El portátil en casa. Vodafone
httpv://www.youtube.com/watch?v=jbV5dGvJWyo&feature=channel
Tin Cộng Đồng Việt Nam ở Mỹ và ở Việt Nam
httpv://www.youtube.com/watch?v=jbV5dGvJWyo&feature=channel
LÊN ĐƯỜNG KHAI PHÓNG!
Bài phát biểu của ông Nguyên Ngọc
tại lể khai giảng Trường Đại học Phan Châu Trinh
Hôm nay, mồng 9 tháng 9 năm 2015, kỷ niệm ngày sinh của nhà chí sĩ, nhà văn hóa và nhà giáo dục kiệt xuất Phan Châu Trinh, cũng là ngày truyền thống của trường ta, trường Đại Học Phan Châu Trinh làm lễ Khai giảng khóa K 15, khóa học 2015-2019.
Thay mặt lãnh đạo nhà trường, tôi xin chào mừng và chân thành cám ơn các vị đại biểu đã đến chia vui cùng thầy trò chúng tôi. Xin chào mừng tất cả các thầy cô, các cán bộ nhân viên, các sinh viên và cựu sinh viên của trường. Và đương nhiên, lời chào nồng nhiệt nhất hôm nay của tất cả chúng ta là dành cho các tân sinh viên, chào mừng các em nữ và nam từ khắp nơi, có em từ tận Thái Bình cuối Đồng bằng sông Hồng, có em từ tận Thành phố Hồ Chí Minh xa xôi, đã đến với không gian Phan Châu Trinh thân yêu của chúng ta. Tôi xin phép, và tôi tin chắc tất cả quý vị đều đồng ý cho phép tôi hôm nay dành diễn từ khai giảng này để chủ yếu nói với các tân sinh viên, những thành viên mới mẻ và trẻ trung của gia đình Phan Châu Trinh.
Như các em đều biết, trường của chúng ta có tên là trường Đại học Phan Châu Trinh. Và tôi xin nói: Những người sáng lập ngôi trường này đã chọn cái tên ấy với tất cả tâm huyết và với một ý tứ sâu xa. Bởi vì đấy là tên của một con người rất đặc biệt, cũng có thể nói rất kỳ lạ, hết sức độc đáo và là người sáng suốt nhất trong lịch sử cận đại và hiện đại của nước ta. Sự sáng suốt của ông còn soi đường cho chúng ta đến tận ngày nay.
Phan Châu Trinh sinh ra khi đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ tối tăm và thảm khốc. Và khi ông bước vào đời, nghĩa là đến tuổi như tuổi các em hôm nay, thì tất cả các cuộc nổi dậy cứu nước của tất cả những người anh hùng dũng cảm và tài năng nhất để chống ngoại xâm giải phóng dân tộc bấy giờ đều thất bại đau đớn. Cha của Phan Châu Trinh là một vị tướng anh hùng đã chết trong một cuộc khởi nghĩa anh hùng, tuyệt vọng và thất bại cay đắng như thế … Trước tình hình bức thiết đó, nảy sinh câu hỏi nóng bỏng: Vì sao? Và làm thế nào? Tất cả bấy giờ đều chỉ có một câu trả lời: Phải anh hùng hơn nữa! Dám hy sinh nhiều hơn nữa ! Tất cả. Trừ một người. Người đó là Phan Châu Trinh. Ông nói: Không, không phải như vậy, không thể đi con đường ấy nữa. Ông là người duy nhất đi tìm và đã tìm thấy nguyên nhân mất nước, dân tộc bị đày đọa vào vòng nô lệ thảm khốc, không phải trong sự thiếu anh hùng của nhân dân, mà là ở trong văn hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về văn hóa của đất nước, so với thế giới, một thế giới đã đổi khác về căn bản – ngày nay ta gọi là thế giới toàn cầu hóa – mà ông cũng là người duy nhất hồi bấy giờ nhận ra. Ông nói chính sự tăm tối và ngu dốt, sự lạc hậu quá xa so với thế giới hiện đại là nguyên nhân khiến Việt Nam mất nước. Ông khẳng định căn bệnh chết người của dân tộc là căn bệnh về văn hóa, ngu dốt và lạc hậu về văn hóa. Và để chữa trị một căn bệnh về văn hóa thì chỉ có một phương thuốc duy nhất, đó là Giáo dục. Phan Châu Trinh chủ trương một cuộc cải cách giáo dục căn bản, hiện đại, triệt để, toàn diện, rộng lớn, đưa Việt Nam thành một nước văn minh, tiên tiến, cùng nhân loại năm châu. Có như vậy thì nền độc lập đươc dành lại dù bằng cách nào mới là độc lập thật sự, độc lập mới bền vững, nhân dân mới thật sự có hạnh phúc …
Tiếc thay, những điều kiện éo le của lịch sử đã khiến cho chương trình vĩ đại của Phan Châu Trinh bị dở dang. Lịch sử đã đi theo con đường khác. Độc lập và thống nhất đã được dành lại. Nhưng, tôi nghĩ hôm nay chúng ta cần dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau, chúng tôi có trách nhiệm thẳng thắn nói với các bạn trẻ sự thật này: nay chúng ta đã có độc lập rồi, nhưng căn bệnh chết người Phan Châu Trinh đã thấy và thống thiết muốn chạy chữa cho dân tộc hơn một trăm năm trước thì về cơ bản vẫn còn nguyên đấy. Vẫn là nguy hiểm chết người. Việt Nam vẫn là nước lạc hậu, đứng ở hàng cuối không chỉ của thế giới, mà ngay của khu vực, của châu Á và Đông Nam Á. Chúng ta phải dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau sự thật ấy. Chính vì vậy mà ngôi trường này mang tên là trường Phan Châu Trinh. Ngôi trường này được thành lập, tất cả chúng ta có mặt ở đây, các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên của trường, và các em sinh viên trẻ trung, quan trọng và chủ yếu nhất là các em, chúng ta có mặt ở đây là để góp phần, dù là nhỏ nhoi, tiếp tục chương trình sống còn do nhà giáo dục vĩ đại Phan Châu Trinh khởi xướng và còn bị dở dang. Trường của chúng ta nhỏ, còn non trẻ và nghèo, sức của mỗi chúng ta hạn chế, nhưng chúng ta có một lý tưởng lớn, chúng ta, người dạy, người học, chúng ta biết chúng ta tham gia vào một chương trình to lớn và có ý nghĩa sinh tử đối với đất nước này, hôm nay và ngày mai.
Thưa quý vị,
Các em thân yêu,
Ở trên tôi có gọi Phan Châu Trinh là một nhà giáo dục lớn, có lẽ điều ấy hơi lạ, xưa nay người ta thường vẫn coi và vẫn gọi ông là một chí sĩ yêu nước, hoặc có nhiều hơn nữa, là một nhà văn hóa. Song như ta vừa thấy, một trong những đặc sắc nhất của Phan Châu Trinh là ở chỗ ông đồng nhất giáo dục với giải phóng, theo ông chỉ có giáo dục mới thật sự giải phóng được con người, thật sự giải phóng được dân tộc. Ông quan niệm giáo dục tức là giải phóng. Ở đây có một ý tứ rất thâm sâu, mà hôm nay tôi muốn được nói với các em vì trường chúng ta thiết tha đi theo quan niệm này, sẽ cố gắng tối đa thực hiện nó trong mọi hoạt động của mình, đến cả trong “khí quyển’’ của không gian Phan Châu Trinh mà thầy trò chúng ta cố gắng cùng nhau xây dựng nên, cùng sống và làm việc trong đó. Suốt 4 năm. Và rồi các em sẽ mang theo ra đời, suốt đời.
Nhà thơ lớn của nước Anh John Keats có một câu nói thâm thúy về giáo dục, Keats nói: ‘’Giáo dục không phải là chất cho đầy, mà là đốt lên ngọn lửa’’. Chất cho đầy (kiến thức) tức là rót từ bên ngoài vào, từ bên trên xuống, đổ cho đầy vào đầu con người được coi là một cái thùng ù lì, bị động. Đốt lên ngọn lửa là khêu cháy từ bên trong. Giáo dục khêu cháy từ bên trong, vì giáo dục bắt đầu bằng lòng tin rằng trong mỗi con người đều có, tiềm ẩn, mầm mống của một ngọn lửa, tức những năng lực có thể và cần được đánh thức dậy để phát triển. Giáo dục là giải phóng, là đánh thức. Đánh thức cái vốn đã có sẵn trong từng con người, từng người học, từng sinh viên. Hôm nay, trong ngày đầu tiên các em bước chân vào trường, tôi muốn nói với các em điều này: ở trường này có một phương châm, một niềm tin: không có sinh viên kém. Em nào cũng giỏi, tất cả, không trừ một ai, tạo hóa rất công bằng, mọi người đều giỏi, mỗi người giỏi một cái, một cách, người giỏi toán, người giỏi văn, người giỏi ngoại ngữ, người giỏi tin học, người giỏi nhạc, người giỏi đá bóng, người hát hay, người vẽ đẹp, người năng nổ trong giao tiếp, người thâm trầm trong suy nghĩ …, đều quý, xã hội đều cần vì xã hội có những nhu cầu hết sức đa dạng. Sở dĩ ta coi người này hay người kia là kém, dốt, vì ta thường có lối đòi hỏi chủ quan, vô lý và kỳ quặc, cứ một mực đòi mọi người đều phải giỏi cùng một thứ mà ta cũng rất chủ quan coi là quan trọng nhất, ai không giỏi theo đúng đòi hỏi chủ quan của ta thì ta cho là dốt, khinh miệt và đẩy qua một bên trên đường đi tới của cộng đồng. Nói cho đúng, đấy là một tội ác, bởi vì người bị ta chủ quan coi là dốt sẽ đinh ninh mình dốt thật, chẳng đáng gì trong xã hội, mất hết tự tin, tự coi thường, tự khinh bỉ chính mình, sẽ lủi thủi với cái dốt tưởng tượng, thành một ám ảnh tủi nhục suốt đời.
Ở trường này chúng ta nhất quyết không làm như vậy, không đi theo con đường phi nhân bản, phi giáo dục đó. Chúng ta chủ trương làm một kiểu giáo dục khác, một kiểu giáo dục hạnh phúc, giáo dục đem lại cho con người hạnh phúc, giáo dục khiến cho con người hạnh phúc hơn, giáo dục làm cho con người tự tin và tự hào về chính mình, tôi muốn đề nghị chúng ta gọi là ‘’kiểu giáo dục Phan Châu Trinh’’. Trong 4 năm tới, bắt đầu từ hôm nay, trường chúng ta, thầy trò chúng ta quyết cùng nhau làm cho kỳ được một trong những việc quan trọng nhất: bằng mọi cách (trong đó có một cách rất quan trọng là chương trình giáo dục khai phóng mà chốc nữa thầy Chu Hảo sẽ trao đổi cùng các em), giúp cho mỗi em tự hiểu mình, tự khám phá và phát hiện chính mình, biết cho ra, hiểu cho rõ mình giỏi cái gì, đặc sắc nhất cái gì, từng em. Theo tôi, đó là công việc quan trọng nhất của mỗi thầy cô giáo, nằm trong chiều sâu căn bản của thiên chức nhà giáo nơi mỗi thầy cô. Nhưng cũng đương nhiên, trước hết, chủ yếu, đó phải là nổ lực của các em, từng em, với sự giúp đỡ của các thầy cô, của các bạn, của toàn bộ môi trường giáo dục mà chúng ta phải cùng nhau tạo ra ở đây. Trước hết ở các em, từng em, tôi nhắc lại. Bởi vì phát triển bao giờ cũng là tự phát triển, như cái cây phải tự nó lớn lên, không ai có thể lớn lên thay nó được.
Và một quá trình như vậy chỉ có thể có kết quả khi nó là một sự hợp tác khắng khít, dân chủ, tự do và bình đẳng giữa chúng ta, người dạy và người học, thầy và trò.
Ở trường này có một nhận thức rõ ràng: sinh viên là công dân đi học. Sinh viên cần ứng xử như một công dân có trách nhiệm, và cần được tôn trọng như một công dân tự do. Chúng ta tôn trọng đúng mức lễ độ truyền thống và hiện đại giữa thầy và trò, người lớn tuổi hơn và người ít tuổi hơn, người đi trước và người đi sau, nhưng chúng ta bình đẵng trước chân lý cuộc sống và chân lý khoa học. Trường có quy định: trên lớp học, sinh viên sẽ không xưng con, xưng cháu, mà xưng tôi, một cách bình đẳng và tự tin, hoặc cũng có thể xưng em với giáo viên, các giáo viên xưng thầy, cô với các em. Để cùng nhau trao đổi, và thảo luận, tranh luận, vì lẽ phải chung, trong một ngôi trường thật sự văn minh.
Các em thân yêu,
Giáo dục là việc khó, mà cũng là việc thật đẹp, rất khó mà cũng lại đẹp nhất. Bởi, như đã nói, đây là việc đánh thức dậy những gì những gì hay nhất, đẹp nhất trong mỗi con người để con người ấy phát triển tự do và hạnh phúc. Khó và đẹp còn ở chỗ con người là vô cùng đa dạng, mỗi em là một thế giới. Mỗi em một khác, mỗi lớp, mỗi năm, mỗi khóa một khác. Vừa rất căn bản, vừa rất mới lạ, luôn mới lạ. Vừa chắc chắn trên những nền tảng chung cơ bản, vừa lại rất cá biệt, bao giờ cũng mới mẻ, cũng khác thường. Cho nên tôi luôn nghĩ, nói theo cách nào đó, thì về cơ bản giáo dục là việc một thầy một trò, một người cùng với một người khó nhọc và tha thiết đi tìm ra chính mình. Tôi luôn mong ước, và tôi nghĩ các thầy cô giáo cũng vậy, luôn muốn được đến tận từng em, hiểu được từng em, gần gũi và là bạn của từng em, để ta cùng làm cho thành công công việc khó khăn mà đẹp đẽ này. Sẽ rất hạnh phúc cho cả thầy và trò ta.
Vậy đó, các em thân yêu, hôm nay ta lên đường.
Một lần nữa, thay mặt nhà trường, thay mặt các em, tôi xin cám ơn các vị đại biểu đã đến cùng thầy trò chúng tôi trong ngày lên đường của chúng tôi hôm nay.
Còn với các em, ta hãy cùng chúc nhau một hành trình khai phá thật đẹp và thật thành công.
Nguyên Ngọc.
Ông bước theo chân cháu để hội nhập vào dòng chính trong xã hội Mỹ.
Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm
* * *
Tôi đã ở vào lứa tuổi bát thập và đã định cư ở nước Mỹ được gần 20 năm nay. Hầu hết các cháu nội ngọai trong gia đình chúng tôi tức là lớp thế hệ thứ ba, thì đều sinh trưởng tại Mỹ. Các cháu theo học và tiếp cận thường xuyên với các bạn người Mỹ ngay từ các lớp nhà trẻ, mẫu giáo lên đến tiểu học, trung học và cả đại học. Do đó mà các cháu nói tiếng Mỹ thành thạo hơn là nói tiếng Việt. Và suy nghĩ cũng như hành động của các cháu cũng không khác gì nếu so sánh với các bạn người Mỹ cùng lứa tuổi. Nói khác đi, thì các cháu đã hội nhập hòan tòan vào với xã hội Mỹ. Nhờ vậy, mà sau khi tốt nghiệp đại học, các cháu mới dễ kiếm được việc làm và có chỗ đứng vững vàng trong xã hội sở tại.
Đối với mấy cháu ở vào độ tuổi 20 – 25, đủ khôn lớn rồi, thì từ mấy năm gần đây, tôi bắt đầu viết trực tiếp một số bài bằng tiếng Anh để giúp các cháu hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa Việt nam – cũng như là về một số công việc tôi làm trước đây và cả về chuyện tôi bị công an cộng sản bắt giam giữ trong nhà tù nữa. Xin liệt kê một số bài viết bằng Anh ngữ đó như sau:
– A very short introduction into the Vietnamese culture
(Giới thiệu thật ngắn về văn hóa Việt nam)
– Some brief notes on the Vietnam war (1945 – 1975)
(Mấy ghi chú ngắn về cuộc chiến tranh Việt nam)
– How I became a political prisoner in Vietnam in the 1990’s
(Làm sao tôi trở thành người tù chính trị ở Việt nam vào thập niên 1990)
– Reflection on my being an octogenarian
(Suy nghĩ nhân dịp bước vào tuổi bát tuần)
– From Social Action to Human Rights Advocacy
(Từ họat động xã hội đến bảo vệ nhân quyền)
v.v…
Những bài này thường ngắn gọn, chỉ chừng vài ba trang với cỡ trên dưới 1,000 chữ mà thôi. Tôi chủ tâm viết thật ngắn như vậy, thì các cháu mới chịu đọc. Nhân tiện, tôi cũng gửi các bài này cho một số bạn người Mỹ nữa. Và thật là phấn khởi khi tôi nhận được phản hồi thuận lợi từ các bạn đó. Có bạn lại còn chuyển những bài đó lên internet, cụ thể là trên Google nữa. Vì thế, bạn đọc có thể mở Google và đánh chữ: “Doan Thanh Liem – articles in English”, thì có thể đọc các bài này một cách thật dễ dàng.
Thành ra, đàng nào tôi cũng có nhu cầu phải truyền đạt suy nghĩ và kinh nghiệm của bản thân mình cho lớp hậu duệ trong gia đình – mà việc này lại được các bạn người Mỹ tiếp nhận với mối thiện cảm chân tình. Như thế đấy, từ việc chuyện trò trao đổi trong chỗ thân mật riêng tư với các cháu trong nội bộ gia đình – mà tôi lại có cơ hội thông tin tiếp cận dễ dàng hơn với các bạn thuộc dòng chính trong xã hội nước Mỹ vậy. Rõ ràng đây là cái thứ “Một Công Đôi Việc” – như dân gian vẫn thường nói. Tôi viết bài dành riêng cho các cháu trong gia đình, mà bài viết đó cũng còn được dùng để gửi cho các bạn người Mỹ cùng đọc nữa.
Rốt cuộc là từ mấy năm gần đây, tôi lại có thêm cái nhu cầu và sự phấn khích để mà cố gắng viết trực tiếp những bài bằng Anh ngữ dành riêng cho các cháu nội ngọai của mình và nhân tiện cũng dành cho các bạn đọc người Mỹ nữa. Vì nhằm viết riêng cho những người thân thiết của mình, nên tôi không phải quá sức đắn đo gọt giũa về lối hành văn như trong các bài viết cho những người xa lạ mà mình chưa có dịp quen biết thân mật gì cả.
Hơn nữa, các cháu thành thạo tiếng Anh hơn tôi thì còn sẵn sàng góp phần sửa chữa bổ túc cho bài viết của tôi đạt được tiêu chuẩn để các độc giả người Mỹ dễ dàng chấp nhận hơn. Và đó cũng là dịp để ông cháu tôi cùng làm việc sát cánh với nhau hơn nữa.
Trước lạ, sau quen. Sau chừng trên một chục bài viết trực tiếp bằng Anh ngữ như thế, ngòi bút của tôi đã bắt đầu trở thành trôi chảy trơn tru – và tôi không còn thấy ngại ngùng, ngượng ngập như trước đây khi mình chưa quen viết bằng tiếng Anh nữa. Tôi nghĩ nếu mình cứ kiên trì mỗi tháng cố gắng viết được một bài như thế để dành riêng cho các cháu – thì chỉ trong vài năm tôi có thể hòan thành được một cuốn sách bằng tiếng Anh được rồi vậy.
Trên đây là một chuyên riêng tư của bản thân tôi là một người đã ở vào tuổi bát tuần mà hiện đang cùng gia đình định cư tại tiểu bang California trên nước Mỹ. Tôi xin được chia sẻ cái kinh nghiệm nho nhỏ này với bà con người Việt tỵ nạn chúng ta vậy nha./
Costa Mesa California, Tháng Chín 2015
Đoàn Thanh Liêm
“Dân trộm dăm ba trăm ngàn thì bị tù mấy năm trời, thế mà quan tham nhũng trăm triệu, chục tỉ nặng thì cách chức, cho tù vài năm còn bình thường thì đứng lên nhận khuyết điểm, bị khiển trách rồi mọi việc đâu lại vào đó. Dân có đánh chết người thì nhẹ cũng 10-20 năm tù nặng thì chung thân tử hình, ấy thế mà công an, quan chức làm chết người thì xét công trạng rồi thì nặng lắm cũng vài năm ba năm tù còn bình thường cứ mấy năm án treo, cách chức”.
Joseptuat
12-9-2015
Photo: Đại Học Y Dược TPHCM
Một bộ phận dân chúng Việt Nam hiểu được quyền của mình, trách nhiệm của nhà nước trong xã hội nhưng số này còn ít lắm. Dân Việt Nam mình vẫn còn nhiều, nhiều người ngu ngơ về quyền lợi của mình trong xã hội, và vẫn mù quáng tin tưởng vào nhà nước như thời phong kiến dân tin vua là con thiên tử.
Ở cái thời đại này rồi mà nhiều người vẫn còn chấp nhận cái chân lý “yêu đảng là yêu nước”, nó giống như thời kì lạc hậu ngày xưa “yêu vua là yêu nước” vậy. Lòng yêu nước đã bị lợi dụng để duy trì quyền lực cho một dòng họ theo cái tục cha truyền con nối ở thời phong kiến, và nay nó dùng để duy trì sự cai trị vô lý của một đảng phái.
Các cụ ta ngày xưa đã mổ xé văn hoá Hán tộc ảnh hưởng như thế nào đối với xã hội Việt Nam, nhưng tưởng nó đã không còn mấy đậm nét trong sinh hoạt xã hội Việt Nam ngày hôm nay. Ơi thế mà nó có mất đi đâu, nó chỉ biến dạng theo một cách khác kể từ khi cộng sản nắm quyền mà thôi.
Người Hán chấp nhận Vua là trung tâm của xã hội như vẫn từng hô hào họ là trung tâm của thiên hạ. Người Việt dù có kiến cường chống phương bắc tới đâu thì vẫn bị lệ thuộc họ trong nhiều cách khác nhau. Điều dễ nhận thấy là trong triết lý giáo dục của người Việt Nam từ xưa cho tới nay. Dân Việt tại sao dễ chấp nhận quyền cai trị độc tôn của đảng cộng sản như vậy? Tại sao thích kiểu yên ổn chuyên chính của chính quyền như vậy? Xét kỹ thì nhận ra rằng đó là do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, nó ngấm vào máu, vào tận xương tuý và được truyền lại từ vô thức của xã hội lên từng gia đình và cá nhân.
Dân trí thấp không phải là ở chỗ đất nước có bao nhiêu người biết đọc, biết viết mà là ở chỗ còn bao nhiêu người tôn thờ nền quân chủ. Có người đã nói Việt Nam bây giờ chỉ là sự phát triển của chế độ phong kiến theo máu mũ ngày xưa. Vẫn chỉ là chế độ lấy nhân trị, tức là xã hội dù có luật pháp thì tính nghiêm minh phù thuộc vào quyết định, cảm tình của con người.
Dân trộm dăm ba trăm ngàn thì bị tù mấy năm trời, thế mà quan tham nhũng trăm triệu, chục tỉ nặng thì cách chức, cho tù vài năm còn bình thường thì đứng lên nhận khuyết điểm, bị khiển trách rồi mọi việc đâu lại vào đó.
Dân có đánh chết người thì nhẹ cũng 10-20 năm tù nặng thì chung thân tử hình, ấy thế mà công an, quan chức làm chết người thì xét công trạng rồi thì nặng lắm cũng vài năm ba năm tù còn bình thường cứ mấy năm án treo, cách chức.
Có người vi phạm luật pháp nghiêm trọng báo chí, nhà nước tung lên là bị kỷ luật, bị xử phạt nghiêm minh nhưng thực tế thì di chuyển công tác, có khi lại còn nhận chức vụ cao hơn trước khi phạm luật.
Nói ra để thấy, cái xã hội Việt Nam ngày hôm nay có khác mấy cái thời lạc hậu, man rỡ thời phong kiến ngày xưa đâu. Cụ Phan Châu Trinh ngày trước đã từng nói “chúng ta đã thua thế giới văn minh gần một thể kỷ về văn hoá, kinh tế, khao học kỷ thuật”, đó là cụ so sánh Việt Nam với Pháp, Anh, Nhật, Mỹ chứ bây giờ Việt Nam mình còn để cả Lào, Campuchia vượt mặt về nhiều mặt. Chả mấy chốc mà họ sẽ không để ta sau lưng mấy chục năm đâu.
Dân đen đã mù mờ về quyền công dân của mình trong xã hội đã đành, kể cả tầng lớp tri thức cũng đâu khá hơn là mấy. Ngày trước học là để thi khao cử với hi vọng kiếm chút công tước cho dòng họ nở mày nở mặt. Phục vụ đất nước cũng chỉ là trung thành tuyệt đối với vua, chứ đâu mấy ai nghĩ tới chuyện đem công bằng, bác ái đến cho tầng lớp dân đen đâu. Cái câu “một người làm quan cả họ được nhờ” chả phải là lý tưởng và mục đích của tri thức Việt Nam ngày xưa sao. Cái thói học với mong muốn kiếm chút bổng lộc từ triều đình đã đưa đất nước tụt quá xa so với thế giới. Tri thức thay vi nâng cao hiểu biết cho dân thì lại xem những gì mình có, mình học như là cái quyền để cưỡi lên đầu lên cổ người khác. Ấy là tôi nói về thời phong kiến ngày xưa, còn bây giờ nền giáo dục có khác nhau là mấy so với trước đây đâu, có khi nó còn tệ hơn chứ nói gì tốt với đẹp.
Nhìn hàng trăm, hàng nghìn tiến sĩ, thạc sĩ bám đít lũ quan tham, nhóm lợi ích để cầu danh, cầu lợi, cầu nhà, cầu xe là nhận thấy cái gọi là tri thức Việt Nam cũng chỉ là một lũ cộng nô. Ngay xưa học mà không đi đôi với thực tế thì gọi là hũ nho, ngày nay học để làm tôi mọi cho lũ quan to, bụng phệ dù trong đầu bọn tham ô câu chữ viết chấm phẩy còn không xong, thì tri thức không là cộng nô, hũ bại là còn gì.
Dân đen là thế, tri thức cũng không nhờ cậy được gì, thế còn chính quyền thì sao?
Nói ra thì nói là phản động, là bôi xấu lãnh đạo nhưng thực tế thì bọn họ cũng đâu khá hơn là mấy. Cái bọn này còn tệ hơn đám tri thức rơm kia, vì bọn chúng có trong tay quyền lực, được đi đây đó, hiểu biết thực tế nhiều hơn dân đen, ấy thế mà tụi nó lại đi làm Hán nô cho ngoại bang. Không đổ lội hết quan chức bây giờ là thân Trung Cộng, nhưng có mấy vị tại to mặt lớn mà không bám đít nhà Hán. Cái khác biệt lớn nhất của chính quyền hiện nay so với thời phong kiến là đây.
Quan chức phong kiến có thể vì lợi mà hà hiếp dân chúng, chứ ít khi vì lợi mà nhu nhược, bán đất, bán biển, bán rừng cho nhà Hán, ấy thế mà cái thời đại cộng sản bọn họ không chỉ tham lam, độc ác với dân mà còn nhu nhược, hèn nhát và đê tiện trước mặt ngoại bang. Bọn họ chơi chính trị theo kiểu đĩ điếm, sẵn sàng ăn nằm với bất kì ai nếu họ đem lại lợi ích cho mình.
Trước thì bám đít Liên Xô xem Trung Cộng là kẻ thù, gọi là phản động nên Trung Cộng nó xua quân đánh dọc các tỉnh biên giới bắc Việt Nam, đẩy hàng trăm nghìn con dân Việt chết vì mình. Đến khi Liên Xô sụp đổ thấy quyền lợi bị lung lay thì khúm núm, quỳ lại xin Trung Cộng chống lưng, và để thoả mản cái danh vọng quyền lực thì đi đến cái “hội nghị thành đô” chấp nhận nhường đất, nhường biển để làm chư hầu cho Trung Cộng.
Tri thức thì cộng nô, còn chính quyền lại là Hán nô thì thử hỏi đât nước mình là cái gì đây?
Cả một chăng đường lịch sử dài gần mấy ngàn năm, có cả một nền văn hiến lâu đời nhưng thứ hỏi xem có mấy ai biết hình hài đất nước mình như thế nào? Dân đen thì nghĩ phục tùng chính quyền, tôn thờ lãnh tụ là yêu nước. Tri thức thì khôn ranh hơn, yêu nước là yêu cái chức vụ của mình, cố làm sao đừng để nó lung lay là coi như yêu nước. Còn chính quyền thì toàn một lũ vừa tham, vừa thâm, vừa ác nên yêu nước là phải nhất quyết duy trì chế độ đến tính mạng dân đen cuối cùng. Đất nước là vậy đó, chỉ là nồi cơm, cái ghế và danh vọng của từng người, từng nhóm nhỏ nào đó. Thế mà nhiều kẻ vẫn hô hào lòng yêu nước, giảng dạy về lòng yêu nước, và bỏ tù những ai dám thể hiện lòng yêu nước.
Có viết trăm bài viết, kể trăm câu chuyện thì cũng chỉ là lập lại lời của tiền nhân trước đây. Các bậc tiền nhân có tâm, có tài đã mổ xé rất chi tiết, đã chỉ ra đâu là nguyên nhân khiến Việt Nam mãi mãi chỉ lết theo đít những nước phát triển chậm. Phương pháp cũng đã được nêu ra làm thể nào để đưa đất nước thoát khỏi cảnh “không chịu phát triển”, trong đó người viết ấn tượng về chủ trương “Khai dân tri”, “Chấn dân khí” và “Hậu dân sinh” của cụ Phan Châu Trinh. Không gì bền vững và ổn định cho bằng sự thay đổi tận căn các nguồn lực của đất nước, và chỉ có một con đường duy nhất là “học”.
Bao giờ mới hết phong bì trong bệnh viện?
Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-09-12
Bao giờ mới hết phong bì trong bệnh viện?
![]()

Một bệnh viện nhà nước ở Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 2014.
Your browser does not support the audio element.
Năm 2012, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã tuyên bố dứt khoát nói không với việc người nhà bệnh nhân đưa phong bì cho y bác sĩ tại các bệnh viện công. Vậy đến nay tình trạng này ở trong các bệnh viện thế nào?
Do điều kiện dịch vụ y tế hạn hẹp?
Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia mà ở đó người dân muốn chữa bệnh phải mất tiền, người dân khi muốn khám chữa bệnh phải trả phí dịch vụ hoặc thông qua bảo hiểm y tế. Cho dù trước đây, hệ thống y tế ở Việt Nam được bao cấp hoàn toàn cho đến giữa những năm 80.
Do điều kiện dịch vụ y tế của nhà nước hạn hẹp, không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, nên việc người dân phải có phong bì để lót tay cho các nhân viên y tế mỗi khi đến bệnh viện công là tình trạng phổ biến.
Chuyện đưa phong bì là có thật, vì cách ứng xử của bác sĩ luôn tỏ ra không hài lòng, hôm rồi tôi phải chờ bác sĩ đến hơn một tiếng song không thấy bác sĩ đâu cả. Nghe người ta bảo là phải biết đưa phong bì.
-Chị Phương Anh
Tháng 12/2012 người đứng đầu ngành y tế, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến đã phát biểu trước Quốc hội rằng “Bệnh nhân và người nhà dứt khoát không đưa phong bì và nếu thấy bác sĩ, điều dưỡng nào nhận thì chụp ảnh và gửi lại cho chúng tôi.”
Tuy vậy trên thực tế hiện nay cho thấy, tại các bệnh viện công tình trạng bệnh nhân đưa phong bì để cảm ơn y bác sĩ đã trở thành một thứ luật bất thành văn.
Chị Phương Anh ở Hà nội cho biết:
“Chuyện đưa phong bì là có thật, vì cách ứng xử của bác sĩ luôn tỏ ra không hài lòng, hôm rồi tôi phải chờ bác sĩ đến hơn một tiếng song không thấy bác sĩ đâu cả. Nghe người ta bảo là phải biết đưa phong bì.”
Tâm trạng chung của người nhà bệnh nhân là phải có qùa cáp, phong bì để cảm ơn bác sĩ; đây là điều bắt buộc phải có cho dù gia cảnh của họ cũng hết sức khó khăn.
Nói về lý do vì sao phải đưa phong bì cho y bác sĩ, chị Thuận ở Vĩnh Yên giải thích:
“Vì tôi thấy mọi người đưa (phong bì) thì tôi cũng đưa, cũng vì nếu đưa phong bì thì bác sĩ sẽ quan tâm đến con mình hơn, còn không đưa thì sợ bác sĩ sẽ chăm sóc không tận tình đối với con mình.”

Khoa nhi tại một bệnh viện nhà nước ở Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 2014. AFP PHOTO.
Ông Xuyến quê ở Thanh hóa, đang trông con hiện điều trị ở một bệnh viện Trung ương tiếp lời:
“Nói chung là phải bán dần mọi thứ đi để lo chữa bệnh cho cháu, vì dù sao cũng phải cho một chút quà gọi là để gửi cảm ơn các bác sĩ.”
Sự thiếu thân thiện của bác sĩ đối với người bệnh, là nguyên nhân khiến cho người nhà bệnh nhân nghĩ cần phải lót tay phong bì cho các y bác sĩ. Từ Hà nội, ông Nguyễn Hòa, một lãnh đạo bệnh viện đã nghỉ hưu nói với chúng tôi:
“Tôi cũng có biết, chuyện bác sĩ vòi vĩnh là có, song là rất ít. Cái chính là vì quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân bây giờ như là cái máy, tại mình không có thì giờ thăm hỏi bệnh nhân nên quan hệ 2 bên nó xa.”
Đáng chú ý, đến tháng 3/2013 cũng chính bà Bộ trưởng Bộ Y tế lại cho phép bác sĩ nhận phong bì, với điều kiện là chỉ sau khi đã điều trị xong cho bệnh nhân, vì thấy rằng “Hành vi đưa phong bì sau điều trị là hành động tỏ lòng biết ơn của người bệnh với y, bác sỹ. Đây là việc làm cần trân trọng”. Điều này được dư luận cho rằng làm cho vấn nạn phong bì trong bệnh viện ngày càng trầm trọng hơn.
Khó có thể giải quyết?
Theo báo Đất Việt, báo cáo mới nhất của Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) – cơ quan đầu mối của Tổ chức Minh bạch Quốc tế tại Việt Nam (TI) cho biết: hiện tượng phong bì, vốn đã trở nên phổ biến và tràn lan tại nhiều bệnh viện. Giá trị các khoản tiền đưa theo phong bì dao động từ 50.000 đồng đến 5 triệu đồng, một số trường hợp ngoại lệ có giá trị tới vài chục triệu đồng.
Một cán bộ Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế không muốn nêu danh tính thừa nhận, đây thực sự là một vấn nạn, song khó có thể giải quyết được sớm vì liên quan đến nhiều vấn đề. Ông cho biết:
Những người thầy thuốc như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, khi người ta coi rằng vào bệnh viện chỉ cần đưa cho chúng tôi vài đồng bạc lẻ thì sẽ mua chuộc được nhân viên y tế. Đó là một điều bất nhẫn đối với người bệnh và với cả nhân viên y tế.
-Một cán bộ y tế
“Những người thầy thuốc như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, khi người ta coi rằng vào bệnh viện chỉ cần đưa cho chúng tôi vài đồng bạc lẻ thì sẽ mua chuộc được nhân viên y tế. Đó là một điều bất nhẫn đối với người bệnh và với cả nhân viên y tế. Đây chính là điều thiệt thòi đối với người bệnh và tôi coi rằng nó ảnh hưởng tới y đức.”
Với thu nhập của các y bác sĩ hiện nay không đủ sống, thì việc nhận phong bì nhằm để đảm bảo cuộc sống của gia đình họ là điều bắt buộc. Bác sĩ Bính công tác tại một bệnh viện tại Hà nội bày tỏ:
“Không nhận phong bì thì bác sĩ rất khó sống, tôi biết có nhiều người vì không nhận phong bì đã phải bỏ nghề hay làm nghề khác. Hoặc vừa làm nghề mà vẫn phải làm gia sư, làm bệnh viện tư bên ngoài, thậm chí làm cả lao động phổ thông bên ngoài để có thu nhập đủ sống cho gia đình.”
Ông Bính kêu gọi sự cảm thông của xã hội, vì việc có hay không có phong bì cũng không hề ảnh hưởng tới chất lượng khám chữa bệnh của các y bác sĩ:
“Xã hội và mọi người cũng cần hiểu và thông cảm đối với chúng tôi, vì chúng tôi cũng phải chịu rất nhiều áp lực. Chuyện nhận phong bì có chăng thì nó chỉ ảnh hưởng đến thái độ của bác sĩ, còn về mặt chuyên môn thì tôi nghĩ rằng không có bác sĩ nào vì không có phong bì thì khi mổ chỉ cắt một nửa cả.”
Khi được hỏi, nhà nước cần có giải pháp gì để giải quyết tình trạng người bệnh phải đưa phong bì lót tay cho các y bác sĩ?
Thang lương của ngành y quá thấp, mỗi tháng chỉ khoảng 3-4 triệu đồng so với khối lượng công việc quá lớn, lại thêm trách nhiệm, áp lực tâm lý đó là những điều vô cùng bất hợp lý, đó là nguyên nhân chủ yếu. Bác sĩ Nguyễn Hòa khẳng định:
“Tôi nói thẳng cũng có người nghĩ không tốt, nhất là khi đã thương trường hóa ngành y tế rồi thì khó có thể phân biệt người thầy thuốc chạy theo đồng tiền và người thầy thuốc không chạy theo đồng tiền. Theo tôi chủ trương hiện nay đã đi lệch và không đúng. Hơn nữa ngành y có mức lương thấp, có lẽ chỉ hơn nông nghiệp. Học rất nhiều mà lương thì rất thấp, tôi không hiểu sao lại như vậy?”
Bên cạnh vấn đề quá tải của bệnh viện công, với mỗi giường bệnh có 2-3 bệnh nhân, thì việc người nhà bệnh nhân luôn phải có các phong bì để lót tay khi khám chữa bệnh là điều có thật trong các bệnh viện ở Việt Nam. Phải chăng đây là do sự thiếu quan tâm của nhà nước trong việc đầu tư ngân sách thỏa đáng cho lĩnh vực y tế? Nhiều người nêu vấn đề tại sao ở các bệnh viện của tư nhân hay của nước ngoài ở Việt Nam thì hoàn toàn không có hiện tượng đưa phong bì cho bác sĩ và nhân viên bệnh viện. Đó có lẽ là câu trả lời rõ ràng nhất.
THƯ GỬI CÁC SINH VIÊN, HỌC SINH CÔNG GIÁO DỊP ĐẦU NĂM HỌC 2015-2016
ỦY BAN GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
trực thuộc
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
_________________________________________________________________________
72/12 Trần Quốc Toản, phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
Email: uybangiaoduc@gmail.com; Đt: 098 250 4545
Các con rất thân mến,
Nhân dịp đầu năm học mới, Cha gửi đến các con lời chào thân thương và cầu chúc các con một năm học nhiều kết quả, thăng tiến và lớn lên về mọi mặt: kiến thức, nhân cách và lòng mến Chúa yêu người.
Nơi giảng đường và tại lớp học, các con sẽ được các Giảng viên và các Thầy Cô truyền đạt nhiều kiến thức theo chương trình đào tạo, thích hợp cho mỗi cấp, mỗi lớp các con theo học. Phần Cha, Cha muốn chia sẻ với các con một điều rất quan trọng đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong bài giảng Thánh Lễ bế mạc Đại hội giới trẻ Á Châu tại Hàn quốc ngày 17.8.2014. Ngài nói: “Là những người trẻ Á Châu, các con nhìn thấy và yêu mến từ bên trong tất cả những gì tốt đẹp, cao thượng và chân thật trong các nền văn hóa và truyền thống của các con. Đồng thời, trong tư cách là Kitô hữu, các con cũng biết rằng Tin Mừng có sức mạnh thanh luyện, nâng cao và làm cho hoàn hảo di sản này… Nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng được ban tặng cho các con trong bí tích Rửa Tội, được khắc ghi như một ấn tín nhờ bí tích Thêm Sức, và trong sự hiệp nhất với các vị Mục tử của các con, các con có khả năng nhận ra nhiều giá trị tích cực nơi các nền văn hóa khác nhau của Á Châu. Các con cũng sẽ có được khả năng để phân biệt điều gì không tương hợp với Đức Tin Công giáo của các con, điều gì trái ngược với đời sống ân sủng… và những khía cạnh nào của đời sống ngày nay là tội lỗi, là hủ hóa và dẫn đến sự chết”.
Lời nhắn nhủ trên đây của Vị Cha chung Giáo hội hoàn vũ củng cố những điều Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nói trong Thư Chung năm 1980: “(Chúng ta cần) gắn bó với Chúa Kitô và hợp nhất với Hội Thánh toàn cầu,…gắn bó với dân tộc và đất nước… Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu Thánh Kinh và Thần học để nắm vững những điều cốt yếu của đức tin, đàng khác, phải đào sâu nếp sống của từng dân tộc trong nước, để khám phá ra những giá trị riêng của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, chúng ta vận dụng những cái hay trong một kho tàng văn hoá và xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc đang cùng chung sống trên quê hương và trong cộng đồng Hội Thánh này” (Thư chung 1980, số 8, 9, 11).
Dõi theo các giáo huấn trên đây của Đức Thánh Cha Phanxicô và của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Cha mời gọi các con: các học sinh, nhất là các anh chị sinh viên, hãy khám phá và trân trọng những giá trị và những điều tốt đẹp trong các nền văn hóa của Quê hương Việt Nam chúng ta. Điều này không những cần thiết mà còn cấp bách, vì trong chiều hướng toàn cầu hóa của thế giới hôm nay, nhiều lối sống và nhiều giá trị, lắm khi chỉ là giá trị giả hay phản giá trị, đang được quảng bá rộng rãi, tràn ngập xã hội đến độ làm cho các giá trị và lối sống tốt đẹp trong văn hóa chúng ta có nguy cơ bị lấn át và xóa nhòa.
Văn hóa Việt Nam chúng ta chất chứa nhiều giá trị thiêng liêng và nhân bản, tạo nên một nếp sống đầy lòng nhân ái và tình nghĩa, đáng để cho chúng ta hãnh diện và nỗ lực vun đắp. Cha đã có dịp đi thăm nhiều cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại các nước Âu Mỹ; nơi nào Cha cũng được nghe các Chủ chăn và giáo dân địa phương tỏ lòng ngưỡng mộ nếp sống đầm ấm của gia đình Việt Nam và sức sống dồi dào của các cộng đoàn Công giáo Việt Nam. Thế nhưng, trong thời gian gần đây, các phương tiện truyền thông thuật lại nhiều sự kiện xấu trong học đường và tại xã hội Việt Nam, chẳng hạn, học sinh ẩu đả, đánh nhau hay có những thái độ vô lễ đối với giảng viên hoặc thầy cô; đáng lo ngại hơn nữa là sự kiện có những người con ngỗ nghịch đang tâm giết cha mẹ chỉ vì một chút tiền bạc hay vì bực tức.
Các con rất thân mến, là sinh viên, học sinh Công giáo, các con phải dẫn đầu trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của Dân Tộc. Với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ và sức mạnh của Tin Mừng, các con hãy làm cho lòng nhân ái, tình thương yêu, sự hy sinh cho tha nhân lan tỏa tới mọi nơi, nhất là trong gia đình, tại giảng đường và trường học.
Nếu các con đón nhận sứ mệnh Cha vừa nói, các con cần phải nỗ lực thanh luyện cho lòng các con thoát khỏi các thú vui vô bổ, các đam mê không lành mạnh và những tính toán lợi lộc giả tạo mau qua. Những yếu tố đó, nếu không được uốn nắn, sẽ trở thành những sức mạnh hung hãn tàn phá chính các con và gây thiệt hại cho nhiều người, ngay cả gia đình, cộng đoàn giáo xứ và môi trường học tập của các con.
Trong cuốn sách “Hoa Đường Tùy Bút”, cụ Phạm Quỳnh ví những thú vui và đam mê thuộc bản năng tựa như con voi, còn các giáo lý và quy luật đạo đức của tôn giáo thì như sợi chỉ. Khi con voi được huấn luyện để kính trọng và đi theo sự hướng dẫn của sợi chỉ thì nó hiền lành và giúp ích cho con người. Nếu vì bất cứ lý do gi, con voi không còn biết kính sợ sợi chỉ, nó sẽ trở thành hung hãn, phá đổ nhà cửa và giết chết nhiều người. Các con đừng sợ! Giáo lý và quy luật đạo đức của Giáo Hội tuy mỏng manh như sợi chỉ, nhưng đàng sau giáo lý và quy luật ấy là chính Chúa Giêsu. Tình yêu của Ngài là sức mạnh, một sức mạnh vượt trên mọi sức mạnh. Sức mạnh đó đã giúp nhiều người, thuộc các dân tộc, mầu da, tiếng nói và thời đại khác nhau, vượt thắng được mọi thú vui, đam mê, lợi lộc và còn dám dâng hiến mạng sống vì Nước Trời và vì tha nhân. Các Thánh, nhất là các Thánh Tử Đạo là những minh chứng hùng hồn. Vì vậy, nếu các con sống hiệp nhất và khích lệ nhau sống mật thiết với Chúa Giêsu, các con sẽ tìm được sức mạnh để chiến thắng các đam mê và dục vọng. Các con sẽ trở nên những thiếu nhi, những bạn trẻ đáng cảm phục, đáng mến, đáng kính trọng; các con sẽ là niềm vui và ơn phúc cho xã hội và cho Giáo Hội.
Với lòng thương mến, Cha cầu nguyện cho các con và xin Chúa chúc lành cho các con trong năm học mới này. Xin Mẹ Maria giang rộng vòng tay Hiền Mẫu che chở và gìn giữ các con.
Cha thân ái chào các con!
Ngày 04 tháng 9 năm 2015

+ Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục Phó Gp Xuân Lộc
Chủ tịch Ủy Ban Giáo dục Công Giáo
Nghĩ về tấm bia căm thù
Uyên Vũ, thông tín viên RFA

Bia căm thù trước tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại Sài Gòn.
RFA photo
Tròn 14 năm trước ngày 11/9/2001, Hoa Kỳ và thế giới tự do bàng hoàng rúng động bởi vụ đánh bom tòa tháp đôi World Trade Center. Vâng, thế giới tự do của những người yêu chuộng tự do mới bàng hoàng, còn tại các nước cộng sản và độc tài thì không hẳn như vậy, nếu không muốn nói là ngược lại.
Xin miễn bàn về các nước đang nuôi dưỡng và chứa chấp bọn khủng bố. Tại Trung Quốc, tướng Lưu Á Châu kể lại: “Nước ta (tức Trung Quốc) có một đoàn đại biểu, lúc đó đang ở thăm nước Mỹ, lúc xem tòa nhà thương mại thế giới bị máy bay bọn khủng bố đâm vào, những người trong đoàn tham quan liền không kìm được cảm xúc, đứng dậy vỗ tay hoan hô.” (!)
“Tôi ở Bộ tư lệnh Không quân đóng tại quân khu Bắc Kinh, vào những ngày đó có bộ đội tới thăm, tôi đều hỏi họ có cái nhìn như thế nào về vụ 11 tháng 9? Họ đều có một câu đáp án như nhau “Khủng bố đánh rất tốt”. Sau đó tôi nói “chuyện này rất bi thảm. Nếu như những người này yêu Trung Quốc, thì còn ai có thể cứu được Trung Quốc?”
Còn ở Việt Nam, khi sự kiện 11/9 vừa được các hãng thông tấn lớn loan tải, lúc đó muốn vào mạng xem tin tức chỉ có cách ra những quán cafe internet để theo dõi. Tại một diễn đàn online lớn nhất Việt Nam khi ấy là diễn đàn ttvnol (Trí Tuệ Việt Nam Online) mà thành viên đa số là những trí thức, sinh viên sống ở Hà Nội. Khi nhìn qua màn hình computer thấy cảnh tòa nhà World Trade Center bị đổ sụm do chiếc phi cơ đâm vào nhiều sinh viên đã rú lên vì sung sướng, thế rồi họ truyền tin cho nhau với thái độ đắc chí. Họ đua nhau bình phẩm và chờ đợi sự “giãy chết” của Hoa Kỳ. Lạ một điều, những sinh viên ấy hầu hết lớn lên khi chiến tranh đã chấm dứt. Hàng ngày họ vẫn uống Coke, vẫn chuộng những chiếc quần Jeans hiệu Levi’s và săn lùng những hàng hóa “made in USA” từ chiếc computer cho đến đôi giày thể thao.

Một trong những tấm bia căm thù. RFA photo
Vậy tại sao họ có thái độ khó hiểu như vậy? Thực ra, nếu sống trong lòng một đất nước cộng sản thì cũng không thấy điều đó có gì khó hiểu. Những sinh viên này đều đã trải qua nhiều năm tháng học một thứ giáo dục nhồi sọ. Ở đó, trong sách giáo khoa lẫn trên bục giảng, từ một trẻ nhỏ chập chững bước vào trường tiểu học cho đến một tân khoa cử nhân đều phải học những bài học lịch sử được viết lại cho thuận ý nhà cầm quyền. Những bài học lịch sử bịa đặt, thêm thắt và tràn ngập những căm thù. Nước Mỹ là kẻ thù mà họ huênh hoang là đã “chiến thắng vinh quang”, Hồ Chí Minh còn chơi chữ: “Mỹ nhưng mà xấu”, những bài toán cộng của học sinh tiểu học đã là những bài toán cộng của những xác lính Mỹ chết.
Giới trẻ Việt Nam chuộng hàng hóa Mỹ nhưng thâm tâm vẫn cứ nghĩ “của bọn tư bản xấu xa bóc lột”. Cũng không khó kiếm những tượng đài to lớn kỷ niệm cái gọi là “chiến thắng 30/4” cũng như thật dễ nhìn thấy những tấm “bia căm thù”. Tại Sài Gòn, ngay trên đoạn vỉa hè phía trước tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ là một tấm “bia căm thù” như thế và khói hương, hoa đèn vẫn được cung kính tưởng niệm tại tấm bia này. Chính vì thế, những người trẻ lớn lên, mũi chưa từng ngửi thấy mùi thuốc súng, mắt chưa từng thấy những tử thi không nguyên vẹn trông những bộ quân phục… Họ vẫn âm ỉ sâu kín trong lòng mối căm thù.
Tôi không biết các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ nghĩ gì khi nhìn thấy tấm “bia căm thù” án ngữ cơ quan ngoại giao của họ, họ nghĩ gì khi vào những dịp lễ lạt, từng đoàn người mang hoa nến, nhang đèn đến công khai bày tỏ lòng căm thù đối với đất nước Hoa Kỳ của họ. Có lẽ họ sẽ cảnh giác với một dân tộc luôn nuôi dưỡng ý chí căm thù, nhưng cũng có lẽ họ sẽ tặc lưỡi bỏ qua. Tôi nhớ, nhà thơ Phan Nhiên Hạo đã viết lại cảm nghĩ khi đứng trước cảnh đỗ vỡ hoang tàn của tòa nhà World Trade Center, ông viết: “Tôi tìm mãi không thấy một tấm “bia căm thù” nào được dựng lên để lên án bọn khủng bố. Thay vào đó, tôi thấy một trái tim màu xanh thật lớn được vẽ trên tường của tòa cao ốc sát bên”.
Hoa Kỳ đã trải qua nhiều cuộc chiến, số người chết vì chiến tranh luôn được tưởng niệm và vinh danh nhưng với các địch thủ. họ không hề được dạy là phải căm thù. Có lẽ chính vì thế mà Hoa Kỳ cứ lớn mạnh. Một dân tộc lớn bởi vì không nuôi dưỡng những thù hằn nhỏ. Mới đây, tôi có hỏi một trí thức người Việt sống lâu năm tại Nhật Bản là dân Nhật có căm thù nước Mỹ vì đã thả hai trái bom nguyên tử làm hàng trăm ngàn người Nhật chết hay không, ví dụ về dịp kỷ niệm 70 năm tại Hiroshima vừa qua. Câu trả lời là nước Nhật vẫn tổ chức lễ tưởng niệm nạn nhân chết vì bom nguyên tử nhưng không hề căm thù Hoa Kỳ. Nhật Bản đã vươn lên từ đống tro tàn phát xít để trở thành cường quốc thế giới, phải chăng vì họ biết quên đi thù hận mà chỉ dồn nỗ lực vào việc tái thiết quốc gia?
Hoa Kỳ cũng sẽ tưởng niệm biến cố 911, vì biến cố ấy đã làm thay đổi đất nước họ. Các gia đình có người thiệt mạng trong sự kiện bi thảm ấy chắc sẽ chẳng bao giờ quên. Nhưng ngay chính nơi tòa tháp World Trade Center đã mọc lên một tòa tháp mới, lộng lẫy, tráng lệ hơn. Trong tòa tháp ấy có lẽ cũng chẳng dành một chỗ nào cho tấm bia căm thù, dù nhỏ nhoi.
Không uống bia ‘hỏa tốc,’ 7 cán bộ phải viết tường trình
Nguoi-viet.com
HÀ TĨNH (NV) – Cán bộ thuộc Sở Giáo Dục bị nhắc nhở và phải viết tường trình trong một cuộc họp nội bộ sau khi từ chối không tham gia uống và sử dụng bia được sản xuất tại tỉnh nhà.

Sở Giáo Dục và Đào Tạo Hà Tĩnh, nơi 7 cán bộ bị nhắc nhở vì không
uống một loại bia sản xuất tại tỉnh nhà. (Hình: VnExpress)
VnExpress loan tin, ngày 11 Tháng Chín, 2015, ông Dư Lý Trí, phó chánh văn phòng Sở Giáo Dục Hà Tĩnh cho biết, sau hội nghị “điển hình tiên tiến” vào cuối Tháng Sáu, một số cán bộ trong cơ quan đã tổ chức bữa tiệc tại một nhà hàng ở thành phố Hà Tĩnh. Tại đây, khi gọi đồ uống, nhiều người đã không dùng bia Sài Gòn.
“Mấy người làm tiếp thị, kinh doanh tại nhà hàng thấy cán bộ Sở Giáo dục không uống bia của hãng nên nhắn tin cho lãnh đạo tỉnh, vị này sau đó trao đổi với giám đốc sở”, ông Trí nói.
Tin cho hay, sau đó trong một cuộc họp nội bộ, 7 cán bộ liên quan đã phải viết bản tường trình sự việc và bị nhắc nhở.
Trước đó, ngày 1 Tháng Chín, trong khuôn khổ tổ chức lễ hội “Tôi yêu bia Sài Gòn,” ông Lê Minh Đạo, chánh văn phòng tỉnh Hà Tĩnh đã ký giấy mời đóng dấu “hỏa tốc” gởi tới các lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, thủ trưởng sở ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh, chủ tịch các hội, hiệp hội trong tỉnh, lãnh đạo huyện của tỉnh… tới tham gia.

Giấy mời của chánh văn phòng ủy ban tỉnh Hà Tĩnh dùng dấu hỏa tốc
yêu cầu lãnh đạo tham dự lễ hội bia. (Hình: VnExpress)
Theo một lãnh đạo Sở Công Thương Hà Tĩnh, tính đến ngày 15 Tháng Sáu, tổng thu ngân sách nội địa 6 tháng đầu năm của Hà Tĩnh đạt 2,511 tỷ đồng, trong đó dự kiến thu ngân sách từ phía Chi nhánh bia Sài Gòn đóng trên địa bàn là 380 tỷ đồng.
Theo Bộ Y Tế, Việt Nam là nước tiêu thụ bia cao thứ 3 tại Châu Á, chỉ sau Nhật Bản và Trung Quốc, với khoảng 3 tỷ lít bia trong năm 2013. Trong 10 năm gần đây, tốc độ tiêu thụ bia của người Việt Nam đã tăng hơn 200%. Rượu, bia đứng trong số 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở Việt Nam. (Tr.N)
Món quà của người đàn bà bán ve chai
Người đàn bà bán ve chai vô danh ấy, có lẽ chẳng bao giờ hình dung ra những con số dài dằng dặc để ghi lại số tiền đã hóa hơi trong những đại án tham nhũng đang làm nghèo đất nước. Càng không bao giờ biết đến chuyện, để chạy chức và chạy án, các quan chức ngày nay xách đến nhà nhau hàng vali tiền mà người nghèo có đếm cả đời cũng không hết.
Tôi cứ nghĩ mãi về một bức ảnh được lan truyền trên mạng xã hội facebook mấy ngày nay khiến cộng đồng mạng xôn xao, xúc động. Bức ảnh chụp một người đàn bà với khuôn mặt đen sạm, nghèo khổ, trước mặt chị là một bao gạo và chai dầu ăn.
Bức ảnh lan truyền trên mạng xã hội Facebook.
Chủ nhân bức ảnh chú thích: “Bức ảnh này chụp vào trưa ngày 13/01/2014 tại quán cơm chay Thiên Phước 5000 đồng, địa chỉ 62 Nguyễn Chí Thanh, Phường 16, Quận 11 (TP.HCM). Một người đàn bà bán ve chai bước vào quán với bao gạo và chai dầu ăn. Chị mang ơn quán cơm này vì đã cứu chị rất nhiều bữa đói. Chị nghèo khó nhưng không quên ơn, gom góp từng đồng, cuối năm, chị dành mua 1 bao gạo và 1 chai dầu tặng lại quán để có thể giúp thêm những người khốn khó khác”.
Có lẽ đó là một trong những bức ảnh đẹp nhất về chân dung con người, trong hoàn cảnh đảo điên nhuộm nhoạm của xã hội ngày nay. Tôi cứ ngắm mãi khuôn mặt chị, đó là một người đàn bà chắc chắn đã trải qua rất nhiều khó khăn, đói khát. Một khuôn mặt điển hình của những người lao động vất vả ngoài đường.
Vậy mà trong khoảnh khắc ấy, chị thật đẹp. Vẻ đẹp tỏa ra từ bên trong, từ hành động cao cả, nghĩ đến người khác, những người khó khăn hơn mình, nên dù nghèo, chị vẫn gom nhặt từng đồng tiền lẻ để mua bằng được một bao gạo con con, một chai dầu ăn mang đến quán.
Trong cái thời buổi đồng tiền lên ngôi, tình người lạnh lẽo, lối sống ích kỷ lan tràn thì tấm lòng của người đàn bà bán ve chai lại càng đẹp hơn bao giờ hết. Nó cho thấy dù chị nghèo khó thật đấy, nhưng chị giàu có hơn vạn lần người khác, những người chưa một lần chìa tay ra san sẻ cho đồng loại.
Biết được câu chuyện này, chẳng phải chúng ta đang cảm thấy trái tim mình ấm áp, tâm hồn mình thư thái và hạnh phúc hay sao? Bởi người đàn bà bán ve chai ấy, chẳng ai biết tên chị là gì, giờ đang tá túc ở đâu, nhưng hành động của chị đã cho chúng ta có thêm niềm tin, rằng những người tốt và những tấm lòng cao cả ở đời còn nhiều lắm. Họ là con người đúng nghĩa với những điều tốt đẹp nhất của danh từ này.
Tôi tin những người như chị, nếu làm người bán hàng sẽ không bao giờ gian tham dối trá hay bớt xén của ai một đồng một hào nào. Nếu làm người công nhân, sẽ có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình. Nếu làm một công chức, sẽ cống hiến tận tâm cho xã hội.
Một cộng đồng muốn tốt đẹp thì không thể không dựa vào từng cá nhân tốt đẹp, một cái cây muốn tươi tốt, bền chắc thì phải có bộ rễ khỏe mạnh. Đạo đức là gốc rễ của mọi vấn đề. Tiếc là ngày nay, xã hội vì quá coi trọng đồng tiền nên đã xem thường nó, coi rẻ nó, khiến cho mọi thứ lộn xộn, đảo điên.
Chị chỉ quanh quẩn sáng tối với cái vỏ chai, mảnh giấy vụn. Hạnh phúc của chị chỉ là sau một năm làm ăn cần mẫn, mua được bao gạo, chai dầu đến cảm ơn quán cơm đã cứu đói chị và san sẻ tình thương cho những người đồng cảnh ngộ. Nhưng cuộc đời của chị, thanh sạch và đáng kính trọng biết bao nhiêu.
Những bài học lý thuyết về đạo đức, tình người sẽ không bao giờ khiến chúng ta thấm thía bằng hành động của người đàn bà bán ve chai ấy.
Cầu mong cho những tấm lòng cao cả ấy sẽ được tiếp nối, sẽ lan rộng ra để duy trì sự tốt đẹp và làm sáng thêm hai chữ “đạo nghĩa” trong đời sống này.
Tưởng nhớ người mang 219 cô nhi ra khỏi Sài Gòn
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-09-03

Hàng trăm người Việt đã đón mừng bà Betty Tisdale tại phòng sinh hoạt của nhật báo Người Việt ở Westminster chiều 30 tháng Tư năm 2010.
Tưởng nhớ người mang 219 cô nhi ra khỏi Sài Gòn những ngày cuối tháng Tư 1975
Đó là bản tin buổi chiều trên đài truyền hình Hoa Kỳ, nói về bà Betty Tisdale, vừa qua đời ngày 19 tháng Tám năm 2015, hưởng thọ 92 tuổi.
Trong cuộc chiến Việt Nam, bà Betty Tisdale đã cố vận động bằng mọi cách để mang cho được 219 trẻ mồ côi từ cô nhi viện An Lạc ra khỏi Việt Nam trong những giờ phút hấp hối sau cùng của Sài Gòn.
Từ mối duyên nợ gắn bó với cô nhi Việt Nam, điển hình là 5 em gái mồ côi bà nhận làm con nuôi từ năm 1970, trở về Hoa Kỳ bà Betty Tisdale đã sáng lập tổ chức H.A.L.O Helping And Loving Orphans, Giúp Đỡ Và Yêu Thương Trẻ Mồi Côi.
Đó là cách sống của tôi. Bạn phải nghĩ đến kết quả sau cùng của việc bạn đang làm, hãy thực hiện điều gì đó khiến cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn…
Khi loan báo về cái chết của bà Betty Tisdale hôm 19 tháng Tám, bản tin của đài truyền hình tôn vinh bà là một phụ nữ can trường đã cứu vớt biến đổi thật tốt đẹp bao nhiêu cuộc đời bơ vơ non trẻ trên thế giới.
Câu chuyện bà Betty Tisdale và trẻ mồi côi Việt ở cô nhi viện An Lạc sống lại trong trí nhớ người di tản khi bà, năm đó 87 tuổi, xuất hiện trong một buổi tri ân do nhật báo Người Việt tổ chức ở California chiều 30 tháng Tư năm 2010:
Đó là cách sống của tôi. Bạn phải nghĩ đến kết quả sau cùng của việc bạn đang làm, hãy thực hiện điều gì đó khiến cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn…
Bà Betty Tisdale gặp cộng đồng người Việt
Khoảng 300 người đã đến phòng sinh hoạt của nhật báo Người Việt để gặp gỡ và cảm ơn bà Betty Tisdale mà câu chuyện của bà đăng trên báo người Việt khiến mọi người cảm kích, thán phục.
Tại sao phải đến những 35 năm người Việt ở Hoa Kỳ mới gặp người phụ nữ Mỹ có tấm lòng nhân hậu đối với trẻ mồ côi Việt Nam này. Chủ bút Phạm Phú Thiện Giao của báo người Việt giải thích rằng câu chuyện bà Betty Tisdale thì truyền thông Hoa Kỳ nói rất nhiều mà người Việt thế hệ lớn tuổi cũng biết nhưng trước giờ chưa có một cuộc gặp gỡ nào giữa bà Betty Tisdale với cộng đồng Việt Nam cả:
Một lần, một cô nhi ngày xưa bây giờ đã 35 tuổi tên Vũ Tiến Kinh hiện đang sống ở miền Đông Hoa Kỳ, về lại bệnh viên UCLA để tìm lại người bác sĩ đã cứu mình 35 năm trước. Vũ Tiến Kinh là một trong 219 cô nhi được bà Betty Tisdale đưa sang Hoa Kỳ năm 1975.
Tiếp đó, nhật báo Người Việt đưa tin về buổi gặp gỡ giữa Vũ Tiến Kinh và vị bác sĩ ân nhân đã chăm sóc, cứu sống anh khi anh được bốc qua Hoa Kỳ lúc 4 tháng tuổi:
Và chúng tôi tự hỏi như vậy thì người đưa Vũ Tiến Kinh qua đây là ai. Qua tìm hiểu thì chúng rôi biết đó là bà Betty Tisdale, chúng tôi gởi phóng viên qua tận nhà của bà ở Seattle, Washington, để viết lại những gì đã xảy ra 35 năm trước. Có nhiều người khi đọc về câu chuyện của bà Betty Tisdale thì mới hỏi thêm rất nhiều câu hỏi mà chúng tôi không thể trả lời được nên chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất là nên tổ chức một cuộc gặp gỡ với cộng đồng. Đây là cuộc gặp gỡ tại báo người Việt nhưng ban tổ chức gồm nhiều cơ quan truyền thông khác như TV, báo, đài phát thanh Việt ngữ ở Quận Cam.
Cùng đi với bà Betty Tisdale khi đó là cô Liên, một trong 5 em bé mồ côi của cô nhi viện An Lạc, được bà nhận làm con nuôi từ năm 1970, cùng với anh Vũ Tiến Kinh là người đã dẫn đến với câu chuyện Betty Tisdale bốc trẻ mồ côi Việt sang Mỹ
Thật lạ, tôi cũng nghĩ tôi gắn bó với Việt Nam và người Việt biết chừng nào. Những việc tôi đã làm cho trẻ mồi côi Việt Nam, tình cảm và sự khâm phục của tôi đối với bà Vũ Thị Ngải, người sáng lập và giám đốc cô nhi viện An Lạc,có thể chứng tỏ điều đó.
Kể lại những giây phút khó khăn mà có lúc tưởng chừng như bế tắc khi cố vận động với Cơ Quan Di Trú Hoa Kỳ cũng như với chính phủ miền Nam lúc đó hầu có thể đưa một lúc 400 em mồ côi và bà Vũ Thị Ngải, người mà bà Betty Tisdale gọi là bà mẹ nhân ái của trẻ mồi côi ở cô nhi viện An Lạc.
Tiếc thay, bà Betty Tisdale kể tiếp lúc ấy chỉ mang được 219 em sơ sinh và dưới 10 tuổi thay vì hết cả 400 như dự tính.
Ngày 12 tháng Tư 1975, chiếc phi cơ vận tải quân sự chở 219 cô nhi Việt Nam phải đáp khẩn cấp xuống phi trường Los Angeles vì một số em nhỏ quá yếu không thể bay tiếp đến Fort Benning ở Georgia là nơi mà bà Betty Tisdale muốn đưa hết về đó để tìm cha mẹ nuôi cho các em.

Bà Betty Tisdale
Một trong những bé được đưa ra khỏi máy bay lúc ấy, thẳng đến bệnh viện UCLA, chính là Vũ Tiến Kinh mà bây giờ đã lớn và trở thành một giáo viên:
Tôi luôn nhớ ơn và coi bà như một bà mẹ đã ôm tôi trong tay, mang tôi đến một cuộc đời mới 35 năm về trước, khi mà tôi chưa đủ trí khôn để cảm nhận điều gì xảy ra.
Cách đây mấy tuần tôi đi dự một buổi họp mặt của khoảng 60 đứa trẻ An Lạc tôi mang qua Hoa Kỳ mà nay đều đã lớn. Những đứa con ấy gần như không biết gì về Việt Nam, chúng không nói được tiếng Việt trong lúc tôi biết chúng là người Việt
bà Betty Tisdale
Trước một cử tọa đang xúc động lắng nghe từng lời kể của mình, bà Betty Tisdale Tisdale luôn miệng nhắc nhở Madame Ngải, tức bà Vũ Thị Ngải, giám đốc viện mồ côi An Lạc, đã phải ở lại cùng những em nhỏ không đi được.
Bà nói như tâm sự:
Cách đây mấy tuần tôi đi dự một buổi họp mặt của khoảng 60 đứa trẻ An Lạc tôi mang qua Hoa Kỳ mà nay đều đã lớn. Những đứa con ấy gần như không biết gì về Việt Nam, chúng không nói được tiếng Việt trong lúc tôi biết chúng là người Việt
Và rồi bổng dưng như hôm nay, nhờ cuộc gặp gỡ này, bản thân tôi bỗng nhận ra có một cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ biết về tôi và rất gần với tôi mà bao lâu tôi không hề nghĩ tới.
Cuốn phim The Children Of An Lac
Năm 1980, câu chuyện 219 ở cô nhi viện An Lạc và bà Betty Tisdale, được quay thành phim với tựa đề The Children Of An Lac. Nữ nghệ sĩ Kiều Chinh, cũng có mặt trong buổi đón tiếp bà Betty Tisdale hồi 2010 ở phóng sinh hoạt báo Người Việt, nói về cuốn phim mà bà được mời giữ một vai trong đó:
Năm 1980 bà tài tử Ina Bailing, cũng là người đi tới đi lui giúp các trẻ mồ côi và chính bà cũng nuôi một số trẻ mồ côi, bà có viết một script để quay thành phim The Children Of An Lac, nói về cuộc đời bà Ngải và bà Betty Tisdale.
Lúc đó cả bà Ina Bailing lẫn nhà sản xuất là Jay Benson đề rất muốn vai bà Ngải phải là Kiều Chinh đóng. Nhưng lúc đó Kiều Chinh hãy còn trẻ quá để đóng vai bà Ngải. Bà Ngải thì dáng người nhỏ thấp hơn Kiều Chinh, vì thế sau này họ mời một tài tử Tàu, bà Beulah Ko, đóng vai bà Ngãi, còn Kiều Chinh thì đóng vai người phụ tá của bà Ngải tức là bà Thục. Ngoài ra Kiều Chinh còn đóng một vai trò khác phia sau máy quay phim, tức là người cố vấn về kỹ thuật . The Children Of An Lac sau nay trở thành một cuốn phim mà các trường tiểu học thường chiếu cho trẻ em coi.
Hôm nay Kiều Chính tới đây mục đích để gặp những nhân vậy thật trong chuyện mà mình có cơ duyên đóng về cuộc đời của họ. Điều thứ hai mình cũng tới để cám ơn ân nhân của một số các em đã được họ trông nom bảo trợ.
Tại buổi gặp gỡ và tri ân bà Betty Tisdale ở nhật báo Người Việt 5 năm về trước, rất nhiều người đã xếp hàng để tặng hoa và nói lời cảm tạ đến bà Betty Tisdale. Nhiều người còn tự động đóng góp vào ngân quĩ của H.A.L.O Help And Love Orphans do bà sáng lập để giúp vào công việc thiện nguyện đầy ý nghĩa của bà .
Chị Trâm Anh, mong muốn được ngỏ lời chào ân nhân của những trẻ mồ côi An Lạc ngày trước, bày tỏ:
Tôi cảm kích khi thấy một người đàn bà Mỹ nhỏ thó, trông có vẻ bình thường nhưng đã làm một việc đối với tôi quá sức phi thường.
Cả đời bà giúp và cứu được 219 em mồ côi sang Mỹ, tất cả các em đã thanh tài và thành nhân. Trong buổi này một câu bà nói tôi nhớ nhất là cả đời bà tất cả cho Việt Nam. Khi bà nói như vậy thì tôi nghĩ bà nói tới những trẻ mồ côi bất hạnh bên Việt Nam. Bên nước mình bây giờ trẻ mồ côi rất đông, cho nên đến giờ này đã 87 tuổi bà vẫn tiếp tục công việc từ thiện, đến những vùng sâu vùng xa để giúp để giúp các em đó. Tôi rất hoan nghênh bào người Việt đã tổ chức buổi họp hôm nay.
Thời gian và sự sống không dành đặc quyền cho bất cứ ai, những người tốt lành cả đời như bà Betty Tisdale rồi cũng đến lúc xuôi tay nhắm mắt trong nỗi tiếc thương của 5 con nuôi Việt Nam của bà.
Có thể nỗi ưu tư mà bà Betty Tisdale mang theo về bên kia thế giới, là những trẻ Việt Nam vì sang Mỹ lúc còn quá nhỏ và không hiểu biết gì về cội nguồn của mình khi lớn lên, sẽ tan biến đi nếu bà có thể nghe lại cảm nghĩ của anh Vũ Tiến Kinh rằng
Bây giờ niềm hạnh phúc là khi bước xuống thành phố Westminster, nơi có nhiều người Việt như mình, chấp nhận mình dù như còn phải học hỏi rất nhiều nữa về cội nguồn của mình.
Hoặc là cảm nghĩ của cô con gái tên Liên mà bà nhận nuôi khi còn ở Việt Nam năm 1970, không ngần ngại thú nhận chừng như cô quá bị Mỹ hóa, không bận tâm đến nguồn gốc và có lúc đã không thỏa hiệp được với bản thân rằng cô là một đứa bé mồ côi người Việt:
Thế nhưng khi cùng mẹ bước ra khỏi máy bay và được ân cần đón tiếp, tôi chợt thấy xúc động vì tình cảm họ dành cho mẹ tôi.
Thật khó diễn tả cảm xúc trong lần đầu gặp gỡ với cộng đồng người Việt, cô Liên nói, vì đã quá nhiều lần cô không chịu nhận mình là Việt Nam dù trong thâm tâm cô vẫn nghĩ không nên nuôi cảm giác như thế. Càng nói chuyện thì càng thấy gần gũi hơn, nhất là sau buổi ăn tối với một số người trong cộng đồng thì cô nghĩ:
Tôi mới tìm thấy một cái gì đó hoặc vừa tìm về một nơi nào đó mà có thể gọi là nhà, tiếng nhà đích thực tôi chưa bao giờ biết đến trước kia.
Thanh Trúc tạm chấm dứt chuyện kể về bà Betty Tisdale và những trẻ em mồ côi An Lạc ở phút này. Hẹn các bạn trong chương trình kỳ tới.
Aylan Kurdi ơi: Em đã chết cho mọi người được sống!
Nam Lộc
Hình ảnh của em bé thuyền nhân tỵ nạn Syrian 3 tuổi tên là Aylan Kurdi nằm gục mặt chết trên bãi cát khi xác của em trôi dạt vào bờ biển Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ tuần qua đã làm thức tỉnh lương tâm nhân loại trong lúc các con đường dẫn những người phải bỏ nước ra đi vì chế độ độc tài và diệt chủng để tìm đến một nơi an toàn tại các quốc gia Âu Châu lánh nạn đã bị chặn lại và cánh cửa nhân đạo hầu như đều khép kín.
![]() Một nghệ sĩ Ấn Ðộ làm mô hình cát em bé người Syria bị chết trôi dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ. (Hình minh họa: Asit Kumar/AFP/Getty Images) |
Aylan đã chết đuối cùng với người anh lớn hơn em 2 tuổi và người mẹ của mình cùng hàng chục người khác khi chiếc xuồng của họ bị chìm đắm trên vùng biển Bắc Ðại Tây Dương. Hoàn cảnh của hàng trăm ngàn người tỵ nạn từ các nước Iraq, Afghanistan và đặc biệt là từ Syria tràn vào Âu Châu bằng đường bộ hay bằng đường thuyền cùng với sự xua đuổi của những người lính Hung Gia Lợi trong tuần qua đã gợi lại cho đồng bào tỵ nạn Việt Nam chúng ta cơn ác mộng vượt biên 30 năm về trước. Âm thanh của bài hát Xác Em Nay Ở Phương Nào hoặc câu “tự do ơi, tự do, em đổi bằng thân xác…” bỗng dưng vọng lại bên tai như những Lời Kinh Ðêm quen thuộc mà thuyền nhân đã cầu nguyện thuở nào! Thì ra người Việt chúng ta đã trải qua những nỗi gian truân đó từ lâu, khủng khiếp hơn, khổ đau hơn và bất hạnh hơn. Chỉ khác là vào thời điểm đó phương tiện truyền thông chưa phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như hiện nay để thế giới biết rằng có đến gần nửa triệu người VN đã chết trên biển Ðông như số phận cùng hoàn cảnh của cậu bé Aylan.
Nhưng cũng chính vì sự tiến bộ kỹ thuật bây giờ mà hình ảnh của cậu bé Aylan chết tức tưởi, oan khiên trên biển cả, đã như một phép lạ từ từ mở rộng những cánh cửa đã bị loài người ích kỷ khóa lại từ suốt gần một tuần qua. Chính phủ Hung Gia Lợi đã phải làm những hành động tối thiểu, dù không tiếp nhận, nhưng cũng đã cung cấp xe bus để đưa người tỵ nạn đến biên giới của những quốc gia nhân đạo hơn, Phần Lan đã mở rộng cánh tay, Ðức đã quyết định tiếp nhận và sẵn sàng cung cấp công ăn, việc làm cho hàng trăm ngàn người tỵ nạn, sau đó là Áo, Anh, Bỉ, Pháp, v.v… và dĩ nhiên là cả Hoa Kỳ, đất nước được xem là có một trách nhiệm lớn trong cuộc khủng hoảng ở Trung Ðông, đặc biệt là chính sách bị nhiều người chỉ trích là “bất nhất” của chính phủ Obama từ suốt 3 năm qua về vấn đề Syria cùng nhà lãnh đạo độc tài và tham quyền, cố vị: Bashar ai-Assad.
Nhưng tình hình đã có phần nào thay đổi theo chiều hướng tích cực trong mấy ngày qua, phải chăng nỗi bất hạnh của Aylan Kurdi cùng gia đình em đã được đổi lại bằng sự may mắn và hạnh phúc của hàng trăm ngàn nạn nhân của bọn độc tài, khủng bố, đã quyết định vượt biên và có thể cũng sẽ là niềm hy vọng cho hàng triệu người khác đang sống nhục nhằn trong các trại tỵ nạn ở Lebanese, tại Thổ Nhĩ Kỳ hay ngay tại đất nước Syria hiện nay? Các nhà lãnh đạo ở trên thế giới kể cả tay cựu trùm KGB, Vladimir Putin, đang là tổng thống nước Nga dù cứng đầu đến đâu cũng phải quyết định ngồi xuống để tìm ra một giải pháp hầu giải quyết cơn khủng hoảng trầm trọng này hầu cho người dân Syria có một cuộc sống ổn định ngay trên quê hương của họ thay vì phải mang đời lưu vong. Và nếu đúng như vậy thì Aylan Kurdi ơi, em đã chết cho mọi người được sống!
Nhìn hình ảnh bé Aylan nằm chết như mơ, như thiên thần đang gục đầu ngủ yên trên bãi cát, nó cũng thảm thương như thân phận của những đứa trẻ VN bất hạnh thuở nào, lòng tôi trùng xuống một nỗi buồn vô hạn. Trước đó một tuần, khi xem được đoạn phim chiếu cảnh người đàn ông Syrian gò lưng đi bán từng cây bút nắp xanh để kiếm được miếng ăn cho đứa con gái nằm ngủ trên vai trong cơn nóng thiêu đốt trên đường phố ở Beirut, bỗng dưng tôi nhớ lại tình cảnh của hơn 2000 “Người Việt Còn Lại” ở Phi Luật Tân vào những năm đầu thập niên 2000, những người đã bị thế giới lãng quên qua gần 20 năm trời khổ hạnh với mẫu “căn cước” được đóng dấu là dân “vô tổ quốc” (Stateless)! Và ở đó, tôi cũng đã thấy hình ảnh người đàn ông tỵ nạn VN cõng trên vai đứa con gái chưa đầy 2 tuổi trong cơn nóng thiêu đốt ở Palawan để bán từng đôi dép cho những người dân làng hầu may ra mua được cho con mình một khúc bánh mì hay một bình sữa lạnh!
Tiếng reo của chuông điện thoại làm tôi tỉnh lại, sờ lên mắt, không biết là mình đã khóc từ lúc nào, và tự nhủ lòng, có lẽ mình sẽ phải làm một điều gì để cùng đồng hương chúng ta xoa dịu được một phần nào vết thương đang nhỏ máu của nhân loại dù chỉ là một điều nhỏ nhoi như hạt cát trong sa mạc.
Bên kia đầu dây là giọng nói của một người bạn trẻ tên là James ở Toronto, Canada, em ngỏ ý muốn mời tôi làm MC cho một buổi “sinh hoạt” tại đây, sau khi thỏa thuận thù lao xong, tôi hỏi em về nội dung chương trình, lúc đó James mới cho biết mục đích của ngày sinh hoạt này là để phát động chiến dịch gây quỹ cho dự án có tên là “Lifeline Syria Project” ngõ hầu tìm phương tiện để bảo trợ cho các gia đình người tỵ nạn Syrian đang phải đối phó với những nỗi khốn cùng trên đường tìm tự do! Lòng tôi chợt bùng sáng lên như một kẻ đang đói khát được người ta ban phát cho một khúc bánh mì cùng ly nước lạnh! Tôi hân hoan nói với James, em ơi, tôi sẵn sàng nhận lời tham dự và xin phép cho tôi được đóng góp toàn bộ số tiền thù lao của tôi vào buổi gây quỹ trong ngày hôm đó để tiếp tay với ban tổ chức. James thoạt đầu hơi ngạc nhiên và ngần ngại, nhưng sau đôi lời trao đổi em đã hiểu lòng tôi và vui vẻ đồng ý. Tuy nhiên khi James đề cập đến thời điểm của buổi tổ chức sẽ rơi vào một ngày cuối tuần trong Tháng Mười sắp tới thì tôi vô cùng lo lắng và hơi thất vọng, vì lịch trình diễn đã đầy ắp, không còn rảnh một weekend nào trong Tháng Mười cả, đấy là chưa kể đến chuyến đi Úc Châu kéo dài hơn một tuần lễ vào giữa Tháng Mười, 2015! Nhưng khi mở lịch ra xem, thì tôi thấy còn trống một ngày Thứ Bẩy duy nhất đó là October 3rd, nhưng đã dự định mua vé để bay sang Washington DC cho một event khác diễn ra vào buổi trưa Chủ Nhật October 4th. Và như một “phép lạ,” James cho tôi biết, vì tính cách cấp bách của sự việc cho nên BTC đã quyết định tổ chức vào ngày Thứ Bảy, mùng 3 Tháng Mười, 2015. Nghe em nói lòng tôi như mở hội, như vậy thì xem như “giấc mơ” ấp ủ “được làm một điều gì để cùng đồng hương chúng ta xoa dịu phần nào vết thương đang nhỏ máu của nhân loại” đã thành sự thật. Hai anh em chúng tôi cùng vui, và sau khi James email cho tôi thêm chi tiết cùng tấm ảnh chúng tôi chụp chung với nhau trong lần tiếp đón và bảo trợ những người Việt tỵ nạn cuối cùng từ Thái Lan đến Vancouver vài tháng trước đây, tôi mới biết đó là James Nguyễn, cựu chủ tịch Hội Người Việt Toronto, và buổi gây quỹ lần này sẽ phối hợp cùng tổ chức VOICE Canada và một số cơ quan, đoàn thể người Việt tại đất nước giầu lòng nhân đạo này. VOICE Canada cũng không xa lạ gì với tôi, vì ngoài nỗ lực tranh đấu, vận động cũng như định cư những người Việt tỵ nạn muộn màng, vào Tháng Tư 2015 vừa qua, họ còn gây quỹ được $100 ngàn để tiếp tay cho Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh VNCH và Quả Phụ Tử Sĩ do bà Hạnh Nhơn làm chủ tịch.
Tôi tin rằng điều may mắn được góp mặt cùng “Lifeline Syria Project” lần này là do sự sắp đặt của Thượng Ðế như một “ơn gọi” của Bề Trên, của Trời Phật dù lời cầu xin của tôi chỉ mới là những tiếng nhủ thầm trong bụng. Tôi đem chuyện này chia sẻ với các gia đình tỵ nạn VN từ Palawan, Phi Luật Tân, những người cũng đã từng bị thế giời lãng quên. Họ đang tổ chức ngày “Tri Ân và Hội Ngộ” để kỷ niệm 10 năm định cư, đồng thời để cảm tạ những người đã giúp họ được làm lại cuộc đời nơi đất khách. Trong đêm họp mặt gọi là “tiền hội ngộ,” Thứ Bảy, mùng 5 Tháng Chín, 2015 vừa qua, sau khi nghe tôi trình bày có người đã rơi nước mắt, hồi tưởng lại thân phận mình và so sánh với hoàn cảnh của người tỵ nạn Syrian cùng thân xác của vị “Thánh Tí Hon” tên là Aylan Kurdi, đã hy sinh cuộc đời để cho đồng bào mình được cứu sống! Và kết quả là trong đêm họp mặt ngày hôm sau, mùng 6 Tháng Chín, trước sự hiện diện của các quan khách cùng ân nhân Việt, Mỹ và đặc biệt là đại diện của chính phủ Phi Luật Tân, quốc gia duy nhất đã không trục xuất thuyền nhân VN. Luật Sư Trịnh Hội đã đại diện các gia đình tỵ nạn VN từ Palawan chính thức loan báo rằng những thuyền nhân người Việt muộn màng này sẽ bảo lãnh 4 gia đình người tỵ nạn Syrian, và họ nhờ tôi liên lạc với các cơ quan thiện nguyện để bắt đầu thủ tục định cư tại thành phố Houston. Anh Trung Ðình Nguyễn, trưởng ban tổ chức đã cho các ân nhân và quan khách Việt, Mỹ cũng như Phi Luật Tân hiện diện trong ngày hôm đó biết rằng: “Cách duy nhất mà chúng tôi có thể làm được bây giờ để trả ơn quý vị là đưa tay ra để cứu giúp những người bất hạnh khác, như quý vị đã cứu giúp chúng tôi”! Thật là một hành động dấn thân mang đầy ý nghĩa.
Nhân đây chúng tôi cũng xin cám ơn quý vị đồng hương ở khắp mọi nơi đã đáp lại lời kêu gọi của chúng tôi để đóng góp vào quỹ “Thank You America” của cơ quan thiện nguyện USCC hầu giúp đỡ và tiếp tay cho tổ chức đã từng bảo trợ chúng ta để định cư những người tỵ nạn Syrian bất hạnh nói trên. Tính đến cuối Tháng Bảy, 2015, sau 4 tháng phát động, hội USCCLA cho biết là họ đã nhận được khoảng 60 ngàn dollars từ cộng đồng người Việt, và cơ quan này cũng đã gởi thơ cám ơn đến từng quý vị ân nhân đã đóng góp.
Qua nghĩa cử cao đẹp trước hết là của “Lifeline Syrian Project” ở Toronto, Canada, theo sau là anh chị em trong nhóm “Người Việt Còn Lại” tại Houston, Texas, chúng tôi mong mỏi sẽ có những tổ chức hoặc các hội đoàn hay cá nhân ở những địa phương khác cũng sẽ tiếp tay đóng góp, đón nhận hoặc bảo trợ các gia đình tỵ nạn đang sống vất vưởng tại các trại tỵ nạn ở nhiều nơi trên thế giới. Nếu muốn tìm hiểu thêm chi tiết hoặc tin tức, xin quý vị cứ email về địa chỉ của chúng tôi là: namloc@sbtn.tv
SÀIGÒN ƠI, NẮNG VẪN CÓ CÒN VƯƠNG TRÊN ĐƯỜNG
( Bài hát “Vĩnh biệt Sàigòn” của Nam Lộc )
Trích EPHATA 658
Mấy hôm nay trời mưa nặng hạt, sáng mưa, trưa mưa và chiều cũng mưa, Sàigòn ướt dầm dề, ngập lụt khắp nơi. Trên mặt báo, các con đường ngập đầy nước, người ta dắt xe chết máy đi trong nước như đang bơi giữa những dòng sông. Những con phố, những khúc đường biến thành sông !
Sàigòn vẫn diện tích ấy, vẫn những con đường ấy, vẫn hệ thống tiêu thoát ấy, phải gánh trên mình gần 10 triệu dân, làm sao chịu nổi khi các hạ tầng kỹ thuật chỉ dành cho một thành phố 4 triệu dân. Mất thật rồi khi không còn những “con đường Duy Tân cây dài bóng mát”, những dòng kinh trong xanh uốn lượn, những khu phố nối tiếp mùi Ngọc Lan thơm nồng. Mất thật rồi những tà áo trắng tan trường ngây thơ của một thời “Hoàng Thị”, không còn tiếng cười khúc khích của học trò dàn hàng ngang xe đạp, mất cả quán cà phê thân quen đậm chất sương mờ của buổi sáng Sàigòn tinh khôi.
Có những người đã dũ áo bỏ Sàigòn ra đi vào những ngày tháng mệt mỏi, buồn phiền. Thập niêm 80, lịch sử Sàigòn được ghi nhận tràn ngập kinh hoàng của những chuyến vượt biên, những cuộc chia tay không bao giờ nghĩ có ngày gặp lại, những cuộc tình đành tan vỡ vì những chọn lựa sinh tử cuộc đời. Sàigòn ngày ấy âm thầm gánh chịu nhiều đau khổ là vậy. Quyết định tập trung cải tạo xé nát hàng trăm ngàn gia đình, dở dang hàng chục ngàn tình nghĩa, bơ vơ hàng triệu trẻ thơ. Cũng vẫn rất lặng thinh, Sàigòn chứng kiến những cuộc chia tay âm thầm thật kín đáo, kẻ ở lại, người ra đi đến bến bờ xa xăm nào đó đầy rủi ro bất trắc, họ vẫn đi. Biển cả, nguồn sinh lực sự sống bỗng dưng trở nên hung thần, và trở thành biểu tượng của chia ly, những cụm mây lòa xòa trên đầu núi không còn là những bài thơ gởi gắm của thời mộng mơ nữa.
Những năm gần đây, rất nhiều bài báo, rất nhiều ký sự ghi lại những khó khăn, những khổ ải, những mất mát của những người vượt biên, kể cả đường biển và đường bộ, những đau khổ ấy khó mà nguôi ngoai, khó mà quên đươc trong cuộc đời, ít là của những người chứng kiến. Cách này cách khác, nhiều người đã cố tìm cách lưu giữ các kỷ niệm còn lại của những người thân yêu, để nhớ một thời, để yêu một đời…
Những hình ảnh tràn ngập trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác về cuộc di dân ồ ạt từ các nước Trung Đông vượt Địa Trung Hải sang các nước Châu Âu trong những ngày qua. Hình ảnh một em bé chết trôi xác vào bờ biển làm rúng động cả thế giới, em chết như ngủ trong chuyến hành trình tìm đất sống. Châu Âu rúng động, Đức Thánh Cha lên tiếng mạnh mẽ, ngài kêu gọi mở cửa Nhà Thờ, mở cửa Tu Viện để đón người tỵ nạn, ngài nói hãy mở cửa ra, đừng để Nhà Thờ, Giáo Xứ trở nên viện bảo tàng.
http://www.tinmungchonguoingheo.com/blog/2015/09/07/
http://www.tinmungchonguoingheo.com/blog/2015/09/10/
Mẹ tôi năm nay đã 95 tuổi, bà sống với ký ức và những câu chuyện ngày xa xưa, một trong những câu chuyện bà hay kể cho tôi nghe đó là câu chuyện của những ngày năm 54, bà đã phải gian khổ thế nào để tay bồng tay bế 4 đứa con lên đường vào Nam theo quyết định của cha tôi. Khi ấy cha tôi đóng lính ở Hà Nội, ông biết sẽ di chuyển vào Nam nên tìm mọi cách nhắn tin về quê cho mẹ tôi, bằng mọi giá phải đưa các con vào Nam, gia đình sẽ đoàn tụ trong đó. Mẹ tôi đã phải thoát khỏi những con mắt rình mò của cán bộ du kích, những kẻ chỉ lắm le bắt người thủ tiêu không thương tiếc. Sau này tôi còn nghe cha tôi kể lại tên của một vài người bạn của cha tôi đã bị thủ tiêu ở quê khi không kịp thoát đi. Mẹ tôi còn phải tìm cách thoát khỏi cả ông nội tôi nữa, ông nhất quyết bắt một cháu trai phải ở lại nhà để lo nhang khói, mồ mả tổ tiên. Lên thành rồi, vì thương nhớ đứa con trai còn lại, mẹ tôi buộc lòng tìm về quê nhà trong đêm tối, núp ở bãi tha ma nơi không ai dám tới, rồi tìm cách “bắt cóc” con mình đi trong đêm. Hai mẹ con chạy dưới ruộng suốt đêm vì nếu đi trên mặt lộ sẽ bị bắt lại. Chẳng lâu sau, ông nội tôi bị đấu tố chết trong cuộc cải cách ruộng đất, chết lạnh giữa sân đình ngay trong đêm trước khi bị đấu tố sáng hôm sau, cô tôi đem nắm cơm bò vào tiếp tế thì thấy ông tôi đã chết cứng rồi !
Sự lên tiếng mạnh mẽ của Đức Thánh Cha có thể sẽ làm cho Châu Âu thay đổi, người nhập cư sẽ đông hơn người bản xứ. Thật ra, không có cuộc di cư ồ ạt này thì Châu Âu người nhập cư đã chiếm một vị trí lớn, cứ xem các đội bóng Châu Âu thì biết, có mấy cầu thủ da trắng đâu. Ngày xưa, khi các dân rợ ở các khu rừng bên bìa Châu Âu tiến chiếm làm tan rã nước Cộng Hòa La Mã, người ta rầu rĩ tiếc thương nền văn minh rực rỡ của La Mã sẽ bị vùi dập bởi người man di, nhưng không phải thế, các sắc dân rợ đã xây dựng Châu Âu qua nhiều thế kỷ, tiến lên với một nền văn minh rực rỡ và tốt đẹp hơn.
Các nước văn minh có xuất xứ “rợ” ngày xưa nay đang “được” tràn ngập bởi các sắc dân hoàn toàn xa lạ khác. Lịch sử lại sang trang…
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 10.9.2015