Bi kịch của các gia đình ở Mỹ do không tiêm vắc xin COVID-19

Bi kịch của các gia đình ở Mỹ do không tiêm vắc xin COVID-19

Có những quyết định tưởng đơn giản nhưng lại quyết định sự sống và cái chết, nhất là giữa đại dịch COVID-19. Đài CNN của Mỹ kể lại câu chuyện có thật của những người đã trải qua đau thương, mất mát lớn.

Tháng trước, anh Mike Lewis Jr. đang nói chuyện qua điện thoại với bác sĩ thì bỗng thình lình nghe tiếng máy móc kêu “bíp bíp” liên hồi ở đầu dây bên kia.

Cha anh Lewis – tên ông cũng là Mike Lewis – đang điều trị COVID-19 trong một bệnh viện ở thành phố St. Petersburg, bang Florida. Hôm đó, bác sĩ gọi thông báo rằng cha anh vừa bị ngừng tim nhưng được cứu kịp thời và đặt máy thở.

Cuộc gọi còn chưa xong, trái tim ông cụ lại ngừng đập. Anh Lewis kể nghe thấy âm thanh của sự hỗn loạn trước khi bác sĩ vội vã cúp máy. “Cơn hoảng loạn ập đến, lúc đó nước mắt chỉ chực tuôn trào” – anh nhớ lại khoảnh khắc hãi hùng.

Nửa tiếng sau, bác sĩ gọi lại thông báo tin sét đánh: Ông Mike Lewis đã qua đời ở tuổi 58, chỉ 4 ngày sau khi xét nghiệm dương tính COVID-19. Điều đáng nói, lúc sinh thời ông Lewis có lối sống khá lành mạnh, tập thể hình và uống sinh tố protein mỗi ngày trước khi đến chỗ làm.

Anh Lewis, 37 tuổi, giờ nằm trong số hàng ngàn người Mỹ ôm nỗi đau mất người thân chỉ vì quyết định không tiêm ngừa, giữa lúc vắc xin chất đầy kho và miễn phí cho tất cả.

Gia đình Lewis vốn lo ngại vắc xin nhưng cái chết của người cha khiến họ bừng tỉnh. “Chúng tôi phải làm điều cần làm để vượt qua giai đoạn này, bởi vì cha tôi đã không còn nữa” – anh Lewis nói về quyết định đưa cả gia đình đi tiêm ngừa ngay lập tức.

Bi kịch của các gia đình ở Mỹ do không tiêm vắc xin COVID-19 – Ảnh 2.

Anh Mike Lewis nói cái chết của cha đã thay đổi quan điểm của anh về vắc xin – Ảnh: CNN

Hối tiếc vì đã chần chừ

Ở thị trấn Pasadena, bang Maryland, chồng của bà Michele Preissler – ông Darryl, 63 tuổi – dự tính đi tiêm ngừa COVID-19 nhưng còn lo ngại về phản ứng phụ của vắc xin do ông đang dùng thuốc ức chế miễn dịch trị viêm khớp.

Tháng 4 vừa qua, ông Darryl đi dự một đám cưới rồi ngã bệnh một tuần sau đó. Chỉ trong vài ngày ông phải nhập viện, bắt đầu cuộc chiến giành giật sự sống trong gần một tháng trước khi nhắm mắt xuôi tay vào ngày 22-5.

Bà Michele Preissler mô tả khoảng thời gian đó giống như “chơi trò tàu lượn dưới địa ngục”, có những lúc tưởng ông Darryl đã khá hơn, nhưng rồi lại xấu đi tiếp. Lần cuối cùng ông bị đột quỵ không còn cứu vãn, bác sĩ đành phải tháo máy trợ sinh.

Họ chỉ không ngờ rằng lẽ ra ông chỉ sống thêm được 3-5 phút sau khi tháo máy, nhưng ông vẫn thoi thóp suốt gần 24 giờ trong trạng thái bất tỉnh. Trái tim ông cứ lặng lẽ đập.

“Tôi không bao giờ muốn sống lại khoảnh khắc đó. Và tôi không mong ai trải qua điều đó” – bà Michele nói về cuộc chiến với COVID-19 của chồng.

Bà Michele làm việc trong ngành y tế nên đã tiêm ngừa hồi tháng 3, bà hối tiếc vì đã không đặt lịch hẹn cho chồng khi ông quá bận rộn. “Tôi tức điên với bản thân vì đã không làm, nhưng tôi không thay đổi được gì” – bà đau khổ.

Cặp vợ chồng già chuẩn bị kỷ niệm 30 năm ngày cưới cuối năm nay với kế hoạch sẽ đi đây đó trên chiếc xe của gia đình sau khi nghỉ hưu.

“Bình thường của tôi đã mất rồi. Tôi không còn (cuộc sống) bình thường nữa” – bà Michele vừa lật cuốn sổ tang vừa nói trong nước mắt.

Bi kịch của các gia đình ở Mỹ do không tiêm vắc xin COVID-19 – Ảnh 3.

Bà Michele Preissler và người chồng Darryl lúc còn sống – Ảnh: CNN

Lời cảnh báo của một người sống sót

***

Anh Josh Garza, 43 tuổi, lẽ ra nằm số những người Mỹ đầu tiên được tiêm vắc xin COVID-19. Anh bị tiểu đường và cao huyết áp – những bệnh nền thuộc diện ưu tiên tiêm chủng.

Nhưng anh Garza tin rằng cứ tuân theo các biện pháp phòng ngừa là đủ. Anh gạt qua ý tưởng đi tiêm ngừa ngay lập tức: “Tôi không muốn làm chuột bạch. Tôi phản đối”.

Đầu năm nay Garza mắc COVID-19, con virus nhanh chóng tàn phá cơ thể anh. Anh giành giật sự sống suốt 4 tháng trong Bệnh viện Houston Methodist, bang Texas.

Bác sĩ chẩn đoán Garza bị viêm phổi do COVID-19, virus corona gây ra tình trạng viêm nặng khiến tế bào phổi bị tổn thương vĩnh viễn, không có máy thở hay máy oxy cao áp nào giúp được anh.

Trên phim chụp X-quang, phổi của Garza gần như biến mất. Anh chỉ còn cách cái chết vài ngày khi được các bác sĩ ghép hai lá phổi hồi tháng 4 vừa qua.

May mắn vượt qua tử thần, Garza nói giờ đây anh vật lộn với cảm giác tức giận bản thân vì đã không chịu tiêm vắc xin. Ký ức về những tử thi chết do COVID-19 di chuyển ngang qua căn phòng anh nằm cứ không thôi ám ảnh.

“Nếu có thể làm lại từ đầu, tôi sẽ tiêm ngừa. Những gì tôi trải qua là điều hãi hùng nhất trong suốt cuộc đời.

Hãy nghĩ về gia đình bạn. Những gì tôi trải qua cũng là những gì gia đình tôi trải qua. Tôi mong mọi người ít nhất hãy cân nhắc, hãy lắng nghe những gì chúng tôi (bệnh nhân COVID-19) phải trải qua, và hy vọng rằng các bạn không phải trải qua nó” – anh Garza chia sẻ với những ai còn lo ngại vắc xin.

Bi kịch của các gia đình ở Mỹ do không tiêm vắc xin COVID-19 – Ảnh 4.

Anh Garza nói vắc xin có thể đã cứu anh khỏi sự chịu đựng cận kề cái chết – Ảnh: CNN

Làm mọi cách để người dân tiêm ngừa

Bất cứ quốc gia nào cũng có một tỉ lệ dân số nhất định không muốn tiêm ngừa. Mỹ hiện có nguồn cung vắc xin dồi dào đủ cho tất cả người lớn và trẻ vị thành niên, nhưng nhu cầu đã giảm mạnh từ giữa tháng 4-2021.

Từng có lúc nước này tiêm 3,4 triệu liều vắc xin COVID-19/ngày, nhưng nay chỉ còn gần 600.000 liều/ngày, theo số liệu của CDC Mỹ.

Chính quyền các tiểu bang đang dùng mọi biện pháp khuyến khích người dân tiêm chủng, từ xổ số, treo thưởng cho đến nhờ các mục sư, thủ lĩnh cộng đồng tuyên truyền, vận động ở từng địa phương.

Ở bang Florida, mục sư R.B. Holmes Jr. kể nhà thờ của ông đầu tư hẳn một trạm y tế lưu động để mang vắc xin đến từng ngõ ngách. Trong lúc các cha đang giảng đạo, y tá luôn đứng chờ sẵn bên dưới để tiêm cho giáo dân.

“Chúng tôi nói cho giáo dân sự thật, rằng các con chỉ có 2 lựa chọn: tiêm ngừa hoặc chịu rủi ro với COVID-19. Đây không phải là căn bệnh Dân chủ hay Cộng hòa, đây là con virus” – mục sư Holmes kể lại bài giảng của ông.

“Chỉ cần 5 hay 10 người chịu tiêm sau mỗi buổi lễ đã là thành công lớn. Khi đó chúng tôi có thể nói chúng tôi đã cứu được những sinh mạng. Họ giờ đây có thể thăm viếng ông bà, đi xem đá bóng, xem bóng rổ và trở lại nhà thờ” – ông Holmes nói thêm.

HÌNH:

– Anh Josh Garza, 43 tuổi, phải thay cả hai lá phổi mới sống sót qua COVID-19. Anh đã không tiêm vắc xin khi có thể – Ảnh: CNN

– Anh Mike Lewis nói cái chết của cha đã thay đổi quan điểm của anh về vắc xin – Ảnh: CNN

– Bà Michele Preissler và người chồng Darryl lúc còn sống – Ảnh: CNN

– Anh Garza nói vắc xin có thể đã cứu anh khỏi sự chịu đựng cận kề cái chết – Ảnh: CNN

https://edition.cnn.com/…/unvaccinated-covid…/index.html

Người Việt “Cao Quý “- Chu Tất Tiến

Lũ ngợm này chắc chắn xuất xứ từ “con người mới XHCNVN”!

***

Người Việt “Cao Quý ”

Chu Tất Tiến

Khi đặt bút viết những dòng chữ này, Sáu tui không dám để tựa là “Người Việt Xấu Xí,” như nhà văn Bá Dương của Trung Hoa dám viết, vì sợ bị phe ta “đục” tơi tả, như đã từng bị “đục” nhiều lần trước đây, vài kẻ còn dọa giết Sáu tui nữa! Mới đây, một người ghét tui kinh hồn đã xin lễ cầu hồn cho tui “đột ngột qua đời,” rồi người khác phóng lên Facebook, rồi Email, khiến bà con gọi gia đình tui, chia buồn tới tấp.

Thiệt tình, Sáu tui vốn thần tượng hóa Nhà Văn, Nhà Thơ Phùng Quán từ khuya, nhất là những câu thơ để đời của ông: “Yêu ai cứ bảo là yêu. Ghét ai cứ bảo là ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều. Cũng không nói Yêu thành Ghét. Dù ai cầm dao dọa giết. Cũng không nói Ghét thành Yêu…

Tôi muốn làm nhà văn. Đi trọn đời trên con đường chân thật. Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi. Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã. Bút giấy tôi, ai cướp giật đi. Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.”

Vì thế, mà tôi vẫn viết, nhưng thú thật, tôi thua ông họ Phùng nhiều lắm, vì lâu lâu, tôi cũng “né đạn,” tuy khi “viết” không “lách” nhiều, nhưng mà cũng chẳng dám viết huỵch toẹt ra những điều cấm kỵ.

Chẳng hạn như bài này, tôi để tựa đề là “Người Việt Cao Quý,” chứ không dám viết theo kiểu Bá Dương, cũng như không mạnh bạo như một Blogger nữ còn ở Việt Nam, dám chơi trên FaceBook môt bài độc đáo: “Người Việt hèn hạ.” Thiệt đáng phục!

Bà con nghĩ coi, người Việt mình đi đâu cũng tự hào là mình là giống Rồng Tiên, có hơn 4000 năm văn hiến, rồi qua Mỹ, thành công thiệt lẹ, mới chỉ có hơn 40 năm mà danh tiếng lẫy lừng, từ chính trị, đến kinh tế, tài chánh, văn chương, khoa học và cả quân đội nữa.

Có giống dân di cư nào mà mới đến Mỹ chưa được nửa thế kỷ mà quân đội có mấy ông Tướng giữ địa vị rất cao như Việt Nam ta không?

Có mấy dân tộc mới qua Mỹ đã thành Dân Biểu Liên Bang, Tiểu Bang, Nghị Sĩ như chúng ta không? Rồi phi hành gia, khoa học gia, toán học, Tiến Sĩ, Kỹ Sư, Bác Sĩ, Nha Sĩ, Dược Sĩ nhiều như lá mùa Xuân… Những cơ sở thương mại do người Việt làm chủ nhiều như rừng…Nhà hàng Việt bây giờ được Mỹ ưa chuộng hơn món Thái, Trung Hoa… nhiều.

Đặc biệt là có nhạc sĩ thần đồng Evan Lê, mới 4 tuổi đã lừng danh là nhạc sĩ dương cầm cỡ quốc tế. Vậy, nếu có Nổ chút chút là “Người Việt Cao Quý” cũng đáng lắm chứ.

Tuy nhiên, có điều Sáu tui không dám nổ mạnh là mấy năm sau này, tội phạm do người Việt gây nên cũng không ít. Nhà tù bây giờ nghe thấy tiếng Việt ì xèo. Có lẽ đồng hương chúng ta, sau một thời gian định cư tại xứ người, tiến lên quá lẹ, nên trong sinh hoạt mới đẻ ra nhiều cái kỳ cục, nhịn nói không nổi.

Số là, hôm sau Trung Thu, Sáu tui đến Costco để “renew” lại cái thẻ, đang đứng chờ đến lượt mình thì thấy có một cặp vợ chồng Việt lủ khủ khiêng chừng vài chục hộp bánh Trung Thu đến trả! Có lẽ gia đình này mua cả mấy tá bánh về để bán mà bán không hết, nên sau Tết, đem hoàn lại Costco! Trời không phụ kẻ gian, nên người nhân viên lắc đầu, không nhận lại bánh đã quá hạn! Hai vợ chồng tẽn tò đi ra!

Một lần khác, sau Tết ta cả gần tháng, Sáu tui cũng đến đổi đồ (đổi chứ không trả) cái máy nấu ăn, vì quá nhỏ, thì thấy hai ông mang trả các chậu hoa Tết đã héo queo, lá vừa vàng khè, vừa đen thui, cánh hoa thì lắc léo! Có nghĩa là các ông mua hoa về trưng Tết xong thì đem trả, lấy tiền lại, vì chắc chắn khi mua, các ông không thấy lá héo, hoa tàn, mà chỉ thấy nụ hoa tươi nở như thiếu nữ 18!

Chưa thấy ai ngu đến nỗi mà vác hoa tàn về nhà? Thiệt là mắc cở! Lợi dụng sự dễ dãi của Costco mà mua hoa về làm bảnh với bà con rồi xài cho đã, đem trả! Chơi vậy thì chơi với ai?

Điều đáng xấu hổ là thấy tui dòm dòm có vẻ khó chịu với hai nhân vật cao quý kia, bà nhân viên người Mỹ quay qua nói với tui: “Coi vậy, chứ còn đỡ lắm! Có bà mua quần lót (underwear) về xài hai ngày rồi cũng đem trả!” Tui nghe nói vậy, thì rùng mình, chới với, đỏ mặt, cứng họng luôn, không biết chống đỡ sao cho dân mình khi có người mang họ “Keo, Bần” sang nước người Bảo Trợ để trả ơn!

Ở Home Depot cũng vậy, có người mua búa, kìm, mỏ lết về sửa nhà, sửa cống, rồi cũng đem trả, mặc dù xài mấy món đó đến sứt sẹo! Sáu tui từng thấy có ông thợ đem trả gần như mọi món đồ cần thiết cho một vụ sửa nhà, kẽo kẹt trên mấy cái xe “cart”! Mua cho đã rồi đem trả, trong đó, nhất định đã có vài món xài rồi! Sáu tui nghĩ bụng, “Kỳ thiệt ta! Nếu chưa sẵn sàng để sửa nhà, thì đừng mua vội. Nếu mua rồi, mà chưa muốn thực hiện, thì đừng xài dụng cụ của người ta! Nếu lỡ xài rồi thì phải mua, cho dù đó là không cần thiết.

Kinh hãi nhất là việc mua đồ lót, mặc rồi trả lại. Nghĩ tới mà ghê tay! Việc cho trả đồ là một phương pháp quảng cáo của nhà chế tạo cũng như cho cửa hàng, nhưng không vì thế mà lợi dụng để làm lợi cho mình, mà quên cái hại của người ta.

Thiệt ra, những chuyện nhỏ nhặt này cũng chưa làm mất đi tính “Cao quý” của người mình nhiều, mà thời gian gần đây, nhiều y sĩ bị treo bằng vì lạm dụng Medical, có ông bị tù về tội sờ mó bậy bạ, có ông cho thuốc nghiện để lấy tiền “ngoài lề.” Lại có ông nhà giáo bị tù vì tội quay phim lén con trai tại “Rét-Rum.” Mập béo gì mà coi! Kỳ cục thiệt ta!

Chủ tiệm Neo bị tù vì tấn công tình dục khách hàng. Người bán nhà lừa gạt khách hàng, chế thêm tiền “cost” không có xuất xứ, chuyên gia tài chánh bị tù vì biến nhà của người thành nhà của mình. Mới tuần qua, một ông tính đốt nhà hàng xóm bị phú lít bắt bỏ bót! Chưa kể ở trên mạng i-meo, các ông đối lập ở hai đảng Dân Chủ hay Công Hòa, chửi nhau tưng bừng, chửi tục, chửi xéo, chửi oang oang, chửi tàn canh gió lạnh luôn!

(Nói thiệt nhe, các vị cứ tha hồ “chửi-bênh” nhau, nhưng các vụ “chửi – bênh” này sẽ chẳng làm rụng một sợi.., chân lông của Mỹ, hoặc làm cho một ông Mỹ nào khoái chí mà thay đổi chính sách với Việt Nam. Người Mỹ có chính sách của họ: “American First!” “Nothing else!”)

Ôi chao! Người mình nhiều “nhân tài” mà cũng có nhiều “nhân tai.” Chớ chi những “lời hay, ý đẹp” mà người mình đã từng nghe nhiều thập niên qua được áp dụng, sao cho toàn thể cộng đồng mình mỗi ngày mỗi vững mạnh.

Chớ chi cuốn truyện “Tâm hồn Cao Thượng” đã được Hà Mai Anh dịch ra tiếng Việt thấm nhuần vào mọi tâm hồn Việt Nam hải ngoại, để chúng ta lúc nào cũng hãnh diện là “con Rồng, cháu Tiên” thiệt chứ không phải “con Rùa, cháu Ếch,” cứ nổ oang oang, rỗng tuyếch làm mất mặt những “nhân tài” Việt thứ thiệt trên toàn thế giới.

– Bên ngoài một tiệm Costco ở Alhambra, Nam California. (Getty Images)

May be an image of standing

Tưởng Nhớ Một Vị Danh Sư Giáo Sư Y Khoa Phạm Biểu Tâm 20/07/2017

Tìm Lại Thời Gian Đã Mất: Tưởng Nhớ Một Vị Danh Sư Giáo Sư Y Khoa Phạm Biểu Tâm 20/07/2017

  • Ngô Thế Vinh Đây là bài mới bổ sung cho một bài viết khởi đầu chỉ là hồi tưởng và những kỷ niệm rất riêng tư với Giáo sư Phạm Biểu Tâm nhân dịp lễ tưởng niệm 100 năm ngày sinh của một vị danh sư đã để lại những dấu ấn lâu dài trong Ngành Y của Việt Nam từ thế kỷ trước.nhnh

Hình 1: Giáo sư Phạm Biểu Tâm tại Bệnh viện Bình Dân (1960), mỗi buổi sáng cùng các nội trú và sinh viên đi thăm trại bệnh trước khi vào phòng mổ. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm*]       

ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

      Giáo sư Phạm Biểu Tâm sinh ngày 13 tháng 12 năm 1913 tại Thừa Thiên, Huế; mất ngày 11 tháng 12 năm 1999 tại Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi.

      Vào cuối đời, thầy Tâm cho biết thực sự thầy gốc người Nam Bộ, sinh ra và lớn lên tại miền Trung.  Sau đây là thông tin từ người em ruột Gs Phạm Biểu Tâm, Băng-sĩ Phạm Hữu Nhơn nguyên là một tướng lãnh thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH từ Falls Church, Virginia gửi cho Bông, tức tên gọi ở nhà của Phạm Biểu Trung, trưởng nam của thầy Tâm:

      “Bông thân mến, Cha cháu sinh ngày 13/12/1913. Quê quán làng Nam Trung, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình khoa bảng. Cụ cố là Tổng binh Phạm Tấn, gốc miền Nam, quê quán làng Long Phú (Bến Lức, Gò Công), tỉnh Gia Định. Được vua Gia Long vời ra làm quan ngoài Bắc Hà (Ninh Bình và Nam Định). Cụ nội là Phạm Năng Tuần, tước hiệu Hàn Lâm Viên Đại Phu. Cụ khai khẩn và thành lập làng Nam Trung, tỉnh Thừa Thiên cho các quan gốc miền Nam ra Trung. Cụ thân sinh là Phạm Hữu Văn, thi đậu Tiến sĩ khoa Quí Sửu 1913. Làm quan tới chức Bố Chánh tỉnh Thanh Hóa, được thăng Thượng Thư Trị Sứ khi đã về hưu.”

      Giáo sư Phạm Biểu Tâm học tiểu học tại Huế, trung học phổ thông tại Vinh, rồi trường Quốc Học Huế, và trường Bưởi Hà Nội.

      Suốt thời tuổi trẻ, Giáo sư Phạm Biểu Tâm đã là một hướng đạo sinh, rất hoạt động trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng của đất nước. Ông gia nhập tráng đoàn Lam Sơn của Hoàng Đạo Thúy, từ những năm 1930 từng tham dự khóa huấn luyện Tráng tại Bạch Mã, Huế. Có thể nói suốt cuộc đời, ông vẫn gắn bó với phong trào hướng đạo Việt Nam và vẫn cứ mãi là một tráng sinh lên đường. Không chỉ là nội trú lâu năm nhất ở Bệnh viện Phủ Doãn, theo Gs Trần Ngọc Ninh: “Anh Tâm còn là Chủ tịch Hội Sinh viên Y khoa 1942, là cầu thủ Đội Bóng Rổ của Tổng Hội Sinh viên, đang là tuyển thủ hữu danh của Hội Thuyền Buồm Việt Nam,” (1)

      Năm 1932, thầy Tâm theo học Trường Y Khoa Hà Nội, sau Bác sĩ Tôn Thất Tùng một năm. Sau khi tốt nghiệp y khoa, vẫn tiếp tục tình nguyện ở lại làm Nội Trú Bệnh Viện thêm 8 năm. Mãi tới năm 1947 mới trình luận án Tiến Sĩ Y Khoa với đề tài mang tính văn hoá: “Introduction de la Médecine Occidentale en Extrême-Orient / Sự Du Nhập của Y học Tây Phương sang Viễn Đông”.

       Nói về đời sống gia đình, Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm đã kết hôn với Bà Công Tằng Tôn Nữ Tuyết Lê vào năm 1944, nguyên là nữ sinh trường Đồng Khánh rất cấp tiến. Thầy Cô có năm người con, ba trai hai gái theo thứ tự: Phạm Biểu Trung, Phạm Biểu Chí, Phạm Biểu Kim Hoàn, Phạm Biểu Kim Liên và Phạm Biểu Tình nhưng tên gọi ở nhà thì chỉ là tên các vật liệu trong phòng mổ: Bông, Gạc, Băng, Kim, Chỉ. Thầy cô còn có thêm một dưỡng nữ Trần Thị Hồng. 

Hình 2a,b: Thầy Cô Phạm Biểu Tâm tại căn nhà đường Ngô Thời Nhiệm (1970); và 5 người con với tên gọi ở nhà: Bông, Gạc, Băng, Kim, Chỉ. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]

      Năm 1948, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm trúng tuyển kỳ thi Thạc Sĩ Y Khoa [Professeur Agrégé des Universités] tại Paris, đồng thời với Giáo sư Trần Quang Đệ cũng là một bác sĩ phẫu thuật lừng danh tại Bệnh viện Chợ Rẫy sau này. Trở về nước, thầy Tâm tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Y Khoa Hà Nội kiêm Giám Đốc Bệnh Viện Yersin hay còn gọi là Nhà Thương Phủ Doãn cho đến ngày ký kết Hiệp định Genève 1954 phân đôi đất nước.  

Hình 3: Gs Phạm Biểu Tâm (trái) và Bs chuyên khoa Ung thư Nguyễn Xuân Chữ đi dự Tuần lễ Ung Thư / Semaine Du Cancer (1950) tại Pháp, phía sau là tấm poster tiếng Việt với slogan: Ung thư càng để lâu bao nhiêu càng kém hy vọng khỏi bấy nhiêu. Hãy đến khám tại Cơ quan Trung ương Việt Nam Trừ Ung thư tại Bệnh Viện Yersin Hà Nội. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]    

Hình 4: Buổi trình luận án tại Đại học Y Khoa Hà Nội (1952) của Bs tân khoa Nguyễn Tấn Hồng, với Giáo sư Phạm Biểu Tâm trong Hội đồng Giám khảo. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]  

      Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, cũng khởi đầu ngành Quân Y Việt Nam 1951, Gs Phạm Biểu Tâm có thời gian đảm trách chức vụ Phó Giám Đốc Trường Quân Y với cấp bậc Trung Tá.

      Năm 1954, Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm đã cùng gia đình di cư vào Nam, được đề cử làm Giám Đốc Bệnh Viện Bình Dân mới xây cất xong trên đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, đồng thời cũng là Trưởng Khu Ngoại Khoa tại bệnh Viện này. Đa số nhân viên y tế từ nhà thương Phủ Doãn di cư vào Nam đều trở lại làm việc tại bệnh viện Bình Dân. Đây cũng là một bệnh viện giảng huấn trực thuộc trường Đại Học Y Nha Dược duy nhất của Miền Nam Việt Nam thời bấy giờ. 

      Khi Đại Học Hỗn Hợp Pháp Việt được người Pháp trao trả lại cho Việt Nam [11.05.1955], Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm được đề cử làm Khoa Trưởng, và là vị Khoa Trưởng đầu tiên của Trường Đại Học Y Dược Sài Gòn [Faculté Mixte de Médecine et Pharmacie].

 Hình 5: Giáo sư Phạm Biểu Tâm Khoa Trưởng Y Khoa Sài Gòn (trái) và Linh Mục Cao Văn Luận Viện Trưởng sáng lập của Viện Đại Học Huế từ 1957, đi dự một Hội nghị Quốc tế về Giáo Dục. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]   

Hình 6: Hội Đồng Khoa, với một số giáo sư trong Ban Giảng Huấn Đại Học Y Khoa Sài Gòn: từ trái, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Trịnh Văn Tuất, Gs Trần Vỹ, Gs Caubet, Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Huard, Gs Trần Đình Đệ, Gs Nguyễn Đình Cát, Gs Nguyễn Hữu, Gs Ngô Gia Hy. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]  

Hình 7: Sau buổi trình luận án của 2 Bs tân khoa: Nguyễn Khắc Minh, Đào Hữu Anh tại Đại học Y Khoa Sài Gòn (1960); với Hội đồng Giám khảo, hàng trước từ trái: Giáo sư Nguyễn Hữu, Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Giáo sư Trần Đình Đệ, Giáo sư Trịnh Văn Tuất. (Bs Nguyễn Khắc Minh, Bs Đào Hữu Anh, cả hai đều trở thành giáo sư của trường Y Khoa sau này). [nguồn: hình tư liệu của Gs Nguyễn Khắc Minh]

      Năm 1962, Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ / American Medical Association [AMA] đã viện trợ một ngân khoản lớn cho Việt Nam để xây cất một Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa với tiêu chuẩn hiện đại tại đường Hồng Bàng, Chợ Lớn, gồm một Trường Y Khoa [giai đoạn I] và một Bệnh Viện thực tập [giai đoạn II]. Lễ đặt viên đá đầu tiên do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ tọa.

Hình 8a: Lễ đặt viên đá đầu tiên (1962) xây cất Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa tại đường Hồng Bàng, Chợ Lớn; từ trái: Gs Khoa Trưởng Phạm Biểu Tâm, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Gs Nguyễn Quang Trình, Gs Lê Văn Thới; đứng phía sau là Đại sứ Mỹ Frederick E. Nolting, Jr.   

Hình 8b: Lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa tại đường Hồng Bàng; hàng trước từ trái: Gs Phạm Biểu Tâm, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, Gs Nguyễn Quang Trình, Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn. Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa được khánh thành 3 năm sau 1966. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]

      Sau biến cố 1963, Gs Phạm Biểu Tâm tiếp tục ở lại với Trường Y Khoa cho đến tháng 3 năm 1967, khi tướng Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương đã đơn phương ký sắc lệnh giải nhiệm chức vụ Khoa Trưởng của Gs Phạm Biểu Tâm để thay thế bằng một Uỷ ban 5 người, đây cũng là lần đầu tiên ở miền Nam chính trị can thiệp vào nền tự trị đại học. Từ nhiệm chức Khoa trưởng, thầy Tâm vẫn cứ ẩn nhẫn, tiếp tục công việc của một Giáo sư Giải phẫu, giảng dạy và điều trị mổ xẻ tại Khu Ngoại Khoa B Bệnh viện Bình Dân.

      Cùng lúc với Dự án của Hiệp Hội Y khoa Hoa Kỳ / AMA Project, kết hợp với trường Y khoa Sài Gòn để cải tiến các bộ môn từ khoa học cơ bản tới các khoa lâm sàng như nội khoa, sản phụ khoa, nhi khoa, giải phẫu, gây mê, quang tuyến… với kế hoạch vừa huấn luyện tại chỗ vừa gửi nhân viên giảng huấn sang tu nghiệp tại các Đại học Hoa Kỳ. Đây là giai đoạn thầy Tâm đã bỏ ra rất nhiều công sức để phát triển chương trình đào tạo thêm nhân viên giảng huấn Khoa Giải phẫu cho trường Y khoa.  

           Sự hợp tác giữa giáo sư Henry Bahnson danh tiếng từ Đại học Pittsburgh và Gs Phạm Biểu Tâm tại Bệnh viện Bình Dân được coi là thành công nhất trong số những chương trình được AMA bảo trợ.

Hình 8c,d: Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn hoàn tất 3 năm sau (giai đoạn I), việc xây dựng một Bệnh viện Thực Tập hiện đại (giai đoạn II) phải ngưng vì những biến động chính trị cho tới 1975. [nguồn: internet]

      Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, tên tuổi của một học viên Bs Nghiêm Đạo Đại sau này đã trở thành một giáo sư phẫu thuật lừng danh trong chuyên khoa thay ghép / transplant tuỵ tạng-gan-thận ở Đại học MCP Hahnemann / Drexel, Pittsburgh nhưng anh Đại thì trước sau vẫn không quên ơn thầy. Anh viết: ” Tôi đã thấm nhập những điều dậy dỗ của “lò Bình Dân”. Quả như vậy, sau khi vào ban giảng huấn Đại học Iowa bảy năm, trường Medical College of Pennsylvania / Hahneman / Drexel Pittsburgh hơn hai thập niên, tôi đã cảm nhận được là mình có phước rất lớn được học những tinh túy của các Thầy ở bệnh viện Bình Dân. Các Thầy đã trao cho tôi một hành trang đầy đủ để sử dụng trong suốt cuộc đời đi dậy học.” (2)

Hình 9: Giáo sư Phạm Biểu Tâm tới thăm một Trung Tâm Y Khoa tại Minnesota (1960s), như bước khởi đầu hoà nhập hai hệ  giáo dục Y khoa Pháp và Mỹ. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]

  

Hình 10: Tiếp tân tại tư gia thầy Tâm cho buổi học Hậu Đại học Khoá 1972 từ trái: Bs Steven Reeder, Gs Phạm Biểu Tâm, Văn Kỳ Chương, Nguyễn Hữu Chí, Phan Văn Tường, Gs Anatolio Cruz, Gs Norman Hoover, Gs Đào Đức Hoành, Gs Phan Ngọc Dương, Văn Kỳ Nam, Lê Quang Dũng, Nguyễn Khắc Lân, Nguyễn Tiến Dỵ, Văn Tần, Nguyễn Đỗ Duy. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]     

      Sau biến cố 1975, mặc dù phải sinh hoạt trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, phải sống với bên thắng cuộc chỉ biết chuộng “hồng hơn chuyên.”

Giáo sư Phạm Biểu Tâm vẫn sống hết lòng cho y nghiệp, thương mến chăm sóc bệnh nhân không phân biệt giàu nghèo, hay màu sắc chính trị nào. Thầy Tâm tiếp tục công việc dìu dắt giảng dạy nhiều thế hệ sinh viên y khoa. Như từ bao giờ, thầy Tâm thâm trầm, nhưng cương nghị, làm nhiều và ít nói. Trong nghịch cảnh, thầy không bao giờ biểu lộ sự giận dữ, vẫn nhỏ nhẹ nhưng thâm thuý và sâu sắc, câu nói giản dị của thầy vẫn cứ mãi được truyền tụng trong đám môn sinh: “cố gắng làm việc, lấy chăm sóc bệnh nhân làm nhiệm vụ trước mắt của người thầy thuốc.”

        Vẫn với kinh nghiệm của giới trí thức Hà Nội sau 1954, thuộc chế độ cũ, trước sau họ chỉ là thành phần được “lưu dung – không có dấu nặng” và không hề được tin cậy. Kinh nghiệm sau 1975 mà Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từng trải qua, đó thực sự là một chặng đường đau khổ mà Giáo sư Hộ gọi đó là “những năm ảo vọng.”

      Năm 1984, Giáo sư Phạm Biểu Tâm buộc phải nghỉ hưu ở tuổi 71 sau một cơn tai biến mạch máu não/ stroke với liệt nửa người trái. Không có cơ hội hồi phục, năm 1989 Giáo sư Phạm Biểu Tâm đã phải rời bỏ quê hương yêu dấu, nơi mà Giáo sư đã dâng hiến gần trọn cuộc đời cho người bệnh, cho nền y học Việt Nam, để sang đoàn tụ với các con tại Hoa Kỳ.

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

      Những dòng chữ này được viết cách đây 4 năm nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Gs Phạm Biểu Tâm.

      Đây chỉ là hồi tưởng, ghi lại những kỷ niệm rất riêng tư với Gs Phạm Biểu Tâm – không phải từ trong các giảng đường hay bệnh viện mà là với một thầy Tâm ngoài đời thường. Trong suốt học trình y khoa, tôi chưa từng được là môn sinh gần gũi của Thầy nhưng lại cảm thấy rất thân thiết với Thầy trong các năm học và cả những năm đã rời xa trường Y khoa về sau này. Chỉ đảm nhiệm chức vụ Khoa trưởng 12 năm (1955-1967), nhưng dấu ấn ảnh hưởng của thầy Tâm trên các thế hệ môn sinh thì lâu dài hơn nhiều, kể cả những người chưa được học hay không biết mặt Thầy. (5)

      Chỉ còn 2 ngày nữa là kỷ niệm 100 năm ngày sinh của giáo sư Phạm Biểu Tâm [13/12/1913]. 

      Hôm nay ngày 11 tháng 12, 2013 là ngày giỗ của Thầy, vậy mà cũng đã 14 năm rồi [11/12/1999], và khi thầy Tâm mất, gặp Cô để phân ưu, thì được Cô nhắc là anh Vinh có thể có một bài viết về Thầy. Vậy mà chưa làm được điều ấy thì Cô nay cũng đã mất.

      Tiểu sử giáo sư Phạm Biểu Tâm đã được bạn đồng môn Hà Ngọc Thuần từ Úc Châu tường trình khá đầy đủ – tưởng cũng nên ghi lại là anh Hà Ngọc Thuần đã cùng với anh Nghiêm Sĩ Tuấn từng là hai cây bút chủ lực của báo Y khoa Tình Thương, cùng biên soạn một công trình giá trị “Lịch Sử Y Khoa” với bút hiệu chung Hà Hợp Nghiêm, đăng từng kỳ trên Tình Thương cho tới khi báo đình bản 1967. (3)

      Rất khác với vẻ uy nghi cao lớn của Gs Trần Quang Đệ, cũng là một nhà phẫu thuật lừng danh khác của Việt Nam, cùng trúng tuyển kỳ thi Thạc sĩ Y khoa tại Paris năm 1948, thầy Tâm có dáng nhỏ nhắn của một thư sinh, vẻ nhanh nhẹn của một tráng sinh, nét mặt thầy không đẹp nhưng ngời thông minh và có thể lột tả – theo ngôn từ của bạn đồng môn Đường Thiện Đồng thì “thầy có những nét của một quý tướng.”

      Trước khi bước vào trường Y khoa, đã được biết tiếng về tài năng và đức độ của Gs Phạm Biểu Tâm, được nghe nhiều giai thoại về Thầy ngoài đời thường. Thầy là một trong những tráng sinh đầu tiên của ngành Hướng đạo Việt Nam từ những năm 1930 như biểu tượng của một thế hệ dấn thân. Tuy không là cầu thủ nhưng Thầy lại rất hâm mộ môn bóng đá; bạn bè trong Đại học xá Minh Mạng kể lại, Thầy thường có mặt nơi khán đài bình dân trong sân banh Tao Đàn, như mọi người Thầy cũng tung nón hò hét sôi nổi để ủng hộ cho đội banh nhà.

      Đến khi được gặp, thì thấy thầy Tâm là một con người rất giản dị, tạo ngay được cảm giác gần gũi và tin cậy với người đối diện nhưng vẫn luôn có đó một khoảng cách dành cho sự kính trọng. Kỷ niệm của người viết với thầy Tâm như là những khúc phim đứt đoạn.

      Từ 1963 tới 1967 là một giai đoạn cực kỳ xáo trộn ở miền Nam với liên tiếp những cuộc biểu tình xuống đường và bãi khóa của sinh viên mà phân khoa đầu não là Y khoa, lúc ấy vẫn còn tọa lạc nơi ngôi trường cũ 28 Trần Quý Cáp, Sài Gòn. Ở cương vị Khoa trưởng lúc đó thật khó khăn: thầy Tâm vừa phải duy trì sinh hoạt bình thường trong giảng đường và các bệnh viện mà vẫn tôn trọng tinh thần “tự trị đại học.”  Thầy luôn luôn bao dung chấp nhận đối thoại và cũng do lòng kính trọng Thầy, các nhóm sinh viên y khoa tranh đấu lúc đó đã hành xử có trách nhiệm, trừ số rất ít cộng sản nằm vùng thì manh động theo chỉ thị của Thành ủy.  Tình trạng thăng trầm của trường Y khoa trong cơn lốc chính trị với cả đổ máu ám sát tiếp tục kéo dài cho tới tháng Tư 1975.

Hình 11: Gs Phạm Biểu Tâm nói chuyện với SVYK trong một giảng đường 28 Trần Quý Cáp, Sàigòn sau vụ Thầy bị bắt trước biến cố 1963.                  [nguồn: Life Magazine]

       Khi tờ báo Sinh viên Y khoa Tình Thương ra đời đầu năm 1964, ở cương vị khoa trưởng, Gs Phạm Biểu Tâm tỏ ra tâm đắc với manchette của tờ báo mang tên “Tình Thương” mà thầy cho rằng ý nghĩa rất phù hợp với chức năng của những người Áo Trắng và thầy có viết một bài éditorial trên Tình Thương để giới thiệu tờ báo. Không nhiều biểu lộ nhưng chúng tôi hiểu rằng báo Tình Thương luôn luôn được hỗ trợ tinh thần của Gs Khoa Trưởng. Tình Thương không chỉ là tờ báo của những cây bút sinh viên mà khá thường xuyên còn có bài viết của các giáo sư y khoa như Trần Ngọc Ninh, Trần Văn Bảng, Nguyễn Đình Cát, Ngô Gia Hy và Vũ Thị Thoa…

Hình 12: Bìa Nguyệt san Tình Thương của Sinh Viên Y Khoa, Số 1 ra mắt tháng 01.1964, và bị đình bản cuối 1967 với 30 số báo. [nguồn: tư liệu Trần Hoài Thư; Thư Quán Bản Thảo]

      Sinh viên Y khoa tới ngày tốt nghiệp ra trường, dân y hay quân y thì đều phục vụ trong quân đội, với các binh chủng chọn lựa hay được chỉ định. Là những bác sĩ trong thời chiến nên trước sau đã có một số đồng nghiệp hy sinh như các anh Đoàn Mạnh Hoạch, Trương Bá Hân, Đỗ Vinh, Trần Ngọc Minh, Phạm Bá Lương, Nguyễn Văn Nhứt, Trần Thái, Lê Hữu Sanh, Nghiêm Sĩ Tuấn, Phạm Đình Bách… chưa kể một số bị chết trong các trại tù cải tạo từ Nam ra Bắc, hay trên đường vượt biên sau này.

      Riêng những người chết hay mất tích khi vượt trại tù, ít nhất có hai bạn mà tôi quen biết: bác sĩ Nguyễn Hữu Ân Nha Kỹ Thuật cũng là dân Đại học xá Minh Mạng, cùng với bác sĩ Vũ Văn Quynh binh chủng Nhảy Dù là anh ruột của bác sĩ Vũ Văn Dzi hiện ở Oklahoma.  

      Rất riêng tư, tôi không thể không nhắc tới một Trần Ngọc Minh, anh sống khá trầm lặng những năm sinh viên trong Đại học xá  Minh Mạng, không những cùng dãy 7 mà còn ở ngay cạnh phòng tôi trong nhiều năm. Ra trường anh là một y sĩ Thủy quân Lục chiến, anh đã hy sinh trong một trận đánh khốc liệt tại thung lũng Việt An, tỉnh Quảng Tín 1965. Ít năm sau đó, một quân y viện mới trên đường Nguyễn Tri Phương ngay cạnh Trường Quân Y được khánh thành và mang tên anh.

      Xúc động nhất là cái chết của Nghiêm Sĩ Tuấn, mà tôi được sinh hoạt gần gũi với anh trong tòa soạn báo sinh viên Tình Thương. Ra trường, sự kiện Nghiêm Sĩ Tuấn chọn binh chủng Nhảy Dù, theo người bạn thân của anh là Đặng Vũ Vương, nhận định đó là một chọn lựa “thử thách cá nhân”. Anh đã hơn một lần bị thương sau đó vẫn tình nguyện trở lại trận địa và đã hy sinh trên chiến trường Khe Sanh 1968 khi anh đang cấp cứu một đồng đội…

      Do mối quan tâm tới các sắc dân Thượng từ thời làm báo sinh viên, ra trường tôi chọn phục vụ một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt với địa bàn hoạt động chủ yếu là vùng Tây nguyên; cũng trong khoảng thời gian này tôi có thêm chất liệu sống để hoàn tất tác phẩm Vòng Đai Xanh. Mỗi khi có dịp về Sài Gòn, tôi đều tìm cách đến thăm thầy Phạm Biểu Tâm. Trường Y khoa thì nay đã di chuyển sang một cơ sở mới có tên là Trung Tâm Giáo dục Y khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng để thấy rằng, tuy ở Sài Gòn nhưng Thầy luôn theo dõi và biết khá rõ cuộc sống quân ngũ của những học trò của Thầy ra sao.

      Sau 1975, trừ một số ít đã được di tản trước đó, số bác sĩ còn ở lại trước sau đều bị tập trung vào các trại tù cải tạo. Từng hoàn cảnh cá nhân tuy có khác nhau nhưng tất cả hầu như đồng một cảnh ngộ: bị giam giữ trong đói khát, với lao động khổ sai và học tập tẩy não. Những bao gạo in nhãn “Đại Mễ” đầy mối mọt viện trợ của Trung Quốc được đưa vào nuôi tù cải tạo trong giai đoạn này. Không khác với các trang sách viết của Solzhenitsyn về Gulag Archipelago nhưng là Made in Vietnam, tinh vi hơn với phần học thêm được cái ác từ Trung Quốc.

      Cũng thật trớ trêu, trại giam đầu tiên của tôi lại là Suối Máu, nơi từng là trung tâm huấn luyện của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, một đơn vị mà tôi đã từng phục vụ. Như một chính sách ập khuôn, không giam giữ lâu ở một nơi, cứ sau một thời gian, các tù nhân lạri bị tách ra, di chuyển đi các trại khác. Từ Suối Máu, tôi lần lượt trải qua các trại Trảng Lớn Tây Ninh, Đồng Ban và trại cuối cùng là Phước Long Bù Gia Mập. Một số khác thì bị đưa ta Bắc, sau này được biết là điều kiện tù đày khắc nghiệt hơn rất nhiều.

Hình 13: Bài thơ với thủ bút của Gs Phạm Biểu Tâm tặng Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (1975), Giải Khôi nguyên La Mã, người thiết kế Dinh Độc Lập và Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa (1962) trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. [nguồn: hình tư liệu gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]

      Ra tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã thật sự hoàn toàn đổi khác. Ngôi trường cũ 28 Trần Quý Cáp góc đường Lê Quý Đôn rợp bóng cây xanh thì nay biến thành khu triển lãm “Tội ác Mỹ Ngụy”, không phải chỉ có trưng bày vũ khí súng đạn giết người, chuồng cọp với đủ dụng cụ tra tấn mà còn có cả sách báo nọc độc (sic) tàn dư văn hóa của “chủ nghĩa thực dân mới” trong đó có cuốn Vòng Đai Xanh.

Hình 14: Trường Đại học Y khoa cũ, 28 Trần Quý Cáp Sài Gòn, nơi từng đào tạo bao thế hệ bác sĩ, sau 1975 biến thành khu triển lãm “Tội ác Mỹ Nguỵ” [nguồn: internet]

      Một hôm, tình cờ thấy Thầy Tâm đang đi bộ rảo bước trên khúc đường Trương  Minh Giảng gần Tòa Tổng Giám Mục nơi góc đường Phan Đình Phùng. Dừng chiếc xe đạp cũ kỹ bên lề đường, tôi chạy tới chào Thầy. Thầy trò gặp nhau không nói gì nhiều nhưng tôi thì đọc được những xúc cảm trong ánh mắt của Thầy. Rất ngắn ngủi khi chia tay Thầy chỉ nhắc tôi hai điều: Vinh nên đi chụp một hình phổi và ra ngoài rồi cũng ráng ăn thêm một chút thịt. Đôi điều dặn dò ấy chứng tỏ Thầy Tâm biết rất rõ cảnh sống của các học trò Thầy trong trại tù cải tạo.

      Khoảng đầu năm 1981, mấy ngày trước Tết Tân Dậu thầy trò còn ở lại có buổi họp mặt tất niên, bao gồm nhiều khóa, đông nhất là Y Khoa 68. Có được hai giáo sư Hoàng Tiến Bảo và Phạm Biểu Tâm tới dự. Tâm trạng của mọi người ngổn ngang lúc đó nên “vui là vui gượng kẻo là”. Thầy Tâm thì không uống rượu nhưng lại có mang rượu tới để chung vui. Thầy giơ cao chai rượu trước mặt các học trò và nói đại ý: “Lần này thì các anh thực sự yên tâm, đây không phải là rượu giả vì là chai rượu lễ của một Cha mới biếu tôi.” Trước sau, Thầy Tâm vẫn có một lối nói chuyện gián tiếp với “ý tại ngôn  ngoại” như vậy. Không ai là không hiểu ý Thầy, muốn nói về một “thời kỳ giả dối” mà cả miền Nam đang phải trải qua.

      Sau biến cố 1975, thầy Tâm tuy vẫn có được sự kính trọng và vị nể của chế độ mới, vì đức độ tài năng và nhân cách đặc biệt của Thầy. Thầy thì cứ như một nhà nông biết là thời tiết không thuận lợi, nhưng vẫn cứ cắm cúi vun xới thửa đất để cấy trồng. Trước sau, chưa bao giờ Thầy có phòng mạch tư, cuộc sống của Thầy rất thanh bạch. Hàng ngày toàn thời gian Thầy tới nhà thương Bình Dân khám bệnh, mổ xẻ và hết lòng chăm sóc người bệnh cùng với công việc giảng dậy cho các thế hệ môn sinh. Chế độ mới cần tới uy tín Thầy nhưng họ vẫn không bao giờ tin nơi Thầy. Bằng cớ là căn nhà của thầy Tâm trên đường Ngô Thời Nhiệm ít nhất đã hai lần bị công an thành phố xông vào lục xét. Và cứ sau một lần như vậy, không phát hiện được gì thì Thành Ủy đã lại đứng ra xin lỗi coi đó chỉ là hành động sai trái của thuộc cấp. Sự giải thích ấy thật ra chỉ là hai bản mặt của chế độ.

      Tới năm 1984, đã ngoài tuổi 70, sau hơn 40 năm cầm dao mổ, sống tận tụy với người bệnh và các thế hệ môn sinh, thầy Tâm đột ngột phải nghỉ hưu vì một cơn tai biến mạch máu não. Năm ấy tôi cũng đã qua Mỹ, đoàn tụ với gia đình xa cách đã tám năm. Vừa chữa bệnh lao phổi vừa chuẩn bị đi học lại. Như truyền thống tốt đẹp của gia đình y khoa, các bạn bè qua trước đã đem tới cho tôi những thùng sách và cả textbooks; các bạn ấy đều đã đậu các kỳ thi, có người trước đó 3-4 năm nhưng vẫn chờ để được nhận vào chương trình nội trú trước khi có thể lấy lại bằng hành nghề.

      Tôi đã phạm một lầm lẫn lúc đó, vội vàng học rồi thi FLEX/ ECFMG tuy đậu nhưng với số điểm không cao, có nghĩa là vào giai đoạn “đóng cửa” ấy rất ít hy vọng được nhận vào bất cứ một chương trình thực tập bệnh viện nào. Con đường trở lại y nghiệp xa vời vợi. Một giáo sư UCLA giới thiệu tôi vào chương trình MPH/ Master of Public Health, đây có thể là một cánh cửa khác, với cấp bằng Y Tế Công Cộng, tôi hy vọng có thể làm việc với WHO / Tổ chức Y tế Thế giới của Liên Hiệp Quốc tại các nước vùng Đông Nam Á hoặc Phi Châu.

      Cũng lúc đó tôi được gặp lại giáo sư Hoàng Tiến Bảo và luôn luôn được thầy Bảo khuyến khích nên trở lại với y nghiệp. Thầy Bảo thì sáng nào cũng từ nhà đi xe bus tới nhà thờ dự lễ trước khi tới USC/ University of Southern California. Mỗi ngày hai thầy trò đều đặn vào Norris Medical Library, trên đường Zonal ngồi học, chờ ngày thi lại; cùng với Thầy đi làm clinical fellow không lương ở Department of Medicine / Hypertension Service với các Gs DeQuattro, Gs Barndt – không gì hơn để có được letters of recommendation của các giáo sư Mỹ, đồng thời làm quen thêm với môi trường bệnh viện bên này. Cho dù trước 1975 thầy Bảo cũng đã du học về Orthopaedics ở Mỹ và tôi thì cũng đã có một thời gian tu nghiệp về Rehab ở San Francisco.

      Hệ thống y khoa Mỹ lạnh lùng và tàn nhẫn với bất cứ một bác sĩ ngoại quốc nào tới Mỹ theo diện di dân muốn hành nghề trở lại, cách đối xử khác xa với thành phần du học nếu sau đó trở về nước. Nhưng cũng có một nhận định khác cho rằng đó là sự tuyển chọn rất công bằng chỉ có ở nước Mỹ. Không là ngoại lệ, cả hai thầy trò phải đi lại từ bước đầu; trong khi đó ai cũng biết Thầy Bảo xứng đáng ở cương vị một giáo sư chỉnh trực giỏi của một trường đại học y khoa. Sau này, có thời gian làm việc tại các bệnh viện New York, tôi cũng đã chứng kiến hoàn cảnh vị giáo sư ObGyn đáng kính người Ba Lan phải đi làm EKG technician, rồi một bác sĩ giải phẫu người Nga thì làm công việc của một respiratory therapist. Họ là thế hệ thứ nhất tới Mỹ với tuổi tác không thể đi học lại từ đầu nên chấp nhận hy sinh lót đường cho thế hệ thứ hai vươn lên.  

      Thầy Bảo thì chỉ chú tâm lo cho học trò nhiều hơn là cho chính Thầy. Thầy đã từng đích thân đi xe bus tới nhà khuyên một học trò của Thầy nên tiếp tục học thay vì bỏ cuộc. Cho dù sắp tới ngày thi cử, thầy Bảo cũng vẫn dẫn một phái đoàn lên Medical Board trên Sacramento tranh đấu cho các học trò của Thầy ra trường sau 1975 được công nhận là tương đương và quyền trở lại y nghiệp.

      Rồi cũng là một kết thúc có hậu. Thầy Bảo thi đậu dễ dàng rồi hoàn tất năm nội trú và có bằng hành nghề trở lại ở California. Riêng tôi thì phải khá vất vả thi lại hai ngày FMGEMS với score phải khá hơn trên 80 để có thể được các chương trình Residency nhận đơn và cho phỏng vấn. Vào tháng Ba 1988 qua ngả National Resident Matching Program/ NRMP, tôi được nhận vào một chương trình nội khoa của các bệnh viện Đại học ở New York. Cũng thầy Bảo là người đầu tiên chia vui với tin tưởng là học trò của Thầy cũng sẽ qua được chặng đường thử thách 3 năm trước mặt. Thầy Hoàng Tiến Bảo thì nay cũng đã mất (20/ 01/ 2008), tôi và cả rất nhiều học trò khác không bao giờ quên ơn và nhớ mãi tấm gương sáng với tấm lòng quảng đại và đầy nhân hậu của Thầy Bảo.

Hình 15: Gs Hoàng Tiến Bảo (phải) tới thăm Gs Phạm Biểu Tâm tại Tustin, Quận Cam Nam California [nguồn: tư liệu TSYS Canada] 

GẶP LẠI THẦY CŨ GIÁO SƯ PHẠM BIỂU TÂM

      Trở lại làm nội trú bệnh viện muộn màng ở cái tuổi 47, từ New York qua bạn đồng môn Đường Thiện Đồng, tôi được tin thầy Phạm Biểu Tâm mới cùng gia đình đi đoàn tụ và sống với các con ở Mỹ 1989 – cũng đã 5 năm kể từ ngày Thầy bị tai biến mạch máu não. Có được địa chỉ của Thầy ở Santa Ana California, tôi viết thơ thăm thầy Tâm và được Thầy hồi âm bằng lá thư viết tay. Nét chữ của Thầy còn rất đẹp. Tôi nhớ là thầy Tâm thuận tay phải và đoán chừng Thầy chỉ bị liệt nửa người bên trái.

[1] Santa Ana, 25-8-1989. Anh Vinh, tôi đã nhận được thiếp bưu điện anh gửi thăm tôi và gia đình. Thấy lại nét chữ lại nhớ lại hình ảnh của anh từ lúc anh còn ở Saigon.  Sau này tôi có dịp trở lại chỗ anh làm việc cũ mà anh không ngờ, đó là Trung tâm Chỉnh Hình ở Bà Huyện Thanh Quan và Hiền Vương vì lúc ấy tôi đã sang giai đoạn vật lý trị liệu đều đều vì bệnh mới của tôi. Các cô tập cho tôi ở đây hỏi tôi có biết BS Vinh không? Tôi đã giả lời “Biết lắm chứ!” Rồi tôi nhớ lại tập sách anh viết và gởi cho xem lúc anh còn ở trong quân đội một thời gian…

      Khoảng 1971-72 tôi có cơ duyên được đi học về Rehabilitation Medicine ở Letterman General Hospital, Presidio San Francisco, nên sau này với chuyên môn ấy, tôi có một thời gian giảng dạy và làm việc ở Trung tâm Y khoa Phục Hồi, 70 Bà Huyện Thanh Quan Sài Gòn. Một số các cô chuyên viên Vật Lý Trị Liệu được tôi đào tạo trong các khóa học này. Và thật không thể ngờ, ở một tình huống quá đặc biệt, trong nghiệp vụ thường nhật, các cô học trò cũ ấy lại được vinh dự chăm sóc một vị danh sư và cũng chính là bậc thầy của “thầy dậy các cô”.

      Hình như Gs Phạm Biểu Tâm và Gs Nguyễn Hữu đã sang thăm đất nước Mỹ rất sớm. Khi nhận được một Postcard tôi gửi từ New York, thầy Tâm viết:  “Anh Vinh làm tôi nhớ lại lần đầu tiên tôi đã đặt chân xuống thành phố New York năm 1951 cách đây non một nửa thế kỷ rồi! Lúc ấy còn là thời kỳ đi xem Empire State Building và Rockefeller Center là lúc thấy cái nào cũng ngẩng cổ lên mà đếm từng lầu. Cũng chả đếm hết được, rồi cảm giác đi “Ascenseur Tàu Suốt” một mạch được luôn mấy từng. Bây giờ đỡ thèm đi trở lại nhiều – thời nào cũng có cái thú của thời ấy.”

Hình 16: Gs Phạm Biểu Tâm và môn sinh Ngô Thế Vinh tại nhà riêng của Thầy, thành phố Tustin, Santa Ana 1990. [photo by Đường Thiện Đồng]

       Qua một năm nội trú, từ New York với mùa đông giá lạnh ngập tuyết bước sang mùa hè nóng ẩm quá độ, nay tôi mới lại có dịp trở về vùng California nắng ấm để thăm thầy Tâm. Trong cảnh tha hương, cảm động và mừng tủi biết bao nhiêu khi được gặp lại Thầy, trên một lục địa mới ở một nơi xa quê nhà hơn nửa vòng trái đất. Được cầm bàn tay ấm áp và mềm mại của thầy Tâm trong bàn tay mình, rồi như từ trong tiềm thức của một hướng đạo sinh ngày nào, tôi siết nhẹ bàn tay trái của Thầy và chỉ có thể nói với Thầy một câu thật bâng khuâng“…đôi bàn tay này Thầy đã cứu sống biết nhiêu người.” “Có gì đâu Vinh.” Thầy xúc động và nghẹn ngào nói thêm một câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Tôi hiểu rằng sau tai biến mạch máu não, người bệnh đều ít nhiều trải qua những biến đổi sâu xa về mọi phương diện ngoài thương tật thể chất, còn có những thay đổi về xúc động tình cảm và tâm lý. Và tôi nhận thấy được sự thay đổi nơi Thầy, từ một con người rất trầm tĩnh nay trở thành dễ bị xúc động về sau này.

 MỘT DỰ ÁN LỊCH SỬ Y KHOA DỞ DANG

      Thầy Tâm còn rất minh mẫn, trí nhớ hầu như nguyên vẹn khi Thầy nhắc về những ngày ở bệnh viện Phủ Doãn Hà Nội cho tới bệnh viện Bình Dân và trường Y Nha Dược ở Sài Gòn. Hồi ức ấy nếu được ghi lại, đây sẽ là những trang tài liệu vô giá nếu không muốn nói là độc nhật vô nhị cho bộ sách Lịch sử Trường Y Khoa Hà Nội – Sài Gòn.

     Tôi mạn phép đề nghị đem tới Thầy một tape recorder thật gọn nhẹ để được Thầy đọc và ghi âm về những điều Thầy còn nhớ về Trường Y Khoa và sau đó tôi hứa sẽ làm công việc transcript. Nhưng tôi được thầy Tâm trấn an ngay: “Vinh đừng lo, công việc ấy đã có anh Nguyễn Đức Nguyên đảm trách và anh ấy sẽ làm chu đáo.” Tôi cảm thấy yên tâm vì được biết anh Nguyên trước đó cũng đã hoàn tất bộ sách rất công phu:Bibliographie des Thèses de Médecine [Tome I: Hanoi 1935-1954, Saigon 1947-1970; Tome II: Saigon 1971-1972, Hue 1967-1972].

      Khi tôi trở lại New York, Thầy còn viết thư để tôi có thể liên lạc với anh Nguyễn Đức Nguyên, lúc ấy anh đang sống ở bang Maryland. 

 [2] Santa Ana 12-8-1990. Anh Vinh, cảm ơn anh đã dành thì giờ và tìm đến thăm tôi và cũng để cho tôi thăm lại anh. Trước hết xin phép trả nợ đã. Chép cho anh địa chỉ anh Nguyên như sau:                                                                      

  1. D. NGUYÊN  c/o Kathy Nguyên                                                             11616 Stewart Lane Apt # 302                                                                     Silver Spring, MD 20904                                                             

Thế là khỏi quên. Mong anh sẽ gặp lại được người làm đúng cái anh mong. Vì anh ấy đã có ý định rồi, anh cũng sẽ yên tâm. Thân ái chào anh, Phạm Biểu Tâm.

Hình 17: thủ bút Gs Phạm Biểu Tâm viết từ Santa Ana 12.08.1990
[nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh]

      Giã từ New York sau 3 năm “cải tạo tự nguyện” – đây là ngôn từ của Vũ Văn Dzi, hành nghề ở Oklahoma VA là bạn đồng môn đã qua Mỹ trước từ 1979.  Tôi trở về California năm 1991, làm việc trong một bệnh viện VA ở Long Beach mà bệnh nhân thì đa số là các cựu chiến binh Mỹ trở về từ Việt Nam. Thời gian này, tôi vẫn giữ liên lạc khá thường xuyên với anh Nguyễn Đức Nguyên, được theo dõi từng bước về công trình của anh Nguyên.

 [3] Silver Spring, Feb 11, 1994.  Anh Vinh thân mến, Anh có nhắc “Lịch sử Trường Y khoa Hà Nội – Sài Gòn” ở trang đề tựa khiến tôi thích thú bội phần; tôi vẫn nhớ anh khuyến khích tôi viết tập sách này từ lâu. Có thể nói phần đầu tới 1945 coi là xong rồi; phần Trường Y về ta tới 1954 và đến khi vào Sài Gòn cho tới khi có Hoa Kỳ giúp chính phủ Ngô Đình Diệm cải tổ giáo dục – nhất là giáo dục y khoa – thì còn thiếu một số tài liệu cần thiết: tôi đã nhờ một cô Mỹ trước làm với USOM Sài Gòn kiếm dùm; tôi cũng viết thư cho mấy người bác sĩ Hoa Kỳ trước kia cộng tác với Chương trình Trung tâm Y khoa để mượn tài liệu và hình ảnh. Archives của State Department rộng mênh mông, phải có chuyên viên mới tìm được. Sau khi AMA ký contract năm 1966-67 thì đã có cuốn sách “Saigon Medical School: An Experiment in International Medical Education” của các ông Ruhe, Singer & Hoover viết khá đầy đủ, chắc anh đã đọc rồi chứ? Sở dĩ lâu là vì chờ tài liệu và hình ảnh để bổ túc và cho sách thêm phần hấp dẫn; nếu chỉ có chữ không thì ít người muốn đọc…

Trong một thư khác anh Nguyên viết:

[4] Silver Spring, Dec 28, 1995. Cảm ơn anh đã hỏi thăm về tập Lịch sử Trường Y. Tài liệu thu thập đầy đủ cho phần đầu (Hà Nội – 1954). Còn phần thứ hai (Sài Gòn – 1975) đang tìm thêm ở Bộ Ngoại Giao / State Department cho đủ viết từ thời kỳ có viện trợ Mỹ. Tiện đây tôi muốn hỏi anh về việc liên quan tới xuất bản sách ở bên này: nhà xuất bản lo từ đầu tới cuối và mình sẽ hưởng tác quyền như thế nào? Nếu mình trình bày bằng “computer” và chỉ cần đưa in thì họ sẽ tính thế nào? Tôi dự tính sang chơi California trước Tết ta, nếu đi được sẽ tin để anh biết và có thể hẹn gặp nhau ở đâu nói chuyện dài về sách vở. Thân,  Nguyễn Đức Nguyên

      Khi được anh Nguyên hỏi về việc xuất bản sách ở hải ngoại, tôi lạc quan nghĩ rằng tác phẩm “Lịch sử Trường Y khoa Hà Nội – Sài Gòn” của anh đã bước vào giai đoạn hoàn tất. Anh Nguyên thì cầu toàn, muốn có một tác phẩm thật ưng ý mới cho ra mắt. Riêng tôi thì lại có mối quan tâm khác anh. Bởi vì anh Nguyên cũng đã bước qua khá xa tuổi “cổ lai hy” và điều gì cũng có thể xảy ra. Tôi nhớ đã có lần bày tỏ với anh Nguyên là chờ một tác phẩm toàn hảo thì không biết đến bao giờ và đề nghị với anh cứ cho xuất bản những gì anh đã hoàn tất, sau đó anh vẫn có thời gian và cơ hội để hoàn chỉnh.

      Nhưng rồi rất tiếc là sau đó tôi mất liên lạc với anh Nguyễn Đức Nguyên, anh đã đổi địa chỉ, số phone và cả email. Được biết Anh Nguyên cũng gần tuổi với Gs Trần Ngọc Ninh (1923), anh cũng bước qua tuổi thượng thọ 90 rồi. Tôi cầu mong công trình của anh sẽ không bị thất lạc, rồi ra tác phẩm sẽ được ra mắt như sự tin cậy và mong đợi của giáo sư Phạm Biểu Tâm từ mấy thập niên của thế kỷ trước. 

Hình 18:  Bibliographie des Thèses de Médecine; Tome I: Hanoi 1935-1954, Saigon 1947-1970; Tome II: Saigon 1971-1972, Hue 1967-1972. [nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh]

 TRĂM NĂM CÒN LẠI CHÚT LÒNG TỪ BI

      Ngày 13 tháng 12 năm 2013, nhân 100 năm ngày sinh của giáo sư Phạm Biểu Tâm 1913-2013, các thế hệ sau nhìn lại để thấy rằng thầy Tâm là người đã dày công xây dựng một trường Đại học Y khoa có truyền thống, cùng với một ban giảng huấn đầy khả năng và thành phần sinh viên được tuyển chọn công bằng và nghiêm khắc, dù trong chiến tranh, ngôi trường ấy vẫn có tiềm lực vươn tới một Trung tâm Y Khoa hiện đại với đẳng cấp thế giới / world-class; vậy mà từ sau 1975 cả một nền tảng tốt đẹp ấy đã bị chế độ cộng sản hoàn toàn làm cho băng hoại.

      Nhớ lại khoảng thời gian được gần gũi với thầy Tâm, với tôi Thầy như một biểu tượng sống động cho lời thề Hippocrates, luôn luôn là tấm gương sáng cho các thế hệ y khoa, không chỉ về tài năng chuyên môn mà cả về đạo đức nghề nghiệp; Thầy vẫn cứ mãi mãi là hình ảnh “sẵn sàng dấn thân” của một Tráng Sinh Bạch Mã Lên Đường.

      Giáo sư Phạm Biểu Tâm mất tại Hoa Kỳ ngày 11 tháng 12 năm 1999 trong sự thương tiếc của gia đình, các môn sinh và toàn thể y giới Việt Nam tại hải ngoại và cả trong nước, thương tiếc một vị danh sư đã để lại những dấu ấn lâu dài trong Ngành Y của Việt Nam từ thế kỷ trước.

      Nhớ Thầy Phạm Biểu Tâm, đọc lại bài thơ thiền của Thầy, để tìm được nguồn an ủi:

Trăm năm trước thì ta chưa có

Trăm năm sau có cũng như không

Cuộc đời sắc sắc không không

Trăm năm còn lại chút lòng từ bi…

NGÔ THẾ VINH
California, 20.07.2017

[Trích Tuyển Tập Chân Dung, sắp xuất bản]

 Tham Khảo:

1/ Trần Ngọc Ninh. Một Hình Bóng, Một Con Người, Giáo Sư Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm. Tập San Y Sĩ, số 201, 05.2014

2/ Nghiêm Đạo Đại. Nhìn Lại Trường Y Khoa Đại Học Sài Gòn với Giáo Sư Phạm Biểu Tâm. Tập San Y Sĩ, số 201, 05.2014

3/ Hà Ngọc Thuần. Tiểu sử Giáo sư Phạm Biểu Tâm [1913-1999].

Tập San Y Sĩ, số 201, 05.2014

4/ Thân Trọng An. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, Biểu Tượng của Y Đạo, Y Học, Y Thuật. Tập San Y Sĩ, số 201, 05.2014

5/ Ngô Thế Vinh. Tìm Lại Thời Gian Đã Mất, Tưởng Nhớ Thầy Phạm Biểu Tâm. Tập San Y Sĩ, số 201, 05.2014

  * Ghi Chú: Một số hình ảnh hiếm quý trong bài viết được trích từ Album gia đình Giáo Sư Phạm Biểu Tâm. Cám ơn Anh Phạm Biểu Trung, đã scan các hình ảnh và gửi cho chúng tôi.   

From: NguyenNThu

Tiếng Việt “Mới XHCN” và Tiếng Việt “Truyền Thống”!!!

 Van Pham is with Viet Dao Pham 

Tiếng Việt “Mới XHCN” và Tiếng Việt “Truyền Thống”!!!

Trần Văn Giang,

Lịch sử đã chứng minh nhiều lần là cộng sản đi tới đâu thì gây giết chóc, băng hoại, phá hủy tàn hại đến đó: từ tâm linh, tình cảm, văn học, tình người, sinh mạng người vô tội…

***

Đời sống biến chuyển (dynamic) và liên tục thay đổi theo tiến hóa của văn minh và kỹ thuật. Ngôn ngữ cũng tự nó tìm cách thay đổi theo cho phù hợp. Những chữ gắn liền với lối sống cũ không còn thích hợp sẽ ít được dùng hoặc sẽ không được sử dụng nữa. Như vậy, đời sống (living) của Ngôn ngữ cũng gần giống như đời sống của con người: sinh ra, lớn lên, già đi và đến lúc sẽ chết. Chỉ khác là ngôn ngữ chết đi có thể sống lại; trong người chết thì không sống lại được – Thí dụ: Người Do thái đã hồi sinh tử ngữ (a dead language) Hebrew thanh một sinh ngữ (living language) đang được dân Do thái sử dụng.

Trong ngôn ngữ, sự thay đổi là cần thiết. Trong từ điển Anh Ngữ, một sinh ngữ rất phổ thông, có thêm chừng 750-800 chữ mới trong 1 năm (độ 2-3 chữ 1 ngày). Thay đổi để làm cho chữ nghĩa linh động và phong phú hơn là chuyện phải làm.

Nhưng thực tế cho thấy trường hợp Việt Ngữ (văn chương chữ nghĩa Việt Cộng – “vi-xi”) từ sau 1975, riêng ở miền Bắc thì phải nói rõ hơn là từ sau ngày cộng sản cướp chính quyền – tháng 8 năm 1945 – đến nay, không thay đổi theo cái chiều hướng tốt đẹp và cần thiết đó. Mỗi lúc sự thay đổi càng thấy tệ hại hơn. Sau 1975, tiếng Việt bị bóp méo, sửa chữa bừa bãi mất chuẩn đến mức độ cần phải báo động.

Những chữ nghĩa quái lạ, hạ cấp, dung tục, mất dạy, du thủ du thực, lóng thường chỉ được dùng ở chợ búa, đường phố hay trên bàn nhậu đã thấy xuất hiện đầu tiên ở miền Bắc rồi lan tràn vào miền Nam; bây giờ lan tràn ra cả hải ngoại trên văn viết của các báo chí (print press) và truyền thông (đài truyền hình, phát thanh…) dòng chính (main streams). Người Việt nói sai, viết sai, hiểu sai tiếng Việt một cách tùy tiện vô trách nhiệm.

Có một số “học giả thiệt” ở trong nước còn có “công sức” và can đảm đề nghị đổi hoàn toàn cách viết chữ Quốc Ngữ thành một thứ tiếng gần như xa lạ ngay với người Việt. Thiệt tình!? (Xin xem thêm loại “Chữ Việt Mới” phá hoại chữ Quốc Ngữ của “Gs Ts” Bùi Hiền ở phần Phụ Đính kèm bên dưới bài viết).

Tiếng Việt viết và tiếng Việt nói có hai cấp bậc khác nhau: Bác học và Bình dân. Loại bác học dùng để viết sách, để dạy học, làm văn hóa, nói chuyện một cách đứng đắn, nghiêm chỉnh; loại bình dân để nói chuyện bình thường hàng ngày trong các vấn đề xã giao, giữa bạn bè thân hữu, nơi chợ búa, đường phố không cần thiết phải nghiêm trang, khó hiểu…

Bây giờ, ở trong nước Việt Nam, cái lằn ranh Bác học và Bình dân đó hình như không còn nữa (?) Đối với những người nông dân chân lấm tay bùn, thợ tay chân ít học thì không nói làm gì; ngay cả 600-700 tờ báo in, bao nhiêu diễn đàn, đài phát thanh, đài truyền hình dòng chính… đều đồng loạt sử dụng một thứ chữ nghiã quái đản, kỳ cục, ngây ngô, buồn cười mà người ta còn gọi là “Văn hoá Đồ Đểu.”

Lịch sử đã chứng minh nhiều lần là cộng sản đi tới đâu thì gây giết chóc, băng hoại, phá hủy tàn hại đến đó: từ tâm linh, tình cảm, văn học, tình người, sinh mạng người vô tội…

Tất cả những cái tốt, cái đẹp, cái lịch thiệp, cái hòa nhã văn minh dường như đã mất hết sạch. Cộng sản Việt Nam ( CSVN) có tài thích “tự sướng” về mục “phá kỷ lục”; nhưng họ lại quên ghi lại cái thành tích đáng kể là chỉ trong một thời gian ngắn, kỷ lục 43 năm, tạm thời tính từ tháng 4 năm 1975, họ đã hủy hoại một nền văn hóa mà tổ tiên ta khổ công gầy dựng trên 4000 năm!

Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về sự phân biệt nổi bật giữa “Tiếng Việt Mới” và “Tiếng Việt Truyền Thống.” Tôi cố tránh dùng chữ “Tiếng Việt Chuẩn” bởi vì, cho đến ngày hôm nay, nước Việt Nam chưa có một “Viện Hàn Lâm” về ngôn ngữ, và chưa có “Nhà Ngôn Ngữ Học” nào có đủ thẩm quyền để đặt hay gọi tiếng Việt loại nào? Vùng nào? là “Chuẩn.”

Trước khi CSVN cướp chính quyền (vào khoảng tháng 8 năm 1945) chữ Quốc Ngữ với hình thức chính tả (như được dùng trên toàn lãnh thổ nước Việt Nam và hải ngoại) đã tạm ổn định không có khó khăn gì đáng kể; ngoại trừ một ít vấn đề phương ngữ, thổ ngữ cần được bàn và thỏa thuận thêm về sau.

Sự thành hình và tiếp tục thay đổi của chữ Quốc Ngữ khởi sự từ năm 1632 (?) khi hai giáo sĩ người Bồ Đào Nha là Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa đã sáng tạo ra cách dùng chữ La-tinh để ghi âm tiếng Việt, và sử dụng ký tự La-tinh, dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ La Mã (Roman – như mẫu tự A, B, C, D…), đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu (Accent marks) từ bảng chữ cái Hy Lạp. mà sau này được gọi là Chữ Quốc Ngữ.

Kế tiếp là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1591-1660) được coi là người có vai trò quan trọng nhất trong tiến trình cải tiến và hệ thống hóa một cách rất công phu chữ Quốc Ngữ như chúng ta đọc và viết ngày hôm nay qua hai quyển sách Từ điển “An Nam – Bồ Đào Nha – Latin” (còn gọi là Từ điển Việt – Bồ – La) và “Phép giảng tám ngày” (một phần của Phúc âm Công giáo) bằng Quốc Ngữ được xuất bản năm 1651 ở Roma. Đến hôm nay đã trải qua trên vài trăm năm chữ Quốc Ngữ trở nên khá vững vàng, mạch lạc và trong sáng.

Bây giờ cùng nhau nhìn lại một số chữ tiêu biểu của loại “văn chương mới” này của “vi-xi”:

A- Đổi chữ

  1. Đổi mẫu tự trong một chữ:

a)- Y thành I:

Trong tiểu mục này phải đề cập ngay đến vấn đề đổi “Y” (i dài) ra “I” (i ngắn).

Với thâm ý muốn phá hoại chữ Quốc Ngữ “truyền thống” mà VNCH đã sử dụng rộng rãi trước 1975, vào ngày 30 tháng 11 năm 1980, Bộ Giáo dục CSVN ban hành một “Quy định” gọi là “Quy Định 1980” để làm cái gọi là “Nhất thể chữ I (ngắn)” có nghĩa là thay tất cả các chữ viết có mẫu tự “Y” (dài) thành ra “I” (ngắn); ngoại trừ khi chữ “Y” đúng một mình (như Y tế, Y hệt, Y nguyên…) với mục đích (!) để “đơn giản cách viết(?!)” (chứ không phải để phá hoại chữ Quốc Ngữ nhỉ!)

Không cần phải nói thêm, “quy định” này có sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng vì rất nhiều chữ có chứa mẫu tự “Y” nếu được thay thế bằng “I” nhìn và đọc rất ngớ ngẩn, khôi hài không chịu được.

Sau đó Bộ Giáo Dục CSVN đã ban hành thêm vài “quy định” khác để sửa sai “Quy Định 1980” nhưng hầu hết các từ điển, sách giáo khóa, báo chí kiểm soát bởi đảng csvn ngay sau đó đã dùng đường lối “Nhất Thể i (Ngắn)” này một cách vô trật tự, bừa bãi hết thuốc chữa (!): “Chống Mĩ cứu nước,” “Thế kỉ,” “Kỉ luật,” “Thẩm mĩ…” và CSVN rất lúng túng khi gặp các chữ có “Y” truyền thống khác như “Thủy tinh,” “Thanh Thúy,” “Mỹ Đình,” “Phú Mỹ Hưng…”

Nên biết, vấn đề Y-dài-và-I-ngắn chữ Việt truyền thống đã khá rõ rệt từ lâu rồi: “Ngoại trừ vài ngoại lệ, các chữ thuần Việt (Nôm) nhất là các chữ láy (như tỉ mỉ, li ti, kì kèo, kì cọ…) sẽ dùng “i ngắn”; riêng các chữ Hán hay Hán-Việt thì phải dùng “y dài” (như Hy vọng, Thế kỷ, Kỷ luật, Thẩm mỹ, Công ty…)

b)- C và K:

Trường hợp thay đổi kỳ lạ giữa C và K này xảy ra vì “cha già” HCM (lúc đó boác còn lấy tên cha chung Nguyễn Ái Quốc) đã từng viết 3 chữ “Đường cách mạng” thành ra là “Đường kách mệnh (?)” trong những bài giảng của các lớp đào tạo cán bộ cộng sản Việt Nam tại Quảng Châu, Tàu. Các cháu ngoan của boác cứ thế mà rập theo khuôn ngu dốt đần độn của boác cho có vẻ chung lòng “kách mệnh” “kíu cuốc”: Chẳng hạn viết là Bắc Cạn là Bắc Kạn (nhưng tại sao các bác lại không viết là “Bắk Kạn” cho nó thống nhất với chữ Đắk Lắk?). Trong khi đó các chữ ùn tắk, lâm tặk, cát tặc… thì lại giữ y nguyên mẫu tự “C” truyền thống ở mẫu tự cuối cùng? Thật là chuyện lủng củng, vớ vẩn, nhức đầu đau bụng, không biết đâu là mà lần?

2)- Đổi thứ tự của chữ kép:

Dùng chữ cũ với nghĩa cũ nhưng lại đảo ngược chữ một cách không cần thiết để hợp thời trang với “kách mệnh, giải phóng”: triển khai, đảm bảo (nhưng vẫn giữ “thư bảo đảm?” là sao vậy?), kiếm tìm, lớp trưởng, xa xót, giản đơn, nhóm trưởng, chối từ ( nhưng không thấy đổi chữ “le lói” thành “lói le” lạ nhỉ?).

3)- Thay chữ cũ bằng chữ mới mà không cần biết có hợp lý hay hợp nghĩa không!?

a)- Thay Chữ Nôm:

Lái xe (tài xế): Cứ thử nói câu “Lái xe gặp lái xe rồi cùng nhau lái xe đi!!!

Tổ lái (Phi hành đoàn), lính Thủy đánh Bộ (TQLC), máy bay lên thẳng (trực thăng), xưởng đẻ (nhà bảo sinh), nhà ỉa (cầu tiêu, nhà xí), lính gái (nữ quân nhân), thủy thủ gái (nữ thủy thủ), lệch pha (“Out of phase?” – lệch, không còn ăn khớp), phượt (du lịch? Xin chào thua chữ này!), đái tháo đường (tiểu đường), đứng lớp (dạy học), tốp ca (hợp ca), múa đôi (khiêu vũ), bú mồm (hôn môi), đuối nước (chết đuối), mặt bằng (diện tích), kênh (băng tần, đài), đắng lòng (đau lòng), nổi cộm (nổi bật), tổ lái (phi hành đoàn),

b)- Thay Chữ Hán-Việt:

– Sự cố (nghe giống chữ Hán Việt; nhưng tiếng Hán không hề có chữ quái gở vô nghĩa này. Tiếng Hán có “cố sự” là “chuyện cũ” mà thôi – trở ngại).

– Đại trà (nghe giống chữ Hán Việt; nhưng tiếng Hán không hề có chữ này, quy mô),

– Chất lượng (nhập nhòe lượng với phẩm, phẩm chất),

– Liên hệ (liên lạc),

– Quan hệ (làm tình?),

– Phi vụ (dịch vụ? nghe giống như một chuyến bay),

– Viện Da liễu (hoàn toàn không có nghĩa gì cả, hay là “Da cây Liễu?”),

– Triều cường (là nước đi lên; chỉ là một nửa của Thủy triều. Thủy triều là “nước lên và nước xuống”),

– Chuyên cơ (máy bay riêng – của Tổng thống),

– Nội thất ( bàn ghế trong nhà),

– Nội y (đồ lót),

– Cơ trưởng (phi công trưởng),

– Ngoại hình (hình dáng bên ngoài),

– Đột tử (chết bất tử),

– Bồi dưỡng (hối lộ? ăn thêm?),

– Bảo kê (bảo hiểm),

– Tử vong ( chết),

– Cảnh báo (báo động),

– Dự báo (tiên đoán),

– Tuyến đường (đường),

– Động thái ( chuyển động – VNCH không có chữ này),

– Kinh điển (hay, đẹp – VNCH không hề có chữ này),

– Đột biến (chợt thay đổi),

– Cá thể (một con),

– Thể lực (sức lực),

– Giáo án ( bài soạn trước để dạy),

– Tư duy (suy nghĩ),

– Thư giãn ( nghỉ ngơi),

– Truy cập ( vào?),

– Thuyết phục (rõ ràng).

B- Ghép chữ Hán và chữ Nôm:

Nối nửa Hán nửa Nôm với nhau thành chữ kép rất kinh hoàng, không giống con giáp nào như : – Siêu sao, siêu rẻ, siêu bèo, siêu lạ, siêu nhanh, siêu mỏng, siêu kinh điển (?) nữ nhà báo, đa mầu sắc, múa đôi, cao tốc, tăng tốc.

C- Ghép chữ Hán-Việt với chữ Hán-Việt:

Một cách cẩu thả chưa từng thấy: – Siêu mẫu, kích cầu, kích hoạt, giao hợp, lễ tân, bảo quản, bảo lưu, tích hợp.

D- Dùng lại chữ cũ:

Sử dụng lại một số chữ “truyền thống” cũ đã không thấy sử dụng nữa trước 1975: – Xiển dương (phát huy), cơ ngơi (toàn bộ cơ sở, bất động sản).

E- Dùng trực tiếp chữ ngoại quốc một cách không cần thiết

– Teen (tuổi vị thành niên), hot (hot girl, hot boy), sốc (“shocked”), cờ-clip (clip), bờ-lốc (blog), phây (facebook), pa-nô (panneau), băng rôn (bande de role), casino (sòng bạc), gu (gout, sở thích), xả stress (làm bớt căng thẳng), ống tuýp (tube), lô-cốt (pháo tháp?), ô-tô (xe hơi), gym (phòng tập thể dục).

F- Dùng chữ ngoại ngữ phiên âm:

Rất cẩu thả, tùy hứng, không có quy luật gì cả, không thể nhận ra được là cái gì khi cần phải tra cứu thêm: Ốt-tra-lia (Nước Úc / Australia), Ít-ra-en (Nước Do Thái – Israel), Oa-sinh-tơn (Thủ đô Hoa Thịnh Đốn của Hoa Kỳ – Washington); Ác-Hen-ti-na (Nước Á Căn Đình ở Nam Mỹ – Argentina), Bo (pourboire, Tips), Top (dứng hàng đầu), Quá Đát (outdated),

G- Dùng chữ lóng / chữ đường phố, của giới giang hồ

Rò rỉ (tiết lộ), ném đá (chỉ trích), ùn tắc (kẹt, nghẹt), dao kéo (giải phẫu), nhí (nhỏ bé, nhi đồng), gái (điếm), bèo (rẻ), cháy (hết), săm soi (tìm hiểu), dỏm (giả), chui (lén lút).

H- Dùng ngữ pháp sai lệch và rối loạn

1)- Dùng danh từ thành tĩnh từ

“Bức tranh nhìn rất ấn tượng?!”

“Chị ta sống rất hoàn cảnh?!”

2)- Danh từ thành động từ

“Hôm nay khả năng trời không mưa?!”

“Tôi không cho anh em lên chức thì anh em tâm tư?!”

3)- Tĩnh từ thành động từ

“Anh cứ vô tư?!”

“Các đồng chí khẩn trương lên!”

4)- Động từ thành danh từ

“Lãnh đạo đang sửa soạn cho đại hội đảng?!”

5)- Trạng từ thành động từ

“Trời có khả năng mưa?!”

6)- Giới từ thành danh từ

“Trên bảo dưới không nghe!”

7)- Dùng thừa (dư) chữ

Rau xanh, cặp đôi, thể hình thể lực (sức vóc), hành trình phá án.

8)- Dùng chữ mất đầu:

Tuyển Việt Nam (Đội Tuyển Túc cầu Việt Nam), Cảng Hải Phòng (Hải cảng Hải Phòng), Hầm Thủ thiêm (Đường Hầm Thủ Thiêm), phí (lệ phí).

9)- Dùng chữ mất đuôi (dangling!):

– Xuất viện (ra nhà thương – viện bảo tàng hay viện dưỡng lão?),

– Nhập viện (vào nhà thương),

– Làm móng (móng tay? móng chó hay móng heo?),

– Thoát Trung (Trung Hoa hay miền Trung?),

– Căng (căng thẳng),

– Sư (sư đoàn),

– Trung học chuyên (trung học chuyên ngành),

– Choáng (choáng váng).

Lời cuối:

Tiếng Việt “truyền thống” hình thành qua hơn 300 năm (từ 1632 – Xin xem 2 bản Chữ Quốc Ngữ của năm 1632 và 1700 chụp lại được kèm bên dưới bài viết này) đã khá ổn định, nhất là sự phát triển không ngừng, vượt bực để gần hoàn chỉnh trong vòng 100 năm nay. Tiếng Việt “truyền thống” đã thấm sâu vào đời sống và sự suy nghĩ của người dân Việt.

CSVN hiện nay cố gắng áp dụng một cách khắc nghiệt chính sách “cải lùi” (không phải “cải tiến”) Tiếng Việt nằm trong âm mưu phá hoại mà tôi tạm gọi là “Tằm Ăn Dâu” (hay “Nồi Nước Luộc Ếch” – dần mòn, âm thầm thôn tính toàn diện nước Việt Nam!) trong 60 năm cs cầm quyền ở Việt Nam cũng là một chính sách diệt chủng có hệ thống được hỗ trợ, giật giây, thao túng và áp lực trực tiếp bởi Tàu cộng (TC).

Hiển nhiên, ở thế kỷ 21, thế giới không thể chấp nhận một sự xâm lăng Việt Nam của TC bằng bạo lực quân sự như các thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử. TC biết điều đó, cho nên họ chỉ chủ trương xâm lăng nước Việt mà không cần phải bắn phát súng nào – “Bất chiến tự nhiên thành.” Nhìn cho rõ, TC nhắm vào việc tiêu diệt Tiếng Việt thì dân tộc Việt sẽ tự nhiên biến mất y như Học giả Phạm Quỳnh đã từng nhận xét mà bản thân tôi thấy không còn gì đích thực hơn: “Tiếng Việt Còn thì Nước Việt Còn.”

Chúng ta, 97 triệu người Việt, kể cả người Việt trong nước và hải ngoại, không thể nhắm mắt vô tình hay cố ý cổ xúy cho chính sách ngu si tự diệt chủng này của CSVN. Hãy thức tỉnh trước sự phá hoại Tiếng Việt của CSVN dưới sự chỉ huy trực tiếp của TC.

Ít ra, 4 triệu người Việt đang sống ở các nước tự do trên thế giới có tất cả mọi cơ hội để không làm gì mà phải sợ cộng sản (vì bất cứ lý do gì). Chúng ta phải làm ngay cái gì đó để CSVN sợ – Tuyệt đối không dùng chữ nghĩa “mới” đần độn của “vi-xi” dưới mọi hình thức chẳng hạn – trước khi dân số Việt Nam được nói tiếng Việt chỉ còn độ 4 triệu người trên hành tinh này?!

Đây không phải là lời tiên tri mà là một kêu gọi thật lòng! Xin thành thật cám ơn sự lưu tâm của quý vị. Vì tiền đồ của đất nước, xin rất mong mỗi người trong chúng ta cố gắng đóng góp một chút ít cho tương lai và sự trong sáng của Tiếng Việt để Tiếng Việt sống mãi thì Nước Việt sống mãi.

“Thượng đế hỡi có thấu cho Việt Nam này!”-

Hối tiếc muộn màng vì chần chừ tiêm chủng

Hối tiếc muộn màng vì chần chừ tiêm chủng

Trong lúc cả đất nước đang hân hoan vì sắp đánh bại được đại dịch, Michele Preissler ngồi rầu rĩ, nhớ người chồng mới qua đời vì Covid-19.

 Sau hơn một năm chống chọi Covid-19, hàng triệu người Mỹ giờ đây có thể bỏ những chiếc khẩu trang lại phía sau, lên kế hoạch du lịch hè và vui vẻ đoàn tụ cùng gia đình, bạn bè. Dường như nước Mỹ đã vượt qua thời kỳ tồi tệ nhất của đại dịch khi ngày càng có nhiều người được tiêm chủng hơn và số ca nhiễm mới giảm mạnh.

Nhưng với những người như Michele Preissler, 60 tuổi, ác mộng mới chỉ bắt đầu.

smerlin-188360361-8c7e58f1-b93-2083-5987-1622521880.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=c0yzuU__x-utXgEaWwMptg

Michele Preissler tại nhà riêng ở Pasadena, Maryland, hồi cuối tháng trước, trong một buổi lễ bà tổ chức để người thân, bạn bè nhìn mặt chồng bà lần cuối. Ảnh: NYTimes.

Preissler mất chồng vì Covid-19 vào cuối tháng trước, khi hàng loạt biện pháp giới hạn, phong tỏa đã được dỡ bỏ và cuộc sống bắt đầu quay về trông giống như bình thường. Tuần trước, khách hàng tới siêu thị Walmart gần nhà bà ở thành phố Pasadena, Maryland, cũng không đeo khẩu trang. Bà đến đây để mua những đồ đạc cần thiết cho đám tang chồng.

“Tất cả đều nói ‘mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi'”, Preissler chia sẻ. “Giá như họ biết những gì tôi đã trải qua”.

Chồng bà, Darryl Preissler, 63 tuổi, nhiễm Covid-19 sau khi tham dự một đám cưới hồi đầu tháng 4. Lúc bấy giờ, bà đã tiêm vaccine nhưng ông thì chưa.

Với 50% dân số đã được bảo vệ bởi ít nhất một liều vaccine, tình hình dịch bệnh tại Mỹ đang khả quan hơn bao giờ hết. Số ca nhiễm mới, nhập viện hay tử vong vì Covid-19 đều giảm mạnh. Ngay cả những quan chức y tế thận trọng nhất cũng đang ăn mừng trước tiến bộ của đất nước.

Những người đã tiêm đầy đủ vaccine có thể cởi bỏ khẩu trang và hòa nhịp với phần lớn các hoạt động thường ngày trước đại dịch.

Dù vậy, hiện nay, vẫn còn trung bình khoảng 450 ca tử vong vì Covid-19 được báo cáo mỗi ngày. Điều đó khiến hàng trăm gia đình phải đối mặt với một niềm đau mới: Nỗi tiếc nuối, dằn vặt khi người thân gục ngã ngay trước ngưỡng cửa chiến thắng.

Không như giai đoạn trước, khi hầu hết cuộc sống của người dân đều bị ảnh hưởng, gia đình, bạn bè của những nạn nhân tử vong vì Covid-19 giờ đây thường nói về một nỗi buồn lạc lõng: Họ than khóc giữa lúc bao người xung quanh ăn mừng.

Trong nhiều trường hợp, buồn đau còn chồng chất thêm bởi nỗi dằn vặt rằng người qua đời đã không tiêm vaccine hoặc không thể tiêm vaccine kịp thời.

Một số người tử vong những tuần gần đây tại Mỹ nhiễm nCoV trước khi họ đủ điều kiện tiêm chủng, làm dấy lên câu hỏi liệu chương trình triển khai vaccine có thực sự đủ nhanh để tiếp cận được tất cả người dân hay không. Số khác bị Covid-19 đánh bại vì tâm lý lưỡng lự, không chịu tiêm chủng, làm bật lên thách thức đối với các cơ quan y tế trong nỗ lực thuyết phục người dân tin tưởng vaccine.

Tình cảnh của họ “giống như việc một người lính bị bắn chết ngay trước khi hiệp định đình chiến có hiệu lực”, tiến sĩ Toni P. Miles, nhà dịch tễ học tại Đại học Georgia, nhận xét. “Tất cả mọi người khác đều vô cùng hạnh phúc vì chiến tranh đã chấm dứt nhưng bạn lại mất đi người thân trong lúc không ai muốn đau buồn”.

Hollie Rivers vẫn suy sụp dù đã vài tuần trôi qua kể từ khi chồng cô, Antwone, qua đời vì Covid-19 ở Michigan. Tại đám tang của chồng hồi tháng trước, Hollie nhất quyết muốn cùng khiêng quan tài. “Tôi muốn ở bên anh ấy cho đến giây phút cuối cùng, đến bao giờ tôi không thể giữ anh ấy được nữa thì thôi”, cô nói.

Sau khi Hollie trả lời phỏng vấn một kênh truyền hình ở Detroit và tiết lộ rằng chồng mình chưa tiêm vaccine, cô đã phải đối mặt với vô số lời chỉ trích nặng nề trên mạng.

smerlin-188427912-a63422dc-ac6-3723-4915-1622521880.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=tXd6NSQwnF99zvmYqc18nQ

Hollie Rivers cùng 5 con tại nhà riêng ở bang Michigan hôm 28/5. Ảnh: NYTimes.

Theo lời Hollie, ban đầu, cô và chồng do dự, song cuối cùng họ vẫn quyết định sẽ tiêm vaccine. Nhưng không may, chồng cô lại nhiễm virus hồi đầu tháng 4 trước khi Michigan cho phép tiêm chủng cho những người ở độ tuổi của anh. Antwone 40 tuổi, hơn vợ 12 tuổi.

Gia đình Rivers đã lập chiến dịch quyên góp trên trang GoFundMe để hỗ trợ chi phí mai táng cho Antwone, nhưng nhận về không ít bình luận tiêu cực. “Anh ta từ chối tiêm, sao bạn còn dám xin tiền từ thiện chứ?”, Hollie nhớ lại một bình luận.

“Tôi bây giờ chỉ muốn hủy chiến dịch đó đi. Vấn đề không nằm ở tiền bạc”, cô nói. “Tôi sẵn sàng sống trong hộp các tông nếu điều đó giúp chồng tôi quay về với tôi và các con”.

Camille Wortman, chuyên gia nghiên cứu cảm xúc, giáo sư danh dự tại Đại học Stony Brook, New York, cho biết những người mất người thân vì Covid-19 ở thời điểm này của đại dịch thường sẽ trải qua cảm giác tức giận, tội lỗi và hối tiếc mạnh hơn.

“Nỗi đau của những người còn sống sẽ dữ dội hơn”, bà nói.

Với Yvonne Santos, 30 tuổi, đến từ Houston, câu hỏi liệu chồng cô có chết không nếu được tiêm vaccine kịp thời thường xuyên ám ảnh tâm trí cô, nhất là lúc cô ngồi một mình, ngắm nhìn bức ảnh hai người chụp chung. Yvonne lo lắng về tính an toàn và hiệu quả của các loại vaccine bởi chúng được phát triển và sản xuất quá nhanh. Chồng cô, Angel Stantos, cũng chần chừ đi tiêm.

“Tôi không nói chuyện này với bất kỳ ai nhưng tôi thực sự cảm thấy tệ, bởi anh thấy không thực sự băn khoăn về nó giống như tôi”, Yvonne cho hay. “Tôi là người mà đến giờ vẫn còn lo sợ”.

Sau khi nhận kết quả xét nghiệm dương tính hồi tháng 4, Angel, nhân viên xã hội chuyên giám sát trẻ vị thành niên, đã phải nằm nhiều tuần trong bệnh viện. Suốt thời gian đó, theo lời Yvonne, chồng cô luôn hối tiếc vì đã không tiêm chủng. Angel qua đời hôm 19/5, hưởng thọ 35 tuổi.

Vào ngày Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) thông báo người dân không cần phải đeo khẩu trang khi ở trong nhà nữa, Kole Riley, 33 tuổi, đang ở bên giường bệnh của mẹ anh tại một bệnh viện gần thành phố Sedona, bang Arizona, để nói lời từ biệt.

Mẹ anh, Peggy Riley, 60 tuổi, nhiễm Covid-19 vài tuần trước đó. Bà không tiêm vaccine vì quả quyết rằng mình có kháng thể. Một số thành viên trong gia đình bà, bao gồm cả chồng bà, đã có dấu hiệu hoặc được chẩn đoán mắc Covid-19 vào cuối năm ngoái.

Sau khi nắm tay mẹ trong những giây phút cuối cùng, Kole rời khỏi bệnh viện, chứng kiến cảnh có rất ít người đeo khẩu trang trên đường phố và đất nước đang hân hoan vì sắp vượt qua đại dịch. Lòng anh quặn thắt, nỗi nhớ mẹ vẫn giày vò.

“Giận dữ là cách tốt nhất và lịch sự nhất mà tôi có thể nói về cảm xúc của mình”, Kole cho biết sau khi nhìn thấy những người không đeo khẩu trang tại một cửa hàng tạp hóa. Anh gặp khó khăn trong việc hóa giải nỗi đau giữa bầu không khí lạc quan của đất nước.

“Tôi không nghĩ mình sẽ phải đối mặt với điều này, khi mà tất cả mọi thứ xung quanh đều đang hướng về trạng thái bình thường”, anh chia sẻ.

Vũ Hoàng (Theo NYTimes)

Câu chuyện về Nelson Mandela

Sau khi trở thành Tổng thống, tôi đã rủ một số vệ sĩ của mình đi dạo trong thị trấn. Sau khi đi bộ, chúng tôi đi ăn trưa tại một nhà hàng. Chúng tôi ngồi ở một nơi trung tâm nhất, và tự hỏi nhau xem muốn ăn gì. Sau một hồi chờ đợi, người phục vụ mang thực đơn cho chúng tôi, ngay lúc đó tôi nhận ra rằng bàn ngay trước mặt chúng tôi có một người đàn ông đang chờ được phục vụ.

Khi anh ta được bồi bàn tới tiếp, tôi nói với một trong những người lính của mình: hãy rủ người đó ngồi cùng bàn với chúng tôi. Người lính đi và truyền lời mời của tôi.

Người đàn ông đứng dậy, lấy đĩa và ngồi cạnh tôi. Trong khi ăn, tay anh ấy liên tục run và không ngẩng đầu lên khỏi thức ăn. Khi chúng tôi kết thúc, anh ấy vẫy tay với tôi mà không thèm nhìn tôi, còn tôi bắt tay anh ấy và bỏ đi!

Người lính nói với tôi:

– Madiba, người đàn ông đó chắc hẳn rất ốm vì tay anh ta không ngừng run khi đang ăn.

Không có gì! Lý do cho sự run rẩy của anh ta là chuyện khác – Tôi đáp. Họ nhìn tôi kỳ lạ và tôi liền nói với họ:

– Người đàn ông đó là cai ngục của nhà tù mà tôi bị nhốt. Thường, sau khi bị tra tấn, tôi đã la hét và khóc đòi nước và anh ta đến để làm nhục tôi, anh ta cười nhạo tôi và thay vì cho tôi uống nước thì anh ta đi tiểu trên đầu tôi.

Anh ấy không bị bệnh, anh ấy sợ hãi và run rẩy có lẽ sợ rằng tôi, bây giờ là tổng thống Nam Phi. Sợ tôi sẽ tống anh ấy vào tù và làm điều tương tự anh ấy đã làm với tôi, tra tấn và làm nhục anh ấy.

Nhưng đó không phải là tôi, hành vi đó không có trong tính cách cũng như chuẩn mực đạo đức của tôi.

Có những người luôn nghĩ tới cách tìm kiếm sự trả thù nhằm phá hủy các quốc gia, trong khi cũng có những người chỉ suy nghĩ việc tìm kiếm sự hòa giải để xây dựng các quốc gia ”

Dịch từ

Nelson Mandela

(From Echeverría Martínez ′′ Chicali Wall ′′)

Nguyễn Thị Bích Hậu

May be an image of 1 person and text that says '"I NEVER LOSE. I EITHER WIN OR LEARN." ~Nelson Mandela'

Đường sắt Cát Linh-Hà Đông…

 

 Đại Sứ Trung Quốc tại Hà Nội, Hùng Ba mô tả đường sắt Cát Linh-Hà Đông “là biểu trưng cho tình hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc”…

Mời cán bộ, đảng viên Việt Cộng mô tả cho người dân Việt biết tình hữu nghị ra sao qua hình ảnh đường sắt Cát Linh – Hà Đông dưới đây nhé…

NÓ CÓ NHỮNG “ĐƯỜNG CONG MỀM MẠI NHƯ QUAN CHỨC ĐẢNG VC TUYÊN BỐ?

Vừa ra tù sau 32 năm, ông gốc Việt ở California bị tạm giam chờ trục xuất

Vừa ra tù sau 32 năm, ông gốc Việt ở California bị tạm giam chờ trục xuất

June 12, 2021

SACRAMENTO, California (NV) – Sau 32 năm ngồi tù vì tội giết người, ông Lê Hồng Lâm, 54 tuổi, được tạm tha năm 2019.

Ông được tự do… chỉ vài phút. Hôm đó, Cảnh Sát Di Trú (ICE) chờ sẵn bên ngoài nhà tù rồi bắt giam ông ta, theo ABC News hôm Thứ Sáu, 11 Tháng Sáu.

Kể từ khi được thả ra đến nay, ông Lâm chăm sóc người vô gia cư ở vùng Bay Area. (Hình: Tsuru for Solidarity)

Ông Lâm thuộc diện không có giấy tờ cư trú hợp pháp, bị ICE tạm giam trong lúc các giới chức quyết định trục xuất hay không, theo hồ sơ mà ABC News có được.

Theo các chuyên gia, trường hợp của ông Lâm không phải hiếm. Ông Lâm, người Việt Nam, và nhiều người Đông Nam Á khác có nguy cơ bị trục xuất nhiều hơn những nhóm dân nhập cư khác vì từng bị kết tội, một số chuyên gia và người ủng hộ nhập cư cho hay. Trong vài trường hợp, họ bị trục xuất sau khi ra tù.

Ông Lâm đến Hoa Kỳ cùng với em trai năm 1981 khi chỉ mới 12 tuổi. Hai anh em họ nằm trong số khoảng 125,000 người tị nạn di tản đến Mỹ sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975.

Bạo lực là điều mà ông Lâm nhớ rõ nhất hồi còn nhỏ ở Việt Nam.

“Tôi nhớ rất nhiều lần nghe thấy tiếng bom đạn,” ông Lâm kể. “Trời, thời ở đó, ngày nào tôi cũng thấy người ta bị thương, lính tráng bị thương, mất tay, chân, đổ máu.”

Năm 1979, ông Lâm cùng em trai rời Việt Nam và đến trại tị nạn Hồng Kông mà trên người không có gì, ngoại trừ bộ đồ đang mặc, ông kể. Ở quê nhà khi đó, họ còn anh trai, người cha hay bạo hành gia đình và ít khi có mặt ở nhà, và người mẹ bệnh nặng.

Sau khoảng một năm ở Hồng Kông, hai anh em được bảo lãnh sang Mỹ và sống với hai gia đình bảo lãnh khác nhau. Trong khi em trai được gia đình bảo lãnh đối xử tốt, ông Lâm không may mắn như vậy. Ông cho hay người bảo lãnh quá bạo hành đến mức ông bỏ nhà ra đi năm 14 tuổi rồi cuối cùng gia nhập băng đảng.

Ông Lâm kể, là đứa trẻ vô gia cư ở đất nước xa lạ, ông thèm khát cảm giác có gia đình, được an ủi, bảo vệ.

“Lúc đó, tôi có cảm giác họ là gia đình, có thể tin họ mọi thứ. Tôi có cảm giác chúng tôi có thể cùng nhau làm mọi thứ,” ông nói về băng đảng của ông. “Chúng tôi chăm lo cho nhau. Nếu bất kỳ ai làm hại một người của chúng tôi, chúng tôi sẽ đứng lên đánh trả.”

Năm 23 tuổi, ông Lâm bắn chết một tay giang hồ đối thủ ở Gardena, California, và sau đó, bị kết tội giết người và âm mưu giết người, rồi bị kết án 34 năm tù đến chung thân.

Năm 2019, sau khi được tạm tha, ông Lâm bị ICE giam ở nhà tù Yuba County hai tháng. Sau đó, ông ký giấy tờ trục xuất để được thả ra và lâu lâu phải ra trình diện ICE.

Năm 2020, tổng cộng 1,615 tù nhân được chuyển từ Bộ Cải Huấn California sang ICE, theo Cơ Quan Nghiên Cứu Chính Sách Cải Huấn và Văn Phòng Giám Sát Nội Bộ.

Theo khảo sát của hai nhóm ủng hộ dân nhập cư và pháp lý – Tác Động Con Người và Bảo Vệ Công Lý Người Mỹ Gốc Á Châu – do nhiều chục năm thiếu hỗ trợ cũng như cảnh sát quá mạnh tay với cộng đồng tị nạn Đông Nam Á, “người tị nạn Đông Nam Á có nguy cơ bị trục xuất vì phạm tội trong quá khứ, nhiều gấp ba đến bốn lần những cộng đồng nhập cư khác.”

Nỗi đau mà ông Lâm gánh chịu do là người tị nạn “nặng nề đến mức để lại vết hằn trên não,” Bác Sĩ Carolee Trần, chuyên gia tâm lý và giáo sư của UC Davis Medical School, nói với ABC News.

Nỗi đau đó có thể ảnh hưởng đến cách con người nhận thức về thế giới cũng như cách họ phản ứng với hoàn cảnh khó khăn, bà Carolee cho biết thêm.

Tsuru for Solidarity biểu tình ở Sacramento, California, hôm 3 Tháng Sáu, hối thúc Thống Đốc Gavin Newsom ân xá cho ông Lê Hồng Lâm. (Hình: Tsuru for Solidarity)

Thỉnh cầu thống đốc

Thứ Năm tuần trước, buổi sáng trước ngày ông Lâm ra trình diện ICE, Tsuru for Solidarity, tổ chức bất vụ lợi của người Mỹ gốc Nhật ủng hộ công bằng xã hội, tổ chức biểu tình ở Sacramento hối thúc Thống Đốc Gavin Newsom ân xá cho ông Lâm ngay lập tức.

Mấy năm gần đây, ông Newsom ân xá tương tự cho hai người tị nạn Cambodia đang chờ trục xuất năm 2019; cả hai đều từng bị kết tội vì những tội ác họ gây ra lúc còn trẻ.

Những người ủng hộ nhập cư cho rằng trường hợp ông Lâm vi phạm thỏa thuận song phương năm 2008 giữa Hoa Kỳ với Việt Nam, theo đó, “công dân Việt Nam sẽ không bị trục xuất về nước nếu đến Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy, 1995.”

Năm 2017, chính quyền Tổng Thống Donald Trump khi đó đàm phán lại với chính phủ Việt Nam để loại trừ những người từng phạm tội hình sự.

Từ năm 2017 đến 2018, số người Mỹ gốc Cambodia bị trục xuất tăng 279%, còn số người Mỹ gốc Việt bị trục xuất tăng 58%. Tháng Ba năm nay, có 31 người tị nạn Việt Nam bị trục xuất chung một chuyến bay dưới thời chính quyền Tổng Thống Joe Biden, nhiều người trong số đó đến Mỹ trước năm 1995.

Nếu bị trả về Việt Nam, ông Lâm sẽ trở lại một đất nước xa lạ mà không có ai giúp đỡ. Hơn nữa, ông có thể đối mặt với bạo lực và bị sách nhiễu vì đã công khai chỉ trích chính phủ Việt Nam, theo bà Angela Chan, giám đốc chính sách kiêm luật sư của tổ chức Bảo Vệ Công Lý Người Mỹ Gốc Á Châu.

Kể từ khi được thả ra đến nay, ông Lâm chăm sóc người vô gia cư ở vùng Bay Area. Ông cũng tình nguyện làm đại sứ khu Chinatown ở Oakland, giúp dẫn người cao niên gốc Á Châu về nhà giữa lúc nạn bạo lực chống người gốc Á Châu tăng mạnh.

Giờ đây, ông đang hy vọng Thống Đốc Newsom xóa tội hình sự tiểu bang “vì công nhận ông cải huấn tốt. Sau đó, họ có thể cấp lại thẻ xanh cho ông, rồi cho nhập quốc tịch. Đó là việc mà Thống Đốc Newsom chỉ cần cầm viết quẹt một cái là xong,” bà Chan cho hay.

Văn phòng ông Newsom chưa trả lời yêu cầu của ABC News cho biết ý kiến.

Về phần mình, ông Lâm nói ông đã ngồi tù đủ năm cho tội ác mình gây ra, và đang sẵn sàng sống cuộc đời phục vụ người khác.

“Tôi nhận thấy mình đã thay đổi. Tôi chỉ muốn yên bình. Tôi chỉ muốn làm điều tốt, đóng góp cho cộng đồng và xã hội. Tôi chỉ mong có vậy. Tôi tự nhủ ngày nào đó chính thức được tự do, tôi sẽ đi khuyên giới trẻ tránh xa ma túy, tránh xa băng đảng,” ông Lâm nói với ABC News.

“Chúng ta ai cũng có thể thay đổi để trở thành người tốt hơn cho cộng đồng, xã hội, để giúp đỡ lẫn nhau, không thù ghét hay oán giận nhau,” ông nói. (Th.Long) [qd]

CÁI CHẾT CỦA NHÀ SÁNG LẬP APPLE – LUẬT LỆ VÀ NHÂN CÁCH MỸ LÀ ĐÂY.

CÁI CHẾT CỦA NHÀ SÁNG LẬP APPLE – LUẬT LỆ VÀ NHÂN CÁCH MỸ LÀ ĐÂY.

Steve Jobs: The Exclusive Biography

Steve Jobs được làm phẫu thuật ghép gan vào năm 2009 – 2 năm trước khi ông qua đời.

Vào năm 2009, CEO của Apple Steve Jobs được phát hiện mắc ung thư gan giai đoạn cuối. Bác sĩ nói với ông rằng, cần phải lập tức làm phẫu thuật ghép gan mới có thể giữ được sinh mạng.

Steve Jobs đồng ý với phương án phẫu thuật ghép gan. Phía bệnh viện lập tức đăng ký cho ông tại trung tâm ghép gan California và chờ đợi nguồn gan.

Tuy nhiên phía bệnh viện thấy rằng, số người phải làm phẫu thuật ghép gan quá đông, nếu xếp hàng thì ít nhất, nhà sáng lập Apple phải đợi ít nhất là 10 tháng.

Để cứu chữa cho Steve Jobs một cách nhanh nhất có thể, bệnh viện đã tiến hành đăng ký cho ông ở các bang khác của nước Mỹ và việc này được luật pháp chấp nhận, mục đích là để tranh thủ từng giây, từng phút để cứu người bệnh.

Trong số các bang được phía bệnh viện đăng ký thì Tennessee là bang nhanh nhất, chỉ cần đợi 6 tuần. Và như thế, Steve Jobs là bệnh nhân cuối cùng trong số các bệnh nhân cần ghép gan trong vòng 6 tuần đó.

Đối với các bệnh nhân cần ghép gan, mỗi giây đều vô cùng quý giá. Và do đó, có người đã tìm gặp riêng viện trưởng của Viện Cấy ghép Bệnh viện Đại học Methodist ở Memphis, Tennessee nơi Steve Jobs sẽ phẫu thuật, hi vọng ông có thể dùng đặc quyền của mình một chút để nhà sáng lập Apple được làm phẫu thuật trước.

Thế nhưng nghe xong lời đề nghị đó, vị viện trưởng cau mày, nét mặt lộ rõ vẻ kinh ngạc. Ông nhún vai trả lời: “Tôi làm gì có đặc quyền để Jobs được làm phẫu thuật trước? Nếu để ông ấy làm trước, vậy thì những bệnh nhân khác phải làm sao? Tất cả các sinh mệnh đều bình đẳng kia mà?”

Người kia nghe vậy đành phải lầm lũi rời khỏi phòng của vị viện trưởng.

Lại có người tìm gặp thống đốc bang Tennessee – Phil Bredesen, hi vọng ông có thể giúp đỡ, sử dụng một chút đặc quyền của mình để nói với phía bệnh viện một tiếng, hoặc phê chuẩn một công văn để Jobs được làm phẫu thuật sớm hơn, nếu không, tính mạng của Jobs sẽ bị đe dọa.

Phil Bredesen nghe xong, nụ cười trên gương mặt ông lập tức vụt tắt. Ông nghiêm nghị nói:

“Tôi làm gì có đặc quyền đó? Nói với bệnh viện ư? Hay phê chuẩn một công văn ư? Ý của anh là gì? Tôi không hiểu! Không ai có đặc quyền có thể cho phép ai làm phẫu thuật ghép gan trước, ai làm phẫu thuật ghép gan sau. Tất cả mọi sinh mệnh đều bình đẳng, mọi người chỉ có thể chờ đợi lần lượt theo trình tự mà thôi.”

Rồi lại có người nói với Steve Jobs: “Anh xem có thể bỏ thêm chút tiền cho người có liên quan để họ sắp xếp cho anh làm phẫu thuật trước hay không?”

Steve Jobs nghe xong, ông cũng kinh ngạc không kém những người trước: “Điều này không thể được? Vậy chẳng phải là phạm pháp sao? Tính mạng của tôi và tính mạng của những người khác đều như nhau, mọi người chỉ có thể đợi theo đúng trình tự thôi!”

Không ai có thể giúp đỡ Jobs kể cả bản thân ông. Những người đang chờ đời ghép gan trước ông, có người là nhân viên công ty, có người là chủ gia đình, có người già, người thất nghiệp, họ cũng đều phải đợi theo thứ tự để được làm phẫu thuật.

Sáu tuần sau, cuối cùng Steve Jobs cũng nhận được một lá gan. Tuy nhiên, do thời gian chờ đợi lâu, các tế bào ung thư của Steve Jobs đã di căn sang các bộ phận khác trên cơ thể ông. Ca ghép gan chỉ kéo dài sự sống của ông được khoảng 2 năm.

Tuy nhiên, ông không hề hối tiếc..

Trong 2 năm cuối đời, ông vẫn tiếp tục phát triển ngày càng nhiều sản phẩm sáng tạo cho Apple, cứ như thế cho đến phút cuối của cuộc đời.

Walter Isaacson – một nhà văn và cũng là một nhà báo người Mỹ đã nói rằng: “Sinh mạng không phân biệt giàu nghèo, đẹp xấu, tất cả đều bình đẳng. Bình đẳng không phải là khẩu hiệu, càng không phải là sự trao đổi. Nó là biểu hiện sinh động nhất, cụ thể nhất trong cuộc sống này.”

Cho dù bạn là ai, ông chủ một tập đoàn danh tiếng, người quét rác bên đường, hay một ông cụ đã ở tuổi gần đất xa trời, thì khi đứng trước sự sống và cái chết, ai cũng như nhau.

(An Le)

Nghề Ăn Cắp Của Người Việt Ở Đức

Nghề Ăn Cắp Của Người Việt Ở Đức

Tác giả : Phạm Thị Hoài

Nguồn: Tin Nước Đức Ngày đăng: 2021-05-25

Có lần tôi đi một phiên tòa xử nhanh hai thanh niên Việt Nam ăn trộm trong cửa hàng.
Một chàng diện Nike Air Max chói chang, một chàng quần bò Dolce Gabbana rất xước.
Cả hai đều mới sang Đức hai tuần trước, đơn xin tị nạn còn chưa nộp. 

Họ ăn trộm phụ kiện, nước hoa và mỹ phẩm trị giá gần 1000 Euro, trong một cửa hàng mà họ hiển nhiên là những vật thể lạ. Xã hội tư bản tân tiến một thế kỷ rưỡi sau Marx, đã xóa đi nhiều ranh giới giữa các giai cấp đối kháng, song lại mở rộng khoảng cách giữa các đẳng cấp.

Hai thanh niên Nghệ An này chỉ cần đặt một nửa bàn chân vào cửa hàng đó là toàn hộ hệ thống báo động của nó đã đỏ rực.

Hình phạt cho mỗi chàng là một cuối tuần quản thúc, tức chiều tối thứ Sáu khăn gói đến ở tại Nhà Quản Thúc Thanh Thiếu Niên, chiều tối Chủ Nhật được về.
Nguời đại diện tư pháp cho thanh thiếu niên cằn nhằn rằng phạt thế hơi nặng, lao động công ích là đủ rồi.

Công tố viên nhún vai. Thẩm phán thở dài, biết rằng sớm muộn cũng gặp lại họ, nhiều phần sớm hơn phần muộn.

Người Việt ở Đức hoàn toàn vắng mặt trong những tội phạm cỡ lớn như khủng bố, đe dọa an ninh quốc gia, rất khiêm tốn trong những tội phạm tài chính và công nghệ cao, khá thứ yếu trong những lĩnh vực như ma túy, mại dâm…

Quả thật không thể sánh vai các bạn thuộc khối Đông Âu cũ do Nga dẫn đầu, nhưng lừng danh trước hết với mafia thuốc lá lậu và ngay sau đó có thứ hạng đáng kể là những người ăn trộm, có lẽ chỉ đứng sau Rumani.

Trong ba năm gần đây, mỗi năm cộng đồng người Việt ở Đức vi phạm khoảng 5000 vụ hình sự, trong đó trên dưới 1000 vụ là tội ăn cắp. Để so sánh: cộng đồng Trung Quốc 110.000 người, mỗi năm trên dưới 200 vụ ăn cắp.

Trừ tranh tượng nghệ thuật và bí mật công nghệ, nói chung không có thứ  gì khác mà những người Việt ăn trộm không thể và không nỡ ăn cắp, từ mèo nhà hàng xóm, xe nôi, xe đạp, hộ chiếu, thẻ tín dụng, điện, nước, biển số, đến nhân thân vịt trời… làm nấm ăn cắp nấm, làm xúc xích ăn cắp xúc xích, làm quán ăn cắp tất cả những gì không còn nguyên niêm phong, song phổ biến nhất là ăn cắp trong cửa hàng.

Có thời, đồ ăn cắp được bày ngang nhiên ở nhiều góc Trung tâm Thương mại Đồng Xuân, khu chợ Việt Nam tại quận Lichtenberg. Đồng bào xúm xít mua đồ tốt giá rẻ, từ hộp thuốc đánh răng, kem dưỡng da, rượu, cà-phê đến túi xách, áo da, quần bò hàng hiệu.

Sự nghiệp bán thuốc lá lậu nổi bật cộng đồng người Việt ở miền Đông nước Đức trong 25 năm qua, song thời hoàng kim của nó đã lùi vào dĩ vãng, trong khi ăn cắp thì tương lai còn khá vững bền.

Ta hãy nhớ lại:
Ngày 10.5.1996, cuộc chiến giành quyền kiểm soát thị trường thuốc lá lậu ở Berlin giữa các băng đảng Việt Nam đạt tới đỉnh cao ghê rợn: sáu người Việt bị hành hình trong một căn hộ chung cư quận Marzahn, tất cả tay đều bị trói, mỗi người lĩnh chính xác hai viên đạn của băng đảng Ngọc Thiện bắn vào đầu.

Bốn ngày sau, để “tháng Năm đẫm máu” đi vào lịch sử tội phạm của thành phố này, băng Quảng Bình “bị hại” đáp lễ bằng ba xác người Việt vứt ở đường tàu quận Lichtenberg.

Mafia Việt Nam một thuở, nghe thì kinh, đếm xác nạn nhân càng kinh, song diện mạo thật thì thô sơ đến bất ngờ. Một số lính, được trìu mến hay trọng thị hay e sợ hay tất cả trộn lại – chỉ trừ không giễu nhại – gọi là “bộ đội”, quân chủ lực của băng Quảng Bình, sa vào tay cảnh sát Berlin không phải như trong phim hình sự, sau những pha săn lùng, đột nhập nghẹt thở. Mà đơn giản là ngớ ngẩn.

Sau một phiên tòa xử tội ăn trộm một chiếc sơ-mi, một bộ đồ tắm và một chiếc quần short trị giá gần 500 DM trong cửa hàng xa xỉ KaDeWe, bị cáo là một phụ nữ Việt nhất định không chịu rời khỏi phòng xét xử.

Cô run rẩy bảo, “bộ đội” đang chờ trước cửa tòa án, sẽ bắt cóc cô để tra khảo, dù cô không khai gì trước tòa.

Một trong những “bộ đội” ấy, súng giắt cạp quần ngẩn ngơ, gần như lao thẳng vào tay cảnh sát, và ngay trong ngày hôm ấy sào huyệt của Quảng Bình bị lật tung, một trong hai khẩu Kalashnikov thu được ở đó chính là vũ khí đoạt mạng ba người ở đường tàu.
Vài hôm sau, một trong những “bộ đội” đang bị truy nã cũng dính lưới, không phải trong khi chôn sống một ai đó ngoài rừng, mà trong khi ăn trộm tại một cửa hàng ở quận Lichtenberg.

Ăn cắp vậy là đã góp phần thanh toán mafia thuốc lá, chuyện của người Việt thường trớ trêu như thế.

Tuy một bước đổi đời bằng nghề cầm nhầm thì khó, song ăn trộm ở đây một ngày vẫn hơn đi cày cả tháng.

Ăn trộm là nghề nhàn, dạo phố, tia hàng, đi làm như đi chơi mà thu nhập không thua đứng đường bán thuốc lá từ sáng sớm đến tối mịt, tức mỗi tháng trên dưới một ngàn Euro, chưa kể tiền nhà, tiền bảo hiểm y tế và khoảng 350 Euro trợ cấp tị nạn, tất cả do nhà nước trả.

Môi trường lại vô tận, nhân loại còn thì siêu thị còn, siêu thị còn thì người ăn trộm còn. Và gần như không mất vốn. Một cái kìm cắt tem từ (magnetic stamp).
Một cái túi lót lớp giấy bạc để tránh báo động khi qua cổng từ, gần đây người Việt giàu sáng kiến còn khâu luôn lớp giấy bạc vào mặt trong áo khoác.

Và không cần qua đào tạo. Hôm trước theo đàn anh đàn chị đi tia, hôm sau tự mình đã ngon lành khánh thành công ty một thành viên hai ngón.

Và ít mạo hiểm. Khung hình phạt cao nhất năm năm, nhưng có ăn cắp cả Nữ thần Chiến thắng lẫn bốn con ngựa trên cổng thành Brandenburger Tor cũng chưa chắc được tuyên bản án ấy. Xã hội càng yên thì luật pháp càng hiền.

Trong thực tế, không mấy người ăn trộm phải ngồi nhiều hơn vài ba tháng. Phần lớn chỉ phạt tiền, mỗi tháng trả dần vài ba chục, án tù thường chuyển thành án treo.
Thanh thiếu niên chưa tròn hai mốt tuổi thường chỉ bị cảnh cáo, phạt lao động công ích, tức dọn dẹp lau chùi ngay trong trại, hay quản thúc cuối tuần. Có lần tôi suýt phì cười vì bản án dành cho một thanh niên Việt Nam ăn cắp 17 gói cà-phê: bắt về trại đi học tiếng Đức !

Thế là hôm ấy khi ra cửa, tôi bảo, hai cháu chịu khó đi học tiếng Đức nhé, đừng ăn trộm nữa.
Chàng (diện đồ) Dolce Gabbana đáp: bọn phát-xít, nó xử oan, cháu có cầm đồ đâu. Cầm đồ ở đây không phải là cầm đồ mà là cầm đồ .
Tôi hỏi, cái gì cầm đồ?
Chàng Nike nhanh nhẹn giải thích, đồ thì cháu cầm, thằng này – hất hàm về phía Dolce Gabbana – chỉ bóc tem thôi.
Nhưng cháu đã ra đến cửa đâu. Luật pháp đéo gì, bất công!
Tôi bảo, bóc tem với cầm đồ thì đúng là định ăn trộm rồi, oan với ai nữa.
Dolce Gabbana trừng mắt:
Cô bênh bọn Đức lợn hử? Người Việt thì phải giúp người Việt chứ! Cô có phải người Việt không hử?

Phạm Thị Hoài – Berlin

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Orange County có thêm 6 thủ khoa gốc Việt

Orange County có thêm 6 thủ khoa gốc Việt

June 6, 2021

ORANGE COUNTY, California (NV) – Không chỉ đứng đầu trong học khu lớn nhất ở Little Saigon là Học Khu Garden Grove, học sinh gốc Việt còn chiếm nhiều vị trí thủ khoa của các học khu khắp Orange County.

Các học khu như Santa Ana, Anaheim, Fullerton và Placentia có tổng cộng sáu thủ khoa gốc Việt.

Các thủ khoa gốc Việt của những học khu bên ngoài Little Saigon. Từ trái, theo chiều kim đồng hồ: Matthew Nguyễn, Brendan Mai Hà, Emily Ngô, Wilton Phùng, Jacqueline Dương, và Andrew T Ngô. (Hình: Học sinh cung cấp cho OCR)

Sau đây là danh sách sáu thủ khoa gốc Việt của những học khu ngoài Little Saigon. Hình ảnh do học sinh cung cấp cho nhật báo The Orange County Register.

Matthew Nguyễn

Matthew Nguyễn là thủ khoa của trung học Esperanza ở Anaheim, tốt nghiệp với điểm GPA 4.84.

Về các sinh hoạt, Matthew từng là thành viên của Hội Học Sinh Danh Dự Hóa Học Olympic.

Sau khi tốt nghiệp trung học, Matthew sẽ vào đại học UCLA, sau đó vào trường y khoa với mục tiêu trở thành bác sĩ.

Brendan Mai Hà

Brendan Mai Hà là thủ khoa của trung học Segerstrom ở Santa Ana, tốt nghiệp với điểm GPA 4.8.

Các sinh hoạt của Brendan gồm có phó chủ tịch Liên Đoàn Học Bổng California, thư ký và điều phối viên cho Key Club, và là thành viên đội bơi lội và đội bóng nước của trường.

Sau thi tốt nghiệp trung học, Brendan muốn nhập ngũ, và cho biết chưa quyết định sẽ theo đuổi sự nghiệp nào trong tương lai.

Emily Ngô

Emily Ngô cũng là thủ khoa của trung học Segerstrom ở Santa Ana, tốt nghiệp với GPA 4.9.

Các sinh hoạt của Emily gồm có đội trưởng của đội bóng rổ và chủ tịch Liên Đoàn Học Bổng California cho trường.

Sau khi tốt nghiệp, Emily sẽ vào đại học UCLA theo ngành tâm lý sinh học với mục tiêu trở thành dược sĩ.

Wilton Phùng

Wilton Phùng là thủ khoa của trung học căn bản Godinez ở Santa Ana, tốt nghiệp với điểm GPA 4.7.

Về các sinh hoạt trong trường, Wilton từng là thành viên của đội bơi lội và đội bóng nước.

Sau khi tốt nghiệp, Wilton sẽ vào đại học UC Riverside theo ngành kỹ sư sinh học.

Jacqueline Dương

Jacqueline Dương là thủ khoa của trung học Valencia ở Placentia, tốt nghiệp với điểm GPA 4.91.

Các sinh hoạt của Jacqueline gồm có chủ tịch câu lạc bộ diễn văn và tranh luận, thành viên đội quần vợt nữ, dạy học cho trẻ em tại nhà thờ Saint Martin ở Yorba Linda. Jacqueline còn nhận được chứng chỉ International Baccalaureate, và được nhà trường trao ba giải thưởng Anh Ngữ, toán học, và thể thao.

Sau khi tốt nghiệp, Jacqueline sẽ vào đại học UCLA để học các môn cần thiết cho y khoa và theo đuổi mục tiêu trở thành bác sĩ.

Andrew T Ngô

Andrew T Ngô là thủ khoa của trung học Sunny Hills ở Fullerton, tốt nghiệp với điểm GPA 4.74.

Các sinh hoạt của Andrew gồm có làm việc cho tờ báo của trường, thành viên của đội quần vợt, thành viên Hội Lãnh Đạo Kinh Doanh Tương Lai của Hoa Kỳ, và thành viên của Hội Sinh Viên Việt Nam. Andrew còn là ứng cử viên nhận chứng chỉ International Baccalaureate.

Sau khi tốt nghiệp, Andrew sẽ vào đại học University of Southern California (USC) với mục tiêu trở thành chuyên gia tài chánh địa ốc. (TL) [đ.d.]

NHỮNG BỨC ẢNH GÂY XÚC ĐỘNG