy tiếng bay tiếp, John và tôi vẫn tiếp tục nói chuyện với nhau,
và tôi vẫn xoa dầu xanh cho John đều đều. Nhiệt độ và áp suất máu của
John vẫn không thay đổi. Chai nước biển vẫn nhỏ giọt đều nhưng chậm hơn
lúc trước vì áp suất của John đã cao hơn. Chúng tôi đã đưa John lên nằm
trên giường trong phòng dành cho phi công. John có vẻ khoẻ hơn lúc ban
đầu một chút.

Khi bay qua biên giới Thái Lan, tôi đã quyết định là không dừng lại nữa vì
từ nước này về Singapore thì chỉ còn một tiếng đồng hồ mà thôi và tình
trạng của John thì thấy không thay đổi mấy. Cả đêm ấy, 3 thầy trò chúng
tôi đã không chợp mắt một chút nào, nhưng vẫn không thấy mệt. Rốt cuộc
thì phi cơ cũng đáp xuống phi trường Singapore. Khi xe cứu thương vào
phi cơ để đưa John đi vào bệnh viện cứu cấp, cậu ấy đã nắm tay tôi và đã
ngập ngừng hỏi tôi:

Em cảm ơn Doctor V và phái đoàn của doctor nhiều lắm vì đã tận tình giúp
em. Em sẽ không bao giờ quên y sĩ V đâu. Chúc y sĩ và phái đoàn thành
công trong chuyến đi này. Nếu được, xin y sĩ cho em xin luôn chai dầu
gió xanh đó, có được không?

Tôi cảm động đến sững sờ và tự nhiên tôi muốn khóc.

Ở trên đời nếu ai cũng có một chai dầu gió xanh để đem theo bên mình làm
hành trang cho cuộc đời, chai dầu gió xanh của mỗi người có thể khác
nhau. Có thể là những kỷ niệm thời ấu thơ, một mối tình đơn phương,
những mối tình trọn vẹn hay không trọn vẹn, một ánh mặt, một nụ cười,
một dáng đi, một tà áo, một câu dỗ dành, bài hát hay một lời thơ … Đôi
khi bất chợt ngửi lại mùi hương thoang thoảng của những chai dầu gió
xanh này làm ta có thể sống lại những kỷ niệm thời xa xưa, mơ về dĩ vãng
trong giây phút để tâm hồn có thể dịu bớt đi một chút nào đó giữa cuộc
sống xô bồ. Những chai dầu gió xanh này, theo ngày tháng, cũng có thể chữa lành cho những vết thương trong lòng của mỗi người.

Trong hành trình dài của mỗi đời người, với những bể dâu gập ghềnh trong cuộc
sống, mà mình còn giữ được chai dầu gió xanh làm bạn đồng hành thì âu
đó cũng là niềm vui và hạnh phúc vậy.

Võ Quách Thị Tường Vi

Hạnh Phúc Tầm Tay…

Hạnh Phúc Tầm Tay…

“Tôi nức nở khóc…
vì thảm cỏ lưa thưa dưới chân…
và vì mình không có đôi giày…”
1. Có một chàng trai yêu đời, nhiều mộng đẹp và ước mơ.  Chàng mê thể thao, mê đèn sách và mê cả chuyện ngắm các cô gái đẹp.
Một buổi kia, chàng thưa với Chúa, “Con đã suy nghĩ nhiều… Bây giờ, con biết mình ước muốn điều gì khi trưởng thành…”
-“Điều gì vậy?”, Chúa ngạc nhiên.
`
-“Con muốn sống trong một căn nhà rộng rãi có nhiều phòng, có vườn cây, trên đồi hay gần bãi biển… Vì bây giờ, Chúa biết đấy, không khí ô nhiễm quá thể !  Mà giữa  thiên nhiên bao la của núi rừng hay biển khơi, con dễ thanh thản tâm hồn mà cầu nguyện với Chúa hơn.  Con chán cảnh ở trọ chật hẹp, tốn kém, ồn ào phiền toái thế này lắm rồi!  Con không muốn đi tu.  Chuyện tu hành, Chúa để cho tên nào chu chu chắm chắm ấy.  Con sẽ cưới vợ.  Vợ của con phải là một cô gái xinh đẹp.  Nàng cần phải có chút máu văn nghệ, biết thưởng thức văn chương, biết từng tưng chút chút.  Nàng cần phải sắc sảo, có nhan sắc, dáng người thanh tú cao ráo để
con hãnh diện được với bạn bè…”
– “Gì nữa?”, Chúa âu yếm.
– “Ừ, có vợ thì phải có con chứ.  Vậy con cũng muốn Chúa biết, là con muốn có 3 đứa con trai.  Một đứa sẽ là khoa học gia, một đứa là bác sĩ, một đứa là Giám Mục… Chúa thấy không, con mơ ước toàn những điều có “chiều kích thế giới” thôi…”
-“Thế con ước mơ điều gì cho chính con?”
-“Ồ, con quên khuấy đi mất!  Chúa thấy không, nãy giờ, con chỉ lo cho gia đình, cho Giáo Hội, cho thế giới thôi!  Con quên mất bản thân mình!  Quảng đại, phải không Chúa?!!  Thế này, con ước mình sẽ có nhiều tiền.  Gia đình thời buổi này, Chúa ạ, là một gánh nặng lớn về tài chánh.  Vật giá và các thứ bây giờ, vì lạm phát, vì cái bất tài của các nhà lãnh đạo, vì cả cái thất bại bí lối của các kinh tế gia mà leo thang cao hơn tháp Babel xưa…. Con ước mình trở thành một nhà tài phiệt.  Rồi với gia tài đồ sộ kếch xù cả thế giới bê vác không nổi ấy, con sẽ “tề” thiên, “đãi” thánh, “bình” thiên hạ… Chúa không phải mệt mỏi nhờ mấy ông cha bà phước hay các hội từ thiện khản cổ kêu gọi người ta bố thí.  Mấy ông già Noel lắc chuông mỏi tay ở các cửa hàng, các thương xá mỗi dịp Giáng Sinh mà thế giới có nhúc nhích gì đâu!  Vài đồng cắc lẻ người ta cho đi vì tránh nặng túi chẳng gãi nổi vết ghẻ của đám trẻ Phi Châu thiếu thốn thuốc men… Yên chí Chúa ạ, là tài phiệt rồi, con sẽ rửa sách mặt địa cầu, Chúa không cần phải ra tay làm chi cho mệt!… Còn một chuyện nữa..”
-“Chuyện gì?”, Chúa chăm chú.
Chàng nói không ngần ngại vì biết rằng, Chúa làm được hết mọi chuyện và với Chúa thì không cần phải vòng vo hay rào đón tế nhị…
-“Chiếc xế Camry của con 6 máy XLE nhưng đến lúc con có gia đình thì nó đã già cũ rồi.  Con sẽ đem nó đến một cơ quan từ thiện để họ bán cho kẻ cần xe mà lấy tiền nuôi kẻ nghèo khó nếu con có cái Lách Xớt, lọai xe bảo đảm đường trường và độ bền thay
vào đó.  Lách Xớt là đủ rồi chứ con không có màu mè như mấy tên tài tử Hô Li Út xài sang mà hoang phí với Ferrari hay Roll-Roys.  Không có xe ở thời đại tốc độ bây giờ là “cụt” cẳng, Chúa ạ.  Mà xe dổm thì là cẳng “đau”, phiền toái lắm…”
-“Ừ”, Chúa gật đầu trầm ngâm.  “Những điều này Ta nghe như một giấc mơ đẹp… Ta
mong muốn con luôn được hạnh phúc sung sướng…”
….
Chàng trai nhảy cẫnglên thích chí.  Chàng thỏa mãn vì Chúa cho những điều chàng ước muốn kia là đẹp đẽ… Chàng yên lòng vững dạ hơn khi nghe Chúa bảo rằng, lúc nào Ngài cũng muốn cho chàng được hạnh phúc vui vẻ, nghĩa là, Chúa “hứa” hẳn hòi,
dù chàng không hiểu rõ nội dung và tâm tình của điều phát biểu ấy…
2. Thấm thoát thời gian trôi qua…
..
Chàng hoàn tất giáo trình đại học ngành thương mại rồi khởi sự một doanh nghiệp sản xuất và cung cấp tiếp liệu y khoa y tế.
Chàng cưới một thiếu nữ đoan trang, duyên dáng, hiền hậu với mái tóc dài và đôi mắt nâu.  Nàng khỏe mạnh với vóc người thấp lùn chứ không cao ráo thon thả.  Nàng không có máu văn nghệ, cũng chẳng mê đàn hát, chẳng mê phim bộ nhưng lại giỏi việc tề gia nội trợ, giỏi bếp núc, giỏi quán xuyến gia đình. Nàng không sắc sảo nhưng
hiền thục, chân thành khiêm tốn, hết lòng thương yêu săn sóc chồng con… Nàng
là một người vợ kiểu mẫu, biết phục thiện, tự chủ, một hiền mẫu đúng nghĩa…
Chàng và nàng có 3 đứa con gái xinh đẹp ngoan ngoãn.  Trừ đứa con gái út phải ngồi xe lăn, hai đứa còn lại đang theo đuổi ngành y khoa và điện toán.  Những đứa con dễ
thương ấy lúc nào cũng yêu kính và vâng lời cha mẹ…
Vì công ăn việc làm, chàng và gia đình sống trong một căn phòng trên tầng cao nhất thuộc khu chung cư của thị xã.  Và từ căn phòng cao cấp này chàng có thể nhìn xuống biển xanh hay ngắm cả thị trấn lóng lánh ánh điện về đêm.
Là thành viên trong bộ phận quản đốc của xí nghiệp, chàng có một lợi tức khá giả, lợi tức đã đem lại cho chàng và gia đình một cuộc sống sung túc quá mức thượng lưu.  Chàng có Lexus, lọai xe của giới thượng lưu để di chuyển theo địa vị…
Một cuộc đời hạnh phúc kiểu mẫu…
Nhưng cái gọi là hạnh  phúc, là tuyệt vời… rồi cũng bị thời gian làm cho nhàm ố vì chán chường, vì những mơ ước vô biên giới, vì những đòi hỏi có tính leo thang của cuộc sống, vì cái khuynh hướng thiếu cảm nhận giá trị của mọi điều hiện tại, vì thái độ không tri ân đủ với cuộc sống và con người… “Máy móc tính” để trở nên nhàm chán mà quay cuồng.
Một buổi kia, chàng bất giác nhớ lại những ước mơ đã khấn nguyện thời trai trẻ…
Chàng bắt đầu buồn buồn…
Những điều chàng đang có sao mà chán phèo nhạt nhẽo… như tách cà phê đã nguội, như lon bia đã cạn hơi ga…
-“Tôi rất buồn”.  Với một người bạn, chàng than thở.
-“Chuyện gì vậy?”
-“Tôi mơ sống với một người vợ cao ráo, thanh tú, mắt xanh, biết văn chương và đàn hát văn nghệ… Cuối cùng thì vợ tôi lại lùn tè, chẳng thanh tú tí nào… Văn chương
văn nghệ, nàng mù tịt..!”
-“Vợ Anh xinh xắn, duyên dáng, khỏe mạnh, giỏi nội trợ, yêu chồng, thương con cái.  Anh tìm đâu được người vợ hiền thục như thế?”
Chàng không chú ý nghe.
-“Anh buồn lắm”, chàng thú thật với vợ.
-“Chuyện chi vậy Anh?”
-“Anh đã từng mơ được ở trong một căn nhà to lớn vườn cây, có cảnh trí thiên nhiên nên thơ tĩnh mịch, nhưng cuối cùng lại phải ở trong khu cao ốc rất mất công thang máy này…!”
-“Căn phòng này, Anh thấy không, rất tiện nghi.  Từ trên cao, Anh có thể nhìn xuống mà thấy thiên nhiên bao la, thấy thành phố lao xao, thấy biển, có thể chiêm ngưỡng và suy nghĩ với cái đẹp nhìn thấy từ trên cao… Anh có tình yêu của Em, lòng kính
yêu của 3 đứa con dễ thương.  Anh có tiếng cười, có người mong ngóng thương yêu, có mọi điều Anh muốn…”
Chàng không thấu tai dù người vợ nồng nàn khuyên giải.
Tại văn phòng bác sĩ tâm lý.
-“Tôi buồn lắm”, chàng giãi bày…
-“Tại sao vậy?”
-“Tôi đã mơ trở thành tài phiệt đem kho tàng của cải giúp người nghèo khó khắp nơi.  Nhưng lúc này, tôi chỉ là người lãnh lương cố định hàng tháng…”
-“Những tiếp liệu y tế mà Anh đang bán cứu được bao nhiêu mạng sống rồi…”
Chàng, con người có “ước-mơ-vô biên giới” ấy, vẫn không nghe ra…
Với Cha Sở, chàng rầu rĩ than phiền.
-“Con buồn lắm!”
-“Chuyện gì thế?”
-“Con đã từng mơ ước có 3 đứa con trai, một đứa là khoa học gia, một đứa là bác sĩ, một đứa là giám mục… Vậy mà con lại có 3 đứa con gái…”
-“Thì Anh đang có đứa con đeo đuổi ngành y.  Con cái của Anh, đứa nào cũng ngoan ngoãn, hiếu thảo, thương kính cha mẹ… Đứa út thì có nhiều tài, đóng góp cho công việc của giáo xứ..”
Chàng vẫn không lọt tai.
3. Nỗi u uất thất vọng làm chàng phát bệnh.
Chàng được đưa vào bệnh viện.
Giữa bốn khung tường màu trắng của nhà thương, người ta chằng chịt quanh chàng, thọc vào mũi, vào miệng, gắn trên người chàng nhiều thứ giây nhợ, ống dẫn phức tạp.  Những giây nhợ ống dẫn ấy nối với những máy móc đo đạc y khoa rất hiện đại.
Chính chàng trước đây là người đã cung cấp những dụng cụ linh tinh này cho bệnh
viện sau một hợp đồng thành công.  Và hiện diện chung quanh chàng, sau khi
vài thân hữu đồng nghiệp đã ra về, là chính người vợ không “đủ tiêu chuẩn” theo ý chàng, cùng với ba người con gái có gương mặt âu lo, đang yêu thương buồn bã nhìn người cha tiều tụy ốm yếu mất sắc.
Quây quần chung quanh chàng những lúc đời riêng biến cố, ở những khúc quanh ngặt nghèo như lúc này và cho đến lúc cuối cùng, hình như cũng chỉ có nhiêu đó người ruột thịt trong một gắn bó nhiệm màu mà định mệnh, những người mà tháng ngày gần gũi đã làm cho hiện hữu của họ đối với chàng trở nên nhàm chán khiến chàng không cảm nhận được giá trị cùng ý nghĩa của sự hiện diện đầy ân tình và linh thánh ấy trong đời mình.  Họ đứng ở đấy, câm lặng, khóe mắt đỏ hoe những giọt lệ chan hòa mến thương và chia sẻ trong bất lực nặng nề.  Cõi yêu thương rất linh thánh, chan chứa ân tình ấy vô hình, da diết, mỏng manh nhưng lại hiện hữu và vô cùng sống thực như chính tấm mền mỏng màu trắng đang phủ kín, đắp ấm tấm thân thể rã rượi, u uất và bất động của chàng.
Chàng trải qua giấc hôn mê…
Trong cơn mê mệt mỏi rã rời ấy, chàng thấy mình đi dạo trong một khu vườn lạ rất đẹp, và… chàng gặp Chúa cạnh một suối nước…
Quên chào hỏi xem Chúa đi đâu và đang làm gì, chàng chất vấn Chúa ngay với cung giọng thiếu bình tĩnh:
-“Chúa còn nhớ thuở trai trẻ, con đã nói cho Chúa nghe những điều gì không?”
Chúa nhìn chàng, thương mến hồi lâu rồi nhẹ nhàng ôn tồn:
-“Ừ, đó là những điều ước muốn tốt đẹp!”
-“Chúa đã hứa cho con được hạnh phúc sung sướng.  Chúa cũng công nhận những điều ước muốn cỏn con kia của con là tốt đẹp, sao Chúa không ban cho con những điều ấy?”, chàng bực dọc.
Vẫn thương mến trong hiền hậu ôn tồn, Chúa chậm rãi:
-“Ta có thể làm như vậy.  Nhưng Ta muốn con ngạc nhiên về những gì con không mơ ước.  Ta đã ban cho con một người vợ hiền thục xinh đẹp, một doanh nghiệp tốt, một
nơi ở dễ chịu, những đứa con xinh ngoan… Đấy chưa phải là những món quà tốt
đẹp nhất Ta đã ban tặng cho con sao?…”
-“Nhưng con tưởng Chúa ban cho con điều con đã xin…”
-“Còn Ta, Ta đang chờ con cho Ta điều Ta thật sự mong muốn…”
-“Chúa mong muốn gì?”, chàng thân tình, trố mắt ngạc nhiên.  Chỉ có chàng mới cần thứ này, ước cái nọ, muốn thứ kia, chứ có bao giờ chàng nghĩ rằng Chúa cũng cần,
cũng muốn một cái gì đó đâu !
-“Ta muốn con luôn được hạnh phúc sung sướng với những gì Ta ban cho con.  Ta những muốn cho chính con chứ không cho Ta.  Ta mong muốn con luôn được yên vui hạnh phúc…”
Rồi để giúp chàng nguôi ngoai nỗi khát vọng, giải tỏa cho chàng bao nỗi trầm tư u uất, Chúa đưa chàng ra khỏi khu vườn đẹp, và cùng chàng rảo bước giữa lòng phố.
Và đấy cũng là lần đầu tiên, chàng có dịp bước xuống cuộc đời để tận mắt nhìn thấy cái quang cảnh vất vả, nhốn nháo, ồn ào, tất tưởi rất mồ hôi nước mắt… Chàng thấy bao con người đang tất bật cảnh kiếm sống, những chiếc xe kéo, những thân thể gầy gò, những bộ áo quần tả tơi lem luốc, những người phu quét đường, đám người di dân đang nhễ nhại đào xúc ở công trường với đồng lương tối thiểu ốm o.    Chàng thấy đám người homeless rách nát lang thang.  Đám người vô gia cư cơ nghiệp có tóc tai râu ria xồm xoàm và tấm thân hình hôi hám dơ bẩn lâu ngày không một giọt nước tắm gội kia, đang thất thểu với chiếc xe đẩy, và chất đầy trên đó là cả cái  gia tài của đời họ. Gia tài ấy chỉ là một đống giẻ rách…  Một kẻ ăn xin chạy đến chàng (tướng tá chàng sang trọng lịch lãm với bộ đồ veston Italy đắt giá mà!).  Người ấy xoè tay, lắp bắp một lời khẩn xin bố thí.  Mủi lòng cảm thương, chàng mở bóp, nhưng chàng không có
tiền mặt mà chỉ có một xấp thẻ tín dụng đủ loại.  Chưa bao giờ chàng biết đến đồng tiền xu hay phải bận tâm giữ tiền giấy trong người… Người ăn xin kia tiu nghỉu thất vọng và nổi nóng.  Xả hết cơn tức giận, hắn  nhào tới, tống một quả đấm vào giữa mặt chàng.  Chàng choáng vàng la hoảng và giật mình thức dậy..
Ra khỏi cơn hôn mê, chàng trăn trở với giấc mơ trò chuyện vặn hỏi Chúa và cùng Chúa rảo bước giữa cuộc đời thực….
Chàng trằn trọc suy nghĩ…
4. Cuối cùng, chàng mơ một giấc mơ khác…
Chàng quyết định, rằng chàng chỉ mơ và ước muốn tất cả những gì chàng đang có… Chàng sung sướng nhìn gương mặt người vợ lúc ấy đang đứng bên cạnh trong im lặng mà âu lo săn sóc, gương mặt mà đã nhiều năm, chàng không không nhìn kỹ để không thấy được những gì là “con tim” nồng thắm nơi từng nét vẻ diễm kiều ở khóe mắt, suối
tóc, bờ môi.  Chàng hãnh diện nhìn những người con đang vui mừng thấy chàng mở mắt…  Trong nước mắt, họ ôm lấy nhau…  Và hình như đấy là lần đầu tiên trong đời, chàng cảm nhận một thực thể nào đó vô cùng bao la, một thực tại nào đó rất ư vĩ đại mà sống thật vẫn bao bọc quanh chàng mà chàng chưa hề cảm biết.  Chàng cảm thấy đây là gia đình, là chính con tim của mình, là ân huệ, là những gì duy nhất còn lại sau tất cả mọi điều.  Đây chính là giây phút mà tiền tài, danh vọng, dục vọng, ước mơ, Lách Xớt, của cải… tất cả chỉ là con số không… Niềm cảm nhận kinh khủng ấy tuy hiếm hoi muộn màng nhưng nó làm không gian của chàng thu hẹp lại, không gian ấy có những nhịp tim rạng rỡ của cảm nhận và ỵêu thương chan hòa…
Và nhận thức mới ấy đã làm chàng qua khỏi cơn bệnh.
Chàng trở về sống sung sướng trong khu chung cư cao ốc, vui hưởng tiếng cười đùa của các con, biết thế nào là vị ngọt của bờ môi người vợ, cảm nhận được thế nào là yêu thương trong đôi mắt, vòng tay.  Chàng đếm được rõ trong tim mình có bao nhiêu
người.  Chàng biết rằng, ở đáy ánh nhìn thơ ngây của đàn con, ở đáy đôi mắt tuyệt vời và nồng nàn ân tình của người vợ, là những thực tại sâu thẳm vững bền như chính sự sống… Chàng nhìn lại những hững hờ quá khứ, những đuổi bắt mệt mỏi… Chàng đọc thấy được bao nhiêu điều trên gương mặt hiền hậu của người vợ đã nhiều năm má ấp môi kề, những điều mà trước kia chàng chưa hề đọc ra…  Chàng sung sướng ngắm gương mặt từng đứa con, hoa trái của tình yêu chàng…  Những cảm nhận thiết tha…. Tim chàng đang rung đều những nhịp mới…
Và đêm đó, trên căn trọ chót vót với ánh mắt nhìn xuống thành phố lấp lánh ánh điện, xa xa là biển rộng thẫm bóng đêm, chàng quỳ gối xuống… Hình như trong đời, chàng đã chưa từng nói với Chúa lời cảm tạ để đêm ấy, chàng quỳ gối lâu lắm…
Chàng đã không xin Chúa gì thêm….
GTR
(viết theo ý tưởng của
Loren Seibold)
Anh chị Thụ & Mai gởi

Một câu chuyện thật cảm-động – 48 năm tìm nhau

Một câu chuyện thật cảm-động – 48 năm tìm nhau

Ngã ba Thạch Trụ (huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi), 10h47 sáng 18/10, một người đàn ông xuống xe khách ôm chầm lấy một phụ nữ khóc nức nở. Nhiều người đi đường đứng lại và không cầm được nước mắt.

Họ là hai anh em ruột mồ côi, lạc mất nhau đã 48 năm.

Nước mắt của đợi chờ sau 48 năm gian truân, lưu lạc - Ảnh: Hữu Khá

Nước mắt của đợi chờ sau 48 năm gian truân, lưu lạc –

Ảnh: Hữu Khá

Cả đêm hôm trước bà Võ Thị Tới không ngủ. Sáng sớm 18-10, bà cùng chồng ra ngã ba Thạch Trụ chờ chuyến xe chở ông Võ Văn Tiếp từ Đà Nẵng vào. Xe dừng ở ngã ba đường, Tiếp – Tới, hai anh em mồ côi từ lúc mới chào đời, gặp nhau trong nước mắt sau dọc dài gian khó quãng đời lưu lạc…

Cháy nhà… mất em

Chuyến xe hôm ấy từ Đà Nẵng vào Quảng Ngãi như chở cả một đời lưu lạc về với hai anh em. Ông Tiếp bước lên xe tay run run khi điện thoại liên tục nhận được cuộc gọi từ Quảng Ngãi giọng nôn nóng “anh tới chưa”?. “Anh đang gần tới rồi em” – ông Tiếp nói xong, mặt nhìn ra phía cửa xe giấu đi dòng nước mắt đang tuôn dài.

Họ lạc mất nhau năm 1964, chỉ ít lâu sau ngày ba mẹ lìa trần. “Sáng ấy, cha mẹ tôi ra đồng thì bị trúng đạn chết. Lúc này tôi mới chập chững lên ba. Em gái tôi mới biết bò dưới nền đất” – ông Tiếp ngậm ngùi. Sau ngày kinh hoàng đó, hai đứa trẻ lăn lóc về
nhà người cô ruột. Sống cơ cực với người cô chỉ được ít lâu. Một hôm vào ngày
đầu hè, giữa lúc chập choạng tối, Tiếp cầm đèn vào góc nhà tìm em. Dại dột bỏ
đèn bên mép cửa, ngọn lửa bén mái tranh. Hoảng sợ, Tiếp lôi xịch em gái ra núp
ngoài bụi tre. Căn nhà cháy rụi thành tro cũng là phút giây hai đứa chia lìa.

Đêm đó, hai đứa lạc mất nhau. Em gái được bà ngoại ẵm về nuôi nấng. Còn Tiếp lại lăn lóc theo bước đường tha phương cầu thực của người cô về vùng Hòa Liên, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng. Ở với cô được một thời gian nữa, Tiếp được cho đi ở đợ chăn trâu. Tiếp lớn lên với mấy đứa bạn chăn trâu hàng xóm. Mười ba tuổi, Tiếp đã vào rừng oằn lưng gánh củi về. Đêm xuống chui vào căn nhà sát chuồng trâu để qua bao mùa gió rét thấu xương.

Ở đợ đến năm 1982, khi ấy Tiếp tròn tuổi 22. Đứa trẻ chăn trâu không cha mẹ đã bắt đầu nhận ra thân phận của mình. Tiếp muốn ra đi, đi khỏi làng. Từ đó, trong căn chòi nhỏ bên mép chuồng trâu không đêm nào Tiếp ngủ được. Giữa đêm dài lạnh buốt với thao thức “đi khỏi làng”. Nhưng đi về đâu và lấy gì mà đi cứ dằn vặt mãi. Càng suy nghĩ, Tiếp càng bế tắc. Thả trâu trên đồng, Tiếp tranh thủ đi mót lúa. Gần năm trời
Tiếp dồn được nửa thùng phuy lúa, đem bán. Chiều hôm trước bán được lúa là sáng
hôm sau anh giã từ bạn bè lên đường không để lại một dấu tích.

Mùa hè năm 1982, con đường vào Nam của Tiếp dừng lại ở vùng Trảng Bom (Đồng Nai). Đến nơi, ngày ngày Tiếp đi làm thuê cho người ta, tối đến căng bạt bên vệ đường nằm ngủ. Như trời sắp đặt, năm năm sau Tiếp gặp một cô gái mồ côi, bén duyên vợ chồng. Họ sống với nhau trong cơn đói khó, có hai mặt con.

“Tôi còn một người anh”

Còn Tới, về sống với ngoại. 16 tuổi, ngoại mất. Tới lên đường đi tìm anh nhưng hành trang mang theo chỉ là cái tên của người anh trai. Ban đầu Tới dạt lên Tây nguyên nhưng không lần ra manh mối. Cô xuôi về vùng núi Tánh Linh (Bình Thuận) làm thuê kiếm tiền nuôi ước mơ tìm anh. Đường đời khốn khó cũng chắp nối những mảnh đời vỡ vụn lại với nhau.

“Anh  ơi, đưa cha mẹ về nhà”
Cha  mẹ ông Tiếp, bà Tới chết không mồ mả. Bao năm nay bát nhang được gửi lên  chùa. “Mấy năm nay, cứ đến ngày 12-6 âm lịch, vợ em làm mâm cơm đặt trước sân  nhà khấn vái rồi khóc ngất” – ông Quang kể với ông Tiếp. “Anh ơi, mai mốt mình đưa cha mẹ về nhà anh. Cha mẹ chết đã không mồ mả, bát nhang để trên chùa lạnh lẽo lắm” – bà Tới đổ nhào vào người ông Tiếp lại khóc.

Tới gặp một chàng trai cũng mồ côi cha mẹ từ lúc 2 tuổi, không anh em, quê ở Quảng Ngãi lạc bước vào Bình Thuận. “Nhiều đêm vợ tôi nằm khóc nức nở. Cô ấy bảo còn người anh trai nhưng không biết sống hay chết. Thương vợ, nhưng cơm con ăn còn chưa đủ biết lấy tiền đâu đi tìm” – ông Quang, chồng bà Tới kể. Thương anh đến cháy lòng, bà Tới không tìm thấy anh nhưng vẫn nuôi hi vọng anh mình còn sống. Có hôm ra xã làm giấy tờ, Tới điền vào lý lịch “tôi còn một người anh”. Khi người công an bảo
phải ghi rõ anh họ tên gì, ở đâu, Tới bảo “không biết” rồi cúi xuống bàn ôm mặt
khóc.

Còn ông Tiếp, cuộc đời nghèo túng và sự mặc cảm cản bước đường ông trở lại xóm chăn trâu. Con đường tìm em xa mịt mù. Đã bao lần ông dự tính tìm em nhưng bất thành. Rồi một hôm, bất ngờ có một người khách lạ xuất hiện. Tiếp đứng sững người, nước mắt trào ra khi trước mặt mình xuất hiện một người bạn. Tiếp gọi lớn “thằng Vân chăn trâu”, rồi hai người ôm chặt lấy nhau. Vân dưới Sài Gòn lên tìm bạn. Thấy ông Tiếp nghèo khó, từ đó mỗi lúc rảnh rỗi ông Vân hay lên xuống Trảng Bom giúp ông
Tiếp. Rồi một ngày đầu tháng 10-2012, ông Vân lên Trảng Bom chơi. Gặp lại bạn,
ông Vân nói: “mình về tìm lại mấy đứa chăn trâu coi thử nó sống chết răng rồi”.
Hai đứa con gái ông Tiếp đứng bên thấy cha khóc, đêm đó động viên ông phải trở
về. Sáng hôm sau đứa con gái lớn chạy đi mua cho cha bộ đồ mới.

Cuộc gặp nghẹt thở

Về chốn cũ xã Hòa Liên (Đà Nẵng), mọi thứ đã đổi thay. Mấy đứa bạn thuở chăn trâu giờ trên tuổi 50. Chiều hôm ấy họ đứng chết lặng nhìn nhau, nhận ra nhau qua vết sẹo trên mặt. Đêm xuống, cạn chén rượu mừng ngày gặp lại. Đến giữa khuya khi chén rượu đã tàn, sương đêm xuống. Bỗng nhiên Tiếp ngẩng mặt lên trời dốc ngược cạn ly rượu, ôm mặt khóc đau đớn: “Tau còn đứa em gái, không biết nó còn hay chết ở phương nào”. Mấy người bạn động viên ông Tiếp giờ đi tìm em cũng như lạc vào đêm tối, bởi người em lưu lạc 48 năm không để lại dấu tích gì, biết bắt đầu từ đâu. Vậy
mà giữa đêm tối như nói trong cơn say, ông Điều, một bạn nối khố thời chăn trâu, vừa khóc vừa nói hồn nhiên như đứa trẻ: “Thôi mi đừng khóc nữa, mai tau dẫn đi tìm…”.

Câu nói như động viên bạn hóa ra lại bắt đầu một cuộc tìm kiếm, gặp gỡ kỳ lạ. Sáng hôm sau, ông Điều chở bạn đến xã Hòa Tiến, bởi hồi chăn trâu nghe loáng thoáng quê ngoại ông Tiếp ngày xưa ở đó. Họ đi tìm em nhưng chẳng có thông tin gì ngoài tên cha mẹ mình đã chết, không di ảnh, không mồ mả.

Đến đầu làng, ông Tiếp dừng xe tấp vào quán nước gặp một bà lão. Ông Tiếp nói với bà lão tên cha mẹ mình. Bất ngờ bà bảo “vợ chồng nhà nó chết trẻ, bỏ lại hai đứa con nhưng không biết hai đứa đó giờ sống chết ra sao”. Ông Tiếp run rẩy mừng rỡ khi nghe bà lão nhắc đến đó, ông hỏi tới tấp: “Vậy giờ bà có biết dưới làng còn ai thân thích không, con là con trai…”. . Bà lão chỉ tay về phía cuối làng nói: “Con đi về
dưới kia, mợ con còn sống”. Giữa trưa nắng Tiếp bỏ chạy một mạch về làng. ông
đứng trước một bà cụ tuổi đã gần 80 nói “con là Tiếp đây”. Bà lão sửng sốt, quệt mắt chằm chằm nhìn vào ông Tiếp rồi bảo: “Tiếp, Tiếp… con còn sống hả con”. Ngay lập tức bà lão nói như sét đánh vào tai ông Tiếp: “Con còn đứa em gái, con Tới nó lấy chồng về sống trong Quảng Ngãi”. Đứng giữa sân nhà giữa trưa đứng bóng, ông Tiếp nhìn lên trời khóc như đứa trẻ.

Tin ông Tiếp trở về, phút chốc đã đến tai người em. Chỉ ít phút sau, máy điện thoại ông đổ chuông với số lạ. Đầu dây bên kia chỉ kịp nói “em Tới đây” rồi khóc, khóc nghẹn ngào. Sáng hôm sau ông đón xe vào Quảng Ngãi. Đứa em gái cũng ra đứng ở ngã ba đường chờ ông. Chiếc xe khách vừa trờ tới ngã ba Thạch Trụ, ông Tiếp bước xuống. Phía bên kia đường một phụ nữ lao ra siết chặt bấu víu vào vai ông khóc ngây dại: “Anh đi đâu mà không tìm em”.

Hữu Khá

nguồn: Chị Helen Hương Nguyễn gởi

 

Con Lu nhà tôi

Con Lu nhà tôi

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Trong ba chú chó mới sinh, bà dì ở Ðà Lạt cho tôi một con và được chọn ưu tiên. Cả ba đều là chó đực nên chỉ cần lựa con nào có bộ lông đẹp nhất là đủ. Khi tôi ngồi sà vào ổ của ba chú chó chưa mở mắt, chợt con có màu lông xám, hai đốm vàng trên lưng ngúc ngoắc đầu đánh hơi bò về phía tôi. Nó đưa cái mõm mũm mĩm, ươn ướt ủi vào bàn chân của tôi. Cái đuôi cũn cỡn ngoe nguẩy như loài chuột xạ…

Hai tuần lễ sau tôi ghé thăm dì. Bầy chó đã mở mắt đang ngậm vú mẹ. Khi nghe
tiếng tôi trốc trốc, chú chó lông xám ấy bỏ vú mẹ bò vào lòng tôi. Dù màu lông
không nổi bật như hai con kia nhưng tôi thích cái tính thân thiện của nó ngay
từ giờ phút đầu.

Mang chó về nhà, con tôi chê màu lông nhớp nhem rồi tự động đặt tên là Lu. Dù
mới một tháng tuổi, nhưng khi rời chó mẹ về nhà tôi, Lu ít khi kêu đêm như
những chú chó con khác. Ban đầu cho Lu bú bằng bình sữa, rồi cho ăn sữa đặc đổ
vào đĩa. Chỉ ba tháng sau là Lu lớn như thổi.

Lai lịch của dòng họ nhà Lu cũng ly kỳ lắm. Jolie là tên mẹ của Lu, giống chó xù Nhật Bản, nhỏ con, chân thấp, dáng đi lũn cũn. Nó hay qua nhà láng giềng đùa giỡn với anh chàng berger to con, tai vểnh, đôi chân sau vạm vỡ. Một hôm, lũ trẻ đến trước nhà Dì tôi kêu giật giọng rằng là con Jolie bị con chó berger của ông Tư Ðợi tha đi khắp khu vườn. Dượng tôi hốt hoảng chạy sang. Những tưởng con berger đã cắn chết con xù của nhà dượng.. Nào ngờ cảnh tượng lạ lùng rất khó tin đã xảy ra: Con berger lẹo với Jolie nhỏ hơn nó gấp mấy lần. Vì là phần kết thúc sau “cuộc mây mưa” của loài chó, cho nên hắn tha con cái còn mắc cứng phía sau đuôi. Hai chân sau của con Jolie bị treo hỏng trên cao chỉ còn cái mõm và đôi chân trước bị kéo lê trên đất. Nàng kêu toáng lên khiến chàng đâm hoảng na chạy khắp vườn như na cái đuôi của mình trở nên nặng chình chịch. Kết quả cuộc tình giữa hai “chủng tộc”, nàng Jolie đẻ ra ba chú chó lai. Nhờ vậy mà đời con của nàng không còn mang dáng dấp thấp lè tè của loài
chó xù nữa.

Con Lu lớn lên bộ lông ngày càng đẹp. Màu xám của mẹ pha màu vàng của bố mướt mượt như nhung. Hai đốm vá màu vàng đậm nằm hai bên hông, thoạt trông như yên ngựa. Dù không to con lớn xác như bố nhưng con Lu cũng vượt trội hơn đám chó nhà. Chân cao, dáng đi oai vệ như loài hổ. Hai vai rộng, u thịt nổi vồng lên khi nó bước đi. Cặp mắt ánh lên màu lửa như có thần lực. Ðàn chó hàng xóm gặp Lu là cụp đuôi chạy dài. Sau này, những lần đi săn giải trí loanh quanh ở những khu đồi còn an ninh, tôi mới nhận biết loài chồn, loài thỏ thấy Lu là hồn xiêu phách lạc, đứng chôn chân tại
chỗ. Mỗi lần con tôi đi học về là dành nhau ôm Lu vào lòng. Tình cảm giữa chó
và người không hề phân biệt. Ngoài cái khứu giác bẩm sinh độc đáo của loài chó
có thể đánh hơi hàng mấy dặm, thính giác con Lu còn phân biệt được tiếng xe
quen thuộc của tôi từ xa. Nó nghểnh mõm, ve vẩy đuôi chạy ra trước sân. Nhìn cử
chỉ đó là nhà tôi đoán biết tôi sắp về đến nhà. Lu cạ vào chân tôi từ lúc xuống
xe đến khi tôi vỗ về âu yếm nó mới chịu đi nơi khác. Lu cũng cảm nhận khá nhạy
bén lúc tôi buồn bực hay giận hờn. Những lúc ấy nó nằm khoanh tròn nhìn tôi với
ánh mắt buồn xo. Ðến khi tôi vui vẻ trở lại là Lu chạy đến cạ lưng vào người và
liếm tay tôi như để hòa đồng niềm hân hoan với chủ.

*

Sau ngày “gẫy gánh 75”, tôi lên đường trình diện ban Quân quản thị xã. Tôi mang theo mười ngày gạo cùng ít đồ dùng, từ biệt vợ con với bao âu lo trong lòng. Khi bước ra khỏi cửa, con Lu cứ luấn quấn cản bước chân, tôi trực nhớ đến nó liền cúi xuống ôm Lu vào lòng. Ánh mắt ươn ướt buồn thiu của nó nhìn tôi chẳng khác gì đôi mắt của vợ tôi rươm rướm lệ. Lu liếm vào mặt tôi như quyến luyến từ biệt chủ phải đi xa lâu ngày. Trong tù, nhớ lại ánh mắt con Lu, tôi hiểu ra rằng loài chó còn có một giác quan đặc biệt, cảm tính rất nhạy bén về thái độ và tâm trạng của người gần gũi nó. Những tưởng mười ngày nửa tháng rồi quay về, nào ngờ cách biệt gia đình với thời gian dài hun hút. Tôi nhớ con Lu cũng tương tự như nhớ các con tôi. Nỗi lo ngại của tôi là lương thực ngày một khó khăn làm sao vợ tôi chạy đủ bữa cho đàn con bốn đứa lại thêm miệng ăn con chó.

Một ngày nọ, nhà tôi lên trại tù thăm, cho biết chú Dương Thái Lân, con của bà cô Út tôi từ Bắc về Nam có ghé thăm gia đình. Chú ấy bảo con Lu có cốt tướng nòi săn, muốn xin nó về đơn vị nuôi để săn mồi cải thiện thịt tươi. Lân là vai em nhưng lớn tuổi hơn tôi nhiều. Ði bộ đội từ trước 1954, sau tập kết ra Bắc được sang Tiệp Khắc học ngành cầu đường. Hiện là thủ trưởng đơn vị Công binh sửa đường ở Cao nguyên. Vợ tôi nhất quyết không cho con chó, lấy lý do phải qua ý kiến của chồng.

Một hôm, quản giáo trại gọi tôi lên văn phòng ban giám đốc. Một anh bộ đội mặc
áo quần đại cán ngồi trong phòng tiếp khách tay cầm một tờ tạp chí cuốn tròn.
Anh cán bộ thấy tôi vào, liền hỏi:

– Nguyễn Tấn đấy à?

Tôi ngập ngừng:

-Thưa vâng.

-Tôi là Dương Thái Lân.

Tôi à lên một tiếng để tỏ rằng mình biết hắn là ai. Thực ra, qua 21 năm ở Bắc
và mấy năm đi bộ đội Vệ Quốc Ðoàn làm sao tôi nhớ nỗi cái khuôn mặt ngày xưa
của thằng em con bà cô Út. Ðưa tờ báo cuốn tròn cho tôi, hắn bảo:

– Ngày trước anh cũng viết sách, làm báo dữ dằn đấy nhỉ?

Tôi mở cuộn báo thì ra là tờ Bán nguyệt san Quyết Tiến. Ðó là tạp chí do tôi trách nhiệm biên tập trước 75 do cơ quan USAID của Hoa Kỳ yểm trợ ngân khoảng
để in ấn phân phát cho các đơn vị Ðịa phương quân và Nghĩa quân.

Lân bảo:

– Tôi có đọc trong đó truyện dài “Nhật Ký Bích Phương” của anh viết đăng nhiều kỳ về Tết Mậu Thân 68. Viết bạo đấy chứ, theo đúng sách lược tuyên truyền chống cách mạng của Mỹ Ngụy.

Tôi giật mình và cảm thấy bất an.. Hắn đưa tay ra hiệu lấy lại cuốn tạp chí rồi
lên tiếng:

– Tôi có ghé nhà thăm chị Tấn. Giai đoạn này mà trong nhà còn nuôi con chó kiểu
tiểu tư sản. Anh không sợ cặp mắt của quần chúng hay sao?

Tôi than thở:

– Thời gạo châu củi quế,
nhà tôi phải chạy gạo cho bốn miệng ăn, nhưng vì nuôi nó từ lúc mới sinh nên
tình cảm gắn bó như thành viên trong gia đình.

Hắn ngắt lời:

– Tôi có đề nghị với chị cho tôi mang con chó đó về đơn vị để đỡ bớt khẩu phần
ăn cho gia đình nhưng chị bảo phải qua ý kiến anh. Mới nhìn là tôi biết nó thuộc giống chó săn quý hiếm và có thể chống lại cả thú dữ.

Tôi bực mình trước cái lối điếm lỏi, nhưng cố nén giọng:

– Nếu chú thích con chó thì về hỏi nhà tôi, quyền quyết định ở bà ấy.

Tôi đứng lên chào hắn rồi đi thẳng xuống trại.

*

Ðến kỳ thăm nuôi sau, bà xã tôi báo tin chú Lân đến nhà bắt con Lu đi rồi. Bỗng
dưng mắt tôi như nhòa sương, lòng xót thương con Lu vô hạn. Từ ngày vào tù, tôi
nghi ngờ tất cả những gì người ta nói. Giờ đây Lân bảo đem Lu về nuôi hay ăn
thịt chỉ có trời biết. Thấy mắt tôi rưng rưng ngấn lệ, vợ tôi an ủi:

– Lũ con mình cơm không đủ ăn mà phải nhường cho chó một ít, lòng em cũng xót
xa lắm. Nó thiếu ăn nên cả đêm chạy rông kiếm mồi đến sáng mới về nhà. Lông nó
ướt nhớp nháp, đầy bùn. Biết đâu có cơm bộ đội dư thừa thân nó sẽ mập ra. Mình
có giữ lại một thời gian sau cũng bị người ta đập chết làm thịt thôi. Xã hội
bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?

Hết giờ thăm nuôi, tôi đứng vào hàng. Nhìn đôi mắt nhòa lệ của vợ khiến lòng
tôi xót xa vô cùng. Cả đêm hôm đó hình bóng con Lu cứ chập chờn trong giấc ngủ.
Tôi mơ thấy đôi mắt buồn rười rượi của Lu nhìn tôi trong ngày ra đi như báo
hiệu rằng nó không còn dịp gặp chủ nữa. Cái cảm giác man mác êm êm của lưỡi nó
liếm vào mặt, vào cổ, giờ đây tôi vẫn không quên. Niềm tin gắng gượng nhỏ nhoi
vào lời hứa của thằng em con bà cô là xin con Lu để canh chừng thú dữ và săn
mồi. Vả lại, cái công khó của Lân đã lặn lội đường xa đến trại cải tạo để gặp
tôi nên cũng an ủi phần nào.

 

“Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?”

Nguồn: vietnamaaa.numeriblog.fr

Ba tháng sau, vợ tôi với khuôn mặt hớn hở báo với tôi con Lu không còn ở với chú Thái Lân nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn. Nàng kể:

– Cách đây một tuần lễ, chú ấy bất thần đột nhập vô nhà mình không giữ kẽ như những lần trước. Chú dáo dác nhìn trước nhà, nhìn sau nhà, cả cái phòng ngủ của vợ chồng mình chú cũng ghé mắt quan sát. Ðột nhiên Lân hỏi:

– Con Lu có chạy về đây không chị?

Em sững sờ hỏi:

– Nó ở với chú mà?

– Tức lắm chị ơi, Lân ngồi vào cái ghế đặt ngoài hiên, nói tiếp: “Trước khi đi công tác Hà Nội, tôi gởi Lu cho chị nuôi lo ăn hàng ngày. Không ngờ các đồng chí trong đơn vị
lợi dụng lúc tôi vắng nhà, bắt con Lu làm thịt đánh chén. Chúng bỏ con chó vào
bao bố dìm xuống nước. Khi mở bao ra con chó không còn thở nữa. Họ yên chí ngồi
chờ nồi nước đang nấu cho thật sôi để cạo lông. Ca nước sôi đầu tiên tưới vào
lưng con Lu, bất ngờ nó vùng dậy chạy đi mất dạng. Lập tức các đồng chí ấy cầm
súng lùng sục các ven rừng nhưng chẳng thấy nó đâu nữa. Tôi yên chí con Lu sẽ
trở lại nhà chị vì nó vừa khôn vừa có sức mạnh khác thường. Tôi đánh giá thành
tích săn bắt mồi của con Lu rất cao. Nó thường xuyên bắt được chuột đồng, thỉnh
thoảng chồn hoặc thỏ. Mình có chất tươi thêm vào bữa ăn nên tôi quý nó lắm. Kể
xong, Lân đi ra xe xách vào một bao cát đựng đầy gạo, bảo:

– Ðây là số gạo tiêu chuẩn tôi đi công tác còn thừa, chị nhận cho các cháu bồi
dưỡng và thêm phần cho con Lu. Nếu nó có trở về đây xin chị báo tin cho tôi
biết.

Lân ra đi được một ngày.

Hôm sau, lúc chạng vạng tối, cả nhà đang ăn cơm, con Lu không biết từ đâu chạy
xồng xộc vào nhà, mình nó ướt đẫm mồ hôi. Trên lưng một vết phỏng to bằng bàn
tay lột hết lớp lông và đã bắt đầu làm mủ. Lũ con mình ôm con Lu vào lòng mừng
rơi nước mắt. Cả nhà phải nhịn một phần cơm cho nó. Loáng cái là nó vét sạch
đĩa cơm độn sắn. Lu ve vẩy đuôi, đưa lưỡi liếm từng người trong gia đình như để
điểm lại những người thân. Mấy đứa con mang Lu ra giếng chà xát xà phòng, tắm
rửa, bắt sạch ve vắt bám vào da. Em khui bình thuốc Peniciline rắc lên vết phỏng.
Chờ đến tối, em mang Lu về gởi cho ông bà ngoại vì biết thế nào chú Lân cũng
trở lại tìm chó. Ðêm đó, Lu cứ theo chân em đòi về, thằng Doãn phải ngủ nhà
ngoại để giữ con Lu ở lại. Em vuốt ve vỗ về:

– Con phải ở lại đây với ngoại. Lu không được theo mẹ về nhà, người ta sẽ đến
bắt con đi, biết hông?”. Lu vểnh tai nghe lời em dặn nên ngoan ngoãn nằm
trong lòng của Doãn mà không còn hậm hực đòi về nữa.”

Từ đó, hễ thấy người nào mặc áo quần xanh lá cây vào nhà là Lu chui dưới gầm
giường chìa đầu ra, nhe răng gầm gừ. Chỉ cần một cú giậm chân là đủ để nó phóng
ra vồ ngay. Sau lần thoát chết, con Lu nghi ngờ hầu hết mọi người, chỉ trừ gia
đình tôi và ông bà ngoại. Tính thân thiện của con Lu giờ đây không còn nữa.
Loài chó rất trung thành với chủ nhưng khi bị một lần đối xử tàn nhẫn với nó là
bỏ nhà đi luôn.

Gia đình ông bố vợ tôi tuy ở thị trấn nhưng vì là vùng đất đai đã tạo mãi từ trước khi trở thành thị tứ nên nhà cửa vườn tược rộng thênh thang. Tiếp giáp với vườn cây ăn trái là cánh đồng mía, nay thuộc hợp tác xã nông nghiệp. Lu không bao giờ ra trước
đường phố mà chỉ lùng sục trong vườn cây, ruộng mía sau nhà tha hồ bắt chuột,
chim chóc, rắn rít. Nó sống như một tử tù thoát ngục. Nó biết ngoài xã hội loài
người đang nhìn nó một cách thèm thuồng. Họ chỉ chờ cơ hội là biến thân xác nó
thành miếng nhừ, miếng mận.

Ngày ra tù, tôi vào thăm ông bà nhạc gia. Khi vợ chồng tôi vừa đến cổng nhà,
con Lu đánh hơi được từ trong nhà phóng ra chồm lên người tôi. Với sức nặng của
nó đã khiến tôi té ngồi xuống đất. Người nhà ngỡ con Lu tấn công kẻ lạ mặt nên
vội la lên: “Bố đấy Lu, tránh ra!” Nhưng không. Nó xoải hai chân trước đứng trên đùi tôi rồi đưa lưỡi liếm trên khắp mặt mày, tai cổ của tôi. Qua cơn hốt hoảng vì cú ngã bất ngờ, tôi hiểu ra con Lu đang mừng chủ. Tôi liền ôm chầm lấy nó rồi người và chó lăn lộn trên nền sân xi-măng. Cha mẹ vợ tôi vui mừng thấy con rể được ra tù. Hàng xóm đứng nhìn cảnh người vật ôm nhau, họ không tránh khỏi xúc động trong lòng.

Sáu tháng sau, nhà tôi sắp xếp cho tôi và thằng con trai lớn một chuyến vượt
biển. Tôi phải xin hộ khẩu ở nhà bà dì tận làng An Vĩnh gần mũi Ba-Tâng-Gâng.
Tôi có tên trong tổ hợp đánh bắt cá bằng lưới mành với ông dượng và mấy người
em bà con. Tôi dắt con Lu theo để tránh cặp mắt của láng giềng và tránh luôn
chú Lân bất thần đến nhà bắt gặp nó. Trước một ngày tới điểm hẹn, vợ tôi dẫn
thằng Doãn, con trai đầu lòng của tôi xuống nhà bà dì để chuẩn bị lên đường.
Sáng hôm sau, nhà tôi mang con Lu lên xe lam trở về nhà.

Ðêm 30 tháng hai âm lịch, trời không trăng nhưng rừng sao trên trời đủ soi rõ
đường đi trên bãi cát trắng lờ mờ. Hơi nước biển mát lạnh cùng với ngọn gió tây
thổi lồng lộng làm cho đám người trốn trong các bờ bụi rét run cầm cập. Họ cố
dõi mắt về hướng biển. Mười giờ… mười một giờ… đến mười hai giờ ba mươi
khuya, ánh đèn pin từ gành đá chợt nháy sáng báo hiệu ghe con đã đến. Tốp đầu
tiên gồm bốn người lần lượt tiến ra gành đá. Tiếp theo là hai cha con tôi cùng
hai người ở cánh bắc cũng xuất hiện. Cuộc “ra quân” âm thầm nhưng
đúng theo thứ tự ấn định. Còn mười phút nữa mới đến tốp cuối cùng. Bỗng, phía
sau làng có tiếng chân người chạy rầm rập rồi tiếng súng nổ loạn xạ. Toán đầu
quay trở lại chạy tản mác vào xóm. Hai người cánh bắc cũng thế. Riêng tôi chạy
băng qua gành rồi luồn vào lùm cây đước. Thằng Doãn, trước khi đi tôi đã dặn dò
kỹ lưỡng. Nếu họ bắt được là cứ khai đi một mình đừng để liên lụy đến Ba. Toán
du kích chia nhau chạy lùng trong xóm. Một du kích đuổi theo Doãn, đến gần bìa
làng hắn chộp được cổ con tôi. Thằng bé la toáng lên: “Thả tôi ra, thả tôi
ra”. Anh du kích xách thằng bé lên cao. Tay chân nó không ngừng giẫy giụa.
Chợt, một bóng đen từ trong hàng dừa phóng ra nhảy chồm lên bám vào cổ anh du
kích. Con chó! Tôi thầm kêu lên. Nó tấn công khá bất ngờ khiến anh ta đánh rơi
cây súng và buông thằng nhỏ để đánh vật với con chó. Anh ôm đầu con chó nhưng
răng chó càng lúc càng lún sâu vào cổ như con quỷ Dracula đang hút máu người.
Hắn kêu cứu. Một lúc sau mới có đồng đội đến tiếp sức. Con chó cũng vừa nhả ra
chạy vào trong xóm. Một loạt súng của người mới đến bắn đuổi theo. Tôi nghe
tiếng ăng ẳng của chó từ trong xóm vọng ra. Một nghi ngờ thoáng qua, chẳng lẽ
con Lu ? Nhưng tôi yên tâm ngay bởi con Lu đã được vợ tôi dẫn về nhà trong ngày
hôm trước. Núp trong đám cây đước tôi quan sát đầy đủ cảnh chó và người vật
nhau. Con chó xuất hiện trong bóng đêm chớp nhoáng như loài sói vồ mồi. Hình
ảnh con chó ngoạm cổ anh du kích, tôi liên tưởng đến ma cà rồng đội lốt chó để
hút máu người. Nhưng dù ma hay chó tôi cũng thầm cảm ơn nó đã giải cứu cho con
tôi và giải thoát được bao nhiêu người.

Tôi về đến nhà lúc tờ mờ sáng nhờ chiếc xe Honda thồ đi kiếm khách sớm. Tắm rửa thay áo quần xong, chợt nhớ đến con chó. Tôi hỏi vợ:

– Con Lu đâu?

Bà ấy bảo:

– Khi xe lam vừa đến ngả ba quốc lộ, con Lu vọt xuống xe chạy ngược theo con
đường về hướng biển. Em nghĩ nó trở lại với anh và con. Nếu có điều gì không
may xảy ra cho nó thì em biết làm sao bây giờ. Tôi nhìn vợ buông tiếng thở dài:

– Thôi rồi!

Tôi nghĩ ngay đến tiếng kêu đau đớn của chó vang lên sau tiếng súng. Con Lu có thể chết vì loạt đạn bắn theo. Tôi cảm thấy đau xót vô cùng.

Chờ trời tối hẳn, dì tôi mướn xe Honda thồ đưa Doãn về với chúng tôi. Vợ tôi ôm
con vào lòng, khóc thút thít:

– Giờ con đã thoát được về đây với mẹ cùng các em. Từ nay trở đi, đói no, chết
sống mẹ nhất quyết không để gia đình ta chịu cảnh phân ly.

Doãn nhìn tôi hỏi:

– Ba có thấy con Lu không?

Chẳng đợi tôi trả lời, Doãn quả quyết:

– Lúc ông du kích buông con ra, trước khi chạy trốn, con có quay lại nhìn thấy
con Lu đang ngoạm cổ ông ấy.

– Như vậy là con Lu đã chết vì loạt đạn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi kết luận. Các con tôi đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Tôi an ủi:

– Dù sao thì mình đã dành tình thương và chăm sóc Lu như con trong gia đình. Nó
có chết cũng là cái chết có ý nghĩa, một nghĩa cử vô cùng cao quý của loài chó
không khác gì con người.

*

Cả nhà đang say ngủ. Ðột nhiên, tôi nghe tiếng cào sột soạt vào cánh cửa trước.
Im ắng một hồi lâu, tiếng cào lại nổi lên lần nữa. Ghé mắt nhìn ra ngoài, tôi
chẳng thấy gì cả. Chỉ có bóng đêm bao trùm và sương mù dày đặc phủ đầy trời.
Tôi thiếp đi một chốc. Tiếng sột soạt nổi lên lần thứ ba. Lần nầy lâu hơn và ở
ngay cánh cửa hông. Tôi vội bật đèn lên, hé cửa nhìn ra. Hốt hoảng, tôi kêu
lên:

– Em ơi, con Lu trở về.

Cửa mở toang, Lu đi khập khiễng vào nhà. Tôi ôm Lu vào lòng và nước mắt tôi
tuôn trào. Tôi khóc vì vui mừng và khóc vì thương nó quá đỗi. Bầy con tôi xúm
vào quấn quýt bên Lu. Máu khô bê bết trên mông và đùi trái của nó. Một viên đạn
ghim vào đùi sau, rất may là không đụng xương. Tôi rửa sạch vết thương bằng
rượu cồn, xoa thuốc đỏ rồi băng kín vết thương lại.

Từ năm 1986 chính sách đổi mới, thị trấn quê tôi bắt đầu có sinh khí trở lại.
Chẳng bao lâu sau, nơi đây buôn bán sầm uất. Cửa hàng tư nhân được mở ra tranh
đua cùng với cửa hàng quốc doanh. Ðời sống có phần dễ thở hơn.

Sau trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979, Dương Thái Lân và cả đơn vị công
binh được điều động đến vùng thượng du Bắc Việt. Vì thế con Lu sống thoải mái
với chúng tôi không còn lo lắng gì nữa.

Ðến tháng 7 năm 1991, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện tỵ nạn HO8. Con Lu
cũng vừa tròn 18 tuổi. Nó đã quá già chỉ lẩn quẩn trong nhà. Nhưng khi có khách
đến là nó vẫn không quên chạy vào gầm giường.

Ngày gia đình tôi vào Sài Gòn để lên máy bay, tôi cho Lu theo đến ga xe lửa
cùng với bà con đưa tiễn. Khi còi tàu hụ từ xa, Lu đứng dậy sủa vang cả khu vực
nhà ga. Trước khi lên tàu, mỗi người trong gia đình chúng tôi đều thay nhau ôm
Lu vào lòng, rưng rưng, lưu luyến. Khi tiếng còi báo hiệu tàu chuyển bánh, con
Lu nhìn đoàn tàu rồi tru lên một tràng dài. Ðây là tiếng tru lần đầu tiên trong
cuộc đời 18 năm của nó. Tôi rùng mình. Tiếng tru thật áo não tưởng chừng như
lời trối trăng vĩnh biệt của Lu nhắn gởi.

Con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu. Nguồn: mt.gov.vn

Khi qua Mỹ rồi, chúng tôi được thư nhà cho biết, con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu.

Hay tin Lu chết, con tôi ôm nhau khóc. Nước mắt chảy ròng ròng như khóc thương
một người thân đã ra đi vĩnh viễn. Riêng tôi thầm nghĩ: “Cũng may là nó đã
quá già yếu, thân chỉ còn da bọc xương nên được chết toàn thây. Dù muốn dù
không nhân viên nhà ga cũng phải chôn xác Lu ở một nơi nào đó trong lòng đất.
Ðất mãi mãi ấp ủ thân xác nó và ngàn vạn năm sau biết đâu bộ xương của Lu sẽ
hóa thạch tồn tại mãi trên mảnh đất Việt Nam .”

Tôi khóc âm thầm trong đêm như khóc cho đứa con của tôi còn để lại quê nhà nay
không còn nữa. Suốt mấy đêm liền tôi nghĩ về Lu như nghĩ về một con người quả
cảm và thủy chung.
nguồn: Anh Nguyễn văn Thập gởi

nguồn: motgocpho

Người Con Gái Sông Hương

Người Con Gái Sông Hương
Một thời để yêu
Cuộc chiến Việt Nam đã để lại biết bao nhiêu cuộc tình éo le sầu thảm. Một thời để yêumột thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đầy chia cắt. Anh trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm ngục tù, anh trở về , em đã đem con qua Mỹ và
đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng trăm người khác, chuyện cô gái sông Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay cũng vậy mà thôi.
Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa Vỏ Bị của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc.
Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chàng là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Truong Vo Bi Ðà Lạt, cùng khóa với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã.
alt
Cô Lan Hương
Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế… và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng.
Cô Lan Hương
Chị cả một gia đình lễ giáo bảo thủ, cha mẹ cô hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân hết sức phiêu lưu. Anh chàng Bắc kỳ hơi lớn tuổi, quá khứ chẳng biết ra sao, đi thứ lính không biết chết ngày nào, không ai lại muốn con gái sớm thành góa phụ.
Nhưng cô gái sông Hương bướng bỉnh đã bỏ nhà theo sư đoàn thủy quân lục chiến vào Saigon mất tăm dạng. Nàng chỉ trở về với đứa con trong bụng để rồi gia đình cũng phải đành chấp nhận cho chàng rể bất đắc dĩ ra mắt nhạc gia và chờ đón đứa cháu ra đời.
Lúc đó đúng vào giai đoạn trung tá Nguyễn cùng với lữ đoàn đang chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Lan Hương đau bụng vào nhà thương khi Bắc quân tấn công thủy quân lục chiến tại Ái Tử.
Hương kể rằng đại bác chẳng biết từ đâu vọng về ngày đêm. Rồi bom nổ, tiếng máy bay xé ngang trời. Dân chúng bị thương, bị chết đem vào bệnh viện cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1972 đứa con trai đầu lòng của cô gái sông Hương ra đời. Ðặt tên cháu là Vũ.
Cũng ngày hôm đó, từ mặt trận, trung tá Nguyễn bay trực thăng về hậu cứ, rồi xe nhà binh cùng với binh sĩ ào vào thăm vợ con được ít phút rồi lại ra đi.Lính tráng đi với ông thầy, súng đạn đầy người, áo quần tơi tả, đến rồi đi… tưởng như trong phim ảnh.
Cô sinh viên nay trở thành bà mẹ trẻ ôm con khóc không biết rồi đây anh có trở về không ? Ðó là những ngày đầu của người con gái nếm mùi đau thương chinh chiến. Mấy năm trước, dù Mậu Thân với bom đạn và xác người chôn ở vườn nhà, tuy có sợ hãi nhưng vẫn còn ở tuổi ngây thơ. Bây giờ chiến tranh mới thâm
nhập vào da thịt.
alt
Lan Hương với quân phục Thủy Quân Lục Chiến
Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972 , Lan Hương thực sự sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta, quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy quân lục chiến rút lui ra sao, rồi đơn vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào.
Người con gái sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân mũ xanh. Khi đánh vào Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh, máy bay chở về Saigon không kịp còn nằm chờ ở phi trường. Cô sống trong những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn
mộng dữ. Ðứa con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ !
Tiếp theo là 1 tin vui trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Saigon làm trung đoàn trưởng 1 trung đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được những giây phút tương đối an toàn.
Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia đình tôi một đoạn email :
“Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc đời làm vợ lính thủy quân lục chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay”.

30 Tháng Tư, ngày định mệnh.

Mặc dù là bạn cùng khóa, nhưng tôi không hề biết về gia cảnh của trung tá Nguyễn. Hai tuần trước ngày 30 tháng 4-1975, tôi có dịp đi cùng người anh của Nguyễn lên chiến trường miền Ðông để thăm trung đoàn tại Bến Cát. Anh của Nguyễn là trung tá Tâm, cùng làm việc với chúng tôi tại  Tổng Tham Mưu
QuanLucVNCH.Xem tình hình tại chỗ, thấy hoàn cảnh của Nguyễn, với trách nhiệm chỉ huy tại chiến trường, rõ ràng là việc di tản hoàn toàn không có điều kiện.
Sáng 30 tháng 4-1975, chúng tôi đi bằng tàu quân vận tại Khánh Hội, theo sau đoàn tàu Hải quân. Gia đình anh Tâm chạy theo chúng tôi, lại có cả cô em dâu và 1 đứa con 3 tuổi. Cô em dâu lại đang mang bầu, chính là Lan Hương của trung tá Nguyễn. Người con gái sông Hương của thủy quân lục chiến và đứa con trai là thằng bé ra đời trong thời gian mùa hè 72 tại Quảng trị.
Mang bầu đứa con thứ hai, với thằng bé 3 tuổi, chạy theo anh chị, xuống tàu ra khơi. Lúc đó, thực sự tất cả chúng tôi cũng mơ hồ không biết đi đâu. Có thể về miền Tây, ra Phú Quốc, ra Côn Sơn theo Hải quân hay chờ tàu Mỹ vớt. Nhiều gia đình hy vọng thoát cơn hồng thủy, nhưng Lan Hương tan nát trong lòng.
Biết thế này em ở lại Saigon chờ anh Nguyễn.
Sau cùng, trải qua chuyến hải hành đầy nước mắt, mẹ con theo anh chị đến đảo Guam thì cô quyết định xin ghi danh theo con tàu Việt Nam Thương Tín để trở về. Tuy nhiên vì sắp đến ngày sanh, lại thấy những người xin về có những hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên sau cùng cô ở lại. Khóc thì vẫn khóc !
Qua đến miền đông nước Mỹ, Lan Hương sinh đứa con trai thứ nhì trong trại tỵ nạn Fort Chaffee đặt tên là thằng Việt.Họ Ðạo miền Trung Mỹ bảo trợ cho Lan Hương nuôi con. Hai đứa bé còn thật nhỏ. Những bà vú Hoa Kỳ tình nguyện thay phiên đến trong nhà, trông con để mẹ đi học. Xứ Huế với dòng sông Hương, gia đình cha mẹ, các em vẫn xa tít mù khơi. Không có tin tức gì về anh Nguyễn. Nào biết còn sống hay chết. Ðã đi tù hay mất tích (?)!
Những buổi tối mùa đông của miền băng giá, cô vẫn lặn lội đi học. Xa cách những vùng có đông người Việt. Gia đình anh chị bên nhà Nguyễn cũng bận rộn về sinh kế. Những đứa con còn nhỏ dại. Cô sinh viên văn khoa của sông Hương lầm lũi trở thành bà mẹ trẻ học trò tỵ nạn trong kiếp sống cô đơn.
Lỡ bước sang ngang
Trong hoàn cảnh đó, trải qua gần 5 năm hấp thụ nền văn minh Mỹ quốc, Lan Hương gặp ông giáo sư dạy
chương trình điện toán. Ông thầy Mỹ cũng đã ly dị vợ từ lâu đem lòng thương yêu cô gái Việt và xin cưới.
Trung tá Tâm, anh của Nguyễn, điện thoại cho chúng tôi nói rằng 2 người đến nói chuyện để xin phép được lập gia đình. Tuy là vai anh chồng và là bác của những đứa con nhưng làm sao trả lời được.
Ai mà có thể quyết định Yes hay No.
Nếu không đồng ý thì cũng không ngăn cản được. Vả lại, nếu cô Hương ở vậy, làm sao nuôi con thành người . Những đứa nhỏ sắp sửa vào trường. Rồi trung học, đại học. Tin nhà không có. Biết Nguyễn sống chết ra sao và sẽ chờ đến bao giờ…!Hơn nữa cũng chẳng phải thuần túy vì sinh kế. Cô gái sông Hương ngày xưa đã có một thời nhiệt tình để yêu. Ðã có can đảm bỏ nhà đi theo sư đoàn thủy quân lục chiến.
Ngày nay nàng đã tìm thấy hơi ấm tình yêu mới bên cạnh ông thầy đại học vào những lớp tối mùa đông. Cô ở vào tuổi 30 khi gặp anh chàng người Mỹ, cũng cao lớn đẹp trai vững vàng như trung tá Thủy quân lục chiến của mùa hè Quảng Trị ngày xưa. Ngày cưới đã ấn định. Tháng 7 năm 1980. Hai đứa con trai nhỏ vô tư vui vẻ làm quen với người cha Hoa Kỳ bao dung và tận tụy.
Nhưng số mệnh vẫn còn nhiều cay đắng. Ba ngày trước khi làm đám cưới, Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Kèm theo là mẩu giấy nhỏ nhắn tin của Nguyễn, còn sống, vẫn ở tù, chẳng biết ở đâu. Không biết còn sống được bao lâu. Nhưng còn sống.Lan Hương nhớ lại, những ngày xa xưa của năm 80, gần 30 năm về trước là những giờ phút hết sức trăn trở. Vui mừng cho 2 đứa con vẫn còn bố. Nhưng bẽ bàng cho duyên phận. Sau cùng, đám cưới vẫn tiến hành qua những ngày đầy nước mắt.
Rồi ngày tháng trôi qua, cuộc sống trên đất Mỹ với người chồng yêu thương, hết sức quân tử đã tạo thành 1 gia đình kiểu mẩu. Lan Hương có nhiều cơ hội giúp đỡ cha mẹ và các em. Gửi quà về tiếp tế cho Nguyễn trong trong trại tù từ Bắc vào Nam.
Từ trong trại, anh Nguyễn mơ hồ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng không có nhiều tin tức. Sau hơn 13 năm “ lao động cải tạo “ người anh hùng TQLC một thời được trở lại Saigon. Biết tin vợ con hạnh phúc trong gia đình mới. Anh tìm lại người vợ cũ, làm hồ sơ HO đưa tất cả qua Hoa Kỳ. Ðịnh cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là 1 gia đình nhưng Nguyễn vẫn sống độc thân như thời kỳ trước 75 . Gia đình mới của Lan Hương bây giờ đã dọn qua sống tại miền Tây.
Anh trở về, dang dở đời em…!
Mùa xuân năm 1991, cô gái sông Hương giờ đây đã 40 tuổi, đem 2 con qua miền Ðông gặp bố lần đầu tiên. Trước khi đi, người chồng Mỹ cầm tay Hương mà nói rằng: “Em hãy đi và thử hỏi lòng mình 1 lần cho rõ ràng. Nếu đây là lần chúng ta chia tay, anh cũng đành chấp nhận. Chuyện của chúng ta sau 10 năm, đến đây là đoạn cuối. Nhưng nếu em trở lại, thì xin nói lời chia tay rõ ràng với Mr. Nguyễn. Ðối với anh, Nguyễn luôn luôn là 1 người anh hùng. Nếu cần thì anh cũng phải hy sinh. Cảm ơn em đã cho
anh một gia đình trong 10 năm hạnh phúc.
Tiếp đến, cuộc gặp gỡ đầy đau thương của vợ chồng và bố con ông HO. Trời mùa đông Hoa Kỳ hình như có cả cơn gió Lào thổi về Quảng trị. Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi chợt biết là đã ngàn trùng xa cách. Nàng đã có gia đình mới. Mẹ con thấm nhuần văn hóa Mỹ. Anh không thể và cũng không có khả năng phá vỡ được bức tường ngăn cách đã xây dựng từ 15 năm qua.
Ðành để cho định mệnh đóng vai trò quyết định. Dự trù ra đi 1 tuần nhưng 4 ngày sau Lan Hương đã đem con trở về với ông bố Mỹ. Và 1 lần nữa người cha Hoa Kỳ sung sướng đón mẹ con Việt Nam trong vòng tay mở rộng. Gia đình Lan Hương sống tại San Francisco nên có cơ hội gần gia đình chúng tôi như cô em gái. Chúng tôi biết hết gia cảnh, và cô cũng vui lòng kể hết chuyện đời.
Cay đắng nở hoa…
Tháng 5 năm 2002, chúng tôi nhận được thiếp mời đi dự đám cưới cháu Việt tại Arizona. Bác sĩ Việt 27 tuổi lấy cô vợ Mỹ, bạn học thời sinh viên tại nơi tiểu bang đồng khô cỏ cháy nhưng mang đầy truyền
thống hết sức Hoa Kỳ.
Gia đình nhà vợ giàu có và bề thế. Bạn bè anh chị em nhà cô dâu Mỹ rất khích động ồn ào khi đón được chú rể bác sĩ Việt Nam đẹp trai độc đáo như tài tử Kong Fu Bruce Lee. Lễ cưới cử hành long trọng tại nhà thờ. Ông bố vợ đại diện gia đình nhà gái chào mừng nhà trai và quan khách. Nhà trai của bác sĩ Việt gồm cả 2 quốc gia Hoa Kỳ-Việt Nam từ bốn phương kéo về.
Ông bố chồng Hoa Kỳ đứng lên giới thiệu ông bố chồng Việt Nam là trung tá Nguyễn của chúng ta. Vị giáo sư điện toán của đại học nói rằng đây là người anh hùng Thủy quân lục chiến Quan Luc Việt Nam Cong Hoa`, đã chiến đấu 20 năm cho miền Nam tự do từ Tết Offensive 68 cho đến Easter Offensive 72. Ðã trải qua hơn 13 năm làm tù binh trong trại tù cộng sản. Mr. Nguyễn là anh hùng của ngày xưa và là anh hùng của ngày hôm nay.
alt
Hình 3 người cha của bác sĩ Việt, Cha nuôi, Cha ruột và Cha vợ
Với tư cách là bạn bè và là khách của nhà trai, tôi có dịp lên tiếng nhắc lại những ngày Nguyễn chiến đấu tại Quảng Trị, những ngày anh ở lại Bến Cát cho đến khi Tư lệnh sư đoàn tự vẫn và ông bị bắt vào tù. Mrs. Nguyễn mang bầu đi cùng chúng tôi ra khơi, được tàu Mỹ vớt, sinh cháu Việt trong trại tỵ nạn. Ðặt tên Việt để nhớ mãi về quê hương. Và hôm nay… Không khí cảm động và hơi căng thẳng, nên chúng tôi tìm cách kết luận nhẹ nhàng,… và hôm nay, Dr. Việt bỏ người cha Marine Corps Việt Nam và cả người cha giáo sư đại học Hoa Kỳ để về ở rể với người cha vợ Arizona, chỉ vì cậu bác sĩ của chúng tôi đi theo tiếng gọi của ái tình…
Tiếp theo, MC là em gái của cô dâu giới thiệu bà mẹ Lan Hương đi lên chứng kiến lễ cưới của con trai. Ông chồng cũ Việt Nam đi 1 bên, ông chồng hiện tại Hoa Kỳ đi 1 bên. Cô gái sông Hương khoác tay cả 2 chàng đi lên bàn thờ. Quan khách vỗ tay tán thưởng còn nhiều hơn là dành cho cô dâu chú rể.
Trong đời chúng tôi, chưa từng dự 1 đám cưới nào như vậy. Chú rể mới chụp hình kỷ niệm với 3 ông bố. Bức hình là một di tích lịch sử của gia đình.
Họp khóa mùa Xuân
Tháng 3 năm 2004, kỷ niệm 50 năm của 1 khóa quân trường VoBi Dalat. Anh em chúng tôi vào trường Ðà lạt tháng 3 năm 1954. 50 năm sau, anh em gặp lại tại Orange County, điểm danh xem ai còn ai mất.
Cô Lan Hương đến dự, đi cùng gia đình chúng tôi. Anh Nguyễn độc thân từ miền Ðông về gặp anh em. Ði cùng gia đình trung tá Tâm, chúng tôi đều là những ông già 70 tuổi.
Riêng cô gái sông Hương vẫn còn trẻ như ngày xưa. Anh em họp mặt hết sức cảm động. Giới thiệu  từng trung đội của năm 1954 xa xôi. Thời gian đó, chúng tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Ðến năm 1975 thì bao nhiêu mộng đẹp bay ra thành khói tan theo mây chiều !
Tiết mục sau cùng là người đẹp trao vòng hoa chiến thắng một đời cho các chiến sĩ cao niên. Chị Thiều, nữ sinh Sài Gòn, trao vòng hoa cho nhẩy dù Ngô Quang Thiều như chuyện tình năm xưa của thời chiến dịch Hoàng Diệu. Lan Hương của xứ Huế trao hoa cho anh Nguyễn, thủy quân lục chiến.
Bây giờ anh Thiều và một số bạn khác đã ra đi, nhưng Nguyễn và Lan Hương vẫn còn đây. Vẫn là cha mẹ của những đứa con, là ông bà của các cháu, nhưng chàng trai Hà Nội và cô gái xứ Huế chỉ còn biết nhau trong tình bạn.
Vì đây là chuyện thật nên vào tháng 10 năm nay 2009, nếu các bạn tò mò muốn biết mặt những nhân vật từ trong tiểu thuyết bước ra cuộc đời, thì xin đến San Jose. Khóa chúng tôi họp mặt lần cuối, kỷ niệm 55 năm kể từ khi ra trường tháng 10 năm 1954.
Sau này, có lẽ lực bất tòng tâm. Năm 2014 kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, anh em chúng tôi sẽ tổ chức tại gia. Nhà ai nấy làm. Chỉ có thể mời cô Lan Hương đến dự. Vì cô gái sông Hương mãi mãi tuổi 20 ./.
nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Câu chuyện về 1.000 con Hạc giấy

Câu chuyện về 1.000 con Hạc giấy
Ngày xưa, có một chàng trai yêu tha thiết một người con gái. Chàng trai lãng mạn gấp 1.000 con hạc giấy làm quà  tặng người yêu. Lúc ấy, anh chỉ là một nhân viên quèn, tương lai không quá sáng sủa, nhưng anh và cô gái ấy, họ đã rất hạnh phúc. Cho tới một ngày…
Người con gái nói với anh rằng cô sẽ đi Paris. Không bao giờ trở lại. Cô còn nói không thể tưởng tượng được một tương lai nào cho cả hai người. Vì vậy, hãy đường ai nấy đi, ngay lúc này… Trái tim tan nát, anh đồng ý.
Khi đã lấy lại được tự tin, anh làm  việc hăng say ngày đêm, không quản mệt nhọc cả thể xác lẫn tinh thần chỉ để làm một điều gì đó cho bản thân. Cuối cùng với những nỗ lực phi thường và sự giúp đỡ của bạn bè, anh thành lập được công ty của riêng mình. “Tôi phải thành công trong cuộc sống” – Anh luôn tự nói với bản thân – “Và sẽ không bao giờ thất bại trừ phi không còn cố gắng”.
Một ngày mưa, khi đang lái xe, anh nhìn thấy đôi vợ chồng già đang đi dưới mưa cùng chia sẻ với nhau một chiếc ô mà vẫn ướt sũng. Chẳng mất nhiều thời gian để anh nhận ra đó là bố mẹ bạn gái cũ của mình. Trái tim khao khát trả thù mách bảo anh lái xe chầm chậm bên cạnh đôi vợ chồng, để họ nhìn thấy mình trong chiếc ô tô mui kín sang trọng. Anh muốn họ biết rằng anh không còn như trước, anh đã có công ty riêng, ô tô riêng, nhà riêng… Anh đã thành đạt.
Trước khi anh có thể nhận ra, đôi vợ chồng già đang bước tới một nghĩa trang. Anh bước ra khỏi xe và đi theo họ. Và anh nhìn thấy người bạn gái cũ của mình, một tấm hình cô đang mỉm cười ngọt ngào như đã từng cười với anh, từ trên tấm bia mộ.
Bố mẹ cô nhìn anh. Anh bước tới và hỏi họ tại sao lại xảy ra chuyện này. Họ giải thích rằng cô chẳng tới Pháp làm gì cả. Cô bị ốm nặng vì ung thư. Trong trái tim, cô đã tin rằng một ngày nào đó anh sẽ thành đạt, nhưng cô không muốn bệnh tật của mình cản trở anh… Vì vậy cô chọn cách chia tay. Cô đã muốn bố mẹ đặt những con hạc giấy anh tặng bên cạnh cô, bởi nếu một ngày số phận mang anh về, cô muốn anh có thể lấy lại một vài con hạc giấy. Anh khóc
Cách tồi tệ nhất để nhớ một ai đó là ngồi ngay bên cạnh họ… nhưng biết rằng bạn không thể nào có được họ… và sẽ không bao giờ được nhìn thấy họ nữa.
Tiền là tiền còn tình yêu thì thiêng liêng. Trong cuộc tìm kiếm sự giàu có vật chất, chúng ta hãy dành thời gian để tìm kiếm khoảnh khắc bên những người yêu thương. Bởi biết đâu, một ngày nào đó, tất cả chỉ còn là hoài niệm.
From : Phước Nguyễn
và Từ Nguyễn Thập gởi

CON CHỒN và VƯỜN NHO

CON CHỒN và VƯỜN NHO

 

Tác giả: Thanh Thanh

Chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn
nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng
không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua
lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê,
con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở
lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi
để được gì?Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai
bàn tay trắng”.

Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

………….

Một nhà vua kia trước khi chết dặn rằng: “Lúc chết, khi đặt vào quan tài, thì
nhớ khoét hai lỗ và để hai bàn tay của Trẫm ra bên ngoài nhé, để cho mọi người
thấy là ta không đem theo được thứ gì cả”.

Ai chẳng biết thế, nhưng không hiểu sao mọi người cứ tích góp thật nhiều. Đến
độ phải dành dật, mất cả tình nghĩa, đến cả sát hại lẫn nhau nữa.

Cuộc sống con người đáng lẽ phải hưởng được thật nhiều hạnh phúc, thì lại bận
tâm cho sự đời. Lòng trí trở nên rối bời, khắc khoải, chờ đợi, tìm kiếm, nắm
giữ, mất đi, buồn khổ, thất vọng, chán đời, trách Chúa.

Thiên Chúa không dựng nên con người để hành hạ, đoạ đày, nhưng là để hưởng, như
Ađam Eva xưa. Thế mà con người đâu có hài lòng, lại muốn hơn muốn nữa, cuối
cùng chính họ tự làm khổ mình. Và “cái đang có cũng bị lấy đi”. Chúa dạy
là:“Hãy làm giàu kho tàng ở trên trời, nơi mối mọt không làm gì được”.

Dường như cái tâm lý chiều sâu cũng là định luật bù trừ thì phải. Xưa nguyên tổ
đánh mất, thì nay ta tìm cách lấy lại. Lấy lại bằng bất cứ giá nào. Nên càng cố
ra sức tích tích trữ thật nhiều. Và coi đó như một bảo đảm cho đời mình. Và khi
con người vất vả gom góp, thì lúc phải chia sẻ, lìa bỏ càng khó và đau xót hơn
nhiều.

Thánh Phaolô tông đồ nói: “Thưa anh em, thời gian chẳng còn bao lâu nữa. Vậy từ
nay ai có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc hãy làm như không khóc; ai vui
mừng như chẳng vui mừng; ai mua sắm hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng
của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”
(1Cr 7,29-30).

Về đạo đức, ta được động viên là hãy làm thật nhiều việc thiện, lập nhiều công
đức để được Chúa thưởng công.

Nhưng về mặt tu đức, ta lại được nghe rằng hãy gỡ bỏ mọi thứ hành trang, để
mình trở về số không. Số không nguyên tuyền tốt lành thuở ban đầu khi Thiên
Chúa dựng nên. Chính lúc này ta thực sự nhận lãnh mọi sự tốt lành Chúa đã sắm
sẵn.

Như Đức Giêsu, Ngài có tất cả, nhưng rồi lại tháo gỡ tất cả. Từ là Chúa, quyền
uy, oai phong, hoàn hảo, tốt lành, giàu có, đến sức sức khoẻ, thời gian, tài
đức, và cuối cùng là sự sống. Ngài đã thực sự trở nên số không khi bị treo trên
thập giá. Và chính lúc này, Thiên Chúa Cha tỏ cho biết thế nào là vinh quang,
thế nào là tất cả.

Nếu con người biết cái thực thực ảo ảo của thế gian, mà can đảm đi ngang qua
tất cả, thì sẽ gặp được Thiên Chúa, Đấng là tất cả.

Thanh Thanh

 

=====

BÀN TAY PHẢI CỦA CHÚA GIÊSU

Tại một nhà thờ bên Tây ban nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh
tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ, nhưng cánh tay phải thì rời ra và
đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.

Người Tây ban nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Có một tội
nhân đến xưng tội với cha xứ ngay dưới cây thánh giá. Như thường lệ, mỗi khi
giải tội cho tội nhân có quá nhiều tội nặng, Linh mục này tỏ ra rất nghiêm
khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.

Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu,
người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội, vị Linh mục lại đe dọa
như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.

Nhiều tháng qua đi, tội nhân lại đến quì dưới chân Linh mục cũng bên dưới cây
thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị Linh mục đã dứt
khoát, và trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội
cho ông nữa”.

Nhưng lạ lùng thay, khi vị Linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe
một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút
ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng
thì thầm như sau: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải
ngươi”.

Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng
mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ.

(Trích trong sách Lẽ sống)

Nhìn vào thập giá, con thấy tội trần gian. Nhìn vào thập giá, con thấy tội của
con. Chối từ hồng ân, tuôn tràn từ Thiên Chúa, sống trong đam mê, chống lại
tình yêu. Đan tâm phản nghịch, đóng đinh Chúa từ nhân (lời bài hát Tình yêu
Thập giá).

Nhìn vào thập giá, ta biết Thiên Chúa đã chứng tình yêu vĩ đại thế nào.

Nhìn vào thập giá, ta biết rõ tình yêu lớn lao vô cùng của Chúa và biết rõ cái
phũ phàng của nhân loại.

Nhìn vào thập giá, ta biết được Thiên Chúa không bỏ rơi con người, mà còn mở
đường và cho ta cơ hội trở về. Vì thế, ta đừng sợ hãi, mà hãy can đảm nhìn lên
Chúa Giêsu, không phải để than phiền, trách móc hay thất vọng, nhưng là hối lỗi
ăn năn, và đừng đóng đinh Chúa lần nữa.

Nhìn vào thập giá, với cánh tay dang rộng, thì biết rằng dù con người có giết
Ngài, Ngài vẫn không khép kín từ tâm, đóng cửa bịt lối, mà tiếp tục dang rộng vòng
tay yêu thương để ôm lấy nhân loại.

Nhìn vào thập giá, ta sẽ cảm nếm được thế nào là ơn tha thứ của Ngài.

Nhìn vào thập giá, lời mời gọi khẩn thiết của Chúa là các con hãy tha thứ cho
nhau. Càng tha thứ nhiều, ta càng cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa nhiều.

Nhìn vào thập giá, ta biết rằng chính Ngài là Đấng đổ máu ra vì con người, Đấng
duy nhất có quyền kết án hay tha bổng, chứ không phải do bác ái của con người.

Nhìn vào thập giá con thấy được tình yêu. Nhìn vào thập giá con người thấy được
hồng ân. Chúa từ trời cao, quên mình là Thiên Chúa. xuống nơi dương gian sống
vì tình yêu. Hy sinh thân mình chứng minh Chúa tình yêu. (lời bài hát Tình yêu
Thập giá)

Nhìn vào thập giá, ta biết đường đi lối về của mình trong hành trình tìm kiếm
Tình Yêu.

Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của tình yêu. Đàng sau thập giá là
hình bóng của vinh quang. Muốn có vinh quang phải đi xuyên qua thập giá.

Nhìn vào thập giá, ta thấy bầu trời tình yêu được mở ra cho mọi người chiêm
ngắm và đi vào.

Nhìn vào thập giá, con đường tuyệt vọng biến thành hy vọng, sự chết biến thành
sự sống, thất bại trở nên thành công, khờ dại trở thành khôn ngoan, tương đối
biến thành tuyệt đối, bất hạnh biến thành hạnh phúc, lo sợ trở thành vững tin,
nhút nhát trở thành can đảm, khép kín trở nên cởi mở, ích kỷ thay bằng vị tha,
cố chấp thay bằng bao dung, lười biếng thay bằng hăng say, và sẵn sàng chiến
đấu vì chân lý và sự thật, nhờ sức mạnh của cây thập giá.

Nhìn vào thập giá, ta biết được sức mạnh của sự dữ đã bị bẻ gẫy tan tành.

Nhìn vào thập giá, ta biết trời cũ đất cũ thay bằng trời mới đất mới. Nơi toàn
là ánh sáng vinh quang. Nơi không còn bất cứ áp lực nào có thể đe doạ ta được.
Nơi không còn phải lo miếng cơm manh áo hay nhà cửa, tiền bạc hay nghề nghiệp,
bệnh tật hay chết chóc… Vì mọi thứ tốt lành vĩnh cửu đã được dành sẵn cho ai
bước vào.

Nhìn vào thập giá, ta biết cửa hoả ngục bị đập tung, và cửa thiên đàng đã mở
toang.

Thì này con đây khấn xin khấn xin nơi Ngài. Xin Ngài dủ thương tha thứ muôn tội
khiên, và dìu đưa con vào suối nguồn hồng ân.

Vì thế, nói đến thập giá là nói đến Chúa Giêsu. Nói đến Chúa Giêsu là nói đến
thập giá.

Nếu ta đi tìm một Giêsu không thập giá, ta sẽ gặp toàn thập giá, mà không thấy Giêsu.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

 

 

LÁ THƯ CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI LÁI XE TẢI

LÁ THƯ CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI LÁI XE TẢI

Một lần trên xa lộ, tôi thấy một nhóm cảnh sát hoàng gia Canada và vài người công nhân đang tháo gỡ phần còn lại của một chiếc xe tải bị mắc kẹt bên vách đá.  Tôi đậu xe lại, nhập vào nhóm tài xế xe tải đang lặng lẽ quan sát đội công nhân.

Một cảnh sát bước lại chỗ chúng tôi chậm rãi nói: “Rất tiếc, người tài xế đã chết khi chúng tôi phát hiện ra anh ta.  Có lẽ anh ấy bị lạc tay lái trong lúc trời có bão tuyết hai ngày trước đây.  Thật khó để nhận ra người bị nạn nếu chúng tôi không may mắn thấy ánh nắng phản chiếu từ kính chiếu hậu”. Viên cảnh sát lắc đầu buồn bã, rút trong túi áo khoác một lá thư: “Đây này, các anh nên đọc cái này. Tôi đoán anh ấy đã sống được khoảng hai giờ trước khi chết vì lạnh”.

Tôi chưa bao giờ thấy cảnh sát khóc.  Tôi nghĩ họ đã thấy quá nhiều cái chết và chứng kiến nhiều cảnh tượng hãi hùng nên họ không còn cảm giác gì trước những việc tương tự.  Nhưng viên cảnh sát ấy đã lau nước mắt và đưa tôi lá  thư.  Đọc thư, tôi cũng như những người tài xế khác, không nói lời nào, chỉ lặng lẽ giấu những giọt nước mắt, trở về xe của mình.

love
Những từ ngữ trong thư như nung cháy tôi.  Và sau nhiều năm, nó vẫn còn khắc sâu trong trí nhớ, như thể tôi đang cầm  nó trước mặt.  Tôi muốn chia sẻ lá thư đó với bạn, bạn bè của bạn và gia đình của họ.

Thư của Bill, tháng 12 năm 2000

“Vợ yêu quý của anh,

Đây là lá thư mà không người đàn ông nào muốn viết.  Nhưng anh cũng đủ may
mắn khi có một ít thời gian nói lên những gì anh đã quên nói nhiều lần trước
đây.

Anh yêu em, em yêu ạ.  Em đã từng nói đùa rằng anh yêu chiếc xe tải còn hơn cả yêu em bởi vì anh dành nhiều thời gian cho nó quá!  Anh yêu cái khối sắt này vì nó cần cho chúng ta.  Nó chứng kiến anh vượt qua những nơi khó khăn, những giờ khó nhọc.  Anh đã có thể luôn kỳ vọng vào nó trên những chuyến hàng xa và nó luôn mau chóng giúp anh hoàn thành công việc.  Nó không bao giờ làm anh thất vọng.  Nhưng em có biết rằng anh yêu em cũng bởi những lý do đó.  Em cũng đã chứng kiến anh vượt qua những thời khắc khó khăn.

Anh nhớ anh đã than phiền về chiếc xe cũ kỹ vậy mà anh không nhớ em cũng từng
than thở khi mệt mỏi trở về nhà.  Anh quá lo nghĩ đến những rắc rối của mình đến nỗi không nghĩ gì đến em.  Anh nghĩ về những thứ em đã phải từ bỏ vì anh: quần áo, du lịch, tiệc tùng, bạn bè…  Em đã không bao giờ trách móc và vì lý do nào đó anh đã không bao giờ nhớ cám ơn em.  Khi anh ngồi uống cà phê với bạn bè, anh luôn nói về chiếc xe và những khoảng tiền sửa chữa nó.  Anh nghĩ anh đã quên mất em là người bạn đời của anh.

Sự hy sinh và phấn đấu của em cũng nhiều như việc anh cố gắng để có được một
chiếc xe mới.  Anh rất hãnh diện về chiếc xe này và anh cũng rất hãnh diện về em.  Nhưng anh chưa bao giờ nói với em điều đó.  Anh cho đó là điều dĩ nhiên em đã biết.  Nhưng nếu anh dành nhiều thời gian với em thay vì để chùi rửa, lau bóng chiếc xe thì anh đã có thể nói những lời thật lòng mình với em.

Nhiều năm tháng qua, trong những lần rong ruổi trên đường, anh biết những lời
cầu nguyện của em luôn theo anh.  Nhưng lần này những lời đó không đủ.  Anh đang đau quá.  Anh đang trên chặng đường cuối cùng.  Và anh muốn nói lên những điều mà lẽ ra anh phải nói nhiều lần trước đây.  Những điều bị lãng quên vì anh quá quan tâm đến chiếc xe và công việc.

Anh đang nghĩ đến những ngày kỷ niệm của hai đứa hay ngày sinh nhật đã bỏ lỡ,
cả những vở kịch, những trận đấu hockey của các con mà em phải tham dự một mình
vì anh đang đâu đó trên đường.  Anh đang nghĩ về những đêm em cô đơn và nghĩ đến anh đang ở đâu, công việc như thế nào.  Anh đang nghĩ về những lúc anh muốn gọi cho em chỉ để nói lời chúc ngủ ngon nhưng vì lý do gì đó lại tiếp tục chạy xe.  Anh nghĩ về những giây phút thanh thản, yên lành khi nghĩ đến em cùng các con.  Những bữa cơm gia đình em dành nhiều thời gian để chuẩn bị và tìm nhiều lý do để giải thích với các con vì sao anh không ăn cùng. (Vì anh đang bận thay dầu cho xe, anh đang bận sửa xe, anh đang ngủ vì buổi sáng anh phải đi sớm,…).  Luôn luôn có một lý do nào đó!  Khi chúng ta lấy nhau, em không biết thay bóng đèn, nhưng chỉ hai năm sau em đã có thể sửa lò sưởi những khi trời bão trong khi anh đang chờ dỡ hàng ở Florida.

Anh đã phạm nhiều sai lầm trong đời nhưng nếu nói anh chỉ có một lần quyết định
đúng, anh nghĩ đó là khi anh hỏi cưới em.

Cơ thể anh đang đau.  Nhưng tim anh thì đau hơn nhiều.  Em không có mặt lúc anh ra đi, lần đầu tiên từ khi chúng ta có nhau.  Anh thật sự thấy cô đơn và sợ hãi.  Anh cần em nhiều lắm và anh biết đã quá trễ rồi.  Anh nghĩ thật là tức cười, bây giờ tình yêu của anh thì đang ở xa anh ngàn dặm còn khối sắt vô tri đã sai khiến cuộc sống của anh nhiều năm nay thì đang ở đây.  Nhưng anh cảm thấy em đang ở cạnh.  Anh có thể cảm nhận tình yêu của em, trông thấy khuôn mặt em.  Em đẹp lắm, có biết không? Anh nghĩ gần đây anh không nói với em điều đó dù em vẫn rất xinh đẹp.

Hãy nói với các con rằng anh yêu chúng rất nhiều . Anh sợ phải ra đi quá nhưng
giờ phút đó đã đến rồi em yêu ạ. Anh yêu em rất nhiều.  Hãy nhớ chăm sóc bản thân và luôn nhớ rằng anh đã yêu em nhiều hơn bất cứ cái gì trên đời.  Anh chỉ quên không nói với em điều đó mà thôi.

Anh yêu em!

Bill.”

“…Nếu bạn đang chờ đến ngày mai, tại sao lại không thực hiện mọi thứ ngay trong ngày hôm nay?  Bởi nếu ngày mai không bao giờ tới, bạn sẽ phải hối tiếc rất nhiều vì đã không dành những giây phút hiếm hoi  còn lại để sẻ chia một nụ cười, một cái ôm…

…Hãy giữ những người mà bạn thật sự yêu thương trong vòng tay của mình, thì
thầm vào tai họ, nói với họ rằng bạn yêu thương họ nhiều như thế nào…”

Thụy Khanh dịch

(Theo Chicken Soup Daily).

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi