Thân chủ thâm niên tặng hai nữ tiếp viên nhà hàng $100,000

Thân chủ thâm niên tặng hai nữ tiếp viên nhà hàng $100,000

Nguoi-viet.com

NEW YORK, New York (NV) Một ông nhà giàu, người “không bao giờ nhìn vào hóa đơn và luôn cho tiền tip 20%” khi ăn ở nhà hàng Donahue’s Steak House, vừa cho một số tiền tip cao hơn bình thường rất nhiều, khi ông để lại di chúc tặng $100,000 cho hai nữ tiếp viên, theo Business Insider.


Bên trong nhà hàng Donahue’s Steak House. (Hình: blog.preservationnation.org)

Ông Robert Ellsworth, một nhà sưu tập nghệ thuật giá trị bạc triệu, sống tại một chung cư 20 phòng ở 960 Fifth Avenue, trong tòa nhà được tạp chí New York Magazine mệnh danh là “The Impenetrable Co-Op.”

Một căn trong cùng tòa nhà bán được hồi năm ngoái với giá kỷ lục $70 triệu.

Ông Elllsworth đi tản bộ 15 khu phố để đến ăn tối tại Donohue’s trong 50 năm vừa qua, thậm chí có khi ông đến ăn hai bữa trong một ngày.

Nhà hàng gần như trở thành căn nhà thứ hai của ông trước khi ông qua đời vào hồi Tháng Tám, 2014, ở tuổi 85.

Cô Maureen Donohue-Peters là con gái của người sáng lập nhà hàng, và từng làm việc trong nhà hàng của gia đình trong suốt cuộc đời.

Cô kinh ngạc lẫn biết ơn khi được biết tên mình được ghi thêm trong di chúc của ông Ellsworth, chung với cháu gái cô là Maureen Barrie.

Trong di chúc, cả hai chỉ được đề cập đến như là “Maureen-at-Donohue’s” và “Maureen-at-Donohue’s Niece Maureen.”

Mặc dù ông Ellsworth đến nhà hàng rất thường xuyên, ông chưa bao giờ biết đến họ của hai phụ nữ, tiếp viên ưa chuộng nhất của ông.

Ðây không phải là lần đầu tiên mà các tiếp viên nhà hàng được những món tiền tip hậu hĩ đến như vậy, nhưng đây là sự biểu lộ lòng biết ơn việc phục vụ trong suốt một đời người, chứ không phải là một nghĩa cử có tính cách may rủi.

Ngoài hai cô, ông Ellsworth còn để lại $100,000 tặng người làm việc trong nhà ông cùng các bạn bè khác của ông. (TP)

Chuyện một thuyền nhân Việt mất con

Chuyện một thuyền nhân Việt mất con

Trần Nhật Phong Gửi tới BBC từ Quận Cam, California

Ông Tăng Bảo Can nói ông vẫn hy vọng sẽ tìm được lại con gái mình

Vượt biên và tới được Hoa Kỳ vào năm 1985, suốt hàng chục năm nay ông Tăng Bảo Can, hiện đang sống ở nam California, vẫn đi tìm đứa con gái bị hải tặc Thái Lan bắt đi trong hành trình lênh đênh trên biển khơi.

Cô con gái 14 tuổi của ông bị đem đi mất ngày 26/10/1984, khi con tàu chở gia đình ông cùng nhiều người khác đã tới được hải phận quốc tế.

“Đó là chuyến đi rất đau thương. Nó khiến cho tôi khóc bao phen, mà đến giờ mỗi khi có ai hỏi tới là nó vô tình gợi lại vết thương như dao khứa mỗi ngày, mỗi đêm.”

“Tôi là đàn ông, phải cố chịu đựng nỗi ám ảnh [mất con] để tranh đấu mà sống, nhưng vợ tôi bị trầm cảm cho tới tận ngày hôm nay,” ông Can nói.

Trong hành trình kéo dài năm ngày, tàu của ông đã bị cướp ba lần, và tai họa mất con xảy ra khi hải tặc nhảy lên tàu vào lần thứ tư.

“Trên chuyến tàu có bốn cô gái, hai cô 17 tuổi, hai cô 14 tuổi, trong đó có con gái tôi.”

“Khi lên tàu, chúng xô hết thanh niên ra, trong đó có con gái tôi. Tôi cố gắng ôm giữ cháu, và những lời cuối cùng cháu nói với tôi là ‘Ba đừng bỏ con, ba ơi cứu con’, vợ tôi khi còn nằm trong khoang thuyền, không biết chuyện gì đang xảy ra ở ngoài.”

“Hải tặc bắt con gái tôi cởi bỏ quần áo, mà tôi nghĩ là để chúng tìm vàng, nhẫn giấu trong người. Con gái tôi đã chống cự lại.”

Cách đây khoảng ba năm, hội thiện nguyện East Asia Missing Children Foundation được thành lập nhằm tìm kiếm những đứa trẻ bị thất lạc trong hành trình vượt biên

“Có lẽ bởi vậy nên chúng đẩy con gái tôi sang chiếc tàu của chúng. Đó là những giây phút quá hãi hùng, khi mà tôi phải chứng kiến cảnh đứa con gái yêu thương bị cướp khỏi vòng tay và ngoái lại cầu cứu.”

“Không có một chút khí giới trong tay, nhưng sự sống hay chết đối với tôi khi đó không còn quan trọng. Tôi bất chấp nỗi sợ, cố giành con gái lại từ tay một tên cướp biển có lẽ khoảng 20 tuổi, rồi bị một tên cầm giáo đâm sau lưng khiến tôi bất tỉnh.”

“Con gái tôi rất can đảm, cháu không khóc mà ngoái nhìn tôi. Tôi nhớ giọt lệ lăn tròn trên mặt cháu. Hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt ba chục năm nay.”

Ông Can cho biết ông cùng một số người khác từng qua Thái Lan để tìm kiếm, và đã có hai gia đình may mắn tìm được con cũng bị cướp biển Thái Lan bắt đi từ khi mới được vài tháng tuổi.

Cách đây ba năm, ông Can thành lập hội South East Asia Missing Children Foundation – Hội những đứa trẻ Đông Nam Á bị mất tích, với hy vọng chưa bao giờ nguôi ngoai là mình và những người cùng cảnh ngộ sẽ tìm thấy được những đứa con đã bị thất lạc.

“Phép lạ cũng sẽ đến cho con gái tôi, đến cho gần 100 gia đình có con thất lạc [tham gia Hội]. Tôi không được hỗ trợ nhiều, nhưng tôi sẽ cố gắng đi làm thật nhiều để có tiền cho hội từ thiện này của chúng tôi,” ông Can nói.

Giới thiệu sách ‘Chân Dung H.O.’ trở thành một buổi hội ngộ H.O.

Giới thiệu sách ‘Chân Dung H.O.’ trở thành một buổi hội ngộ H.O.

Nguoi-viet.com

Nguyên Huy/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV)Cả phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt đầy kín, không còn một chỗ trống, cựu tù nhân cải tạo mang danh H.O. tấp nập đến tham dự buổi giới thiệu cuốn sách mới xuất bản của hai nhà văn Huy Phương và Võ Hương An, “Chân Dung H.O. và Những Cuộc Đổi Đời” vào chiều Chủ Nhật, 10 Tháng Năm.

Tác giả Võ Hương An (trái) giới thiệu một cựu tù Cộng Sản còn giữ được một
tấm bảng đeo ngực có chữ H.O. của cơ quan IOM khi ra phi trường
xuất cảnh đi Hoa Kỳ. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Số anh em H.O. đến tấp nập ngay trước giờ khai mạc khiến không khí buổi giới thiệu sách như một buổi hội ngộ của các cựu tù nhân “cải tạo.”

Có lẽ trong số khách tham dự có rất ít người không là H.O. nên buổi giới thiệu sách không chỉ là những mục thường có như giới thiệu tác giả, giới thiệu nội dung tác phẩm, nhận xét về tác phẩm của bạn bè thân hữu.

Buổi giới thiệu sách này lại rơi vào một buổi hội ngộ H.O. khi các diễn giả như Giáo Sư Phạm Cao Dương và ký mục gia Bùi Bảo Trúc đề cập đến vấn đề H.O. như một sự kiện lịch sử, khi tác giả Huy Phương giới thiệu đến một số H.O. tham dự, vừa từng là thân hữu của tác giả, vừa là những H.O. có những hoàn cảnh rất đặc thù trong cuộc đổi đời khốc liệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Giáo Sư Phạm Cao Dương đã nhận định sâu sắc rằng, cuốn sách là một tác phẩm của lịch sử. Nó động đến rất nhiều khía cạnh của một giai đoạn lịch sử trong đó lớp người từng là những anh hùng an dân cứu nước, “được cải tạo” thành những tên “ngụy quân” có tội “trời không dung đất không tha” phải bị giam giữ trong các “hỏa ngục đỏ.”

Sau đó, họ lại “được cải tạo” trở thành những công dân của một nước “hùng mạnh, văn minh nhất thế giới.” Sau hai lần “cải tạo,” những H.O. này đã được đi từ nơi “hỏa ngục” đến chốn “thiên đàng.” Cuộc đổi đời của họ ảnh hưởng sâu rộng đến thế hệ sau là lớp con cháu của họ. Lần “cải tạo” đổi đời thứ nhất cho con cháu họ hiểu thế nào là tự do, thế nào là Cộng Sản, thế nào là hạnh phúc, thế nào là đói khổ, thế nào là quyền sống, quyền được giáo dục, quyền được làm việc, nghĩa là quyền được làm người. Đến lần “cải tạo” thứ hai thì lớp con em đã được huấn luyện trong những lò luyện bằng đau khổ, áp bức, bất công, phi nhân trước đó, nay được bà “tiên tự do” hóa phép cho được hưởng cuộc đời mới mà tương lai nằm trong tầm tay của mình.

Đại diện cho lớp trẻ này là cô Jocelyn Nguyễn, ái nữ của ông Nguyễn Văn Đán, một cựu tù H.O. Cô phát biểu rất rành rọt và lưu loát bằng tiếng Việt dù cô đến Mỹ mới có 6 tuổi.

Cô Jocelyn Nguyễn phát biểu. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Khi được mời lên phát biểu, cô đã “Thưa các bác, các chú” rồi kể rằng khi cô cùng gia đình được ra phi trường đi Mỹ thì cả nhà đều khóc. Trong con mắt của đứa trẻ mới 6 tuổi cô đã hiểu rằng đó là những giọt nước mắt hòa trộn nhiều tâm trạng, tâm trạng lo âu có thể bị ngưng chuyến đi, bị bắt lại, có thể là tâm trạng của cha mẹ khi phải rời bỏ quê hương mà không biết có ngày trở lại hay không, tâm trạng lo âu về một tương lai chưa biết thế nào… Nay thì mọi sự đã qua, cô đã hiểu nguyên do vì đâu cô được có mặt trên phần đất thiên đàng này và cô đã không ngớt nói điều này với những bạn bè cùng thế hệ với cô.

Trước những phát biểu của thế hệ con em H.O., ký mục gia Bùi Bảo Trúc nhận định “đây là những chứng nhân của một giai đoạn lịch sử dân tộc.”

Phần văn nghệ phụ diễn không có những ca nhạc sĩ mà bằng những trình bày một vài ca khúc của các H.O. làm ở trong tù bầy tỏ tâm trạng của mình đã được thu vào các CD.

Bài “Anh Ở Đây” của nhà thơ Thục Vũ được phổ nhạc, được ban tổ chức cho phát lên. Cả hội trường hàng trăm người đã yên lặng lắng nghe để hồi tưởng lại những ngày ở trong ngục tù Cộng Sản.

Cũng thế, bài thứ hai là “Hai Hàng Cây So Đũa,” thơ Nguyên Huy, nhạc Trọng Minh, diễn tả tâm trạng của người tù được vợ con thăm lần cuối trước khi lên đường vào Biển Đông đem con đi tìm tự do.

Trở lại với tác phẩm “Chân Dung H.O. và Những Cuộc Đổi Đời” của Huy Phương và Võ Hương An, đó là một tập tài liệu khá phong phú về chương trình H.O. kể cả về tài liệu, tiến trình hình thành chương trình này và những cuộc đổi đời từ trên những đau thương đổ nát để xây dựng nên những cơ ngơi dù chưa huy hoàng nhưng cũng đã là những bệ phóng cho tuổi trẻ Việt Nam vươn cao ở xứ người.

Các diễn giả đều đưa ra nhận xét rằng tác phẩm được trình bày khúc chiết rõ rệt qua lời văn súc tích của các tác giả. Đó là một tác phẩm không chỉ để đọc mà thôi mà còn là một tài liệu, một chứng tích lịch sử cho các thế hệ sau.

Quý độc giả muốn có sách có thể liên lạc (949) 241-0488, hoặc email: xbnamviet@gmail.com.

Công ty Google mở trường đại học đầu tiên ở châu Á

Công ty Google mở trường đại học đầu tiên ở châu Á

Google quyết định chọn Seoul bởi vì ở đó tốc độ Internet nằm trong số nhanh nhất.

Google quyết định chọn Seoul bởi vì ở đó tốc độ Internet nằm trong số nhanh nhất.

Briden Padden

Hôm nay tại Seoul, công ty Google khai trương đại học đầu tiên ở châu Á nhằm hỗ trợ cho các doanh nhân khởi nghiệp.

Google hy vọng dự án mới sẽ giúp các chương trình và ứng dụng kỹ thuật cao của Triều Tiên tiếp cận được thị trường thế giới, và giúp Google tiếp cận thêm với thị trường Triều Tiên.

So với khu cao ốc trải rộng và những khoảng trống xanh cấu thành khuôn viên chính và trụ sở tổng công ty Google tại thung lũng Silicon ở tiểu bang California, thì “Đại học Seoul, một Không gian Google” chỉ là một dự án nhỏ.

Tọa lạc trong một cao ốc văn phòng ở khu Gangnam sang trọng, trường gồm 2 ngàn mét vuông không gian dành cho văn phòng để các nhà kinh doanh Internet Triều Tiên làm việc.

Nhưng hy vọng Google đặt vào cơ sở này lớn hơn nhiều so với kích thước của nó. Công ty muốn biến nó thành nơi hun đúc sáng kiến ở châu Á.

Bà Mary Grove, giám đốc Google dành cho các nhà Kinh doanh, nói tại Đại học Seoul, các mầm non phát triển chương trình Internet  sẽ được khuyến khích, hướng dẫn và dành cho các cơ hội để lập mạng lưới, và giúp tìm các nhà đầu tư. Bầu không khí hỗ trợ mà Google cung cấp miễn phí này, theo bà, còn giúp công ty xâm nhập thị trường Triều Tiên.

Bà nói: “Google cũng có lợi khi những công ty mới ra lò thành công. Chúng tôi hiểu càng lập được nhiều công ty mới, các công ty lên mạng, sử dụng Internet, sử dụng Google, sử dụng các sản phẩm của Google. Điều đó cũng có lợi cho chúng tôi.”

Nam Triều Tiên là một trong số ít các nước trên thế giới nơi Google không phải là công cụ tìm kiếm Internet hàng đầu. Công ty Naver của Hàn quốc chiếm lĩnh thị trường đó.

Google có các cơ sở tương tự ở London và Tel Aviv, nhưng đây là dự án đầu tiên thuộc loại này ở châu Á.

Trong 3 năm hoạt động ở London, trường đại học Google đã giúp các công ty vừa khởi nghiệp thu hút trên 110 triệu đôla vốn đầu tư và tạo dựng 18 ngàn công ăn việc làm mới.

Một trong các thành viên của Trường Đại học Google ở Seoul là April Kim, người mở một công ty dịch thuật dựa vào Internet có tên là Chatting Cat.  Cô nói cô thích không gian làm việc và những khu hội nghị.

Cô nói điều hay hơn nữa là họ có thể chia sẻ thông tin và những mối quan tâm với những người vừa khởi sự kinh doanh trong khuôn viên đại học, và đây là một động cơ tích cực cho mọi người.

Google quyết định chọn Seoul bởi vì ở đó tốc độ Internet nằm trong số nhanh nhất, và một tập thể kỹ sư có trình độ học thức cao và nhiều tài năng, và ở trong số có tỷ lệ người sử dụng điện thoại thông minh cao nhất thế giới.

Ông Jung-min Lim, giám đốc Đại học Seoul nói chính phủ Nam Triều Tiên cũng tạo điều kiện dễ dàng để khởi sự các dự án kinh doanh mới.

Ông nói cách đây vài năm chính phủ Nam Triều Tiên đã dẹp bỏ nhiều luật lệ cho các cơ sở kinh doanh mới và cung cấp các chính sách ủng hộ các công ty mới.

Tổng thống Park Geun-hye có mặt tại lễ khai trương Đại học Seoul. Năm 2013, chính quyền của bà đã chuẩn chi 3 tỷ đôla để hỗ trợ cho các công ty kỹ thuật cao mới tăng trưởng và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Những bà mẹ già không cô đơn

Những bà mẹ già không cô đơn

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-05-09

IMG_1308-622.jpgNhà dưỡng lão Woodland Hill Senior Housing ở thành phố Arlington, bang Virginia, ảnh chụp hôm 8/5/2015.

RFA PHOTO/Hòa Ái

Your browser does not support the audio element.

Ngày “Mother Day”, Lễ Mẹ ở Hoa Kỳ là dịp những người con tri ân và cảm tạ tình mẫu mẫu tử thiêng liêng. Nhân ngày Lễ Mẹ năm nay, mời quý vị cùng Hòa Ái đến thăm các bà mẹ ở tuổi gần đất xa trời trong viện dưỡng lão cũng như tìm hiểu về cuộc sống buồn vui của họ qua những tháng ngày không ở cạnh người thân.

Có bạn bè, cảm thấy vui hơn

Đặt chân đến tòa nhà dưỡng lão Woodland Hill Senior Housing ở thành phố Arlington, bang Virginia vào một buổi chiều xuân trước ngày lễ dành cho các bà mẹ trong tâm trạng ngỡ ngàng. Nhà dưỡng lão nơi đây là một tòa nhà bê tông kiên cố với hàng trăm căn hộ được bao bọc xung quanh bởi nhiều cây xanh rợp bóng mát, tiếng chim thánh thót quyện trong ánh nắng vàng ngọt của buổi chiều tà ánh trên những bông hoa nhiều màu đang khoe sắc. Tiếng cười nói rộn ràng của những cụ bà người Việt trong sảnh tiếp tân vẳng ra đến tận sân đậu xe của nhà dưỡng lão.

Nhà dưỡng lão mà người Việt ở Mỹ quen gọi là “nhà già” thường gợi lên cảm tưởng đó là một nơi rất cô đơn. Tuy nhiên, ngôi nhà già của gần một trăm cụ bà mà Hòa Ái đến thăm hoàn toàn khác biệt.

” Có gì đâu trở ngại, ở một mình thì chịu thôi. Ở đây cũng vui vì có bạn bè nhiều. Ở nhà con cháu đi làm nên có một mình thôi. Còn ở đây có bạn bè, cảm thấy vui hơn. Nói chuyện vui, có khi nói chuyện nấu ăn, đi chợ này kia nọ…
-Bà Hoa Lưu”

Những bà cụ này đến từ mọi miền trên lãnh thổ rộng lớn Hòa Kỳ. Họ khác nhau về tuổi tác, hoàn cảnh cũng như tình trạng sức khỏe nhưng họ đều có một điểm tương đồng là tận hưởng từng giây phút vui vẻ cùng nhau.

Hòa Ái may mắn tiếp xúc được với nhiều cụ bà đang ngồi hàn huyên trong sảnh tiếp tân. Nhiều cụ đang chờ con cháu ghé qua thăm, chia sẻ rằng mỗi chiều đều có người nhà đến vì con cháu đông đúc quá. Có những cụ không có người thân ở gần nhưng không thấy buồn tủi hay chạnh lòng chi cả vì các cụ rôm rả nói cười, bàn luận nhiều đề tài thật đơn giản nhưng vô cùng quan trọng đối với họ như phải uống nhiều nước, ăn nhiều trái cây, bớt ăn cơm lại, giảm đường, giảm mặn và nhớ tập thể dục đều đặn…Bà cụ Hoa Lưu, 92 tuổi, ở trong nhà già được 6 tháng, cho biết cuộc sống mới của bà ra sao:

“Có gì đâu trở ngại, ở một mình thì chịu thôi. Ở đây cũng vui vì có bạn bè nhiều. Ở nhà con cháu đi làm nên có một mình thôi. Còn ở đây có bạn bè, cảm thấy vui hơn. Nói chuyện vui, có khi nói chuyện nấu ăn, đi chợ này kia nọ…”

IMG_1311-400.jpg

Nhà dưỡng lão Woodland Hill Senior Housing ở thành phố Arlington, bang Virginia, ảnh chụp hôm 8/5/2015. RFA PHOTO/Hòa Ái.

Câu nói “ở một mình thì chịu thôi” trong âm hưởng của tiếng cười giòn tan không nói lên sự than thân trách phận. Dù 92 tuổi bà cụ Hoa Lưu vẫn có thể chăm sóc bản thân. Bà kể lại chi tiết hằng ngày tự nấu ăn. Một tuần có xe buýt chở đi khắp các chợ. Và nhà già cho thức ăn miễn phí một lần/tuần nên các cụ thường nấu và mang xuống nhà ăn tập thể để ăn chung. Cuối tuần còn được chở đi chơi đây đó, tham quan các viện bảo tàng, thăm những thắng cảnh thiên nhiên cũng như đi đến các công viên quốc gia trong thời tiết ấm áp.

Trả lời câu hỏi của Hòa Ái những chuyến đi cùng các hoạt động ngoài trời có nhiều cụ bà tham gia hay không, cụ Đính Nguyễn, 94 tuổi, cho biết rất thích tham gia nhưng bây giờ lớn tuổi nên muốn dành nhiều thời gian cho con cháu vào cuối tuần. Bà cụ Đính Nguyễn còn chia sẻ là rất vui vì mỗi ngày sáng tối đều có người chăm sóc nói tiếng Việt ở bên cạnh mình, giúp nấu ăn, giặt giũ, lau chùi và trò chuyện. Bà nói:

“Tôi giờ già rồi, chín mươi mấy tuổi, sắp trăm tuổi rồi, không còn nhớ lắm đâu. Các cô tốt với tôi lắm, nhắc nhớ ăn uống suốt. Ở đây trò chuyện, hội đàm vui lắm. Cảm ơn chính phủ Mỹ có lòng tốt với những người già.”

Đề cập đến vấn đề sức khỏe, các cụ cho biết không có gì lo lắng. Khi cần đi khám bệnh thì có nhân viên xã hội người Việt đến đưa đón và thông dịch. Dược sĩ người Việt giao thuốc đến tận nơi ở. Còn trường hợp khẩn cấp thì chỉ cần thực hành một bước đơn giản. Cụ bà Cẩm Vân, 80 tuổi, ở nhà già 20 năm, giải thích:

“Ở đây đầy đủ phương tiện. Ở trong nhà này cho mình đeo cái thẻ ‘emergency’ (thẻ cấp cứu), bất cứ lúc nào có xỉu, có gì thì mình bấm vào cái thẻ thì nhà thương chạy tới. Khỏi cần kêu ai hết, bấm cái thẻ đó thôi.”

Mong ước khi chết được bình thản

” Ở tuổi này không còn ước ao gì. Chỉ muốn khi chết không có lẫn lộn, không bị bệnh hoạn thôi.
-Bà Nguyễn Thị Vân”

Hòa Ái được các cụ nhiệt tình dắt tham quan từng căn hộ, nơi các cụ an dưỡng tuổi già. Tòa nhà được thiết kế một cách có hệ thống và tiện lợi với phòng tập thể dục, phòng giải trí đánh bóng bàn, bi-da… phòng họp mặt và còn có phòng vi tính để các cụ kết nối với xã hội bên ngoài. Mỗi căn hộ của các cụ được bày trí đơn sơ, ngăn nắp. Và những căn hộ yên ắng này luôn nhộn nhịp mỗi dịp lễ lạc như Noel hay Tết cổ truyền. Nhiều hội đoàn đến thăm hỏi với nhiều lời chúc tụng cùng những bữa ăn đầm ấm sum vầy.

Vì thuộc trong nhóm sắc dân đông nhất ở ngôi nhà già Woodland Hill Senior Housing, các cụ còn được ban quản lý ưu ái cho phép sử dụng khoảng đất trống ở sân sau, trồng dăm loại rau, vài bụi hành để nhắc nhớ về quang cảnh cùng hương vị nơi quê nhà xa lắc.

Giải đáp thắc mắc của Hòa Ái tại sao các cụ không chọn ở cùng con cháu để họ được gần gũi báo hiếu, hầu hết các cụ bà cho biết họ chọn một cuộc sống tự do, thoải mái sau khi cả đời đã tận tụy làm tròn bổn phận với người thân. Bà cụ Nguyễn Thị Vân, người cao tuổi nhất ở đây, 102 tuổi, kể lại gia đình bà có 5 đời ở Hoa Kỳ. Khi bà muốn vào nhà già ở, từ con đến chắt đều bịn rịn, níu kéo nhưng không bao lâu sau họ nhận ra quyết định của bà là đúng đắn. Lão bà Nguyễn Thị Vân chia sẻ:

“Ở tuổi này không còn ước ao gì. Chỉ muốn khi chết không có lẫn lộn, không bị bệnh hoạn thôi.”

Thỏa lòng với cuộc sống nơi xứ người ở tuổi đời gần đất xa trời, các cụ bà trong nhà già mà Hòa Ái đến thăm hầu như không ao ước gì hơn ngoài thực tại mỗi ngày đều là một ngày vui. Tuy nhiên, khi nghe đến 2 chữ “Việt Nam”, các cụ bà đều đồng thanh mong muốn một ngày về thăm lại làng quê, bà con, họ hàng thêm một lần trước khi họ vĩnh biệt cho chuyến đi cuối cùng trở về cát bụi.

Chia tay trong lưu luyến người cháu gái phóng viên không quen biết, những lão bà với gương mặt hiền lành như những bà tiên trong truyện cổ tích tươi cười dặn dò ‘nhớ giữ gìn sức khỏe và hẹn ngày gặp lại”. Hòa Ái vẫy tay tạm biệt với lòng thầm mong tất cả những bà mẹ VN trong các nhà dưỡng lão khắp nơi mỗi ngày qua đi đều không cô đơn và hạnh phúc như vậy.

Tin mừng cho Thương Phế Binh VNCH

Tin mừng cho Thương Phế Binh VNCH

Cánh Dù lộng gió (Danlambao) – Mới đây sau khi họp Thượng Viện Hoa Kỳ xong Bà Janet Nguyễn người Mỹ gốc Việt đã thông báo một tin rất mừng cho Anh Em TPB/QLVNCH còn sót lại tại VN: “Thượng Viện Mỹ đã thông qua Nghị Quyết SJR5 về việc cho phép TPB/VNCH và gia đình được đi định cư tại Hoa Kỳ. Chỉ còn chờ Hạ Viện Mỹ đang họp thông qua chuyển lên cho Tổng Thống Mỹ duyệt là chương trình HO&ODP sẽ được tiếp tục khởi động lại.

Họ là những người bị bỏ quên, bị ngược đãi sau 40 năm chấm dứt cuộc chiến. Họ là những người ngã Ngựa đã hy sinh một phần thân thể cho miền Nam được hưởng những ngày Tự Do trước năm 1975, với họ phải nói là những người bị thiệt thòi nhất, mù mắt, mất chân, tay, thương tật khắp người, có những người mấy chục năm nay vẫn nằm liệt trên giường choét cả phần lưng, mông. Đương nhiên họ trở thành gánh nặng bất đắc dĩ cho những thành viên trong gia đình.

Những người còn lê lết được thì ban ngày đi bán vé số, bán nhang, bán bàn chải, bán mọi thứ kể cả đi ăn xin để kiếm sống qua ngày, số phận họ tùy thuộc vào lòng thương hại của bá tánh giúp đỡ.

Chính họ đã từng sát cánh với những người bạn Đồng Minh chặn đứng làn sóng Đỏ trước năm 1975.

Sau khi VNCH bị ông bạn Đồng Minh thí Chốt bỏ rơi thì một số đông các cựu viên chức trong chính phủ VNCH đã bị tập trung cải tạo, bù lại họ đã được phía Mỹ can thiệp cho đi định cư cả hơn 10 năm nay rồi.

Còn các Anh Em TPB/VNCH thì bị đối xử phân biệt, CSVN coi họ như những người gây tội ác, có nợ máu với họ, tuy không còn nguy hiểm cho chế độ, nhưng họ vẫn không bao giờ quên lòng thù hận, không giúp đỡ, không hỗ trợ, không có bảo hiểm sức khỏe, mọi thứ trong cuộc sống người TPB/VNCH hầu như tự túc hết, đói khát, bệnh hoạn ráng mà tự lo lấy thân.

40 năm trở thành Công Dân loại 3 (loại 2 là người Dân thường), bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị khinh bỉ, bị nhục mạ, bị phân biệt đối xử, nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng cho dù sống một cách cơ cực trăm bề, lây lất, lê lết kiếm ăn từng bữa. Với họ sức khỏe dù giới hạn nhưng họ vẫn cố gắng bước đi bằng chiếc nạng gỗ hay chiếc xe lăn để mong kiếm những đồng tiền ít ỏi nuôi thân và phụ giúp gia đình, bớt đi gánh nặng cho vợ con.

Mong rằng chính phủ Hoa Kỳ vì lý do Nhân Đạo thông qua Nghị Quyết này một cách nhanh chóng để vơi đi bớt phần nào đau khổ cho các Anh Em TPB/VNCH, cũng như con cháu của các Anh Em được có điều kiện qua học tập nơi đất Nước Tự Do, không còn bị phân biệt đối xử.

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục của tôi hôm nay là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho tôi.

1-

*Hồng Ân lớn lao, vì qua Lễ Thụ Phong Giám Mục trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi nhận ra sự Chúa sai tôi vào lịch sử Việt Nam, ngay trong giờ phút Quê hương bước sang một giai đoạn mới, là một ơn đặc biệt.
*Hồng ân lớn lao, vì khi nhận ra sự trùng hợp lịch sử đó là do ý Chúa, tôi đã cùng với nhiều người, góp phần vào việc xây dựng sự hòa hợp, sự yêu thương trên Quê hương Việt Nam yêu dấu.
Hôm nay, mừng 40 năm hồng ân được Chúa sai đi, tôi xin nói ba lời: Xin cảm tạ, xin tha thứ và xin cầu nguyện.
2.
Trước hết, xin hết lòng cảm tạ Chúa vì muôn ơn Chúa ban cho tôi trong suốt 40 năm qua. Ơn mà tôi coi là quý giá nhất, đó là ơn biết lo nhận ra ý Chúa và biết lo thực thi ý Chúa trong một giai đoạn lịch sử đầy chuyển biến phức tạp.
3.
Thực vậy, giai đoạn lịch sử 40 năm qua đã có nhiều chuyển biến phức tạp, trong xã hội, trong Giáo Hội, và trong chính bản thân tôi.
Chúa dạy tôi là không nên và không thể tránh được những chuyển biến phức tạp đó, nhưng hãy nhìn chúng như một thực tế mà Chúa sai tôi vào, để sống mầu nhiệm nhập thể.
4.
Ý Chúa mà tôi nhận ra là: Sống trong một thực tế phức tạp như thế, tôi phải chú ý rất nhiều đến việc đào tạo mình. Chúa soi sáng cho tôi điều đó, bằng những lo âu rất nóng, Chúa đốt lên trong tôi.
Ý Chúa còn là: Tôi phải đào tạo mình nhờ động lực nội tâm luôn khao khát thuộc về Chúa, luôn thao thức được là người trung tín trong ơn gọi được sai đi.
Ý Chúa còn là: Sự đào tạo mình nhờ động lực nội tâm như thế sẽ phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, luôn coi ơn thánh là ưu tiên hàng đầu, luôn kiên trì phấn đấu từ bỏ mình. Tất cả ý Chúa trên đây ví như ngọn lửa nung nấu lòng tôi.
5.
Tôi đã lo nhận ra ý Chúa.
Tôi đã lo cố gắng thực thi ý Chúa. Những lo lắng đó thực là ơn Chúa. Xin tạ ơn Chúa. Nhiều người tại Việt Nam đã làm gương cho tôi về sự nhận ra ý Chúa và thực thi ý Chúa như vậy.
6.
Gương sáng gần gũi nhất của tôi là Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Trong suốt mấy chục năm sống thầm lặng, Đức Cha Cố Micae luôn là con người cầu nguyện, hãm mình và đọc các tài liệu tu đức. Ngài hay nói: “Phải tận dụng mọi thời giờ để lập công đền tội, xin Chúa cứu các linh hồn”. Tôi coi nếp sống đạo đức như thế của Đức Cha Cố Micae là một gương sáng về đào tạo chính mình trong tình hình mới.
Từ đó tôi nhận ra rằng: Đào tạo chính mình như vậy là chuẩn bị cho mình một nền nhân bản chắc về nhân ái, một nền văn hoá rộng về yêu thương, một nền tu đức sâu về bác ái, để dễ làm chứng cho tình yêu Chúa trong lịch sử phức tạp hiện nay. Những chứng nhân như thế có thể ví như những hạt lúa tốt gieo vào lòng đất Quê Hương Việt Nam này. Họ sẽ âm thầm liên kết các bàn tay hợp tác. Họ sẽ âm thầm nối kết các trái tim tình nghĩa. Tất cả sẽ đều vì lợi ích chung của Nước Chúa
7.
Tôi thường sợ mình không tự đào tạo mình đủ và đúng theo thánh ý Chúa. Biết sợ như vậy là một ơn Chúa. Nên tôi hết lòng cảm tạ Chúa về ơn biết sợ đó.
8.
Cùng với lời cảm tạ trên đây, tôi xin phép nói lên lời xin tha thứ.
Tôi xin hết lòng khẩn nài ơn tha thứ, vì suốt 40 năm qua, tôi đã lỗi phận rất nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những thiếu sót.
9.
Lãnh vực, mà tôi xin Chúa tha thứ nhiều hơn hết, chính là lãnh vực tha thứ. Nghĩa là: Tôi đã không biết lãnh nhận sự tha thứ và tôi đã không biết cho đi sự tha thứ.
Thực vậy, trong tình yêu, việc tha thứ là rất quan trọng. Thế mà, 40 năm làm chứng cho tình yêu Chúa, biết bao lần tôi đã không coi trọng những tha thứ được dành cho tôi, từ Chúa, từ Hội Thánh, từ Quê Hương, từ các tôn giáo bạn, từ những người nghèo, từ chính cộng đoàn của tôi. Hơn thế nữa, 40 năm qua, để làm chứng cho tình yêu Chúa, bao lần tôi đã không cho đi sự tha thứ, cho dù sự tha thứ đó chỉ là lẽ công bằng.
10.
Không biết đón nhận sự tha thứ và không biết cho đi sự tha thứ, những hiện tượng đó đang có chiều hướng gia tăng. Có thể tôi cũng đang phần nào rơi vào cảnh đáng buồn đó. Do vậy, tôi đặc biệt xin Chúa tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực tha thứ. Tôi cũng xin gởi lời xin tha thứ đó tới Hội Thánh của tôi, Quê Hương của tôi, cộng đoàn của tôi.
11.
Thú thực là: Tha thứ là việc không dễ chút nào. Chính vì nó rất khó, nên tôi hết lòng xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, nhất là trong một tình hình mà niềm tin vào con người đang giảm sút trầm trọng.
12.
Những lời xin cảm tạ và xin tha thứ trên đây sẽ được kết thúc bằng lời xin cầu nguyện. Tôi xin các Đức Cha và tất cả anh chị em cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi yếu đuối lắm về mọi mặt. Xin anh chị em hãy coi tôi như một bức thư nhỏ Chúa gửi cho anh chị em. Bức thư nhỏ này chỉ mang một lời kêu gọi thân thương, đó là “Chúa Giêsu vẫn là Đấng hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót. Người là Đấng cứu độ. Hãy tin cậy phó thác nơi Người”. Vậy, tôi xin phó thác cho Chúa Giêsu mọi lo lắng của tôi về bản thân, về Hội Thánh, về Quê Hương, về mọi người thân.
Xin khiêm nhường phó thác cho Chúa tương lai của chúng ta, một tương lai sẽ có nhiều khó khăn và nhiều bất ngờ đáng sợ, nhưng cũng có nhiều hy vọng lớn lao mang ơn cứu độ.

Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.

Long Xuyên, ngày 30.4.2015.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Blogger Điếu Cày: Tự do báo chí ở VN không thể cản trở

Blogger Điếu Cày: Tự do báo chí ở VN không thể cản trở

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tiếp các nhà báo bị đàn áp tại Tòa Bạch Ốc hôm 1 tháng 5, blogger Điếu Cày ngồi bên phải Tổng thống Obama

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tiếp các nhà báo bị đàn áp tại Tòa Bạch Ốc hôm 1 tháng 5, blogger Điếu Cày ngồi bên phải Tổng thống Obama

Trà Mi-VOA

09.05.2015

Ngày Tự do Báo chí Thế giới năm nay 3/5 ghi dấu một sự kiện đáng chú ý đối với nền tự do báo chí Việt Nam khi một blogger bị Hà Nội xem là phản động và cầm tù hơn 6 năm trước khi trục xuất thẳng từ nhà giam sang Hoa Kỳ được Tổng thống Mỹ mời đến Tòa Bạch Ốc để thảo luận về thực trạng tự do ngôn luận, tự do thông tin tại Việt Nam.

” Vi 3 nhà báo được la chn t danh sách trên 30 nhà báo đ được gp Tng thng hôm y là mt ch du ca chính quyn Tng thng Obama cho thy nn t do báo chí Vit Nam rt ti t.

Điếu Cày “

Đây là lần thứ nhì blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải), một trong những người đi đầu phong trào dân báo Việt Nam, được Tổng thống Barack Obama vinh danh nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới sau khi được nhà lãnh đạo Mỹ nhắc tên cách đây 3 năm khi ông còn ngồi sau song sắt nhà tù.

Sáng lập viên Câu lạc bộ Nhà báo Tự do nói cuộc gặp với Tổng thống Barack Obama diễn ra chỉ vài ngày trước cuộc đối thoại nhân quyền thường niên Việt-Mỹ (7/5) cho thấy tình trạng nhân quyền ở Việt Nam tồi tệ ra sao và Hoa Kỳ quan tâm đến thực trạng này đến mức nào trong mối bang giao Việt-Mỹ.

Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay, tiếng nói tiên phong tranh đấu cho tự do báo chí tại Việt Nam và là tác giả của các bài viết về các vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo cũng như phản đối Trung Quốc xâm lược chủ quyền Việt Nam cũng khẳng định rằng ‘tự do báo chí ở Việt Nam là không thể cản trở,’ đồng thời kêu gọi Hà Nội ‘không nên tiếp tục tuyên truyền gây thêm hận thù với người dân’ sau 40 năm chiến tranh kết thúc.

Trà Mi: Một cựu tù nhân lương tâm Việt Nam được Tổng thống Mỹ vinh danh 2 lần, anh có cảm nghĩ thế nào?

Blogger Điếu Cày: Đây là điều rất vinh dự đối với tôi, tôi rất cảm động. Gặp Tổng thống lần này, tôi đã gửi lời tri ân sâu sắc đến Tổng thống và chính phủ Mỹ đã giúp đỡ tôi có được tự do hôm nay. Trong cuộc gặp, tôi đã trình bày đầy đủ các vấn đề về tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam, và vấn đề tù nhân lương tâm. Tôi đã nhắc tới một danh sách các bạn bè cần Tổng thống quan tâm, giúp đỡ. Tôi nói với Tổng thống đôi khi những sự lên tiếng không đem lại tự do ngay tức khắc cho tù nhân lương tâm nhưng đem lại sức mạnh cho họ đứng vững trong các nhà tù, để họ hiểu rằng họ không đơn độc.

” Nhân quyn ca các nước không th khác nhau. Vì vy, h phi sa đi nhng điu lut bt công và xây dng mt xã hi văn minh, tiến b. H không nên tiếp tc tuyên truyn gây thêm hn thù vi người dân”

Trà Mi: Còn những ưu tiên mong muốn hàng đầu của anh gửi gắm qua cuộc gặp lần này ra sao?

Blogger Điếu Cày: Tất cả những điều tôi nói đều nhằm vào các điều luật của Việt Nam vì nếu không thay đổi các luật mơ hồ cho phép chính quyền bắt giữ bất kỳ ai có chính kiến khác thì việc đàn áp, bắt bớ sẽ còn tiếp diễn. Điều quan trọng nhất chúng tôi muốn là Mỹ phải gây sức ép với chính phủ Việt Nam, phải gắn nhân quyền vào các cam kết về kinh tế như TPP. Việt Nam phải từ bỏ các điều luật mơ hồ như 258, 88, 79; bãi bỏ Thông tư 37 của Bộ Công an; và sửa đổi Luật thi hành án hình sự. Tất cả quyền của tù nhân được ghi trong Luật này đã bị Thông tư 37 tước đoạt hết. Họ giam giữ tù nhân với chế độ rất khắc nghiệt, làm cho các tù nhân lương tâm thời gian gần đây liên tục tuyệt thực để phản đối.

Trà Mi: Ngoài đối thoại với nhà cầm quyền Việt Nam về vấn đề nhân quyền hằng năm, Mỹ cũng muốn lắng nghe trực tiếp từ những người đã kinh qua các kinh nghiệm từ Việt Nam. Hành động của nhà lãnh đạo Mỹ đối với anh, một nhân vật bị Việt Nam xem là phản động, theo anh, có thông điệp thế nào?

Blogger Điếu Cày: Với 3 nhà báo được lựa chọn từ danh sách trên 30 nhà báo để được gặp Tổng thống hôm ấy là một chỉ dấu của chính quyển Tổng thống Obama cho thấy nền tự do báo chí ở Việt Nam rất tồi tệ.

Trà Mi: Gặp Tổng thống lần này không chỉ là dịp để trình bày mà còn là cơ hội để thể hiện. Anh muốn thể hiện điều gì với nhà cầm quyền Việt Nam và người dân Việt Nam qua cơ hội này?

Blogger Điếu Cày: Tôi muốn nói với bạn bè còn trong nước rằng chúng tôi tuy ra ngoài này nhưng không quên họ, chúng tôi vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong nước. Anh em Câu lạc bộ nhà báo tự do chúng tôi vẫn tiếp tục chung tay để làm những công việc đó.

Trà Mi: Đó là thông điệp anh muốn gửi tới những người có cùng suy nghĩ với mình. Còn với những người khác suy nghĩ với anh, chẳng hạn như nhà cầm quyền Việt Nam, anh muốn gửi thông điệp gì tới họ qua sự xuất hiện lần này bên cạnh Tổng thống Obama?

Blogger Điếu Cày: Tôi nghĩ chính quyền Việt Nam sau 40 năm chiến tranh và giờ đây đã bang giao với Mỹ, nên xem xét lại thái độ của mình hành xử trong cộng đồng quốc tế, một xã hội loài người đang tiến tới các chuẩn mực nhân quyền phổ quát chung cho cả nhân loại. Nhân quyền của các nước không thể khác nhau. Vì vậy, họ phải sửa đổi những điều luật bất công và xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Họ không nên tiếp tục tuyên truyền gây thêm hận thù với người dân.

“… thông tư 37 ca B Công an, mt văn bn được giu kín và được s dng đ tước đot các quyn mà tù nhân được hưởng trong Lut Thi hành án hình s. Ln này, Hoa Kỳ s làm rõ, h không mun chính quyn Vit Nam s dng các điu lut không được công b đ đàn áp tù nhân...”

Trà Mi: Nhìn lại tự do báo chí ở Việt Nam 10 năm trước với thời điểm này, anh nhận xét thế nào?

Blogger Điếu Cày: Tôi thấy có những tiến triển rất mạnh về số người tham gia mạng truyền thông xã hội ngày càng mạnh mẽ. Các thông tin nhà nước muốn bưng bít không thể bưng bít được nữa. Sự phản biện trên các phương tiện truyền thông tự do giờ đã rất mạnh mẽ. Trong tương lai, việc cản trở thông tin là không thể. Hiện nay Việt Nam có 20 triệu trang Facebook. Chỉ cần 1% trong số đó dùng Facebook của mình như một trang báo nhỏ độc lập thì chúng ta có biết bao nhiêu tờ báo nhỏ độc lập. Trong tương lai, sẽ không gì ngăn cản nổi truyền thông internet và tự do báo chí ở Việt Nam là không thể cản trở được.

Trà Mi: Với tư cách một nhà báo độc lập của Việt Nam được thế giới biết tiếng, anh sẽ đóng góp cho tiến trình đó ra sao một cách cụ thể và hiệu quả nhất?

Blogger Điếu Cày: Khi còn trong nước, chúng tôi thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, thành lập Câu lạc bộ Nhà báo tự do vì những quyền đó. Sau thời gian hoạt động, tôi nhận ra rằng khi các blogger cùng lên tiếng, sẽ tạo ra một mạng lưới truyền thông rất mạnh. Vì vậy, chúng tôi phát động phong trào dân báo từ 1/1/2008: Mỗi blogger hãy là một nhà báo công dân. Phong trào dân báo đã đem lại hiệu quả nhất định. Hiện nay người dân Việt Nam sử dụng blog để cất lên tiếng nói ngày càng nhiều. Mặc dù chúng tôi bị đàn áp, nhưng đã đóng góp được phần nhỏ bé vào phong trào dân báo đó. Trang Danlambao với lượng truy cập rất cao cũng cho thấy sự thành công của mạng lưới báo công dân, hoặc anh em blogger cũng đã lập ra Mạng lưới blogger Việt Nam. Đó là những chỉ dấu của một phong trào dân báo đã bước lên một bước cao. Chúng tôi và Câu lạc bộ nhà báo tự do cũng vinh dự là đóng góp được một phần vào đó.

Trà Mi: Anh từng chia sẻ ước muốn làm cầu nối giúp mở rộng mạng lưới truyền thông độc lập trong-ngoài. Những khó khăn nhất đối với kế hoạch đó tới thời điểm này là gì?

Blogger Điếu Cày: Vì tôi mới ở tù ra, anh em chúng tôi cũng không có kinh phí hoạt động, phải đi khắp nơi để vận động đóng góp. Chúng tôi cũng xây dựng các hồ sơ về các tù nhân lương tâm để lên tiếng bảo vệ họ.

Trà Mi: Điếu Cày sau song sắt nhà tù cách đây 3 năm được Tổng thống Mỹ nhắc tới nhân ngày Tự do báo chí thế giới và hiện nay bên cạnh Tổng thống Mỹ khác nhau thế nào?

Blogger Điếu Cày: Tôi vẫn là Điếu Cày như cũ, chỉ khác là trách nhiệm giờ nặng nề hơn rất nhiều, chúng tôi sẽ cố gắng hơn nữa để đáp ứng mong mỏi của mọi người.

Trà Mi: Nếu có cơ hội chia sẻ với những người khao khát tự do báo chí trong nước, anh sẽ ưu tiên chia sẻ điều gì với họ và anh cần họ chia sẻ điều gì với anh?

Blogger Điếu Cày: Tôi muốn các bạn đoàn kết hơn nữa để chúng ta hướng tới một nền tự do báo chí, tự do ngôn luận cho Việt Nam. Các bạn chính là liên kết những cầu nối với nhau để tạo nên những mạng lưới truyền thông mạnh mẽ. Còn chúng tôi ngoài này sẽ cố gắng giúp các bạn, tìm mọi cách thúc đẩy quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong nước, lên tiếng bảo vệ các bạn khi các bạn bị tù đày, sẽ chuyển tải thông điệp các bạn muốn chuyển tới quốc tế. Tôi mong muốn cộng đồng, tất cả những người quan tâm đến nhân quyền Việt Nam cố gắng chung tay giúp đỡ, đặc biệt trong việc ký thỉnh nguyện thư gửi lên Liên hiệp quốc sắp tới, đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam phải sửa đổi những điều luật về nhân quyền. Trong những ngày diễn ra đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ, tôi biết rằng chính phủ Hoa Kỳ lần này cũng rất quan tâm đến thông tư 37 của Bộ Công an, một văn bản được giấu kín và được sử dụng để tước đoạt các quyền mà tù nhân được hưởng trong Luật Thi hành án hình sự. Lần này, Hoa Kỳ sẽ làm rõ, họ không muốn chính quyền Việt Nam sử dụng các điều luật không được công bố để đàn áp tù nhân như vậy. Tôi hy vọng các bạn tù của tôi trong nước nghe được những tin này sẽ biết rằng chúng tôi không quên họ, chúng tôi vẫn đang tiếp tục đấu tranh cho các bạn ấy.

Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn anh đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.

Học giả = làm ruộng

Học giả = làm ruộng

GS Nguyễn Văn Tuấn

Nguyễn Đổng Chi là một học giả nổi tiếng. Mới đọc bên fb của Hoàng Oanh thấy người ta tổ chức hội thảo 100 năm ngày sinh của ông, và cái hình chụp lại tờ “Giấy thông hành” cấp cho ông vào ngày 24/5/1955 (tức thời Cải cách ruộng đất) rất thú vị. Tờ giấy ghi nghề nghiệp của ông là “làm ruộng”, nhưng phía dưới ghi mục đích của chuyến đi là “gặp Ban nghiên cứu Văn Sử Địa”. Vui thật! Một anh nông dân mà có việc gì phải đi gặp một cơ quan nghiên cứu, mà còn nghiên cứu văn sử địa!

Tờ giấy thông hành là một chứng từ cho một thời tăm tối. Thời đó, dĩ nhiên những người như cụ Nguyễn Đổng Chi được xem là thành phần trí thức, tức là nằm trong nhóm bị “Đào tận gốc, trốc tận rễ”. Cho nên, ông quan chức công an Hà Tĩnh mới thương tình cho ông cái nghề rất hiền lành là “làm ruộng” cho an toàn trên đường đi từ Hà Tĩnh ra Hà Nội.

Tôi không rõ có bao nhiêu bạn trẻ ngày nay còn nhớ — hay thậm chí biết — đến Nguyễn Đổng Chi, chứ những người thuộc thệ hệ tôi lớn lên ở miền Nam trước 1975 thì ông là học giả rất nổi tiếng. Gia đình tôi có một bộ sách do Ba tôi sưu tầm. Bộ sách gồm nhiều truyện Tàu như Tam Quốc Chí, Thuỷ Hử, Hán Sở Tranh Hùng, v.v.. Đặc biệt là cuốn Kho Tàng Truyện Cổ Tích của Nguyễn Đổng Chi. Có thể nói tôi lớn lên với những truyện trong cuốn đó. Ngày ngày đi học về, tôi ngấu nghiến đọc những truyện trong đó và tha hồ .. tưởng tượng. Ôi, một thời thiếu niên thật thần tiên với những truyện con sam, sự tích cái chổi, ông bình vôi, cái chân con chó, v.v. Văn chương giản dị, nhân cách hoá sự vật làm cho mình rất gần với sự vật, cộng với minh hoạ (chỉ vẽ tay) làm cho cuốn sách là một cuốn không thể thiếu được trong tủ sách gia đình.

Ấy thế mà sau này tôi được biết ông cụ này cũng bị lọt vào dòng xoáy của cơn lốc “Nhân văn giai phẩm”. Dưới áp lực của đảng, ông viết bài chỉ trích và vu khống cụ Phan Khôi, một học giả nổi tiếng khác. Nhưng cụ Đổng Chi là người đàng hoàng và nhà văn hoá lớn, nên ông có chối lại cho con trai (tức là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi) giải oan cho cụ.

Nhưng qua buổi hội thảo kỉ niệm ngày sinh của ông, chúng ta mới biết “người ta” vẫn còn rất dè dặt với các học giả đương thời. Theo Hoàng Oanh kể lại thì hội thảo không phải suôn sẻ như chúng ta nghĩ. Oanh viết:

“Để hội thảo có thể tiến hành được thì Ban tổ chức (Hội Văn học Nghệ thuật TPHCM, Nhà xb Trẻ, Tập đoàn truyền thông Thanh Niên) không được đăng tham luận của nhà văn Nguyên Ngọc vào kỷ yếu hội thảo, không được mời nhà văn Nguyên Ngọc; ông con Nguyễn Huệ Chi không được phát biểu cám ơn và những người tham dự hội thảo mà phải giao cho cô út, muốn trao đổi với các ý kiến tham luận thì đứng dưới hội trường chứ không được lên bục diễn giả, và nhiều chuyện khác …”

Hoàng Oanh nói là “chuyện bên lề”, nhưng tôi thì thấy đó là chuyện quan trọng. Quan trọng là vì những câu chuyện như thế nói lên một sự thật là có những thế lực vô hình cố tình gây cản trở cho tự do học thuật. Và, thế lực này không từ bỏ một tiểu tiết nào, cho dù là rất hèn, để đạt được mục tiêu của họ. Do đó, tôi cũng rất ngạc nhiên như Hoàng Oanh là “Nền tự do như vậy mà lại đi ‘giải phóng’ một nơi tự do khác”. Thế mới có ông nhạc sĩ nào đó sáng tác bài “Anh giải phóng tôi, hay tôi giải phóng anh”.

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

Chi tiền tỷ xây trạm y tế nhưng chỉ có một giường bệnh

Chi tiền tỷ xây trạm y tế nhưng chỉ có một giường bệnh

Nguoi-viet.com

QUẢNG NGÃI (NV) Hai trạm y tế ở hai xã của huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi, được chính quyền bỏ hơn 9 tỷ đồng xây dựng, thế nhưng mỗi trạm chỉ có một chiếc giường cho bệnh nhân. Số bệnh nhân còn lại phải nằm dưới đất.


Dù được xây dựng khá khang trang nhưng trạm y tế xã Thanh An chỉ có 1 chiếc giường cho bệnh nhân. (Hình: Người Lao Ðộng)

Theo báo Người Lao Ðộng, vào tháng 1, 2014, trạm y tế xã Thanh An, huyện Minh Long, được xây mới hết 4.2 tỷ đồng với 6 phòng khang trang. Thế nhưng từ đó đến nay, trạm y tế này chỉ có 1 chiếc giường cho bệnh nhân, không có thiết bị y tế chuyên dùng.

Ông Nguyễn Diên Ngôn, trạm trưởng trạm y tế xã Thanh An cho báo này biết, chiếc giường này được chuyển qua từ trạm y tế cũ và đã xài hơn 15 năm. “Nhiều lúc bệnh nhân đến đông, vì không có giường nên các y tá phải cho… nằm đất. Do vậy, người dân ngán ngẩm nên ít đến đây điều trị.”

Tương tự, trạm y tế xã Long Mai cũng được đầu tư hơn 5 tỷ đồng và đưa vào hoạt động gần 1 năm qua, nhưng phần lớn các phòng đều đóng cửa vì không có bàn ghế và trang thiết bị y tế khám chữa bệnh. Cả trạm y tế này cũng chỉ có 1 giường bệnh duy nhất.

Theo ông Nguyễn Văn Thuần, chủ tịch huyện Minh Long thì, trạm y tế 2 xã Thanh An và Long Mai được huyện cấp vốn xây dựng. Còn việc mua sắm trang thiết bị y tế là do Sở Y Tế Quảng Ngãi quyết định.

Bà Ðinh Mai Hương, giám đốc trung tâm y tế huyện Minh Long thừa nhận, tình trạng thiếu giường cho bệnh nhân ở các trạm y tế xã đã tồn tại lâu nay và hầu như trạm nào cũng thiếu, trong khi việc đầu tư trang thiết bị y tế phải xin chủ trương của Sở Y Tế. Trung tâm đã kiến nghị và sở đã hứa cấp tiền nhưng đến giờ vẫn chưa có. Vì vậy các trạm y tế chủ yếu làm sơ cứu, phần lớn bệnh nhân được chuyển lên huyện, tỉnh hoặc nằm tại nhà. (Tr.N)

Hạ nghị sỹ Mỹ gặp giới bất đồng tại VN

Hạ nghị sỹ Mỹ gặp giới bất đồng tại VN

Ông Lowenthal đã đến thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền viện

Một hạ nghị sỹ Mỹ tháp tùng phái đoàn Quốc hội nước này đến Việt Nam đã có chuyến thăm viếng các nhân vật bất đồng chính kiến như Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, ông Nguyễn Tiến Trung và đến viếng Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, thông cáo từ văn phòng vị hạ nghị sỹ này cho biết.

Thông cáo báo chí từ văn phòng Hạ nghị sỹ Alan Lowenthal cho biết ông đã thực hiện những chuyến viếng thăm này ngay trong ngày đầu tiên ông đến Việt Nam – hôm thứ Hai ngày 4/5.

‘Vinh danh tử sỹ Việt Nam Cộng hòa’

Cũng theo thông cáo này thì việc đi viếng Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là ‘ý kiến cá nhân’ của chính ông Lowenthal đề nghị vào lịch trình của phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ vì ông ‘muốn đích thân được đến nghĩa trang để tưởng niệm, vinh danh các tử sỹ Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng như để quan sát tình trạng hiện nay của nghĩa trang’.

Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là nơi an nghỉ của hơn 16.000 tử sỹ của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã thiệt mạng trong cuộc chiến kết thúc 40 năm trước đây. Kể từ khi chiến tranh kết thúc, nghĩa trang này đã không được coi sóc và bảo dưỡng.

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ là Đệ ngũ Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một giáo hội bị chính quyền Việt Nam cấm đoán. Trong nhiều năm qua Ngài đã bị quản chế tại Thanh Minh Thiền viện thuộc Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ông Nguyễn Tiến Trung là một cựu tù nhân chính trị bị buộc tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước’ và “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’. Ông Trung đã được trả tự do hồi tháng Tư năm 2014.

Hòa thượng Thích Quảng Độ được cho là đã trình bày với ông Lowenthal về ‘thực trạng đàn áp’ đối với giáo hội do Ngài lãnh đạo và kêu gọi Hoa Kỳ ‘hỗ trợ cho tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam’.

Ông Lowenthal từng đề xuất Ngoại trưởng John Kerry nêu vấn đề Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa với chính quyền Hà Nội

Về phần mình, ông Nguyễn Tiến Trung đã nhấn mạnh với Hạ nghị sỹ Lowenthal ‘về nhu cầu tạo thêm sự quan tâm của thế giới đối với tình trạng nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam’, theo thông cáo.

Ông Trung từng được Hạ nghị sỹ Lowenthal nhận đỡ đầu trong chương trình ‘Bảo vệ các Quyền Tự do’ do Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos thuộc Quốc hội Hoa Kỳ thành lập.

‘Cuộc gặp chính thức’

Trao đổi với BBC về nội dung cuộc gặp, ông Nguyễn Tiến Trung cho biết đây là ‘một cuộc làm việc chính thức chứ không phải cuộc gặp gỡ cá nhân’.

“Ông Lowenthal dẫn đầu phái đoàn gồm sáu, bảy người đến gặp tôi và nói rõ rằng đây là phái đoàn của Hạ nghị viện Mỹ,” ông Trung nói và cho biết cuộc gặp đã diễn ra tại một quán cà phê trong khoảng 20 phút.

“Tôi cũng nêu quan điểm thẳng thắn với phía Hoa Kỳ rằng vấn đề dân chủ của Việt Nam thì cuối cùng người quyết định chính là người dân Việt Nam. Còn nếu người dân Việt Nam không dám lên tiếng về việc mình bị mất quyền làm chủ như vậy thì dù Mỹ hay châu Âu cũng không thể nào lên tiếng giúp đỡ Việt Nam được.

Ông Nguyễn Tiến Trung”

Ông Trung cũng cho biết hai ông đã trao đổi về việc Hoa Kỳ có nên đồng ý cho Việt Nam gia nhập TPP, tức Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, hay không.

“Quan điểm của tôi là các dân biểu Mỹ nên bỏ phiếu cho Việt Nam gia nhập TPP vì sự mở cửa về kinh tế sẽ dẫn đến mở cửa về chính trị,” ông Trung kể lại, “Nhưng tôi cũng nói là phía Mỹ nên kèm theo yêu cầu Việt Nam cho phép thành lập công đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi của công nhân trước các vị chủ tư bản.”

“Những ý kiến của tôi là một kênh để ông tham khảo và cân nhắc trước khi ông quyết định có bỏ phiếu cho Việt Nam gia nhập TPP hay không,” ông Trung nói.

Ông Trung cũng cho biết ông đã trình bày với ông Lowenthal về tình trạng những nhà hoạt đông dân chủ ở Việt Nam ‘bị sách nhiễu’.

“Một số bạn không thể thuê nhà được vì vừa dọn đến thuê thì chủ nhà bị an ninh dọa dẫm nên không dám cho thuê nữa,” ông nói, “Một số không kiếm được việc làm vì đi xin việc thì có người đến chặn phá. Ngày lễ thì không được di chuyển tự do do an ninh lo sợ có biểu tình hay sao đó.”

“Ông Lowenthal có hứa sẽ làm việc với chính quyền Việt Nam,” ông Trung cho biết.

‘Quyết định là ở người dân Việt Nam’

Ông Lowenthal là người đỡ đầu cho cựu tù nhân chính trị Nguyễn Tiến Trung

Theo lời ông Trung thì ông đến cuộc gặp với phái đoàn Mỹ không gặp trở ngại gì nhưng sau đó ông đã bị ‘cảnh sát khu vực, đại diện Mặt trận Tổ quốc đến nhà và gọi điện hỏi xem tôi đi đâu’.

Ông Trung nói rằng ông ‘không hy vọng gì nhiều về sự thay đổi trong chính sách của chính quyền Việt Nam đối với các nhà hoạt động dân chủ’ mặc dù có sự quan tâm của phía Hoa Kỳ.

“Họ (chính quyền) vẫn trấn áp thôi nhưng hạn chế bắt bớ và làm những việc khác để hạn chế các nhà hoạt động,” ông nói.

“Tôi cũng nêu quan điểm thẳng thắn với phía Hoa Kỳ rằng vấn đề dân chủ của Việt Nam thì cuối cùng người quyết định chính là người dân Việt Nam,” ông Trung nói, “Còn nếu người dân Việt Nam không dám lên tiếng về việc mình bị mất quyền làm chủ như vậy thì dù Mỹ hay châu Âu cũng không thể nào lên tiếng giúp đỡ Việt Nam được.”

Sau Thành phố Hồ Chí Minh, phái đoàn nghị sỹ Hoa Kỳ sẽ đến Hà Nội và dự kiến ‘sẽ gặp một số nhân vật lãnh đạo trong chính quyền Việt Nam cũng như một số nhà hoạt động nhân quyền’.

Chuyện ‘tìm người 40 năm cũ’ của Los Angeles Times

Chuyện ‘tìm người 40 năm cũ’ của Los Angeles Times

Nguoi-viet.com

Ðỗ Dzũng/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV)Chỉ vì một tấm hình cũ, trong đó có một cụ già và một em bé trong trại tị nạn Camp Pendleton, San Diego, được chụp hồi năm 1975, mà nhật báo The Los Angeles Times cử ba người, hai phóng viên ảnh và một nhà báo, bắt tay vào làm việc để tìm hiểu xem cuộc đời của em bé này bây giờ ra sao.


Cô Lisa Hà Nishihara và tấm hình do phóng viên ảnh Don Bartletti chụp ở Camp Pendleton năm 1975. (Hình: graphics.latimes.com)

Em bé này, một người tị nạn Việt Nam tạm cư ở Camp Pendleton năm 1975, bây giờ đang sống ở Fresno, tên là Hoàng Hà, và bây giờ có tên Lisa Hà Nishihara.

Hai phóng viên ảnh Don Bartletti và Don Kelson, từng tham chiến tại Việt Nam hồi cuối thập niên 1960, và nhà báo Ðỗ Bảo Anh, từng sống trong trại tị nạn Camp Pendleton cùng thời gian với em bé trong tấm hình.

Phóng viên ảnh Don Bartletti, từng đoạt giải Pulitzer năm 2003 qua loạt ảnh về thanh thiếu niên các quốc gia Trung Mỹ đi qua Mexico để vượt biên vào Mỹ.

Còn phóng viên ảnh Don Kelson cách đây 40 năm làm phóng viên ảnh cho Rio Hondo College ở Whittier, California, và có chụp một số hình về đời sống của người Việt trong Camp Pendleton.

“Một điều quan trọng trong lãnh vực chụp ảnh báo chí là nhân vật trong tấm ảnh. Phóng viên ảnh không chỉ chụp nhân vật đó, mà phải để ý xem nhân vật đó bây giờ sống ra sao,” phóng viên ảnh Don Bartletti chia sẻ lý do ông đi tìm em bé 5 tuổi trong tấm hình ông chụp ở Camp Pendleton năm 1975.

Ði tìm em bé

Ngày 26 Tháng Ba, nhật báo Người Việt đăng một bản tin ngắn với tựa đề “Tìm người 40 năm cũ” với nội dung như sau: “Hai tấm hình dưới đây được nhiếp ảnh gia, nhà báo nổi tiếng từng thắng giải Pulitzer về hình ảnh báo chí Hoa Kỳ, Don Bartletti, chụp cách đây 40 năm, tại Camp Pendleton, California, ngay sau biến cố 30 Tháng Tư. Hôm nay, 40 năm sau, tác giả và phóng viên một tờ báo Anh Ngữ mong muốn đi tìm lại những nhân vật trong các tấm hình này. Tấm hình thứ nhất là cụ bà Trần Thị Năm và một người cháu gái. Theo ký ức của phóng viên Bartletti, cụ bà Trần Thị Năm cùng 14 người trong gia đình đến Camp Pendleton vào khoảng Tháng Tư, 1975, khi cụ đã 110 tuổi. Cụ Năm qua đời cũng thời gian ấy, ngay trong trại, vì chứng viêm phổi. Bé gái trong hình có thể là cháu nội/ngoại hoặc cháu cố của cụ Trần Thị Năm. Gia đình cụ Trần Thị Năm rời Việt Nam trên một chiếc thuyền ra đi từ Phú Quốc hồi Tháng Tư, 1975.”


Tấm hình “Tìm người 40 năm cũ” của do phóng viên ảnh Don Bartletti chụp, đăng trên nhật báo Người Việt ngày 26 Tháng Ba. (Hình: Don Bartletti/The Vista Press)

Dưới tấm hình là lời nhắn cho cô bé trong hình, hoặc bất cứ ai biết cô, xin liên lạc với LAT.

Lúc đó, cả ba nhân viên của LAT không biết tên em bé trong hình.

“Ban đầu, có nhiều người gọi đến, sau khi đọc bản tin trên nhật báo Người Việt, nhưng đa số là tò mò,” nhà báo Ðỗ Bảo Anh kể. “Tuy nhiên, có một người tên Tâm ở Port Arthur, Texas, gọi đến, nói rất chi tiết về tấm hình. Anh Tâm còn nói cô bé là em họ của anh, nhưng anh lại không quen, mà quen với người chị.”

Thế là anh Tâm cho số điện thoại người chị, đang sống ở New Jersey.

“Lúc đó, nếu tính theo múi giờ thì cũng khuya lắm rồi, nhưng tôi vẫn gọi,” nhà báo Ðỗ Bảo Anh kể. “Rồi chị Minh có nói một chút về tấm hình, về người em gái, nhưng lại không cho số điện thoại, mà giới thiệu một người cô ở Fresno, California. Sau đó, tôi gọi cho người cô, rồi mới xin được số điện thoại của Lisa, cũng sống ở Fresno,” nhà báo Ðỗ Bảo Anh kể.

Có số điện thoại của nhân vật rồi cũng không phải dễ phỏng vấn.

Nhà báo Ðỗ Bảo Anh kể: “Lúc gọi điện thoại, tôi nghe thấy cô kể chuyện với tôi, nhưng phía sau lại có tiếng chồng và con gái, cũng kể về chuyện tấm hình, nhưng rất khó hiểu. Thế là tôi quyết định phải gặp Lisa cho bằng được, để phỏng vấn dễ dàng hơn.”

Nhưng khi cả ba tới nơi, cô Lisa Hà Nishihara lại ngại ngùng, nhất là khi thấy có tới hai phóng viên ảnh, một người chụp hình và một người quay phim, cộng với một phóng viên.

Theo nhà báo Ðỗ Bảo Anh, sự ngại ngùng của cô Lisa có thể hiểu được, vì Fresno là một vùng rất bình yên, nằm ngay thung lũng trung tâm California, xung quanh đều là nông trại. Kế đến, gia đình cô Lisa cũng không tiếp xúc nhiều với cộng đồng bên ngoài.


Nhà báo Ðỗ Bảo Anh: “Tôi phải thuyết phục Lisa… Cuối cùng cô đồng ý nói chuyện.” (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Thế là tôi phải thuyết phục cô. Tôi nói rằng tôi cũng không thích ngồi trước ống kính, nhưng tôi và cô có thể ngồi với nhau, nói chuyện bình thường, không ép buộc. Thế là cô đồng ý. Trong lúc nói chuyện, mọi thứ từ từ trở nên tự nhiên hơn, và cô từ từ chia sẻ ký ức của mình, nhất là khi cô nhìn thấy tờ báo The Vista Press in cách đây 40 năm, có hình cụ Trần Thị Năm và cô ở trang chính,” nhà báo Ðỗ Bảo Anh kể.

Nhân vật là chính

Cô Lisa Hà Nishihara không ngờ hình của mình được đăng trên trang nhất một tờ báo, cô không bao giờ nghĩ đến điều này, và cũng chưa bao giờ thấy, hoặc nghe nói, cho đến khi phóng viên ảnh Don Bartletti đưa tờ báo The Vista Press, nơi ông bắt đầu làm phóng viên ảnh cách đây 40 năm, cho cô xem.

Cô đã thốt lên: “Ủa, tôi có ở trong tấm hình đó hả? Cho tôi xem được không? Trời ơi, không ngờ là hình cụ tôi và tôi đây.”

Và cô khóc, nói rằng, nếu cha cô nhìn thấy tấm hình, chắc chắn ông sẽ vô cùng sung sướng.

Ngưng lại một lúc để lau nước mắt, cô Lisa không biết nói gì hơn, nhìn phóng viên ảnh Don Bartletti, nói với ông hai chữ rất rõ ràng: “Thank you.”

“Khi tôi chụp hình nhân vật, họ mới là chính, chứ không phải tôi,” phóng viên ảnh Don Bartletti chia sẻ. “Trong trường hợp này, cô Lisa tự nhiên cảm thấy mình là một cái gì đó quan trọng, mà cô chưa bao giờ dám nghĩ đến. Rồi cụ của cô nữa, tự nhiên cũng quan trọng không kém.”

Ông nói thêm: “Nói chung, khi chụp hình, mình phải chụp làm sao cho nhân vật trong ảnh cảm thấy được trân trọng.”

“Thật là cảm động khi biết Don Bartletti giữ tờ báo này trong nhiều năm, và nó rất ý nghĩa đối với tôi,” cô Lisa Hà Nishihara chia sẻ với nhật báo Người Việt. “Không có lời nào có thể diễn tả được. Thật buồn, chúng tôi rời quê mẹ, và cụ tôi qua đời (trong Camp Pendleton). Ðó là một sự cố gắng. Và tấm hình này gợi lại rất nhiều kỷ niệm.”


Phóng viên ảnh Don Baretletti tại Camp Pendleton năm 1975. (Hình: Don Baretletti cung cấp)

Cô nói thêm: “Tấm hình cũng gợi nhớ lại những kỷ niệm ở Việt Nam. Tôi còn nhớ, cụ luôn luôn ở bên cạnh chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ không được như ngày hôm nay. Mỗi ngày đi học cụ thường cho tôi tiền để xài, và tôi hư lắm. Ngày nào tôi cũng bị ăn đòn. Nhờ vậy mà tôi phải đi học và được như ngày hôm nay.”

“Tôi không biết Don Bartletti là ai. Tôi không bao giờ biết tấm hình này được đăng trên báo. Tôi có tấm hình này. Và Don Bartletti rất ngạc nhiên là tôi có tấm hình này và làm sao tôi có thể giữ được nó trong 40 năm qua,” cô Lisa nói.

Phóng viên ảnh Don Bartletti kể: “Khi tôi vừa bước vào nhà, cô Lisa bước từ trên lầu xuống với tấm hình cụ bà Trần Thị Năm 110 tuổi và Lisa lúc 5 tuổi. Tôi nhớ, khi chụp tấm hình này, tôi có đưa một bản cho Camp Pendleton. Và theo như cô nói, khi bà cụ qua đời, họ đưa tấm hình đó cho Lisa.”

Dù đã nhiều lần chú trọng nhân vật chính trong hình, rồi sau đó tìm hiểu xem bây giờ họ ra sao, đối với ông Bartletti, trường hợp gặp cô Lisa đặc biệt hơn bao giờ hết.

Ông kể: “Thỉnh thoảng tôi cũng đi tìm những thanh niên mà tôi chụp hình, trong lúc họ vượt biên vào Mỹ. Thông thường là khoảng hai hoặc ba năm sau, nên không thấy họ có thay đổi nhiều.”

“Trường hợp của Lisa vô cùng đặc biệt, vì tôi chụp hình cô cách đây 40 năm, và tôi rất muốn biết nhân vật của mình bây giờ ra sao, để tiếp tục ghi lại cho độc giả,” ông Bartletti nói. “Tôi biết lịch sử đã được lập tại Camp Pendleton. Lịch sử của một cô bé 5 tuổi. Và tôi rất muốn ghi lại lịch sử này.”

Ông chia sẻ thêm: “Và không có gì sung sướng cho bằng, đối với một phóng viên ảnh, khi cô Lisa hỏi: ‘Có phải ông là người chụp tấm hình đó?’ Cô không thể ngờ có ngày cô gặp lại người chụp hình cô. Ngay lúc đó, tự nhiên tôi nhớ lại tất cả những gì xảy ra cách đây 40 năm.”


Phóng viên ảnh Don Kelson: “Dự án này gắn bó cả ba chúng tôi, hai người từng đến Việt Nam và một người từng là người Việt tị nạn trong Camp Pendleton.” (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Và bây giờ ông Don Bartletti mới được biết, sau khi rời Camp Pendleton, cha mẹ cô Lisa tìm được việc làm trong các nông trại ở Fresno. Riêng cô, ban đầu định đi học trở thành bác sĩ nhi đồng, nhưng vì không chịu nổi tiếng khóc của trẻ em, cuối cùng, cô làm việc trong một trung tâm cấp cứu.

Lục lọi quá khứ 40 năm

Khi đi tìm những nhân vật trong hình của mình cách đây 40 năm, hai phóng viên ảnh Don Bartletti và Don Kelson, và nhà báo Ðỗ Bảo Anh phải “lục lọi quá khứ 40 năm” trong đầu của họ qua các tấm hình.

Cả ba đến Camp Pendleton trong những ngày gần tới ngày tưởng niệm 40 năm Tháng Tư Ðen. Nhà báo Bảo Anh Ðỗ lái xe đi tìm lại những ký ức của một cô bé, nhưng bây giờ tất cả đã biến mất.

Nhưng với hai phóng viên ảnh thì không.

“Thực sự, trước khi làm dự án này, tôi cũng không hình dung được nó sẽ như thế nào,” phóng viên ảnh Don Kelson nói. “Nhưng dần dần tôi thấy vô cùng lý thú, vì nó gắn bó cả ba chúng tôi, hai người từng đến Việt Nam và một người từng là người Việt tị nạn trong Camp Pendleton.”

Ông nói thêm: “Ðúng là mọi thứ thay đổi cả, vì 40 năm rồi còn gì, nhưng có những thứ vẫn còn đó. Và đó là điều giúp chúng tôi tìm được quá khứ.”


Phóng viên ảnh Don Baretletti: “Khi chụp hình, mình phải chụp làm sao cho nhân vật trong ảnh cảm thấy được trân trọng.” (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Ðó là những ngọn núi,” phóng viên ảnh Don Kelson nói. “Tôi cầm tấm hình mình chụp cách đây 40 năm, có bốn em bé gái ngồi chơi trên một miếng giấy thùng carton, phía sau là những cái lều dành cho người Việt tị nạn, phía xa là một ngọn núi. Bây giờ, lều không còn, không còn gì cả, mà chỉ là hàng rào và những cái nhà kho. Tuy nhiên, ngọn núi phía xa ở đằng sau vẫn còn đó, không hề thay đổi.”

Ở một nơi khác, phóng viên ảnh Don Kelson chụp một tấm hình các học sinh trung học đang diễn một vở kịch cho các trẻ em Việt Nam ngồi trên một khán đài dã chiến coi.

“Tôi và Don Bartletti phải mất 5 giờ đồng hồ để đi so sánh khung cảnh ngày xưa và bây giờ,” phóng viên ảnh Don Kelson kể. “Và cuối cùng tôi tìm được khán dài dã chiến đó, gỗ bắt đầu mục, các khung sắt bắt đầu sét rỉ, cỏ xung quanh mọc cao, nhiều cây lớn mọc phía sau, không một ai qua lại. Và một lần nữa, ngọn núi phía xa vẫn sừng sững ở đó.”

Ông chia sẻ thêm: “Phải nói đây là lần đầu tiên tôi đi tìm khung cảnh của nơi tôi chụp hình 40 năm trước, mà lần này lại liên quan đến người Việt Nam, đất nước Việt Nam, nơi tôi từng có mặt trong thời kỳ chiến tranh. Và tôi nhớ lại, trẻ em ở Việt Nam tôi gặp hồi thập niên 1960 khác với trẻ em tôi gặp trong Camp Pendleton hồi năm 1975.”

Trở lại tấm hình chụp hai bà cháu 40 năm trước, cô Lisa Hà Nishihara cho biết: “Ðó là một món quà Don Bartletti tặng cho tôi và nó sẽ ảnh hưởng tôi suốt đời. Ông đã thay đổi cuộc đời tôi. Ông khuyến khích tôi rất nhiều. Nó giống như là một vòng tròn khép kín. Tôi đã nói lời cảm ơn rất chân thành với ông, và tôi không biết nói gì hơn.”

“Tôi giữ tấm hình đó trong 40 năm, tôi giữ nó, và tôi đã gặp người chụp tấm hình đó,” cô Lisa Hà Nishihara thổ lộ. “Tôi hy vọng tấm hình sẽ dạy cho con gái tôi biết về nguồn gốc và lịch sử của nó. Tôi không thể ngờ tôi gặp ông Don Bartletti tối hôm đó, cho đến khi điều này trở thành sự thật.”

––
Liên lạc tác giả: dodzung@nguoi-viet.com