Vụ cậu bé ‘muốn làm Bộ trưởng Giáo dục’ tiếp tục gây tranh cãi

Vụ cậu bé ‘muốn làm Bộ trưởng Giáo dục’ tiếp tục gây tranh cãi

VOA

Em Vũ Thạch Tường Minh phát biểu trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 của nhóm Cánh Buồm tại Hà Nội hôm 12/8. (Ảnh chụp từ clip trên youTube).

Em Vũ Thạch Tường Minh phát biểu trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 của nhóm Cánh Buồm tại Hà Nội hôm 12/8. (Ảnh chụp từ clip trên youTube).

Tuyên bố “giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá thối nát rồi” của một cậu bé học lớp Tám vẫn gây ra các phản ứng trái chiều trên mạng xã hội.

“Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa, giáo dục Việt Nam cần được cách mạng. Đó mới là điều các vị trong Bộ Giáo dục nên làm. Còn nếu bây giờ các vị không làm thì đến khi nào con thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục con sẽ làm”, em Vũ Thạch Tường Minh, 14 tuổi, nói như vậy trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 của nhóm Cánh Buồm tại Hà Nội hôm 12/8.

Trong khi phe ủng hộ em Minh cho rằng em có suy nghĩ già dặn, nói hộ những trăn trở của nhiều người, thì phe bên kia lại cho rằng em “bị mớm lời” và “được tung hê quá mức”.

Về sự chú ý của dư luận mấy ngày qua, nhà giáo Phạm Toàn, người sáng lập nhóm gồm các nhà nghiên cứu với mong muốn cải tiến sách giáo khoa ở Việt Nam, nói với VOA tiếng Việt:

“Em ấy phát biểu một cách hồn nhiên, nhưng bây giờ có những người lại bảo là chúng tôi bố trí. Em bé ấy có nhận thức của nó rất tốt. Ai thông minh thì nhận ra mà ai hằn học thì nhìn thấy cái khác. Thế thôi. Ngay cả những người ác ý nói rằng chúng tôi bố trí thì họ cũng hết lý rồi. Thế còn em bé nó có một câu nói rất hay, tức là Bộ Giáo dục không cần dùng toàn bộ bộ sách này, nhưng mà nên dùng tinh thần ấy, cách làm ấy. Nhưng mà ai thông minh thì mới thấy được ý hay còn ai không thích những ý hay thì cũng đành thua thôi. Ý của nhóm Cánh buồm là không tham gia vào các cuộc thảo luận đấy. Chúng tôi quá thiếu thời giờ để làm nhiều việc.”

Ông Hoàng Anh Tú, một người làm báo ở Việt Nam, viết trên trang Facebook: “Khi cậu bé 14 tuổi nói rằng Giáo Dục Việt Nam thật là thối nát thì em đã thành một Lê Văn Tám về kể cả nghĩa đen lẫn nghĩa xám!

Nghĩa đen là em đã trở thành ngọn đuốc sống làm bùng lên cái ‘kho khốn khổ’ mang tên Giáo Dục Việt Nam!”

Nhà báo này nói tiếp: “Em khiến rất nhiều người lớn hả hê! Nhưng về nghĩa xám, em rất có thể trở thành một huyền thoại tự sướng, không có thật, như chính anh Lê Văn Tám khi mà truyền thông đang tung hô em!!!”

Trong khi đó, một bạn đọc tên Long của VOA Việt Ngữ viết: “Tôi rất mừng vì có một thế hệ trẻ đã nhận ra và bất mãn với nền giáo dục cộng sản. Hy vọng Việt Nam sẽ trở nên tốt đẹp hơn cho cả dân tộc và trong cái nhìn của bạn bè thế giới”.

Theo nhà giáo Phạm Toàn, các bình luận “chọc ngoáy” trên mạng quanh ý kiến của em Tường Minh thì số đông là của “dư luận viên”.

Về tin tức cho biết gia đình của cậu bé đã viết thư yêu cầu nhóm Cánh buồm bảo vệ con mình, ông Toàn nói thêm:

“Đầu óc nó như thế bây giờ ai tẩy đi được hộ? Nói chung gia đình và bọn tôi không sợ gì cả. Thằng bé này rất bình thường và rất bản lĩnh. Nó giỏi đấy. Chúng tôi nói đùa với nhau rằng bây giờ làm thế nào để tẩy cho cái não của nó đừng tiến bộ nữa. Chả việc gì phải bảo vệ nó cả. Ai làm gì nó? Tự nó tự vệ được ấy mà. Không sợ đâu.”

VOA Việt Ngữ đã liên lạc với một thành viên của gia đình em Minh để hỏi xem cuộc sống của em bị tác động ra sao sau khi đoạn ghi âm lời nói mạnh mẽ của em lan truyền trên mạng, nhưng thành viên này nói là “không muốn đào sâu” vụ việc.

Người Công giáo đi tiên phong trong nổ lực cứu cấp tại Thiên Tân Trung Hoa.

Người Công giáo đi tiên phong trong nổ lực cứu cấp tại Thiên Tân Trung Hoa.

Trần Mạnh Trác


Những tình nguyện viên Công Giáo là những người đầu tiên đã ứng phó với vụ nổ khủng khiếp trong đêm thứ tư tại khu công nghiệp cuả hải cảng Thiên Tân, nằm ở vùng đông bắc cuả thành phố Bắc Kinh cuả Trung Quốc. Vụ nổ đã gây thiệt mạng cho ít nhất là 114 người và gây thương tích cho hơn 700 người nữa. Đó là chưa kể đến 70 người đang mất tích, mà hầu hết là những nhân viên cứu trợ đầu tiên, đang đối phó với vụ nổ thứ nhất thì thình lình một vụ nổ thứ hai do phản ứng hoá học xẩy ra.

Ngay sáng hôm sau vụ nổ, Trung tâm Dịch vụ Xã hội cuả Giáo Phận Thiên Tân đã huy động 60 tình nguyện viên Công Giáo để hỗ trợ cho chính quyền địa phương trong nỗ lực cứu hộ và cứu trợ. Họ nhận nhiệm vụ phân phối nước uống, quần áo và các vật dụng đến các khu định cư tạm thời. Họ hiểu rõ công việc tình nguyện này là nguy hiểm, có nhiều nguy cơ bị ô nhiễm hóa học, nhưng đã không ngần ngại đi vào các khu vực bị phá hủy, và chính quyền đã xử dụng họ thành nhiều nhóm nhỏ, cắt cử họ đến các trại cứu trợ và các bệnh viện.

  • Nhà thờ St Joseph, Thiên NTân

Một linh mục ‘chui’ đã nói với cơ quan thông tấn cuả Công Giáo là UCANews rằng ngay sau vụ nổ, người Công Giáo đã tụ tập và cử hành Thánh Lễ để cầu nguyện cho “người chết, người bị thương và gia đình của họ.” “Đây là điều duy nhất mà chúng tôi có thể làm,” vị linh mục nói.

Tại nhà thờ St Joseph ở trung tâm thành phố Thiên Tân, Cha Xứ (được chính quyền nhìn nhận) là LM Zhang Liang cũng đã kêu gọi giáo dân đóng góp và đưa các anh chị em trong ca đoàn đi hiến máu.

Hôm Chuá Nhật, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập đến thảm hoạ tại Thiên Tân. Ngài dâng lời cầu nguyện cho nạn nhân và những người bị ảnh hưởng, và ban phép lành cho mọi người đang tham gia vào công tác cứu trợ.

KINH – TẾ – HỌC PHẬT – GIÁO

KINH – TẾ – HỌC   PHẬT – GIÁO

Đoàn Thanh Liêm

‘Chánh Nghiệp’ là một trong tám ‘con đường tu’ rất căn bản và quan trọng của ‘Bát Chánh Đạo’ nhằm giúp người tu dứt được những nguyên nhân xa gần của mọi khổ đau trong đời sống thường ngày. Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này ngay sau khi Ngài thành đạo, rồi tiếp tục suốt 45 năm hoằng pháp, kể cả những ngày cuối đời                                                    

“Chánh nghiệp”  là những nghề nghiệp, việc làm chân chính, ngay thẳng, dựa vào chính sức lực của tim óc và bắp thịt của mình để mưu cầu cuộc sống. Vì thế, ta có thể nói rằng đạo Phật đã có một hướng đi đúng đắn làm nền tảng cho bộ môn Kinh-Tế-Học Phật-Giáo.

Tại những quốc gia mà đa số dân chúng tin theo đạo Phật thường bảo rằng họ muốn gìn giữ đức tin theo chánh pháp của Phật giáo. Ở Miến Điện, người dân thường nói rằng “Chúng tôi không thấy có sự đối nghịch nào giữa giá trị tôn giáo và sự tiến bộ của kinh tế cả. Sự an lạc của ‘thân’ và sự thanh tịnh của ‘tâm’ vẫn thường trợ duyên cho nhau mà không hề có tương phản nào” hoặc là “Chúng tôi có thể kết hợp những giá trị tôn giáo và truyền thống tâm linh với những lợi ích có được từ  kỹ thuật tân kỳ rất thành công.” hay là “Người dân Miến Điện chúng tôi có bổn phận phải biết dung hợp một cách hài hòa giữa ‘mộng’ và ‘thực’ trong đức tin của mình, và suy nghĩ đó vẫn luôn luôn mang lại kết quả viên mãn.

Cũng thế, có những  quốc gia khác lại cho rằng họ có thể theo mẫu mực thiết lập kế hoạch phát triển kinh tế hiện đại, và rồi sẽ mời gọi các kinh tế gia từ những quốc gia tân tiến đến hướng dẫn họ phác họa chương trình có tầm cỡ để phát triển kinh tế theo những loại như ‘Kế Hoạch Ngũ Niên’ chẳng  hạn. Và không ai có thể ngờ rằng phương cách sống theo đạo Phật, mà ta có thể gọi là kinh tế học Phật giáo, giống như nếp sống duy vật chất hiện đại, lại có thể mang đến sự thăng tiến như thế.

Ngay cả những kinh tế gia, cũng như hầu hết mọi chuyên gia khác, vẫn thường loay hoay trong cái mù quáng có tính siêu hình của mình mà cứ  cho đó là khoa học của sự thật tuyệt đối cố định, và không được định hình từ trước. Có một số vị lại cho rằng những  luật kinh tế đều không mang ‘tính siêu hình’ hay ‘tính giá trị’ như định luật của trọng lực. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên bận tâm đến những cuộc tranh cãi về phương pháp luận mà chỉ nên suy gẫm về một số điều căn bản nhất rồi thử nhìn sự việc bằng cặp mắt của một kinh tế gia hiện đại và một kinh tế gia phật giáo để xem sự thể như thế nào.

Gần như ai cũng đồng ý rằng sức lao động của con người chính là cội nguồn căn bản của mọi sự giàu có trên đời. Trong khi đó thì những  kinh tế gia lại cho rằng ‘sức lao động’ hay việc làm lao công chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu rất bình thường của con người. Còn đối với một chủ nhân ông của thời kỳ hiện-đại-hóa thì phải giảm đến mức tối thiểu sức lao động này, và nếu cần thì làm triệt tiêu luôn, để làm giảm giá thành sản phẩm. Nhưng với cách nhìn của người công nhân thì đó là sự bất công, vì khi lao động , con người đã hy sinh thời gian rảnh rỗi và sự thoải mái của đời mình để đổi lấy đồng lương, coi như là một đền bù cho sự hy sinh, mất mát đó.

2

Vì thế nên người chủ chỉ muốn có sản phẩm ra khỏi nhà máy mà chỉ phải sử dụng thật ít sức lao động của thợ thuyền, còn giới công nhân thì mong được làm việc để lãnh lương và không phải lo bị thất nghiệp.

Trong thực tế, không dễ gì áp dụng một trong hai phương cách trên và phải loại bỏ phương cách kia, mà nên dung hòa bằng cách biết sử dụng  máy móc ở một mức độ thích hợp nhằm giảm bớt công việc nặng nhọc cho người lao động, như thế năng suất lao động sẽ tăng lên và sản phẩm sẽ xuất xưởng nhiều hơn. Đồng thời cũng nên áp dụng chế độ khen thưởng để khích lệ tinh thần làm việc. Phương pháp chia việc ra từng phần nhỏ để tăng thêm việc, và tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người có ít tay nghề. Sự thật thì cách vận hành này cũng đã được áp dụng từ thời xa xưa.

Khi sắp xếp lao động , người phật tử thường nhìn đến ba phương diện : trước tiên là tạo cơ hội cho công nhân thi thố tài năng, thứ đến là giúp cho mỗi người cùng cộng tác với  các đồng nghiệp để tự xóa dần tính vị kỷ,(chấp ngã), và sau cùng là mang đến nhiều phúc lợi để cuộc sống được an lạc trong tự tại. Và như thế, phương cách này nên được áp dụng liên tục và mãi mãi.

Nếu sự tổ chức công việc mà luộm thuộm, không hợp lý, không gây được hứng khởi, mà chỉ tạo căng thẳng tinh thần, dễ gây ra bất đồng, mất đoàn kết và đưa đến bạo động, nghĩa là chỉ tạo điều kiện cho tội lỗi phát sinh. Nếu người chủ thiếu lòng từ bi, chỉ quan tâm đến sản  lượng mà không để ý gì đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người thợ là đã cố ý hay vô tình làm thui chột ý thức muốn hướng về chân, thiện, mỹ của họ. Mọi cố gắng  đem sự thoải mái vào việc làm sẽ giúp cho người thợ thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn. Đó là những yếu tố rất cần thiết cho thực tế cuộc sống có đạo lý.

Cũng từ nhận thức đó, người phật tử đã thấy rõ sự khác biệt giữa việc sử dụng máy móc như công cụ phục vụ con người, làm thăng hoa cuộc sống,  và việc dùng con người làm nô lệ cho máy móc. Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, Ananda Coomaraswamy , một người rất am tường về nét đặc thù của nét hiện đại phương Tây và nét cổ truyền phương Đông đã phân tích : “Một người thợ thủ công giỏi bao giờ cũng thấy được sự khác biệt giữa một chiếc máy và một dụng cụ cầm tay. Cái khung cửi dệt thảm được chuẩn bị một cách cẩn thận, giúp cho người thợ khéo tay, sử dụng thật tài tình các ngón tay của mình đê luồn lách đưa từng sợi chỉ màu khác nhau  với con thoi tay để có thể dệt một tấm thảm đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật, diễn tả hết nét đẹp tuyệt vời của văn hóa dân tộc anh, mà chiếc máy dệt tân kỳ thì không làm sao diễn đạt được nét tuyệt mỹ ấy.” Từ cách suy nghĩ này ta có thể phân biệt được kinh tế học Phật giáo và kinh tế học hiện đại. Người phật tử thấy được cái tinh túy của  văn minh nhân loại trong sản phẩm hơn là chấp chặt vào sản lượng trong văn minh cơ khí hóa. Tính cách nhân bản này, thực sự đã hình thành từ khi con người đã biết sản xuất. xác định được nhân cách và nhận thức chuộng sự tự do muốn chọn cho mình một phương cách sản xuất. Một triết gia, cũng là một nhà kinh tế người Ấn Độ Ông J.C.Kumarappa đã đúc kết rằng :

3

“Nếu mọi người biết quí trọng đúng mức đặc tính của việc làm, thì sẽ thấy  ra giá trị cao hơn trong tương quan nhân quả của việc và sản phẩm, giống như sự liên hệ giữa sức khỏe của cơ thể con người và thực phẩm được hấp thụ. Nhận thức đó sẽ nuôi dưỡng và tạo duyên cho con người sáng suốt hơn, thăng tiến khả năng sản xuất của mình, hun đúc thêm tinh thần cầu tiến và cũng biết tự chế lòng ham muốn thấp hèn để luôn luôn có chỗ đứng xứng đáng trong mọi giai tầng của công việc. Đồng thời, khả năng thi thố cũng được nâng cao để thể hiện tư cách, phẩm giá của mình.”

Nếu một người bị mất việc, thì anh ta sẽ rất lo lắng và thất vọng, vì không những chỉ mất đồng lương, mà còn thiếu cả nguồn sống từ vật chất đến tinh thần là những giá trị khó có gì thay thế được. Một kinh tế gia thời nay có thể tính toán hết sức chuẩn xác làm sao để mọi người đều có việc làm cố định và được hưởng lương, hoặc một cách kinh tế hơn, là  bảo đảm được đồng lương trong khi việc làm có thể thay đổi, biến động theo tình thế, v.v.. Tiêu chuẩn căn bản của sự thành công trong kinh doanh hiện nay vẫn là tổng sản lượng hàng hóa phải xuất xưởng trong một thời gian qui định.

“Nếu mức độ tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút nghiêm trọng, thì sẽ khó tránh được tình trạng phải sa thải công nhân ở những mức độ khác nhau, hoặc vừa phải hoặc ào ạt” như giáo sư Gaibraith đã viết trong tạp chí The Affluent Society, và hơn thế nữa: “Nếu vì sự ổn định của lợi nhuận mà phải chấp nhận sa thải công nhân thì phải cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho những người bị mất việc, để họ có thể giữ được mức sống bình thường, như một biện pháp cần thiết không thối thoát được”.

Theo cách nhìn của người phật tử thì họ cũng thấy được trong thực tế thì còn nhiều người vẫn coi trọng sản phẩm hơn giá trị con người, và số lượng hàng hóa được tiêu thụ vẫn quan trọng hơn phẩm chất của sản phẩm mang tính sáng tạo. Nghĩa là đã xem nhẹ cái tài hoa khéo léo của người thợ, hay nói một cách khác, là hạ thấp giá trị nghệ thuật của người thợ đi, để tôn vinh cái gì ô uế, xấu xa theo thị hiếu thường tình. Điều quan trọng hơn hết trong quan niệm kinh tế của phật giáo là làm sao cho mọi người đều có công ăn việc làm ổn định để kiếm sống. Đó không phải là một cường điệu trong sự tạo việc làm, hoặc sự gia tăng tối đa sản lượng. Khi những  người phụ nữ của gia đình phải đi tìm việc ở các văn phòng hay những nhà máy thì đó là chỉ dấu thất bại nghiêm trọng của kinh tế. Cụ thể như là phải nhìn thấy các bà mẹ đang làm việc trong xưởng máy và bỏ các đứa con của mình  chạy chơi rong ngoài đường phố là không hợp lý một chút nào trong ánh mắt của nhà kinh tế phật giáo. Còn đối với các kinh tế gia thời hiện đại thì bất kỳ ai là người thợ giỏi thì đó là người chiến sĩ can trường của mặt trận sản xuất.

4  Trong khi những người ham sống xa hoa, mong muốn có nhiều  hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, thì người phật tử chân chính chỉ nghĩ đến sự giải thoát khỏi những vướng mắc vật chất thường tình. Dựa vào con đường “Trung Đạo” của Phật giáo, người phật tử sẽ không thấy có gì là khúc mắc trong sự an lạc của tự thân . Sự giàu có không có chỗ đứng trong sự giải thoát, mà đó chỉ là vướng víu trở ngại mà thôi. Họ không cho hưởng thụ vật chất là thú vui, mà đó chỉ là những thèm muốn của dục vọng thấp hèn. Nét căn bản của kinh tế  phật giáo là tính giản dị và tinh thần bất bạo động. Từ cách nhìn của một  người làm kinh tế  phật giáo thì tính mầu nhiệm trong cách sống đạo hạnh có thể làm toát ra sự hợp lý của từng mẫu mực – có khi với những phương tiện bé nhỏ đến bất ngờ lại có thể mang đến các kết quả mỹ mãn thật tuyệt vời.

Đối với một kinh tế gia hiện đại thì điều này thật là khó hiểu. Ông ta thường đo lường mức sống thường ngày bằng số lượng hàng hóa tiêu thụ hằng năm của một người, và cho rằng bao giờ một người biết tiêu thụ nhiều thì đời sống của anh ta phải tốt hơn so với một người ít biết tiêu thụ.

Một kinh tế gia phật giáo thì nghĩ khác, và cho rằng sự tiêu dùng phung phí là không hợp lý, vì như thế là trái với sự quân bình của con người. Mục tiêu mà người phật tử phải đạt được chính là sự an lạc tối thượng của thân tâm, và đó phải là kết quả của sự hưởng thụ có chừng mực. Vì thế, nếu ta chỉ cần quần áo để mặc đủ ấm đối với thời tiết và đủ đẹp khi được nhìn thì hà tất phải chạy theo thời trang để phải vứt bỏ đi một cách uổng phí những quần áo không còn hợp thời nữa. Như thế, ta sẽ có đủ thời gian, sức khỏe và phương tiện để chăm sóc làm đẹp cuộc sống tinh thần, nghệ thuật và tâm linh. Thật là không kinh tế chút nào khi chúng ta phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để nuôi dưỡng những kỹ nghệ may mặc tây phương trong khi còn quá nhiều người nghèo trên khắp địa cầu không có đủ mảnh vải để che thân và cần sự giúp đỡ, chia xẻ của chúng ta.  Kinh tế học phật giáo đã nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm chấm dứt mọi nhu cầu xa xỉ bằng ý thức “tri túc “ và “thiểu dục”.

Một mặt khác thì kinh tế học hiện đại lại quan niệm rằng sự tiêu thụ là cứu cánh tối thượng và cũng là mục tiêu chính của mọi sinh hoạt xã hội, nên phải sử dụng nhiều đất đai,cũng như sức lao động và vốn liếng để làm phương tiện phát triển sản xuất.

Nói tóm lại, tùy vào cách nhìn của hai nền kinh tế phật giáo và hiện đại, ta thấy được sự dị biệt tùy thuộc ở giá trị tinh thần và vật chất của hai quan niệm này về sự tiêu thụ hàng hóa. Từ đó, ta cũng biết được áp lực đè nặng trên vai của người dân tại hai nước Miến Điện và Hoa Kỳ khác biệt như thế nào. Một nơi thì mọi người được sống thanh thản, còn nơi kia thì sự  căng thẳng cứ triền miên, mặc dù ở Miến Điện tỉ lệ sử dụng máy móc thay cho sức người lao động so với Hoa Kỳ thì thật là khiêm tốn.

Ai cũng biết rằng tính bất bạo động có liên hệ rất mật thiết với cách sống giản dị, nên khi nhu cầu tiêu dùng ở mức độ vừa phải thì ta sẽ thấy tinh thần được thảnh thơi, bớt được nhiều nỗi lo toan, chạy vạy cho có đủ phương tiện tiền bạc nhằm thỏa mãn ý thích.  Như thế là đáp ứng được ý lời Phật dạy: “luôn tránh điều xấu ác, làm nhiều điều thiện lành,

và giữ tâm thanh tịnh “

5

Củng vì tài nguyên thiên nhiên ở khắp mọi nơi đang cạn dần, và nếu mọi người đều tự bớt nhu cầu tiêu dùng thì sẽ giúp làm giảm thiểu được những tranh giành, cướp giật đầy tính bạo hành mà ta thường thấy xảy ra ở những quốc gia, dân chúng đang sống dựa vào nền kinh tế  toàn cầu.

Mọi nền sản xuất khởi đi từ tài nguyên của địa phương nhằm thỏa mãn nhu cầu của dân chúng cùng sống trong vùng, thì đó là phương cách rất thích hợp với quan điểm kinh tế Phật giáo. Nếu phải tùy thuộc vào nguồn hàng hóa nhập từ một nơi xa xôi, và được sản xuất bởi những người xa lạ thì đó là những trường hợp ngoại lệ và chỉ được áp dụng  rất giới hạn trong  cộng đồng phật giáo.

Chính vì kinh tế gia hiện đại chấp nhận một sự tốn kém khi để một người phải di chuyển thật xa từ nhà đến nơi làm việc, và cũng không hợp với tiêu chuẩn của nếp sống cao, nên kinh tế gia phật giáo đã thấy ra đó là một sự thất bại khi phải dùng nhân sự đến từ một nơi xa xôi để thỏa mãn theo ước muốn của họ, thay vì sử dụng những người sống trong vùng lân cận.

Thống kê kinh tế hiện đại thường dựa vào sự tăng trưởng của các con số ‘tấn hàng hóa’ hoặc ‘dặm đường vận chuyển’ tính trên đầu người của dân số mỗi quốc gia. Phương pháp này được xem như là tiêu chuẩn của sự phát triển kinh tế, thì những số liệu thống kê này lại trở thành chỉ dấu của sự tàn hại các mẫu mực nhận thức về nhu trong cuộc sống của người có đức tin Phật giáo .

Một nhận định rất nổi cộm về sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này đối với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Bertrand de Jouvenel, một triết gia về chính trị rất nổi tiếng người Pháp đã định hình “Con người Tây phương” theo lời mô tả rõ ràng của một kinh tế gia hiện đại là:

Ông ta có khuynh hướng không kể bất kỳ thứ gì là phí tổn,  mà chỉ chú tâm vào sự nỗ lực của con người, ông ta có vẻ như không màng đến tài nguyên mà mình đã phí phạm, và tệ hại hơn nữa, là có bao nhiêu sinh linh mà ông ta đã hủy diệt. Ông ta tỏ vẻ như không cần biết rằng nếp sống của con người  là một phần lệ thuộc vào một hệ thống kinh tế gồm nhiều hình thái của đời sống. Vì thế giới này như bị chi phối bởi những thành phố mà ở đó người ta bị tách ra từ hình thái nào đó của đời sống không phải là tính người, và cảm giác về những gì là sở hữu của hệ thống kinh tế coi như là đã mất hẳn. Điều này đưa đến những hệ quả rất tệ hại không lường trước được trong cách hành xử đối với những thứ mà con người phải rất cần đến, giống như đối với nước uống và cây rừng vậy .

6

Hơn nữa, đức Phật cũng truyền dạy  mọi người nên đối xử từ bi  không những chỉ đối các sinh vật như loài người và động vật mà  cả với cây cỏ nữa. Mỗi phật tử nên phát tâm thường xuyên trồng thêm cây và chăm bón  cho  đến khi cây có đủ sức tự lớn mạnh. Nhìn vào sự kiện này, người phật tử có thể xác định tính độc lập của nền kinh tế, nghĩa là không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài mà vẫn có thể tự phát triển. Có nhiều  quốc gia ở vùng đông nam Á châu (và cả một số các vùng khác trên thế giới) vẫn bị chậm tiến một cách tủi hổ vì coi thường việc trồng cây gây rừng.

Còn kinh tế học hiện đại thì không để ý vào sự dị biệt giữa những vật liệu tái sinh được và không tái sinh được, mà chỉ lo tính cho quân bình và đủ số lượng của những vật liệu ấy bằng cách dùng trị giá của đồng tiền để chi trả. Vì thế, khi phải sử dụng những loại nhiên loại có thể thay thế cho  nhau như than đá, dầu hỏa, cây rừng, hoặc sức nước, thì các kinh tế gia hiện đại chỉ nói đến trị giá tương đương của từng loại để phân biệt. Và dĩ nhiên loại nào rẻ nhất sẽ được ưu tiên dùng đến, vì nếu không là như thế thì chẳng hợp lý và kinh tế chút nào! Theo quan điểm của kinh tế gia phật giáo thì dĩ nhiên không phải là như thế, vì  sự khác biệt giữa hai loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá và tái sinh được như cây rừng hay sức nước thì không thể được xem xét quá giản dị như thế. Đối với loại nhiên liệu không tái sinh được thì chỉ nên dùng khi thực sự cần thiết, và phải hết sức cẩn trọng vì lý do cần được bảo tồn. Sử dụng bừa bãi và lãng phí loại nhiên liệu này là một hành động mang tính bạo động. và để chu toàn việc gìn giữ tính bất bạo động trên trái đất này là điều khó  đạt được. Bổn phận của mỗi con người là phải hướng đến mục đích lý tưởng là làm bất cứ việc gì cũng không được bạo động.

Chính như một kinh tế gia hiện đại ở Âu châu có thể không nghĩ rằng nếu tất cả tài sản nghệ thuật đã bán sang Mỹ với giá hấp dẫn thì không phải là một động thái thành công về kinh tế. Còn kinh tế gia phật giáo thì nhấn mạnh rằng nếu dân chúng chỉ sống dựa vào những loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá thì cũng như là sống bám vào tư bản thay vì dựa vào thu nhập của chính mình. Nếp sống ấy sẽ không bao giờ được thường xuyên ổn định mà phải được điều chỉnh sao cho được thích hợp một cách tạm thời. Vì nếu những nguồn nhiên liệu như than đá, dầu hỏa và khí đốt được khai thác quá đáng và phân bố không đều đặn trên toàn cầu, thì ắt hẳn đó là một hành động có tính  bạo  lực đối với thiên nhiên và sẽ không tránh đưa tới sự bạo động giữa con người.

Riêng sự kiện này thôi cũng là chất liệu cho những quốc gia phật giáo phải suy nghĩ. Cho dù họ không quan tâm gì đến những giá trị tôn giáo và tâm linh trong truyền thống của  mình, họ vẫn rất mong được ôm cả chủ nghĩa duy vật của kinh tế học hiện đại càng nhanh càng tốt. Trước khi cởi bỏ được quan niệm kinh tế học phật giáo, vì đó chỉ là một giấc mơ muốn ‘trở về cố hương’ không hơn không kém, thì họ cũng rất muốn sẽ đi được trên  con đường phát triển của nền kinh tế hiện đại, và rồi sẽ dẫn họ đến một nơi mà họ muốn tới.

Dẫn chứng ở phần cuối của tác phẩm đáng khích lệ của mình là quyển ‘The Challenge of Man’s Future ‘giáo sư Harrison Brown ở viện kỹ thuật California đã đánh giá rằng:

7

Như chúng ta thấy một cách căn bản rằng xã hội công nghiệp thì không còn ổn định nữa, mà phải bị biến dạng thành một hình thái mang tính nông nghiệp, và trong  đó,  những điều kiện cho tự do cá nhân cũng không còn chỗ đứng với khả năng tránh được những tình trạng bị áp bức bởi một hình thái tổ chức chặt chẽ với sự kiểm soát độc đoán. Thật vậy, khi  chúng ta quan sát tất cả những khó khăn có thể hăm dọa sự sống còn của nền văn minh công nghiệp, mà ta đã biết từ trước, thì thật là không dễ gì tìm ra phương cách để vẫn giữ được sự ổn định của nó cho đến cuối và bảo toàn được sự tự do cá nhân như một dung hợp hài hòa.

Cho dù hiện tượng này đã không còn nữa trong cách nhìn dài hạn, nhưng ta vẫn phải đối diện với vấn đề tức thời là liệu “sự hiện đại hóa”- vẫn đang tồn tại bất chấp những giá trị tôn giáo và tâm linh- có còn thực sự sản sinh được những hệ quả chấp nhận được hay không. Những khối lượng được thấy được thì thật là kếch xù, nhưng hậu quả thì cũng thật là khủng khiếp – nền kinh tế nông thôn thì đã sụp đổ, tình trạng thất nghiêp thì lan tràn khắp mọi thành phố và quốc gia, còn sự tăng trưởng tính vô sản thành phố thì không có khả năng nuôi dưỡng được con người cả phần thể chất lẫn cả tâm hồn nữa.

Dù cho ai còn tin tưởng rằng sự tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn những giá trị tôn giáo và tâm linh, thì dưới ánh sáng của cả kinh nghiệm thực tiễn trong hiện tại và viễn ảnh tương lai dài hạn, việc nghiên cứu kinh tế học phật giáo vẫn rất cần được quan tâm. Vì đó không phải là việc chọn lựa giữa “sự lớn mạnh hiện đại” và “sự trì trệ cổ điển”, mà là vấn đề tìm ra một con đường đúng cho sự phát triển. Đó chính là con đường “Trung Đạo” giữa sự thờ ơ của các “sứ giả duy vật” và sự bất động của các “nhà tồn cổ”. Hay nói một cách ngắn gọn là tìm cho ra con đường của“Chánh Nghiệp”.

Bài 2 – Giới thiệu sách “Small is Beautiful”

Bài 2  –  Giới  thiệu  sách  “Small  is  Beautiful”

Tác  giả  : E F Schumacher

( xuất bản lần đầu : Năm 1973)

Đòan Thanh Liêm.

Như đã có dịp trình bày nơi bài 1 trước đây, cuốn sách “Small is Beautiful” đã được tờ New York Times xếp vào lọai “100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất” kể từ sau thế chiến hai ( the most influential books). Và sau 30 năm kể từ khi ra mắt độc giả, thì đã lưu hành được tới trên một triệu cuốn riêng về ấn bản tiếng Anh; đó là chưa kể đến các bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Tác giả Schumacher là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm trong ngành quản lý về than đá tại Anh quốc, đặc biệt trong lãnh vực thống kê, nên ông đã đưa ra những số liệu khá vững chắc và khả tín để minh họa cho lý luận của mình. Xuyên suốt qua gần 300 trang sách, tác giả đã lần lượt trình bày suy nghĩ và tìm kiếm của mình trong suốt 40 năm vừa học tập, làm việc, trao đổi và nghiên cứu của mình về những vấn đề căn bản của nhân sinh trên phạm vi tòan cầu. Người đọc có thể thấy tác giả đã gửi gấm vào tác phẩm tất cả tài năng trí tuệ và tấm lòng tha thiết nóng bỏng đối với cuộc sống của con người, mà phần đông đang là nạn nhân khốn khổ của cái đường lối sai lầm vì coi nhẹ giá trị đạo đức nhân bản và nhân ái của giới điều hành guồng máy kinh tế tại chính các quốc gia tiền tiến trong thế giới hiện đại. Có thể coi cuốn sách là “lời cảnh báo” về mối nguy cơ trầm trọng đang đe dọa cuộc sống của nhân lọai ngày nay, và đồng thời tác giả cũng khơi mào cho việc tìm kiếm một lối thóat khả dĩ cho con người, đặc biệt là cho hàng tỉ con người kém may mắn (underpriviledged) trong các quốc gia được liệt kê vào lọai “ đang phát triển” ( developing countries)

Nhan đề chính của cuốn sách là “Small is Beautiful” lại được kèm theo câu phụ diễn cho thêm rõ ý nghĩa nữa : “ Economics as if People Mattered”, xin tạm dịch là “Kinh tế học Dân Vi Quý”. Và riêng trong ấn bản năm 1999, thì lại còn kèm theo nhiều bình luận của các thức giả đương thời được in bên lề các trang sách nữa. Bài giới thiệu này chủ yếu dựa vào ấn bản năm 1999, nhân kỷ niệm 25 năm ngày ra mắt ấn bản đầu tiên năm 1973.

Sách được trình bày thành 4 phần trong 19 chương như sau  :

Phần 1  :  Thế giới hịên đại      (Chương 1-5)

Phần 2  :  Tài nguyên               (Chương 6-10)

Phần 3  :  Thế giới thứ ba         (Chương 11-14)

Phần 4  :  Tổ chức và Sở hữu   (Chương  15-19).

Nói chung thì sau trên 30 năm, các luận đề do Schumacher nêu ra trong cuốn sách vẫn còn giữ được tính cách thực tiễn khách quan và được coi như những gợi ý rất sâu sắc cho sự thảo luận và tìm kiếm của giới hàn lâm, cũng như của công chúng có sự quan tâm đến vấn đề sinh tử của con người trong bối cảnh văn hóa xã hội của thế kỷ XXI hiện nay.     Nhằm trình bày sáng sủa, gọn gàng tư tưởng của tác giả, người viết xin được tóm gọn trong mấy luận điểm chính yếu được lựa chọn như sau đây :

1/  Hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba  :  Làm sao mà phát triển?

Schumacher đưa ra con số hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba mà gồm các quốc gia đang phát triển, với bình quân mỗi làng có 1000 người. Như vậy là trong 2 triệu ngôi làng, thì có đến 2000 triệu người (2 tỉ), tức là tương đương với dân số ở mức nghèo túng trên thế giới vào thập niên 1960 lúc tác giả viết cuốn sách này. Tình trạng sinh sống của người dân tại các vùng quê như ở Ấn độ đã được Schumacher rất lưu tâm quan sát, tìm hiểu và cố gắng đưa ra một phương thức kiến hiệu và hợp lý, hợp tình nhất để gây ra được một “khí thế phát triển” (development mood) thật là sinh động tại hạ tầng cơ sở các địa phương đó.

Từ sau thế chiến 2, các quốc gia Âu Mỹ giàu có đã đề ra các chương trình viện trợ khi thì đa phương thông qua Liên Hiệp Quốc, khi thì song phương nhằm giúp đỡ các nước nghèo thóat được cảnh bần hàn khốn khổ. Nhưng Schumacher đã chỉ ra là hầu hết cái lối viện trợ kiểu này không đem lại kết quả bao nhiêu, bởi lẽ là những chuyên gia viện trợ đã không nắm bắt được tâm lý và hòan cảnh phức tạp của đa số quần chúng nông dân vừa ít học, vừa bị giới trung gian khai thác lợi dụng. Và hơn nữa, các kỹ thuật áp dụng lại không thích hợp với hòan cảnh văn hóa xã hội và tâm linh truyền thống tại miền nông thôn địa phương. Vì thế mà Schumacher đã mạnh dạn đưa ra những đường hướng quyết liệt là : “ Viện trợ tốt nhất là thứ viện trợ trí tuệ (Intellectual aid), viện trợ kỹ năng hữu ích (gift of useful knowledge), chứ không phải là quà tặng vật chất. “ Lối viện trợ như vậy mới làm cho người nhận sớm trở thành tự lập và không còn bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp mãi của thứ “con bò sữa” như vẫn thường xảy ra. Phương thức này vừa ít tốn phí, mà vừa kích thích được cái mầm mống tự cường, tự túc vẫn có sẵn trong tiềm thức của lớp người dân vốn có lòng tự trọng, tự tin ở khả năng của bản thân mình. Đây mới đích thực là cách thức hay nhất để thực hiện được chủ trương “Giúp dân để người dân có thể tự giúp bản thân họ” ( Helping the people to help themselves).

Muốn đảy mạnh phong trào như vậy, thì phải lôi cuốn được các tổ chức thiện nguyện phi-chánh phủ (non-governmental voluntary agencies) ở cả hai phía quốc gia bên viện trợ cũng như bên nhận lãnh (donor/recipient countries); chứ không thể hòan tòan do hai bên chánh phủ độc quyền đứng ra hành động bao biện như từ bao lâu nay. Phương thức này, nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì là : “Phải vận động Xã hội Dân sự từ cả hai nước cùng dấn thân nhập cuộc vào tiến trình phát triển và xây dựng tòan diện và điều hòa này” (total and harmonized development). Nhờ vậy mà cả một tập thể cộng đồng như được kích thích gây men ngay trong nội tâm sâu kín của mình (Mass fermentation and mobilization), để tạo ra được một thứ “năng động nhóm” (group dynamics) nhằm tiến hành được một sự phát triển bền vững lâu dài tại địa phương (self-sustaining community development).

Xin trích nguyên văn một đọan cuối của “ Chương 13 : Two million villages ” như sau :  “Phát triển kinh tế chỉ có thể thành công nếu nó được tiến hành như một phong trào quần chúng rộng rãi dấn thân vào công cuộc tái thiết (a broad, popular movement of reconstruction), tập trung chủ yếu vào việc tận dụng sự hăng say phấn khởi, sự tài trí và sức lao động của tất cả mọi người trong công đồng…Sự thành công chỉ có thể đạt tới là do quá trình phát triển bao gồm cả trình độ giáo dục, tính tổ chức và cả tính kỷ luật của tòan thể các thành viên trong cộng đồng. Thiếu một yếu tố nào kể trên, thì chỉ là gặt hái sự thất bại mà thôi “ ( trang 171).

2/   Đi tìm lọai kỹ thuật thích hợp nhất (Appropriate Technology AT)

Với tinh thần thực dụng, Schumacher chủ trương cần phải phát triển lọai “kỹ thuật trung gian” để thích hợp với hòan cảnh kinh tế xã hội tại các nước đang phát triển. Ông dành hẳn Chương 12 cho đề tài này với nhan đề như sau :   “ Social and Economic Problems Calling For The Development Of Intermediate Technology ” (Những Vấn Đề Xã Hội và Kinh Tế Đòi Hỏi Phải Phát Triển Lọai Kỹ Thuật Trung Gian). Tác giả viện dẫn hai lý do chính yếu sau đây  :  Thứ nhất là kỹ thuật quá tân tiến thì lại tốn phí, nên các nước nghèo không thể áp dụng phổ biến rộng rãi khắp nơi được. Thứ hai là trình độ văn hóa kỹ thuật của dân chúng miền quê không thể dễ dàng thích nghi với cái kỹ thuật quá tinh vi, phức tạp do các nước phát triển đề xuất ra. Do đó mà cần phải tìm kiếm cho ra được lọai “kỹ thuật thích hợp” mà thường cũng được gọi là “kỹ thuật trung gian” (Intermediate Technology), tức là thứ kỹ thuật đứng giữa lọai kỹ thuật lạc hậu cổ truyền  (mà rất rẻ tiền) với kỹ thuật hiện đại (mà rất là đắt tiền).

Tác giả lại có kinh nghiệm thực tiễn về chủ trương này, khi ông cùng với một số bạn hữu thành lập hẳn một Nhóm riêng biệt để nghiên cứu và thử nghiệm lọai kỹ thuật này tại Luân Đôn vào năm 1965 gọi là “The Intermediate Technology Development Group” ( ITDG). Cụ thể như : Nếu dùng kỹ thuật cao cấp như máy gặt liên hợp (combine harvester), thì phải tốn phí hết 70,000 dollar cho một người làm việc (workplace); như vậy thì các nước nghèo khó mà có thể tạo ra đủ công ăn việc làm cho cả triệu người được. Nhưng nếu sử dụng lọai kỹ thuật trung gian chỉ tốn kém có 700 dollar cho một người lao động, thì với số tiền 70,000 nói trên ta có thể tạo ra việc làm cho cả 1000 người. Và rõ ràng đây là thứ kỹ thuật thích hợp nhất cho các nước nghèo của thế giới thứ ba vậy. Cho đến nay ITDG đã phát triển và phổ biến khá rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới, cả ở khu vực tiền tiến cũng như khu vực đang phát triển.

Cũng vì nhằm tạo ra thật nhiều công ăn việc làm ổn định hầu đáp ứng nhu cầu rất lớn cho nhiều khu vực nông thôn và các thị trấn nhỏ bé, mà việc nghiên cứu kỹ thuật trung gian này phải được thực hiện trong quy mô của một miền bao gồm nhiều cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ, chứ không thể làm theo cái lối khép kín, hạn hẹp trong môi trường quá hạn chế được. Do đó Schumacher đã khẳng định rằng “ Nếu mục tiêu của sự phát triển là giúp đỡ cho những người cần được giúp đỡ nhất, thì “ Mỗi một Miền hay Quận hạt trong một quốc gia phải có riêng một chương trình phát triển cơ hữu của mình.” Cụ thể như tại nướcThụy sĩ chỉ có chưa đày 6 triệu dân số, mà họ lại chia ra thành 20 quận hạt (cantons), mà mỗi đơn vị lại là một quận hạt phát triển riêng thích hợp với điều kiện đặc thù của mình (development district). Và chính nhờ vào sự “Phân quyền” (Decentralisation) như vậy, mà cả quốc gia này luôn giữ được sự phát triển điều hòa, ổn định trong một nền dân chủ mà mọi người dân đều có cơ hội tham gia vào công việc điều hành của cộng đồng nơi mình sinh sống (Participatory Democracy).

3/  Vấn đề Cạn kiệt Tài nguyên Thiên nhiên ( Depletion of Natural Resources)

Là người làm việc lâu năm trong ngành than đá, nên Schumacher rất chú trọng đến tình trạng sự dụng bừa bãi phí phạm về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt trong các nước văn minh tiền tiến Âu Mỹ. Cụ thể là về dầu khí, than đá và nhất là rừng cây. Bằng những con số thống kê chính xác, tác giả đã nêu lên các sự thao túng, lạm dụng và ích kỷ của các nước giàu có trong việc xài hoang phí các tài nguyên thiên nhiên. Schumacher phân biệt rất rõ rệt hai lọai tài nguyên : lọai tái tạo được và lọai không tái tạo được (renewable/non-renewable resources). Ông còn chỉ rõ ra là :  Thiên nhiên luôn luôn hào phóng trong việc cung cấp cho con người những tài nguyên dồi dào phong phú, để mà khai thác đáp ứng nhu cầu sinh họat của nhân lọai. Nhưng thật  đáng buồn là con người trong mấy thế kỷ gần đây đã dùng khoa học kỹ thuật để mà khai phá quá mức đến độ tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ, tạo ra cảnh cạn kiệt mau chóng các tài nguyên thiên nhiên (rapid depletion/exhaustion), tạo ra một sự mất quân bình giữa con người với thiên nhiên, cũng như giữa hiện tại với tương lai, và cả giữa con người với con người nữa. Ông còn nói rõ là : Phải coi thiên nhiên như một “ nguồn vốn” (Capital) và nhờ biết khai thác khôn khéo, chừng mực đối với thiên nhiên mà con người kiếm ra được các “ lợi tức” (Income). Và như vậy, thì chỉ được quyền sử dụng lợi tức trong việc thanh thỏa các nhu cầu chính đáng của mình; chứ không được tiêu xài vào cái nguồn vốn chỉ có giới hạn nhất định nào đó mà thôi. Schumacher đã rất nghiêm khắc phê phán cái sự kiêu căng, tham lam quá độ và nhất là cái thái độ bạo hành của con người đối với thiên nhiên, cũng như giữa con người đối với nhau nữa. Ông đề cao chủ trương “Bất bạo động, Bất hại “ (Non-violence, Ahimsa) của thánh Gandhi cũng như của Đức Phật, mà ông có dịp khảo sát tại Ấn Độ và Miến Điện. Những suy ngẫm này ông đã ghi rõ ràng trong Chương 4 nhan đề là  : “Buddhist Economics” ( Kinh tế học Phật giáo) mà chúng tôi sẽ dịch nguyên văn ra Việt ngữ được trình bày với đày đủ chi tiết trong một bài sau.

Cũng trong dòng chảy suy nghĩ đó mà Schumacher đã dành hẳn một Chương 9 với nhan đề : “ Nuclear Energy – Salvation or Damnation ?” (Năng lượng Hạt nhân – Sự Cứu Rỗi hay là Án Phạt?) để bàn về cái lợi hay cái hại của năng lượng hạt nhân. Tác giả kiên quyết chống lại việc sử dụng lọai máy phát điện nguyên tử vì lý do chất thải của lọai máy này chứa nhiều chất phóng xạ rất nguy hiểm lâu dài cho nhiều thế hệ sau này. Và may thay, do các biến cố “rò rỉ tại nhà máy điện hạt nhân Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô, mà việc xây dựng bừa bãi các nhà máy hạt nhân này mới bị kìm hãm lại. Rõ rệt là Schumacher là một vị tiền phong đóng góp rất lớn cho phong trào bảo vệ môi sinh trên khắp thế giới từ mấy chục năm gần đây.

4/   Phải Định Hướng lại cho Khoa Học và Kỹ Thuật ( The Re – Orientation of Science and Technology).

Hơn ai hết, Schumacher là người luôn luôn cảnh giác về tính kiêu căng ngạo mạn và ngoan cố của giới khoa học ngày nay, nhất là trong ngành kinh tế học là lãnh vực họat động chuyên môn suốt cả cuộc đời của ông. Bàng bạc trong cuốn sách này, ta thấy tác giả luôn đề cao sự khiêm tốn, tinh thần nhân ái và nhân bản trong việc đề ra đường lối họat động cụ thể mà thiết thực, nhằm vào việc “Cải thiện thế giới” (World Improvement). Ta có thể thấy lời cảnh giác này đã có từ mấy trăm năm trước qua nhà hiền triết Rabelais ở Pháp mà dịch ra tiếng Anh là : “ Science without conscience is the ruin of the soul” (Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự suy đồi của tâm hồn).

Tác giả đề cao tinh thần bao dung, đơn sơ, hòa ái của thánh Gandhi và nhất là của Phật Tổ, mà ông rất say mê nghiên cứu học hỏi trong thời gian làm việc ở Ấn Độ và Miến Điện. Nếu ta chú ý đến môi trường tôn giáo mà ông vẫn sinh họat tại nước Đức cũng như ở nước Anh, nhất là khi về già ông đã gia nhập đạo công giáo nữa, thì ta lại càng khâm phục cái thái độ thành tâm cầu thị, khiêm nhu và quý trọng của ông đối với Phật giáo và Thánh Gandhi ở Á châu. Ông đặc biệt đem thêm khía cạnh phẩm chất (qualitative aspects) và đạo đức (ethics) vào trong môn Kinh tế học là môn học mà các chuyên viên kinh tế thường chỉ chú trọng đến khía cạnh định lượng mà thôi (quantification). Tác giả luôn nhắc nhủ các nhà khoa học là phải tìm kiếm sự minh triết (wisdom) vốn đã ăn rễ sâu trong truyền thống đạo đức văn hóa trong các xã hội phương đông, mà thường bị người phương tây vì quá say mê và kiêu hãnh với tiến bộ khoa học, kỹ thuật vất chất nên đã xem thường. Vì thế ông mới gọi đó là môn “Siêu kinh tế học” (Meta-Economics).

Nói vắn tắt lại, các luận đề Schumacher đưa ra trong cuốn sách “Small is Beautiful” này hiện vẫn còn được thảo luận, khai thác rộng rãi trên tòan thế giới. Lọat bài viết ngắn ngủi này chỉ nhằm giới thiệu sơ lược về tư tưởng độc đáo, can đảm, mà lại rất táo bạo dứt khóat của Fritz Schumacher. Cuốn sách này là đúc kết kinh nghiệm họat động và suy nghĩ tìm kiếm trong suốt cuộc đời của tác giả, với tấm lòng tha thiết phục vụ cho nhân quần xã hội, đặc biệt đối với lớp đa số quần chúng kém may mắn nhất trên thế giới ngày nay. Bạn đọc có thể tham khảo thêm trên internet, để có số liệu cập nhật hóa rất đày đủ và phong phú về các đề tài mà Schumacher đã gợi ra trong cuốn sách thời danh này.

Người viết mong ước giới trẻ Việt nam, ở trong cũng như ở ngòai đất nước, để tâm theo dõi sự phát triển của lọai tư tưởng đày tính nhân bản và nhân ái tương tự như thế này, mà hiện đang có sức rất thuyết phục, quyến rũ cho cao trào tranh đấu bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền và cả bảo vệ môi sinh đang dâng cao khắp thế giới ngày nay trong thế kỷ XXI. Và cũng mong được sự tiếp tay trong việc đào sâu và phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ này từ nơi các bậc thức giả trong những tổ chức chuyên về văn hóa khoa học, cụ thể như : Viện Việt Học, Lê Văn Duyệt Foundation, Hội Khoa Học Kỹ Thuật, Hội Chuyên Gia Việt nam, Các Viện Nghiên Cứu thuộc các Tôn Giáo Việt nam v.v…

California, Mùa Phật Đản Kỷ Sửu 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 3  :  Kinh Tế Học Phật Giáo – Buddhist Economics)

(bản dịch tòan bộ Chương 4)

Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

( Small is beautiful )

Đòan Thanh Liêm

is beautiful”, đó là nhan đề của một cuốn sách xuất bản năm 1973. Tác giả là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm tại Cơ quan quản lý về ngành than đá của nước Anh (National Coal Board NCB), tên là E F Schumacher. Ngay khi ra mắt công chúng, cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn khắp thế giới, và cho đến nay sau trên 30 năm thì đã lưu hành được đến trên một triệu đơn vị, đó là chưa kể các ấn bản được dich ra nhiều thứ tiếng khác nữa.

Vào năm 1973 đó, tôi chỉ mới được đọc có một bài giới thiệu về cuốn sách này, trong đó có câu nguyên văn như sau khiến tôi nhớ mãi : “Small is beautiful, Simple is beautiful, Non-violent is beautiful too”. Mãi đến năm 1979-80, thì cụ Nguyễn Hiến Lê mới được ngưới cháu làm ở Liên Hiệp Quốc tại Geneva về thăm và mang cho bản dịch tiếng Pháp mà vẫn để nguyên nhan đề bằng tiếng Anh theo như nguyên tác, chứ lại không dịch ra tiếng Pháp : “Small is beautiful”. Cụ Nguyễn xem xong và cho tôi mượn đọc cuốn sách thật là hiếm mà có được ở Việt nam vào thời gian đó. Không những tôi đã say mê đọc, mà còn chuyển cho một vài người bạn thân thiết khác cùng đọc nữa. Rồi tôi lại có dịp đến trao đổi với cụ Nguyễn về nội dung cuốn sách này; nhờ vậy mà tôi vỡ lẽ ra được nhiều điều mới lạ mà tác giả đã gợi ra cho người đọc nào có sự chú tâm và đồng cảm với quan điểm của mình.

Đáng chú ý nhất là trong cuốn sách có một chương dài chừng 10 trang nhan đề là “Buddhist Economics” (Kinh tế học Phật giáo). Tác giả Schumacher viết rất gọn gàng khúc chiết, diễn giải một cái nhìn rất khác lạ đối với công chúng ở các nước Âu Mỹ.

Từ mấy tháng nay trước sự hỏang lọan cực kỳ rối ren đen tối phát sinh từ cuộc khủng hỏang kinh tế tài chánh của nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, tôi đã tìm đọc lại cuốn sách này nơi ấn bản năm 1999 kỷ niệm 25 năm ngày xuất bản đầu tiên năm 1973 như đã ghi ở trên. Và với thêm nhiều tài liệu được cập nhật hóa liên quan đến tác giả và tác phẩm, tôi bèn nảy ra ý nghĩ là phải trình bày với chi tiết thật sáng sủa, mà gọn gàng về tư tưởng của tác giả Schumacher với các bạn đọc người Việt nam chúng ta.

Để cho vấn đề trình bày được thêm mạch lạc sáng tỏ, người viết xin chia ra thành 3 phần được diễn trình trong 3 bài như sau :

Bài 1/  Thân thế và sự nghiệp tác giả E F Schumacher

Bài 2/  Giới thiệu cuốn sách “Small is beautiful”

Bài 3/   Kinh tế học Phật giáo (dịch nguyên văn từ chương “Buddhist Economics”)

Nhân tiện người viết cũng xin ghi lời tưởng nhớ với niềm ngưỡng mộ chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đối với cụ Nguyễn Hiến Lê, là một học giả đã góp phần rất lớn lao trong công trình xây dựng văn hóa nước nhà, dưới chế độ tự do ở miền Nam Việt nam hồi trước năm 1975. Cụ sinh năm 1912 (suýt soát với tuổi của E F Schumacher) ở Hanoi, và đã từ trần vào năm 1984 ở Saigon. Và năm 2009 này là kỷ niệm 25 năm kể từ ngày Cụ từ giã chúng ta.

Bài 1  —   Ernst  Friedrich  Schumacher  (1911 – 1977)

Thân thế và Sự nghiệp

1/  Sơ Lược Tiểu sử

E F Schumacher sinh tại thành phố Bonn, nước Đức năm 1911 (cùng năm xảy ra cuộc Cách Mạng năm Tân Hợi ở Trung quốc, lật đổ vương triều nhà Mãn Thanh). Thân phụ là Giáo sư Hermann Schumacher chuyên dậy về môn Kinh tế học tại nhiều trường Đại học ở Đức, kể cả tại thủ đô Berlin vào hồi đầu thế kỷ XX. Thân mẫu là Bà Edith Zitelmann, một tài năng về tóan học. Trong chỗ thân mật E F thường được gọi là Fritz. Với cha mẹ như vậy, nên người ta không ai ngạc nhiên về sự thông minh xuất chúng của Fritz là một học sinh luôn luôn đứng vào hàng đầu trong các lớp học. Lại nữa, Fritz còn được thụ giáo với các bậc đại sư nổi danh khắp thế giới như Joseph Schumpeter gốc Áo quốc, như John Maynard Keynes bên Anh quốc v.v…

Là một sinh viên xuất sắc, nên Fritz đã được học bổng Rhodes Scholar để theo học tại Đại học Oxford hồi đầu thập niên 1930, và lại được tiếp tục theo học tại Mỹ trong ngành kinh tế tài chánh. Sau thời gian ngắn làm việc tại Đức, Fritz không thể chấp nhận đường lối độc tài phát xít của Hitler, nên đã sang làm việc bên Anh quốc ít lâu trước khi thế chiến thứ hai xảy ra năm 1939. Lúc đầu khi mới nổ ra cuộc chiến, vì là công dân Đức nên Fritz cũng bị đối xử rất ngặt nghèo như là kẻ thù địch và bị xếp vào lọai người bị cô lập  trong một trại tập trung rất khắc nghiệt. Nhưng sau ít lâu, thì cũng được các bạn hữu giải thóat ra khỏi tình trạng quản chế này và được trao phó cho công viêc thích hợp với khả năng chuyên môn của một kinh tế gia.

Chiến tranh chấm dứt, Fritz nhờ đã có quốc tịch Anh, nên được phái sang Đức với nhiệm vụ làm cố vấn kinh tế cho phái bộ Anh đặc trách về vấn đề bình định và tái thiết trong khu vực thuộc quyền quản lý của quân đội nước Anh tại Đức. Vì được chứng kiến tận mắt những tàn phá mất mát của bà con ruột thịt với mình, nên Fritz đã ngày đêm miệt mài tìm cách xây dựng lại hệ thống quản lý và phân phối ngành năng lượng, chủ yếu là than đá vốn là huyết mạch của sự phục hồi kỹ nghệ tại nước Đức, cũng như tại tòan bộ các nước thuộc miền Tây Âu châu. Sau đó ông trở về lại nước Anh và nhận chức vụ cố vấn kinh tế cho cơ quan National Coal Board (NCB), đây là công việc ông làm trong nhiều năm nhất (gần 20 năm) cho đến khi về hưu vào năm 1970.

Về đời sống gia đình, Fritz  đầu tiên cưới bà vợ người Đức là Anna Maria Petersen vào năm 1936. Anna Maria thường được gọi là Muschi trong chỗ thân mật gia đình và bạn hữu. Hai vợ chồng rất gắn bó với nhau và đã trải qua những năm khốn khó giữa thời chiến tranh bên nước Anh. Họ có với nhau 5 người con. Nhưng không may, Muschi bị bệnh ung thư và mất sớm vào năm 1960, lúc chưa đày 50 tuổi. Sau đó, thì Fritz tục huyền với bà Vreni Rosenberger, người Thụy sĩ. Cuộc hôn nhân thứ hai này đem lại cho Fritz thêm 3 người con nữa. Bà Vreni là người chăm sóc tận tình cho Fritz vào thời cuối đời, đặc biệt là cho lũ con riêng của Fritz mà còn rất nhỏ tuổi, khi người mẹ của chúng là bà Muschi qua đời. Và rốt cuộc, chính Fritz Schumacher cũng đã kiệt sức vì làm việc quá nhiều, và đã qua đời trên chuyến đi diễn thuyết tại Thụy sĩ vào năm 1977 lúc mới có 66 tuổi.

Chi tiết về cuộc đời và họat động của Fritz Schumacher đã được người con gái lớn là Barbara Schumacher Wood ghi lại khá đày đủ trong cuốn tiểu sử xuất bản năm 1984, với nhan đề là  :   “ E F Schumacher , His Life and Thought “. Nhờ tham khảo cuốn sách này, mà người viết có thể cống hiến cho bạn đọc những chi tiết lý thú.

2/  Hành trình tư tưởng của Fritz Schumacher.

Có thể nói Fritz là một nhân vật xuất chúng cả trong hành động cụ thể, cũng như trong công cuộc tìm kiếm giải pháp tốt đẹp có tầm vóc tòan cầu trước những khó khăn bế tắc của thế giới hiện đại. Như đã trình bày ở phần trên, thông qua việc học hỏi và làm việc tại các quốc gia tiền tiến như Đức, Anh và Mỹ trong hơn 60 năm, ông đã được tiếp cận với các luồng tư tưởng, với các nhân vật ngoại hạng, cũng như tham gia vào các hoạt động ở tầm mức cao nhất trên thế giới. Và cùng với một trí tuệ thông minh vượt trội và sức làm việc cần mẫn, say sưa miêt mài trong nhiều năm, ông đã đạt tới tình trạng “ngộ ra được’ một đường lối phải noi theo để góp phần xây dựng tốt đẹp nhất cho thời đại ngày nay. Ông đã đi khắp năm châu, bốn biển, nhất là Phi châu, châu Mỹ la tinh , Ấn độ, Miến điện để nhận diện được sự phức tạp của hòan cảnh sinh họat văn hóa xã hội và cả mặt tâm linh của nhiều sắc dân với truyền thống lịch sử rất khác biệt với nhau.

Lúc còn trẻ, vì hăng say làm việc và nghiên cứu với tinh thần lạc quan khoa học, ông như người vô thần, không chú tâm gì đến khía cạnh tâm linh của con người. Nhưng sau này, nhờ quan sát tại chỗ ở nhiều quốc gia trên thế giới, ông đã chú trọng đến ảnh hưởng của tôn giáo trong các nền văn hóa. Đặc biệt ông rất khâm phục chủ trương “Bất bạo động” của Thánh Gandhi bên Ấn độ và lối sống thanh thóat của người Phật tử tại Miến điện. Và đến cuối đời, thì ông gia nhập đạo công giáo.

Bởi vậy mà suy nghĩ của Schumacher càng thêm chín mùi hơn với khía cạnh nhân bản và nhân ái, vượt thóat được thái độ kênh kiệu, tự cao tự đại và tự mãn thường thấy nơi những người quá say mê với thành tựu khoa học kỹ thuật, cũng như về kinh tế của các nước Âu Mỹ. Càng tìm hiểu nơi các nền văn hóa cổ truyền bên ngoài thế giới Tây phương, ông càng có thái độ khiêm tốn, phục thiện và mở rộng tâm hồn để đón nhận những luồng tư tưởng khác lạ mà lại rất phong phú của nhân lọai. Có thể nói Schumacher luôn luôn nhất quán trong việc đề cao khía cạnh đạo đức nhân bản trong lề lối tổ chức sinh họat kinh tế xã hội cho con người trong thế giới ngày nay. Ông luôn nhắc nhủ, cảnh giác cái thái độ tự phụ của các nhà lãnh đạo các cường quốc chỉ biết đến khoa học, đến năng suất kinh tế thương mại, mà sao lãng vấn đề lương tâm và trách nhiệm liên đới của các quốc gia là thành viên trong cộng đồng nhân lọai.

Cụ thể Schumacher phê phán nhà bác học Einstein rằng : Vì ông ta quá mức đề cao thuyết tương đối (Relativity), thì đâm ra chối bỏ cái tiêu chuẩn đạo đức vốn có giá trị tuyệt đối. Cũng vậy, lý thuyết của Freud coi rằng con người hành động là do sự ẩn ức của sinh lý bị dồn ép, thì không còn phải chịu trách nhiệm gì về việc làm xằng bậy của mình nữa. Như vây là sự vô trách nhiệm. Schumacher cũng phê phán Karl Marx về lý thuyết định mệnh lịch sử, thì con người cũng không còn chịu trách nhiệm cá nhân của riêng bản thân nữa. Ông cũng cực lực lên án chủ trương gieo rắc hận thù của người macxít, vì đó là nguyên nhân của các vụ tàn sát kinh hòang trong thế giới cộng sản. Ta sẽ có dịp xem xét chi tiết hơn về tư tưởng của Schumacher khi đọc tác phẩm chính yếu “Small is beautiful” là đề tài sẽ được trình bày trong bài sau.

3/  Ảnh hưởng của tư tưởng Schumacher

Báo New York Times đã xếp cuốn “Small is beautiful” là một trong 100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất trên thế giới (the most influential books) kể từ sau thế chiến 2. Tác giả đã được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới và được nhiều vị nguyên thủ quốc gia tham khảo ý kiến, trong đó có cả Tổng Thống Jimmy Carter của nước Mỹ. Tại nhiều nước, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, các thân hữu ái mộ ông đã lần hồi thành lập “Hiệp hội E F Schumacher” (E F Schumacher Society) nhằm nghiên cứu, khai triển và phổ biến tư tưởng của ông. Và còn rất nhiều các tổ chức và các nhóm khác đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng của ông, mà điển hình như “ Institute for Community Economics”, “Council on Economic Priorities”, “Friends of the Earth”, “Greenpeace”, “Worldwatch Institute”, “Soil Remineralization Network”, “Global Warming Network” v.v…

Ta có thể lược kê ra các đề tài được Schumacher nêu ra ngay từ thập niên 1960 và hiện nay vào thế kỷ XXI vẫn còn tính cách thời sự cấp bách, mà được quần chúng cũng như giới trí thức hàn lâm rất quan tâm.  Điển hình một số các đề tài đó như sau  :

  • Phê phán các hệ thống tổ chức quá mức (overorganised systems) làm phá họai tinh thần con người, cũng như cả hành tinh trái đất.
  • Đề cao sự quan trọng của “mức thang nhân sinh” (human scale) trong việc tổ chức sinh họat kinh tế xã hội.
  • Ý niệm về “kỹ thuật với bộ mặt nhân bản” (technology with human face), về “kỹ thuật thích hợp” (appropriate technology) cho từng quốc gia, có tính cách đơn giản, bất bạo động và có thể kiểm sóat được (controllable).
  • Ưu tư về sự mau cạn kiệt (rapid depletion) các tài nguyên thiên nhiên, khiến đưa tới sự phá hủy môi sinh.Cần cảnh giác về việc sử dụng quá mức các lọai tài nguyên không thể tái tạo (non-renewable resources) như than đá, dầu khí, gas…
  • Sự quan trọng của việc phục hồi lại cái hệ thống giá trị về một lối sống tốt đẹp, một xã hội an hòa (good life, good society) thay vì cứ để bị mê hoặc bởi các lọai lợi ích ngắn hạn nhất thời.
  • Sự cần thiết phải trở về với “Bốn Nhân Đức Nền Tảng” (Four Cardinal Virtues), đó là : Sự Khôn ngoan, Công lý, Dũng cảm và Tiết chế ( tiếng latin : Prudentia, Justitia, Fortitudo, Temperantia)  …

Đại khái các đề tài này đã luôn luôn được đưa ra thảo luận trong các cuộc hôi thảo, các buổi nói chuyện trao đổi giữa nhiều nhóm, nhất là giới sinh viên Đại học, các tổ chức tôn giáo… Và các lọai ý kiến xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này hiện vẫn được chuyển tải thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên internet.

Sức thu hút của tư tưởng Schumacher đối với nhiều người, đó là do sự chính xác của lý luận và phân tích tình hình xã hội của ông được thể hiện rõ ràng qua sự kiểm chứng đối chiếu với thực tiễn sinh động tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Cụ thể như : Các nhà máy phát điện với kích thước quá lớn đã lần hồi bị thay thế bởi các đơn vị nhỏ bé hơn, bởi lẽ các nhà máy với quy mô vừa phải thì mới có hiệu quả chắc chắn, vũng bền hơn. Cũng như các nhà máy điện nguyên tử không còn được xây dựng ào ạt sau các vụ rì rỏ tại “Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là sau tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô vào thập niên 1980, sau khi Schumacher đã qua đời năm 1977.

Nhân tiện cũng nên ghi nhận chủ trương của tác giả “Small is beautiful” cũng có nhiều nét tương đồng với quan điểm của nhà tư tưởng đương thời và cũng nổi danh khác, đó là Karl Popper gốc từ Áo quốc (1905-1994), là một vị giáo sư lâu năm của Đại học London School of Economics cũng ở nước Anh. Đó là chủ trương “Piecemeal Social Engineering” ( “Xây dụng xã hội từng mảnh một “, như đã được trình bày khá chi tiết trong tác phẩm nổi danh của ông với nhan đề là : “The Open Society and Its enemies “), mà nhà tỉ phú George Soros là một môn đệ hiện đang theo đuổi áp dụng thông qua tổ chức “Open Society Institute OSI” do ông sáng lập, có trụ sở chính tại New York, và chuyên chú về công cuộc phục hồi tại các nước Đông Âu trong giai đọan hậu cộng sản từ 20 năm nay. Người viết mong sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn về cặp đại sư Karl Popper và môn sinh George Soros này trong một dịp khác, cũng như đã viết về vị đại sư cũng rất nổi danh khác của nước Pháp là Raymond Aron (1905-1983) vào đầu năm 2008 vừa qua./

California, Tháng Tư 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 2   : Giới thiệu tác phẩm “Small is beautiful”). (tiêp theo)

Đừng trách người ta đối xử tệ

Đừng trách người ta đối xử tệ

Người Việt

Lê Diễn Đức

Chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tạo ra một lực lượng khổng lồ những con người khốn khổ, luôn muốn vươn ra ngoài để thoát cảnh cùng cực, cứu mình và gia đình trước khi “cứu quốc!”

Trong thập niên 90, sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, tất cả các nước trong khối Liên Xô cũ gánh chịu một nền kinh tế suy kiệt, hàng hóa tiêu dùng thiếu thốn nghiêm trọng. Người Việt sang đây đã xây dựng nên những chợ trời nổi tiếng, cung cấp hàng, đặc biệt là quần áo, giày dép giá rẻ. Những người có vốn nhập hàng từ Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan… về bán, một vốn bốn lời. Từ quần áo jeans đến quần lót “bà bô,” đều bán chạy như tôm tươi và lãi suất cao. Từ khoảng năm 2000, hàng Trung Quốc chiếm ưu thế cạnh tranh hơn do giá cả thấp.

Đất lành chim đậu, cơ hội kiếm tiền và thoát nghèo đã tạo nên một làn sóng di dân từ các tỉnh miền Bắc sang Nga và các nước Đông Âu. Thoạt đầu, nghiên cứu sinh, sinh viên du học, hoặc những người thuộc diện “hợp tác lao động” ở lại, tìm cách lôi kéo người trong gia đình, họ hàng qua. Sau này hình thành những đương dây chuyển người. Họ được lo thị thực du lịch qua Nga, sang tới Nga số thì ở lại luôn, sống bất hợp pháp; số thì từ Nga đi tàu hỏa về phía biên giới phía Tây và lội bộ băng rừng vượt sang Tiệp và Ba Lan. Một số tiếp tục vượt biên qua Đức xin vào trại tị nạn. Thời gian này, Ba Lan, Tiệp chưa gia nhập Liên Minh Châu Âu, đường biên giới còn lỏng lẻo là điều kiện tốt cho những băng nhóm chuyển người. Có những cuộc hành trình gian nan, phải nằm dài ở Moscow chờ ngày ra đi, rồi bị kẹt trong rừng, hoặc qua tới Ba Lan hay Tiệp thì bị cảnh sát bắt giam. Có trường hợp cô gái bị ép làm tình với bọn cầm đầu nhóm đưa người, khi gặp được người thân thì cười ra nước mắt, bụng vác bầu mà không biết cha của đứa bé là ai!

Trong giai đoạn này Nga và Ba Lan là điểm hội tụ lớn nhất của người Việt. Vào năm 2000, ước tính cả Ba Lan có khoảng 60-70 ngàn người Việt, trong đó đến hai phần ba số người không có giấy tờ cư trú hợp pháp.

Nhu cầu ở lại hợp pháp ngày càng cao gắn với công chuyện làm ăn, vì thế người ta chi tiền lo giấy tờ bằng mọi giá, trong bối cảnh tồn tại vấn nạn hối lộ cho quan chức công quyền. Lấy vợ, lấy chồng giả, khai man dưới tuổi 18 để ăn theo cha mẹ… trở nên phổ biến. Lắm người sau khi cưới, được cấp thị thực cư trú ba tháng, nhưng không xin gia hạn được tiếp nên “bỏ” luôn vợ hoặc chồng. Một thời gian sau, khi “chạy” được thị thực nhân đạo, phải đi tìm trở lại để hợp thức hóa. Trăm chuyện trần ai!

Đã có lần tôi cùng một cô gái lội tuyết giữa mùa đông đi gõ cửa từng nhà trong một làng quê để dò thông tin của người “chồng” cũ của cô vì cô ta không nhớ rõ anh chàng ấy ở đâu! Những người chồng Ba Lan đa phần là dân ít học, nghiện rượu, thất nghiệp, nên khi biết được cô gái Việt Nam cần thì mè nheo, vòi vĩnh tiền, nhưng cũng có người tử tế. Trong những năm ấy, ở vùng Slupsk có đến hơn 30 cặp chồng vợ Ba lan-Việt Nam! Câu chuyện bị báo chí phát hiện và làm rùm beng.

Dịch vụ làm giấy tờ cư trú nở rộ! Kèm theo nó là nạn giả mạo giấy tờ, từ hộ chiếu mới đến các loại khác từ tòa đại sứ, giấy chứng nhận đã ly dị, giấy khai sinh giả gửi từ Việt Nam qua. Có những phần tử dính tội phạm hình sự từ Bulgaria hay Đức chạy qua Ba Lan, sẵn sàng chi tiền đổi tên họ với hộ chiếu mới. Nhân viên phụ trách lãnh sự của tòa đại sứ được mùa. Người ta nói ông H., một viên chức lãnh sự tại Ba Lan, đã kiếm không dưới một triệu đô trong nhiệm kỳ của mình.

Người Việt kiếm những đồng tiền đầu tiên của mình bằng đủ thứ mánh mung như buôn lậu dược phẩm, đồng hồ điện tử, lao động chui, trấn lột, khai man thu nhập, chuyển người lậu, hàng hóa nhập về giảm giá trị hóa đơn và hối lộ hải quan để trốn thuế, chuyển tiền mặt không qua hệ thống ngân hàng, buôn bán hóa đơn VAT (giá trị gia tăng) giả, v.v.. Không ít vụ bị bắt.

Trong bài thơ “Chợ Đời” của tôi viết có đoạn:
… Giữa cái chợ đời cạnh tranh khốc liệt

Người ta bán buôn mọi tình cảm con người

Quan chức bán chữ ký

Cảnh sát, quan tòa bán cán cân công lý

Nhân viên thuế vụ bán nguồn thu ngân

Vì quốc tịch, định cư người ta mua vợ, mua chồng

Mua họ, đổi tên để trẻ thơ thành con kẻ khác

Sự thật trớ trêu không thể nào tin được

Người ta mua cả cha cho đứa con chưa kịp ra đời

Khung giá hình thành, dịch vụ lên ngôi!
Vì thế báo chí truyền thông Ba Lan không dưới một lần nói đến người Việt như là một thế giới ngầm, khép kín. Xin thị thực vào Ba Lan cực kỳ khó khăn.

Trong mắt nhà chức trách đây là một cộng đồng chăm chỉ nhưng chẳng mang lại lợi ích gì đang kể cho xã hội Ba Lan, nhưng là hang ổ của tội phạm. Cầm hộ chiếu Việt Nam đi qua cửa biên phòng Ba Lan hay Nga luôn có cảm giảm lo lắng vì con mắt thiếu thiện cảm và đầy ngờ vực của biên phòng. Hành lý của người Việt rất dễ bị lật tung lên khám xét. Phải là người đi lại nhiều như tôi mới ngấm đau nỗi nhục này.

Từ khi Ba Lan đã gia nhập Liên Minh Châu Âu năm 2005, công chuyện làm ăn kiếm sống của người Việt khó khăn hơn, mọi thứ dần dần đi vào trật tự, quy củ, nhưng người Việt xin thị thực vào Ba Lan vẫn khó hơn cả xin đi Mỹ, Đức, Pháp…

Năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á và từ hơn chục năm nay, người Việt được qua các nước trong khối Asean du lịch ngắn ngày không cần thị thực nhập cảnh. Trong cao trào lấy chồng và hợp tác lao động, người Việt qua lại Nhật, Đài Loan hay Hàn Quốc khá đông đảo.

Tôi không biết các loại tội phạm hình sự như ở Ba Lan hoặc Đông Âu có tái diễn trong các nước Châu Á này hay không, nhưng một tệ nạn khác nổi bật làm mất mặt người Việt, đó là nghề mại dâm và ăn cắp vặt.

Bản tin của BBC tiếng Việt ngày 18 tháng 7 năm 2013 viết:

“Việt Nam là nước có con số đông phụ nữ kiếm sống bằng nghề bán thân xác trong nhóm phụ nữ nước ngoài làm nghề này ở Malaysia vào năm ngoái, hãng thông tấn Bernama của Malaysia đưa tin. Kết quả thống kê này dựa trên con số 3,456 người Việt Nam trong tổng số 12,434 phụ nữ nước ngoài hành nghề mại dâm bị bắt giữ ở Malaysia vào năm ngoái. Theo cảnh sát sở tại, con số gần 1/3 phụ nữ bị bắt giữ là người Việt Nam cho thấy các phụ nữ đến từ quốc gia này ‘đang chiếm lĩnh ngành kinh doanh thân xác tại Malaysia,’ hãng tin Malaysia đưa tin hôm 16/7.”

Nhiều đường dây bán dâm có người Việt tham gia đã bị phát giác, khiến giới chức Singapore đau đầu” là tiêu đề của tờ Giaothông.vn. Trong khi đó, tờ Straits Times của Singapore cho biết hoạt động của gái mại dâm người Việt tại Singapore đã trở nên rầm rộ và tai tiếng ngay từ những năm 2003-2004, khi nhiều cô gái tìm tới các quán rượu tại khu vực Joo Chiat chào mời khách.

Bài “Rúng động những vụ ăn cắp của người Việt tại Nhật Bản” trên tờ Đời sống và Pháp luật ngày 9 tháng 3 năm 2014 viết:

“Theo cơ quan cảnh sát quốc gia của Nhật, số người Việt bị bắt vì ăn cắp đồ siêu thị ngày càng tăng cao, chiếm tới 40% những vụ người nước ngoài ăn cắp tại đây. Riêng trong tháng một đầu năm nay, quận Fukuoka đã bắt 5 nhóm trộm cắp người Việt.”

Tình trạng người Việt ăn cắp ở Nhật đã trở thành hiện tượng thường xuyên đến mức báo chí, truyền hình Nhật phải đưa tin. Người Nhật treo cả những tấm áp phích nơi công cộng cảnh báo người Việt ăn cắp.

Rồi người Việt ăn cắp hàng cũng được báo chi nói đến ở Thái Lan, Đức, Thụy Điển và gần đây là Thụy Sĩ

Cộng đồng người Việt sang làm ăn, sinh sống ở Nga và Đông Âu hầu hết là người miền Bắc, cũng như người Việt qua Malaysia, Singapore, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc.. chủ yếu sau năm 2000, là công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đây là những “con người mới” của “thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ!”

Điều này trái ngược với cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản. Họ liều chết ra đi tìm tự do, sang xứ người với hai bàn tay trắng, thế hệ người Việt đầu tiên đã phải lao động cật lực, làm những công việc phổ thông nặng nề, dành dụm để tạo tương lai cho con em họ. Thế hệ thứ hai đã nhập vào dòng chính của nước sở tại, thành đạt trong mọi lãnh vực nghiên cứu, khoa học, kỹ thuật, chính trị. Tất nhiên, nơi nào cũng có tội phạm nhưng số người phạm pháp này chỉ là những cá nhân đơn lẻ không gây tai tiếng cho cả cộng đồng, là nơi mà lá phiếu của họ có tầm quan trọng trong các cuộc bầu cử ở địa phương.

Mới đây Singapore đã không cho hàng chục cô gái Việt nhập cảnh tại sân bay, thậm chí có cô còn viết trên Facebook là bị đối xử như súc vật, âu cũng không lấy gì làm lạ. Sang nước người ta mà bê nguyên cái thứ văn hóa lưu manh “xã hội chủ nghĩa” qua thì đừng trách người ta đối xử tệ.

Người đời có câu “Tiên trách kỷ hậu trách nhân,” là vậy!

Thoát khỏi Việt Nam bằng ‘đầu tư-định cư’

Thoát khỏi Việt Nam bằng ‘đầu tư-định cư’
Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Dường như càng ngày càng nhiều người giàu có muốn thoát khỏi Việt Nam theo con đường “đầu tư để định cư” và dường như nhu cầu đó đang giúp các công ty cung cấp dịch vụ này hốt bạc.

Một hội thảo giới thiệu “đầu tư-định cư” tại Hoa Kỳ được giới thiệu
trên YouTube. (Hình: Tuổi Trẻ)

Hoa Kỳ có nhiều loại visa cấp cho ngoại kiều. EB-5 là một trong những loại visa mà nhiều người giàu có ở Việt Nam mong sẽ nhận được. EB-5 bắt đầu được cấp từ năm 1990 nhằm thu hút đầu tư của ngoại quốc vào Hoa Kỳ, tạo thêm việc làm cho dân chúng Hoa Kỳ.

Muốn nhận EB-5, ngoại kiều phải đầu tư vào Hoa Kỳ tối thiểu là 500,000 đến một triệu Mỹ kim vào những khu vực đã được xác định (thường là nông thôn hoặc những vùng có tỉ lệ thất nghiệp cao), tạo ra ít nhất 10 chỗ làm việc toàn thời gian. Ngoài ra, vốn đầu tư phải sạch, có nguồn gốc rõ ràng.

Nếu hồ sơ xin đầu tư vào Hoa Kỳ được duyệt, ngoại kiều sẽ được hưởng quy chế thường trú (được cấp “thẻ xanh”) tạm thời – có giá trị hai năm. Hết hai năm, nếu dự án đầu tư được xác định là minh bạch, có hiệu quả, ngoại kiều mới được hưởng quy chế thường trú vĩnh viễn. Năm năm sau có quyền xin nhập tịch.

Giống như Trung Quốc, trong thập niên vừa qua, giới giàu có tại Việt Nam, bao gồm cả các viên chức chính quyền và những doanh nhân chuyên hối mại quyền thế để trở thành “đại gia” đang tìm đủ cách để thoát khỏi Việt Nam, định cư tại ngoại quốc một cách hợp pháp thông qua con đường “đầu tư.”

Úc, Canada từng là những mục tiêu mà giới này nhắm tới nhưng nay, Hoa Kỳ đã trở thành mục tiêu mới.

Tờ Tuổi Trẻ vừa có một phóng sự tường thuật về phong trào xin EB-5 tại Việt Nam. Theo đó, đang có hàng chục công ty mời chào dịch vụ môi giới EB-5, kèm theo lời hứa chắc chắn sẽ có EB-5.

Phóng sự của tờ Tuổi Trẻ cho biết, các cuộc hội thảo về “đầu tư-định cư” được tổ chức liên tục ở Hà Nội, Sài Gòn và được quảng bá như là một kiểu “đầu tư thông minh,” “đầu tư một lần quyền lợi vĩnh viễn cho thế hệ tương lai.”

Hoa Kỳ hiện là nơi hấp dẫn nhất, với số vốn đầu tư cần có vào khoảng 500,000 Mỹ kim. Kế đó là Canada yêu cầu về tài sản phải khoảng 300,000 dollar Canada (CAD) và phải “tặng” thêm ít nhất 220,000 CAD. Muốn định cư tại Úc thì suất đầu tư tối thiểu phải là 5 triệu Úc kim. Những công ty cung cấp dịch vụ môi giới “đầu tư-định cư” còn mời chào “đầu tư-định cư” ở Chypre, Caribbean…

Đáng chú ý là ngoài vốn đầu tư, những người Việt muốn ra ngoại quốc định cư theo con đường “đầu tư-định cư” phải trả cho các công ty cung cấp dịch vụ môi giới một khoản phí lên tới vài chục ngàn Mỹ kim. Chẳng hạn muốn xin EB-5, họ phải trả 40,000 Mỹ kim cho luật sư và 50,000 Mỹ kim cho cái gọi là “phí quản lý dự án.”

EB-5 sẽ là một con đường đưa giới giàu có tại Việt Nam, bao gồm cả các viên chức chính quyền và những doanh nhân chuyên hối mại quyền thế để trở thành “đại gia” đang tìm đủ cách để thoát khỏi Việt Nam, đến Hoa Kỳ? Câu trả lời là chưa chắc.

Trò chuyện với tờ Tuổi Trẻ, bà Tiffany Murphy, trưởng phòng lãnh sự của Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, xác nhận, số người Việt “đầu tư-định cư ở Mỹ” đang tăng.

Theo bà Murphy thì lệ phí phải nộp chỉ 1,500 Mỹ kim/hồ sơ và Hoa Kỳ không chọn bất kỳ công ty nào giúp những người có nhu cầu thực hiện thủ tục xin EB-5 như nhiều công ty cung cấp dịch vụ môi giới “đầu tư-định cư” tự giới thiệu.

Bà Murphy lưu ý, thời gian duyệt xét hồ sơ xin visa EB-5 thường là phải năm năm. Mỗi năm, tổng số visa loại EB-5 không thể vượt quá mức 10,000 và với mỗi quốc gia, tổng số visa không thể vượt quá 7% số đơn.

Bởi thời gian chờ đợi trung bình lên tới năm năm nên số vụ kiện cáo vì bị lừa gạt hình như chưa có. Tuy nhiên theo ghi nhận của tờ Tuổi Trẻ thì ít nhất cũng có một trường họp là bà Lê Tấn Thị Việt Thanh, 45 tuổi, ngụ ở quận 6, Sài Gòn, Công Ty GSVN Lá Chắn và Màu Xanh Việt Nam, đòi hoàn lại số tiền mà công ty này đã nhận để giúp bà và gia đình đến định cư tại Canada (39,000 Mỹ kim và 8,400 CAD).

Hồi tháng 4 năm 2013, tòa án án Việt Nam đã buộc Công Ty GSVN Lá Chắn và Màu Xanh Việt Nam phải hoàn rả cho bà Thanh 974 triệu đồng. Tuy nhiên bản án không thể thi hành bởi công ty vừa kể “không có tài sản để thi hành án.”

Theo tờ Tuổi Trẻ thì Công Ty GSVN Lá Chắn và Màu Xanh Việt Nam nay đã đổi tên thành Công Ty Di Trú Quốc Tế IMG. Đại diện của IMG vừa “khoe” với phóng viên của tờ Tuổi Trẻ là nếu nhờ Đại Sứ Quán Hoa Kỳ giới thiệu công ty tư vấn định cư tại Mỹ thì chắc chắn họ sẽ giới thiệu đến IMG vì IMG rất có uy tín! (G.Đ)

Điều tra 25 tiệm nail tại Connecticut, phạt $100,000

Điều tra 25 tiệm nail tại Connecticut, phạt $100,000
Nguoi-viet.com

CONNECTICUT (NV) – Bộ Lao Động tiểu bang Connecticut cho biết sau một cuộc điều tra bất ngờ tại 25 tiệm nail trên khắp tiểu bang, có 23 tiệm đã bị ra lệnh đóng cửa. Tổng số tiền phạt lên đến $100,000.

Bộ lao động Connecticut điều tra các tiệm nail. (Hình: Chris McGrath/Getty Images)

Bộ Trưởng Bộ Lao Động  Sharon M. Palmer cho biết rằng kết quả cuộc điều tra cho thấy các chủ tiệm nail trong các thành phố  Branford, Darien, Hartford, New Haven, Southport, Stamford vàWestport đã trả nhân viên dưới mức lương tối thiểu là  $9.15/giờ  và số tiền phải hoàn lại cho nhân viên là $47,350.

Đợt thanh tra 25 tiệm nail không thông báo trước này của bộ lao động xảy ra vào ngày 3 Tháng Tám, là  kết quả của những  khiếu nại của nhân viên về tình trạng lương lậu bất hợp pháp và vấn đề vệ sinh dưới tiêu chuẩn của những tiệm nail trong vùng.

Theo Giám Đốc về Lương Bổng và Tiêu Chuẩn Công Sở Gary Pechie, các điều tra viên báo cáo rằng các nhân viên tại các tiệm nail này đã bị trả dưới mức tối thiểu đã được ấn định cho một giờ và không được trả tiền làm thêm ngoài giờ. Một số khác thì được trả bằng tiền mặt và không có sổ sách.

Thông cáo báo chí cũng cho biết sau khi nộp phạt, chỉnh sửa lại tiêu chuẩn vệ sinh và thanh toán sòng phẳng với nhân viên, 23 tiệm này đã được phép hoạt động lại.

Ông Pechie ghi nhận rằng sau cuộc điều tra và phạt vạ này, đã có thêm nhiều nhóm chủ tiệm nail đã tiếp xúc với bộ lao động. Điều này dẫn đến việc bộ lao động sẽ phải cung cấp thêm thông tin và tài liệu hướng dẫn về luật lệ tiểu bang về ngành nail.

Các chủ tiệm nail trong tiểu bang Connecticut, nếu có thắc mắc về luật lệ hiện hành về lương bổng, xin gọi số  860-263-6790 hoặc vào trang web www.ct.gov/dol .Nếu nhân viên cảm thấy mình không được trả lương đúng mức cũng có thể làm đơn khiếu nại tại trang web này. (ĐG)

“Bộ trưởng Giáo dục” tương lai, đừng sợ!

“Bộ trưởng Giáo dục” tương lai, đừng sợ!

Đoan Trang

Thảo Gạo: Buổi hội thảo hôm đó mình cũng có mặt, cùng nhóm bạn của mình. Bạn mình là người up clip đó lên mạng, clip thì do một người bạn khác làm, còn mình là người đầu tiên chia sẻ clip về facebook. Bọn mình, tuổi đời lần lượt 23, 24, 25, khi nghe những gì cậu bé đó chia sẻ đều phấn khích, bởi em nói thẳng, bởi em nói những điều mà chưa chắc ba bọn mình và nhiều người lớn ở đó đã dám nói trong một hội thảo có cả “rừng an ninh”.

Vì sự phấn khích đó mà bạn mình nhiệt tình up clip lên mạng, nhìn cái cách bạn ấy đếm số người xem, số like thật là buồn cười. Ai mà ngờ được một thằng bé 14 tuổi nói vài lời bức xúc lại khiến số đông phấn khích đến như vậy. Mấy ngày qua, tốc độ lan truyền của clip đó chóng mặt, số người quan tâm và nói về cậu bé đó cũng rất đông. Đúng là thời buổi này, công thức để nổi tiếng rất đa dạng và… khó đoán.

Quay trở lại ngày hôm đó, khi tan hội thảo, mình có tìm gặp cậu bé, cậu đi cùng mẹ. Cả hai mẹ con em đều rất lịch sự và hợp tác. Mình giới thiệu bản thân và xin em cách thức để liên lạc, mẹ em gợi ý là nên cho cả facebook, số điện thoại và địa chỉ email, nhưng em quyết định ghi cho mình mỗi địa chỉ email. Nhưng chắc có lẽ em viết nhầm chỗ nào đó mà những ngày qua, tất cả những email của tụi mình đều không được hồi đáp.

Do vậy, nếu ai đó là người thân, người quen của Minh thì mong rằng hãy gửi cho mình cách thức để liên lạc với Minh. Hoặc giả như những dòng chữ này được Minh đọc thì xin em hãy inbox cho chị.

Chị chỉ muốn nói rằng nếu phản ứng của “một bộ phận dư luận” vừa qua gây tác động tiêu cực đến em thì chị rất lấy làm xin lỗi. Và nếu em có đọc những gì người ta bình phẩm không hay về em thì mong rằng em đừng vội vàng tin đó là thật mà nghi ngờ bản thân mình. Em có nhớ bác Phạm Toàn nói gì không? “Nhiều người lớn cho rằng mình đúng hơn trẻ nhỏ, để tự cho mình cái quyền áp đặt lên chúng, dạy bảo chúng…”.

Cậu bé mà chị gặp hôm đó cho chị cái ấn tượng mạnh mẽ, không nhất định vì những gì em nói ra là đúng, là chân lý mà bởi vì sự nhiệt tình em tỏa ra, sự tự chủ em cho thấy. Chị thật lòng tin, dù em có trở thành bộ trưởng hoặc ông nọ bà kia hay không, thì em cũng sẽ trở thành một con người có giá trị – hơn rất nhiều những người đang cho mình cái quyền phán xét, dạy bảo mọi thứ ngoài kia.

Theo FB Thảo Gạo

Đôi khi, phản ứng của “một bộ phận dư luận” thật đáng ngạc nhiên.

Khi nhà báo Mỹ Thomas A. Bass viết một loạt bài dài về tình trạng kiểm duyệt ở Việt Nam (năm 2014), ông cứ hí hửng tưởng đâu các bài viết của mình sẽ gây một làn sóng dư luận về vấn nạn kiểm duyệt văn hóa, xuất bản tại đất nước này. Điều khiến ông bất ngờ là khi các bản dịch của loạt bài được công bố, quả thật đã có một làn sóng, nhưng nói chung đó là sự phẫn nộ dành cho một tên “nhà báo-chỉ điểm” đã không bảo vệ nguồn tin, đã lôi tuột hết danh tính các nạn nhân của kiểm duyệt lên truyền thông, khiến cho họ có nguy cơ gặp rầy rà, phiền nhiễu với chính quyền sau đó.

Ông nhà báo Mỹ kêu trời: “Nhưng tại sao tôi phải chịu trách nhiệm về những gì chính quyền Việt Nam làm? Họ mới là kẻ kiểm duyệt. Họ mới là kẻ sẽ xử lý người này, trừng phạt người kia vì đã tiết lộ thông tin về kiểm duyệt ở Việt Nam”.

* * *

Ngày 12/8 vừa qua, tại một hội thảo giới thiệu sách của nhóm Cánh Buồm ở Hà Nội, em Vũ Thạch Tường Minh, học sinh trường Hà Nội-Amsterdam, phát biểu: “… Con không có tính từ nào khác nên con phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì cả…. Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa, giáo dục Việt Nam cần được cách mạng. Đó mới là điều các vị trong Bộ Giáo dục nên làm. Còn nếu bây giờ các vị không làm thì đến khi nào con thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục con sẽ làm”.

Phát biểu của em Minh tạo nên không chỉ một mà nhiều làn sóng dư luận: Một bên hoan hỉ, khen ngợi cậu bé “hậu sinh khả úy”, tranh thủ đả kích thêm một nền giáo dục thối nát tới mức “thằng bé 14 tuổi nó cũng phải chửi”.

Một bên khác, đáng kinh ngạc thay, lại ném đá – nhưng không phải vào nền giáo dục nước nhà, vì chắc họ cũng thấy không thể tình trạng giáo dục Việt Nam hiện giờ là không thể đỡ nổi nữa.

Họ ném đá vào em Minh, vì cho rằng phát biểu như thế chỉ là thỏa mãn cái bức xúc cá nhân, tức thời, chứ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp.

Họ cũng ném đá em, vì họ khẳng định một thằng bé 14 tuổi thì không thể phát biểu như thế được. Từ đây họ gợi ý rằng hẳn đã phải có những kẻ xấu, những người lớn xấu xa, cơ hội, phản động, thù địch “gài” cho em Minh có những phát ngôn “lạ”, không đúng lứa tuổi của em.

* * *

Họ đã suy đoán và gợi ý như vậy, thì chúng ta cũng có thể suy đoán và gợi ý như sau:

Phần tiếp theo hội thảo này, sẽ có những người lớn đến gặp gia đình em Tường Minh và khuyên nhủ:

“Anh chị ạ, vừa rồi chắc anh chị cũng biết là trên mạng, người ta có phản ánh chuyện cháu Minh nhà mình đi dự một cái hội thảo giáo dục gì đấy của nhóm Cánh Buồm… Rồi ở đấy cháu nó có phát biểu mấy câu, được hoan nghênh lắm. Thật ra nội dung thì cũng không có gì đâu, nhưng khổ cái là nó lại bị đưa lên mạng anh chị à. Rồi thì mạng người ta làm dữ quá, thế là ầm ĩ cả lên, bây giờ cái video đó phải tới hơn 200.000 lượt người xem.

Chúng tôi thì cũng không dám có ý kiến gì đâu, nhưng mà anh chị cũng biết rồi đấy, bây giờ tình hình xã hội nó phức tạp lắm. Tệ nạn thì nhiều, game online, chat sex, lừa đảo trên mạng… xểnh ra một cái là có chuyện. Nhiều vị cứ thương con, chiều con, cho nó giao du, cho nó lên mạng, đi chơi, v.v. nhiều rồi tới ngày xảy ra chuyện xấu, công an đến nhà hỏi, mới ngớ người “Chúng tôi có biết đâu, thường ngày cháu nó ngoan lắm mà”.

Chuyện dạy con thì nhà ta đây là gia đình trí thức, có ăn học có hiểu biết cả, chúng tôi không dám can thiệp. Nhưng chỉ xin nhắc để anh chị lưu ý, anh chị bảo ban cháu Minh, là lần sau tránh những hội thảo kiểu như vậy, mà nếu có đi dự thì nên hạn chế phát biểu linh tinh… Ấy, ý chúng tôi là nên hạn chế phát biểu tiêu cực, dễ bị bọn xấu nó lợi dụng, nó tung lên mạng, rồi thiên hạ lại ầm ĩ lên, phức tạp lắm mà chả giải quyết được việc gì cả… Anh chị công nhận không ạ?”.

Những người lớn đó cũng có thể sẽ đến gặp Ban Giám hiệu trường Hà Nội-Amsterdam nữa, để nhắc nhở, lưu ý các thầy cô về một trường hợp học sinh “có thể nói là cá biệt, dễ bị bọn xấu lợi dụng”.

Và sau đó Ban Giám hiệu nhà trường sẽ phải có biện pháp phối hợp giữa gia đình và nhà trường để tăng cường quản lý học sinh, nhất là về tư tưởng, tránh để các em bị thế lực thù địch tác động, lôi kéo, lợi dụng…

“Bộ trưởng Giáo dục”” tương lai ơi, đừng sợ. Và các thầy cô, Ban Giám hiệu trường Hà Nội-Amsterdam (trường cũ của tác giả bài này) cũng đừng e ngại điều gì từ những “người lớn” đầy tinh thần cảnh giác kia, nếu họ xuất hiện.

Một đứa trẻ trung thực và thông minh lớn lên sẽ là một công dân tốt.

Em Vũ Thạch Tường Minh tại hội thảo giáo dục của nhóm Cánh Buồm, chiều tối 12/8/2015 tại Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Đình Hà

* * *

Những suy đoán và gợi ý trên chắc chắn là có cơ sở thực tế hơn nhiều so với suy đoán và gợi ý rằng em Tường Minh đã bị người lớn nào đó gài bài.

Còn chuyện một cậu bé 14 tuổi có thể phát ngôn như em Minh hay không, thì có một câu chuyện có thật thế này:

Tháng 11/1989, nhân một kỳ bầu cử Quốc hội nào đó, toàn bộ khối học sinh lớp 6-7-8 của một trường cấp II tại Hà Nội được huy động ra ngoài đường diễu hành. Các em phải đi bộ khoảng 2 km từ cổng trường, vòng vèo qua khu Chợ Giời, ra phố Huế, rồi quay lại trường; vừa đi vừa đánh trống và hô khẩu hiệu: “Toàn dân bầu cử”, “Bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân”…

Có một em học sinh lớp sáu, 11 tuổi, đã không hô mà còn cằn nhằn suốt buổi: “Bầu cử là gì? Trẻ con biết bầu cử là cái đếch gì mà các cô bắt bọn em đi thế này?”. Được cái em ấy không bị ai để ý. Bạn bè của em thì chỉ thấy được đi cùng nhau trên phố và gõ trống là vui rồi.

Em học sinh ấy còn viết thư gửi cô chủ nhiệm, có ghi một câu là “Em không thích tham gia các hoạt động phù phiếm, vô bổ”. Sau đó, em cũng quên bẵng lá thư ấy đi, cho đến một buổi họp phụ huynh cuối năm, cô chủ nhiệm mới gặp riêng mẹ em và khuyên nên chú ý đến trường hợp này. Cô nói: “Nó mới 11 tuổi, mà nó dùng từ lạ lắm chị ạ, nó bảo làm như thế là “phù phiếm, vô bổ”, nó không thích”. Cũng may, mẹ em chỉ kể lại chuyện đó cho em, và cả cô và mẹ đều không nhắc nhở gì em.

Nhưng đúng là em học sinh 11 tuổi đó đã dùng từ ấy thật, để nói về việc học sinh phải đi vận động bầu cử, cấp II thì phải làm “phụ trách Đội” cho cấp I, mùa hè thì không được nghỉ mà sáng nào cũng phải dậy từ 5h để ra tập thể dục tập thể cạnh bãi rác của khu phố…, và nhiều chuyện khác.

Em học sinh 11 tuổi ấy là người bây giờ ngồi viết những dòng này.

Đ.T.

Nguồn: http://www.phamdoantrang.com/2015/08/bo-truong-giao-duc-tuong-lai-ung-so.html

Suy nghĩ nhân kỷ niệm 50 năm Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài gòn (1965 – 2015)

Suy nghĩ nhân kỷ niệm 50 năm Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài gòn (1965 – 2015)

Bài ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

Mấy năm gần đây, tôi đã có dịp viết nhiều bài về các mặt sinh họat của chương trình phát triển cộng đồng này tại một quận ven đô Sài gòn hồi giữa thập niên 1960. Nay nhân kỷ niệm 50 năm ngày khởi sự Chương Trình Phát Triển Quận 8 vào trung tuần tháng Tám năm 1965, tôi xin ghi ra một số suy nghĩ đúc kết được gói ghém trong mấy mục ngắn gọn như sau đây:

1 – Vào năm 1965, quận 8 là một địa phương có nhiều khu nhà ổ chuột, có nơi nhà ở xen kẽ với những ngôi mộ vô thừa nhận. Dân Sài gòn thường biết đến các địa danh như Lò Heo, Trại Tế Bần, Sở Rác mà đều có chung một tên là Chánh Hưng. Vì tình hình mất an ninh ở nông thôn, nên bà con kéo về tá túc rất đông ở vùng ven biên đô thị tiếp giáp với các huyện Cần Đước, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An. Có thể nói quận 8 lúc đó là một khu vực kém phát triển nhất của thành phố Sài gòn (the most depressed area). Đó là lý do tại sao anh chị em chúng tôi đã quyết định đến nơi đây và khởi sự một chương trình cải tiến xã hội từ năm 1965.

Và qua năm 1966, thì chương trình lại nới rộng địa bàn họat động qua hai quận 6 và 7 lân cận – với tổng số dân trong 3 quận là khỏang 500,000 người.

2 – Tính chất căn bản của Chương trình này là sự hợp tác giữa chánh quyền nhà nước và giới thanh niên tự nguyện đến phục vụ bà con tại địa phương.  Hồi đó, lớp bạn trẻ chúng tôi đều ở vào lứa tuổi từ 20 tới 30 – có người còn là học sinh trung học, có người là sinh viên đại học và một số huynh trưởng đã tốt nghiệp đại học.

Thọat đầu, anh chị em đầu đàn họp lại chung với nhau để cùng sọan thảo ra được một bản Dự án lấy tên là “Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài gòn” (CTPT.Q8). Dự án này được đệ trình lên văn phòng cấp trên và được vị Thủ Tướng Chánh Phủ lúc đó là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ chấp thuận và giao cho Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chánh Sài gòn là hai cơ quan đứng ra bảo trợ và giám sát mọi họat động của Chương Trình.

Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì đây là một dự án của Xã hội Dân sự mà được chánh quyền nhà nước chấp thuận và theo dõi yểm trợ.

3 – Sau gần 6 năm họat động, chương trình đã đạt được nhiều thành quả tốt đẹp về nhiều mặt qua hàng trăm những dự án công tác lớn, nhỏ nhằm cải thiện môi trường sống nơi các xóm hẻm tối tăm lầy lội, chỉnh trang tái thiết gia cư – đặc biệt sau vụ tấn công hồi Tết Mậu Thân 1968 – mở mang giáo dục phổ thông, tổ chức những lớp dậy nghề, chăm sóc y tế v.v…

Mấu chốt của sự thành công này là do nơi các anh chị em cán bộ tự nguyện của chương trình đã gây được sự tin tưởng tín nhiệm và phấn khởi của số đông quần chúng nhân dân tại địa phương – để họ cùng hăng say tham gia “kẻ góp của, người góp công” vào vô vàn vô số những dự án cụ thể và thiết thực nhằm xây dựng cuộc sống mới tiện nghi thỏai mái cho tập thể cộng đồng sở tại.

Với phương thức hòa đồng vào trong môi trường quần chúng địa phương – qua lối sống “Tam Cùng” tức là Cùng Ăn, Cùng Ở, Cùng Làm với bà con tại chỗ – mà anh chị em cán bộ đã gây được mối thiện cảm của người dân – để rồi từ đó mà tiếp tục nhận lãnh thêm được những sáng kiến tích cực trong việc cải tiến dân sinh sao cho thật phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương xóm ngõ.

4 – Về mặt nhân sự tham gia chương trình, thì vì tính chất hòan tòan tự nguyện, nên các thành viên tham gia công tác tùy theo hòan cảnh thuận tiện cho cá nhân từng người một. Do đó, mà có người chỉ nhập cuộc với chương trình trong thời gian ngắn một vài tháng, có người thì tham gia lâu dài hơn và có người thì sinh họat bền bỉ với chương trình trong suốt 6 năm ròng rã. Đó là thành phần cán bộ tự nguyện cơ hữu của chương trình.

Còn thành phần các thân hữu do các đòan thể, tổ chức bạn gửi đến tham gia trong từng công tác ngắn hạn một vài ngày, thì rất đông đảo – có thể lên đến con số cả ngàn người trong 6 năm họat động của chương trình.

Nhưng thành phần chủ chốt vẫn là đại bộ phận đông đảo hàng ngàn, hàng vạn đồng bào địa phương – vì chính khối quần chúng này mới là chủ thể của mọi dự án công tác được gọi là “Phát Triển Cộng Đồng”. Đó là hàng nhiều trăm những dự án công tác mà do sáng kiến và nỗ lực của tòan thể dân chúng nơi cộng đồng sở tại góp phần vào việc cải thiện cuộc sống của mỗi thành viên trong chính cộng đồng đó vậy.

5 – Về mặt yểm trợ vật chất cũng như tinh thần, thì có thể liệt kê như sau:

A – Từ phía chánh quyền nhà nước.

Ngòai việc biệt phái một số nhỏ nhân viên công chức cho chương trình, thì chánh quyền còn cấp phát hai đợt ngân khỏan, tổng cộng là 30 triệu đồng. Cấp lãnh đạo là vị Bộ Trưởng Thanh Niên và nhất là vị Đô Trưởng Sài gòn đã luôn luôn khích lệ và yểm trợ tinh thần cho các anh chị em cán bộ tự nguyện chúng tôi.

B – Từ phía cơ quan Viện Trợ Mỹ USAID.

Qua sự giới thiệu của chánh quyền, cơ quan USAID đã cung cấp khá dồi dào cho chương trình phát triển chúng tôi các vật liệu xây dựng cơ bản như ciment, sắt và tôle. Nhờ vậy, mà chương trình mới có thể thực hiện được nhiều công trình xây dựng và tái thiết lên đến nhiều ngàn đơn vị gia cư, hai trường trung học và hàng trăm dự án chỉnh trang xóm ngõ v.v… trong cả ba quận 6,7 và 8 Sài gòn. Ngòai ra USAID còn trích ngân khỏan 10 triệu đồng vào giai đọan chót của chương trình trong các năm 1970 -71.

C – Từ phía các cơ quan từ thiện nhân đạo quốc tế.

Chương trình còn nhận được sự yểm trợ lin tinh về dụng cụ thiết bị đặc biệt cho các lớp dậy nghề như máy may, máy thêu đan, máy đánh chữ, dụng cụ sửa radio, TV v.v… từ nhiều cơ quan tư nhân quốc tế – điển hình như CARE, Catholic Relief Service, Vietnam Christian Service, Asian Christian Service, Adenauer Foundation, OXFAM, IVS v.v…

6 – Để tóm kết lại.

Kể từ ngày khởi sự CTPT Q8 vào năm 1965 đến nay là năm 2015, thì đã có biết bao nhiêu anh chị em trong số hàng trăm thiện nguyện viên – cũng như biết bao nhiêu thân hào nhân sĩ, các vị tôn trưởng cùng rất đông đồng bào địa phương trong cả 3 quận 6,7 và 8 đã rũ áo ra đi về miền miên viễn. Số người quá vãng quá nhiều, tôi không thể nào liệt kê ra đây cho hết được.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm này (1965 – 2015), tôi xin ghi lời thương tiếc chân thành đến tất cả quý vị cùng quý anh chị. Và xin cầu chúc quý vị cùng anh chị luôn được thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng.

Và tôi cũng xin gửi lời tri ân nồng thắm đến tất cả các ân nhân và cơ quan nhân đạo đã tận tình hỗ trợ cho chương trình phát triển chúng tôi trong thời gian chiến tranh vẫn còn tàn phá khốc liệt vào những năm xa xưa đó.

Và cuối cùng, tôi cũng cầu mong cho thế hệ hậu duệ của quý vị tôn trưởng, thân hào nhân sĩ ở địa phương cũng như của các anh chị em thiện nguyện viên sẽ giữ mãi được cái ngọn lửa thiêng liêng của lòng nhân ái nơi cha bác của mình – để mà tiếp tục công cuộc phục vụ nhân quần xã hội trong hòan cảnh hiện tại trên quê hương đất nước thân yêu ngàn đời của mình vậy.

Westminster California, Ngày 15 Tháng 8 Năm 2015

Đoàn Thanh Liêm

 

Vấn đề an toàn điện ở VN

Vấn đề an toàn điện ở VN

Nhóm phóng viên tường trình từ VN

Vấn đề an toàn điện ở VNPhần âm thanh Tải xuống âm thanh

800.jpg

Dây điện chằng chịt ở Saigon

RFA photo

Có thể nói rằng điện là thứ năng lượng vô cùng quan trọng đối với con người trong hiện tại. Mọi hoạt động, sinh hoạt của con người đều cần sự hỗ trợ của điện và điện đóng vai trò khởi động cổ máy xã hội mỗi ngày. Nhưng, với Việt Nam, đặc biệt là với người dân Sài Gòn, từ dây điện cho đến cách tính tiền điện và bắc đồng hồ điện, cầu dao tổng ngoài trụ chẳng khác nào cái bẫy lửa đối với mọi nhà. Người dân Sài Gòn luôn sống trong nỗi lo thấp thỏm về cháy nổ do điện gây ra.

Coi đồng tiền lớn hơn mạng người

Một cư dân tên Lạc ở quận Tân Bình, Sài Gòn, bày tỏ bức xúc: “Sợ nhất là mấy trụ điện cao thế, mấy hộp điện đó. Ở trên trời khi mưa gió thì có thể có những tai nạn từ trên trời rơi xuống, có thể là dây nó rơi trúng người mình chẳng hạn. Ở dưới đất thì có những đường cống, nhiều khi họ làm rồi họ mở nắp cống, trời mưa, nhiều người bước chân ra rồi rơi xuống cống luôn, bao nhiêu trường hợp vậy rồi. Ở Việt Nam thì ngay cả thợ điện cũng không biết an toàn điện luôn, nhiều khi họ trèo lên, không có mũ bảo hộ, không có bảo hộ, cứ vậy trèo à. Ở những thành phố lớn đông dân như Sài Gòn thì nó tùm lum à. Đó là lỗi hệ thống rồi, giờ muốn chỉnh thì phải chỉnh lại từ gốc luôn, chứ cắt đầu này ráp đầu kia thì cũng y chang vậy à.”

Theo ông Lạc, vấn đề dây điện đan chằng chịt khắp thành phố có thể nói đã trở nên phổ dụng và không có gì đáng ngạc nhiên. Mà cũng không riêng gì Sài Gòn mới có, hầu như mọi thành phố, mọi ngõ quê đều có thể bắt gặp hình ảnh dây điện chằng chịt, điều này giống như một biểu tượng của ngành điện lực Việt Nam, nơi nào có dây chằng chịt, nhằng nhịt, nơi đó có điện lực Việt Nam.

Nhưng thành phố Sài Gòn vẫn cho cảm giác đặc biệt hơn, một thứ cảm giác vừa bất an vừa rất thú vị mà chỉ có những ai thần kinh đủ mạnh hoặc vượt quá ngưỡng bình thường như say rượu, tâm thần và cảm giác bị chai lì mới có thể bắt gặp được trạng thái này. Ông lạc nói rằng đôi lần ông say rượu và nhìn thấy Sài Gòn là một thành phố lãng mạn chim lồng cá chậu, mỗi người dân trở thành một con chim nhỏ bay tung tăng dưới chiếc lồng bằng dây điện và mỗi sợi dây điện trở thành một sợi dây lưới che chở cuộc đời người dân Sài Gòn.

“ Thì nó chằng chịt sẵn rồi, chuyện lớn khủng khiếp mà không lo, lo cái mớ dây điện chằng chịt làm chi. Một cái mớ dây điện còn chẳng chịt trong trí tuệ con người mà không giải quyết được.
– Ông Minh, Sài Gòn “

Đó là cảm giác khi say rượu, lúc tỉnh táo, ông Lạc nói rằng mỗi sáng bước ra đường, nếu chỉ nhìn từng đoàn xe máy, xe hơi ngược xuôi không thôi thì còn đỡ. Nếu ngồi lại chỗ nào đó, nhìn ngang thì xe cộ vù vù, nhìn lên thì dây điện như mạng nhện, cảm giác ngột ngạt và xa lạ kéo đến, nếu thần kinh không đủ mạnh sẽ dẫn đến stress. Và Sài Gòn, nếu tính ra cho một đời người, những thứ lặp đi lặp lại trong một ngày kiếm cơm sẽ là kẹt xe, nhìn thấy dây điện đan lưới và ngập nước vào mùa mưa.

Đáng sợ nhất là thành phố này có lưu lượng xe cộ, người đi lại quá đông đúc, trong khi đó, nạn kẹt xe và ngập nước là thường xuyên mà dây điện lại quá chằng chịt, thật là đáng sợ. Chỉ cần một cú chập điện, hở điện đâu đó vào mùa mưa thì khó mà lường được hậu quả của nó. Vào mùa nắng thì nếu có sự cố về điện, sẽ dẫn đến cháy nổ.

Trong khi đó, những hộp đồng hồ điện và cầu dao tổng lại gắn ngoài trụ điện, gắn khá cao, gọi là để chống trộm hoặc tránh tình trạng khách hàng gian lận tiền điện. Nhưng trong tình trạng có chập mạch, hở dây, người dân muốn ngắt cầu dao điện thì vô cùng khó, phải gọi đến những thợ điện khu vực, có khi vài giờ đồng hồ sau họ mới có mặt. Không có nhân viên nhà đèn thường trực cũng như không có đường dây nóng cho việc này. Mà nếu có số điện thoại nóng thì khi xảy ra sự cố, gọi điện thứ bảy, thứ hai số điện thoại nóng mới trả lời và có khi chủ nhật tuần sau mới có người đến xử lý. Đợi người đến xử lý thì mọi thứ đã thành tro.

Ông Lạc bức xúc kết luận rằng nhà nước quá coi thường mạng dân, vì ngành điện lực do nhà nước quản lý, nếu nhà nước không coi thường mạng dân thì phải thiết kế làm sao để người dân dễ bề xử lý nhất khi có sự cố. Đằng này chỉ vì sợi người dân ăn gian tiền điện, chỉnh gian đồng hồ hay mà tập trung toàn bộ đồng hồ và cầu dao tổng ngoài trụ, mỗi khi có sự cố, người dân rơi vào thế bị động. Những vụ hỏa hạn do điện gây ra ở Sài Gòn trong nhiều năm trở lại đây là một bằng chứng đau đớn cho việc coi đồng lãi hằng tháng cao hơn sinh mạng người dân.

Và việc này là do nhà nước. Nếu nhà nước không coi thường mạng dân thì ngành điện sẽ không bao giờ lộm thuộm, tệ hại như hiện nay.

Mối nguy đầu mùa mưa

Một người dân Sài Gòn khác tên Minh, tỏ ra lo lắng:“Thì nó chằng chịt sẵn rồi, chuyện lớn khủng khiếp mà không lo, lo cái mớ dây điện chằng chịt làm chi. Một cái mớ dây điện còn chẳng chịt trong trí tuệ con người mà không giải quyết được.”

400.jpg

Cầu dao tổng gắn trên cột điện. RFA photo

Theo ông Minh, tình trạng dây điện chằng chịt ở Sài Gòn là tình trạng không thể cứu vãng được nữa. Vì cách tổ chức và bố trí điện hết sức manh mún, trong đó tham nhũng, móc ruột quá nhiều nên chất lượng dây điện thấp, tải lực cũng thấp, chính vì vậy mỗi khi có một hộ kinh doanh mới thì nhà đèn buộc phải kéo một đường dây mới đi kèm với đường dây cũ. Cứ như vậy, dây mới và dây cũ đi với nhau, kết thành chùm dưới những tán cây, nếu có sự cố điện va chập thì những cành cây sẽ trở thành mồi lửa, những búi dây nhanh chóng thành bó đuốc thần tốc mang lửa đền nhà dân.

Và một khi dây điện đã chằng chịt đến độ thành mạng lưới bao phủ khắp thành phố, vấn đề an toàn điện sẽ trả về số không. Hiện tại, mạng lưới dây điện cũng như cách bố trí dây điện, cầu dao điện trên cao hoặc dưới lòng đất tại thành phố Sài Gòn sẽ trở thành cái bẫy giết chết hàng ngàn người trong phút chốc khi mùa mưa tới.

“Ở Việt Nam thì ngay cả thợ điện cũng không biết an toàn điện luôn, nhiều khi họ trèo lên, không có mũ bảo hộ, không có bảo hộ, cứ vậy trèo à.
– Ông Lạc, Sài Gòn”

Ông Minh lắc đầu nói rằng cũng may Sài Gòn là thành phố ít bị bão, chỉ có mưa và ngập lụt. Nhưng cả mưa và ngập lụt sẽ trở nên nguy hiểm vô cùng khi có một đường dây điện nào đó hở mối hoặc hỏng vỏ. Lúc đó, cả con đường ngập nước sẽ thành một dòng sông điện chôn sống đoàn người mắc kẹt trong đó.

Vả lại, người ta phân bổ dây điện đi luồn dưới cây xanh là chuyện hết sức ngô nghê, khôi hài mà có lẽ chỉ có Việt Nam mới có. Hơn nữa Việt Nam là nước có nhiều thiên tai, gió bão, không hiểu sao ngành điện lại tư duy ra được một kiểu bố trí dây điện nằm lẫn trong cây xanh. Trong khi đó, để tránh được tình trạng này thì không cần phải học cho cao, chỉ cần một người xóa mù chữ cũng có thể vẽ được bản thiết kế tránh dây điện móc vào cây xanh.

Với mức nguy hiểm và bất an như hiện tại, cộng thêm giá tiền điện mỗi ngày một tăng nhanh đến độ ngộp thở. Người dân chỉ còn mong vào một ngày nào đó ngành điện không còn độc quyền nhà nước. Và tư nhân sẽ đứng ra kinh doanh điện, cạnh tranh lành mạnh. Chỉ có như vậy người dân mới có thể yên tâm mà sống. Ông Minh đưa ra kết luận này trước khi kết thúc câu chuyện về điện.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

Chương trình Phát triển Quận 6, 7, 8 Saigon đã chấm dứt như thế nào?

Chương trình Phát triển Quận 6, 7, 8 Saigon đã chấm dứt như thế nào?

Bài viết nhân kỷ niệm năm thứ 46 kể từ ngày thành lập

(1965 – 2011)

Đòan Thanh Liêm

Trong mấy năm gần đây, tôi đã viết nhiều bài về họat động của các bạn thanh niên sinh viên trong khuôn khổ sinh họat của chương trình phát triển cộng đồng tại các quận 6,7 và 8 Saigon vào hồi cuối thập niên 1960. Bài mới nhất viết hồi tháng Tám năm 2010 có nhan đề là : “Làm Men trong Bột”. Và kỹ sư Võ Long Triều, trong cuốn 1 Bộ Hồi ký của ông phổ biến trong năm 2010, cũng đã viết nhiều về chương trình này rồi.

Nhưng vì có một số bạn đọc thắc mắc muốn biết thêm chi tiết về giai đọan kết thúc của chương trình này, nên tôi thấy cần phải trình bày thêm về giai đọan cuối của chương trình, mà chưa được đề cập với chi tiết khả dĩ trong các tài liệu đã được phổ biến trước đây. Để giúp những bạn đọc chưa có dịp đọc các bài viết đó, tôi xin ghi vắn tắt lại những nét chính yếu của chương trình này, trước khi viết về giai đọan kết thúc của nó vào năm 1971.

I – Đại cương về sinh họat của chương trình phát triển cộng đồng tại các quận 6,7,8 Saigon khởi sự từ tháng 8 năm 1965.

Vào hồi tháng 6/1965, một số bạn trẻ chúng tôi cỡ tuổi 25 -30 họp bàn với nhau để thành lập một chương trình họat động tại quân 8 Saigon. Anh em sọan thảo một tài liệu về dự án phát triển tại địa phương quận này, và đem đệ trình nơi văn phòng của vị Thủ tướng Chánh phủ lúc đó do Tướng Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu với danh xưng là “Chủ tịch Ủy Ban Hành phápTrung ương”.

Tướng Kỳ chấp thuận dự án này, và quyết định như sau :

A – Bổ nhiệm hai sĩ quan biệt phái là các Anh Hồ ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh làm Quận trưởng và Phụ tá Quận trưởng Quận 8 Saigon.

B –  Đặt Chương trình Phát triển Quận 8 dưới sự bảo trợ của Bộ Thanh niên và Tòa Đô chánh Saigon. Lúc đó Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng là Ủy viên Thanh niên điều khiển Bộ Thanh niên, và Bác sĩ Văn Văn Của là Đô trưởng Saigon

C –  Cấp ngân khỏan 10,000,000 VN$ (10 triệu) trích từ Ngân sách quốc gia để làm quỹ hoạt động của chương trình.

Như vậy là chỉ có hai người trong Nhóm chúng tôi giữ nhiệm vụ về hành chánh của Nhà nước, còn tất cả đều là các thiện nguyện viên. Nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì đây là một sự hợp tác của Xã hội Dân sự với chánh quyền Nhà nước ở tại địa phương Quận 8 Saigon. Vì thế Ban Quản lý Chương trình có được sự độc lập tự trị, mà không bị ràng buộc chi phối theo quy chế của một cơ sở hành chánh thông thường. Bác sĩ Hồ Văn Minh và tôi Đòan Thanh Liêm giữ nhiệm vụ làm Quản lý và Phụ tá Quản lý của chương trình này.

Thế là vào trung tuần tháng 8, anh chị em chúng tôi khởi sự “ra quân” tại 5 Phường thuộc Quận 8 nằm bên kia cầu chữ Y, cầu Chà Và, cầu Nhị Thiên Đường, dọc theo mấy con kinh Tàu Hủ, Ụ Cây, kinh Đôi phiá nam của Chợ Lớn.

Công tác chính yếu của Chương trình là vận động quần chúng các khóm hẻm tham gia vào các dự án cải tiến dân sinh, cụ thể như khai thông ngập lụt, sửa đường trong các ngõ hẻm, tu sửa nhà vệ sinh công cộng, đặc biệt là chỉnh trang nhà cửa ở các khu ổ chuột, mở thêm các lớp học, các lớp dậy nghề, chăm sóc y tế v.v…Vai trò của các thiện nguyện viên là làm chất men, chất xúc tác nhằm khơi động quần chúng ý thức rõ ràng về các nhu cầu thiết thực của cộng đồng lối xóm (felt needs) và rồi cùng nhau góp công sức và vật liệu vào các công trình cải thiện môi trường tại địa phương, cũng như phát triển về giáo dục, về y tế, về sinh họat tương thân tương trợ lẫn nhau trong các thành viên của cộng đồng địa phương.

Qua năm 1966, chương trình lại mở rộng địa bàn họat động thêm nữa sang các quận 6 và 7, nâng tổng số dân mà chương trình nhằm phục vụ trong cả 3 quận lên đến gần 500,000 người. Chương trình lại được cấp thêm ngân khỏan 20 triệu đồng cũng trích từ Ngân sách quốc gia. Về vật liệu xây dựng như sắt, ciment và tôle, thì chúng tôi được cơ quan USAID cung ứng cho khá đày đủ theo nhu cầu của các dự án tái thiết và phát triển cộng đồng.

Còn các dụng cụ trang bị cho lớp dậy nghề như máy may, máy đan, máy đánh chữ, máy động cơ v.v…, thì chúng tôi đi xin nơi các cơ quan xã hội quốc tế có trụ sở ở Saigon.

Tính ra trong 6 năm họat động (1965 – 1971), chương trình đã cùng với đồng bào địa phương thực hiện được rất nhiều công tác cải tiến dân sinh, điển hình như sửa sang cả trăm ngõ hẻm lầy lội, tái thiết đến 8,000 đơn vị gia cư trong 20 khu vực bị tàn phá trong các cuộc tấn công năm Mậu Thân 1968… Đặc biệt là thành lập được 2 trường Trung học Cộng đồng tại quận 6 và 8, mà vào niên khóa 1974 -75, tổng số học sinh trong 2 trường này đã lên đến 3,000 em.

II – Chương trình được lệnh phải đóng cửa vào tháng 4 năm 1971.

Như đã trình bày ở trên, đây là một chương trình họat động xã hội, chủ yếu là để phục vụ tầng lớp đồng bào thiếu may mắn tại khu vực ven đô, mà phần đông là dân tỵ nạn từ các vùng mất an ninh ở miền quê phải đổ xô về thành phố. Chương trình không hề chịu ảnh hưởng của một nhóm chính trị hay tôn giáo nào, mà chỉ do các bạn trẻ cỡ tuổi 20-30 cùng hợp lại với nhau trong những công tác cụ thể, thiết thực sát cánh với bà con ở địa phương. Đặc biệt là kể từ cuối năm 1968 trở đi, thì anh chị em rất bận rộn với công việc chỉnh trang tái thiết tại 20 khu vực bị tàn phá nặng nề nhất trong cả 3 quận, với tổng số nhà phải xây cất lại lên đến 8,000 đơn vị.

Thế nhưng, do có sự mâu thuẫn căng thẳng giữa hai vị lãnh đạo quốc gia là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, mà chương trình chúng tôi nhận được lệnh của phía Tướng Thiệu là phải chấm dứt họat động kể từ tháng 4 năm 1971.

Nguyên do dẫn đến việc này là vào tháng 9 năm 1971 đó, sẽ có cuộc bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống, mà cả hai Tướng Thiệu và Kỳ đều tranh đua với nhau để mỗi bên đứng ra lập một liên danh riêng biệt. Và cả hai phía đều ráo riết tổ chức việc vận động để dành phần thắng cử về cho mình, nên đã sử dụng mọi đòn phép chính trị mua chuộc sự ủng hộ khắp nơi, chỗ này chỗ nọ.

Vì như đã ghi ở trên, chương trình phát triển này lúc khởi sự vào năm 1965 là do Tướng Kỳ với thẩm quyền là Thủ tướng đã chấp thuận cho chúng tôi họat động và còn cấp ngân khỏan điều hành nữa. Nên phía Tướng Thiệu lúc đó lại có thành kiến cứ coi chương trình này là của riêng Tướng Kỳ, hay cũng ngả về phe phái của Tướng Kỳ, và từ đó mà đưa đến việc ra lệnh cho chương trình phải chấm dứt họat động. Thời đó, Tổng thống Thiệu đã nắm hết quyền hành trong tay mình, và Phó Tổng thống Kỳ chỉ còn giữ tính cách tượng trưng về nghi lễ, không có thực quyền như lúc giữ vai trò của một vị Thủ tướng như thời kỳ 1965 – 67 nữa.

Trước chỉ thị của chánh quyền như vậy, Ban Điều hành của chương trình phát triển chúng tôi đâu có thể làm gì khác, ngòai việc phải tuân theo mà thôi. Cơ quan chính quyền trước đây cho phép họat động, bây giờ rút lại cái giấy phép đó, thì đó là thuộc phạm vi quyền hạn của nhà nước, mình chỉ là một nhóm thiện nguyện viên tư nhân thì làm sao mà cưỡng lại được?

III –  Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa Lễ Bế mạc Chương trình Phát triển.

Và, theo đúng chỉ thị của cấp trên, anh chị em chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ khá long trọng vào thượng tuần tháng 4 năm 1971, với số tham dự gồm đông đủ các thân hào nhân sĩ địa phương cả 3 quận và rất nhiều giới chức quan khách – để tuyên bố kết thúc sự họat động của chương trình phát triển mà đã khởi sự từ năm 1965. Chúng tôi mời Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đến chủ tỏa Lễ Bế mạc này, vì dầu sao lúc đó Ông cũng là nhân vật lãnh đạo đứng hàng thứ hai của quốc gia, chỉ đứng sau vị Tổng thống mà thôi. Lại nữa vào năm 1965, chính Tướng Kỳ với cương vị là Thủ tướng chánh phủ đã cho phép chương trình họat động, nay đến lúc kết thúc, thì cũng nên mời Phó Tổng thống đến tham dự và chủ tọa buổi lễ, đó là điều cũng hợp lý, phải đạo và sòng phẳng vậy thôi. Lúc đó thì có một người bạn phê một câu bằng tiếng Pháp rằng : “Commencé par Kỳ, terminé aussi par Kỳ “ (Khởi sự bởi Kỳ, thì cũng kết thúc bởi Kỳ).

Sau buổi lễ này, chương trình trao lại các cơ sở, xe cộ, vật dụng và hồ sơ giấy tờ cho Tòa Đô chính Saigon Và chúng tôi chia tay nhau một cách êm thắm nhẹ nhàng, người nào cũng còn giữ lại được những kỷ niệm đẹp đẽ trong suốt nhiều năm tháng sát cánh bên nhau trong bao nhiêu công tác phát triển cộng đồng cùng hợp chung với bà con trong các khu xóm trong cả 3 quận. Ai nấy, mỗi người trở về lại với nghề nghiệp và cương vị riêng của mình.

Có điều đáng ghi nhớ là cho đến nay, sau 40 năm chia tay nhau, anh chị em chúng tôi vẫn tiếp tục còn gắn bó mật thiết với nhau trong tinh thần anh chị em ruột thịt một nhà, vì tất cả đều cùng theo đuổi một lý tưởng nhân ái là phục vụ đồng bào, nhất là các nạn nhân chiến cuộc hồi đó.

Hai trường Trung học ở quận 6 và 8 thì vẫn tiếp tục họat động bình thường, không hề bị ảnh hưởng của việc đóng cửa chương trình này. Lại nữa, trong hàng ngũ chúng tôi, thì có 2 người được bầu làm Dân biểu Hạ Nghị Viện, đó là các anh Hồ Văn Minh và Hồ Ngọc Nhuận. Và 3 người được bầu làm Nghị viên Hội đồng Đô thành Saigon, đó là các anh Mai Như Mạnh, Dương Văn Long và Lê Xuân Tảng. Hai người được bầu vào làm Ủy viên Hội đồng Văn hóa Giáo dục, đó là các Hiệu trưởng Võ Văn Bé và Uông Đại Bằng.

Và quan trọng nhất là hàng ngàn các cựu học sinh xuất thân từ 2 trường Trung học quận 6 và quận 8, nay đã vào lớp tuổi 50 – 57, thì các em vẫn nối tiếp cái tinh thần hy sinh phục vụ xã hội tại địa phương trong tầm tay với của mình. Đó là niềm hy vọng và an ủi cho tất cả anh chị em chúng tôi vậy.

Nhân dịp này, tôi cũng xin được bày tỏ lòng thương tiếc đến với các bạn đã ra đi, điển hình như các anh Trần Kim Hoa, Nguyễn Trọng Khánh, Lương Bá Cậy, Nguyễn Văn Bọt, Nguyễn Ngọc Phan, Đặng Kỳ Trân, Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu An… Các bạn này đã cùng sát cánh với anh chị em chúng tôi trong suốt thời gian công tác tại các địa phương quận 6,7 và 8 Saigon giữa thời kỳ chiến tranh khói lửa kinh hòang thuở ấy.  Xin cầu chúc các bạn luôn thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng. R.I.P./

California, Trung tuần tháng Tám năm 2011

Đòan Thanh Liêm