Thánh gia thời đại

Thời buổi này có còn một gia đình Công Giáo hoàn hảo ở Hoa Kỳ không?

Có còn hình ảnh Thánh Gia ở Hoa Kỳ không?

Thánh Giuse thời đại có hình tượng trông giống ai?

Xin mời nghe lời kể chuyện gia đình của Judge Amy Berret, thẩm phán Tối Cao Pháp Viện tương lai.

– Barret là người Mẹ và Vợ của một gia đình công giáo gồm 9 người, trong đó có hai con nuôi đón về từ Haiti trong số các em bất hạnh, (hai em nhỏ được mọi người trong gia đình yêu quí nhất.)

– Mỗi ngày khi bước ra cửa đi làm, đi dạy luật tại đại học St. Mary, Notre Dame (Đại học Đức Bà Maria), Jesse, người chồng luôn luôn đã đứng chờ đón ở cửa để hỏi vợ ràng “Có thể làm gì giúp em hôm nay không?” Người vợ hầu như luôn trả lời không, nhưng khi về nhà thì luôn thấy chồng mình đã tìm ra cách thu vén, dọn dẹp nhà cửa sao cho mình đỡ cực nhọc với 7 đứa con, với công việc bề bộn, với sinh hoạt cộng đoàn, Ông Jesse rất chu đáo trong việc chăm sóc con và nội trợ…

– Nhờ sự giúp đỡ của chồng, ba lần bà Berret được công nhận là giáo sư mẫu mực, tiêu biểu của Đại Học Notre Dame. Tuy nhiên Barret luôn vất vả hoàn tất trách nhiệm làm Mẹ và Vợ của mình. Có nhiều khi lo việc con cái, rồi nhà cửa bề bộn khiến hai vợ chồng dọn dẹp mệt bở hơi tai.

– Theo ý kiến các con, Bố Jesse nấu ăn ngon hơn Mẹ Berret cho dù ông quá bận rộn với việc hàng ngày phải điều hành cơ sở luật của mình.

– Barret là thành viên của nhóm Ca Ngợi, Thánh Linh đề cao việc kết hiệp với Chúa qua ca ngợi và sống huynh đệ như cách thế của các cộng đoàn tiên khởi trong Giáo Hôi, chia sẻ tất cả cho người nghèo và sống đơn sơ. Cám ơn Chúa trong cái đen tối của niềm tin và hỗn loạn của xã hội hôm nay, vẫn có các nhận vật mới chiếu sáng tinh thần tinh khiết và hoàn hảo, với hy vọng bất tận của Tin Mừng.

httpv://youtu.be/1fiotGJmFXY?t=194

Complete Remarks from Supreme Court Nominee Judge Amy Coney Barrett

From: Phan Sinh Tran

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT KHOA SÀI GÒN (FACULTÉ DE DROIT).

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT KHOA SÀI GÒN (FACULTÉ DE DROIT).

(Tóm tắc theo tài liệu của GS. Nguyễn Văn Canh, Tiến sỹ Công Pháp, Phụ tá Khoa Trưởng 1973-1975)

Sau Hiệp Định Geneve năm 1954 chia đôi lãnh thổ. Cùng lúc thu hồi chủ quyền đất nước, Trường Đại học Luật Khoa (Trung tâm Hà Nội) di chuyển vào Miền Nam, sáp nhập với Trung Tâm Sài Gòn, cải danh là Luật Khoa Đại Học Đường

Ngày 30-4-1955, thành lập Luật Khoa Đại Học Đường (Faculté de Droit) trực thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Người Sài Gòn quen gọi Trường Luật hay Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, cấp trụ sở mới ở số 17 đường Duy Tân, Quận 3, Sài gòn.

Thời Pháp thuộc, trường sở nầy nguyên là một trường mẫu giáo, chính phủ Đệ nhứt Việt Nam Cộng Hòa mới thu hồi.

Tính đến năm 1975 thì Trường Luật Sài Gòn là ngôi trường xưa nhất trong ba trường luật của Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là Trường Pháp Chính Đông Dương, thành lập tại Hà Nội ngày 15/10/1917. Hai trường kia là Luật khoa của Viện Đại học Huế (1957) và Luật khoa thuộc Viện Đại học Cần Thơ (1966).

Đáng lẽ ra phải gọi là Luật Khoa Đại Học Đường (Phân Khoa Luật) thuộc Viện Đại Học Sài Gòn, nhưng thói quen nên dân Sài Gòn hay gọi tắt là Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, hay ngắn gọn hơn:Trường Luật.

Đây là hình ảnh của ngôi trường vẫn cổ kính cho đến năm 1972 khi Mỹ được gây ảnh hưởng nhiều trên Hội Đồng Khoa, với sự có mặt của những giáo sư Việt tốt nghiệp từ Mỹ về dạy học thì Trường Luật cổ kính này bị phá đi và xây theo kiểu mới và như bây giờ là trường Đại Học Kinh Tế của chế độ mới.

I- CÁC KHOA TRƯỞNG

– GS Vũ Văn Mẫu – Khoa trưởng 1955-1957, Thượng Nghị sĩ, Bộ trưởng Ngoại giao, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa

– GS Vũ Quốc Thúc – Khoa trưởng 1957-1963

– GS Nguyễn Cao Hách – Khoa trưởng 1963-1967

– GS Nguyễn Ðộ – Khoa trưởng 1967-1971

– GS Bùi Tường Chiểu – Khoa trưởng 1971-1973

– GS Vũ Quốc Thông – Khoa trưởng 1973-1975

II- TỔ CHỨC

Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn có ba ban:

1- Ban Công pháp (Droit public): gồm Luật Hiến pháp (Droit constitutional), Luật Hành chánh (Droit administrative) và Luật Công pháp Quốc tế (Droit international public).

2- Ban Tư pháp (Droit privé): gồm Dân luật (Droit civil), Hình luật (Droit pénal ), Luật Thương mại (Droit commercial)và Tư pháp Quốc tế (Droit international privé).

3- Ban Kinh tế (Économie Politique): gồm Phân tích Kinh tế (Analyse économique), Lịch sử Học thuyết (Histoire des Doctrines) , Địa lý Kinh tế Phát triển (Géographie Économique Dévelopement).

4- Sinh viên luật còn phải học thêm môn Cổ luật Việt Nam.

Tổng số sinh viên ghi danh học vào năm 1969 là 13.711 và đến năm 1974 là 58.000.

III- CHƯƠNG TRÌNH HỌC

Thoạt tiên chương trình Cử nhân Luật là 3 năm nhưng đến năm 1967 thì tăng lên thành 4 năm. Bằng Cao học là thêm 2 năm (chủ yếu thêm Chuyên môn). Khi trình Luận án thì được cấp bằng Tiến sĩ Luật.

Tuy sĩ số Trường Đại học Luật khoa khá đông nhưng số người hoàn tất Cử nhân và tốt nghiệp Cao học rất ít (năm 1974 có 715 người tốt nghiệp).

Bắt đầu từ 1967, học trình Ban Cử nhân là 4 năm. Hai năm đầu chưa phân ban, sinh viên học chung cùng một chương trình với các môn như sau:

1- Cử nhân năm thứ nhất gồm 7 môn: Dân luật (Civil Law), Luật Hiến pháp (Constitutional Law), Kinh tế Học (Économie), Công pháp Quốc tế (International Public Law), Pháp chế sử (History of Law), Danh từ Kinh tế Anh ngử (Economical Terminology in English) và cả Danh từ Pháp lý (Justidical Termonology).

2- Cử nhân năm thứ hai: Hình luật (Penal Law), Dân luật (Civil Law), Bang giao Quốc tế (International Relations), Kinh tế học (Economie), Tài chánh (Finances), Luật Hành chánh (Administrational Law), Danh từ Kinh tế (Economical Terminology in English) và Luật Đối chiếu (Comparative Law in French).

3- Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, sinh viên sẽ bắt đầu chọn ngành, với các môn học chung và chuyên biệt như Ban Kinh tế sẽ học thêm các môn Thống kê và Kinh Toán Học.

Sau 4 năm nếu thi đậu hết, sinh viên sẽ được cấp bằng Cử Nhân Luật ban Công pháp, Tư pháp hay Kinh tế. Sau khi tốt nghiệp Cử nhân, sinh viên có thể ghi danh tiếp tục học Ban Cao Học Luật 2 năm theo ngành của mình để đủ điều kiện trình Luận án lấy bằng Tiến sĩ Luật.

IV- CHẾ ĐỘ THI CỬ

Bắt đầu từ năm 1967, ban Cử nhân năm thứ nhất học 7 môn, năm thứ hai học 8 môn, năm thứ ba tùy theo Ngành học khoản 10 môn và năm thứ tư học 13 môn.

Đại học Luật khoa Sài Gòn mổi năm có 2 kỳ thi vào tháng 6 và tháng 9 cho các sinh viên Ban Cử nhân. Thí sinh phải thi viết 2 môn trong 7 môn chính, 5 môn còn lại thì thi vấn đáp. Thí sinh phải đạt điểm trung bình 10/20 mới được coi như trúng tuyển. Nếu có một môn bị điểm loại (4/20) thì thí sinh coi như rớt dù điểm trung bình có vượt quá điểm đậu là 10/20. Về sau có ân giảm về điểm loại cho các môn vấn đáp ban Cử nhân. Sinh viên có thể được bù điểm giữa các môn. Trong niên học, sinh viên bị rớt thi vấn đáp kỳ I sẽ được thi lại vấn đáp kỳ II mà không phải thi viết lại.

Luật khoa Đại học đường một thời vang bóng.

DẬY ĐI CON…!

    • DẬY ĐI CON…..!Dậy đi con… ra Huyện ngắm cổng chào..

      Mới xây xong to cao đẹp lắm đấy

      Không giống như cột điện bị gió đẩy

      Bão nhẹ thôi đã bị gẫy làm đôi

      Cổng trường con các bạn nghịch đổ rồi

      Để vài bạn giờ thôi không học nữa

      Dậy đi con…sắp sửa được uống sữa

      Cán bộ trên đã hứa chuẩn bị cho..

      Dậy đi con…mẹ đi bán con bò..

      Mua bao tải sách to… vào lớp một

      Sách tham khảo Bộ bảo giờ rất tốt..

      Chục quyển dày không học dốt nữa nghe..

      Dậy đi con lớp học có mái che..

      Thủng vài chỗ bàn ghế què.. nền nhão.

      Xin ông trời đừng có làm mưa bão..

      Đừng gió lùa làm ướt áo con tôi..

      Dậy đi con trống trường đã điểm rồi

      Tiền đánh trống hơn trăm thôi… quy định

      Tết trung thu ngắm trăng xuông là chính

      Bánh kẹo ư… để Huyện Tỉnh sắp cho..

      Dậy đi con… đi ngắm cổng chào to…

      Con xin Mẹ… cho con no đủ bữa

      Bớt cổng chào cho con xin hộp sữa

      Bớt tượng đài cho con nửa Bánh trung thu..

      (Vũ mạnh Cường)

LẦN ĐẦU TIÊN MỘT LINH MỤC ĐƯỢC CHỊU CHỨC TẠI NHÀ TÙ

LẦN ĐẦU TIÊN MỘT LINH MỤC ĐƯỢC CHỊU CHỨC TẠI NHÀ TÙ

“Lần đầu tiên trong phòng giam, tôi cảm thấy mình là một người tự do. Ở đó tôi đã gặp Chúa ”, Cha Gabriel Everardo Zul Mejía, 35 tuổi, thú nhận như vậy. Cha từng là một tội phạm và hôm nay là một linh mục chuyên chăm sóc cho các phạm nhân.

Thụ phong Linh mục tại nguyện đường của nhà tù

“Đối với tôi, nguyện đường trong nhà tù là nơi thích hợp nhất để cử hành thánh lễ truyền chức Linh mục cho tôi. Tôi muốn mọi người ở đây tham dự thánh lễ chịu chức của tôi, những người mà đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi tôi ở sau song sắt. Và khi làm Linh mục tôi xin đến đây để giúp các phạm nhân khác nhận ra lòng thương xót,” Cha Gabriel, linh mục người Mexico có lẽ là người đầu tiên trên thế giới chịu chức trong nhà tù, chia sẻ.

Trại tù Apodaca nằm ở quận Monterrey khá khắc nghiệt và điều kiện sinh hoạt ở đây khá tồi tàn. Trọng một cuộc nổi loại đòi điều kiện sống tốt trong phòng giam xảy ra vào năm trước, có gần 40 tù nhân đã bị giết.

Anh Gabriel đã bị giam trong nhà tù này. Anh phạm tội quậy phá trong một băng nhóm thanh niên . Từ nhỏ, anh là một đứa trẻ cá biệt. Khi đến tuổi thanh niên, anh quyết định thoát ra khỏi vòng tay chăm sóc của gia đình.

Tôi đã tìm thấy Chúa nhờ những người bạn tù của tôi

Anh chia sẻ: “Mẹ tôi liên tục cầu nguyện cho tôi trở về nhà và gặp được Chúa. Trong nhiều năm, lời cầu nguyện của bà đã được nhậm lời. Tôi đã gặp được Chúa khi tôi ở trong nhà tù.”

Chính trong nhà tù, anh nhận được lòng thương xót và khám phá về tình yêu Thiên Chúa dành cho anh. Anh bắt đầu cầu nguyện từ trong phòng giam, sau song sắt. Đó là lần đầu tiên kể từ thời ấu thơ anh cầu nguyện trở lại.

Anh xúc động nói rằng: “Nghịch lý thay, chính trong nhà tù, tôi bắt đầu cuộc đối thoại với Chúa. Tôi nghe Chúa nói với mình: “Ta không bỏ rơi con. Ta biết con. Ta sẽ ở bên cạnh con trong chốn này!” Anh thú nhận: “Không ngờ những năm tưởng rằng bị đánh mất lại gặt được hiệu quả nhất trong đời. Chính trong phòng giam mà lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình là người tự do.”

Anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù và họ cũng đối xử tốt lại với anh. Anh chăm cầu nguyện hơn, đọc Sách Thánh và thỉnh thoảng gặp gỡ cha tuyên úy nhà tù trao đổi về tâm linh. Và anh bắt đầu thay đổi…

Sau khi thụ án xong, anh quyết định đến gõ cửa chủng viện, dù trong lòng có nhiều nỗi sợ hãi. Anh sợ mình không được tiếp nhận. Ngoài sức tưởng tượng, Chủng viện đã mở rộng cửa đón anh.

Trở lại nhà tù

Anh là người yêu âm nhạc, tiếng Latinh và thể thao, đặc biệt là bóng đá. Anh còn là người cởi mở, dễ tạo được các mối quan hệ. Anh đã tận dụng những ưu điểm này trong quá trình đào tạo tại Chủng viện. Và anh là một Thầy chủng viện luôn tích cực tham gia vào mục vụ giới trẻ.

Thầy Gabriel cũng là người hay đi giúp đỡ những bệnh nhân và những người bị bỏ rơi. Sau một thời gian được đào tạo tại Chủng viện, Thầy được phép tham gia vào công việc mục vụ trong nhà tù nơi Thầy đã thi hành án trước đó . Thầy Gabriel đến lại nhà tù hầu như vào thứ bảy hàng tuần để giúp mục vụ tại đây. Thầy đã làm sinh động đời sống phụng vụ và tâm linh ở nhà tù, nhưng trên hết, Thầy hỗ trợ gia đình và con cái của các tù nhân, và tổ chức các sự kiện thể thao và xã hội cho chúng. Thầy đã hướng dẫn chúng không được đánh mất hy vọng.

Một dấu hiệu mạnh mẽ về tình yêu Thiên Chúa

Anh em cùng lớn gồm 10 Thầy được tiến chức Linh mục tại Nhà thờ chính tòa quận Monterrey, riêng Thầy Gabriel xin được thụ phong tại Nhà tù. “Tôi muốn được thụ phong trong nhà tù vì ở đó tôi đã gặp Chúa,” Thầy thú nhận. Thầy Gabriel đã nhận được sự đồng ý của Đức cha Giáo phận và Đức cha đã tấn phong cho Thầy tại nguyện đường của nhà tù.

Hôm lễ chịu chức Linh mục tại nguyện đường nhà tù có gia đình, thân hữu Thầy đến dự đông đảo, và đặc biệt là sự tham dự của các phạm nhân tại nhà tù.

Cha Gabriel nhấn mạnh: “Hôm lễ Thứ Năm Tuần Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã rửa chân cho các tù nhân. Tôi nghĩ rằng việc truyền chức linh mục tại nhà tù cũng sẽ là một dấu hiệu mạnh mẽ của tình yêu Thiên Chúa.”

Sau khi thụ phong linh mục, Cha Gabriel được gửi về coi xứ. Tuy nhiên, Cha vẫn đến thăm các tù nhân ở Apodaca thường xuyên. Cha nhấn mạnh: “Ở đó, tôi khám phá ra lòng thương xót của Chúa và trở nên tự do, và đây là điều tôi muốn chia sẻ với tất cả những ai hiện đang ở trong tù.”

Khi được hỏi về ước mơ của mình, Cha Gabriel thừa nhận rằng, cha muốn giúp cho những đứa trẻ cá biệt và những thanh niên tham gia các băng đảng quay về nẻo chính.

Gx. Cần Giờ – DCCT

Dân biểu Mỹ nhận bảo trợ cho tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa

Tù nhân lương tâm trẻ Nguyễn Văn Hóa, người tham gia đưa tin về thảm họa ô nhiễm do nhà máy thép Formoasa Hà Tĩnh gây nên, chính thức được dân biểu Hoa Kỳ Alan Lowenthal nhận bảo trợ.

Thông cáo của Văn phòng Dân biểu Alan Lowenthal phát đi vào ngày 24 tháng 9 cho biết như vừa nêu. Cụ thể Dân biểu Liên bang Alan Lowenthal (CA-47) thông báo ông đã chính thức nhận bảo trợ tranh đấu cho nhà hoạt động trẻ tuổi và là tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa, qua chương trình Defending Freedoms Project của Ủy Ban Nhân Quyền Tom Lantos trong Quốc Hội Hoa Kỳ.

Dân biểu Alan Lowenthal nêu rõ trong thông cáo rằng ông hãnh diện nhận bảo trợ tranh đấu cho tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa. Theo ông thì anh Nguyễn Văn Hóa là một con người có niềm tin vững mạnh, và anh đã bị ngược đãi, bị giam giữ và bị cầm tù một cách sai trái vì hoạt động của anh đưa ra những vấn đề quan trọng đối với người dân Việt Nam, nhưng lại là những chuyện mà chính phủ Việt Nam không thích nghe.

RFA.ORG

Dân biểu Mỹ nhận bảo trợ cho tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa

Dân biểu Liên bang Alan Lowenthal (CA-47) thông báo ông

Dân biểu Mỹ nhận bảo trợ cho tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa

Bà Dương Thị Bạch Diệp, đại gia BĐS với chiếc Rolls Royce 1,4 triệu đô

Bà Dương Thị Bạch Diệp, đại gia BĐS từng gây đình đám với chiếc Rolls Royce 1,4 triệu đô được Bình Định ưu ái cấp cho biển số 77L 7777 chuẩn bị ra Tòa vì tội danh Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong vụ án liên quan đến cựu Phó Chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Thành Tài, người đang hầu tòa cùng người đẹp Hà Sen!

Bà Diệp nổi danh giàu nức tiếng Sài Gòn từ những năm cuối 90 bởi những phi vụ mua bán nhà đất hàng ngàn lượng vàng!

Có lúc tài sản của bà ước hơn 10.000 tỷ và dù nhiều vụ làm ăn tai tiếng nhưng bà được xem là đại gia giàu hàng đầu VN thời đó!

Một số dự án bất động sản, khách sạn 5 sao thuộc sở hữu của bà khá nổi tiếng như Diep Bach Duong’s Senla Boutique (Senla Boutique); dự án Khách sạn, trung tâm hội nghị 179Bis Hai Bà Trưng (quận 3); 7 mặt bằng tại 31 Lê Duẩn (quận 1)…

Nhưng giờ đây, theo cơ quan điều tra, hiện bà Dương có dư nợ 5.244 tỷ đồng tại Agribank TPHCM trong khi tài sản đảm bảo chỉ còn 2.168 tỷ và Agribank TP.HCM không có khả năng thu hồi hàng nghìn tỷ, có dấu hiệu mất vốn!? Chưa kể còn nhiều khoản nợ khác bà k có khả năng trả

Siêu xe Rolls Royce đã bán từ lâu, nhà cửa hoặc thế chấp hoặc gán nợ và có khi hàng chục tỷ thuế cũng k có tiền để trả! Năm 2014 bà Diệp đã bán hết những gì còn lại để tính sang Mỹ định cư nhưng không thành và buộc phải ở lại cho đến khi bị bắt giam vào cuối tháng 1 năm 2019.

Chỉ trong vòng hơn 10 năm, từ một người giàu hàng TOP VN với tài sản hàng chục ngàn tỷ, bà Diệp đã trắng tay và vướng vào lao lý như thế đất! Tiền bạc thật là phù du và k ai biết được ngày mai thế nào, nhất là nhiều phi vụ kèm tiếng oán thán!

Bà Diệp cũng là 1 trong số những đại gia đi Rolls Royce rồi thân bại danh liệt. Đời quả là quá phù du, tiền nhiều lúc rất bạc…

– Hà Phan

Thêm Facebooker bị khởi tố với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do, dân chủ

Ông Lê Văn Hải, một người ở tỉnh Bình Định thường sử dụng Facebook để chia sẻ quan điểm cá nhân về những vấn đề liên quan đất đai của gia đình và lãnh đạo các cấp đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam, vừa bị bắt để điều tra. Cáo buộc mà cơ quan chức năng đưa ra đối với ông này là ‘lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân’ theo điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015.

Hơn ba nghìn người ký đơn phản đối bản án phiên toà Đồng Tâm

 

Hơn ba nghìn chữ ký đã được thu thập trên một đơn kiến nghị do một nhóm có tên “Nhóm Công dân Hành động” đưa lên mạng từ ngày 14/9 vừa qua, phản đối phiên toà xét xử 29 người dân Đồng Tâm bị kết án với các tội danh giết người và chống người thi hành công vụ.

Vào ngày 14/9 vừa qua, phiên sơ thẩm ở Toà án Nhân dân Hà Nội đã ra phán quyết 2 án tử hình, 1 án chung thân đối với 3 người dân Đồng Tâm vì tội giết người. 26 người dân Đồng Tâm khác nhận các án từ 15 tháng tù treo đến 16 năm tù với các cáo buộc giết người và chống người thi hành công vụ.

RFA.ORG

Hơn ba nghìn người ký đơn phản đối bản án phiên toà Đồng Tâm

Hơn ba nghìn người ký đơn phản đối bản án phiên toà Đồng Tâm
RFA.ORG
Hơn ba nghìn người ký đơn phản đối bản án phiên toà Đồng Tâm

Những bông hồng không gai…

Những bông hồng không gai…

Tối qua, gã nghe Lộc Vàng hát, quán nhỏ bên hồ Tây. Trước khi hát, Lộc Vàng nói: ngày mai, 27.3 tròn đúng 50 năm tôi bị bắt giam. Đêm nay là canh hát tưởng nhớ tới cái ngày ấy. Tôi xin hát lại những bài hát mà chính vì nó mà tôi cùng Toán Xồm và một số chàng trai Hà Nội bị còng tay.

Lộc Vàng hát.

Khoan khoan hò ơi

Đường về dương thế xa vời

Khoan khoan hò ơi

Lạnh lùng em đã rời tôi.

Lộc Vàng hát.

Anh mong chờ mùa thu

Trời đất kia ngả màu xanh lơ

Đàn bướm kia đùa vui trên muôn hoa

Bên những bông hồng đẹp xinh.

Lộc Vàng hát và khóc:

Tôi xa Hà Nội năm lên 18 khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói bay theo mây chiều.

Và cố nén tiếng nấc: Hà Nội ơi nào biết ra sao bây giờ…

Ngày ấy 27.3.1968 chàng trai vừa qua tuổi 20 tên là Nguyễn Văn Lộc vì mê và yêu những tình ca Hà Nội, một Hà Nội xưa được gọi là nhạc vàng nên gán thành tên Lộc Vàng. Và một cô gái xinh đẹp 16 tuổi tối tối lén chân cầu thang nghe chàng trai ấy hát những tình khúc buồn của chia ly ấy, của khói sương mơ màng ấy đã thầm yêu chàng. Rồi nàng đã chờ đúng 10 năm chàng biền biệt nơi rừng rú trở về để chạy tới ôm chặt chàng,khóc.

Lộc Vàng kể cho nàng nghe, 10 năm tù vì hát những tình khúc của Đoàn Chuẩn, Phạm Duy, Từ Công Phụng, Anh Bằng… khi ra tù, đến ga Lao Cai để lên tàu về Hà Nội, đã như chết đứng khi nghe từ các quán nước, quán cafe phát ầm ĩ chính những bài hát đó.

Đêm hát gọi là kỷ niệm 50 năm ngày bị tù chỉ vài người bạn. Hoa hồng vàng sáu lọ. Sao lại sáu? Lộc là sáu, hay sáu là sáu người bạn trong ban nhạc đàn hát cho nhau lén nghe giữa hai hồi còi báo động của chiến tranh những tình ca… vàng rồi cùng bị tống vào trại giam, rồi đến hôm nay, sáu người bạn ấy đã không còn nữa. Trong đó có chàng lãng tử Toán Xồm tài năng guitar hút hồn bao cô gái Hà Nội phố đài các và xinh đẹp đã trút hơi thở cuối cùng một đêm hè bên vỉa hè…

Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi theo dòng đời…

Lộc Vàng đã hát tiễn đưa Toán Xồm câu ca ấy.

Gã ngồi lặng nghe Lộc Vàng kể trong nước mắt về Mai, cô gái đã mê tiếng hát của Lộc Vàng để rồi 10 năm chờ đợi. Để rồi gánh bao cơ cực làm vợ một tên từng đi tù.

Mai là diễn viên chính, trẻ, tài năng của Đoàn Tuồng Bắc Trung ương, chỉ vì câu nói của vị trưởng đoàn: Em đang rất nhiều triển vọng, tại sao lại dính vào một tên tù phản động như thế? Mai đã nói: hát những bài tình ca sao lại là phản động?! Nói xong, Mai bỏ đoàn, bỏ danh hiệu nghệ sĩ nhà nước để ra vỉa hè bán đậu phụ.

Lộc Vàng kể: Sân khấu ca nhạc của nghệ sĩ Khắc Huề mời tôi hát. Tôi bảo tôi chỉ biết hát dòng nhạc vàng. Khắc Huề bảo, thì ông cứ hát nhạc vàng. Tôi đi hát, Mai ôm con đi theo. Tôi bảo em theo làm gì? Mai bảo, em sợ, anh lại bị bắt, em còn biết chỗ mà tìm anh.

Lộc Vàng kể:

Thế mà Mai nỡ bỏ tôi mà đi. Mai bệnh, biết khó qua khỏi, đêm trước khi ra đi, Mai bảo tôi: Anh hát cho em nghe đi. Tôi muốn hát một bài thật vui, nhưng tôi chả biết hát bài nào vui cả. Mai bảo, anh hát “Niệm khúc cuối” của Ngô Thuỵ Miên đi!

Tôi hát:

Dù cho mưa tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời

Dù cho mây bay, cho bão tố kéo qua đây

Dù có gió, có gió lạnh đầy, có tuyết bùn lầy

Có lá buồn gầy, tình ơi, dù sao đi nữa, tôi vẫn yêu em…

Gã cầm một bông hồng vàng bước lên sân khấu tặng cho Lộc Vàng khi Lộc Vàng hát lại bài hát ấy, bài hát mà ông đã hát tiễn biệt người con gái Hà Nội ông yêu thương nhất…

Khi gã bước xuống, nói với nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán, người chụp được những tấm hình Lộc Vàng đi tìm Toán Xồm để mời bạn điếu thuốc trước khi Toán Xồm chết trên hè phố Hà Nội : Hồng không có gai ông ạ.

Nguyễn Đình Toán bảo: Hồng do chính Lộc Vàng mua, đêm hát nào cũng vậy cắm vào sáu bình và trước khi cắm Lộc Vàng đã tỉ mẩn cắt từng chiếc gai …

Một Hiện Tượng Người Việt

Một Hiện Tượng Người Việt

Amanda Nguyễn

Một bảng thành tích ấn tượng

Amanda Nguyễn, 28 tuổi, là một hiện tượng của cộng đồng người Việt. Cô là một nhân vật trẻ gốc Việt duy nhất được đề cử giải Nobel Hòa Bình; nhận giải Heinz Award trị giá 250.000 USD; được chọn vào danh sách 100 nhân vậ̣t ảnh hưởng tương lai toàn cầu; có mặt trong danh sách 30 nhân vật xuất chúng dưới 30 tuổi; 100 nhân vật đối ngoại xuất chúng; được trao giải Nelson Mandela; giải Lãnh đạo Thế Giới; giải Phụ Nữ Trẻ, và nhiều giải thưởng vinh dự toàn quốc.

Cô là người gốc Việt duy nhất soạn thảo và thúc đẩy bộ luật đặc biệt Quyền lợi của Nạn Nhân Bị Cưỡng Hiếp (Sexual Assault Survivors’ Rights Act). Bộ luật này nhận được chấp thuận toàn diện từ liên bang, trong đó có 437 dân biểu, 100 thượng nghị sĩ, và sau cùng là Tổng thống. Sau đó, cô vận động từng tiểu bang, qua 32 tiểu bang, để được chính quyền từng tiểu bang chấp thuận. Bộ luật này có ảnh hưởng hỗ trợ hơn 85 triệu người. Không ngừng ở đó, cô là nhà sáng lập và cũng là tổng giám đốc của Rise Now, một tổ chức khởi nghiệp cho những cơ quan-tổ chức quan tâm về vấn đề xã hội. Tổ chức này giúp những ai muốn đẩy vấn đề xã hội mà họ quan tâm qua những ngõ ngách phức tạp để trở thành luật. Rise Now được sự hỗ trợ tài chính của các nhân vật có khả năng tài chính nhất hành tinh, trong đó có ông Mark Zuckerberg và ông Bill Gates.

Nhiều nhà lãnh đạo hàng đầu trên thế giới quan tâm về nhân quyền đã mời Amanda Nguyễn làm cố vấn và diễn giả về những vấn đề nhân quyền cho phụ nữ. Những nhân vật sáng giá nhất, từ các chính trị gia thượng thặng, tỉ phú, thủ tướng, hoàng gia, đến những người nổi tiếng trên màn ảnh, âm nhạc, nghệ thuật, đều muốn có sự liên hệ với cô. Cô đã được mời phỏng vấn trên các talk show nổi tiếng và là khách danh dự tham dự những sự kiện lớn như chương trình Oscar và Emmy.

Người mẹ

Amanda sinh tháng Mười năm 1991, con của chị Tăng Ngọc Lan và anh Nguyễn Minh Tú – những người bạn của tôi. Từ nhỏ, Amanda đã thể hiện một tố chất thông minh, luôn cố gắng, và có một trái tim khác người. Mẹ của cô kể lại, khi có thai cô, mẹ cô đã thổi vào bầu thai những ước vọng lớn lao cống hiến cho xã hội. Để hiểu về cô hơn, phải biết về mẹ của cô, người đã bỏ toàn vẹn cuộc đời hỗ trợ cho con gái mình, giúp hình thành nên con người của cô. Amanda lớn lên trong yêu thương và quen việc xả thân cho xã hội.

Mẹ và ông bà của Amanda Nguyễn trên cánh đồng lúa ở Bạc Liêu (Facebook nhân vật)

Sẽ là không ngoa nếu nói chị Ngọc Lan là một phụ nữ phi thường. Chị có nét đẹp dịu dàng nhưng có lòng từ tâm mãnh liệt. Chị quên mình lo cho người thân và xã hội, dù cực khổ cỡ nào. Có những câu chuyện chị trải qua, tưởng như chị là hình ảnh thu nhỏ của mẹ Teresa.  Chị sinh ra ở một làng nhỏ thuộc Bạc Liêu. Bình thường, con gái quê thời đó lấy chồng sớm và lo công việc đồng áng, nhà cửa. Riêng chị, xong tú tài, chị xin cha mẹ lên Sài Gòn để học luật. Khi học ở Đại Học Vạn Hạnh, ngoài công việc kiếm tiền học và thậm chí còn dành dụm gửi về nhà, chị tham gia hoạt động xã hội khi có thời gian, nhất là chăm sóc trẻ mồ côi và đi vòng Sài Gòn đưa các em bụi đời về. Sau này, nhiều em nhỏ được đưa ra khỏi Việt Nam năm 1975 trong chương trình Operation Baby Lift nổi tiếng. Chị kể cho tôi những câu chuyện cảm động về các em mồ côi tìm lại chị cảm ơn sau này. Mỗi câu chuyện là một bài học đẹp cho đời.

Những ngày đi học

Khi mới sinh ra, Amanda không khóc, dường như cháu thể hiện sự can đảm nhìn cuộc đời bằng con mắt tò mò. Sau này, cô cho thấy lòng can đảm và ý chí trong suốt hành trình đời mình. Thời tiểu học, cô đã tỏ ra thiên năng về tiếp xúc với công chúng. Từ lớp một, cô đã mạnh dạn phát biểu trước đám đông và đảm nhận nhiều chức vụ lãnh đạo trong học đường. Cô tham gia rất nhiều các công tác thiện nguyện. Theo lời cô, cô tình nguyện để có thêm kinh nghiệm đời, giúp đỡ và hiểu hơn con người cần gì, để sau này cô nâng tầm giúp đỡ nhiều hơn, từ những việc trong nhà, rồi bệnh viện, văn phòng chính trị, đến môi trường học đường. Cô từng gây quỹ cho hội Ung Thư Việt Mỹ của Bác sĩ Bích Liên. Sau này, cô sử dụng rất hiệu quả trải nghiệm xã hội khi còn học sinh của mình.

Amada Nguyễn và bạn trong FBLA lúc còn trung học (Facebook nhân vật)

Khi vào trung học, Amanda nắm nhiều chức vụ trong tổ chức Lãnh Đạo Thương mại Tương Lai. Cô được bầu làm chủ tịch Hội lãnh đạo thương mãi tương lai toàn California (FBLA) nhiệm kỳ 2008-2009. FBLA là tổ chức toàn cầu lớn nhất và ảnh hưởng nhất cho học sinh giỏi theo ngành thương mãi. Sự kiện được bầu chọn làm chủ tịch FBLA của bang lớn nhất nước Mỹ khi mới 16 tuổi đã chứng tỏ khả năng lãnh đạo, kiến thức, và trưởng thành của Amanda như thế nào.

Amanda tốt nghiệp thủ khoa trung học tại trường Centennial, Corona, California năm 2009. Hầu hết trường nổi tiếng như Harvard, Stanford, UCLA, Berkeley, UPenn… đều mong đợi cô vào. Cuối cùng, cô chọn Harvard – với hai môn, chính trị học và vật lý thiên văn. Đây là trường cô hằng mơ ước. Trong phòng cô, có một tấm bảng đen nhỏ. Cô đã ghi lên bảng lời nhắc nhở rằng mình phải làm cho được để vào Harvard. Mỗi sáng thức dậy, cô đều nhìn bảng đó để tự nhắc nhở. Trong thời gian học Harvard, Amanda tỏ ra xuất sắc và đa năng trong học hành, sáng tạo, và xây dựng nhiều công trình nghiên cứu ấn tượng. Cô tạo tên tuổi mình trong lịch sử Harvard, khi kiến tạo ra một lớp học về nô lệ thời nay, một sự kiện chưa từng có. Bài văn của cô được chọn đăng trong quyển 50 bài văn thi vào đại học của Harvard. Năm 19 tuổi, cô chọn đi Bangladesh, một đất nước nghèo khổ mà ngay cả phòng vệ sinh cũng không có. Amanda phải ra đồng, giúp đỡ những phụ nữ không có tiếng nói. Tại đó, cô đã tranh đấu trong hiểm nguy, vượt qua được lệ tục và ngôn ngữ địa phương để đưa ra toà án một người đã giết một cô gái Bangladesh sau khi nạn nhân bị cưỡng hiếp.

Amanda Nguyen tại Viện mồ côi Wema Children’s Centre (Facebook nhân vật)

Amanda cũng là người đồng sáng lập Viện mồ côi Wema tại Kenya, châu Phi, trong thời gian cô tình nguyện làm công tác xã hội ở đó. Cô thực tập khoa học tại NASA với nhiệm vụ theo dõi những vật thể lạ gần Trái đất. Cô còn dùng mạng xã hội để lôi kéo sự ủng hộ của tuổi trẻ cho NASA. Cô được chọn là cộng tác viên tại Harvard-Smithsonian khoa học không gian và sau đó trở thành trưởng nhóm sinh viên thực tập trong Tòa Bạch Ốc. Đặc biệt, cô được chọn thực tập ở Morgan Stanley, một công ty tài chính nổi tiếng, dù cô không học về tài chính. Năm 2013, cô ra trường. Năm đó, một sự kiện khủng khiếp xảy ra cho cuộc đời cô, và nó là dấu rẽ cho cả cuộc đời. Vì nhiều chi tiết, xin hẹn kỳ sau.

“I have to live!”

Cô có một tình yêu vô biên và biết ơn đối với cha mẹ. Để không quên nguồn gốc Việt Nam, cô tự trau dồi tiếng Việt. Mẹ cô còn nhớ rõ hôm đó là ngày 6-9-2011. Cha mẹ được cô mời thăm Tòa Bạch Ốc, nơi cô được nhận làm sinh viên thực tập. Khi ra đón ba mẹ, bỗng nhiên cô nói cha mẹ chờ một chút. Thế rồi cô chạy vào trong, và lát sau, trao cho cha mẹ bức thư viết bằng tiếng Việt. Lá thư bày tỏ lòng cảm ơn cha mẹ. Đoạn cuối ghi: “Không ngày nào mà con không cảm ơn Chúa đã ban phước cho con. Không có người nào hạnh phúc bằng con mỗi khi con làm ba mẹ hãnh diện. Con yêu ba mẹ rất nhiều. Amanda”.

Amada Nguyễn đạt được thành công kỳ diệu nhờ nhiều yếu tố. Tầm nhìn sâu rộng, say mê công việc, nhiệt tâm bảo vệ sự công bằng, luôn trau dồi bản thân để đạt được ước mơ, nhưng quan trọng hơn hết, đó là ý chí cô cực cao để vượt qua trở ngại và giới hạn con người bình thường. Ngoài ra, không thể không kể sự hỗ trợ toàn diện của cha mẹ cô, những người đã xây dựng nền tảng bản chất và ý chí dấn thân xã hội cho cô.

Nhờ nỗ lực và cọ xát cuộc đời sớm qua các hoạt động thiện nguyện và hoạt động ngoài trường lớp, Amanda đã trưởng thành hơn hẳn những bạn cùng trang lứa. Không một khoảng thời gian nào trôi qua mà cô bỏ phí. Khi 16 tuổi, cô bị bệnh rối mạch tim (Superventricular Tachycardia) và tưởng chừng phải chết. Cô phải ngồi xe lăn nhiều tháng trời. Tuy nhiên, không vì thế mà cô buông bỏ con đường của mình. Trước khi gây mê thực hiện ca mổ tim cho cô, bác sĩ hỏi cô muốn nói gì. Cô nói với giọng cương quyết và bừng lên lạc quan: “I have to live – Tôi phải sống”!

Nam California, August 25-2020 

LƯƠNG TẠ

From:Lucie1937

BIỂU NGỮ TRẮNG

BIỂU NGỮ TRẮNG

Riêng chuyện thông minh, tìm những hình thức tranh đấu thích hợp với hoàn cảnh, lớp trẻ Hongkong có thể làm gương cho thiên hạ.

Thí dụ mới nhất là phong trào giấy trắng.

Sau khi Trung Cộng ban hành luật an ninh, cấm biểu tình, cấm tất cả những biểu ngữ chống Tàu, giới trẻ dùng tờ giấy trắng làm võ khí tranh đấu.

Chỉ cần một người, một nhóm người, không bạo động, dương một tờ giấy trắng.

Tờ giấy trắng gợi lại những phong trào tàn sát người có tư tưởng đối lập trong lịch sử Tàu , gọi là ‘’khủng bố trắng’’ (tiếng Tàu: báixè kongbù, bạch khủng bố)

Giấy trắng biểu tượng một Hongkong không còn báo chí, sách vở. Tư tưởng, chữ nghĩa bị cấm. Tư duy của cả một dân tộc, hôm trước là vùng tự do, ngày nay tất cả bị xoá bỏ, chỉ còn trang giấy trắng.

Sau luật an ninh, tất cả những sách báo có đôi chút chỉ trích hay bất lợi cho chế độ đều bị rút khỏi các thư viện, trường học. Các tác giả bị lùng bắt, giam giữ

Mặc dù đã có hàng trăm người mang biểu ngữ trắng bị bắt, luật an ninh của Bắc Kinh dự trù các hình phạt nặng, có thể tới tù chung thân, cho mỗi hành vi chống đối, đã không nghĩ tới tội mang biểu ngữ trắng.

Các phong trào tranh đấu VN có lẽ nên bắt chước, nặn óc tìm những hình thức tranh đấu thông minh, hữu hiệu, bạo quyền không thể, hay đúng hơn, khó đàn áp.

Chúng ta đang sống trong thời đại truyền thông, cần sáng tạo. Hình ảnh nói nhiều hơn lời nói, những câu chửi thề. Hãy lớn lên, ra khỏi văn hoá ĐMCS, chỉ hả giận, không thuyết phục ai

Trước một chế độ tàn bạo, sẵn sàng đàn áp dã man, mạnh gấp ngàn lần, người chống đối cần xử dụng, và chỉ có chất xám

(tuthuc-paris-blog.com)

THÁNH TERESA CALCUTTA, NGƯỜI MẸ LÒNG THƯƠNG XÓT

THÁNH TERESA CALCUTTA, NGƯỜI MẸ LÒNG THƯƠNG XÓT

Vị nữ tu Teresa thành Calcutta qua đời ngày 05.09.1997 đã được Hội Thánh tôn phong lên hàng Chân Phước ngày 19.10.2003, và ngày Chúa Nhật 04.09.2016 được tôn kính trên bàn thờ trong Hội Thánh Công Giáo là đấng Hiển Thánh.

Cuộc đời 87 năm trên trần gian của mẹ Thánh Teresa gắn bó với số phận của những người nghèo vừa về miếng ăn lương thực, quần áo, thuốc men chữ bệnh, nhà cửa, và vừa về gía trị nhân phẩm con người cùng đau khổ tinh thần của họ nữa.

  1. Gia đình, nôi nuôi dưỡng lòng thương xót

 Mẹ Thánh Teresa mở mắt chào đời bên nước Albania, vùng phía Đông Âu châu, nằm trong liên bang Nam Tư Cộng sản cũ thời Thống Chế Tito.  Albania là một nước nhỏ đại đa số dân cư theo Hồi giáo, đạo Công Giáo chỉ là một thiểu số trong xã hội này.  Gia đình Mẹ Teresa là một gia đình khá giả nếp sống bậc trung lưu có cuộc sống hạnh phúc, theo đức tin Công Giáo truyền thống đạo đức.

Buổi sáng nào người mẹ gia đình Drana của Teresa cũng đều đưa ba người con của bà đi nhà thờ đọc kinh cầu nguyện dâng Thánh lễ.  Buổi chiều tối gia đình tụ tập lại lần chuỗi mân côi, dù bận rộn hay có khách.  Vì với gia đình đó là điều quan trọng hơn cả.

Ngay từ khi con còn nhỏ, người mẹ gia đình Drana đã dậy các con mình sống bác ái lòng thương xót theo phương hướng Phúc âm của Chúa: “Những gì các con làm cho một người bé nhỏ hèn mọn nhất trong các con, chính là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

5,972 Mother Teresa Photos and Premium High Res Pictures - Getty Images

Rồi hằng tuần, người mẹ Drana của Teresa có thói quen thăm hỏi những người bệnh nạn trong khu phố, và mang cho những người nghèo quần áo cũng như thực phẩm cần thiết.  Bà muốn con mình ngay từ nhỏ đã biết cùng đồng hành với những người như thế.  Bà thường nói với các con mình: “Các con có phúc lắm, có nhà ở đẹp, có đầy đủ lương thực và quần áo.  Các không con thiếu gì.  Nhưng các con không được quên có nhiều người phải sống trong hoàn cảnh thiếu ăn, có những trẻ em không có quần áo, khi đau bệnh, chúng không có thuốc trị bệnh cần thiết để chữa bệnh.”

Đời sống gương sáng của người mẹ Drana đã ghi khắc dấu vết sâu đậm trong tâm khảm đời sống của Teresa ngay từ nhỏ.  Có lần Teresa lúc nhìn lại thời nhỏ còn ở nhà với mẹ mình đã tâm sự: “Tôi không biết phải nói gì hơn nữa, gương sống của mẹ tôi, hay nếp sống đạo đức chăm chỉ đi nhà thờ cầu nguyện của mẹ tôi đóng vai trò ảnh hưởng rất quan trọng cho ơn kêu gọi của tôi trưởng thành chín mùi.”  Chính trong bầu khí chan chứa lòng thương xót đó của gia đình với những người chung quanh Teresa đã lớn lên và trở thành vị Thánh, người mẹ lòng thương xót sau này giữa lòng xã hội con người.

  1. Con đường lòng thương xót

 Lúc Teresa lên 12 tuổi đã cảm nghiệm thấy mình có ơn kêu gọi vào sống tu trì trong nhà Dòng, và còn hơn thế nữa cảm nghiệm ra ơn kêu gọi trở thành một nhà truyền giáo sang Ấn Độ, bên Á Châu.

Năm 18 tuổi Teresa đã nói với mẹ mình và cha sở ý muốn đi truyền giáo sang Bengale bên Ấn Độ để cùng làm việc với các Cha Dòng Tên Chúa Giêsu đang sinh sống nơi đó.  Nhưng để thực hiện được ý muốn đó, Teresa phải nhập Dòng Đức mẹ Loreto ở bên Dublin nước Ái nhĩ Lan.  Các nữ tu dòng Đức mẹ Loreto thời đó cũng đang hoạt động truyền giáo bên Bengale.

Teresa nghe theo tiếng gọi con đường đó và trở thành nữ tu của Dòng Loreto, rồi năm 1928 được sai sang Ấn Độ đến vùng Himalaja sống thời gian nhà tập tu luyện, sau đó đến Calcutta học thêm và trở thành cô giáo môn lịch sử, địa lý trường trung học St. Mary’s High School của nhà Dòng.

Nữ tu Teresa làm công việc trí thức dạy học ở trường học nội trú với nhiệt tâm đầy đủ trách nhiệm, nhưng tâm hồn luôn nghĩ đến việc truyền giáo cho những người nghèo nhất nơi những người nghèo bên Ấn độ, mà vị nữ tu ngày đêm ấp ủ hoài bão lúc nào cũng mơ tưởng mong muốn được sống được làm.  Vị Nữ tu Teresa tâm sự: “Tôi là cô giáo, đây là một nếp sống mới với tôi.  Ngôi nhà trường nội trú này rất đẹp cùng thuận lợi cho các học sinh.  Tôi yêu thích việc dậy học.  Tôi chịu trách nhiệm trông coi cả nhà trường, các nữ học sinh yêu mến tôi…”

Nhưng trong khu nhà trường nội trú đó, vị nữ tu Teresa không gặp được một ai là người nghèo đói bị bệnh hoạn, bị bị bỏ rơi ngoài đường phố.

Ngày 10 tháng Chín 1946 nữ tu Teresa đáp xe lửa đi Darjeeling vùng phía Tây Bengale, nơi xưa kia Teresa đã sống thời gian nhà tập, đi tĩnh tâm.  Khi xe lửa đến nhà ga thành phố Calcutta, vị nữ tu cô giáo trường nội trú nhìn thấy tận mắt cảnh từng đám đông người nghèo, người đau khổ thiếu thốn nghèo khổ, bệnh tật đui què sống chen chúc vất vưởng ngoài đường, những bà mẹ trẻ bồng bế cõng con không quần áo trên lưng, trên vai ăn xin ngoài phố xá… thật là một cảnh hãi hùng thương tâm với vị nữ tu trẻ tuổi Teresa.  Tâm hồn vị nữ tu Teresa bồi hồi dao động vì cảnh tượng quá thương tâm như thế

Tâm hồn con mắt vị nữ tu Teresa càng mở ra to lớn hơn, và nữ tu Teresa đã có quyết định quay ngược lại với ơn kêu gọi mà chị đã cảm nghiệm được từ lúc còn ở quê nhà bên Albania: muốn trở thành nhà truyền giáo sống cho người nghèo khổ cùng cực bên Ấn Độ!

Chính mẹ Thánh Teresa sau này đã tâm sự nói về quyết định quay ngược lại tận căn rễ của mình: “Trong đêm hôm đó mắt tôi đã mở ra nhìn thấy cảnh thương tâm cùng cực của con người nghèo khổ xấu số, và tôi cảm thấy tận sâu thẳm sự gì là căn bản ơn kêu gọi của tôi.  Đó là tiếng gọi mới của Chúa nói với tôi, một ơn kêu gọi trong lòng ơn kêu gọi.  Chúa kêu gọi tôi không được từ bỏ đời sống là nữ tu, nhưng hãy thay đổi nếp sống.  Có thế mới phù hợp nhiều hơn với tinh thần phúc âm, với tinh thần truyền giáo, mà Chúa ký thác ban gửi cho tôi…  Tôi cảm nghiệm ra rằng Chúa muốn tôi bỏ nếp sống thanh bình yên lặng tiện nghi nhà Dòng của tôi, mà đi ra ngoài đường sống phục vụ những người nghèo khổ.  Với tôi sứ mạng đã rõ ràng: Tôi phải đi ra khỏi nhà Dòng và sống với những người nghèo khổ cùng cực.  Chúa đã gọi tôi đến sống với những người không có sự gì ở thành phố Calcutta này…. Cuộc tĩnh tâm của tôi ở Darjeeling là những ngày suy nghĩ về sứ mạng ơn kêu gọi mới của tôi, mà tôi đã tiếp nhận trên đường tới đây.  Sau đó về lại Calcutta, tôi quyết định thay đổi nếp sống đời tu.”  Con đường dấn thân cho lòng thương xót với con người cùng khổ, cùng đinh trong xã hội Calcutta bên Ấn Độ bắt đầu từ quyết định thay đổi ra đi đến với họ của mẹ Thánh Teresa.

  1. Nhà Dòng lòng thương xót: Dòng thừa sai bác ái.

Con đường thay đổi nếp sống của nữ tu Teresa để ra đi sống với và cho người nghèo cùng khổ không đơn giản dễ dàng.  Vì phải vượt qua những chặng thử thách có phép chấp thuận của nhà Dòng Loreto cho nữ tu Teresa ra đi, phép của Đức Giám Mục Calcutta, phép của Thánh bộ giáo sỹ tu sỹ bên Roma, và sau cùng phép phê chuẩn của Đức Thánh Cha cho mẹ Teresa lập Dòng mới như mẹ thỉnh nguyện xin.

Sau những năm tháng khảo sát điều tra, ngày 7.10.1950 Tòa Thánh đã phê chuẩn chấp thuận cho mẹ Teresa thành lập Dòng Thừa sai bác ái bên Calcutta Ấn Độ để giúp phục vụ người nghèo khổ cùng cực trong xã hội.

Thế là ơn kêu gọi phục vụ truyền giáo cho người nghèo của mẹ Teresa về phương diện pháp lý theo luật đạo thành sự.

Ơn kêu gọi hoài bão lòng mong ước đến sống truyền gíáo lòng thương xót giữa những người nghèo khổ, mà mẹ Teresa đã đón nhận ơn soi sáng từ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương, giờ đây thành hiện thực cho đời mẹ.

Như các Dòng truyền thống trong Hội Thánh Công Giáo, Dòng của Mẹ Teresa cũng có ba lời khấn: khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh, ngoài ra Dòng còn buộc các chị em nữ tu lời khấn thứ tư nữa: sống vị tha bác ái thương người.

Mẹ Teresa, vị sáng lập Dòng Thừa sai bác ái tâm sự: “Chúng tôi có trách nhiệm bổn phận với lời khấn phục vụ cho hết mọi người không đòi hỏi thù lao được trả công.  Lời khấn này có nội dung là chúng tôi không làm việc phục vụ cho người giầu có, không làm việc vì thù lao tiền bạc, chúng tôi không được nhận tiền bạc thù lao.”

Dòng Thừa sai bác ái của Mẹ Teresa chọn áo Sari dài phủ kín thân thể của phụ nữ Ấn Độ vẫn thường mặc hằng ngày.  Áo Sari mầu trắng bằng vải thô, bên vành áo có ba vạch mầu xanh da trời nói lên ý nghĩa mầu của bầu trời.  Phía bên trái áo Dòng Sari có gắn cây Thánh Giá Chúa Giêsu, để nhắc nhở người nữ tu nhớ đến Chúa Giêsu.

Mẹ Teresa cắt nghĩa về áo dòng Sari: “Chiếc áo Dòng Sari giúp người nữ tu cảm nhận mình là người nghèo giữa những người nghèo, nhận ra mình cũng là người bệnh tật đau khổ, là trẻ em, là những người già yếu bị bỏ rơi.  Và với chiếc áo Dòng Sari cùng chia sẻ đời sống không có gì thừa tự để lại cho thế giới.”

Chiếc áo Dòng áo Sari hèn mọn theo kiểu của người phụ nữ bình dân trong xã hội Ấn Độ nói lên sâu đậm căn tính lòng thương xót cùng đồng cảm với con người của Dòng Thừa sai bác ái do mẹ ThánhTeresa sáng lập.

  1. Dụng cụ lòng thương xót

 Mẹ Thánh Teresa lúc còn sinh thời đã thuật kể lại về nhà Dòng Thừa sai bác ái phục vụ cho người nghèo, trẻ con, người bệnh tật bị bỏ rơi trên toàn thế giới: Dòng chúng tôi có 3.500 chị em nữ tu nơi 95 quốc gia với 445 nhà, chúng tôi càng cần thêm nhiều ơn kêu gọi nữa do Chúa gửi đến…

Chúng tôi là dụng cụ của Thiên Chúa.  Những công việc phục vụ cho bác ái tình yêu là những công việc phục vụ cho hòa bình.  Chúng tôi không bao giờ có ý nghĩ về chính trị.  Chúng tôi chỉ muốn phục vụ giúp đỡ người nghèo khổ, vì họ cần đến tình yêu của chúng tôi…

Công việc dấn thân phục vụ người nghèo, người cùng khổ là chứng từ cụ thể cho đức tin.  Nó cắt nghĩa cho người người nghèo, người đau khổ về tình yêu Thiên Chúa trao tặng cho họ.  Ở Ấn Độ, một phóng viên người Hoa Kỳ quan sát tôi săn sóc người bệnh bị bệnh da lở loét rất nguy hiểm, anh ta nói với tôi: “Dạ, việc như vậy dù có cho tôi một triệu Mỹ kim, tôi cũng không làm!”  Tôi nói lại ngay: Đúng thế, tôi cũng chẳng làm dù có được một triệu Mỹ kim!  Nhưng tôi làm vì tình yêu Chúa.  Người nghèo khổ bệnh tật này với tôi là thân thể Chúa Giêsu Kitô…  Anh phóng viên nghe thế đứng yên lặng rất mủi lòng cảm động, và hiểu nhận ra sức mạnh nào đã kêu gọi cùng thêm sức nâng đỡ việc làm của chúng tôi…

Chúng tôi luôn nỗ lực cố gắng tìm đến nơi có những người lâm vào hoàn cảnh đau khổ mà không có ánh sáng niềm hy vọng.  Đó là nơi những người nghèo khổ, đói khát và bị bệnh tật, nhất là những người bị bỏ rơi sinh sống vất vưởng.  Chúng tôi đến những nơi đó do Chúa sai đến và chỉ cho chúng tôi việc phải làm…

Với Mẹ Thánh Teresa và Dòng của Mẹ, cầu nguyện với Chúa là suối nguồn kín múc sức mạnh cho việc làm bác ái lòng thương xót con người mà Chúa gửi sai đến: “Ngày sống làm việc của chúng tôi đặt trên căn bản cầu nguyện.  Dòng chúng tôi là Dòng chiêm niệm ở giữa lòng trần gian.  Vì thế cầu nguyện là căn bản đời sống nhà Dòng.  Chúng tôi luôn luôn cầu nguyện khắp mọi nơi đang khi làm việc cũng như lúc đi dọc đường.  Nếu chúng tôi không liên lỉ sống kết hợp với Chúa, chúng tôi đâu có thể có sức lực để sống dấn thân hy sinh phục vụ được.”

Khi người ta xin Mẹ tấm thẻ địa chỉ của Dòng, Mẹ Thánh Teresa rút trong túi áo Dòng Sari ra một mảnh giấy nhỏ rẻ tiền mầu xanh, trên có in dòng chữ bằng tiếng Anh:

“Chúa Giêsu vui mừng hạnh phúc đến với chúng ta,
khi sự chân thật muốn được loan truyền,
khi sự sống muốn được cho bừng lên chỗi dậy,

khi ánh sáng muốn được bật chiếu tỏa lan ra,
khi tình yêu muốn được yêu mến,
khi niềm vui muốn được tiếp tục cho đi,
khi hòa bình muốn được xây dựng lan tỏa gieo rắc.”  (Mẹ Teresa)

Xin Mẹ Thánh Teresa cầu cho chúng con!

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long