BABY FOUND ALIVE UNDER RUBBLE
httpv://www.youtube.com/watch?v=QT6HrwFR93o
God speaks in mysterious ways.
Tin Cộng Đồng Việt Nam ở Mỹ và ở Việt Nam
httpv://www.youtube.com/watch?v=QT6HrwFR93o
God speaks in mysterious ways.
Hoa Kỳ hiện nay có 300 triệu dân và đang ôm mối sầu thiên cổ với 3 triệu 500 ngàn homeless. đau thương nhất là trong đó có gần một nửa là trẻ em. Con số ghi nhận là 1 triệu 350 ngàn trẻ em. Hỏi rằng các homeless ở đâu
Cali Today News – Năm 1776 Hoa Kỳ lập quốc, từ miền đông di dân Tây tiến, bốn phương đâu cũng là nhà. Chưa có các đô thị và chung cư, nên chưa có người không nhà giữa xã hội đâu cũng là thôn quê và nông trại. Năm 1876 Hoa Kỳ kỷ niệm 100 năm lập quốc, tại các đô thị đã có người không nhà và vấn nạn homeless ra đời. Năm 1976 Hoa Kỳ kỷ niệm 200 năm độc lập. Không một thành phố nào mà không có những khách không nhà. Sống trên đất nước thiên đường mà công dân Mỹ lại thuộc về thành phần đầu đường xó chợ.
Trải qua hơn 40 năm, những người dân Việt lưu vong đã dự lễ độc lập 200 năm tại Hiệp Chủng quốc cho đến nay, hầu như ai nấy đều tạm thời an cư lạc nghiệp. Trên bản thống kê dân homeless, không thấy ghi tên Việt Nam. Con số quá ít nên có thể người Việt homeless nằm khép nép đâu đó trong phần thống kê khiêm nhường của dân Á Châu Thái Bình Dương. Nhưng các sắc tộc khác con số ngày một gia tăng, gồm cả Mỹ trắng, Mỹ đen và Mễ tây Cơ.
Tuy nói như vậy nhưng người Việt thực sự cũng có đại diện nhận lãnh niềm đau của nước Mỹ.Năm 2000 khi đi làm kiểm kê dân số chúng tôi có dịp thăm xóm homeless Việt Nam San Jose tại khu rừng thưa góc Senter và Capital Epwy. Kỳ này sẽ trở lại xem lại đường xưa lối cũ. Hai tháng trước, biết tin muộn có một phụ nữ Việt Nam homeless lớn tuổi đã qua đời. Người phụ trách nói là bà già Việt Nam họ Nguyễn. Vậy là Việt Nam chắc quá rồi. Dòng họ Nguyễn thì thực sự đông đảo và danh tiếng. Hai cô gái họ Nguyễn một thời tranh cử chung kết nghị viên tại San Jose. Cô họ Nguyễn giám sát viên tại quận Cam. Biết bao nhiêu nhân tài họ Nguyễn. Chẳng ai biết đến một bà già homeless họ Nguyễn lặng lẽ qua đời. Hoàn cảnh ra sao? Thôi cũng là số phận con người.
Vì đâu nên nỗi:
Tại các đại học, ghi tên ngành xã hội là phải có học trình về homeless. Có những đại học mà sinh viên ra trường tốt nghiệp chuyên khoa về bộ môn Homeless.
Vì vậy nỗi niềm cay đắng dù đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhưng quay đi quẩn lại thì cũng bao gồm các lý do căn bản: rượu chè, cần sa, ma túy, gia đình lục đục, thất nghiệp lâu dài, đầu óc lạng quạng, xuất thân trường tù, cựu chiến binh anh dũng bỗng trở thành những người anh hùng mỏi mệt.
Nói chung toàn là thành phần về hưu ngoài hè phố. Một thanh niên du đãng ở tù ra thì phần đông không biết về đâu đêm nay. Tự do với màn trời chiếu đất. Tuổi trẻ lớn lên thử một lần hút cần sa cấp trung học, nhẩy ngay lớp đại học để hít bằng mũi và lấy bằng đại học nhẹ nhàng khi chích vào tay. Tốt nghiệp tiến sĩ trường thuốc trở thành homeless. Anh em hè phố gọi đó là “Trường đời”. Các kỹ nữ về già và các vị cao niên suốt đời say sưa mối sầu thế kỷ đều về hưu ngoài đường.
Xã hội đại đô thị càng tiến bộ thì những người đứng bên lề càng gia tăng. Homeless trở thành vấn nạn triền miên không bao giờ giải quyết xong. Biết bao nhiêu vị tổng thống tài ba, mỗi năm Giáng sinh cũng đành đi nhà thờ cầu nguyện buổi sáng rồi phát cơm homeles buổi chiều
Bước vào thế giới homeless.
Hoa Kỳ hiện nay có 300 triệu dân và đang ôm mối sầu thiên cổ với 3 triệu 500 ngàn homeless. đau thương nhất là trong đó có gần một nửa là trẻ em. Con số ghi nhận là 1 triệu 350 ngàn trẻ em. Hỏi rằng các homeless ở đâu. Khoa địa lý nhân văn thi vị hóa gọi là những con người sống bên lề đô thị. 60% ngủ trong các xe còn chạy được xọc xạch hay là 4 bánh đã xẹp từ lâu. 25% ở trong các lều vải hay các thùng giấy.15% thật sự là màn trời chiếu đất, có thể gọi là khách sạn ngàn sao. đêm nằm nhìn lên thấy ngàn sao trên trời. Nếu lại cắc cớ hỏi rằng tại sao lại có nhiều trẻ em như thế. Xin trả lời rằng gia đình lục đục, thất nghiệp lâu dài và không có bà con tương trợ thì cả nhà ra đường là chuyện dễ hiểu. Ngoài ra trai tứ chiếng, gái giang hồ gặp nhau cũng vẫn tình cảm và cũng có sản xuất.
Những đứa bé sinh ra ở ngoài đường, sống không thấy mái nhà nhưng vẫn là công dân Mỹ bẩm sinh, có đủ điều kiện để ứng cử tổng thống, chuyện đó xem ra mới thê lương làm sao.
Có những gia đình vẫn cho con cái đi học, chợt mất nhà. Chồng lên đường làm ăn xa. Vợ dẫn con đến nhà tạm trú. Ðứa nhỏ vẫn lôi thôi lếch thếch đi học. Rồi một hôm chị Mary cãi nhau với bà manager tại nhà tạm trú. Ðem hai đứa con ra gầm cầu. Thằng bé trai 8 tuổi còn đi học. Thầy giáo hỏi sao mày không làm homework. Ðể tao phải gọi điện thoại cho cha mẹ. Ðứa bé lặng thinh, tuy còn nhỏ nhưng nó vẫn đủ khôn ngoan để không nói là nhà em đang ở gầm cầu.
Đó là câu chuyện của mỗi người trong các quan khách Hoa Kỳ tham dự vào bữa tiệc thực đơn thân ái Việt Nam đã tổ chức hàng tháng, năm này qua năm khác. Trên 1,000 kỳ tổ chức và hàng tr ăm ngàn phần ăn Việt Nam đã đưa ra.
Thực đơn thân ái Việt Nam
Hôm đó là một ngày mưa ở San Jose, tôi vào xếp hàng mua một ổ bánh mì tại tiệm Việt Nam dưới phố. Một tay homeless Hoa Kỳ chính hiệu xếp hàng trước mặt. Quầy hàng nhỏ nhưng trong tiệm cũng có hơn 10 bàn cho khách. Phần lớn mua To go. Ông homeless, trông là biết liền. Quần áo hai ba lớp luộm thuộm . Đầu tóc bù xù. Trả toàn tiền cắc và giấy một đồng nhàu nát. Cô bán hàng Việt Nam nhỏ bé dịu dàng hỏi ngay: To go? Khách hàng homeless xếp hàng trước mặt tôi hơi ngần ngại ngó quanh các chỗ ngồi. Trời bên ngoài mưa nặng hạt. Có vẻ muốn ngồi ăn bên trong. Nhưng khách homeless Hoa Kỳ cũng biết thân phận nên lại ngần ngại trả lời. Cô gái Việt dịu dàng nói nhỏ: to go please. Special discount 1 dollar. Ông khách homeless Mỹ khẽ gật đầu. Có thể vì được bớt 1 đồng, và cũng có thể muốn làm vui lòng cô bé Việt Nam bán hàng.
Bước ra ngoài, tôi thấy ông ngồi ngay dưới mái hiên thưởng thức bánh mì và ly cà phê nóng To go. Bên cạnh là một xe chợ chằng chịt các bao nylon của cả một gia tài đồ xộ.
Về sau tôi còn gặp lại tay homeless này nhiều lần tại các buổi chiêu đãi hàng tháng. Vào một buổi mùa hè. Ông khách quen này mặc áo cụt tay có vết xâm huy hiệu thủy quân lục chiến bên dưới là chữ Chu Lai. Như gặp lại người quen, tôi chỉ vào dấu xâm và giơ ngón tay cái lên trời. Người thủy quân lục chiến Hoa Kỳ của căn cứ Chu Lai ngày xưa khẽ gật đầu, mắt xanh mỏi mệt chợt sáng lên trong niềm vui nhẹ.
Ông là khách hàng của chúng tôi đã hơn 5 năm qua. Chiều thứ bảy, gần 300 khách thưởng thức 4 món Việt Nam: chả giò, gà chiên, cơm trộn, rau trộn, tráng miệng và thức uống. Nghiêm trang trật tự. Hết sức thanh lịch và gọn gàng. Yes Sir, No Sir. Yes Mame, No Mame. Thank you. Welcome.
Xếp hàng, ghi danh, lấy thực phẩm, dọn bàn. Không khí yên tĩnh như câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ. Những người tàn tật được ban thực đơn Việt Nam hộ tống đưa thức ăn ra tận bàn.
Bỗng nhiên có lời giới thiệu. Hôm nay các bạn được hội ABC mời ăn, tiếng vỗ tay vang dội. Tuy nhiên, các quan khách của chúng tôi quả thật sẽ không bao giờ nhớ được đây là nhà thờ công giáo hay phật giáo. Ðây là Trưng Vương hay Gia Long, đây là sinh viên Vạn Hạnh hay là nhà thầu Kiến Trúc. Ai là địa ốc, ai là nhà báo, ai là bác sĩ. Mọi người đều giống nhau.Tất cả đều chỉ nhớ có 2 chữ Việt Nam. Những người đàn ông Việt Nam hiền lành đứng tiếp tế từ phía sau. Những người đàn bà Việt Nam tử tế đưa thực phẩm từ phía trước. Những cô gái Việt Nam nhỏ bé chuẩn bị nước uống. Những mái tóc đen Á Châu, những khuôn mặt và nụ cười nhân đạo. Những nguồn thực phẩm vô tận đi hai ba vòng vẫn còn đầy đủ.
Buổi tối hôm nay, bụng homeless Hoa Kỳ căng đầy, bên cạnh còn một bao giấy To go, nằm dưới khách sạn ngàn sao, tại miền thung lũng điện tử tiền rừng bạc bể, người Mỹ gốc Mỹ có thêm một kỷ niệm êm đềm với người Mỹ gốc Việt tại San Jose.
Vấn nạn 100 năm cũ Vào ngày Lễ tạ Ơn và Giáng Sinh, tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân năm nào cũng dậy sớm đi lễ nhà thờ và buổi chiều thì đi dọn ăn cho Homeless Hoa Kỳ.
Từ hơn 100 năm nay, truyền thống của nước Mỹ đã trở thành tục lệ. Hiệp Chủng quốc là đất nước tiền rừng bạc bể, viện trợ cho khắp thiên hạ nhưng ngay tại quê nhà, mỗi năm vẫn có cả ngàn người Hoa Kỳ đói rét và nằm chết ở gầm cầu, xó chợ trong kiếp sống không nhà. Không một chính quyền nào, Dân Chủ hay Cộng Hòa, không một vị lãnh đạo nào giải quyết được hoàn toàn vấn đề Homeless. Các chính khách chỉ còn cầu nguyện buổi sáng và đãi ăn khách không nhà buổi chiều.
Thời kỳ còn chiến tranh lạnh, các vị nguyên thủ của khối Cộng muốn làm Hoa Kỳ mất mặt thường tìm cách đi thăm các khu nghèo tại Nữu Ước và tìm đến phát quà cho dân Homeless ở xóm Mỹ đen Harlem.
Nước Mỹ kể cả Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp cùng với truyền thông đều coi như chuyện nhỏ, không đáng kể. TV và báo chí vẫn chụp hình và loan tin tự do. Mọi người đều biết rõ là xã hội công nghiệp và đời sống của đô thị đã sinh ra giai cấp không nhà. Đôi khi họ là Homeless thường trực Full-time, có khi là Homeless bất chợt, Part-time thuộc loại lỡ độ đường.
Nước Mỹ ngày xưa chưa có các đô thị lớn, dân nào cũng là dân quê, cuộc sống gần thiên nhiên thì sự phân biệt giữa dân có nhà và dân Homeless không cách biệt. Ngày nay với trên 300 triệu dân, với hàng ngàn đô thị đông đảo thì số người không nhà lên cao là chuyện không có gì mới mẻ.
Con số không nhà
Toàn quốc Hoa Kỳ tính ra lúc nhiều lúc ít, hiện nay lên đến 3 triệu dân không nhà. Và con số này gia tăng nhiều hơn mức độ dân số phát triển hàng năm. Như vậy cứ 100 người Mỹ là một người ở ngoài đường dù là cố ý hay vô tình. Vô tình trở thành Homeless vì đói. Cố ý Homeless vì điên.
Niềm đau thương hơn cả là trong số hơn 3 triệu Homeless đàn ông và đàn bà có cả một triệu trẻ em. Những đứa trẻ từ lúc sinh ra đã sống ở ngoài đường và suốt thời thơ ấu không được tắm trong nhà, không được ngủ với cửa buồng đóng lại, không được nằm trong chăn ấm, bên ngọn đèn ngủ và lời ru của mẹ.
Tất cả những đứa trẻ đó đều là công dân Hoa Kỳ, đang cư ngụ trên đất mẹ, ở xứ sở thiên đường mà hàng triệu người di dân trên thế giới muốn đến để lập nghiệp. Những cụ già, các gia đình, trẻ em homeless đều không bận tâm xin thẻ xanh hay thi quốc tịch. Tất cả đều là công dân hợp lệ.
Tại sao lại có hiện tượng vô lý như vậy? Không một nhà giáo dục, không nhà xã hội học, các kinh tế gia, các chính khách, các vị lãnh đạo chính phủ lãnh đạo tôn giáo tìm ra được giải pháp cho vấn nạn Homeless tại Hoa Kỳ.
Hiện nay, các đại học Mỹ có ngành xã hội và nhân chủng đều bỏ ra hàng triệu Mỹ kim để nghiên cứu giải pháp. Hàng chục ngàn cơ quan thiện nguyện từ trung ương đến địa phương đều nỗ lực đi tìm cách giúp đỡ và chấm dứt nạn Homeless tại các đại đô thị. Tất cả đều vô phương.
Các tiểu bang đều có những đô thị với nạn Homeless trầm trọng. Riêng California dẫn đầu với Los Angeles, San Francisco, Berkeley, và Fresno. Florida cũng có 3 điểm nóng. Texas cũng có 3 thành phố lên bảng đen. Ngay cả Las Vegas và Honolulu cũng nổi tiếng có nhiều Homeless.
Và Homeless cũng có nơi hiền lành, có nơi nảy sinh nhiều tội ác và những phiền phức cho xã hội. Ăn mày, ăn xin, trộm cắp, phóng uế bừa bãi, xả rác nơi công cộng, chiếm cứ các công viên, phá hoại môi sinh.
Homeless luôn luôn đi cùng với cần sa, ma túy, rượu chè, cờ bạc, đĩ điếm. Vì Homeless mà đi đến tứ đổ tường hay vì tứ đổ tường mà trở thành Homeless. Dù ngược hay xuôi thì cũng đen tối như nhau.
Đi tìm nguyên nhân
Một trong các yếu tố căn bản của Homeless là tinh thần tự do cá nhân cùng với bệnh tâm thần. Hoa Kỳ đã từng có nhiều người muốn sống gần thiên nhiên nên suốt đời ở với núi rừng. Đã có cả một thời xưa, dân Ho Bo chuyên sống và di chuyển dọc theo đường xe lửa. Và ngày nay, nhiều gia đình và phần đông là dân Mễ, cả vợ chồng con cái sống trên xe, đi từ cánh đồng này qua cánh đồng khác, sống theo mùa gặt.
Và rất nhiều các tay da đen uống rượu thích lấy đất làm giường và trời cao làm mái nhà. Khi các đấng lưu linh đã say sưa thì trời đất quay cuồng và nhà cửa không còn là vấn đề quan trọng.
Vì vậy vào mùa đông, các trại tạm trú của chính phủ mở ra với đạo quân cứu tế đi đến các công viên, khiêng dân Homeless lên xe chở về nơi cư ngụ để khỏi chết cóng.
Có nhiều trường hợp khách giang hồ ăn xong lại trốn ra ngoài để hoàn tất giấc mơ với cuộc sống tự do.
Tin tức thống kê
Thống kê Hoa Kỳ kiểm tra khảo sát quanh quẩn thì cũng chỉ có từng đó đáp số. Chỗ có nhà thì không có dân. Trên khắp nước Mỹ đang có nơi hàng ngàn căn nhà trống. Chỗ không có nhà thì dân kéo về quá đông. Không có công việc, không có tiền và không đủ nhà. Lương thấp, tiền nhà cao nên dân thầy thợ đôi khi có việc làm nhưng không có đủ nhà để cư ngụ, dù là nhà thuê. 50% Homeless thiếu ăn, không biết cách xoay sở nên cả vợ con đều đói. Không có nhà nên không có địa chỉ và vì vậy không thể khai trợ cấp. Nhiều quận hạt cho khai rồi giữ Check lại, tháng tháng Homeless đến lãnh Check, lãnh Foodstamp. Tất cả đều biến thành rượu và chỉ một tuần là hết sạch.
Rồi thiên tai, hỏa hoạn, nước lụt đóng góp thêm vào các hiểm họa đưa con người vào chỗ không nhà.
Tùy theo từng vùng dân số nhưng luôn luôn da đen, da đỏ, Mễ và dân Châu Mỹ La Tinh có số lượng Homeless cao nhất. Dân Á châu tương đối còn đùm bọc nhau được nên lại có con số thấp nhất.
Mặc dù như vậy, nhưng không bao giờ chính phủ có con số Homeless chính xác. Cứ 10 năm một lần, Hoa Kỳ đếm đầu người, gửi phiếu kiểm tra để biết lòng dân mà cai trị đất nước. Gọi là kiểm kê dân số.
Biết dân số tăng giảm, số trẻ con ra đời, người lớn về già. Biết ước mong của toàn dân qua phiếu kiểm kê để mở trường, lập nhà thương và làm nhà cửa đường xá. Nhưng dân không nhà thì không bao giờ ghi giấy kiểm kê nên không hề có ý kiến nào được ghi nhận.
Các toán công tác đi đếm Homeless phải đi lúc nửa đêm, chiếu đèn ở xó chợ, gầm cầu mà đếm từng người. Nhờ đó mới biết được bao nhiêu ông, bao nhiêu bà, bao nhiêu trẻ em Homeless.
Từ thập niên 90 cho đến 2000 rồi 2010 chúng tôi có tham dự những kỳ đi đếm Homeless ban đêm. Không khác gì ở Việt Nam, cảnh sát công an khám sổ gia đình. Việt Nam vào nhà vì lý do an ninh. Ở Mỹ, ra đường mà đếm vì lý do xã hội. Chỉ có khác ở chỗ là nửa đêm dựng đầu khách giang hồ đứng lên để đếm. Không cần kiểm tra giấy tờ, không bắt bớ nhưng cũng bắt gặp biết bao nhiêu chuyện phi pháp và đồng thời nhân viên chính phủ cũng nghe chửi điếc cả tai. Được cái, dân Homeless chửi từ thống đốc lên tổng thống chứ không thèm chửi cấp dưới nên cả hai bên đều hết sức vui vẻ để chia tay, sau khi đã chào hỏi và Good Night.
Chúng ta có thể làm gì?
Sau khi có dịp đi đếm Homeless, chúng tôi lại tiếp tục họp các buổi điều trần về vấn đề xã hội tại địa phương và ước mong có thể đóng góp phần nhỏ vào công tác chung. Tất cả các giới chức có kinh nghiệm đều nói rằng, hãy bắt đầu bằng những bước cụ thể. Hãy tới các trung tâm xã hội ở địa phương tìm hiểu một thời gian và thấy rằng, chúng ta có thể làm được điều gì dễ dàng và thực tế cho người không nhà.
Riêng tại tại quận hạt Santa Clara hiện có cả chục cơ quan thiện nguyện lo cho dân Homeless. Nào là nơi phát thực phẩm cho người nghèo như Food Bank. Rồi đạo quân cứu tế Salvation Army, thêm vào đó còn có City Team và Inn Vision đều lo cho các gia đình vô gia cư tạm trú và thức ăn hàng ngày.
Chúng tôi đã đến thăm Inn Vision tại San Jose vào một buổi sáng mùa Giáng Sinh 1991, và quan sát các họ đạo Hoa Kỳ chia phiên nấu ăn cho Homeless. Đây là kỷ niệm đáng ghi nhớ 23 năm về trước.
Theo truyền thống lâu đời, các Homeless trong vùng là đàn bà, trẻ em thì được ưu tiên nuôi ăn. Còn các Homeless độc thân thì phải tự túc mà lang thang đây đó.
Mỗi chiều về dân độc thân đến khu tập trung ở cơ quan cứu tế. Có gì thì phát ra thứ đó. Đa số thực phẩm từ các chợ, các quán ăn, nhà tư còn dư đem cho, thấy còn ăn được là đem phân phối. Đây là thức ăn nguội. Mỗi cuối tuần thì các nhà thờ chia phiên đem thức ăn nóng có chuẩn bị ngon lành đến cho bà con Homeless.
Sau khi quan sát và ước lượng tình hình, cơ quan IRCC tại San Jose chúng tôi ghi tên nhận 2 kỳ 1 tháng. Một kỳ chính thức lên phiên vào mỗi chiều thứ Bảy lần thứ tư và một kỳ thường trực bất thường tức là bất cứ lúc nào họ kêu trước vài giờ là phải có ngay. Đồ ăn nguội cũng tốt.
Mở đường khai lối
Bắt đầu từ tháng 3-1991, chương trình Thực Đơn Thân Ái, dọn cơm Việt Nam 3 món cho Homeless San Jose bắt đầu. Suốt năm 91 qua 92 tổng cộng 12 tháng, cơ quan IRCC một mình lên phiên nên khá vất vả.
Phiên thường lệ vào mỗi thứ Bảy còn chuẩn bị được. Phiên khẩn cấp thí dụ có hội nhận lời nhưng giờ chót bỏ cuộc phải thay thế cấp cứu thì chúng tôi gọi điện cho 4 tiệm quanh Downtown San Jose mua mỗi nơi 25 ổ bánh mỳ cắt đôi là đủ 200 phần ăn. Mỗi phần ăn kèm theo một lon nước.
Từ lúc được báo tin cho đến lúc có đủ 200 phần ăn chỉ cần 2 giờ đồng là sẵn sàng. Gọi điện thoại cho 3 hay 4 nơi đặt hàng, ghé lấy rồi đưa đến phát ngay.
Tuy nhiên, cứ như vậy quanh năm 1992 tuy chuyện nhỏ mà cũng trở thành gánh nặng. Qua tháng 3 năm 1993, chúng tôi mời gọi sự cộng tác của các đoàn thể. Mỗi nơi một năm chỉ cần lên phiên một lần. Xem ra rõ ràng là gánh nặng đã nhẹ đi nhiều mà các tổ chức đều có cơ hội tham gia công việc từ thiện vô cùng ý nghĩa.
Công việc cứ như vậy tiến hành đều đặn suốt 24 năm, kể từ 1991 đến hết năm 2014. Qua 2015 là bắt đầu vào năm thứ 24. Chương trình Thực Đơn Thân Ái đã tổ chức cả phiên chính thức lẫn đặc biệt là 1 ngàn lần với vào khoảng 100 ngàn phần ăn đã dọn ra.
Biết bao nhiêu là sự khen thưởng của các giới chức xã hội từ liên bang, tiểu bang và quận hạt. Tuy nhiên, lời khen thưởng gây xúc động nhất vẫn là những ánh mắt vui vẻ của khách hàng. Những tràng pháo tay của quý vị đến ăn. Những tiếng cảm ơn bằng Việt ngữ của Homeless học được qua các bạn Việt Nam.
Đa số các vị đến ăn đều rất tự nhiên, không hề mặc cảm vì hoàn cảnh không nhà. Họ ăn uống rất thoải mái. Có đôi khi cả gia đình vợ chồng, con cái đến ăn. Có những người trông rất tả tơi, nhưng cũng có những người ăn mặc rất lịch sự.
Trong một gian phòng ăn rộng rãi, ấm cúng, mọi người xếp hàng trật tự tiến qua quầy thức ăn. Các nhân viên của hội đoàn Việt Nam đội nón nhà bếp màu trắng, áo choàng trắng, bao tay múc thức ăn cho quan khách đưa khay đến trước mặt. Cơm chiên, gà quay, chả giò, rau trộn, tráng miệng, trái cây, bánh ngọt. Những bàn tay ân tình, những lời nói chào đón lịch sự. “Thưa ông, thưa bà. Cảm ơn. Vâng, xin một chút nữa. Thưa đủ rồi. Không có chi.” Người dọn ăn và người được mời đều hết sức lễ độ. Xin mời thêm nước uống. Sữa hay nước cam. “Vâng xin ông cứ tự nhiên dùng cả hai.” Các em nhỏ Việt Nam mắt long lanh ngời sáng đứng lo quầy nước. Các bà nội trợ đứng hàng tiền đạo múc thức ăn. Các đấng phu quân đứng phía sau lo tiếp liệu từ nhà bếp. Quầy rau trộn đổi tay làm việc để tăng cường. Các khay cơm đã hết, đưa ra phía sau để khay cơm mới thay thế.
Thực khách ăn xong một lượt thì tạm nghỉ rồi làm thêm vòng thứ hai và đôi khi đi vòng thứ ba.
Thực phẩm thì vơi dần nhưng tình cảm thì tăng cao. Thực khách trong cả phòng chợt dừng tay nghe ông đại diện Homeless nói lời cám ơn Việt Nam rồi tràng pháo tay vang dội. Không phần thưởng nào sánh bằng.
Quan khách không bao giờ biết, đây là đại diện tôn giáo nào hay tổ chức nào. Không biết quan điểm chính trị Dân Chủ hay Cộng Hòa. Không biết đây là hội ái hữu địa phương nào. Tất cả chỉ là người Việt Nam và thức ăn Việt Nam. Ngon lành và rất hậu hĩnh.
Và chương trình Thực Đơn Thân Ái bền bỉ nhất đã góp phần trên 23 năm, nuôi ăn Homeless San Jose, những khách giang hồ không nhà hiền lành nhất Hoa Kỳ.
Trong lịch sử 100 năm Homeless tại Mỹ, San Jose là vùng đất tương đối bình yên. Các tiệm ăn Việt không bao giờ bị Homeless làm phiền. Nước Mỹ không giải quyết dứt khoát được vấn nạn Homeless nên chính tổng trưởng an sinh và xã hội phải lên tiếng kêu gọi toàn dân tiếp tay. Chúng ta là dân Mỹ gốc Việt, đã đến đất nước này, xin tiếp tay với Thực Đơn Thân Ái là bày tỏ chút ân tình cụ thể và dễ dàng nhất.
Hơn 23 năm qua rất nhiều hội đoàn đã tiếp tay với chúng tôi nhiều lần. Tuy nhiên, thành tích đáng kể công tác từ 10 lần trở lên gồm có 5 tổ chức: Ban Xã Hội Công Giáo, Gia Đình Phật Tử An Lạc, nhóm anh em Báo Mõ, Gia Đình Kiến Trúc Việt Nam và Hiệp Hội Kim Hoàn.
Cộng đồng Việt Nam hiện nay tại Bắc và Nam Cali, tại Houston – Texas đều bắt đầu tiếp tay với chính quyền địa phương về việc giúp đỡ Homeless. Tuy nhiên, vẫn còn ở giai đoạn rất tượng trưng chỉ làm vào mùa lễ hội. Thực ra, nhu cầu nhân đạo cho Homeless phải là việc làm quanh năm.
Khi bài báo này phổ biến mở đầu lễ hội 2014 qua n ăm 2015 quý vị độc giả vẫ còn có thì giờ để đóng góp từ thiện nếu muốn ghi thành tích cho mùa thuế năm nay.
Dành lời kêu gọi cuối năm gửi đến quý vị muốn góp một bàn tay cho các em nhỏ Homeless Hoa Kỳ. Xin nhắc lại, một triệu em bé tại Mỹ hoàn toàn vô tội, không cần sa ma túy, không rượu chè, chỉ vì sinh ra ở ngoài đường nên trở thành Homeless từ lúc còn thơ ấu. Mở mắt chào đời mà chỉ thấy trời xanh. Cả tuổi thơ chưa thấy cái trần nhà. Không ai có thể tưởng tượng được rằng, nước Mỹ có đến một triệu em bé Homeless. Có thể tưởng tượng được không. Trong số này lại có cả hàng ngàn trẻ em homeless còn đi học. Các em bé trai, bé gái như con cháu quý vị. Sáng dậy dưới gầm cầu, đi bộ đến trường có bữa ăn trưa miễn phí. Giờ tan học em làm homework trong thư viện cho dến khi đóng cửa. Em sống nhờ nhà vệ sinh của trường. Chiều em về lại gầm cầu một mình. Không muốn mẹ đẩy xe chợ đón em. Không bao giờ em muốn trông thấy mẹ đi xin tiền gần trường học. Mẹ phải đi làm ở nơi nào thật xa…
Hãy gửi cho chúng tôi $10 Mỹ kim, chúng tôi sẽ bỏ thêm công sức để làm thành một bữa ăn Việt Nam cho gia đình một em bé Hoa Kỳ đang sống ở nơi gầm cầu hay xó chợ trên đất nước hùng mạnh nhất thế giới hiện nay.
Nghĩa cử của quý vị luôn luôn được ghi nhận và đồng tiền đóng góp của quý vị sẽ được sử dụng một cách xứng đáng, trân trọng nhất.
Gửi cho IRCC 3017 Oakbridge Dr. San Jose CA 95121
Giao Chỉ San Jose
Người tị nạn miền Bắc sau chiến tranh
Việt Hà, phóng viên RFA
2015-04-23
Một chuyến vượt biển từ miền bắc Việt Nam
Sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, không chỉ có làn sóng những người miền Nam rời bỏ quê hương mà còn rất nhiều người ở phía Bắc cũng quyết định ra đi để tìm cho mình một tương lai tốt đẹp hơn ở các nước khác. Nhiều người trong số họ đã bỏ mạng ngoài khơi, có người đã bị cưỡng bức hoặc phải tự nguyện hồi hương, nhưng cũng có người đã may mắn được định cư ở một nước thứ ba.
Sau đây là câu chuyện của hai gia đình phía Bắc với những số phận khác nhau sau khi tìm đường vượt biên vào những năm 80.
Vượt thoát
Những năm cuối thấp niên 70, và 80, Hải Phòng và Quảng Ninh, hai cảng biển lớn ở phía Bắc Việt Nam, là những nơi chứng kiến nhiều đoàn người tìm đường vượt biên theo đường biển. Phần đông trong số họ là những người đến từ các tỉnh phía Bắc.
Trong số những người ra đi từ Hải Phòng, có anh Thụy. Vì lý do tế nhị cho gia đình ở Việt nam, anh không muốn nêu danh tính đầy đủ. Hòa vào làn sóng người vượt biên, anh Thụy và gia đình gồm cha mẹ, anh chị em, tất cả 12 người đã bắt đầu hành trình vượt biên vào năm 1981. Nhớ lại thời điểm vượt biên năm 1981, anh Thụy nói:
“Anh Thụy: Mình thấy cuộc đời chán nản quá. Mọi người đều đi nên mình cũng phải đi. Nói đúng ra lúc đó mình ở Việt Nam thì giấy tờ mình có đâu. Lúc ấy giấy tờ mình không có, như kiểu người thừa. Xin giấy chứng minh khó, xin không được. Mình vừa làm ngư dân, vừa buôn bán thấy cuộc sống chán.”
Anh Thụy cho biết gia đình anh theo công giáo và chính phủ không thích người công giáo, dù không ra mặt. Theo anh, đó là một trong những nguyên nhân khiến anh và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Vốn là ngư dân, quen biển, biết đường, anh Thụy và gia đình không phải đóng tiền để lên thuyền vượt biên vì anh sẽ là người lái tàu. Theo anh, trung bình một người lúc đó phải đóng từ 2 đến 3 chỉ vàng để vượt biên, một số tiền không nhỏ với phần đông người dân lúc đó.
Những con tàu vượt biên từ Hải Phòng chở hàng chục có khi hàng trăm người, và phần lớn nhắm đến hướng Hong Kong vì đó được coi là điểm đến gần nhất. Trong rất nhiều chuyến tàu vượt biên, có những con tàu đã không bao giờ tới đích. Anh Thụy cũng đã từng nghe có chuyến tàu vượt biên bị đắm, mất tích:
Có chuyến mất tích hết, đấy là người quen, rồi con bà cô, em bố anh bị công an ở đảo Bạch Long Vĩ bắn chết hết, công an bắn đắm chết hết 28 người.
Anh Thụy
“Có chuyến mất tích hết, đấy là người quen, rồi con bà cô, em bố anh bị công an ở đảo Bạch Long Vĩ bắn chết hết, công an bắn đắm chết hết 28 người.”
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, từ năm 1975 đến 1997, tổng số có khoảng 839,000 người Việt Nam vượt biển bằng thuyền đến các trại tị nạn trong khu vực. Liên hiệp quốc ước tính, ít nhất 10% trong số này đã phải bỏ mạng ngoài khơi.
Chuyến vượt biên của gia đình anh Thụy vào năm 1981 đã không thành vì bị công an phát hiện. Những lần vượt biên sau của anh và gia đình cũng không sáng sủa gì hơn:
“Hai lần đầu tiên trước khi tập kết ra đi thì bị công an bắt, một lần đi đến đảo Cô Tô sát biên giới Trung Quốc thì bị bão, dạt vào đảo thuộc Quảng Ninh, bịt dốt ở lán 14 mất mấy tháng ( ở Tuy Quang, Quảng Ninh), rồi được ra. Ra rồi đi tiếp và bị bắt tiếp. Rồi bị giam ở Trần PHú ở Hải Phòng, bị tòa án thành phố Hải Phòng xử tù 36 tháng tức 3 năm. Xong rồi về thì đi chuyến cuối cùng thì thoát, lần cuối thì đi độc thân, có một mình, lúc đó chưa có gia đình.”
Anh Thụy bị kết án tù với tội tổ chức người trốn đi nước ngoài, phản bội tổ quốc. Gia đình anh sau nhiều lần vượt biên không thành đã bị nhà nước tịch thu tài sản. Việc tìm kiếm công ăn việc làm, buôn bán lại càng trở nên khó khăn hơn. Điều này càng thúc đẩy anh phải vượt biên bằng mọi giá.
Vào năm 1987 anh vượt biên bằng thuyền lần thứ 4 cùng người em trai và đi thoát tới Hong Kong sau 25 ngày trên biển và trên đất Trung Quốc. Đến Hong Kong vào năm 1987, anh Thụy là một trong số những người tị nạn Việt Nam may mắn thoát khỏi giai đoạn thanh lọc, không bị giam trong trại cấm, được đi làm tự do kiếm tiền, và chỉ phải chờ tiếp kiến để được đi nước thứ ba.
Từ ngày 16 tháng 6 năm 1988, Hong Kong bắt đầu chính sách trại cấm và thanh lọc khiến hàng ngàn người tị nạn Việt nam phải trở về nước dưới dạng cưỡng bức hoặc tự nguyện hồi hương.
Thanh lọc, cưỡng bức hồi hương, những số phận không may mắn
Bắt đầu từ cuối những năm 70, những khó khăn về kinh tế sau chiến tranh cộng với những hậu quả của cuộc chiến biên giới với Trung Quốc và Khmer đỏ ở Campuchia vào năm 1979 đã làm làn sóng người tị nạn Việt Nam đến các trại tị nạn tại các nước trong khu vực tăng lên nhanh chóng.
Những nước nhận nhiều người tị nạn Việt Nam lúc đó bao gồm Hong Kong, Indonesia, Malaysia, Philippines, và Thái Lan. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, tính đến khoảng giữa năm 1979, đã có khoảng 200,000 người tị nạn Việt Nam nằm rải rác ở các trại tị nạn trong khu vực.
Năm 1979, Liên Hiệp Quốc tổ chức hội nghị quốc tế về người tị nạn Đông dương, thừa nhận quy chế tị nạn cho những những người tị nạn Việt Nam ở các trại tị nạn trong khu vực, mở đường cho việc họ được đi định cư ở nước thứ ba.
Mình không tình nguyện hồi hương mà bị cưỡng bức về. Khì nó trả đất về cho Trung Quốc năm 1997 thì nó muốn xóa trại đi, mình vẫn ở đấy không tình nguyện hồi hương. Khi về là nó bốc về. Một người là hai cảnh sát bốc… có bà cởi hết quần áo ra.
Chị Hà
Nói về làn sóng người tị nạn Việt Nam vào giai đoạn này, luật sư Trịnh Hội, thuộc tổ chức Voice, một tổ chức phi chính phủ có trụ sở ở Philippines chuyên giúp đỡ những người tị nạn Việt Nam cho biết.
“Từ năm 79 đến 89 có một khung pháp lý rõ ràng là những thuyền nhân Đông dương đều được đi định cư. Đó là lý do có con đường đi. Đó là lý do đi nhiều người. Đặc biệt nữa là đầu thập niên 80, kinh tế Việt nam xuống rất rõ. Lúc đó chưa có đổi mới. Lúc đó sự đàn áp, áp bức lên rất cao, vào đầu những năm 80. Sau đó người ta ồ ạt ra đi.”
Làn sóng người ồ ạt ra đi đã vào những năm 80 sau hội nghị của Liên Hiệp quốc vào năm 1979 đã khiến một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia phải đẩy thuyền của người tị nạn Việt nam trở lại ngoài khơi để tránh tình trạng quá tải.
Hong Kong vào năm 1988 đã tự quyết định lập ra trại cấm. Những người đến Hong Kong vào sau ngày 16 tháng 6 năm 1988 phải vào trại cấm, không được đi làm và phải qua thanh lọc khắt khe. Cơ hội được định cư ở nước thứ ba của họ trở nên mong manh.
Gia đình anh chị Hà và Bình nằm trong số những người không may mắn khi họ đến Hong Kong vào đầu năm 1990. Anh Bình nhớ lại những bức xúc của mình khi đó
“Tất cả những người Việt Nam tị nạn cộng sản đến các nước trước 16 tháng 6 năm 1988 đương nhiên được công nhận tịn nạn. Tại sao vẫn những con người đó chỉ sau có một ngày thôi, sau mốc đó lại phải qua thanh lọc, bị dán cho cái mác là di dân kinh tế?”
Hình ảnh một trại tị nạn ở Hồng Kong. Files photos
Anh chị là những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Họ cũng ra đi từ Hải Phòng, đến Trung Quốc rồi cuối cùng cập cảng Hong Kong. Anh Bình không cho rằng lý do kinh tế là lý do chính đã đẩy đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau phải rời bỏ quê hương, gia đình, và bạn bè vào cuối năm 1989:
“Cuộc sống lúc đó so với mọi người là bình thường. Mình không có khó khăn về kinh tế. Mình ra đi còn phải đóng nhiều tiền, không phải ai cũng có thể vượt biên được, không phải ai cũng có tiền để đóng để đi. Nhưng lúc đó mình chỉ nghĩ là sang bên này được tự do hơn, cuộc sống thay đổi hơn.”
Hai anh chị phải đóng 2 cây vàng để được đi. Anh Bình nói với 2 cây vàng vào thời điểm đó, anh chị có thể mua được một căn nhà nhỏ trong ngõ ở Hà Nội.
Sau hơn 4 tháng trời hết đi đường bộ, lại đi đường biển với bao nhiêu trắc trở trên đường vượt biên, anh chị Bình cùng khoảng 100 người khác, tất cả là người miền Bắc cuối cùng cũng đến được Hong Kong vào tháng 2 năm 1990.
Tất cả họ đều không biết về trại cấm Hong Kong, và cũng không nghe được thông tin về cuộc họp của Liên Hiệp Quốc vào tháng 6 năm 1989 với sự ra đời của chương trình CPA (tạm dịch là chương trình hành động toàn diện).
Theo chương trình này, những người tị nạn Việt Nam kể từ đây sẽ phải qua thanh lọc khắt khe. Rất nhiều người trong số họ đã không đáp ứng được những điều kiện đặt ra của chương trình và phải hồi hương, tự nguyện hay bắt buộc.
Chương trình này nhằm giúp các nước trong khu vực đối phó với làn sóng người Việt di cư ồ ạt. Theo luật sư Trịnh Hội, chương trình đã không công bằng với những người Việt tị nạn:
“Thật lòng mà nói trịnh hội nghĩ là chương trình CPA đã có tác động lớn đến việc thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi, bởi vì chương trình cpa không công bằng ở chỗ nó ko báo cho người ta biết trước. Ví dụ đến nước này, ví dụ đến Philippines thì là ngày deadline là 21/3 nhưng đến nước nào đó là 16/3… có nghĩa là mạnh nước nào thì nước đó đặt ra ngày đó. Đến trước ngày đó là tị nạn, đến sau là thanh lọc. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng chương trình cpa ra đời và được ký kết vào tháng 6 nhưng nó tính lùi ngày vào tháng 3, tức là nó ngày như từ trên trời rơi xuống, muốn ngày nào cũng được. Nó ko công bằng ở điểm đó, chính vì vậy nhiều người không tin tưởng vào chương trình thanh lọc và chương trình thanh lọc có nhiều bất công bởi vì chương trình thanh lọc ko phải do cao ủy tị nạn áp dụng mà do mỗi nước áp dụng. Ở Philippines thì có nhiều vấn đề tham nhũng, Malaysia, Indonesia, Thái, họ để những nước đó là những nước chưa hoàn toàn phát triển được quyền quyết định hoàn toàn về tương lai và sinh mạng mỗi người.”
Đến Hong Kong, anh chị Bình và Hà phải sống trong một trại cấm với hàng ngàn người tị nạn Việt Nam khác, phần đông là từ phía bắc. Họ phải sống chung trong những căn phòng với giường tầng. Mỗi phòng hơn trăm người, bao gồm những người độc thân, người có gia đình, người già và trẻ nhỏ. Họ không được đi làm tự do như những người đến Hong Kong từ trước năm 1988, và họ phải chờ được phỏng vấn để thanh lọc.
Anh chị Bình phải chờ đến năm 1992 mới được phỏng vấn lần đầu tiên. Họ phải qua nhiều lần phỏng vấn sau đó và đều thất bại. Thậm chí họ đã phải nhờ đến văn phòng luật sư để được giúp đỡ nhưng cũng không thành. Họ nằm trong số những người bắt buộc phải hồi hương.
Chống lại quyết định bắt hồi hương ở trại, anh Bình cùng nhiều người khác biểu tình phản đối và phải chịu những đàn áp của cảnh sát Hong Kong:
“Thời kỳ đấy bọn anh là những không phải là đi trên đất mà đi trên vỏ lựu đạn cay. Nó bắn lựu đạn cay nhiều đến mức không nhìn thấy mặt đất ở đâu. Lựu đạn vẽ đâu lâu xương chéo cấm sử dụng đàn áp biểu tình thế mà còn ném vào trong trại. Bao nhiêu người dân trong trại, từ lớn đến bé, già trẻ, thế mà nó bắn vô tội vạ, nó bắn từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều.”
Nói chung bây giờ qua đây mình thấy cuộc sống thanh thản. Dù ở đâu mình cũng phải làm ăn, ở Việt Nam cũng vậy, mà sang đây cũng vậy, nhưng có cái ở đây mình thảnh thơi đầu óc, không ai kìm kẹp mình nữa, mình sống được tự do hơn.
Anh Bình
Những người không tự nguyện hồi hương như anh chị Bình bị nhốt vào một trại riêng. Đến ngày phải về nước họ bị cảnh sát bắt giải lên máy bay. Chị Hà nhớ lại:
“Mình không tình nguyện hồi hương mà bị cưỡng bức về. Khì nó trả đất về cho Trung Quốc năm 1997 thì nó muốn xóa trại đi, mình vẫn ở đấy không tình nguyện hồi hương. Khi về là nó bốc về. Một người là hai cảnh sát bốc… có bà cởi hết quần áo ra, có người thì dùng đồ sắt rạch vào người cho chảy máu, thế cho nên họ mới kiểm tra trong người có đồ sắt thép bắt vứt hết. Các bà cởi quần áo thì nó lấy chăn cuốn vào rồi khênh. Nó băng bó rồi cũng tống về hết, chẳng có ai ở lại hết.”
Đến tháng 11 năm 1997, anh Bình và chị Hà là những người cuối cùng trở về nước theo dạng cưỡng bức.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, cho đến năm 1996, đã có khoảng 100,000 thuyền nhân Việt nam trở về nước dưới dạng tự nguyện hoặc cưỡng bức.
Báo cáo của chương trình CPA năm 1996 kết luật, mục tiêu của chương trình đã được hoàn tất.
Kết cục may mắn
Sau 5 năm ở Hong Kong, năm 1992, anh Thụy lúc này đã có vợ, cuối cùng cũng đến Los Angesles, Hoa Kỳ. Anh chị giờ sinh sống ở Westminster và đã có ba người con, hai người con đầu đang học đại học, người con út đang học lớp 12.
Cuộc sống của anh chị trên đất Mỹ cũng ổn định. Thậm chí gia đình anh cũng đã nhiều lần về thăm lại người nhà còn ở Việt Nam.
Anh chị Bình và Hà sau khi trở về Việt Nam tiếp tục gặp nhiều khó khăn từ phía chính quyền địa phương vì lý lịch vượt biên và chống hồi hương trong trại tị nạn ở Hong Kong.
Nhưng đến cuối năm 2014, anh chị cùng cô con gái duy nhất sinh ra ở Hong Kong, cuối cùng cũng đã sang được Canada định cư với sự giúp đỡ của một người bà con. Ngồi trong căn nhà nhỏ ấm cúng ở Calgary, Canada vào một ngày đầu năm 2015, anh Bình vui vẻ nói:
“Nói chung bây giờ qua đây mình thấy cuộc sống thanh thản. Dù ở đâu mình cũng phải làm ăn, ở Việt Nam cũng vậy, mà sang đây cũng vậy, nhưng có cái ở đây mình thảnh thơi đầu óc, không ai kìm kẹp mình nữa, mình sống được tự do hơn.”
– Tin nổi bật, Tin Công Giáo Thế Giới
CNA đưa tin, một linh mục tại Anh đang vận động mở án tuyên chân phước cho cha Thomas Byles, người đã từ chối rời tàu Titanic đang chìm, để giải tội, an ủi và cùng cầu nguyện với những người kẹt lại trên tàu.
Cha Thomas Byles đã có hai cơ hội để lên xuồng cứu sinh, khi tàu Titanic bắt đầu chìm vào ngày 15/4/1912.
Khoảng 1.500 người đã thiệt mạng khi tàu Titanic đâm phải một tảng băng trôi ở Đại Tây Dương vào năm 1912. Được cho là “không thể chìm”, chiếc tàu đã không trang bị đủ xuồng cứu sinh cho tất cả các hành khách trên chuyến đi đầu tiên của từ Southampton đến thành phố New York.
Cha Byles cũng đi trên chuyến tàu Titanic tới New York để chủ tọa lễ cưới cho em trai mình. Vị linh mục 42 tuổi người Anh này được thụ phong tại Rôma 10 năm trước đó và làm quản xứ nhà thờ Thánh Helen ở Essex từ năm 1905.
Chứng từ của các hành khách được tổng hợp tại trang www.fatherbyles.com
Helen Mary Mocklare, một hành khác hạng ba và là người sống sót trong vụ đắm Titanic cho biết: một thủy thủ “đã van xin cha Byles lên thuyền [cứu sinh],” tuy nhiên vị linh mục đã hai lần từ chối rời khỏi tàu.
“Ngài chúc lành, ban ân xá và kêu gọi mọi người bình tĩnh khi xảy ra tai nạn. Nhiều hành khách ấn tượng bởi sự tự chủ của vị linh mục.”
Mocklare nói tiếp: “Cha Byles đã có thể được cứu, tuy nhiên ngài không chịu rời đi nếu còn có một hành khách [trên tàu bị bỏ lại]. Khi tôi đã ở trong thuyền, và là người cuối cùng rời khỏi. Chúng tôi dần dần rời xa con tàu, nhưng vẫn nghe rõ tiếng nói của vị linh mục và đáp lại những lời cầu nguyện của ngài.”
Hơn một thế kỷ sau đó, cha Graham Smith – linh mục quản xứ Thánh Helen, giáo xứ cũ của cha Byles – đang vận động mở án tuyên chân phước cho cha Byles.
Trong một tuyên bố với BBC, cha Smith cho biết đang tìm cách để án điều tra tuyên thánh cho vị tiền nhiệm của ngài được mở ra, một người mà ngài cho là “phi thường khi hiến mạng sống mình cho người khác.”
Lm Thomas Byles
Quá trình tuyên thánh được bắt đầu với điều kiện vị này được nhìn nhận là “sống các giá trị Kitô giáo đến mức anh hùng”. Vị đó sẽ được tuyên chân phúc, nếu một phép lạ xảy ra nhờ vị này chuyển cầu, và được Tòa Thánh công nhận, và cuối cùng là vị này được tuyên thánh nếu có 2 phép lạ được chấp thuận.
Dự luật “Ngày hành trình đến tự do” thành luật
Thanh Trúc – RFA
2015-04-24
Thượng Nghị Sĩ Canada Ngô Thanh Hải
Internet file
Lên tiếng với Đài Á Châu Tự Do từ văn phòng Thượng Viện ở Ottawa, Canada, Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải cho biết:
Dự luật S219 của tôi đã được thông qua tại hạ viện ngày hôm qua, Thứ Tư, vào lúc 7:30 tối. Lúc đó Hạ Viện đã tranh luận sau một tiếng đồng hồ đảng Tự Do và đảng Tân Dân Chủ có một số dân biểu cũng nói lên sự chống đối của họ. Tuy nhiên vì bên đảng Bảo Thủ có đa số thành ra sau đó khi bỏ phiếu thì tất cả mọi đảng phái đều chấp nhận hết.
Thanh Trúc: Thưa Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, xin cho biết với các dân biểu chống đối thì lý do họ đưa ra để chống là như thế nào?
TNS Ngô Thanh Hải: Đa số nói rằng Đạo Luật ngày 30 tháng Tư này không được chỉnh lắm. Một số dân biểu đề nghị ngày 27 tháng Bảy bởi vì những dân biểu đó đã được đảng cộng sản Việt Nam hoặc tòa đại sứ cộng sản Việt Nam đến lobby họ rồi. Họ mướn người lobby để đánh phá, để dời ngày và làm chậm Đạo Luật của tôi. Khi mà tôi ra điều trần trước ủy ban thì tôi nói ngày 27 tháng Bảy là ngày kêu là tưởng niệm của quân đội cộng sản Việt Nam, một quân đội đã giết chúng tôi, đã tra tấn chúng tôi, đã bỏ tù chúng tôi, đã hành hạ chúng tôi… mà bắt chúng tôi phải tưởng niệm những người đó thì đâu có được, đó là một sự sỉ nhục cho người Canada. Khi nghe tới đó thì họ bắt đầu lui, tuy nhiên sau đó ông Chủ tịch bên Hạ Viện cũng đã bác ý kiến đòi tu chỉnh ngay, thành ra (họ) thua luôn.
Thanh Trúc: Xin ông cho biết tiến trình hay thủ tục trở thành Đạo Luật ngày ngày hôm nay vì nghe nói có vị Toàn quyền Canada xuống ký?
TNS Ngô Thanh Hải: Đạo Luật của tôi đã thông qua Thượng Viện và thông qua Hạ Viện thì bây giờ ông Thống Đốc Toàn quyền Canada đại diện Nữ hòang sẽ ấn ký. Ấn ký có sắc lịnh thông qua đây là Luật chứ không phải Resolution (Nghị Quyết) hoặc là Proclamation( Tuyên cáo). Đây là Luật cho toàn xứ Canada công nhận ngày 30 tháng Tư của chúng ta. Ông Thống Đốc Toàn quyền David Johnston sẽ đến Thượng Viện và sẽ ấn ký vào 4 giờ chiều hôm nay giờ Canada.
Cộng Đồng Người Việt của chúng ta tại Toronto, Montreal, và Ottawa cũng sẽ có mặt tại Thượng Viện để chứng kiến sự kiện lịch sử này đúng 4 giờ chiều nay. Đây là Đạo Luật cho dân Canada biết rằng người Việt tị nạn bỏ xứ ra đi sau 30 tháng Tư 1975 khi cộng sản chiếm miền Nam, đó là ngày chúng ta phải nhớ.
Đối với dân Canada, không biết ngày 30 tháng Tư là gì, nhưng sau đó chỉ trong vòng hai năm 1979 đến 1980 họ nhận 60.000 thuyền nhân Việt Nam. Từ 75 cho tới hiện nay thì người Canada gốc Việt ở Canada dân số khoảng 300.000. Đây là một chứng từ lịch sử cho thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba hoặc các thế hệ kế tiếp phải hiểu biết điều đó, biết rằng 30 tháng Tư là ngày chúng ta bỏ nước ra đi.
Thanh Trúc: Câu hỏi cuối củng xin được hỏi ông, đối với những người lâu này vẫn muốn ngày 30 tháng Tư là ngày quốc hận chứ không thể là ngày gì khác thì ông có lời nào bày tỏ?
TNS Ngô Thanh Hải: Thưa nó như thế này: quốc hận là quốc hận của ngừơi Việt Nam chúng ta, chúng ta hận là đúng, nhưng mà đối với dân Canada họ có gì đâu mà phải hận? Tuy nhiên, nếu coi kỹ trong Đạo Luật ,ngày quốc hận là ngày 30 tháng Tư khi chúng ta bỏ nước ra đi là lý do gì? Chúng ta bỏ nước đi tìm tự do chứ đâu phải là hận cộng sản đâu. Chúng ta chạy là chúng ta bỏ nước ra đi vì vấn đề tự do. Đạo Luật này không xóa bỏ ngày 30 tháng Tư mà chính thức là National Day của Canada đặc biệt công nhận ngày 30 tháng Tư.
Trong cái Preambule (Lời dẫn nhập) cũng có nói rằng cộng đồng người Việt Canada vẫn thường dùng ngày 30 tháng Tư là ngày Black April Day. Công việc đó đối với những người đó tôi không muốn trả lời bởi vì họ không đọc kỹ cái đạo luật của tôi, họ cho rằng đạo luật này không có nghĩ tới vấn đề quốc hận. Ai mà không biết ngày quốc hận, tôi cũng cho đó là ngày quốc hận vậy, nhưng ngày 30 tháng Tư chúng ta ra đi là để tìm tự do, bỏ nước bỏ gia đình bỏ nhà cửa để đi tìm tự do, thì ngày 30 tháng Tư là ngày chính. Xong rồi ra ngoài này chúng ta hận cộng sản là chuyện đương nhiên, thành ra ngày hành trình tìm tự do hay ngày quốc hận cũng vẫn được như thường bởi vì trong preambule của tôi vẫn đề ngày 30 tháng Tư là Black April Day mà công đồng ngừơi Việt thường dùng cũng như Ngày Hành Trình Tìm Tự Do.
Nói xóa bỏ ngày quốc hận 30 tháng Tư là điều mà Cộng sản Việt Nam vẫn dùng, vẫn đưa ra, để đánh lạc hướng. Họ vận dụng lý do đó để họ lobby các dân biểu các nghị sĩ chống đối Đạo Luật này, tìm cách làm mờ ngày 30 tháng Tư đi mà công nhận ngày khác như ngày 27 tháng Bảy là ngày liệt sĩ của quân đội cộng sản Việt Nam, đó là lý do họ làm. Chúng ta không nên mắc mưu vấn đề đó mà nên nghĩ rằng 30 tháng Tư chúng ta vẫn có là 30 tháng Tư, Đạo Luật này công nhận chính thức của Canada là ngày 30 tháng Tư. Do đó tôi thấy không nên hấp tấp cho rằng Đạo Luật này là xóa bỏ ngày quốc hận.
Thanh Trúc: Xin cảm ơn ông Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải về thời giờ của ông.
Cô Giáo Jenny đang nhận quà Giáng Sinh do đại diện trạitỵ nạn traotặng, năm 1982.
Cô Giáo Tỵ Nạn mà tôi và các bạn đề cập tới ngày hôm nay, không phải là cô giáo ở Việt Nam đi vượt biên, sống tạm thời tại các trại tỵ nạn, mà là cô giáo người Úc, từ Úc tới các trại tỵ nạn để dậy tiếng Anh cho những người dân Tỵ Nạn đang sống ở đó.
Cô giáo người Úc này tên là Jennifer Joy Ramm.
San ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, dân Việt chúng ta đã ào ạt bỏ xứ ra đi tìm Tự Do, vì không thể sống dưới chế độ bạo lực, tù đầy và sự trả thù dã man của bọn Cộng Sản. Cả thế giới dang rộng vòng tay và lòng từ thiện thiết lập những trung tâm tỵ nạn tại các hòn đảo trong vùng Á Châu Thái Bình Dương để chúng ta có nơi tạm trú chờ đi định cư ở các quốc gia khác.
Trong thời gian tạm trú này, đã có rất nhiều thiện nguyện viên nam cũng như nữ, già cũng như trẻ, ở khắp mọi nơi trên thế giới tới các trại tỵ nạn để giúp đỡ chúng ta tìm thân nhân thất lạc cũng như học Anh ngữ. Một trong những người trẻ đó là cô Jennifer Joy Ramm mà các bạn hữu và các học viên thường gọi cô bằng cái tên ngắn gọn và đầy tình thân:
“Chị Jenny”.
Jenny là con cả trong một gia đình gốc Anh, sinh sống ở vùng Burra Burri thuộc Tiểu bang Queensland. Đến khi lớn lên, gia đình đã chuyển về Cooroy để cô có thể tiếp tục học bậc trung học ở Noosa.Tốt nghiệp trung học, Jenny được học bổng của chính phủ Liên Bang để tiếp tục học ở Đại Học Queensland.
Sau khi tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân Văn Chương tại Queensland, cô đã xuống Melbourne học thêm để lấy chứng chỉ về Giáo Dục tại Đại học La Trobe.
Là thành viên của nhóm người trẻ tình nguyện hoạt động ở ngoại quốc “Australian VolunteersAbroad – AVA”, vào năm 1976, cô Jenny được cử đi dậy Anh ngữ tại một trường trung học ở Mukah, thuộc Malaysia. Với giọng nói nhẹ nhàng, vui tươi và thái độ cởi mở, Cô giáo Jenny đã thu phục được nhân tâm của các học sinh và phụ huynh của Mukah, đến nỗi có gia đình đã đặt tên con của họ là Jenny để ghi nhớ thời gian cô dậy học cho các em học sinh tại đây.
Năm 1979, cô lại được cử đến trại tỵ nạn Ban Vmai ở Thái Lan, để lập ra một chương trình giảng dậy tiếng Anh cho 60.000 người Hmong đang sống ở trại tị nạn này. Để có thể dậy tiếng Anh một cách hữu hiệu, cô đã theo cách thức của các nhà truyền giáo là học tiếng bản địa trước. Jenny đã bỏ ra bốn tháng trời để chuyên tâm học tiếng Thái Hmong cho thật trôi chẩy, rồi sau đó mới dùng chính ngôn ngữ của họ mà dậy tiếng Anh cho họ. Trong vòng hai năm trời, cô đã xây dựng lên một trung tâm giảng dậy với nhiều lớp học, thuê giáo viên địa phương và mua cả một chiếc xe chở hàng nữa.
Với những kinh nghiệm giảng dậy này, vào khoảng cuối năm 1981, cô đã được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc mới đi dậy tiếng Anh cho các Thuyền Nhân Việt Nam tại trại Tỵ Nạn Galang, thuộc Indonesia.
Tại Galang, công vỉệc của Cô Giáo Jenny không chỉ đơn giản là dậy tiếng Anh cho người Việt Nam, cô con phải giúp đỡ họ chuẩn bị cho cuộc sống mới ở các nước Tây Phương, mà ở đó, không những họ chỉ phải đương đầu với sư khác biệt về ngôn ngữ, mà còn cả những khác biệt về phong tục tập quán, cách thức ăn uống và những sinh hoạt hàng ngày nữa. Các học viên của cô, gồm đủ mọi trình độ, đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi ý thích. Từ đó, cô Jenny mới chia lớp học ra thành nhiều nhóm khác nhau: Nhóm nhỏ bạo dạn hơn, nói lung tung mà không sợ bị chê là sai, nên học nhớ chữ mau hơn và nói đúng giọng hơn. Nhóm lớn tuổi, trí nhớ kém đi và hay bị mặc cảm nên khó nhớ mặt chữ và giọng đọc cứng hơn. Một nhóm đặc biệt mà chỉ có ở trại tỵ nạn Việt Nam, đó là nhóm trai tráng đã đi lính, bị Việt Cộng bắt đi tù “Cải Tạo” rồi trốn về hoặc được thả về. Nhóm người này đa số biết nói một chút ít tiếng Anh, một số nói rất khá.Họ rất chăm chỉ học và cố gắng nói thật nhiều để cô sửa giọng cho họ.Đối với nhóm cựu quân nhân này và những nhóm lớn tuổi, cách giảng tiếng Anh của cô là kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày tại Úc và dậy cho họ những câu đối thoại cần thiết.
Theo kinh nghiệm dậy học cho người Hmong, ngoài giờ dậy học, Jenny thường hay tới thăm viếng những láng trại của người Việt tỵ nạn để nói chuyện với họ, tìm hiểu cách thức sinh sống của họ và nhất là . . . học tiếng Việt bằng cách . . . nói tiếng Anh với người Việt. Từ những buổi tiếp xúc này mà cô giáo Jenny quen biết rất nhiều bạn bè và biết ăn cơm, biết cầm đũa. Một cô thợ may đã đo và may tặng cho Jenny một chiếc áo dài, cô mặc thử, thấy đẹp quá, về thư viện, cô đã tìm sách đọc thêm, và sau khi biết chíêc áo này được coi là quốc phục của người Việt Nam, cô đã khuyến khích các cô gái Việt trên đảo giữ truyền thống áo dài của mình bằng cách . . . tổ chức một cuộc thi áo dài ngay trên đảo tỵ nạn.
Cô Giáo Tỵ Nạn tổ chức thi Hoa Hậu Áo Dài mừng xuân Quý Hợi 1983 tại trại tỵ nạn Galang.
Trong một buổi giảng dậy, cô giáo Jenny để ý thấy có một cậu trai luôn luôn lảng vảng phía ngoài lớp học, nhưng không bao giờ vào dự lớp học của cô.Nghĩ rằng anh này có thể . . . còn ngại ngùng gì đó, nên cô giáo đã đích thân ra mời anh vô lớp để học cho vui, nhưng anh mắc cở đỏ mặt chạy đi nơi khác.Một lúc sau, anh ta lại quay trở lại, nhưng cũng vẫn đứng ở ngoài lớp học chứ không vô trong lớp.Lâu dần, cô không thắc mắc nữa, mà chỉ giảng và đọc lớn hơn để người đứng ở ngoài có thể nghe rõ hơn mà thôi.
Đến năm 1983, cô giáo Jenny trở về lại Melbourne, tiếp tục dậy tiếng Anh tại Trung Tâm Anh Ngữ Cho Những Người Di Dân Lớn Tuổi (Adult Migrant English Service-
AMES), tại đây, Jenny cũng vẫn giúp đỡ người dân tỵ nạn Việt Nam bằng cách khuyến khích họ làm những công việc mà họ có khả năng từ hồi ở Việt Nam, và dậy họ nói Tiếng Anh về chính ngành nghề họ có thể làm, muốn làm và đang làm. Cô giáo Jenny thành công ở chỗ, cô có thể nói tiếng Việt, hiểu tiếng Việt, để nghe người Việt nói ra những điều họ muốn biết, muốn học, do đó đã giúp người Việt có hứng thú khi học tiếng Anh và vì thế mà họ học mau hơn, tiến bộ hơn. Jenny lại có sáng kiến tổ chức những buổi barbecue tại nhà của mình, mới các bạn trẻ người Úc và người tỵ nạn Việt Nam cùng tham dự, để cả hai bên hiểu rõ nhau hơn và nhất là để các bạn trẻ người Việt có cơ hội nói chuyện, trau dồi khả năng Anh ngữ của mình. Nhiều cô giáo đã rất ngại ngùng phải dậy học cho đám trẻ thiếu niên đi tỵ nạn một mình, vì các em . . . khó dậy, không chịu tiếp xúc . . . Riêng đối với Jenny, cô không thấy có gì trở ngại cả, vì cô hiểu tâm tình của đám trẻ này, cứ để cho các em tâm sự với cô về những khó khăn của cuộc sống, cô nhờ nhân viên xã hội giải quyết những điều các em mong muốn, rồi sau đó mới dậy học cho các em nhỏ này. Việc quan trọng nhất mà Jenny muốn hướng dẫn họ là, nên đi học trở lại để có kiến thức và có một tương lai tốt đẹp hơn.
Cũng vì tình thân với người Việt, đã có nhiều người mời Jenny dự đám cưới của họ, và cô rất vui khi được mặc áo dài để bưng mâm ngũ quả đi rước dâu.
Gia Đình hạnh phúc.
Trong một buổi barbecue mời tất cả các . . . cư dân của đảo Galang, cô giáo Jenny lại gặp lại người thanh niên thường hay lảng vảng ngoài lớp học của cô hồi còn ở trại tỵ nạn. Anh chàng cũng vẫn đứng một mình, tay cầm lon coca xoay qua xoay lại chứ không bắt chuyện với ai. Cô giáo Jenny nghĩ rằng anh này chắc . . . không biết tiếng Anh, hoặc là ít nói, nên đã tới nói chuyện với anh ta.Anh vui vẻ nói chuyện, tự giới thiệu tên là Sơn, hiện đang làm việc cho Australia Post, tại Blackburn Mail Centre. Cô Jenny rất là ngạc nhiên khi biết anh . . . biết nói tiếng Anh, và lại nói khá nữa:
“Ah! Vì anh biết nói tiếng Anh rồi, nên mới không tham dự lớp học của tôi ở trại tỵ nạn, có phải vậy không?”
Lại trái với dự đoán của Jenny khi anh con trai trả lời:
“Không phải vậy.Hồi đó, quả thực tôi dở tiếng Anh lắm.Vì tình trạng chiến tranh, tôi chỉ mới học hết lớp 11 mà thôi. Đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam, tôi là con Lính Cộng Hòa nên đâu có được tiếp tục học nữa, tôi phải đi bán hàng với mẹ để kiếm sống cho gia đình, bao nhiêu tiếng Anh tôi học ở trường, tôi quên hết trơn, nên tôi đâu có biết học từ đâu? Thấy cô dậy học, tôi cũng muốn vô học, nhưng thấy mình lớn rồi, vô học không biết một câu tiếng Anh tiếng U nào hết . . . mắc cở với đám con nít lắm . . . nên tôi chỉ đứng ngoài nghe lén mà thôi. Hơn nữa, cô nói tiếng Anh của người Úc . . . khó nghe quá, tôi nghe như là . . . vịt nghe sấm . . . chẳng hiểu cô nói gì hết, thì làm sao mà học?”
Cô giáo Jenny lúc nào cũng có thói quen nghề nghiệp, cô khuyến khích Sơn:
-“Anh nói tiếng Anh hay lắm, lại được làm ở Australia Post thì đời sống cũng khá lắm rồi . . . nhưng nếu anh muốn, anh có thể đi học lại, vô đại học học nghành nào mà anh thích, biết đâu lại có tương lai sáng sủa hơn!”
-“Tôi cũng muốn lắm, nhưng tôi . . . mới học xong lớp 11 chứ chưa tốt nghiệp trung học, làm sao tôi có thể vô đại học được?Hơn nữa, tiếng Anh của tôi chỉ đủ để làm việc thôi, chứ chưa đủ để học đại học đâu.”
-“Anh đừng lo, tôi có thể giúp anh về phần tiếng Anh, anh sẽ dư sức học. Ở Úc có những trường cao đẳng, gọi là trường TAFE (Technical And Further Education) dành cho những người chưa học xong trung học, tôi sẽ giới thiệu anh với chú tôi, một giáo sư của trường Footscray Institute of Technology (FIT- sau này nhập chung với trường Đại học Victoria University) để chú giải thích cho anh nhiều hơn.”
Khi về nhà, anh Sơn mới kể lại câu chuyện cho người bạn cùng phòng là anh Lê Hữu Giàu nghe.Anh Giàu cũng khuyên anh Sơn nên đi học để có tương lai khá hơn.
Thế là anh Sơn đi gặp Giáo sư Douglas Ramm để vấn kế. Ông Douglas làm đúng luật, đã đưa đơn cho anh điền để học thử ba môn học về Civil Engineering xem kết quả ra sao cái đã. May mắn, anh đậu hết cả ba môn toán học này, ông Douglas liền hướng dẫn anh một lần nữa nộp đơn xin học khóa Bachelor of Civil Engineering.
Thực sự thì Sơn chưa muốn hoàn toàn định cư ở bên Úc, đầu óc của anh vẫn còn hướng về Việt Nam: Khi Sơn còn ở trên đảo Galang, anh đã có nghe về Phong Trào Phục Quốc của Tướng Hoàng Cơ Minh, Sơn định cư tại Úc đúng vào thời điểm Phong Trào Phản Chiến bộc phát rất lớn, Sơn nhớ lời cha dặn là ráng tìm cách gia nhập bất cứ tổ chức kháng chiến nào, để trở về Việt Nam tiêu diệt bọn Cộng Sản, khôi phục lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa thân yêu tràn đầy tự do và lòng nhân ái. Do đó, khi được chấp nhận cho học, Sơn phân vân không biết nên lựa chọn con đường nào? Anh đem việc này ra bàn với Jenny.Tiếc thay, cô giáo Jenny chỉ có thể giúp anh trau dồi Anh ngữ thôi, chứ không có khả năng giúp anh về vấn đề này, nên Sơn quyết định không nộp đơn xin học, mà chờ tin để trở về Việt Nam cùng với các bạn bè trong nhóm.
Buồn thay, tổ chức phục quốc càng ngày càng im tiếng và không có ai liên lạc với anh để nói tới ngày về cả. Sơn đành phải nộp đơn xin đi học và bảo lãnh cha mẹ qua Úc chung sống.
Muốn tỏ tình với một cô gái đã là chuyện khó rồi, huống chi cô gái này lại còn là cô giáo dậy tiếng Anh nữa, công việc càng trở nên phức tạp và . . . khó khăn hơn.
Một lần đến nhà Jenny ăn cơm tối, Sơn đem theo cây đàn hát tặng Jenny bản nhạc “Nắng Chiều”:
“. . . Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn em anh nói: “Mến em!”
Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi
Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi . . .”
(Nhạc Lê Trọng Nguyễn)
Hát xong bản nhạc, Sơn đã hỏi Jenny bằng tiếng Việt:
“Jenny à . . . nếu tôi muốn nói . . . anh yêu em . . . bằng tiếng Anh, thì . . . làm cách nào để nói?”
Jenny thích bản nhạc Nắng Chiêu quá, đang lo hát theo, nên không biết mánh của Sơn, cô ngây thơ trả lời:
“Thì nói . . . I love you . . . dễ mà.”
Thế là Sơn vừa khẩy đàn vừa nhìn Jenny mà hát câu hát để đời:
“I love you . . . I love you . . . and I love you . . .”
Sơn hát đến lần thứ ba thì Jenny mới hiểu, cô đỏ mặt hỏi lại Sơn bằng . . . tiếng Anh:
“Are you serious?”
Sơn lại trả lời bằng . . . tiếng Việt:
“Anh nói thiệt mà!”.
Sơn tốt nghiệp thủ khoa khóa Civil Engineer của FIT vào năm 1990.Một tháng sau khi cha mẹ Sơn qua định cư ở bên Úc, Jenny và Sơn làm đám cưới. Jenny rành đủ sáu câu về đám cưới Việt Nam, nên cô đòi đủ thứ . . . nào là áo cưới cô dâu, vương miện, bông tai, dây chuyền vàng, ngũ quả, heo sữa và pháo nổ . . . thậm chí cả phong bao lì xì cho đám con nít giữ cửa ở nhà gái khi rước dâu cũng phải có đầy đủ.
Ba Mẹ của chàng rể Sơn mới từ Việt Nam qua, nghe đằng nhà gái nói tiếng Anh líu lo cứ như là chim hót, chẳng biết người ta nói cái gì, nhưng cũng biết đó là những lời chúc tụng cho cô dâu chú rể.Khi mẹ chồng được mời ra đeo dây chuyền cho cô dâu, thiếu điều bà phải bắc ghế đứng lên mới quàng dây chuyền qua cổ cô dâu Tây được. Đằng nhà gái lần đầu tiên nhìn thấy cô dâu và đám phù dâu mặc áo dài thật là đẹp, thấy người nhà bưng các khay đựng đủ thứ bánh trái, rồi lại được nghe pháo nổ đì đùng khói bay khét lẹt . . . thật là vui . . . vui quá xá là vui.
Vì tốt nghiệp ưu hạng, Sơn được học bổng của chính phủ để học Master, nhưng việc đầu tiên của người chồng và người con là phải lo làm ăn kiếm tiền lo cho gia đình và phụng dưỡng cha mẹ, nên Sơn đã từ chối học bổng để đi làm với công ty xây cất John Holland, và được cử đi làm việc ở Kuching, Mã Lai.
Đứa con gái đầu lòng tên Lanna của hai vợ chồng ra đời vào tháng 4 năm 1993, chỉ một tháng sau là Jenny đã được hưởng Mother day lần đầu tiên trong đời.
Cô gọi điện thoại về Úc chúc mừng mẹ:
“Chúc mẹ một ngày “Mother day” vui vẻ . . . và cũng một ngày “Mother Day” vui vẻ cho chính con nữa . . . vì con cũng đã là mẹ của bé Lana rồi.”
Đến năm 1995, em trai của Lana cũng đã chào đời, được ba mẹ đặt tên là Liam (Từ khi Jenny mới bắt đầu mang bầu, hai vợ chồng đã bàn tính suốt chín tháng trời để tìm cách đặt tên cho con, những cái tên nào vừa có sắc thái của Vương Quốc Anh, lại vừa vẫn có vẻ là một cái tên Việt Nam. Lana cũng có nghĩa là Lan và Liam cũng có thể đọc là Liêm.Ông Bà Nội cũng đọc tên các cháu được, mà Ông Bà Ngoại cũng cảm thấy happy khi gọi tên hai đứa cháu của mình.)
Khi các con đã lớn, và cha mẹ đã có phần già yếu, Sơn và Jenny quyết định xin trở về Úc làm việc. Lana thi đậu vào trườngMac Roberson và tốt nghiệp VCA với số điểm ưu hạng 99.30 nhưng cháu lại không muốn học Y, Nha, Luật . . . mà chỉ muốn theo gót của mẹ, học Art ở Melbourne University, thời giờ rảnh thì cháu . . . đi làm việc thiện nguyện. Còn Liam thì học IT ở RMIT University với ước mơ trở thành . . . tài tử đóng phim, trong khi Jenny thì đi dậy trở lại ở VUT – Victoria University of Technology.
Lana và Liam được mẹ cho biết gốc gác của mình là . . . dân tỵ nạn Việt Nam, vượt biên tới đảo và được định cư ở Úc, nên lâu lâu, hai chị em đùa dỡn với nhau, Liam đóng vai Việt Nam, nói với chị:
“Tôi là . . . Vietnamese Boat people . . . tôi không biết nói tiếng Anh . . .”
Lana đóng vai cô giáo, nghiêm trang trả lời:
“If you be good . . . I will teach you how to speak English . . .”
Jenny và Sơn nhìn nhau cười.
Vào khoảng tháng Ba Năm 2011,trận bão Yasi đã tàn phá hầu hết những trang trại trồng chuối ở Queensland, giá bán chuối ở các siêu thị vọt lên tới con số kỷ lục là $14.00 một Ký, có nơi còn không có chuối để mà bán.
Sáng sớm ngày Mother’ Day năm 2011, ba cha con mặc quần áo đẹp đẽ, trịnh trọng lái xe đi chợ, khệ nệ đem một gói quà thật lớn đưa tặng cho mẹ. Hai chị em cùng la lớn:
“Happy Mother’ Day my dear Mummy”.
Jenny mở gói quà ra: Một nải chuối với năm trái chín vàng óng ánh.
Jenny sung sướng cười thật tươi, nhưng vẫn cự nự chồng:
“Chuối mắc lắm, anh mua làm chi cho tốn tiền.”
Lana và Liam lại đồng thanh nói:
“Chúng con có tiền . . . chúng con mua tặng mẹ.”
Phần của Sơn là một bó hoa đỏ thắm đưa tặng vợ.
Jenny bị cancer ruột từ năm 2006, coi như đã lành bệnh sau nhiều ca mổ, nhưng đến cuối năm 2011 thì bệnh của cô lại tái phát, qua những vết sẹo còn lại của những ca mổ trước đây. Sơn nghỉ làm suốt ngày luẩn quẩn tại bệnh viện St. Vincent lo chăm sóc cho Jenny. Nhà thương thấy vậy, cho Sơn mướn luôn một phòng để ăn ngủ tại chỗ cùng với vợ.
Những ngày cuối của cuộc đời, hai đứa con cũng nghỉ học để ở bên cạnh mẹ.
Lana và Liam nắm tay mẹ mà nói:
“Mẹ sẽ khỏe lại mà . . . Mother’s Day năm tới chúng con sẽ lại mua chuối cho mẹ ăn nữa nha.”
Sơn so lại phím đàn, hát cho Jenny nghe bản nhạc “Bên Kia Sông”:
“. . . Này người yêu, người yêu anh ơi!
Bên kia sông là ánh mặt trời
Này người yêu, người yêu anh hỡi!
Bên kia đồi, cỏ hoa đan lối
Bên kia núi, núi cao chập chùng
Bên kia suối, suối reo lạnh lùng
Là bài thơ, toàn chữ hư vô . . .”
(Nhạc của Nguyễn Đức Quang.)
Cô Giáo Tỵ Nạn Jenny Ramm ra đi vào ngày 10 01 2012 với tuổi đời 58 còn rất trẻ trung, để lại chồng và hai đứa con.
Từ bốn phương trời, những người dân Việt tỵ nạn ở đảo Galang trước đây đã được cô giáo Jenny dậy học tiếng Anh đã gởi thơ chia buồn đến cho gia đình:
“Jenny . . . chúc chị ra đi bình yên . . . Tên của chị, hình bóng của chị, tiếng Anh của chị dậy . . . sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí óc chúng tôi . . .
Cô Giáo Tỵ Nạn Jennifer Joy Ramm, đã đem tất cả lòng nhiệt thành và tuổi trẻ của mình ra để phục vụ người tỵ nạn khắp bốn phương trời, nhất là người tỵ nạn Việt Nam (Hình chụp tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.)
CÔ DÂU CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN . . . LÀ NHƯ THẾ ĐẤY.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
(Viết theo lời kể của anh Nguyễn Sơn và các con.)
LONDON. ANH. Khi con tàu Titanic bắt đầu chìm vào ngày 15.4.1912, cha Toma Byles đã có hai cơ hội để lên tàu cứu nạn. Nhưng cha đã bỏ qua hai cơ hội này để nghe giải tội và an ủi cũng như cầu nguyện với những ai bị mắc kẹt lại. Giờ đây, một linh mục tại giáo xứ cũ của cha ở Anh đang xin mở án phong chân phước cho cha.
Khoảng 1.500 người đã chết khi con tàu Titanic nổi tiếng trong lịch sử đụng phải tảng băng và chìm vào lòng Đại Tây Dương vào năm 1912. Do tin rằng tàu quá vĩ đại đến độ không thể chìm được, người ta đã không trang bị đủ tàu cứu hộ cho tất cả các hành khách trong chuyến hành trình đầu tiên từ Southampton đến New York.
Cha Byles cũng có mặt trên chiếc tàu này để đến New York chủ sự lễ cưới cho em mình. Vị linh mục 42 tuổi này đã chịu chức 10 năm trước đó tại Roma và đang làm việc như một cha xứ tại nhà thờ thánh Helen ở Essex từ năm 1905.
Cô Ahnes McCoy, vị hành khách thuộc khoang hạng ba và là người sống sót trong vụ đắm tàu đã chia sẻ rằng cha Byles đã ở trên tàu, nghe giải tội, cầu nguyện với các hành khách và ban phép lành khi tàu chìm. Cô và nhiều người khác đã làm chứng về điều này.
Helen Mary Mocklare, một hành khác khoang hạng ba khác, cũng nói thêm một vài chi tiết khác về những giờ cuối của vị linh mục: “Khi cú va chạm xảy đến, chúng tôi rớt khỏi giường… Chúng tôi thấy cha Byles trước mặt mình, ngài nâng chúng tôi dậy. Chúng tôi biết ngài vì ngài đã viếng thăm chúng tôi vài lần trên tàu và đã dâng lễ cho chúng tôi mỗi buổi sáng.”
“Hãy bình tĩnh, các con yêu dấu”, ngài nói, và rồi ngài đi đến khoang hạng chót để ban phép xá giải và ban phép lành.
Morklare tiếp tục: “Một vài người chung quanh chúng tôi bị kích động. Nhưng chính cha một lần nữa đưa tay lên và ngay lập tức, họ bình tĩnh lại. Các hành khách đều rất ấn tượng bởi sự tự chủ của cha.”
Bà kể rằng một thủy thủ đã “cảnh báo cha về sự nguy hiểm và xin cha hãy lên tàu cứu hộ.” Dù viên thủy thủ rất nhiệt tình giúp cha, nhưng cả hai lần, cha đều từ chối.
“Cha Byles có thể đã được cứu rồi, nhưng cha không muốn bỏ đi, khi dù chỉ còn một hành khách bị bỏ lại. Viên thủy thủ xin cha đi nhiều lần, nhưng cha không để ý.
Sau khi chúng tôi đã lên tàu cứu hộ cuối cùng, và từ từ bơi ra xa khỏi con tàu lớn, tôi vẫn còn có thể nghe từ đàng xa tiếng của cha và những lời thưa đáp cầu nguyện.”
Hơn 1 thế kỷ sau, cha Graham Smith, cha xứ của giáo xứ Thánh Helen – giáo xứ mà trước kia cha Byles đã từng phục vụ – đã xin mở án phong chân phước cho cha Byles.
Nói với đài BBC, cha Smith cho biết đã bắt đầu tiến trình phong chân phước cho vị tiền nhiệm của mình, một “con người phi thường, đã trao ban mạng sống của mình cho người khác.”
Cha Smith nói rằng “cộng đoàn địa phương đang hy vọng và cầu nguyện để cha Byles được công nhận như là một trong số các vị thánh.”
Tiến trình phong chân phước trước hết đòi phải có những bằng chứng chứng minh vị ấy có một đời sống nhân đức anh hùng, rồi sau đó là một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của ngài.
Khi đã được phong chân phước, cũng sẽ cần phải có một phép lạ khác do lời chuyển cầu của cha Byles để ngài được phong thánh..
“Chúng tôi hy vọng mọi người trên khắp thế giới có thể cầu nguyện với ngài khi gặp thiếu thốn, để nếu có phép lạ xảy ra thì việc phong chân phước và phong thánh cho ngài được diễn ra tốt đẹp.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
(theo CNA)
Trước đây mỗi năm tới ngày 30/4 tôi rất vui nên hay tổ chức gặp gỡ bạn bè. Nhiều lần tôi bay vào SG cùng đồng đội về thăm căn cứ cũ ở miền Đông, miền Tây Nam bộ. Chúng tôi thắp hương cho bè bạn đã hi sinh để bày tỏ lòng tri ân với những người đã để lại tuổi xuân ở chiến trường. Rồi chúng tôi quây quần bên nhau cùng ôn lại bao kỉ niệm buồn, vui những năm chiến tranh ác liệt. Trong lòng chúng tôi tràn ngập niềm vui và tự hào vì nghĩ rằng mình đã dâng hiến cả tuổi trẻ để góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những lần gặp gỡ truyền thống như thế, chúng tôi thường ngồi bên sông Sài Gòn hát bài “Mùa xuân trên TP HCNM” của Nhạc sĩ Xuân Hồng: …”Ôi đẹp biết bao biết mấy tự hào/Sài gòn ơi cả nước vẫy chào/Cờ sao đang tung bay cao,qua hết rồi những năm thương đau…/Mà niềm vui như đến bất ngờ/Ngày đi như trong đêm mơ tuổi lớn rồi mà như ngây thơ”…
Ngày còn trẻ khi đang phục vụ trong đoàn Văn công Giải Phóng ở chiến trường, tôi rất tha thiết được kết nạp vào đảng NHÂN DÂN CÁCH MẠNG. Ngày kết nạp tôi đã sung sướng đến trào nước mắt. Tôi nghĩ là mình đang được đứng trong đội ngũ những người tiên phong nhất, tốt đẹp nhất, những con người dám đem cả mạng sống ra để giải phóng quê hương. Ngày ấy tôi tin mãnh liệt vào sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng NHÂN DÂN CÁCH MẠNG. Rằng “Giải phóng miền Nam để chấm dứt chiến tranh. Sẽ xây dựng một Việt Nam ẤM NO, TỰ DO, DÂN CHỦ, HẠNH PHÚC và GIÀU MẠNH”. Vì tin cho nên tôi luôn trong tâm thế sẵn sàng hi sinh cho tương lai tốt đẹp của đất nước…
Ngày 30/4/1975, chúng tôi vui thực sự, vui đến phát khóc. Xuân Hồng viết đúng: “Vui sao, nước mắt lại trào…”! Những văn nghệ sĩ trên chiến trường thời ấy, cũng như tôi, ai cũng tin tưởng sau chiến tranh Việt Nam sẽ có một tương lai tươi sang. Nhưng bây giờ, nếu Xuân Hồng còn sống, chắc ông sẽ chọc tôi: “Buồn chi, nước mắt lại trào?”. Đúng, ngày xưa khóc trong niềm vui chiến thắng, nay tôi lại phải khóc ‘trong nỗi đâu thời cuộc’, trong những nỗi buồn da diết!
“Vui sao, nước mắt lại trào” – bây giờ tôi mới thấy đó là niềm vui ngộ nhận. Hóa ra, niềm vui, niềm tin và những hy vọng cứ sáng lên trong tôi suốt thời chiến trường khói lửa ấy là do “nghệ thuật tuyên truyền”, và có lẽ chính người đi tuyên truyền thời ấy nay cũng “tâm tự vấn tâm” sự ‘ngộ nhận’.
Mấy năm qua, mỗi lần 30/4 tôi mất hẳn trạng thái cảm giác hạnh phúc, tự hào như những năm trước đây. Tôi buồn vì niềm tin trong tôi hoàn toàn đổ vỡ. Nghĩ lại, nhận rõ và xác thực hơn: Những năm bom đạn ‘đi theo lý tưởng’ thì quả là “lớn rồi mà như ngây thơ”. Tôi cũng như biết bao đồng đội đã ‘ngây thơ’.
Đúng thế, dần dần tôi nhận ra lời tuyên bố hùng hồn của đảng CS ngày ấy nay như không hồn! Những điều nói và làm khác biệt, làm ngược với nói như thế, dân Nam bộ chúng tôi đã đúc rút: “Nói dzậy mà hổng phải dzậy”. Thực tế đời sống chính trị-xã hội đã khác hoàn toàn những điều tôi hằng tâm niệm, một sự giả dối mà họ không dễ tự nhận biết, không dễ sám hối!
Trong cương lĩnh đảng CSVN tuyên bố “người cày có ruộng”. Vì lẽ đó nên con em nông dân đi lính đông nhất khi đất nước có chiến tranh. Ở nông thôn miền Bắc VN đóng góp quá nhiều máu xương cho những cuộc chiến. Vậy mà cho đến hôm nay có rất nhiều gia đình vẫn đói nghèo vì bị cướp đất cho những dự án. Có còn xứ sở nào nhiều dân oan như ở VN không ? Hiến pháp VN không công nhận quyền tư hữu ruộng đất là cố tình để những nhóm lợi ích tước đoạt ruộng đất của nông dân. Câu chuyện chính quyền Tiên Lãng Hải Phòng dùng cả lực lượng quân đội và công an tấn công cưỡng chế đất của anh em nhà Đoàn Văn Vươn đã khiến dư luận trong và ngoài nước phẫn nộ. Kết quả là luật pháp VN đã dùng luật rừng để bỏ tù người nông dân can đảm dám dám chống lại cường quyền. Rồi cái chết của Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình càng khiến dư luận xót xa. Rồi tiếp nữa Cấn Thị Thêu ở Dương Nội đang phải ở tù vì bảo vệ đất… Khắp nơi dân oan khiếu kiện bị mất đất, mất nhà. Đau xót lắm! Căm hận lắm !
Người nông dân mất ruộng buộc phải ra thành phố kiếm sống ở các khu công nghiệp. Các chủ nhà máy bốc lột họ đến tận xương tủy.
Trong số đó có nhiều người thuộc diện gia đình có công, đáng ra họ phải được nhà nước quan tâm chăm sóc. Mỗi khi tổng động viên, chính cha, anh, chồng , con họ đã ra trận và có rất nhiều người đã không trở về. Cho tới nay có rất nhiều gia đình còn chưa lấy được hài cốt của con em mình.
Đó là những chiến sĩ VN đã hi sinh trong chiến tranh biên giới phía Bắc.Phần đất đó nay bị Trung Quốc lấn chiếm.
Lãnh đạo VN sợ Trung Quốc đến nỗi cho đục bỏ cả tên tuổi của các chiến sĩ khắc trên bia đá ở biên giới. Tàn nhẫn hơn là mỗi lần anh em chúng tôi tố chức những cuộc tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh ở Gạc Ma, ở Hoàng Sa, ở biên giới đều bị đám côn đồ và dư luận viên quấy phá, chửi bới tục tỉu. Mọi người đều thừa biết nếu không có đảng và công an đứng phía sau thì bố bảo bọn giặc ấy cũng không dám láo xược như thế.
Đã 40 năm “ giải phóng miền Nam” nhưng với người miền Nam thì từ “ giải phóng” đầy mỉa mai. Miền Nam trước đây được biệt danh là “ hòn ngọc viễn đông”. Nhưng “ giải phóng” vô thì họ mất nhà cửa , tiền bạc. Rồi chồng con bị tù đầy…Mất tất cả nên hàng triệu người miền Nam buộc phải trở thành thuyền nhân. Đã hàng ngàn người chết trôi, làm mồi cho cá mập. Những kẻ chiến thắng đã cư xử với người thua cuộc tàn bạo một cách tiểu nhân. Khi nhân ra được sự tồi tệ này tôi thấy vô cùng đau đớn.
Ừ thì gọi là thống nhất non sông liền một giải. Nhưng lòng người thì li tán hận thù vô biên. Nỗi đau mất miền Nam trong lòng những người Việt ở nước ngoài đâu dễ bôi xóa trong vài mươi năm. Đáng lẽ nhà nước VN phải tìm mọi cách hàn gắn vết thương vẫn còn đang rỉ máu đó thì tới giờ này vẫn khoét sâu thù hận. Vẫn luận điệu “thế lực thù địch”, “bọn ngụy quân, ngụy quyền MN”. Kêu gọi Việt Kiều về đầu tư xây dựng đất nước thì đã xảy ra bao vụ lừa lọc, cướp tiền của người ta…
Báo chí của đảng cứ ra rả nhận mình là “công bộc của dân”. Nhưng “công bộc” đất đai , nhà cửa nguy nga, tráng lệ ở khắp nơi trong, ngoài nước. Tiền bạc họ gửi ra bạc tỉ dollas ở ngân hàng thế giới. “ Công bộc” to ăn công trình, dự án to. “ công bộc” nhỏ ở nông thôn thì hiện nay bò, dê, gà chạy lạc vào chuồng nhà họ hàng đàn. Mà đó là những vật nuôi hỗ trợ cho chương trình xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Họ dọa sẽ trả thù những người dám tố cáo. Cái bọn “ công bộc” giả hiệu ấy chúng ăn từ dưới ăn lên, từ trên ăn xuống thì hỏi dân lành sao sống nổi? Con cháu các quan và các đại gia đều được đưa sang du học ở các nước tư bản tự do, nhiều nhất là ở Mỹ. Khi trở về nước họ đều nắm giữ những chức vụ quan trọng để tiếp tục đục khoét.
Cái gọi là “xây dựng kinh tế định hướng XHCN” đã làm cho nhà nước thua lỗ hàng nghìn tỉ đồng ở nhiều dự án như Vinasin, Vinalines, Bauxite…Đường sá chỉ làm vài hôm đã sụt lún vì nhà thầu ăn bớt vật tư, làm ăn dối trá…Họ bán tất cả những gì có thể và giờ đây bán tiếp cây xanh ở thủ đô. Họ san lấp cả sông Đồng Nai để xây nhà hàng, khách sạn đón đầu dự án sân bay quốc tế Long Thành. Tham nhũng đã trở thành quốc nạn vào loại xếp hạng đứng đầu thế giới.
Nhà nước tiêu tốn quá nhiều tỉ đồng cho những việc xây dựng các tượng đài chỉ nhằm để phô trương. Thay vì dùng tiền đó để xây những chiếc cầu cho các tỉnh nghèo miền núi để trẻ em đi học qua sông không phải đu giây, không phải lội nước.
Về đường lối thì ĐCS và nhà nước VN vẫn quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường CNXH không tưởng. (Mặc dù tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói rằng “ có thể trăm năm nữa XHCN cũng chưa hoàn thiện”.
Chính vì cái đường lối kì quái này mà hiện nay đất nước vẫn đói nghèo lạc hậu.
Về quan hệ quốc tế thì VN ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc một cách thảm hại cả kinh tế lẫn chính trị:
– Biển đảo, đất đai biên giới của VN bị Trung Quốc ngang nhiên lấn chiếm mà các lãnh đạo VN cam tâm im lặng . Đáng lẽ ra VN phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về việc TQ ngang nhiên đưa con tàu HD 981 vào hải phận VN. Không dám kiện đã là hèn. Hèn hơn nữa là thẳng tay đàn áp những ai lên tiếng phản đối. Đội ngũ công an luôn sẵn sằng khủng bố, bắt bớ, tù đầy những người chống Trung Quốc. Đám dư luận viên hung hãn như một lũ chó điên, chúng tấn công, chửi bới những người đi tưởng niệm các chiến sĩ hi sinh ở Hoàng Sa, Trường Sa.Chúng dán cho những người dám đấu tranh cái nhãn “ phản động”.
– VN cho Trung Quốc thuê đến 340.000 ha đất rừng hạn 50 năm. Đó là những vùng rừng núi có tính chiến lược dọc các tỉnh biên giới phía Bắc, là cửa ngõ từ Nghệ An sang Lào.Trung quốc đưa bao thức ăn tẩm độc vào để gây bệnh tật cho dân VN. Họ bày trò mua đỉa, mua dán để phá hoại môi trường VN. Rồi họ hợp đồng mua rễ hồi, củ hũ dừa… để phá hoại nền kinh tế tiểu nông của ta. Vậy mà nhà nước lúc nào cũng ra rả “ bạn 16 chữ vàng” và “ 4 tốt”.Giờ luận điệu đó chỉ lừa được trẻ con chứ sao lừa được nhân dân.
– Các blocger , các nhà báo dám lên tiếng tố cáo tham nhũng và chống Trung Quốc lần lượt vào tù. Hiện nay trong các trại giam còn rất đông các tù nhân lương tâm.
– Những đảng viên, những trí thức chân chính lên tiếng đấu tranh thì họ gán cho cái tội “ bắt tay với các thế lực thù địch để chống phá nhà nước” và họ bị bôi nhọ đủ kiểu, họ còn dọa sẽ xử lí.
– VN đã tham gia kí kết quốc tế nhân quyền (QTNQ), có chân trong ban lãnh đạo QTNQ. Nhưng chính VN là nước vi phạm quyền con người nhiều nhất. Nhiều TNLT bị tra tấn đánh đập hết sưc dã man trong các trại giam.
Bao nhiêu vụ án oan sai đẩy người vô tội vào cảnh tù đày…
Với tôi bây giờ 30/4 không phải là giải phóng miền Nam. Miền Nam trước đây là mơ ước của Thái Lan, của Singapore. Vậy mà bây giờ VN ta tụt sau họ hằng thế kỉ. Miền Nam là vựa lúa xuất khẩu đi các nước.Vậy mà sau 30/4 một thời gian thì các nhà lãnh đạo đã khiến cho cả nước phải ăn độn khoai, sắn, ngô. Cảnh cấm chợ ngăn sông ngày ấy đã dẫn tới cảnh thiếu từng con khô, chai nước mắm…
Bây giờ mỗi lần 30/4, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng CSVN và chế độ XHCN hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời.
Nhưng tôi có một niềm tin mãnh liệt vào ý chí của toàn dân VN cả trong và ngoài nước sẽ không để mặc cho những người lãnh đạo muốn làm gì cũng được. Những trí thức, đảng viên cấp tiến, những sĩ quan quân đội bên anh em trẻ trong các tổ chức xã hội dân sự cùng sát cánh trong đội ngũ xuống đường ngày càng đông. Theo xu thế văn minh tiến bộ của loài người nhất định nhân dân sẽ đòi được NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ, phải có hai thứ đó thì mới mong THOÁT TRUNG. Chỉ có thoát Trung thì Việt Nam mới cất cánh. Hiện nay các tỉnh phía Nam công nhân các nhà máy đã xuống đường hàng trăm ngàn người. Đó là báo hiệu đã có nhiều người bước qua nỗi sợ hãi. Tôi tin rồi sẽ tới lúc mọi người sẽ nhận ra mình phải tự cứu mình. Nhất định ngày đó sẽ tới. Các vị quan chức cao cấp hãy tin đi khi mà nhân dân đã nổi giận thì các vị sẽ mất tất cả. Nhất định nhân dân sẽ CHIẾN THẮNG.
Tôi mơ ước một ngày rất gần nước Việt Nam sẽ đổi mới theo cùng thời đại trên trái đất này với một thể chế chính trị thực sự hợp lòng dân, không còn ‘độc đảng sinh ra đảng trị độc đoán, chuyên quyền’, đi lên bằng chính sức mình bằng ‘cơ chế thị trường’, một đất nước thực sự có tự do, dân chủ, nhân quyền. Khi đó, tôi ‘lại sẽ vui’ biết bao khi được đoàn tụ cùng tất cả bà con, anh chị em ở hải ngoại trở về trong niềm vui hòa hợp dân tộc, cùng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh.
Hà Nội, tháng 4.2015
Hàng ngàn phụ nữ Việt bị lừa ra ngoại quốc bán dâm
SÀI GÒN (NV) – Không chỉ vài trăm mà có đến hàng ngàn phụ nữ ở Việt Nam đã và đang bị lừa, hoặc ép sang các nước láng giềng bán dâm.
Con số khoảng 5,000 phụ nữ Việt Nam bị lừa gạt, ép buộc sang Malaysia và Singapore bán dâm đã làm mọi người tham dự hội thảo “Xây dựng chương trình hành động phòng, chống mua bán người giai đoạn 2016-2020” do ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm của chính phủ tổ chức ngày 21 tháng 4 tại thành phố Sài Gòn phải giật mình.
![]() Một trong những “ông trùm” đường dây lừa gạt, ép phụ nữ Việt Nam sang Malaysia bán dâm vừa bị công an bắt giữ. (Hình: báo Lao Ðộng) |
Tờ Lao Ðộng dẫn tin từ Bộ Công An cho hay, tình hình mua bán phụ nữ và trẻ em diễn ra ở Việt Nam đang rất phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi. Theo con số thống kê được, từ năm 2011 đến 2015, Việt Nam xảy ra gần 2,000 vụ mua bán người, với 3,800 nạn nhân, trong đó số nạn nhân là phụ nữ chiếm 85%.
Tin cho hay, các tỉnh có nhiều loại tội phạm này là Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và Lạng Sơn… Công an đã khám phá gần 1,200 vụ buôn người qua biên giới, bắt giữ hơn 2,500 người, giải cứu 564 nạn nhân…
Tại các tỉnh thành phía Nam, mỗi năm có khoảng 3,000 phụ nữ bị lừa gạt, ép buộc đưa qua Malaysia, 2,000 phụ nữ bị đưa sang Singapore hoạt động mại dâm bằng hình thức núp bóng môi giới hôn nhân trái phép, tuyển chọn làm vợ.
Bên cạnh đó, tại hội thảo cũng cho biết, nạn mua bán nội tạng tại Việt Nam cũng được cảnh báo. Có những trường hợp, dân nghèo bị dụ bán thận với giá từ 50-100 triệu đồng, nhưng bọn buôn người lại thu về số tiền hàng tỷ đồng/quả thận. Ngoài ra, tình trạng mua bán trẻ sơ sinh cũng đang gia tăng đáng kể. (Tr.N)
H.O. Ông là ai?
Huy Phương & Võ Hương An
(Chân Dung H.O. & Những Cuộc Đổi Đời)
Vào thập niên 90, trong cộng đồng người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ, người ta quen thuộc rất nhiều với danh từ H.O. Đây là một đợt di dân vĩ đại, dành cho quân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tập trung của Cộng Sản sau ngày 30 Tháng Tư, 1975 được đến định cư tại Mỹ, qua sự thương thảo giữa Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và chính phủ Cộng Sản Việt Nam.
Chúng ta không có con số chính thức, nhưng theo tài liệu của Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, có khoảng 350,000 người đến Mỹ theo các danh sách H.O.
Cây bút của Ông Robert L. Funseth, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, thương thuyết gia của chính phủ Hoa kỳ đã ký các văn bản với chính phụ Cộng Sản Việt Nam,
giúp hàng nghìn cựu tù nhân chính trị được đến định cư tại Hoa Kỳ. (Tài liệu của Bà Khúc Minh Thơ)
Tuy phía Mỹ đã ấn định tiêu chuẩn của cựu tù nhân “cải tạo” được ra đi phải chịu cảnh tù đày tối thiểu là ba năm, nhưng về sau mua một cái giấy chứng nhận thời gian ở tù chỉ tốn vài ba chỉ vàng, nên cũng có những “H.O. non” và “H.O. quốc doanh” lọt vào. Nước Mỹ tuy vậy, không đủ khả năng gạn lọc hay truy tìm cho ra lẽ, bằng chứng là có những cựu tù nhân chính trị “hợp tác với địch đánh chết bạn tù” vẫn lên máy bay vào Mỹ ung dung. Người Mỹ cũng rộng lượng, người ta kể chuyện một “con lai giả” hay “lai Tây” cũng lọt sổ, vì viên chức phỏng vấn người Mỹ đã hóm hỉnh rằng,“Ồ! Chúng ta là người Mỹ cả mà.” Bỏ chế độ Cộng Sản ra đi được người nào hay người đó.
Đi vào văn chương thì đã có “Ông H.O.” của Hà Thúc Sinh nói về sinh hoạt của người tù chính trị trên đất Mỹ, “Hành trình của Một H.O.”của Đặng Trần Huân kể lại “đoạn đường chiến binh” qua các “bãi mìn và dưới hỏa lực” của các loại giấy tờ, tổ chức dịch vụ của nhà nước Cộng Sản. Vậy “ông H.O” là ai?” Phải chăng là cái ông áo quần tàng tàng, mặt mũi hom hem, buồn bã, thân thể gầy yếu, đi thì lúc nào mặt cũng cúi gầm xuống, hay đứng đợi chuyến xe bus trên tuyến đường Bolsa hay lượm báo Việt trong các khu chợ Việt Nam và những năm 90.
Ngày nay cái hình ảnh H.O. đó đã tan biến, hòa hợp vào trong nhịp sống thường ngày của cộng đồng Việt Nam, có còn chăng là năm ba ông H.O. nay đã đến giai đoạn dưỡng già, ngồi uống cà phê nói chuyện chiến tranh thế giới, chuyện Việt Nam hôm nay, hay nhẩn nha đứng mua cái vé loto luôn luôn với dòng chữ “cash value” vì chuyến tàu sắp đến ga, làm gì để có thời giờ chia món tiền trúng này ra trong một đoạn đường dài 28 năm.
Nhưng với những năm đầu của thập niên 90, H.O. là một phong trào, một hiện tượng, một biến cố, một đợt sóng lớn của cộng đồng người Việt hải ngoại.
Trước đây là chuyện di tản vào Tháng Tư, 1975, và sau đó là chương trình ODP, những làn sóng người Việt ngày đó dễ hòa tan nhanh chóng trong số đông, nhưng H.O. là một đợt di dân vĩ đại. Phố xá, chợ búa đông đúc hẳn lên, xe bus nhiều người đi hơn, các cơ sở xã hội làm việc không hết, phòng mạch bác sĩ, nha sĩ có hàng loạt người khách ngồi chờ, kinh tế Bolsa có chiều hướng đi lên thấy rõ.
“Bước chân…đổi đời.” (Tài liệu của Hội Tương Trợ TNCT-VN)
Nhiều người sốt ruột vì lâu nay đi làm ăn vất vả, bỗng dưng có một số đợt người đến gặp lúc xã hội Mỹ dang tay rộng mở, giúp đỡ tới một năm trời trợ cấp, nhất là trợ cấp y tế, điều mà nhiều người đi làm khác cũng đang gặp khó khăn. Không phải ai cũng có liên hệ với chính quyền hay quân đội cũ và có người trong gia đình đã bị tù đày nên không khỏi có cái nhìn thiếu thiện cảm, thiếu rộng lượng với lớp người chưa du nhập vào đời sống Mỹ kịp thời. Trong khi nhiều nhà báo nhắc tới và ca tụng H.O. là những người chịu thiệt thòi đáng được cộng đồng tri ân, thì nhiều người lại cho rằng, “H.O. là gì? Chạy không kịp mới trở thành H.O.” Một bạn H.O. than với tôi, “Mình tàng tàng thì người ta nói “đúng là H.O.” Mình mặc được cái áo đắt tiền, đi cái xe đẹp một tí, thì người ta mỉa mai: “H.O. mà cũng sang nhỉ!”
Gia đình nào có thân nhân bảo lãnh thì đỡ hơn, số còn lại do các nhà thờ hay các hội đoàn bảo trợ, lãnh giúp tiền trợ cấp nhưng chỉ thuê giúp một cái apartment rẻ tiền, cho một bộ nệm cũ hay bộ bàn ghế chợ trời.
“Ơn ai một chút chẳng quên,” mình qua đây như vậy là tốt phước rồi. Chúng ta đã được nghe bao nhiêu chuyện than phiền về cách phục vụ thiếu thiện chí hay bắt bẻ, “ma cũ bắt nạt ma mới” của các cán sự xã hội mà gia đình H.O. nào cũng đã phải nhiều lần bước đến bàn giấy của họ. Các ông bà này bắt bẻ tận cùng, còn khó hơn cả cán sự xã hội Mỹ hay Mễ.
Tiện đây, cũng phải nhắc đến thiện chí của nhiều chủ nhân, nhiều khi muốn giúp đỡ đồng hương bằng cách bắt đầu thuê một số anh em H.O. làm việc trong các nhà hàng, cắt cỏ hoặc xây dựng nhà cửa, nhưng dần dà phải bỏ cuộc vì số anh em mới sang, sức lực đã bao năm hao mòn trong các nhà tù Cộng Sản, không năng động và dễ bảo như nhân công người Mễ, lại tính người Việt hay để ý đến công việc và thu nhập của nhà chủ nên dần dần bị đào thải. Nhiều ông chủ than phiền, “Anh em mình thích nghỉ trưa, hút thuốc nhẩn nha cả tiếng đồng hồ, lại hay thắc mắc về thu nhập của chủ, đem so bì với số lương của mình.” Bây giờ qua một thời gian gạn lọc, chỉ có một số anh em còn lại, chịu khó đứng làm việc trong chợ, giúp việc nhà hàng ăn, hay làm việc trong ngành xây cất, đã có đời sống ổn định.
Khoảng thời gian 1990-1998 là lúc các gia đình H.O. đến định cư ở Mỹ nhiều nhất, cung cấp nhân lực cho các dịch vụ chăm sóc người già, nuôi người bệnh, giữ trẻ tại các tư gia. Các gia đình H.O. hiện nay đã ổn định khi con cái của họ đã lớn khôn, cho ta thấy hiện nay kiếm người phụ việc nhà như ngày trước rất khó khăn. Một vấn đề xã hội khác, là vào những năm trước 1990, số thanh niên vượt biên nhiều hơn phái nữ, nên có tình trạng trai thừa gái thiếu trong cộng đồng Việt Nam. Những đợt gia đình H.O. đến Mỹ đã tạo được những cuộc hôn nhân tốt đẹp và điều hòa được vấn đề khó nghĩ này của xã hội di dân. Tục ngữ Việt Nam có câu, “Trời sinh voi, sinh cỏ,” nên trong giai đoạn anh em H.O. mới định cư tại Mỹ, nghề “nails” bắt đầu phát triển và thịnh hành đã đưa đến công ăn việc làm không ít cho nhiều gia đình di dân mới mẻ này, và với các đức tính “chịu khó, khéo tay, cần cù,” nhiều người đã có một đời sống khá sung túc.
Các gia đình H.O. đã cung cấp nhân công cho các shop may, người trẻ thì chạy máy, người già thì cắt chỉ, nhặm lẹ thì xếp hàng, đóng gói, mà cho đến giờ này vẫn còn đứng vững với thời gian. Đúng là “Trời sinh voi, sinh cỏ,” “ở xứ Mỹ này có nghèo chứ không có đói.” Các gia đình có chồng, cha đi “cải tạo,” đã biết cái khổ của bữa rau, bữa cháo, nên sang đây, phần lớn các gia đình này đều “chịu thương, chịu khó,” chẳng mấy chốc mà đã có một cuộc sống ổn định.
Tính từ người cựu tù nhân chính trị bước chân đến Mỹ vào năm 1990, đến nay đã được 25 năm. Hai mươi lăm năm, là thời gian dư để cho một em bé sinh ra trên đất Mỹ tốt nghiệp đại học. Riêng thành phần cựu tù nhân chính trị sang đây, mặc dù tuổi đã cao, tinh thần đã mệt mỏi, vẫn có người tốt nghiệp đại học với các học vị như Ph.D, Master, Bác Sĩ, Nha Sĩ… như một nha sĩ đã hãnh diện quảng cáo cho phòng mạch của mình là “Nha Sĩ H.O. 11” (đúng ra là H.11). Còn về sự thành đạt của con các “Ông H.O.” thì chúng ta phải có một cuốn sách mười nghìn trang loại “Vẻ Vang Dân Tộc” mới ghi hết. Có những gia đình H.O. ra đi chậm, mãi đến những năm 1994-95 mới đặt chân tới Mỹ, vậy mà có đến ba bốn người con đều đã tốt nghiệp nha sĩ, y sĩ hay dược sĩ, tiến sĩ. Lẽ cố nhiên, khoa bảng chưa đủ để nói tới điều gì ích quốc, lợi dân, nhưng ít ra những gia đình này cũng theo kịp những người đi trước để khỏi mang mặc cảm thua thiệt.
Mong rằng các em đã là những người thân có cha, anh là nạn nhân của chế độ Cộng Sản, là những người đã có thời gian sống dưới chế độ này, đã biết nỗi khổ đau riêng của dân tộc mình, và chung của con người, sẽ có một lối sống và suy nghĩ cho xứng đáng với những sự hy sinh của cha anh và nỗi nhọc nhằn của cả dân tộc.
Các lãnh đạo chính trị của cộng đồng người gốc Việt ở Hoa Kỳ khẳng định ‘sẽ không có chuyện hòa giải’ chừng nào chính quyền trong nước vẫn duy trì các chính sách đàn áp dân chủ, nhân quyền đối với người dân trong nước.
Trao đổi với BBC tại Nam California, ông Trí Tạ, thị trưởng thành phố Westminster và ông Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam, nói cộng đồng người Việt tại hải ngoại sẽ không hợp tác với chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam để chống lại tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Quận Cam và thành phố Westminster thuộc tiểu bang California là nơi có đông người gốc Việt sinh sống và được xem là ‘thủ đô của người Việt tị nạn ở hải ngoại’.
“Trong 40 năm vừa qua, cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ vẫn giữ được căn cước tị nạn của mình,” ông Trí Tạ nói.
“Chúng tôi hiểu được chúng tôi đến Mỹ với lý tưởng tự do và chúng tôi bảo vệ lý tưởng đó,” ông giải thích, “Chúng tôi luôn tiếp tục cùng với đồng bào trong nước đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ tự do.”
Theo ông Trí Tạ thì ngày 30/4 năm 1975 ‘luôn là ngày đau thương của cộng đồng người Việt tị nạn’ vì ngày này đánh dấu ‘hàng triệu đồng bào trong nước phải bỏ ra đi và có vài trăm ngàn người Việt xấu số đã chết trên biển cả’.
” Tập thể người Việt tị nạn tại hải ngoại lúc nào cũng quan tâm đến việc Trung Quốc xâm lấn và có âm mưu chiếm biển đảo Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt tại hải ngoại sẽ không bao giờ đồng quan điểm với chính quyền Cộng sản Việt Nam.
Trí Tạ, thị trưởng Westminster”
Khi được hỏi về vấn đề hòa hợp, hòa giải với chính quyền trong nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, ông Trí nói rằng ‘không thể làm được’ do ‘trong 40 năm qua nhà cầm quyền cộng sản vẫn giữ chính sách độc tài’.
“Người Việt tị nạn tại hải ngoại lúc nào cũng muốn cho Việt Nam tự do, dân chủ, phú cường,” ông nói và cho biết bản thân ông chỉ về Việt Nam khi nào đất nước này ‘có tự do, dân chủ thật sự’.
Khi được hỏi liệu sức ép của Trung Quốc trên Biển Đông có khiến cho cộng đồng người gốc Việt tại Mỹ đoàn kết với chính quyền trong nước hay không, ông Trí Tạ nói: “Tập thể người Việt tị nạn tại hải ngoại lúc nào cũng quan tâm đến việc Trung Quốc xâm lấn và có âm mưu chiếm biển đảo Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt tại hải ngoại sẽ không bao giờ đồng quan điểm với chính quyền Cộng sản Việt Nam.”
“Toàn thể người Việt tại hải ngoại vẫn đang vận động chính giới Hoa Kỳ, dân biểu, thượng nghị sỹ liên bang để nêu lên sự quan tâm về sự xâm lấn của Trung Quốc đối với Việt Nam và chúng tôi hy vọng tập thể người Việt khắp nơi trên thế giới sẽ tiếp tục đưa sự quan tâm này lên để quốc tế và Hoa Kỳ có phản ứng thích hợp,” ông nói.
Ông Trí cũng cho biết thế hệ người gốc Việt sinh ra ở Mỹ sau năm 1975 nhờ tham gia vào các trường Việt ngữ và các sinh hoạt cộng đồng nên ‘vẫn hiểu được vì sao thế hệ thứ nhất đến Mỹ, hiểu được vì sao cộng đồng Việt Nam tại Mỹ và khắp nơi trên thế giới vẫn quan tâm về hiện trạng nhân quyền Việt Nam’.
Ông nói ông mong rằng các thế hệ người gốc Việt ở Mỹ sau này ‘sẽ tiếp tục theo sứ mạng của thế hệ đi trước tiếp tục quan tâm và tranh đấu cho Việt Nam tự do và dân chủ’.
Ông Trí cho biết sau 40 năm hình thành và phát triển, hiện cộng đồng người Việt ở Mỹ ‘rất thành công ở mọi lĩnh vực’ và ‘có rất nhiều bác sỹ, chuyên gia, kỹ sư, khoa học gia, phi hành gia’.
Ông Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam, thì nói rằng đấu tranh cho dân chủ, tự do trong nước là ‘trách nhiệm của mỗi người Việt tị nạn tại hải ngoại’.
“Trước khi muốn nói đến vấn đề gì về hợp tác cùng nhau để bảo vệ đất nước thì vẫn phải đòi hỏi chính phủ coi trọng nhân quyền trong nước.
Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam “
Ông Andrew Đỗ cũng có ý kiến giống ông Trí Tạ là phải tách bạch giữa hai vấn đề là việc Trung Quốc có tham vọng trên Biển Đông và chính phủ Việt Nam phải tôn trọng quyền lợi của người dân.
“Trước khi muốn nói đến vấn đề gì về hợp tác cùng nhau để bảo vệ đất nước thì vẫn phải đòi hỏi chính phủ coi trọng nhân quyền trong nước,” ông nói.
“Cho đến khi chính quyền trong nước coi trọng cái đó thì chúng ta vẫn phải nghi ngờ mình có thể tin tưởng một chính phủ như vậy hay không,” ông nói thêm.
Khi được hỏi có nhìn nhận về ý nghĩa thống nhất đất nước ngày 30/4 của hay không, ông Andrew Đỗ nói: “Thống nhất có nhiều cách làm. Những người độc tài cũng thống nhất đất nước của mình vậy. Đất nước thống nhất rồi đặt dưới chế độ độc tài thì đâu phải việc mình coi là đúng đâu.”
Khi được hỏi về việc tranh đấu cho tự do, dân chủ trong nước của cộng đồng người Việt tại Mỹ có đem lại kết quả gì hay không, ông trả lời: “Phần lớn việc coi trọng suy nghĩ của thế giới và họ (chính quyền Việt Nam) biết sẽ phải chống lại cộng đồng Việt Nam trên nước Mỹ và cả thế giới thì phần nào đó họ cũng phải e dè trong hành động của họ.”
Cuộc phỏng vấn của BBC Việt ngữ với ông Trí Tạ, thị trưởng thành phố Westminster và ông Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam được thực hiện trong tháng Tư, 2015 tại Nam California.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, nhân dân Miền Nam Việt Nam lâm vào một tâm trạng hoang mang tột độ, mịt mù trước tương lai, lo âu cho cuộc sống hằng ngày. Tại Bệnh viện Vĩnh Long, mặc dầu tôi đã không còn trách nhiệm gì nữa mà anh chị em nhân viên cứ bám lấy tôi để dò hỏi, làm như tôi có phép mầu nhiệm gì để giải tỏa được những thắc mắc đang quay cuồng trong trí óc mọi người.
Những người thay thế tôi cố sửa đổi bộ mặt của bệnh viện bằng cách cho sơn vẽ khắp nơi những khẩu hiệu cách mạng mới, mà đắc ý nhất là câu “Lương Y như Từ Mẫu”, không biết lượm được ở đâu, mà cứ nhan nhản khắp nơi, từ ngoài cổng, cầu thang, hành lang cho đến phòng thay áo, nhà tắm…như cố nhét vào đầu óc mọi người để tranh thủ cái độc quyền đạo đức nhân từ mà chỉ riêng người thầy thuốc cách mạng mới xứng đáng với hai chữ lương y.
Một hôm, tôi bước vào phòng trực y tá để thăm hỏi, thì thấy anh chị em đang quây quần tán gẫu, lẽ tất nhiên cũng không ngoài đề tài số một là gạo cơm lương bổng sẽ ra sao. Bên cạnh là bàn thờ tổ quốc, một thứ trang trí mới trong tất cả các phòng, bất luận là chuyên môn hay hành chánh, bên trên vẫn là cái câu nhân từ bất hủ đó. Một nữ hộ sinh chỉ vào khẩu hiệu, ngao ngán bảo với tôi: ” Ông Thầy biết không, chúng em bị một phen mừng hụt vì nó đấy “, rồi lấm lét nhìn ra cửa, nói tiếp: “Chiều nay khi mấy chú cán bộ vào kẻ khẩu hiệu, khi ngang tới chữ “Lương y như…” chúng em mừng quá reo lên vì cứ tưởng là lương y như tháng trước, không ngờ nó lại là như…từ mẫu!”.
Thế rồi vì không hiểu duyên nợ nghề nghiệp gắn liền hay đạo đức cách mạng chu đáo lo cho chúng tôi mà các bậc từ mẫu đó, tuy khoác áo lương y nhưng lại cư xử theo tư cách một… cai ngục, đã đeo đẳng mãi chúng tôi trên suốt đoạn đường dài “cải tạo”.
Sau những năm dài da diết trong rừng sâu Sơn La, trên biên giới Hoa Việt, cuối cùng, vì có chiến tranh với Trung cộng, chúng tôi được áp tải về một trại giam gần Hà Nội, một trại giam “kiểu mẫu”, một thứ “cây kiểng” để chế độ trình diễn chính sách khoan hồng nhân đạo với thế giới bên ngoài. Trong cái tủ kính bày hàng đó, lẽ tất nhiên săn sóc sức khỏe cho tù là “ưu tư hàng đầu” của Ban Giám thị và vị lương y phải được đóng vai kép chính.
Trại Nam Hà, cách Chùa Hương không xa, được thời cuộc nâng lên hàng danh lam thắng cảnh để cho quan khách ngoại quốc lui tới viếng thăm, từ Hội Ân Xá Quốc Tế, báo chí Tây phương, các nghiệp đoàn cộng sản Pháp cho tới cả “đồng chí” Chandra Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới v.v… Từ trại nhìn ra, cảnh đẹp như tranh, xa xa những núi đá vôi nho nhỏ, đủ hình đủ dạng, nổi lên trên một mặt nước phẳng lì thơ mộng trông như Vịnh Hạ Long. Cái mặt nước phẳng lì hiền hòa đó, không ai ngờ là một thứ hàng rào thiên nhiên vô cùng độc hại, là những đầm sình lầy cát lở đã nuốt sống biết bao là tù nhân trốn trại.
Bệnh xá nằm dưới chân đồi, trước sân có hòn non bộ với Lã Vọng ngồi câu, bên dưới là bể cá vàng lừ đừ lội nhìn chúng tôi bằng cặp mắt thờ ơ chán ngán, trên mái hiên treo đầy lồng chim đủ màu đủ loại, suốt ngày hót líu lo như để mỉa mai tâm trạng héo hắt tơi bời của chúng tôi.
Tất cả cái thú xa xỉ trưởng giả đó đã được đánh đổi bằng xương thịt của chúng tôi qua sự cắt xén tiền thực phẩm vốn đã vô cùng đói rách. Cá thia vàng, chim hoàng yến, chim họa mi tung tăng bay nhảy, đã được mấy ngàn cặp mắt tù sâu hoắc và phờ phạt vì thiếu ăn, thèm thuồng nhìn qua giá trị của mấy chục gờ ram prôtêin mà vô cùng tiếc rẻ, vì nó đang nằm trong tầm tay mà lại ngoài tầm… bao tử. Cây kiểng trước sân được chăm sóc tỉ mỉ mà mỗi lần gọt tỉa là một dịp cho chúng tôi lượm lá rụng nấu thành một bữa rau để dành giựt nhau, tuy vừa dai vừa đắng nhưng màu đỏ của nước lá dền cũng cho chúng tôi ảo tưởng bổ dưỡng của chất sinh tố B12. Cái quang cảnh thần tiên của bệnh xá đó đã được lên hình trên báo Liên Xô và được tô điểm đến độ mỗi lần thuyết trình cho phái đoàn ngoại quốc, viên giám đốc trại cũng không bao giờ quên luyện giọng một cách thành thực: “Tôi chỉ mơ ước được sống như những trại viên (ý nói từ chúng tôi)”. Tiếc thay!!!
Đến đây tôi mới hiểu tại sao anh em tù Nam Hà gọi cán bộ bằng “Chèo” (phường chèo), trắng trợn đến độ ban giám thị phải gọi lên chỉnh: “Cán bộ thì có nam có nữ, cớ sao các anh lại gọi bằng “chèo đực, chèo cái”, nghe chẳng “văn hóa” tý nào”.
Trại có một mật độ chuyên viên y khoa cao nhất thế giới, trong số hai ngàn người (tù) thì có đến hai mươi bác sĩ (cũng tù). Tất cả đều phải lao động khổ sai như nhau, đập đá, đốn củi, ngâm mình dưới nước để kéo cày thay trâu…, trong khi trên bờ đê, cán bộ cầm cái roi dài quất qua quất lại khiến cho tù ở dưới ruộng không hiểu là mình đang còn ở kiếp người hay đã đầu thay qua kiếp khác làm trâu bò.
Phần điều trị được nhường lại cho những người ngoài ngành y tế được lựa chọn theo tiêu chuẩn hạnh kiểm và mức độ hợp tác. Tuy nhiên, bất đắc dĩ bệnh xá phải giữ lại một vài bác sĩ tù để vừa giúp đỡ trong việc chuyên môn, để đọc các tên thuốc bằng ngoại ngữ, vừa để làm kiểng cho phái đoàn ngoại quốc xem, vừa để dạy cho các bác sĩ (không phải y khoa) cách mạng ống nghe, cách bắt mạch v.v…
Người được chọn ở lại bệnh xá là một đồng nghiệp đàn anh, từng tốt nghiệp đại học Paris khi tôi chưa vào trường y khoa, từng giữ nhiều chức vụ điều khiển trong ngành y tế miền Nam, nay đã lớn tuổi được anh em rất nể nang nên tôn làm “đại ca”. Đại ca còn có thêm biệt hiệu nữa là “Vua cháo heo” vì thỉnh thoảng được anh em nuôi heo cho cán bộ, thương tình làm ngơ để cho múc một lon cháo heo (dĩ nhiên là béo bổ hơn cơm tù ) rồi vụt chạy cho cán bộ khỏi thấy. Thế là tối hôm đó được một đêm huy hoàng. Sau khi chiếc khóa sắt nặng nề rột rạt khóa kín cửa chuồng lại, chúng tôi bao quanh đại ca, bên cạnh lon cháo heo bốc khói thơm phức, vừa xem đại ca lim dim đôi mắt thưởng thức từng hạt bo bo cháy khét mà tưởng chừng như ăn trứng caviar, vừa để đại ca kể lại cho đàn em nghe những ngày vàng son còn du học trên đất Pháp, những đêm liên hoan trên đường phố Montmartre Paris…
Chỉ huy bệnh xá là một bác sĩ ngành công an, luôn luôn nhìn chúng tôi bằng cặp mắt nghi ngờ đầy mặc cảm, có lẽ đã đọc được trong phiếu lý lịch của chúng tôi một tội danh lạ đời: “Can tội: bác sĩ”. Một hôm tịch thu được hộp dụng cụ tiểu phẫu trong đó có cây kềm Michel giống cái kéo, dùng để gỡ các móc da, bác sĩ loay hoay mãi không biết làm sao, cuối cùng chê: “Kéo với kiết, thế này thì làm sao cắt được, dốt thế!”. Mắt bác sĩ đã quen nhìn những lọ Pénicilline Trung cộng làm bằng một thứ chai đục ngầu, bọt lỗ đỗ, nút lọ được khằn kín bằng sáp như thuốc “cao đơn hoàn tán”, nên khi gặp một lọ Pénicilline bào chế ở miền Nam, rất kinh ngạc vì kỹ thuật sai biệt, và khi thấy trên lọ mấy chữ: “Laboratoires Ténamyd Thủ Đức”, bèn mừng rỡ khoe với chúng tôi: “Thuốc của Đức đấy, xã hội chủ nghĩa anh em ta đấy”.
Dưới trướng của vị luơng y này là một ban chuyên môn (không phải y khoa) gồm đủ thành phần. Một anh có hoa tay đục đẽo, chạm trỗ, biến các lon sữa Guigoz thành những hộp thuốc lá, cái lược, cái vòng, tinh vi như những nữ trang thứ thiệt để lương y đem về tặng thân nhân hoặc… đổi chác. Một anh ngành quân cụ lo bảo trì chiếc xe đạp “hữu nghị” mà người cỡi cũng hãnh diện như lái chiếc xe Mercedes vậy. Một họa sĩ có biệt tài biến hóa những gương mặt trong gia đình lương y từ một tấm ảnh nhăn nheo vàng khè thành những chân dung sạch sẽ khôi ngô, và lương y cũng không dấu được sự hài lòng khi thấy khoác lên ông cụ thân sinh chiếc khăn nhiễu, cái áo gấm, trông rất “quan “, còn phu nhân và ái nữ cũng được mặc chiếc áo dài mà ngoài đời họ chưa bao giờ sờ tới. Riêng bản thân lương y, khi đề nghị mặc bộ âu phục cho oai thì lưỡng lự hồi lâu rồi buồn rầu trả lời: “Chớ! không nên, nhỡ trên biết được thì khốn”, nên đành chấp nhận bộ đồng phục công an vậy.
Về phần điều trị, có lẽ Đảng đã sáng suốt thấy rõ sự lúng túng của lương y, nên chỉ thị cho quốc doanh cung cấp dược phẩm dưới hình thức “viên” hết sức đơn giản, hễ đau ở bộ phận nào thì đã có những viên tương ứng: viên gan, viên dạ dày, viên phổi, viên tim, viên xương, viên khớp v.v… Ban đêm nếu có tiếng kêu cứu từ các phòng vọng ra, thê thảm xé nát sự im lặng nặng nề của trại tù về đêm, rồi cứ lặp đi lặp lại mãi như dội qua vách núi, cho đến khi lương y khệnh khạng đến, cho ống nghe qua một khe nhỏ để khám bệnh nhân ở trong phòng rồi hoặc phát cho vài “viên”, hoặc bắt bệnh nhân dán mông đít vào song cửa sắt chích cho một mũi thuốc để chờ tới sáng. Cũng trong hoàn cảnh đó, một Thượng Nghị Sĩ nổi tiếng ở Sài gòn, bị trúng độc vì ăn sắn sống, trộm được lúc ban chiều khi đi lao động, đã phải chờ mãi cho tới sáng hôm sau, khi được đưa ra khỏi phòng thì đã quá trễ.
Một buổi chiều nọ, khi đi lao động về, anh em ngạc nhiên chứng kiến một hiện tượng lạ thường: trại được sơn phết lại trắng xóa, trên vách tường lại vẽ thêm những bông hoa màu mè sặc sỡ, có lẽ vì cây cảnh thật đã bị tù bứt lá bẻ hoa không đủ đem lại vẻ vui tươi cho nhà tù. Giữa sân lại có cảnh nhóm chợ trời, cán bộ bày bán thịt tươi, rau sống cho anh em tù nào còn dấu đút được chút tiền còm tung ra mua ăn bồi dưỡng. Những người giàu tưởng tượng cho truyền ngay một câu sấm, không biết có phải của Trạng Trình không:
“Bao giờ tường đá nở hoa,
Nhà tù nhóm chợ thì ta…ra về”
Về đâu chẳng thấy nhưng truớc mắt là phải ráo riết chuẩn bị doanh trại để đón tiếp một phái đoàn ngoại quốc quan trọng, một công tác làm đảo lộn hẳn nếp sống hằng ngày, để được đền bù bằng một chút an ủi mơ hồ là còn được người đời biết tới.
Ngay tối hôm đó, một số nhạc cụ kể cả cây dương cầm nặng nề được hì hục chở về từ Hà Nội để cho ban nhạc tha hồ tập dượt mãi tới khuya . Tiếng nhạc vang lên từ một góc núi làm khuây khỏa trong chốc lát những u uẩn của tù nhân. Thỉnh thoảng một vài bản “nhạc vàng” được chơi lén, tiếng réo rắc của “Diễm Xưa”, “Nắng chiều” gợi lên một nỗi nhớ nhà vô biên, mà lỡ cán bộ có hỏi tới thì anh em đã sẵn câu trả lời: “Nhạc Cuba đấy”, thế là yên.
Căn phòng chật chội hôi hám trong đó hằng mấy trăm mạng người chen lấn giành giựt từng ly, từng phân trên cái tiêu chuẩn hai bàn tay cho mỗi người, nay được thu dọn thành ba mươi chỗ nằm rộng rãi tươm tất, với chiếu hoa mới toanh, chăn len thơm phức, sắp xếp thẳng tắp như trong một quân trường.
Một cảnh trong phim Ride The Thunder về trại tù cải tạo Nam Hà.
Từ mờ sáng, ngoài thành phần ở lại để trình diễn, còn tất cả phải lũ lượt kéo nhau thành từng đàn qua các đường mòn khúc khuỷu để vào trốn sâu trong núi. Các anh em bệnh nặng thì được cõng, gánh hoặc khấp khểnh lết đi thật xa để khuất khỏi tầm mắt trong sáng của người ngoại quốc cái hình ảnh vẩn đục thê thảm đó.
Bệnh xá này nhường lại cho những con bệnh mới, không có bệnh nhưng có một thể xác chưa tàn tạ nhờ có thăm nuôi, lúng túng học thuộc lòng những căn bệnh thời đại do “tàn dư Mỹ Ngụy để lại”: sơ gan vì rượu chè, lên máu vì nhậu nhẹt, nghẽn mạch máu vì xì ke, ma túy… Gọn gàng sạch sẽ trong những bộ đồ ngủ mới toanh, trên mỗi đầu giường có chưng thêm một hộp sữa cũng “kiểng” như bệnh nhân, nghĩa là sẽ được thu hồi ngay sau khi phái đoàn ra về.
Ban thể thao, bóng chuyền, bóng bàn, trong đồng phục gọn ghẽ vui mắt, ra sức “tranh thủ” để được bồi dưỡng thêm mấy củ khoai. Từ sáng sớm ban nhạc đã inh ỏi trổi lên những bản nhạc hùng khối cộng sản, gây không khí vui nhộn làm cho quan khách có cảm giác là đi chơi chợ phiên hơn là đi thăm nhà tù.
“Ride the Thunder”: Communist re-education camp
Không hiểu là một phần thưởng hay là một cực hình tủi nhục cho những ai được chọn để ngồi ăn một bữa cơm “xoàng” mà trong suốt cuộc hành trình cải tạo họ chưa bao giờ được nếm. Thực đơn, được dán ở cửa, gồm có cơm trắng (một hiếm hoi trên đất Bắc) và thịt lợn, rau muống (một điều lạ trong nhà tù). Bữa cỗ được diễn tiến theo một lịch trình khắt khe: ngồi vào bàn khi phái đoàn rời Hà Nội (8 giờ sáng), cầm đũa khi họ đến cổng trại (10 giờ sáng) để cho bao tử cồn cào tiết chất chua, nước mắt nước mũi chảy dài vì ngỡ ngàng trước mấy món ăn thơm phức béo bổ, cứ thế mà chịu đựng cái cực hình sinh lý đó suốt mấy tiếng đồng hồ, hai tay thì cứ tuyệt vọng vùng vẫy trong một thứ còng vô hình cho đến khi bóng dáng của phái đoàn cứu tinh xuất hiện ở ngưỡng cửa mới được lệnh cho thức ăn vào miệng (1 hoặc 2 giờ trưa).
Phần trình diễn của bệnh xá được mở màn khi phái đoàn đặt chân vào trại. Bác sĩ trưởng, trong bộ áo bờ lu lụng thụng, chiếc nón vải che khuất chân mày, trịnh trọng đặt ống nghe vào bệnh nhân ngồi trước mặt, rồi cứ giữ tư thế đó như một pho tượng sáp cho tới khi phái đoàn đi qua. Lẽ cố nhiên “đại ca” của chúng tôi cũng có mặt tại bệnh xá với một chỉ thị nghiêm khắc: không được nói tiếng ngoại ngữ và cố tránh mặt phái đoàn chừng nào hay chừng đó. Một nhà báo Pháp hỏi đại ca: “Anh biết tiếng Pháp không?”. Vì đã được dặn trước, đại ca phải chờ cho thông dịch viên Bộ Nội vụ dịch xong để chứng tỏ rằng mình không hiểu được câu hỏi, rồi mới trả lời “Không”. Nhà báo hỏi tiếp: “Anh tốt nghiệp ở đâu?”. Câu hỏi bất ngờ này không được ban giám thị cho học tập trước, nhưng cũng vẫn chờ được dịch xong như thường lệ, đại ca mới trả lời: “Y khoa Đại học Paris”. Nhà báo bàng hoàng, ngạc nhiên như khám phá được một điều gì bí ẩn, một cái gì bất thường, tò mò hỏi tiếp thì được biết vợ anh là người Pháp, hiện sinh sống ở Paris, nên mừng rỡ chụp cho một tấm hình rồi ân cần thêm: “Tuần sau vợ con anh sẽ nhận được”, lòng hân hoan phấn khởi vì vừa làm được một nghĩa cử trọng đại.
Chưa kịp mừng thì tai họa đến ngay. Sau khi phái đoàn ra về, thì ông bạn già của chúng ta, nạn nhân của lòng vị tha nhân đạo kiểu Tây phương, bị bác sĩ trưởng bệnh xá và ban giám thị gọi lên mắng nhiếc thậm tệ, bắt kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, để rồi, bắt đầu từ hôm sau, hằng ngày phải ra lao động, đập đá, kéo cày, ngâm mình dưới ruộng như hàng ngàn, hàng vạn anh em tù khác. Ngày tôi về, đại ca còn ở lại, tiễn đưa tôi bằng cặp mắt đã hết nước mắt và hẹn tôi ở… kiếp sau!
Dư âm nặng nề của cuộc viếng thăm và vì tấn tuồng đóng vụn, làm cho cơn lôi đình của lương y đã trút hết lên đầu chúng tôi, nay không còn khoác áo Từ Mẫu nữa mà lại đội lốt… Ác Mẫu.
Phương Vũ Võ Tam Anh