49 người di cư bất hợp pháp được giải cứu ngoài khơi bờ biển Bỉ – đa số là người Việt Nam

Nhà chức trách Bỉ đã giải cứu 49 người gặp nạn. Chiếc thuyền với những người chủ yếu đến từ Việt Nam có lẽ đã khởi hành từ Pháp.

Các nhà chức trách Bỉ đã giải cứu 49 người di cư gặp nạn trên biển. Theo công tố viên Bruges, chiếc thuyền chở những người, hầu hết đến từ Việt Nam, đã gặp sự cố trong chuyến vượt biển đến Vương quốc Anh trên eo biển Manche. Do đó, con thuyền có khả năng đã bắt đầu ở Pháp, nhưng cuộc điều tra vẫn đang tiếp tục.

Họ có sức khỏe tốt và một số có triệu chứng hạ thân nhiệt nhẹ“, tuyên bố cho biết. Cuộc gọi khẩn cấp được nhận ngay sau bảy giờ sáng. Tất cả các hành khách vẫn ở trên thuyền vào thời điểm giải cứu; nước đã tràn vào thuyền. Một máy bay trực thăng đã tham gia vào chiến dịch cứu hộ.

Cảnh sát Bỉ thường xuyên chặn bắt những người di cư bất hợp pháp trong khu vực cảng Zeebrugge trên Biển Bắc, họ thường trốn trong các xe tải để cố gắng vượt qua eo biển Manche.

Nguồn: https://www.zeit.de/arbeit/2021-05/belgien-migranten-aermelkanal-grossbritannien-seenotrettung-fluechtlinge?fbclid=IwAR20NuJwQmhn7XyN5QMbTVUJP8vDAaOQNE1FlwNwTp5ixlpBnG

Một nghị lực sống thật phi thường…

HAI VỢ CHỒNG MÙ. ÔNG ĐÃ 73. CÙNG CÓ 5 CON. ÔNG CHỈ ĐÁNH ĐÀN RONG ĐỂ SINH SỐNG SUỐT 45 NĂM QUA. CÁC CON ĐỀU KHÔN LỚN. NHỮNG MÃNH ĐỜI THẬT LẠ LÙNG, HIẾM CÓ, VẪN PHẤN ĐẤU SỐNG DÙ TRONG TÌNH TRẠNG KHÓ KHĂN, CUỘC ĐỜI BẤT HẠNH NGAY TỪ LÚC MỚI LỌT LÒNG !

May be an image of 1 person

Đây là ông Nguyễn Văn Minh, 73 tuổi, ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, người đàn ông khiếm thị, suốt 45 năm qua, chỉ với cây đàn ghi ta, làm nghề hát rong đã nuôi cả đàn con 5 người khôn lớn (vợ ông cũng bị khiếm thị)

Một nghị lực sống thật phi thường, mọi người cùng cổ vũ cho ông nhé.

Bùi Giáng, Đại Lão Cái Bang

Bùi Giáng, Đại Lão Cái Bang

 

Vương Trùng Dương

(Đặc San Lâm Viên)

Lời Tác Giả: Bài viết Bùi Giáng, Ðại Lão Cái Bang cho Giai Phẩm Xuân Bính Tý (1996) của tuần báo Tình Thương của nhà văn Lâm Tường Dũ (hiền thê của anh, bà con với Bùi Giáng) gợi ý tôi viết bài nầy để có món quà kỷ niệm người anh vào tuổi thất thập. Nhờ tài liệu của anh Bùi Như Hải lưu trữ hỗ trợ cho bài viết.

 Sau khi Bùi Giáng qua đời (tháng 10 năm 1998) có nhiều bài viết cũng tựa đề nầy vì hình ảnh và cuộc sống cá biệt của ông tựa như nhân vật trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung trong Võ Lâm Ngũ Bá đến Anh Hùng Xạ Điêu… Bang chủ Cái Bang đời thứ 18 xuất hiện trong chốn võ lâm. “Lão ăn mày” ăn mặc rách rưới, võ công thâm hậu, thích rượu, lúc say, lúc tỉnh, khi tĩnh lặng, khi ồn ào náo nhiệt giữa đám quần hùng. Con người như vậy nhưng hành hiệp đạo nghĩa, bệnh vực kẻ yếu, trừ ác gian tà.  

Ở Sài Gòn, khi chính quyền ban hành “Sắc Luật 007” để kiểm soát báo chí, Hội Chủ Báo, Hội Ký Giả Việt Nam, Hội Ký Giả Nam Việt và Hội Ái Hữu Ký Giả xuống đường ngày 10/10/1974 “Ký Giả Đi Ăn Mày” tại Sài Gòn. Lợi dụng thời cơ, phần từ năm vùng, phản kháng, a dua bị gậy phản đối chính quyền. Từ đó, hình ảnh “cái bang” trở thành quen thuộc.

 Nay, với tuyển tập về Quảng Nam, dù 25 năm trôi qua (1996-2021) nhưng với nhân vật Quảng Nam nổi tiếng trong nhiều lãnh vực thơ văn, dịch giả và triết học: Bùi Giáng. Con người bất hạnh trong cuộc sống nhưng sáng tác của ông là gia tài quý báu trong dòng sinh mệnh văn học của miền Nam Việt Nam 

 — VTrD

 “Mùa xuân hẹn thu về em trở lại

Bên đời đi còn giữ mãi hay không

Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại

Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng”

(Bùi Giáng)

Bước vào năm Bính Tý (1996), Bùi Giáng vừa tròn tuổi thất thập. Với cuộc sống lang bạt kỳ hồ, túi vải, chân đất, lang thang giữa chợ đời, gầm cầu, hè phố, dầm sương dãi nắng, bữa đói bữa no gần 4 thập niên, qua bao thăng trầm bệnh tật, vẫn còn sáng tác ở tuổi cổ lai hy, đó là một hiện tượng. Ông ký nhiều bút hiệu, trong đó có: Trung Niên Thi Sĩ, Thi Sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bàng Giúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng (truyện dịch Khung Cửa Hẹp, Hoàng Tử Bé)…

Trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật, Bùi Giáng để lại cho đời biết bao giai thoại từ trí tuệ đến con người, đó là một hiện tượng. Ngôn ngữ thi ca của Bùi Giáng là một hiện tượng. Tình yêu (nếu có) dù dơn phương cũng là hiện tượng. Chữ nghĩa, tư tưởng Bùi Giáng có sẵn trong đầu, khi yêu cầu bài viết, lấy giấy viết ngay. Hiện tượng Bùi Giáng.

Bùi Giáng, nhà giáo, dịch giả, nhà văn, nhà phê bình văn học, triết học nhưng đó chỉ là quán bên đường, người bạn tri kỷ tri bỉ: thi ca.

Ngược Dòng Thời Gian

Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Thân phụ là ông Bùi Thuyên, thường gọi là Cửu Tý. Ông Cửu Tý thỉnh thoảng bị bệnh “điên” và khi “điên” thì làm bộ cưỡi ngựa bằng mo cau đi từ làng Trung Phước đến làng Cà Tang đọc thơ, làm câu đối thích chọc ghẹo cô gái cho vui. Ông Cửu Tý lấy người vợ kế Huỳnh Thị Kiền, sinh ra Bùi Giáng. Theo thứ tự trong gia đình, ông thứ sáu nên gọi là Sáu Giáng. Nhà thờ Tộc Bùi với gia phả ghi lại nơi đây và sau này có thêm ở Sài Gòn.

Năm 1933 bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu với thầy Cù Đình Quý. Năm 1936 học ở trường làng Bảo An với thầy Lê Trí Viễn. Tiếp tục theo học tiểu học ở Hội An, Quảng Nam rồi sau đó chuyển sang học trung học ở Thuận Hóa, Huế. Năm 1945 đậu bằng Thành Chung (Văn bằng này thời đó gọi là Cao Đẳng Tiểu Học, tiếng Pháp là Diplôme d’Etudes Primaire Superieur Franco-Indigènes, còn gọi là Brevet Primaires, người Việt thường gọi là bằng Thành Chung, bằng Diplôme). Trong năm này, ông 19 tuổi, cưới vợ là bà Phạm Thị Ninh, gọi là Vãn Ninh, rất xinh, con ông bà Phán Trai ở Hội An.

Thời điểm nầy, tình hình biến động, ông đưa vợ về quê sinh sống, nhưng tai họa ập đến, vợ qua đời! Ông đau khổ, chán chường rời cố hương. Thiên tình sử của ông rất đặc biệt. Khi còn học ở trường Viên Minh, Hội An. Nữ sinh Phạm Thị Ninh, học sau ông một lớp, nổi tiếng xinh đẹp, quen biết nhau rồi cưới làm vợ tại Hội An. Năm 1945 gia đình bà Phạm Thị Ninh tản cư lên Trung Phước, ông đem vợ lên rồi mua một đàn dê để đi chăn. Ông nuôi dê để rong chơi và còn đặt tên cho mỗi con dê rất kỳ lạ.

Theo nhà thơ Tường Linh, học trò học tiếng Pháp của Bùi Giáng, vào một buổi sáng, trời mưa dầm dề, Bùi Giáng đang ở trên núi thì nghe tin vợ mình qua đời. Ông hốt hoảng chạy ra ngoài trời và vấp vào một gốc cây, ngã xuống bất tỉnh. Người vợ mà ông rất yêu thương, sau này ông thường gọi là “con mọi nhỏ”, bị bạo bệnh và mất vào năm 1952, lúc mới 26 tuổi. Ông thôi hẳn việc chăn dê, chia tay hẳn với cỏ hoa hồn du mục để xuôi về phố thị rộn ràng.

Năm 1950 ông đỗ Tú Tài II (Baccalauréat Deuxième Partie). Ông ra Liên Khu IV (Thanh Nghệ Bình Trị Thiên) theo học đại học nhưng khi nghe Viện Trưởng đại học đọc diễn văn, ông bỏ ý định theo học và theo đường núi Trường Sơn trở lại cố hương. Tháng 5 năm 1952, ông ra Huế thi lấy bằng tú tài tương đương cho hợp lệ.

Theo lời người bào đệ, cùng cha khác mẹ, ông Bùi Vịnh, trong ngày Hội Thi Văn & Tư Tưởng Bùi Giáng ngày 21 tháng 10 năm 1995 tại Majestic, Huntington Beach, California, Bùi Giáng “Có vợ vào lúc còn rất trẻ, sau năm 1945. Nhưng vì đi tản cư ở vào những nơi rừng thiêng nước độc, người vợ trẻ đã qua đời sau cơn bạo bệnh”. Ông chung tình chung nghĩa với “mộng ban đầu”, suốt nửa thế kỷ ôm vọng tưởng, điên loạn bởi “hồn nguyên tiêu” bao nhiêu hình ảnh mang dáng dấp của người tình muôn thuở vào cõi thiên thu, ngôn ngữ Bùi Giáng trở thành kỳ bí.

“Vào tháng Năm 1957, ông quyết định bỏ vùng Việt Minh trốn qua vùng Quốc Gia. Và tại Huế, ông thi lại bằng Tú Tài tương đương, rồi vào Sài Gòn, ghi danh vào đại học Văn Khoa. Cả lần này nữa, sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy, ông đã quyết định chấm dứt việc học ở trường của mình tại đây. Ông bắt đầu viết khảo luận, sáng tác và đi dạy học ở các trường trung học tư thục…” (Bùi Vịnh).

Với dòng tộc Bùi lúc đó nổi danh với bác sĩ Bùi Kiến Tín, trưởng nam của ông Bùi Biên (ông Cửu Thứ) và bà Phan Thị Yến. BS Tín tham gia vào nội các của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm với chức vụ Bộ Trưởng Bộ Thông Tin (1954). Sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa được thiết lập, ông không tham chính và phục vụ trong quân đội với cấp bậc Y sĩ Trung Tá, sau đó giữ chức Y sĩ Trưởng Phủ Tổng Thống và Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống (1960). Bùi Giáng đã tham gia trong thời kỳ Việt Minh nhưng có lẽ “cái bóng” của người anh bà con nên chính quyền không theo dõi ông nhưng ông nhờ vả gì vào “cái bóng” để lập thân.

Ông có năng khiếu về ngoại ngữ, tinh tường về Anh, Ðức, Pháp và Hán văn, không biết ông theo học tiếng Ðức và tiếng Anh lúc nào nhưng khi nghiên cứu triết học Ðức, thơ văn Anh Mỹ, ông dịch và viết rất tài tình. Ông có trí nhớ kỳ lạ và “trí quên” rất độc đáo. Quên của ông cũng là hiện tượng và có lúc không biết gì cả, cùng với cử chỉ, hành động kỳ quái, người điên thời đại.

GS Vũ Ký, thầy dạy của ông, trong bài “Nhớ Về Ba Người Em Lỗi Lạc” trong Giai phẩm Quảng Ðà 94 “Từ năm 1943 ấy, Bùi Giáng thôi học ở Hội An, rồi lui về cố hương làm Tô Vũ mục dương ở Trung Phước, miền rừng núi xứ Quảng. Theo nhiều người cho biết, Bùi Giáng nghêu ngao làm thơ, ca hát, điên khùng suốt năm tháng. Lúc tôi gặp lại ở Sài Gòn thì Bùi Giáng đã nghỉ dạy học tư để cầm cọ bôi mực loay hoay vẽ tranh trong căn nhà lụp xụp ỏ ngõ hẻm Trương Minh Giảng và Bùi Giáng cũng vừa mới in xong mấy cuốn sách giáo khoa”.

“Với Tất Cả Bùi Giáng” của Trần Phong Giao, Bùi Giáng “Lập gia đình năm 18 tuổi, nhưng không được hưởng hạnh phúc bao lâu vì chiến tranh và nạn lụt đã cướp mất vợ và hai đứa con thơ của ông”.

Ðó là mốc thời gian tuổi niên thiếu của ông được đề cập qua ba người có liên quan với ông nhưng đã khác nhau. Theo sự ghi lại của “người thầy cũ và cũng là người anh” thiếu chính xác thời điểm quan trọng trong giai đoạn trong 9 năm “kháng chiến” đã ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc đời Bùi Giáng. Ông tham gia “kháng chiến”, theo Việt Minh nhưng khi đụng chạm thực tế, ông ngán ngẫm, gặp bất hạnh trong tình yêu, tâm hồn điên loạn…

Sau 3 năm “chia cắt” đất nước, phân ranh Quốc/Cộng, ông mới chọn lựa quyết định ranh giới giữa 2 miền. Bài thơ “Nỗi Lòng Tô Vũ” của ông đã ghi “Kỷ niệm một đoạn đường mười năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt”.

Không bao giờ muốn và để ai đề cập “tiểu sử”, theo ông “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ, và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ, gay cấn”. Và hai câu thơ của ông: “Người điên mang một nỗi buồn. Chưa bao giờ biết cội nguồn từ đâu” để trả lời với tha nhân. Tuy nhiên, công việc của nhà nghiên cứu văn học cần phải tìm hiểu chính xác, nhìn lại Văn Học Việt Nam, ông là khuôn mặt đặc biệt trong văn giới. Từ tuổi thơ đến thời điểm “tam thập nhi lập” (1926-1956) trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nỗi đau tột cùng trong tình yêu. Vì vậy, trước năm 1975, nhiều cây bút viết về tư tưởng, thơ văn Bùi Giáng nhưng không đề cập về “tiểu sử” nên có nhiều nghi vấn cùng với giai thoại quanh ông.

Tháng 5,1973, Mai Thảo và Nguyễn Xuân Hoàng của tờ Văn thực hiện “Số báo đặc biệt về thiên tài thi ca Bùi Giáng”, 10 câu hỏi của Nguyễn Xuân Hoàng về Bùi Giáng có tính cách khác lạ và cả hai cùng hỏi và nói “Chuyện rong chơi”. Nhận định thơ văn của ông với Thanh Tâm Tuyền, Nam Chữ, Trần Tuấn Kiệt, Tuệ Sĩ… Với ông, sáng tác chẳng có liên quan gì với tiểu sử, trong thơ đã chứa đựng đoạn đường trải qua.

Có nhiều tác phẩm đã đề cập đến ông, điển hình như Cao Thế Dung với Văn Học Hiện Ðại: Thi Ca & Thi Nhân; Năm Sắc Diện, Năm Ðịnh Mệnh của Du Tử Lê; Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay của Tạ Tỵ; Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại của Trần Tuấn Kiệt…

Sau tháng Tư năm 1975, cái bang Bùi Giáng với nhiều giai thoại và mỗi giai thoại nói lên cái điên, cái tỉnh trong cảnh khốn cùng của xã hội. Một Bùi Giáng quằn quại, một Bùi Giáng ngông nghênh, một Bùi Giáng vào tù ra khám… và một Bùi Giáng cuồng sĩ bất khuất.

Tác Phẩm

Gần hai thập niên ở Sài Gòn, tác phẩm của ông với số lượng đáng kể:

  • Sách Giáo Khoa, Luận Đề:
    • Bà Huyện Thanh Quan, 1956
    • Lục Vân Tiên, 1956
    • Chinh Phụ Ngâm & Quan Âm Thị Kính, 1956
    • Truyện Kiều & Truyện Phan Trần, 1957
    • Cung Oán Ngâm khúc, 1957
    • Nguyễn Công Trứ, 1957
    • Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, 1958
    • Phan Bội Châu, 1958
    • Chu Mạnh Trinh, 1958
    • Tôn Thọ Tường & Phan Văn Trị, 1958…
  • Sách Dịch:
    • Cõi Người Ta của Saint-Exupéry, 1966
    • Trăng Tỳ Hải của Albert Camus, André Gide, Martin Heidegger, 1966
    • Khung Cửa Hẹp của A. Gide, 1966
    • Hoa Ngõ Hạnh của Shakespeare, 1966
    • Bạo Chúa Caligula của Albert Camus, 1967 – 1974
    • Kim Kiếm Ðiêu Linh của Ngọa Long Sinh, 1967
    • Ngộ Nhận của A. Camus,1967
    • Con Người Phản Kháng của A. Camus, 1968
    • Mùa Hè Sa Mạc của A. Camus , 1968
    • Kẻ Vô Luân của A. Gide, 1968
    • Orphélia Hamlet của Shakespeare, 1969
    • Hòa Âm Ðiền Dã của A. Gide, 1969
    • Sương Bình Nguyên của các tác giả Âu Mỹ, 1969
    • Hoàng Tử Bé của Saint-Exupery, 1973
    • Mùi Hương Xuân Sắc của Gerald de Narval, 1974…

Ông dịch rất thoáng, có khi không theo nguyên tác mà theo ý văn để diễn đạt. Còn sáng tác thơ tặng tác giả. Ông dịch Kim Kiếm Ðiêu Linh của Ngọa Long Sinh để học thêm chữ Hán. Tác phẩm Nhà Sư Vương Lụy của nhà văn Trung Hoa, nhà sư tên là Tô Mạn Thù (Su Manshu), Bùi Giáng dịch từ nguyên tác, Quế Sơn xuất bản năm 1969. (Có bản dịch sang tiếng Anh The Lone Swan của Geoege Kin Leung

  • Sáng Tác:
    • Thơ: Mưa Nguồn, 1962
    • Ngàn Thu Rớt Hột, 1962
    • Bài Ca Quần Ðảo, 1962
    • Lá Hoa Cồn, 1963 – Màu Hoa Trên Ngàn, 1963
    • Sa Mạc Trường Ca, 1969
    • Rong Rêu, 1970
    • Ðêm Ngóng Trăng, 1972…
  • Biên Khảo, Tạp Văn, Tùy Bút:
    • Tư Tưởng Hiện Ðại, 3 quyển, 1960 & 1962
    • Martin Heidegger & Tư Tưởng Hiện Ðại, 2 quyển, 1963
    • Sao Là Không Có Triết Học Heidegger, 1969
    • Ði Vào Cõi Thơ, 1969
    • Thi Ca Tư Tưởng, 1969
    • Sa Mạc Phát Tiết, 1969
    • Sương Bình Nguyên, 1969
    • Trăng Châu Thổ, 1969
    • Mùa Xuân Trong Thi Ca, 1969
    • Thúy Vân, Tam Hợp Ðạo Cô, 1969
    • Mùa Thu trong Thi Ca, 1970
    • Biển Ðông Xe Cát, 1970
    • Ngày Tháng Ngao Du, 1971
    • Ðường Ði Trong Rừng, 1972
    • Lời Cố Quận, 1972
    • Lễ Hội Tháng Ba, 1972
    • Con Ðường Ngã Ba, 1973…

Năm 1965 nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông. Năm 1969 ông “bắt đầu điên rực rỡ” nhưng được các nhà xuất bản in nhiều tác phẩm nhất. Sau đó, ông “lang thang du hành Lục Tỉnh”, trong đó có Long Xuyên, Châu Đốc… cho thỏa ý nguyện. Thầy Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, rất thân với Bùi Giáng và lo ấn hành tác phẩm. Nói đến Bùi Giáng, con người nhập tâm Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du. Có lần ông dạy Việt Văn, khi đề cập đến Thúy Kiều bán mình chuộc cha, ông khóc nức nở. Ngay trong tác phẩm viết về triết học, ông cũng dẫn chứng tư tưởng đó có trong thơ Kiều. Và, trong các tác phẩm Âu Châu qua bản dịch của ông cũng thấp thoáng “hồn Nguyễn Du”. Với những tác phẩm được ấn hành, tuy có nhiều tiền tác quyền nhưng ông “thú vui kẻ sĩ” không lưu giữ, “nướng” cho thú vui trong lối sống giang hồ bạt mạng trên đường phố…

Năm 1970, Bùi Giáng phải đưa vào chữa trị ở nhà thương điên Biên Hòa. Khi vào bệnh viện ông đối đáp với bác sĩ nên không biết đâu là “trí óc rối loạn”. Và trong năm đó, ông đã cho in Biển Đông Xe Cát và Mùa Thu Trong Thi Ca. Kế tiếp với những tác phẩm cho đến năm 1973… (Theo người bạn thâm niên Bùi Như Hải thì dòng họ anh có vài người bị bất thường “điên” nhưng chỉ khoảng thời gian nào đó thôi, và thường tái phát vào mùa hè, trời nóng bức).

Sau biến cố tang thương năm 1975, Bùi Giáng điên nặng. Cái điên vì thời cuộc của ông “hành khất Cái Bang” được ghi lại với nhiều giai thoại. Vừa điên vừa khôn trong “bức tranh vân cẩu” vừa thương ông vừa nể phục. Từ đó, Bùi Giáng sống lang thang bên lề xã hội!.

Người điên Bùi Giáng cũng bị nhốt 3 tháng ở trại giam Gia Ðịnh. Ông bất chấp tất cả. Ông gọi mày tao khi bị hỏi cung, thản nhiên với thức ăn “cặn bả” của con người mà không bị nhiễm trùng. Thế rồi, tháng ngày sau đó, theo Phạm Xuân Ðài “Cuộc sống của anh tại Sài Gòn hiện nay là của một cuồng sĩ, khi thì thu mình trong túp lều của anh tạ một khu vườn bên Gia Ðịnh, khi thì lang thang vô định trong cơn điên… Ði lang thang hàng chục cây số bất kể nắng mưa, múa may la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được”. Thế nhưng “Bùi Giáng như một ngọn lửa cháy liên tục mấy mươi năm nay trong thế giới thơ ca – của anh và của chúng ta. Ngọn lửa có khi thu lại thành một đám nhỏ, có khi bùng lên dữ dội, có khi bị gió bão lắt lay, nhưng vẫn là nguyên một ngọn lửa ấy từ đầu cho đến bây giờ”.

Hình ảnh ông già tuy mới năm mươi lúc đó, mặc quái dị, đủ màu sắc, đeo đủ thứ, tóc tai dài phủ ót, rối bù, mang kính cận thị nặng, cầm một cái gậy múa may quay cuồng trên đường…

Nơi nào ông xuất hiện, đám đông vây quanh, nhất là trẻ con bu quanh “diễn viên Cái Bang” náo nhiệt. Ông xuất thần với những câu thơ, được truyền tụng lại, thật hư không biết nhưng cái điên của ông mới bạo gan chửi chế độ như vậy. Từ đó “Cái Bang 9 túi” lang bạt suốt hai thập niên. Bất kể mưa nắng, màn trời chiếu đất, thân xác gầy còm… thế mà sống thọ qua tuổi thất thập.

“Có hôm gặp ông ngoài đường. Ông mặc quân phục chế độ cũ, lon lá huy chương đầy mình. Mọi người sợ hết hồn, vì thời gian ấy các sĩ quan chế độ cũ phải lên đường đi học tập cải tạo kẻ nào trốn cũng khó thoát khỏi lưới tình báo nhân dân” (Nguyễn Thụy Long – Giữa Đêm Trường).

Ông cũng tự giải thích:

“Tôi điên là bởi tôi điên

Cầm tay cô hỏi cho phiền lòng nhau

Tôi điên từ trước đến sau…”

(Bùi Giáng, “Thơ Bùi Giáng, hải ngoại 1990”)

Sống chết với ông như lời tự nguyện:

“Hãy mang tôi tới giữa đời

Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo

Hãy mang tôi tới nắng chiều

Giết tôi chết giữa một chiều khe nương”

(Sa Mạc Trường Ca, 1969)

Tại hải ngoại, có 3 tuyển tập về thơ Bùi Giáng sáng tác vào sau năm 1975:

  • Thơ Bùi Giáng, năm 1990, nhóm Việt Thường ở Canada thực hiện, gần 200 bài thơ.
  • Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 1994, Phạm Xuân Ðài thực hiện, gồm 106 bài thơ.
  • Thơ Bùi Giáng, California 1995, Bùi Vịnh & thân hữu thực hiện, gồm 81 bài thơ, tranh bìa “Thiếu Nữ” do Bùi Giáng vẽ.

Suốt 4 thập niên, Bùi Giáng đã cống hiến cho đời, cho nền Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam thật nhiều tác phẩm gồm đủ mọi thể loại. Một con người không có nơi nương tựa ổn định, thể chất gầy gò, bệnh tật, tâm tính lúc bình thường khi điên loạn mà tạo dựng “kho tàng quý báu” cho Văn học Việt Nam, điều rất lạ, không thể hiểu được.

Ngôn Ngữ & Cuộc Sống

Gần gũi, tiếp xúc với Bùi Giáng, mỗi lần, có thể nói giai thoại về ông, thương mến, cảm quý con người tài hoa nhưng sống đầy khổ hạnh.

Viết về Bùi Giáng, với Mai Thảo: “Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương… Sự hình thành một tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn còn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó… Bùi Giáng đã đem lại cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng ngôn ngữ ảo diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới không cùng không tận”. 

Thế mà, chân dung, đời sống của nhà thơ “Mái tóc ông đổi màu. Mấy chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười vừa trẻ thơ vừa móm mém. Cặp mắt sâu hoắm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế… Ông ấy chỉ còn da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy… Có lúc thấy nói ông đeo một xâu chuỗi toàn giày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám con nít reo hò chỉ chỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở ngôi chùa vùng ngoại ô thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói”. Bùi Giáng cũng tạo được một cái lạ mà theo tôi là một cái ngang…

“Trần gian lắm kẻ không cơm áo

Mà con thờ thẩn cứ nhìn trăng.”

Bùi Giáng có cái giọng bạt đó và cái giọng bạt đã ảnh hưởng vào âm vận của thơ Giáng” (Uyên Thao – Thơ Việt Hiện Ðại).

Nhà giáo Vũ Ký, vị thầy của bộ ba Bùi Giáng, Tạ Ký, Nguyễn Thùy từ lúc ở cố hương đến khi cùng làm thấy giáo tại Sài Gòn, viết nhiều giai thoại về Bùi Giáng, một Bùi Giáng thông minh, tài hoa, điên khùng, lang bạt… một Bùi Giáng với tình yêu ảo tưởng trong thơ văn và một Bùi Giáng lãng mạn với bóng hồng ở tuổi 60. Không hiểu vì cơn gió nào, bỗng nhiên có hai cô, một cô là ÐNLH (giáo viên trung học, người Huế) và một cô là HHTV, cháu của nhà văn Cung Giũ Nguyên xách đồ đạc đến nhà Thùy ở luôn 2 tháng. Thùy là bạn học, đồng hương với Bùi Giáng, thường gặp gỡ nhau. (Bùi Giáng, Tạ Ký và Nguyễn Thùy gặp nhau thì “Quảng Nam hay cãi” tuy bất đồng nhưng không bất hòa, rất chân tình, quý mên nhau). Thế rồi cô LH “Lại rất mến trọng Giáng, thường la cà với Giáng tại nhiều quán cà phê, nhiều lúc tình tứ khiến mọi khách trong quán rất ngạc nhiên”. Ðó cũng là một hiện tượng, thử tưởng tượng hình ảnh Ðại Lão Cái Bang ăn mặc rách rưới kỳ dị lại song bước cùng bóng hồng tuổi còn đôi mươi, tâm tình với nhau.

Bùi Giáng sống trong cảnh khốn cùng của tuổi già mà ông tự chọn vì không muốn liên lụy với người thân muốn lo cho ông. Khi tuổi già sức yếu ông đành tá túc tại nhà người anh em chú bác (Bùi Võ) tại Bình Thạnh, người thân lo chu đáo cho ông nhưng không thích bị gò bó trong nhà trước khi qua đời sau khi bị đột quỵ (stroke), sau những năm tháng sống “điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang” (chữ của Bùi Giáng). Thế nhưng, hơn hai thập niên ở trong nước đã có vài bài viết về ông với hình ảnh con người điên loạn, con người phản kháng sống bên lề cuộc đời! Những tác phẩm của ông bị chôn vùi theo thời gian trong cuộc sống tuổi già nhưng thơ văn của ông với người Việt hải ngoại vẫn giữ thế đứng trong nền Văn Học của đất nước. Văn Chương, Nghệ Thuật của ông như một cõi trời bao la, khác xa với tư tưởng của người cầm bút theo giáo điều chủ trương “hiện thực xã hội”!

Dẫn chứng vài cây bút tượng trưng viết về ông ở trên cho thấy con người của ông bất thường, đời sống của ông bất định, nay đây mai đó, ngôn ngữ của ông có lúc thật huyễn hoặc, kỳ bí, lúc thật bình dị, nhẹ nhàng, lúc thanh lúc tục. Quan niệm sáng tác của ông “chơi mà thôi”, chẳng có gì bận tâm, chẳng có gì để bàn. Cuộc đời của ông ở giữa trần thế chỉ là Ngày Tháng Ngao Du, rong chơi, ung dung tự tại.

Trước kia, Thượng Tọa Thích Minh Châu dành cho ông căn phòng ở đại học Vạn Hạnh, ông chỉ để sách vở rồi rong chơi đầu đường xó chợ, gặp đâu ngủ đó bất kể nắng mưa, đêm ngày. Sau này, thân nhân lo cho ông túp lều trong vườn ở Gia Ðịnh, căn phòng nhỏ trên lầu ở đường Trần Quang Diệu Sài Gòn, ông để đó, rong chơi dưới gầm cầu Công lý, vỉa hè.

Với ông, tư tưởng triết học của M. Heidegger, Nietzsche, thi ca của Holderlin, Walt Whitman, Emily Dickinson… Văn chương Pháp của A. Gide, St Exupery, A. Camus, văn chương Anh của Shakespeare… Ông chọn lựa và chuyển ngữ rất linh động, tài tình. Cuộc đời của ông điên, tỉnh, ông đã đề cập trong tác phẩm, tình yêu huyễn hoặc thấy bàng bạc trong thơ văn. Tư tưởng triết học, tư tưởng cao siêu của con người, theo ông, đều có đề cập trong Kiều của Nguyễn Du. Với Bùi Giáng, Truyện Kiều là một thứ “mê hồn trận thị phi”. Bùi Giáng tôn thờ Nguyễn Du và M. Heidegger như “thánh nhân tư tưởng”. Tác phẩm Martin Heidegger & Tư Tưởng Hiện Ðại dày hơn một nghìn trang là một công trình biên khảo triết học từ năm 1963, còn xa lạ với bộ môn nầy ở miền Nam VN. Đôi lần tôi hỏi anh Trần Văn Nam, sau khi tốt nghiệp cử nhân giáo khoa Triết Học Tây Phương, vừa đi dạy, tiếp tục với luận án cao học về Hiện Tượng Luận từ quan niệm của Husserl được thay đổi bởi M. Heidegger, anh nói bộ môn nầy rất nhức đầu nhưng cũng từ tác phẩm của Bùi Giáng nên anh chọn đề tài cho luận án.

Sức sáng tạo của ông rất kỳ diệu. Như một tay võ công tuyệt luân khi xuất chiêu liên tục bất tận. Trong một đêm, ông viết cả trăm trang cho một tác phẩm. Gặp ông, hỏi thơ để đăng, ông sáng tác ngay tại chỗ, viết như đã nhập tâm từ trước.

Với năng khiếu về ngoại ngữ và cách học của ông, chọn tác phẩm để học, đọc, tra cứu. Biết hết chữ nghĩa của tác phẩm là biết được ngôn ngữ nước đó. Vì vậy, khi tìm hiểu M. Heidegger, ông học tiếng Ðức mới hiểu được tư tưởng. Văn chương Pháp, Anh, ông chuyển dịch từ nguyên tác. Chuyển ngữ lại từ tác phẩm được chuyển ngữ (không nguyên bản) thì không còn thoát được cái ý của nó. Chẳng hạn thi phẩm Ngàn Thu Rớt Hột của ông nghe rất văn chương bóng bẩy, đó là “hình ảnh cứt dê” bao năm ông gần gũi với nó trên núi rừng. Làm sao chuyển ngữ thoát được cái âm điệu, hình ảnh bóng bẩy đó được, hay thi phẩm “Lá Hoa Cồn”, ẩn ngữ bí hiểm.

“Bây giờ đành chịu chia xa

Em vào hang núi tôi ra hố ngàn

Gửi linh hồn lại nhân gian

Ôi người Hải Ngoại ôi nàng Phương Tây”.

(Bây Giờ Còn Lại – Lá Hoa Cồn, 1963)

Có lần Huy Tưởng, nhà thơ Tam Kỳ, Quảng Nam, gặp và hỏi chơi với ông chuyện chăn dê có thi phẩm “rớt hột”, nghe nói ông có chăn bò ở quê đúng không? – Đúng! Đúng? đúng với cái đầu của họ. Rồi cười thoải mái, xem như hỏi chơi, nghĩ chơi, đáp chơi rồi thôi.

Nguồn thơ của ông dạt dào, bất tận, ông viết nhiều về hình ảnh ở quê hương, ở núi rừng Trung Việt. Ðiều bắt gặp trong thơ của ông với chữ Kim ở đầu. “Người tình trong thơ” Kim Novak, Kim Cương. Ngài ra với vài hình bóng các cô Kim… thấp thoáng:

“Ôi phương cảo! Ôi Kim Liên

Cảo thơm Kim Thúy diện tiền Kim Hoa!

Ôi Kim Ngọc! Ôi Kim Nga

Chắc gì mai hậu mà ra phụ lòng”.

(Ra Hoa)

“Tuy nhiên hồn mộng chan hòa

Ðầu tiên Kim Thúy, Kim Hoa thập thành

Cuối cùng thừa thượng Kim Thanh

Ði về vô tận tập thành Kim Liên

Kim Nga, Kim Ngọc diện tiền

Ðầu sương cuối tuyết thần tiên bấy chầy”.

(Cuối Ngày Em Ði)

Ông lang thang với thời gian quá dài cho một đời người, xem cuộc sống nhẹ như tơ hồng, xem cuộc đời ảo thật, thật hư, thế gian đảo điên nhưng đôi lúc tìm trong thơ ông mới cảm nhận được nỗi thống khổ thiết tha cho mối tình đầu đời đã hoài công tìm lại:

“Chắp tay tôi lạy ông trời

Tìm người yêu giúp giùm tôi một lần”

(Tìm Em)

Khi làm kẻ chăn dê và hình ảnh nơi cố hương được mô tả qua dòng thơ rất tuyệt:

“Ðồi tăm tắp chạy về ôm chân núi.

San sát đồi phủ phục quấn núi xanh.

Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối.

Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức

Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức

Vang vang lên đồi núi giọng be be”.

(Nỗi Lòng Tô Vũ)

Và, trong khung cảnh đó, ông bày tỏ nỗi niềm cùng hình ảnh người yêu:

“Em nhớ hay không hồn hòa dại cỏ

Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya

Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ

Gió cây rung trút lá mộng tan lìa”

(Nỗi Lòng Tô Vũ)

Ông lấy hình ảnh Tô Vũ đời Hán Vũ Ðế, đi sứ sang Hung Nô bị giữ lại và đày đi chăn dê gần hai thập niên. Vì vậy, nỗi lòng Tô Vũ là nỗi lòng của kẻ lưu đày giữa chốn trần gian.

Hình ảnh người vợ, người tình ban đầu, yêu thương say đắm, đã vĩnh viễn ra đi để lại cho ông nỗi thống khổ với tình, với thủy chung hình bóng cũ:

“Em chết bên bờ lúa

Ðể lại trên đường mòn…

… Ðêm cuồng mưa khóc điên

Trăng cuồng khuya trốn gió…

… Anh đi về đô hội

Ngó phố thị mơ màng

Anh vùi thân trong tội lỗi

Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang”

(Bờ Lúa – Mưa Nguồn, 1962)

“Miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng 

Bóng hình em tơi tả dưới trăng rằm”.

(Người Xưa – Mưa Nguồn)

Chỉ có Bùi Giáng và duy nhất chỉ có ông mới gọi những “bóng hồng” bằng mẹ. Hiện hữu hay ở phương trời xa xôi. Ông ngông đến thế, bỡn cột hay lòng thành kính, huyễn hoặc với ngôn ngữ thi ca, cũng là hiện tượng.

Phùng Khánh và Phùng Thăng là hai dịch giả nổi tiếng qua vài tác phẩm văn học, Phùng Khánh là ni sư giữa thập niên 60. Ông ngưỡng vọng hai dịch giả này:

“Mẹ còn nhớ nữa con chăng

Mẫu thân Phùng Khánh con hằng chẳng quên

… Phùng Thăng mẹ chớ xui nên

Từng cơn điên dại khôn đền cho con”…

“Con thương Phùng Khánh vô ngần

Phùng Thăng thân mẫu cũng gần như nhiên”…

Có lúc Bùi Giáng gọi là mẫu thân Phùng Khánh, có lúc gọi là Trí Hải ni cô. Cùng lúc với Marilyn Monroe, Kim Novak, Kim Cương nương tử… nên ông yêu điên cuồng, nguyện làm đệ tử của thần ái tình.

Nhưng có khi ông coi mình như vị vua với người tình:

“Trẫm ghé thăm em

Một bận này

Mai sau Trẫm sẽ

Nhớ hôm nay

Một lần Trẫm ghé

Thăm em thế

Suốt một bình sinh

Trẫm nhớ hoài”…

(Trẫm Ghé Thăm – Lá Hoa Cồn)

“Trẫm nhớ em như 

Nhớ một người 

Rất gần mà cũng 

Rất xa xôi”…

(Trẫm Nhớ Em – Lá Hoa Cồn)

Bất hạnh trong tình trường, ông rong ruổi trong nỗi bất hạnh đó qua ngôn ngữ bằng thơ, văn, bằng trái tim rướm máu, bằng tài hoa lỗi lạc của Bùi Giáng và có lẽ duy nhất với cái tên Bùi Giáng.

“Văn thơ cùng tư tưởng của Bùi Giáng đi vào lịch sử văn học đất nước, đánh dấu một giai thoại về Bùi Giáng sống cùng những cái ‘điên loạn, ngông khùng’ của Bùi Giáng, cũng sẽ được nhắc nhở hoài trong văn chương, văn học” (GS Vũ Ký). Phải hiểu con người Bùi Giáng mới cảm nhận được ý thơ, văn và tư tưởng của ông, ông sáng tạo lúc tỉnh, ngao du lúc động để mãi mãi đi tìm hình ảnh xa thẳm, mịt mù! Hồn thơ luôn luôn chất chứa trong Bùi Giáng, bất luận ngày đêm, gặp đối tượng khơi động, dòng thơ tuôn trào. Tâm hồn Bùi Giáng chu du, mộng mị khắp bốn phương trời để “thơ và giai nhân” kết tinh thành “thiên cổ lụy” ngất ngây, nồng nàn, say đắm hòa cùng điên dại trong ngôn ngữ thi ca. Viết về bản thân, ông phơi bày cái tốt, cái xấu, khi tỉnh, khi điên… nhưng mọi người vẫn quý mến, thán phục tài năng của ông.

Với thi ca, nó nhập vào trái tim, tâm hồn, định mệnh ông khi điên, lúc tỉnh, khi hoan lạc, lúc khổ đau… Ý thơ, hồn thơ, chất thơ… của Bùi Giáng nếu đề cập không đơn giản qua bài viết, cũng vài trăm trang sách.

Một hình bóng, suốt cả cuộc đời trôi nổi với hệ lụy khổ đau, một nhân tài không bao giờ có được mùa xuân nhưng với tâm hồn thanh thoát, ông không quan tâm mọi người nhìn ông với đầu tóc bù xù, áo quần tả tơi, kỳ quái trên đường phố… mà tự bản thân ông cho mình rong chơi trong cõi ta bà mộng mị với “Ngày Tháng Ngao Du”…

Khi còn sống ở giai đoạn cuối đời, Bùi Giáng bị bỏ quên từ con người đến tác phẩm ở trong nước. Khi ông qua đời, nhiều người “làm văn tế ruồi” như Kim Cương với “nước mắt cá sấu” được báo chí tung hê. Tình đời là vậy! Bùi Giáng bỏ lại bao mối tình đơn phương cô độc để trở về với người vợ năm xưa nơi cố hương, vĩnh viễn bên nhau nơi cõi thiên thu.

Vương Trùng Dương

(1996 – viết thêm khi Bùi Giáng mất 1998)

Lần đầu tiên một cô gái Việt đạt danh hiệu ‘Nhà Thơ Trẻ Quốc Gia’ Mỹ

Lần đầu tiên một cô gái Việt đạt danh hiệu ‘Nhà Thơ Trẻ Quốc Gia’ Mỹ

May 21, 2021 

Trà Nhiên & V.Giang/Người Việt

SACRAMENTO, California (NV) – “Danh hiệu Nhà Thơ Trẻ Quốc Gia là cách mà em kể câu chuyện chính mình, rằng người Việt không hẳn chỉ là người tị nạn mà chúng ta còn luôn ‘vươn lên’ tại đất nước này. Câu chuyện của chúng ta cũng đáng được kể.”

“Nhà Thơ Trẻ Quốc Gia” Alexandra Huỳnh ví Việt Ngữ như những áng thơ. (Hình: Alexandra Huỳnh cung cấp)

Đó là tâm sự của Alexandra Huỳnh, cô gái gốc Việt đầu tiên được trao tặng danh hiệu Nhà Thơ Trẻ Quốc Gia (National Youth Poet Laureate) năm 2021, với phóng viên nhật báo Người Việt vào chiều Thứ Sáu, 21 Tháng Năm.

Tổ chức văn học nghệ thuật và phát triển Urban Word, vốn thành lập chương trình nhà thơ trẻ quốc gia vào năm 2017, cùng với trung tâm Kennedy Center loan báo việc cô Alexandra Huỳnh được chọn để trao danh hiệu Nhà Thơ Trẻ Quốc Gia năm nay. Trong vai trò này, cô sẽ viếng thăm học sinh các trường trung học và sẽ có các buổi hội thơ trên khắp nước Mỹ. Cô Alexandra từng nói rằng một trong những điều cô muốn thực hiện được là phổ biến các kinh nghiệm của chính mình đến những người khác.

Cô Alexandra, 18 tuổi, là người Mỹ gốc Việt, thế hệ thứ nhì, sống tại thành phố Sacramento, thủ phủ tiểu bang California. Cô cũng là tân sinh viên của đại học Stanford University.

Trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại dành cho phóng viên nhật báo Người Việt, cô Alexandra Huỳnh nói rằng đối với cô thơ cũng là một khí cụ để giúp đối phó với các thách đố của đời sống.

“Em tự hào vì em có thể đại diện người Việt trẻ nhận được vinh dự này ở ‘đấu trường’ văn thơ Hoa Kỳ,” cô Alexandra nói.

Cô cũng cho biết thêm: “Tiếng Việt tự nó đã là ngôn ngữ giàu chất thơ.”

“Trong văn hóa Việt Nam, em cảm thấy thể như chúng ta đàm đạo thơ trong đời sống hằng ngày,” cô chia sẻ.

Thể hiện cảm xúc qua những vần thơ là cách cô thi sĩ trẻ Alexandra Huỳnh bộc lộ bản thân. (Hình: Alexandra Huỳnh cung cấp)

Nhà thơ trẻ bộc bạch rằng, cô đã bắt đầu viết lời các bài hát từ khi 7 tuổi, và thực sự ưa thích làm thơ khi vào trung học, nhất là sau khi đã đọc thơ trước công chúng và cảm thấy sức mạnh của chữ nghĩa khi được trình bày.

Ông Aaron Brown, thầy giáo và là cố vấn hội nhà thơ ở trường trung học của cô Alexandra, cho biết một số bài thơ của cô đã làm ông xúc động.

“Thơ của Alexandra không ‘khuôn mẫu’ cũng chẳng ‘xa hoa,’ mà nó đậm khí chất khi được tác giả thể hiện với phong thái bình tĩnh và an nhiên,” ông Brown kể lại.

“Cô bé này có một khả năng độc đáo là chạm đến các ‘sợi dây’ cảm xúc của con người và kết nối chúng lại để tạo thành sự thấu hiểu lay động tâm can,” ông Keith Carmona, giáo viên dạy văn của Alexandra, cho biết.

Cô cũng tiết lộ rằng ông ngoại cô cũng là một nhà thơ.

“Cách nay hai năm, khi em thắng giải nhì trong cuộc thi thơ đầu tiên em tham gia ở trường Mira Loma High School, lúc đó mẹ kể rằng ông ngoại chính là thi sĩ Duy Năng,” cô cười nói.

Cô tự hào vì mình có thể ‘kế thừa’ tố chất thơ văn của ông ngoại, rằng “cứ như thể thơ đã chảy  trong máu vậy,” Alexandra cho biết.

Thơ là cách cô tân sinh viên chuyển hóa cảm xúc của mình. Bao “hỉ, nộ, ái, ố” đều được cô bày tỏ qua những vần thơ.

“Làm thơ là cách em chấp nhận thực tại (reality) và cũng là cách thể hiện một thực tại khác (fantasy) cho bản thân,” cô Alexandra giải thích.

Cô Alexandra Huỳnh (phải) trong lần biểu diễn tại cuộc thi thơ “Sacramento Area Youth Speaks” năm 2019. (Hình: Alexandra Huỳnh cung cấp)

Cô được chọn trong bốn nhà thơ vào chung kết, đại diện cho bốn khu vực, để được trao danh hiệu vốn đã lần đầu tiên được trao cho nhà thơ Amanda Gorman. Gorman được cả thế giới biết đến hồi Tháng Giêng năm nay, sau khi đọc bài thơ của cô tại buổi tuyên thệ nhậm chức của Tổng Thống Joe Biden, và trở thành niềm khích lệ cho cô Alexandra.

Cô Alexandra nói sự kiện cô Gorman được đón nhận nhiệt thành đã thay đổi điều cô nghĩ về những gì một nhà thơ có thể đạt được, giúp cô có những ước mơ lớn hơn.

Cô tốt nghiệp trung học hồi năm ngoái và tạm nghỉ một năm trước khi vào trường đại học khóa mùa Thu tới đây.

Cô Alexandra dự định theo học ngành kỹ sư để học thêm về “sustainability,” hướng đến môi trường xanh, sạch, và tiết kiệm tối đa các tài nguyên.

Những lúc “xa rời” thơ văn thì cô Alexandra thích nướng bánh và làm thiện nguyện. Cô là thành viên của The Farmlink Project, một tổ chức bất vụ lợi cung cấp thực phẩm cho người nghèo từ các nông trại.

Cô cũng đam mê làm thí nghiệm khoa học và hiện là nghiên cứu viên của trường đại học UC Davis.

Thêm vào đó, Alexandra nêu tên Ocean Vương và Diana Khôi Nguyễn là hai nhà thơ trong số những người cô ngưỡng mộ, và cũng bày tỏ hy vọng là sẽ có tác phẩm để được ấn hành và rồi chuyển dịch sang Việt Ngữ, “ngôn ngữ mẹ đẻ” của cô. [qd]

—–

Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com

Chuyện chỉ có ở Việt Nam cộng sản

Chuyện chỉ có ở Việt Nam cộng sản.

Trịnh Đình Thi, Trưởng phòng Tư Pháp 1 huyện thuộc tỉnh Hưng Yên tốt nghiệp Đại Học trước khi tốt nghiêp Trung Học… 6 năm.

Hình trên: Bằng Tốt Nghiệp Đại Học (Cử Nhân Luật) 20/04/1999 của Trịnh Đình Thi.

Hình dưới: Bằng Tốt Nghiệp Trung Học Phổ Thông 01/09/2005 của Trịnh Đình Thi.

“Thần y” Võ Hoàng Yên, lỗi tại ai?

“Thần y” Võ Hoàng Yên, lỗi tại ai?

Bởi  AdminTD

Đoàn Bảo Châu

22-5-2021

Mấy năm trước tôi có stt về “hiện tượng Võ Hoàng Yên” và đã nhận được không ít gạch đá. Khi một đám đông đang trở nên cuồng tín thì tiếng nói thật của một vài cá nhân sẽ chìm nghỉm yếu ớt như đá ném ao bèo.

Tôi viết ở đây không chỉ để nói về Võ Hoàng Yên mà muốn cộng đồng hãy cảnh giác với tất cả những bậc thầy đang khoác những cái áo cao siêu, huyền bí trước công chúng. Một chỉ dấu có thể nhận thấy một người thầy có chân chính hay không là cách ông ta ứng xử với đồng tiền. Với người “đắc đạo” và có năng lực thì đồng tiền ít khi là mục đích.

Người dân thấp cổ bé họng bao giờ cũng là những người thiệt thòi nhất trong một xã hội đầy đạo đức giả, đầy những kẻ khoác trên mình một cái áo lộng lẫy hay nghiêm cẩn của cán bộ, thầy cúng, sư sãi.

Trước hết, hãy nói về sự phi lý trong phương pháp của Võ Hoàng Yên. Ai đã từng tìm hiểu về não bộ con người, về thần kinh học sẽ thấy ngay sự phi lý. Mỗi một chức năng nói, nghe, nhìn, điều khiển cơ bắp, phản xạ có điều kiện đều là một chuỗi liên hệ của mấy chục tỉ, thậm chí toàn bộ cả 90 tỉ tế bào nơ ron. Một người bị câm, điếc, liệt thì có nghĩa cả một mảng não, hay cả tỉ tế bào nơ ron đã chết, hay đường truyền tín hiệu giữa các nơ ron về một chức năng nào đấy đã bị hỏng, vậy tại sao mấy cái véo tai, vặn đầu, vặn cổ lại có sức mạnh thần thánh để là sống lại cả tỉ tế bào đã chết, cả mảng não đã hỏng như vậy?

Chỉ có mấy trường hợp là các diễn viên được sắp đặt cho những clip quảng cáo, hay ồ, à ngọng nghịu để tán thưởng sự hò reo của dám đông với hy vọng làm thế sẽ được thầy chữa trị và tiến triển trong tương lai, hay đơn giản là đau thấy ông bà ông vải khi bị tra tấn thì phải rên lên mà thôi.

Nhưng câu hỏi quan trọng cần đặt ra là tại sao lại có “hiện tượng Võ Hoàng Yên” và khi cả một cộng đồng bị lừa thì trách nhiệm thuộc về ai? Trách nhiệm này thuộc bộ y tế. Khi thấy một hiện tượng như vậy, các vị lãnh đạo ngành y tế phải lập ra một uỷ ban để xác minh tính chân thực của một phương pháp, chỉ khi được kiểm chứng, có giấy phép mới được hành nghề. Nhưng ở Việt Nam, một xã hội khi cán bộ thường làm việc thiếu trách nhiệm, thường chỉ làm việc gì mà có lợi trước mắt hay bị thúc giục bởi sức ép công luận thì mấy cái trò lừa đảo rẻ tiền sẽ có đất để “thăng hoa” thành “thần y”, thành những “cao nhân” rồi mặc sức ăn trên ngồi trốc trên những đồng tiền mà người nghèo chảy máu mắt mới có được.

Người dân luôn phải cảnh giác. Ra đường, lớ ngớ là mất tiền với công an giao thông, vào chốn công quyền là phải có phong bì, vào chùa là có sư sãi kiểu “Ba Vàng” phán bao kiếp trước có lỗi, giờ phải làm lễ để chuộc lại, dính với việc luật pháp là phải chạy chọt đến sức tàn lực kiệt rồi kết quả vẫn chẳng ra sao. Một xã hội luôn rao giảng “do dân, vì dân” nhưng thằng dân là những thằng muôn đời lầm than khốn khổ.

Võ Hoàng Yên chỉ là một cá nhân mọc lên bởi sự vô trách nhiệm của cơ quan chức năng, của lòng tin ngây thơ của những người dân ít học, bởi sự thờ ơ của đa phần người Việt “khôn ngoan”, của cả một hệ thống “báo chí” nửa vời, viết không cần biết tới sự thật cuối cùng là gì, chỉ cần có chương trình lên sóng, có bài in cho ngày mai, cho tuần sau là xong. Trong khi ấy thì tiếng nói của vài người có lương tri trên mạng xã hội thì nhợt nhạt và dễ bị chìm nghỉm bởi cả một đội ngũ DLV đông như quân Nguyên, một đội quân ngu dốt, mất dạy, thô bỉ, rồi cả một đội ngũ cuồng tín của những ông thánh sống sẵn sàng đánh đòn hội đồng những tiếng nói thẳng thắn, trung thực.

Đừng vội tin những gì mà cộng đồng ca ngợi. Hãy đặt lòng tin vào khoa học, hãy tư duy như những nhà khoa học. Cả tin, cuồng tín là việc cá nhân, nhưng việc tuyên truyền những điều giả dối vô tình hay cố ý thì đều là tội ác.

Câu Thần Chú Sống Còn Trong Thời Đại Xả Súng Điên Cuồng Tại Mỹ….

Câu Thần Chú Sống Còn Trong Thời Đại Xả Súng Điên Cuồng Tại Mỹ….

Thanh Thư Chuyển Ngữ

Có một câu thần chú mới mà các nhân viên FBI đã khuyên tất cả chúng ta phải học thuộc và nên áp dụng trong thời đại này. Thời đại của cao trào xả súng đang diễn ra khắp nơi ở Hoa Kỳ. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một bài viết hữu ích của nữ ký giả Alaa Elassar của đài CNN đang được đăng tải trên liên mạng. Cô đã nêu ra những lời khuyên rất cần thiết cho chúng ta, căn bản dựa trên những video clips huấn luyện và đào tạo nhân viên của FBI.

Có ba chiến thuật bạn có thể sử dụng để giữ an toàn cho bản thân và những người khác trong một cuộc tấn công bằng súng đang xảy ra. Đó là “Chạy, Ẩn núp, và Đánh lại.”

Hãy giả dụ như: Bạn đang đi mua sắm với bạn bè trong một trung tâm thương mại. Hoặc đang vào một tiệm tạp hóa nhỏ mua cái gì đó cho bữa ăn tối. Thình lình, bạn nghe thấy tiếng súng.

Bạn phải làm gì?

Đó là một thực thể mà nhiều người trong chúng ta hiện nay phải đối đầu để chấp nhận, khi hàng loạt những vụ xả súng đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Các chuyên gia cho rằng ấy là điều bạn cần lưu ý xem xét.

Trên thực tế, FBI đã đặt ra một câu thần chú để giúp mọi người ghi nhớ phải làm trong trường hợp một tình huống xả súng đang xảy ra là: “Chạy. Ẩn núp. Đánh lại.” (Các em học sinh được dạy một bài học khác hơn.). Trong thời đại của những tay súng đang hoạt động một cách tích cực, câu thần chú cũng tương tự như những lời chỉ dẫn quan trọng mà các nhân viên cứu hỏa đã được dạy trong nhiều thập kỷ, “dừng lại ngay, nằm xuống và lăn”.

“Bạn nên chuẩn bị cho những khoảnh khắc khó khăn và nguy hiểm như phải làm gì trong cơn lốc xoáy hoặc hỏa hoạn, vì vậy bạn cần chuẩn bị sẵn sàng cho một tình huống xả súng đang diễn ra”, Cảnh sát trưởng Michael Bouchard của Oakland County, Michigan, nói với đài CNN. “Bạn cần phải có một chiến lược để thoát, một kế hoạch.”

Chạy

Điều thứ hai khi bạn nghe thấy tiếng súng, chạy. “Đứng chết cứng tại chỗ là điều tồi tệ nhất bạn có thể mắc phải. Vài giây cũng rất quan trọng”, Jeff Butler, cựu sĩ quan Navy SEAL và CIA, đã nói với CNN. “Điều đầu tiên là chạy. Đừng nằm trốn một chỗ, nếu có một lối ra khả thi gần đó giúp bạn an toàn thoát khỏi chỗ đó, nên dời đi.” Bất kể vị trí của bạn ở đâu- cho dù đó là rạp chiếu phim, ngân hàng, trường học hay nơi khác – hãy tự làm quen với môi trường xung quanh bạn. Trong sách chỉ dẫn của Bộ An ninh Nội địa (DHS) có nói. “Nếu bạn cảm thấy có điều gì đó không ổn, hãy tin vào bản năng của mình, báo cáo những gì bạn thấy và rời đi ngay lập tức.”

DHS cho biết, luôn ghi chú vị trí của ít nhất hai lối ra. Khi sơ tán, hãy để lại tất cả đồ đạc của bạn. Và nếu bạn đang đi cùng với người cần bạn giúp thoát ra, bạn nghĩ có thể giúp họ, hãy dẫn họ đến lối thoát gần nhất. Nhưng đừng di chuyển bất cứ ai đã bị thương. Khi chạy, hãy để tay bạn lộ rõ (không cầm súng), để nhân viên thực thi pháp luật không nhầm lẫn bạn với một tay súng đang hoạt động và tuân theo mọi chỉ đạo của cảnh sát. DHS nói, Khi bạn đã an toàn, hãy gọi 911 nếu cảnh sát không có mặt tại hiện trường.

Ẩn nấp

Nếu bạn không thể chạy, lựa chọn tốt nhất tiếp theo là ẩn ấp. Các chuyên gia cho biết việc lập kế hoạch nơi bạn sẽ ẩn náu cũng quan trọng như việc lưu ý các lối ra. Luôn tìm kiếm những điểm có thể che chắn và an toàn trong trường hợp nổ súng xảy ra ở khu vực mà bạn không thể thoát được. Jean-Paul Guilbault, Giám đốc điều hành của công ty quản lý an toàn và khẩn cấp Navigate360, nói với CNN: “Sự kiện xả súng thường kéo dài khoảng ba phút và bạn phải biết chính xác mình sẽ làm gì trong những khoảnh khắc đó.” . Điều này bắt đầu bằng việc hình dung chính bạn đang trong tình huống đó, hãy có một kế hoạch thoát hiểm và biết nơi bạn sẽ tìm kiếm sự an toàn nếu bạn không thể sơ tán.”.

Navigate360 chuyên cung cấp những buổi đào tạo và huấn luyện cách phản ứng lại những cuộc xả súng để giúp những thường dân như chúng ta còn sống sót sau các cuộc tấn công. Bouchard cho biết một nơi ẩn nấp tốt là nơi giúp bạn tránh khỏi tầm nhìn, bảo vệ khỏi trúng đạn và đủ rộng rãi để thoát ra và chạy khi có thể. Nếu bạn đang ở trong một không gian kín, hãy tắt đèn, đóng và khóa cửa và đặt một thứ gì đó nặng – chẳng hạn như đồ đạc – chặn cửa, ông nói thêm. Đừng quên tắt tiếng điện thoại và bất kỳ thiết bị điện tử nào khác có thể làm mất đi vị trí ẩn náu của bạn, DHS nói. Hãy bình tĩnh và nếu có thể, hãy gọi 911 để thông báo cho cơ quan chức năng về vị trí của kẻ xả súng. Nếu bạn không thể nói chuyện, chỉ cần giữ điện thoại để điều phối viên có thể nghe thấy những gì đang xảy ra.

Đánh lại

Nếu bạn không thể chạy, và không có nơi nào để trốn, chỉ còn một lựa chọn: Chiến đấu đánh lại tới cùng. Bởi vì đối đầu với một tay súng đang xả xúng là hành động cực kỳ nguy hiểm, các chuyên gia cho rằng nó chỉ nên được thực hiện như một biện pháp cuối cùng. Butler, người giúp thiết kế các kế hoạch phản ứng chống lại kẻ xả súng cho biết: “Nếu bạn cố gắng đánh lại, hãy đợi lúc hắn tải đạn trở lại. “Dùng cái gì làm vũ khí trong tay, một thứ gì đó cứng và nặng mà bạn có thể vung chúng vào hắn.” Butler nói, thực hiện hành động của bạn trong khi người bắn súng đang nạp lại vũ khí sẽ giúp ích cho cả cuộc chiến, Butler nói. Trong cuộc tấn công của bạn, hãy hét tiếng hét to nhất mà bạn có thể và ném những gì bạn có thể ném, Ready, một chương trình của FEMA nói vậy. Hãy cố gắng ứng biến vũ khí bằng cách sử dụng các vật dụng gần đó như ghế, bình cứu hỏa hoặc dao kéo. Hãy dấn thân vào cuộc chiến và sẵn sàng một cuộc chiến sinh tử mà bạn có thể bị thương hay mất mạng. Ready nói. “Chiến đấu không chỉ có nghĩa là đánh lại. Nó có nghĩa là chinh phục,” Guilbault nói. “Khi bạn ở cùng phòng với kẻ bắn súng, hãy gây ồn ào, tạo ra sự hỗn loạn, sử dụng bất cứ thứ gì bạn có để khiến kẻ tấn công bối rối.” Bạn có quyền làm bất cứ điều gì cần thiết để cứu mạng sống của bạn hoặc của những người xung quanh bạn, ngay cả khi điều đó có nghĩa là vũ lực gây chết người, Bouchard nói.

“Tất cả những gì quan trọng trong một tình huống xả súng đang diễn ra là sự sống còn.”

Tài liệu tham khảo

In the age of active shooters, a new mantra has emerged: ‘Run. Hide. Fight.’

– Súng nổ….

– “Chạy, Ẩn núp, và Đánh lại.”. Hình minh hoạ của Leanza Abucayan, CNN.

– Chạy. (Hình minh hoạ của Leanza Abucayan, CNN)

– Ẩn nấp.(Hình minh hoạ của Leanza Abucayan, CNN)

– Đánh lại. (Hình minh hoạ của Leanza Abucayan, CNN)

Cô gái 14 tuổi sinh con, mang vào tiệm ăn, trao cho người lạ rồi bỏ đi

Nếu cô bé 14 tuổi này không muốn giữ và tự đi phá thai. Chúng ta sẽ lên án hay tha thứ? Và nếu không may sinh mạng cô bé có mệnh hệ gì khi phá thai lén lút hay biến chứng từ thai nhi thì ai gánh trách nhiệm? Giữ đứa bé nhưng bỏ mặc sinh mạng người mẹ, thì kẻ nào đạo đức, kẻ nào đáng bị lên án?

***

Cô gái 14 tuổi sinh con, mang vào tiệm ăn, trao cho người lạ rồi bỏ đi

GLEN GARDNER, New Jersey (NV) – Một thiếu nữ 14 tuổi, ngay sau khi sinh đứa con đã bước vào một tiệm ăn ở New Jersey và đưa đứa bé cho một người lạ, trước khi bỏ đi.

Theo bản tin của Newsweek thì vụ này xảy ra lúc khoảng 4 giờ chiều Thứ Tư, 19 Tháng Năm, ở tiệm ăn El Patron Restaurant, tại thành phố Glen Gardner, tiểu bang New Jersey, và toàn bộ sự việc được máy ghi hình an ninh của tiệm thu lại.

Ông Frankie Aguilar, chủ tiệm này, nói với Penn Live rằng thiếu nữ kia bước vào El Patron và “có vẻ tuyệt vọng,” trong lúc ôm đứa nhỏ mới sinh trong tay.

Ông Aguilar cho biết thiếu nữ 14 tuổi này sau đó nhờ các thực khách và nhân viên tiệm giúp đỡ, và người trong tiệm gọi cho sở cảnh sát.

Nhưng trước khi cảnh sát tới nơi, cô gái này trao đứa bé, vẫn còn nguyên cuống rốn chưa cắt, cho một khách hàng là bà Alease Scott và sau đó nhanh chóng rời khỏi tiệm.

Bà Scott, lúc đó đang ăn trong tiệm cùng người bạn trai là Walter Cocca, thì thấy việc này, bà hỏi cô gái 14 tuổi kia là có thể cho bà xem tình trạng sức khỏe đứa bé hay không.

Cô gái ngay lập tức chuyển đứa nhỏ cho bà Scott, và trong lúc bà đang chăm chú xem xét đứa nhỏ, cô này bỏ đi.

Bà Scott báo với cảnh sát là thấy đứa nhỏ bị khó thở, và được giao cho bình dưỡng khí.

Bà kể lại với truyền thông rằng: “Ngay sau khi tôi úp mặt nạ dưỡng khí lên mặt đứa bé, chúng tôi nghe thấy tiếng khóc tuyệt vời nhất trong đời, và đứa bé bắt đầu cựa quậy.”

Sau đó trong ngày, cảnh sát tìm ra cô gái 14 tuổi kia, đưa cô này đến bệnh viện Jersey City Medical Center, sau khi bị tạm giữ ở sở cảnh sát trong thời gian ngắn. Đài truyền hình ABC 7 ở địa phương nói cô này sẽ không bị truy tố về tội gì và đứa bé sẽ được cho nhận làm con nuôi.

Tiểu bang New Jersey cho phép người mẹ không muốn nuôi con sơ sinh, nếu chưa tới 30 ngày, có thể giao đứa bé cho nhân viên bệnh viện, trạm cảnh sát, trạm cứu hỏa hay nhân viên cấp cứu.

– Tiệm El Patron nơi cô gái 14 tuổi để lại đứa con nhỏ. (Hình: Google Map)

– Cảnh sát & nhân viên Cứu thương đưa đứa bé đến bệnh viện để chăm sóc…

https://www.cleveland.com/…/teen-mom-gives-newborn-to…

Tác giả bức Thương Tiếc ở tuổi 90, xế chiều hiu hắt

Tác giả bức Thương Tiếc ở tuổi 90, xế chiều hiu hắt

TUẤN KHANH

Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu *trái (cùng một người hâm mộ ghé thăm)

Trên các trang mạng, những người yêu mến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, yêu mến một kỷ niệm đẹp của VNCH đều nhắc nhau nên sớm ghé thăm ông. Người đã tạo bức tượng Thương Tiếc vang bóng một thời của nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nay đã 90 tuổi, nhớ nhớ, quên quên và như cũng đã quá mệt mỏi với một cõi tạm đầy những nhọc nhằn với ông.

Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu hiện nay, ở tuổi 90, sống tại Gò Vấp, Sài Gòn. (Ảnh Lê Bảo Liên)

Sinh năm 1932 tại Gò Vấp, Sài Gòn, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và sau đó qua động viên, tham gia ngành quân nhu, rồi trở thành Đại Úy, phục vụ Tại Cục Chiến Tranh Chính Trị. Trong cuộc đời mình, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tạo ra vô số tác phẩm, nhưng đắc ý và được nhiều người biết đến nhất, là tượng Thương tiếc, đặt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa, và bức thứ hai là tượng An Dương Vương, đặt ở Ngã Sáu Chợ lớn. Cả hai đều khánh thành vào năm 1966.

Lúc này thì ít ai nhận ra điêu khắc gia lừng danh của miền Nam tự do cũ, do ông ít bạn bè, trí nhớ không còn sắc bén và một phần khác, quá trình đi tù sau 1975, bị đánh đập nên ông bị hư hại thính giác. Gặp ông lúc này ở nhà riêng tại Nguyễn Thượng Hiền, Gò Vấp, nói gần như hét vào tai thì ông mới hiểu hết ý của người đối thoại.

Những người thân, quen biết nói ông vẫn còn bị PTSD với những năm tháng tù đày,  tức Dư chấn tâm thần, dẫn đến trạng thái bất thường, hoảng sợ từ một biến cố hay giai đoạn có sức ám ảnh, nên nếu chạm vào người ông bất ngờ, hoặc nâng dìu mà không báo trước, đều làm ông giật mình, hay hoảng hốt.

Hiện điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu sống cùng sự chăm sóc của các con. Nơi cư ngụ của ông, số 176 Nguyễn Thượng Hiền, phường 1, Gò Vấp, là quán cà phê Tượng Đá, nơi có đặt nhiều tượng mà ông sáng tác lâu nay. Căn phòng nhỏ của ông nằm nép sau quán cà phê, là nơi trú ẩn hết sức cô đơn của ông cùng kỷ niệm. Người quen cũng thấy ông lặng lẽ làm lại mẫu tượng Thương tiếc thu nhỏ, đặt trong phòng, chỉ chia sẻ với ai quen biết. Đây cũng là một trong những điều gây đau đớn tinh thần của ông: Sau 1975, chính quyền mới cho người lập tức đến Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa kéo đổ bức Thương Tiếc, sau đó đập nát để thỏa lòng căm thù. Nhưng vẫn chưa đủ, ít lâu sau đó, theo chỉ điểm của giới nằm vùng, một nhóm bộ đội và băng đỏ cầm AK-47 đến tận nhà ông, đem mẫu tượng ban đầu (khuôn gốc) đập và chửi bới, đánh đập cả ông.

Tượng đài An Dương Vương ở Ngã Sáu Chợ Lớn, Sài Gòn.

Vì tượng đài An Dương Vương ở Ngã sáu Chợ Lớn là tượng một danh nhân của lịch sử Việt nên dù có ghét bỏ tác phẩm của Nguyễn Thanh Thu, chính quyền mới cũng khó lòng thẳng tay hủy hoại. Họ chỉ để nguyên vậy, không tu sửa sau nhiều chục năm với ý đồ rất rõ là đợi có hư hại, là lập tức cho phá, mang đi. Đó cũng là trường hợp của tượng đài Trần Nguyên Hãn trước chợ Bến Thành.

Và vì sau phải vậy? Bởi tượng Trần Nguyên Hãn được coi là thánh tổ của truyền tin quân lực VNCH, còn tượng An Dương Vương là biểu tượng của công binh VNCH.

Nhưng điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu không chỉ là người làm tượng. Được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu đi Phi Luật Tân để tham khảo một nghĩa trang chiến binh mà người Phi rất tự hào, ông Thu quay về và đưa ra đề án xây Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, để thay thế cho nghĩa trang ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, vào đầu những năm 60, thế kỷ 20, đã bắt đầu chật chội.

Điều lạ thường của chuyện bức tượng Thương tiếc, là khi đã có đủ 7 bản ký họa mẫu, phác thảo dự trù cho bức tượng tiêu biểu trước nghĩa trang, hình ảnh của anh hạ sĩ lính nhảy dù Võ Văn Hai ngồi nói chuyện hư không với một người bạn tử trận của mình trong một quán nước, vô tình đập vào mắt của ông Thu, khiến ông ngẫu hứng ghi lại, day dứt với nó..

Khi trình các đề án lên tổng thống Thiệu, ông Thu đã xin lỗi khi bày ra tờ giấy lót trong gói thuốc lá, có vẽ chì vội sơ sài, và nói rằng xin lỗi vì mình vừa mới làm. Ông kể lại là lúc đó, tổng thống Thiệu hỏi ông “Bản nào anh đắc ý nhất?”, ông Thu nói mình bị ám ảnh về hình ảnh ông phác họa từ hạ sĩ Võ Văn Hai. Sau đó ông và tổng thống Thiệu đã cùng chọn cái tên Thương tiếc cho bức tượng này.

Để hoàn thành toàn bộ bản vẽ chính xác cho Thương tiếc, hạ sĩ nhảy dù Võ Văn Hai đã ngồi làm mẫu cho ông Nguyễn Thanh Thu chỉnh đi, sửa lại từng nét một suốt ba tháng. Khởi đầu năm 1966, tượng được thực hiện bằng bê-tông, cốt sắt, đến năm 1969, được thay đổi bằng đồng. Tượng cao 4m, nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao của tượng đài là 8m. Tác phẩm này, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu nhận giải đặc biệt của Tổng tư lệnh tối cao Quân đội VNCH vào tháng 8, năm 1968.

Sau năm 1975, ông Thu trở thành nơi trút hận thù của các cán bộ trại tù cải tạo. Chỉ là người sáng tạo điêu khắc nhưng ông phải trải qua 8 năm tù ở trại Hàm Tân. Ông Thu kể rằng trong đó, ông có 22 tháng nhốt biệt giam và đánh đập tàn nhẫn ngày này qua tháng nọ. Khi ông lên tiếng hỏi vì sao ông bị tra tấn dã man như vậy, thì cán bộ vừa đánh vừa nói “Tội của anh là lưu lại cái tư tưởng, cái hình ảnh, cái tinh thần đó mới là quan trọng. Anh đừng nghĩ đến chuyện trở về nhé”. Những ngày tháng bỏ đói với vô số những trận đòn thù đã làm cho tai ông điếc và cơ thể chỉ là da bọc xương. Cũng có lúc ông đã bị mang ra trường bắn lúc 4 giờ sáng, bịt mắt lại, nhưng không hiểu sao lại có thay đổi vào giờ cuối, cho mang về nhốt lại. Đến ngày ông được thả về, người nhà mô tả là ông phải có người vác đi, vì không tự đi nổi.

Trước đó, khi cán bộ yêu cầu ông viết đơn xin khoan hồng và đổ tội hết cho chế độ cũ chứ ông không tự mình tạo ra những tác phẩm điêu khắc của quân đội. Ông Thu kể rằng lúc đó ông đã đuối sức lắm, chỉ còn thều thào nói được là “Tôi tạo ra, tượng chết thì tôi chết theo”. Một viên cán bộ tức giận nhào tới tát vào hai bên tai của ông. Những cú tát chí mạng khiến máu mũi và máu tai ứa ra, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu điếc gần như toàn phần từ đó.

Ông Nguyễn Thanh Thu có tham gia chương trình đi H.O của sĩ quan bị cải tạo. Ông ở Mỹ gần 10 năm, nhưng loay hoay vì nhớ nghề điêu khắc mà không thể nào nối lại được, sức khỏe thì suy sụp mà quá cô đơn với tâm hồn nghệ thuật của mình, nên sau đó ông xin về lại Việt Nam, sông với con, lặng lẽ tạo ra những bức tượng riêng của mình, ôm giấc mộng đời đến cuối cùng.

Giấc mơ lớn nhất mà điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vẫn giữ, là có ngày phục dựng được bức Thương tiếc. Nhưng giờ ở cái tuổi 90, mệt nhoài với những chặng đường đã qua, ngày càng đau yếu, có lẽ rồi ông cũng sẽ ra đi lặng lẽ với những nỗi niềm rất thiêng liêng, đã có trong đời mình.

Còn chút nhớ về, xin hãy thử đến gặp ông, ở những giờ phút này, tại Gò Vấp, Sài Gòn.

Trò chuyện với tác giả đoạt giải nhất cuộc thi của tuần báo Saigon Nhỏ

Trò chuyện với tác giả đoạt giải nhất cuộc thi của tuần báo Saigon Nhỏ

May 13,  

Tuấn Khanh (ghi)

Tác giả Phạm Thị Mai Hương là một cô giáo, nguyên quán ở Đà Lạt. Cô có giọng nói nhỏ nhẹ và thân thiện. Cuộc trò chuyện với cô, người đoạt giải nhất trong đợt văn tuyển về Ký Ức 30 Tháng Tư “Như Chỉ Mới Hôm Qua,” làm chợt nhớ và thấy lại hình mẫu của người phụ nữ miền Nam cũ…

Tác giả Phạm Thị Mai Hương. (Hình: Nhân vật cung cấp)

Nhà báo Mạnh Kim đã viết về tác phẩm đoạt giải của cô Mai Hương: “Bài viết không chỉ có giá trị như một phóng sự báo chí mà còn thể hiện đậm chất văn học của một tác giả trưởng thành và được giáo dục trong một nền văn hóa miền Nam một thời rực rỡ. Tác giả nói lên tâm sự và cảm xúc cá nhân nhưng cùng lúc tác giả cũng lột tả được tâm trạng của hàng triệu người miền Nam vào những ngày mà không chỉ chính thể VNCH sụp đổ mà theo đó còn là sự tan nát và ly tán của vô số gia đình miền Nam…”

Đúng là lúc này, người Việt thế hệ trẻ cần những bài viết súc tích, hấp dẫn và tràn ngập sự kiện như vậy, để là một bài học giáo khoa về lịch sử hôm qua, để mọi thứ còn lại còn được giữ lại cho thế hệ mai sau.

Cuộc nói chuyện ngắn với cô tại Sài Gòn đã để lại một ấn tượng thật thú vị. Dưới đây là vài trao đổi của chúng tôi với cô.

Tác giả Phạm Thị Mai Hương, trước năm 1975. (Hình: Nhân vật cung cấp)

Phải bước qua mọi thứ, mới thanh thản để ghi lại…

*Tuấn Khanh: Nhiều người đọc đã nói chị viết như một nhà văn chuyên nghiệp, chứ không phải là người viết tham gia một cuộc thi mang tính ngẫu hứng…

-Tôi viết nhiều, nhưng chưa bao giờ xem mình làm việc như một nhà văn (cười). Thật ra tôi ghi chép lại mọi thứ chung quanh mà mình thấy, rồi chia sẻ với bạn bè thân, người nhà… Nói chung là vẫn khép kín. Tôi nghĩ là mình viết như một loại nhật ký, nhưng không riêng mình đọc, mà để cho những người gần mình có thể đọc, hiểu được suy nghĩ của mình.

*Tuấn Khanh: Chị cảm giác như thế nào, khi nghe tin bài viết của mình được xướng danh ở giải nhất?

-Tôi vốn dĩ là một người đã về hưu. Tôi dùng chữ nghĩa để kể lại chuyện quanh mình, chuyện của bạn bè, con cái… Tôi chỉ nghĩ rằng mọi thứ cho người thân đọc làm vui. Ngay cả bài viết mà tôi được báo cho biết mình đoạt giải cũng chỉ là những trang nhật ký viết lại của đời mình. Bạn tôi đọc được và “xúi” tôi gửi thi thử nên tôi cũng làm theo. Cảm giác đến với tôi là vui và bất ngờ, vì tôi cũng không nghĩ là mình có giải. Điều này lại kéo theo những ký ức trở về, nhớ về những điều thật nặng lòng.

Người chạy loạn trong bài viết, chính là cụ thân sinh của tôi, người làm ở Ty Thông Tin Chiêu Hồi ở Đà Lạt. Khi chạy đi, hai cha con để lại phía sau nhiều mất mát: nhà cửa, người thân… Tôi viết xong bài viết này và cất kín, chỉ mình đọc vì sợ ba tôi đọc được thì ông lại buồn. Mãi khi ông cụ mất, tôi mới lấy bài viết ra, đọc lại. Mọi thứ trong đó là có thật, cảm xúc thật.

Bài viết được đánh giá vậy khiến tôi vui lắm, vì tin rằng là mình có thể truyền tải được phần nào những điều đã xảy ra. Tôi xin cảm ơn tất cả mọi người.

*Tuấn Khanh: Như chị nói, chỉ chia sẻ những bài viết của mình với người thân, nhưng lần này vì sao chị lại chọn đúng câu chuyện “Bạc Tóc Tuổi Hai Mươi” để giới thiệu với mọi người?

-Thật ra đây là bài mà bạn tôi đọc và khen hay, nên tôi tựa vào đó mà lấy chút tự tin gửi đi. Còn trước đó, khi đưa ra trong gia đình đọc thì mọi người thấy có vẻ bình thường. Có thể là trong nhà với nhau nên không có gì để khen, hoặc là những ký ức dữ dội như vậy, ai nấy trong nhà đã trải qua nên cũng thấy… thường thôi.

*Tuấn Khanh: Chị ít đưa ra các bài viết – nhật ký của mình là do có áp lực nào không? Chẳng hạn như thời thế, nhạy cảm chính trị…?

-Sau năm 1975, gia đình tôi chọn cách sống lặng lẽ. Thậm chí sống khép kín để không ai dòm ngó. Chồng tôi là sĩ quan VNCH đi học tập về, ông cũng tránh tiếp xúc hoặc mở rộng giao tiếp với xã hội bên ngoài. Tôi rất tôn trọng cách chọn lựa sống như thế của chồng mình, nên cũng chọn yên lặng tương tự vậy. Có lẽ, không ai biết gì về mình là dễ sống hơn chăng (cười). Ngay cả khi có tin là được giải với “Bạc Tóc Tuổi Hai Mươi,” tôi cũng chưa nói gì cho chồng mình biết.

Gia đình của tác giả Mai Hương trước thời chạy loạn. (Hình: Nhân vật cung cấp)

*Tuấn Khanh: Chị viết như vậy đã bao nhiêu năm rồi?

-Tôi viết từ nhỏ, ngay từ khi tiểu học, tôi đã có thói quen viết. Còn nhớ là ngày xưa khi có tạp chí Thằng Bờm, tôi từng gửi bài và được đăng trên đó. Lúc đó tôi đang học Đệ Ngũ, tức lớp Tám bây giờ.

*Tuấn Khanh: Trong câu chuyện kể của chị, mọi thứ thật sống động. Liệu đến giờ này những ký ức đó còn đủ các cảm giác tuyệt vọng, tức giận, đau đớn… hay không?

-Trải qua rất nhiều năm tháng, tôi phải tập cho mình sự buông bỏ. Sống như thiền và bước qua mọi cảm giác, và có như vậy tôi mới thanh thản viết xuống được, chữ nghĩa mới có thể nhẹ nhàng, còn nếu không thì sẽ bị lôi kéo theo nhiều cảm giác lắm.

*Tuấn Khanh: “Bạc Tóc Tuổi Hai Mươi” chỉ là một trong các bài viết của chị, liệu tương lai chị có dự định đưa ra thêm tác phẩm nào khác?

-Tôi cũng còn viết, và hy vọng có lẽ có duyên đưa thêm những tác phẩm với chủ đề khác đến cùng mọi người.

Đời người như cơn gió thoảng…VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC

Đời người như cơn gió thoảng…

VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC

Đây có lẽ lần đầu tiên tôi ý thức rõ ràng và thấm thía ý nghĩa thăm thẳm của sự tiếc nuối hụt hẫng và đau khổ đắng ngắt khi viết và nhẩm đọc 4 chữ: VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC.

Sáng nay tôi bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại và bàng hoàng khi nghe tin thầy Ngữ đã chết. Tôi cầu mong đây chỉ là sự nhầm lẫn dù linh tính biết rằng đây là tin chính xác và chính thức.

Chẳng phải mình tôi bàng hoàng mà những ai quen biết thầy cũng đều ngỡ ngàng và tiếc thương. Tối qua ngày 11/5 khi đang đi dạo ở khu Manhattan, thành phố New York thì thầy bị tên lái xe say rượu tông phải. Có lẽ thầy đã chết ngay sau khi bị xe tông.

Thầy có biết đây là lần cuối cùng thầy di dạo phố? Thầy có biết đây là ngày cuối cùng thầy sống trên trần gian này? Thầy có biết đây là lần cuối cùng thầy cười nói cùng bạn bè, cùng với ai thầy gặp trong ngày hôm qua? Thầy có biết đây là lần cuối cùng thầy ngắm phố hoa lệ New York về đêm? Cái chết đến như kẻ trộm trong đêm. Không ai biết được. Nhưng mình tin chắc rằng sáng qua khi thức dậy thầy đã dâng ngày cho Chúa và nếu có dự lễ thầy đã đón nhận mình máu thánh Chúa như là của ăn đàng… rồi!

Thầy tên là Phê-rô Trần Quốc Ngữ, 29 tuổi, sinh trưởng ở An Giang. Gia đình thầy thuộc xứ đạo Năng Gù, Giáo-phận Long Xuyên. Thầy đến Mỹ vào tháng 8 năm 2017 và ở nhà dự tu của Giáo-phận Metuchen. Đầu năm 2018 thầy bắt đầu chương trình tiền thần học tại chủng viện thánh Vincentê, Latrobe, PA và mùa thu thầy tiếp tục học thần học tại chủng viện Vô Nhiễm Nguyên Tội, South Orange.

Khi mới đến Mỹ lúc còn ở nhà dự tu, thầy có đến dự lễ tại Cộng Đoàn Công Giáo VN, thuộc Giáo-phận Metuchen để ra mắt cộng đoàn. Sau thánh lễ, thầy ngỏ lời chào cộng đoàn và đã chiếm được cảm tình của rất nhiều người với bài giới thiệu về mình và những trải nghiệm của mấy tháng đầu tiên trên đến Mỹ. Người ta thấy ngay sự thân thiện, gần gũi, ăn nói lưu loát, khúc chiết… và óc khôi hài dí dỏm thật dễ thương của thầy. Nên không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều người cảm thấy hụt hẫng và thương tiếc sự ra đi quá bất ngờ khi tuổi đời còn quá trẻ. Nhiều người đã biểu tả cảm xúc chân thành khi chia sẻ rằng chưa bao giờ họ có cảm giác thương tiếc ai như thương tiếc thầy Phê-rô.

Lại một lần nữa tôi suy gẫm Lời Chúa trong sách tiên tri Isaiah:

“Lạy Chúa, con như người thợ dệt,

đang mải dệt đời mình,

bỗng nhiên bị tay Chúa

cắt đứt ngay hàng chỉ.” (Is 38, 12)

Vẫn biết cuộc đời là vô thường. Vẫn biết cuộc đời chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích. Vẫn biết nước sẽ theo nguồn chảy về biển lớn. Vẫn biết có sinh thì có diệt. Nhưng sao không khỏi đau lòng khi thấy một người trẻ bất ngờ ra đi.

Thầy Ngữ cũng đang mải mê dệt đời mình, mải mê vẽ tương lai, không phải tương lai cho riêng mình nhưng là tương lai của Giáo Hội, tương lai hiến dâng cả đời trong ơn gọi tận hiến phục vụ cho cánh đồng lúa mênh mông… mà thiếu thợ gặp. Vì yêu mến mà thầy bỏ cha mẹ, anh chị em, bạn bè, bỏ quê hương đến xứ lạnh để học ngôn ngữ mới, văn hoá mới, nếp sống mới và cả thức ăn không hợp khẩu vị. (Ngay trong lời chia sẻ với cộng đoàn lần đầu tiên sau mấy tháng ở Mỹ thầy đã thú thật là bị sụt mấy ký vì không quen thức ăn Mỹ.) Rồi miệt mài đèn sách, với chữ nghĩa… chỉ vì muốn thành người thợ gặt tốt cho cánh đồng lúa sau này. Đức cha hay khoe mỗi khi có dịp về thầy như là người thông minh và học giỏi. Nhưng nay tất cả mọi ước mơ đó đã khép lại… khi thầy bước qua ngưỡng cửa tử sinh để trở về với Đấng mà thầy tôn thờ từ thơ ấu. Thầy trở về với Thiên Chúa. Vì Ngài là cùng đích mà mọi người chúng ta rồi cũng sẽ phải đến.

Sáng nay sau khi nghe tin thầy mất, một chị đã đăng bức hình do thầy vẽ tặng chị mới đây. Bức tranh ấy thầy vẽ chiếc thuyền buồm mong manh nhỏ bé một mình trên biển cả. Xa xa là ngôi nhà như ngọn hải đăng soi lối cho thuyền không lạc lối. Trên bầu trời xanh cao bao la có những ngôi sao đang lấp lánh… ở dưới là chân trời với màu vàng sáng ánh lên niềm hy vọng.

Con thuyền ấy nay đã cặp bến bình an… thầy đã về yên nghỉ trong vòng tay yêu thương vô ngần của Thiên Chúa ở giữa những vì sao.

Thầy ra đi để lại thương tiếc cho bao nhiêu người. Ông bà cố, anh chị em, các bạn bè, các thầy cùng lớp và cùng địa phận, Đức cha, quý cha đang hướng dẫn thầy trên đường tu đức … và mọi người quen biết và yêu quý thầy. Chắc chắn ông bà cố đang thương khóc thầy và đau khổ khi không thể gần gũi và được nhìn thấy mặt con trong lúc này. Xin Chúa ban cho mọi sự thuận lợi để xác thầy được về với gia đình và nghỉ ngơi nơi trong lòng đất quê nhà.

Lạy Thiên Chúa giầu lòng xót thương xin tha thứ mọi tội lỗi và đón nhận linh hồn Phê-rô vào nước hằng sống. Xin ban ơn an ủi, bình an và lau khô mọi giọt lệ của cha mẹ, anh chị em và mọi người yêu mến và khóc thương thầy.

Vô cùng thương tiếc,

Lm. Hùng Cường, M.M.

https://diometuchen.org/…/a-letter-from-bishop-checchio…

Bé Ký, nữ họa sĩ nổi danh trong hội họa Việt Nam, qua đời

Bé Ký, nữ họa sĩ nổi danh trong hội họa Việt Nam, qua đời

WESTMINSTER, California (NV) – Nữ họa sĩ Bé Ký, một tên tuổi gắn liền với hội họa của người Việt Nam, qua đời vào chiều Thứ Tư, 12 Tháng Năm, tại nhà ở Westminster, hưởng thọ 83 tuổi.

Tin này được ông Hồ Thành Cung, con trai của họa sĩ Bé Ký, xác nhận với nhật báo Người Việt.

Nữ họa sĩ Bé Ký. (Hình: Gia đình cung cấp)

Ông Cung kể: “Mẹ mất vào khoảng 2 giờ đến 6 giờ chiều. Tôi về nhà thì thấy bà mất trong lúc ngủ và đang nắm tay ba. Mẹ tôi không chỉ là một người mẹ bình thường, và còn là một họa sĩ thành công với nhiều tác phẩm đầy tình mẹ con.”

Theo ông, bà sống với cha mẹ nuôi khi vào miền Nam, sau đó tìm lại được cha mẹ ruột sau năm 1975, nhưng họ đã qua đời.

Về phần hội họa, bà tự học vẽ từ nhỏ và được các họa sĩ như Trần Đắc, Trần Văn Thọ và Văn Đen chỉ dạy.

Họa sĩ Bé Ký lúc còn trẻ. (Hình: Gia đình cung cấp)

Từ năm 1957 đến 1975, họa sĩ Bé Ký có đến 16 cuộc triển lãm ở Sài Gòn.

Sau khi đến Hoa Kỳ vào năm 1989, bà cùng chồng là họa sĩ Hồ Thành Đức và gia đình sống ở thành phố Westminster, California. Các tác phẩm của bà cũng được trưng bày tại nhiều cuộc triển lãm tại nhiều tiểu bang, và còn được trưng bày tại Học Viện Smithsonian.

Họa sĩ Nguyên Khai, người cùng thời với họa sĩ Bé Ký, cho hay sự ra đi của nữ họa sĩ Bé Ký là một mất mát lớn đối với hội họa của người Việt Nam vì bà có rất nhiều cống hiến.

Ông nói với nhật báo Người Việt: “Họa sĩ Bé Ký là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên theo con đường hội họa này, và có nét vẽ theo đường lối mới rất đặc biệt. Bà tự học vẽ từ nhỏ và bắt đầu vẽ tranh từ lúc còn rất trẻ.”

Theo ông, những tác phẩm của họa sĩ Bé Ký rất phóng khoáng và đầy tinh thần dân tộc, thể hiện được nhiều mặt của xã hội.

Vài tác phẩm của họa sĩ Bé Ký tại tòa soạn nhật báo Người Việt. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

“Tranh của bà có đề tài rất xã hội vì vẽ người bán hàng ngoài đường, hớt tóc, ráy tai, nên ai cũng thích. Từ lúc trẻ, bà được báo chí Pháp ca tụng rất nhiều,” ông chia sẻ.

Cuối cùng, họa sĩ Nguyên Khai nói: “Sự ra đi của bà là mất mát lớn của hội họa Việt Nam, nhất là đối với phái nữ vì bà là đại diện cho họ trong nhiều chục năm.” (Thiện Lê) [qd]

Xem thêm:

Bé Ký – Nữ Họa Sĩ Của Vỉa Hè Đô Thành – qua đời