RFA Việt ngữ gỡ giải thích về Lê Diễn Đức BBC

RFA Việt ngữ gỡ giải thích về Lê Diễn Đức

  • BBC

Ông Lê Diễn Đức nói RFA bị “áp lực dư luận rất nặng nề”.

Ban tiếng Việt Đài Á Châu Tự do gỡ trình bày về lý do chấm dứt hợp đồng với nhà báo Lê Diễn Đức khỏi trang Facebook của mình.

Trong status đăng hôm 6/9 mà nay không còn truy cập được (10:00 sáng giờ Hà Nội 7/9), quản trị viên trang Facebook của RFA Tiếng Việt giải thích rằng quan điểm cá nhân của nhà báo Lê Diễn Đức không phù hợp với những tiêu chí, mục đích và nguyên tắc của hãng nên họ đã chấm dứt hợp đồng.

Quyết định của RFA được đưa ra sau khi ông Lê Diễn Đức bình luận về điều ông gọi là ‘thất bại’ của quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng như chiến dịch Đông Tiến của Việt Tân thời Tướng Hoàng Cơ Minh.

“Cả hàng trăm ngàn quân lính trong tay, vũ khí xềnh xàng mà còn bị bộ đội Bắc Việt đánh cho tan tành, chạy chít chết, cuối cùng phải đầu hàng, thì vài chục người đi qua rừng núi Thái Lan dựng “chiến khu” với mục đích “Đông Tiến”,”phục quốc” chỉ là trò cười, ảo tưởng, chứ “anh hùng” cái nỗi gì.

“Đây đích thực là một cuộc làm “chiến khu” giả lừa gạt bà con hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền, không hơn không kém! Niềm tin vào những “anh hùng vị quốc vong thân” ấy là niềm tin ngô nghê, mù quáng,” ông Đức viết trên facebook cá nhân của ông.

Trả lời BBC ngày 5/9, ông Lê Diễn Đức nói đài RFA đã có quyết định trên do “bị áp lực dư luận rất nặng nề”.

“Họ thông báo ngưng hợp đồng với tôi hôm nay và gỡ mục báo xuống”, ông Đức nói thêm.

Bấy lâu nay ông Lê Diễn Đức viết các bài bình luận về thời sự liên quan tới Việt Nam trên blog mang tên ông trên trang web RFA tiếng Việt.

Hiện trang blog của ông Đức trên RFA đã không còn truy cập được.

Trong status trên Facebook, RFA tiếng Việt viết:

“Xét về mặt quan hệ, chuyện của RFA Việt ngữ với nhà báo Lê Diễn Đức là quan hệ dân sự.

“RFA Việt ngữ thấy rằng quan điểm cá nhân của nhà báo Lê Diễn Đức không phù hợp với những tiêu chí, mục đích và nguyên tắc của hãng, nên đã chấm dứt hợp đồng.

“Đây là một chuyện hoàn toàn bình thường trong xã hội dân sự thuần túy. Nếu có bất cứ khúc mắc nào, nhà báo Lê Diễn Đức hoàn toàn có quyền khởi kiện dân sự lên tòa án tại Hoa Kỳ,” quản trị trang này viết.

RFA tiếng Việt cũng so sánh về chuyện nhà báo Lê Diễn Đức với sự việc của nhà báo Đỗ Hùng của báo Thanh Niên mà nhiều bạn “đã có thắc mắc”.

“Hai sự việc này có điểm giống nhau: Đều xuất phát từ những bài viết trên trang cá nhân facebook, đương nhiên không phải là bài viết báo chí, không phải là hoạt động báo chí và hoàn toàn là chuyện cá nhân.

Nhà báo Lê Diễn Đức công khai nhận định chủ quan về những người lính Việt Nam Cộng hòa…gây ra mâu thuẫn, chia rẽ trong cộng đồng người Việt trong nước và Hải ngoại.

Facebook RFA tiếng Viêt

“Chúng tôi tôn trọng quan điểm cá nhân và các quyền tự do của mỗi người, trong đó có hai nhà báo Lê Diễn Đức và Đỗ Hùng.”

‘Hai sự kiện khác nhau’

“Tuy nhiên, hai sự việc này có những điểm hoàn toàn khác nhau.

“Anh Đỗ Hùng bị tước thẻ nhà báo bằng quyết định hành chính, bị giáng chức và kể cả cho thôi việc dưới sức ép từ phía chính quyền, của Ban Tuyên giáo của đảng cộng sản và từ Cơ quan an ninh quản lý lĩnh vực báo chí, không phải vấn đề dân sự.

“… Đoạn viết của nhà báo Lê Diễn Đức công khai nhận định chủ quan về những người lính Việt Nam Cộng hòa, và quy chụp những người có tư tưởng, suy nghĩ và hành động riêng là “lừa gạt bà con Hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền” mà không có bằng chứng chứng minh. Từ đó gây ra mâu thuẫn, chia rẽ trong cộng đồng người Việt trong nước và Hải ngoại.

“Đối với các vấn đề lịch sử, chúng ta cần có góc nhìn khách quan, không thiên kiến và tôn trọng cả hai bên của cuộc chiến, dù thành hay bại, nhằm mục tiêu xa nhất là xóa bỏ hận thù, hòa hợp, hòa giải, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đó là một trong những mục tiêu, nguyên tắc của RFA.

“Do đó, trong các bài viết, RFA Việt ngữ dù có nói đến vấn đề lịch sử cũng đều cố gắng nói về hiện tại và tương lai. Những vấn đề hiện tại là hậu quả của quá khứ, chúng ta cần biết để khắc phục, hoàn thiện cho tương lai, chứ không phải bới móc, quy chụp mà không chứng minh,”

“RFA Việt ngữ tôn trọng quan điểm cá nhân và quyền tự do cá nhân của blogger/nhà báo Lê Diễn Đức, nhưng những quan điểm cá nhân của anh Đức không phù hợp với nguyên tắc như đã nói ở trên, nên RFA Việt ngữ không còn cộng tác với anh Đức.

“Chúng tôi mong rằng, anh Đức có thể tìm kiếm cho mình một nơi cộng tác mới phù hợp với những quan điểm của anh,” RFA tiếng Việt viết thêm.

Không rõ nguyên nhân tại sao status này bị gỡ xuống.

Mỹ: Biểu tình ủng hộ thư ký toà án quận ở bang Kentucky

Mỹ: Biểu tình ủng hộ thư ký toà án quận ở bang Kentucky

Người ủng hộ bà Davis biểu tình trước nơi bà Davis bị giam, ngày 5/9/2015.

Người ủng hộ bà Davis biểu tình trước nơi bà Davis bị giam, ngày 5/9/2015.

Thư ký quận hạt đi tù vì không cấp giấy hôn thú cho những cặp đồng tính

Thẩm phán liên bang nói bà Kim Davis có thể được thả ra khỏi tù nếu đồng ý chấp thuận giấy hôn thú

06.09.2015

Hàng trăm người đã biểu tình để bày tỏ ủng hộ một thư ký tòa án quận ở bang Kentucky thuộc miền trung Hoa Kỳ, hiện đang bị giam vì không tuân lệnh thẩm phán cấp giấy hôn thú cho các cặp đồng tính.

Thư ký tòa án quận Rowan County, bà Kim Davis nói rằng phán quyết hồi gần đây của Tối cao Pháp viện mâu thuẫn với đức tin Công giáo của bà.

Các phó thư ký ở văn phòng của Bà Davis đã cấp giấy hôn thú cho ít nhất 3 cặp đồng tính hôm thứ Sáu dưới sự đe dọa sẽ bị phạt hoặc giam tù nếu họ không chịu làm theo lệnh của một thẩm phán liên bang.

Nhưng có những bất đồng về việc liệu các chứng nhận hôn thú đó có hiệu lực hay không.

Thường các chứng nhận đó phải có chữ ký của thư ký được bầu chọn, mà trong trường hợp này là bà Davis.

Bà Davis từ chối cơ hội được thả ra hôm thứ Năm. Thẩm phán David Bunning nói bà có thể bị giam tiếp cho đến khi nào bà tuân lệnh của ông.

Hôm thứ Bảy, chồng bà Davis là ông Joe đã nói với đám đông tập trung bên ngoài Trung tâm Giam giữ Quận Carter rằng “bà Davis sẽ không cúi đầu, tôi đảm bảo với qúy vị như vậy.”

Các luật sư của bà Davis nói rằng cách duy nhất để xoa dịu sự chống đối của bà Davis là tiểu bang phải thay đổi quy định rằng giấy đăng ký kết hôn không cần phải do thư ký quận cấp nữa. Họ nói các giấy chứng nhận được cấp cho các cặp đồng tính không có hiệu lực.

Hội động lập pháp của tiểu bang Kentucky cho đến tháng Giêng mới nhóm họp lại. Bà Davis có thể bị giam vài tháng.

Tại sao nhiều tù nhân lương tâm, sau khi ra khỏi tù đã xin theo Đạo Chúa?

Tại sao nhiều tù nhân lương tâm, sau khi ra khỏi tù đã xin theo Đạo Chúa?

Không hiểu sao mấy năm nay một số nhà  đấu tranh dân chủ và tù nhân lương tâm, sau khi ra khỏi tù, đều xin theo học giáo lý Công Giáo và xin được rửa tội để theo Đạo Chúa.

Như trường hợp của thầy giáo Phêrô Đinh Đăng Định, Maria  Huỳnh Thục Vy,  Lê Thị Công Nhân, Giuee  Lê Khanh Duy, Tạ Phong Tần, v.v.

Phải chăng trong nhà thờ chỉ có Chúa mà thôi.

Đại úy  Nguyễn Hữu Cầu bị CS nhốt tù  39  năm. Sau khi được thả ra, ông tìm đến các  cha  DCCT xin học  giáo lý gần một  năm. Sau đó ông xin  rửa tội, gia nhập đạo Công Giáo. Ông lấy tên Thánh bổn mạng là  Gioan Baotixita  (Jean Baptiste)

Đại úy Cầu được dân VN gọi là tù nhân lương tâm của thế kỷ.

Trong một cuộc phỏng vấn quay video, khi được hỏi tại sao ông nhận tên Thánh là Gioan Baotixita, ông trả lời là để nhớ đến TT Ngô  Đình Diệm, cũng mang tên Thánh Jean Baptiste.

From: “dinhviettri48@yahoo.com

Date: August 20, 2015 11:11:00 AM CDT

Photobucket

Nhà đấu tranh cho dân chủ và người tù lương tâm Tạ Phong Tần được chịu phép rửa tội với tên Thánh Maria.

Bà Tạ Phong Tần cùng với các bạn học cùng lớp Giáo lý dự tòng tại Nhà thờ Mẹ Hằng Cứu Giúp ở số 38 Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Đâu Là Nơi Duy Nhất Người Việt Nam Không Bị Khinh? –

Đâu Là Nơi Duy Nhất Người Việt Nam Không Bị Khinh? –

Khánh Hưng

Chuyện đọc xong thì thấy quá đau lòng…nhưng biết nói sao hơn. Tự mình làm mất  sự

kính trọng của mọi người đến mình thì hậu quả phải đến !!!

Nhân đọc bài viết của một người Nhật nhận xét về người Trung Quốc mà phần bình luận đăng trên Bauxite Việt Nam có liên hệ với đặc tính của người Việt Nam hiện nay, tôi muốn góp nhặt mấy mẩu chuyện tai nghe mắt thấy sau đây.

Năm 2006, một công ty của người gốc Việt ở Mỹ thuê tôi về Việt Nam làm một nghiên cứu cho một dự án đầu tư kinh tế. Vài người quen đưa tôi đi làm việc với chính quyền một vài tỉnh để tìm hiểu các kế hoạch kinh tế của địa phương. Đi đến đâu, tôi cũng nhận được một

lời khuyên tương tự là, tôi nên đưa theo một người Mỹ trắng, dù người đó là một nhân

viên bảo vệ hay là một lao công cho công ty tôi ở Mỹ, miễn sao người đó nói “xí bô xí ba”

gì đó, rồi tôi dịch ra tiếng Việt, thì tôi mới được tiếp đón nồng hậu và nhiệt tình!

Trở lại thành phố Sài Gòn, gặp một cậu “Việt kiều” 26 tuổi, sinh ở Mỹ, tốt nghiệp Cao học

Anh ngữ tại Đại học Los Angeles (UCLA). Với nguyện vọng tha thiết được làm việc tại

Việt Nam, cậu xin vào dạy tại một trung tâm Anh ngữ trực thuộc một trường Đại học lớn

của Việt Nam. Ở đây, người ta trả lương theo giờ cho cậu ít hơn ba lần so với mấy người

Tây ba lô. Họ nói, cho dù anh có trình độ và khả năng hơn hẳn mấy người Tây đó, nhưng vì

anh là người “gốc Việt” nên không có… giá cao!

Bản thân tôi, trong một lần trú tại một khách sạn của công ty Du lịch Tp Hồ Chí Minh, có hôm tôi gọi tiếp tân yêu cầu cử người giúp sửa đường dây internet, gọi đến lần thư ba vẫn

chỉ hứa hẹn. Sau đó, khi tôi gọi và nói chuyện bằng tiếng Anh, thì cô tiếp tân rối rít

“Yes, sir” và vài phút sau, một nhân viên xuất hiện! Tương tự, vài lần đi máy bay Vietnam

Airlines từ Đài Loan về Việt Nam, tôi đã rút được kinh nghiệm là phải sử dụng tiếng Anh

nếu muốn được phục vụ tốt và lịch sự! Hết biết! Người Việt tự kỳ thị nhau và bị kỳ

thị ngay chính ở Việt Nam!

Thế còn  người nước ngoài, họ nghĩ gì về Việt Nam?Một người tôi quen, là cán bộ lãnh

đạo của một cơ quan văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Trong một bữa “nhậu,” ông ấy vừa nhai ngồm ngoàm cái đùi ếch, vừa thuyết trình với anh bạn người Mỹ bên cạnh tôi (tất nhiên tôi là thông dịch viên bất đắc dĩ), rằng Việt Nam  tuy còn nghèo nhưng nhờ có độc lập nên giữ được phẩm giá. Ông lấy ví dụ, vừa rồi, trong một chuyến du lịch ở Mỹ, trong lúc ông

bị lạc khi viếng thăm Hollywood, ông đã được hai viên cảnh sát Mỹ “hết sức lể phép, trân

trọng, và nhiệt tình” giúp ông tìm đường. Họ luôn gọi ông bằng “sir,” tức là “ngài.” Ông kết luận, vì họ biết ông là cán bộ của Việt Nam, nên họ đã đối xử với ông một cách trọng thị như vậy!Anh chàng Mỹ ngồi bên cạnh tôi tròn mắt và… không nói gì cả!

Nghe ông cán bộ này nói, tôi nhớ lại ba câu chuyện:Năm 2005, tôi đưa cậu con trai 4 tuổi,

trên đường về thăm Việt Nam, ghé lại thăm viếng và nghỉ ngơi ở Nhật ba ngày. Chúng tôi

trú tại một khách sạn ở Tokyo. Thấy hai cha con chúng tôi trao đổi qua lại bằng tiếng Anh, hầu như tất cả nhân viên làm việc ở đây đều cư xử với chúng tôi một cách hết sức thân tình

và trân trọng. Họ nghĩ chúng tôi là người Mỹ gốc Nhật. Thế nhưng, khi nghe tôi cải chính lại

là người Việt Nam, thì thái độ họ thay đổi hẳn!

Một anh bạn tôi là một nhà giáo và một nhà báo nghiệp dư ở vùng Vịnh San Francisco kể

rằng: Trong chuyến đi du lịch vùng Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga… anh luôn gặp rắc rối vì cái hộ chiếu Việt Nam của vợ anh. Lúc nào vào ra cửa khẩu của các nước này, thì cả

đoàn du lịch 20 người có passport Mỹ đều cho qua một cách thoải mái, chỉ duy nhất vợ anh

với hộ chiếu Việt Nam là bị tách ra vào phòng riêng xét hỏi. Lần nào anh cũng phải viết giấy

bảo lãnh! Mà mấy nước này vốn là “anh em xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam mấy năm trước

đây!

Chuyện thứ ba, trong một lần du lịch tại Jakarta, Indonesia, tôi đi với một người

bạn địa phương vào một câu lạc bộ khiêu vũ (dancing). Mấy cô vũ nữ nghe tôi nói chuyện bằng

tiếng Anh thì vồ vập và tò ra rất tình cảm. Thế nhưng, khi nghe tôi nói là “người Việt

Nam”, thì mấy cô dần dần lảng ra! Trời, ngay cả mấy cô… bán hoa mà cũng… đối với

người Việt Nam như vậy!Tôi định kể cho ông bạn cán bộ nghe ba câu chuyện này, nhưng lại thôi vì e là ông cũng không hiểu, và nếu hiểu ra thì không khéo ông lại qui cho tôi tội “theo đuôi đế quốc, xúc phạm dân tộc” thì mệt lắm!

Còn người Việt Nam xem người ngoại quốc thế nào?Vợ chồng người bạn khác của tôi tại

Hà Nội đều là “trí thức”, thuộc gia đình quyền thế và khá giả tham vấn tôi về kế

hoạch mở một trường Mẫu giáo cao cấp, trong đó có qui định là chỉ nhận con em của người

nước ngoài da trắng. Tôi hỏi lại vài lần chữ “da trắng” và xin được giải thích thêm. Họ

nói rằng, ở Việt Nam đã có hai trường như vậy và đã tồn tại nhiều năm (?!), nói rõ là

chỉ nhận học sinh người “da trắng.” Người ngoại quốc mà da màu cũng không được, thậm

chí ngay cả con cái cán bộ Việt Nam cao cấp hoặc đại gia cũng không được nhận. Vợ chồng

anh bạn này khẳng định, tiền bạc chỉ là một vấn đề nhỏ, điều anh chị muốn là thể hiện

“đẳng cấp” của anh chị, và của cơ sở do anh chị thành lập!

Tôi sống ở Mỹ, một đất nước do người da trắng thành lập và xây dựng nên, thế nhưng trên cả nước Mỹ, không nơi nào có một trường học với qui định như vậy cả! Nếu ai đó ở Mỹ mà có cái ý tưởng như vậy, thì có lẽ trước khi bị lôi ra tòa án cho phá sản, chắc chắn là sẽ bị dư luận ném xuống loại “đẳng cấp” man rợ! Tôi không biết thật sự ở Việt Nam đang có kiểu trường “quốc tế”

như vậy không, nhưng chỉ riêng thái độ tận tụy phục vụ người “da trắng” của hai vị trí thức trẻ và quyền lực Hà Nội cũng đủ để nhận ra một thế hệ “quí tộc” Việt vô cùng… quái đản!

Kể lại những câu chuyện này, một người bạn của tôi nói rằng, trên thế giới hiện nay chỉ có duy nhất một nơi mà người Việt Nam không bị khinh rẻ, đó là nước Mỹ!

Thật mỉa mai, nhưng đó là sự thật! Tôi sống ở Việt Nam 30 năm, 15 năm ở Mỹ, và đi đây đó khoảng chục nước, tôi công nhận điều anh bạn này nói. Ít ra, đây cũng là điều an ủi cho những kẻ “tha hương” – người Việt ở Mỹ như chúng tôi. Và đó cũng là lý do, mà tôi đã bỏ ý định trở lại quê hương Việt Nam sau khi học hành xong ở Mỹ, như kế hoạch của tôi ngày ra đi!

Khánh Hưng

Tiến sĩ Alan Phan và trải nghiệm kinh doanh

Tiến sĩ Alan Phan và trải nghiệm kinh doanh

Tiến sĩ Alan Phan trong buổi ra mắt sách ở San Jose hôm 23/8/15 (ảnh Bùi Văn Phú)

Tiến sĩ Alan Phan trong buổi ra mắt sách ở San Jose hôm 23/8/15 (ảnh Bùi Văn Phú)

Bùi Văn Phú

Không ít người Mỹ gốc Việt đã về Việt Nam làm ăn. Có người thành công, nhưng đa số thất bại. Thất bại không nói ra, nhưng thành công cũng không ai khoe vì không biết có bền lâu hay không.

Tiến sĩ Alan Phan thì khác. Ông đã trải nghiệm mấy chục năm trên thương trường quốc tế, từ châu Mỹ, châu Phi sang châu Á với thất bại cũng như thành công. Những kinh nghiệm làm ăn đã được ông ghi lại qua mười một đầu sách. Hai tác phẩm mới nhất là Doanh nhân Việt trong thế trận toàn cầu (600 trang) và 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc (300 trang) – gồm nhiều bài đã đăng trên Blog gocnhinalan.com – được ra mắt tại hội quán báo Thằng Mõ ở San Jose vào trưa Chủ nhật 23/8.

Trên 100 khách đã đến tham dự, trong đó có nhiều doanh nhân vùng Vịnh San Francisco như ông David Dương, Tổng giám đốc California Waste Solution; ông Trần Hồng Phúc Chủ tịch Phòng Thương mại Việt Nam Oakland; ông Đỗ Vẫn Trọn của Truyền hình Viên Thao; ông Nguyễn Xuân Nam của TV và báo Calitoday; ông Huỳnh Lương Thiện của Tuần báo Mõ SF.

Ngoài ra còn có cựu phó thị trưởng Madison Nguyễn, kĩ sư Đỗ Thành Công và ủy viên giáo dục Vân Lê, là ba ứng cử viên cho chức Dân biểu Tiểu bang Địa hạt 27 vào năm tới.

Còn lại đa số là các bạn trẻ, trong đó có những sinh viên du học đến từ Việt Nam.
Bài nói chuyện của Tiến sĩ Alan Phan xoay quanh thương trường Việt Nam và những cơ hội. Theo ông, đầu tư đòi hỏi sự chuyên nghiệp, kế hoạch và tùy thuộc nhiều vào nhà nước, trong khi kinh doanh là môi trường hoạt động thoáng hơn và dễ thành công hơn.

Ông mô tả: “Việt Nam là một môi trường giới hạn, không phải muốn gì thì làm nấy. Tình hình còn mù mờ. Xã hội Việt Nam so với Mỹ thì thật là bát nháo và hỉ nộ ái ố hơn. Không ở đâu buồn cười như ở Việt Nam. Mở tờ báo ra đọc là thấy đính chính tôi không bị bắt. Như mới đây ông Trần Phương Bình của Đông Á Ngân hàng phải lên tiếng. Rồi ông Đặng Thành Tâm cũng lên tiếng đính chính là chưa bị bắt.”

Hai tập sách của tác giả Alan Phan (ảnh Bùi Văn Phú)

Hai tập sách của tác giả Alan Phan (ảnh Bùi Văn Phú)

Câu nói vui đùa của Tiến sĩ Alan: “Tôi cũng đính chính với các bạn đây là tôi không bị bắt” đã đem đến cho khách dự một tràng tiếng cười.

Theo ông, nhiều người Việt hải ngoại về Việt Nam có những lí do riêng, gái gú cũng có, kỉ niệm ngày xưa cũng có, thắng cảnh cũng có. Quê hương cũ có một sự quyến rũ nào đó.

Nếu đó là một nơi có thể sống được, kiếm được tiền thì rất thoải mái. Ở đó có những niềm vui và những điều tiêu cực. Nhưng nói chuyện làm ăn là cần có sự may mắn và phải có quan hệ.

“Nếu về làm ăn tôi khuyên là người độc thân, về đó gặp con cán bộ là kết hôn ngay vì quan hệ rất quan trọng trong làm ăn được thua ở Việt Nam. Phải có người chống lưng, có gốc rễ.”

Ở Mỹ thì khách hàng là số một, còn ở Việt Nam, theo quan sát của ông: “Khách hàng là quan chức nhà nước. Nếu mấy ông đó thích thì sẽ bán được nhiều hàng, làm ăn lên rất lẹ. Nếu mấy ông không thích thì ô hô ôm passport lo chạy về Mỹ.”

Nội bộ lãnh đạo với tranh giành phe nhóm cũng ảnh hưởng lớn đến kinh doanh. Mình đứng về phiá thua thì coi như không còn gì.

Tiến sĩ Alan nhắc đến sự kiện ông Hà Văn Thắm là phe của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, khi ông Hùng mất thế thì giá cổ phiếu Ocean Group của công ti do ông Thắm điều hành đang từ 100 nghìn đồng rớt xuống 1 nghìn, ngân hàng bị nhà nước mua lại với giá coi như cho không.

Ông cũng tiết lộ nhà nước theo dõi một thương gia nước ngoài về làm ăn rất lâu và rất sâu vì chính ông bị moi ra chuyện quan hệ với một thiếu nữ Trung Quốc ông quen đã lâu, giờ không còn nhớ mà họ vẫn để ý.

Nói đến các khu vực kinh doanh có triển vọng, theo nhận định của Tiến sĩ Alan thì đó là IT và nông nghiệp.

IT không cần hạ tầng cơ sở và thành phần trẻ có đam mê và ao ước làm được cái gì đó tốt đẹp cho thương hiệu Việt Nam thay vì cứ sao chép hay ăn cắp bản quyền.

Ông nói: “Phát triển IT vì quan cán bộ ngu lắm, email không biết, software nói với mấy ông ấy như nói với vịt. Ít hạ tầng cơ sở nên mấy ông ấy không kiếm tiền được.”

IT khó kiểm soát vì tài khoản có thể đặt ngoài Việt Nam, tránh được bộ máy hành chánh chỉ đòi tiền. IT cần đột phá, sáng tạo, không cần gia truyền hay cổ truyền, tư duy luỹ tre làng bị gạt qua một bên. Đây là con đường mới cho giới trẻ, thời trang đối với Việt Nam nên họ rất hâm mộ.

Còn nông nghiệp, ngày nay không phải là sản xuất mà là tìm kiếm được thị trường. Nông phu tranh nhau đi chăn nuôi, trồng trọt nhưng tìm được thị trường rất khó vì nếu mình bán rẻ 10%, nước khác bán rẻ 20% hay 30% thì không thể cạnh tranh nổi.

Nhiều nước đã có sản xuất qui mô, công nghệ cao trong khi Việt Nam chưa đạt tới trình độ đó thì cũng khó cạnh tranh. Để tìm được thị trường cần có hàng đặc thù, trong khi nhà nước không giúp gì được vì chỉ lo “hành dân là chính”, vì thế giới trí thức có thể làm được việc này. Sau đó phải có trung gian tiếp thị, về mặt này người Việt ở hải ngoại đóng góp vai trò quan trọng.

Như người Tàu họ có chuỗi dây phân phối rất hữu hiệu. Nhưng nay với công nghệ thông tin, vai trò của người trung gian cũng đang giảm đi, thông tin về mặt hàng có thể tìm thấy trên mạng.

Đó là những lí do tại sao Tiến sĩ Alan Phan nhấn mạnh đến hai khu vực IT và nông nghiệp để Việt Nam có thể cạnh tranh và có những tiến bộ hơn về kinh tế.

Vì sao lại là hai khu vực đó? Theo ông, với dân số hơn 90 triệu, xã hội Việt Nam ngày nay gồm những nhóm sau:

1/ Những người của thế giới kỹ thuật số, họ sống xa lánh hoàn toàn với thế giới bên ngoài, biết được những thứ mà dân thường không biết, họ khao khát có tiến bộ cho đất nước. Số người này khoảng 6 triệu.

2/ Nông dân từ 30 đến 40 triệu, chỉ lo kiếm sống và mong muốn đời sống được cải thiện một chút.

3/ Quan chức cán bộ, hơn 3 triệu. Đối với những người này, cứ trả lương cho họ nằm nhà là tốt nhất cho dân.

4/ Thành phần còn lại là những người không làm mà vẫn ăn, suốt ngày đi nhậu rồi về nhà đánh vợ, ù lì đến độ không còn chút hy vọng gì vào đám người này.

Vì thế tạo cơ hội phát triển cho hai thành phần IT và nông dân sẽ là những mũi nhọn đưa kinh tế Việt Nam đi lên.

Là người với nhiều kinh nghiệm làm ăn trên thương trường quốc tế, ông cũng đã đầu tư vào Việt Nam 2 triệu đô-la và mất hết. Những năm qua Tiến sĩ Alan Phan đã làm tham vấn hướng dẫn cho doanh nhân Việt biết cách làm ăn theo lối Mỹ.

Tuy nhiên, trong nhiều cuộc phỏng vấn ông đã nói bạo khiến quan chức nhà nước không vui: “Mình nhìn sao nói vậy nên có hơi sốc với nhiều người nên bây giờ nhà nước không cho tôi có những phát biểu trực tuyến nữa. VTV có phỏng vấn tôi 30 phút, sau khi cắt xén đi còn chừng 5 phút.”

Ông nói: “IT không cần nhiều cơ sở hạ tầng. Mấy ông quan chức rất khôn lanh, xây cầu đường, tượng đài họ chia nhau được. Mức độ trù phú của miếng bánh cắt riết mà cái bánh ngày càng nở ra. Người ta đang ăn ngon thế này thì sao đòi được. Được cái mấy ông chỉ đi vay, rồi ăn bớt ăn xén cái đó. Dân mình chịu nợ thôi. Mà tính quịt là muôn đời của người Việt Nam. 15 năm sau có nước nào đòi nợ thì chỉ còn cái quần cụt thì không có gì để đòi được nữa.”

Tiến sĩ Alan Phan trả lời phỏng vấn của giới truyền thông (ảnh Bùi Văn Phú)

Tiến sĩ Alan Phan trả lời phỏng vấn của giới truyền thông (ảnh Bùi Văn Phú)

Ông kể, một quan chức cao cấp nói thằng nào ngu cho vay thì mình cứ lấy tiền đó mình xài. Người dân họ không biết, cứ để cho dân uống bia tự do là thoải mái rồi, họ không thắc mắc gì.

Về những người từ Mỹ về đầu tư, nhắc đến ông David Dương, Tiến sĩ Alan Phan phát biểu: “Tôi nghe ông về xử lí rác thì tôi thích thú lắm. Mong ông xử lí rác ở Ba Đình thì ông lại xử lí rác ở đâu Đa Phước. Mong một ngày ông sẽ đưa Ba Đình vào đống rác của ông ấy”. Hội trường òa lên những tiếng cười.

Tiến sĩ Alan Phan du học Mỹ từ năm 1963, năm 1968 ông về nước và đã làm chủ  nhiều công ti thời Việt Nam Cộng hòa với số công nhân lên đến 18 nghìn.

Năm 1975 ông ra nước ngoài, có lúc điều hành công ti trên sàn chứng khoán với tài sản 700 trăm triệu đô-la. Cuộc đời nhiều thăng trầm và nay đã 70 tuổi, với tài sản chắc cũng vài chục triệu đô-la. Nhưng nếu gặp ông ngoài đường, qua trang phục ông mặc hôm ra mắt sách, với áo vét quần jean thùng thình, không cà-vạt, đi giầy ba-ta, có ai biết ông là một doanh nhân triệu phú.

Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

(Bài 3)

*     *     *

Trường Trung học Cộng đồng Quận 6 là một trường rất nhỏ, chỉ bắt đầu khai giảng lớp học đầu tiên vào cuối năm 1968 trong căn nhà tiền chế đơn sơ với vài ba phòng học. Rồi sau năm 1975 chẳng bao lâu, thì trường lại bị cho giải thể và học sinh được phân tán đi các trường khác. Vì thế mà ngày nay, ngọai trừ một số rất nhỏ cựu học sinh đã từng theo học tại trường, thì ít có ai còn biết đến sự hiện hữu của cơ sở giáo dục này nữa.

Là một người có tham gia trong việc vận động thành lập của trường, tôi xin ghi lại một số chuyện ngộ nghĩnh xung quanh cái ngôi trường nhỏ bé vừa “sinh sau đẻ muộn” – mà lại cũng “yểu mệnh vắn số” này. Xin lần lượt trình bày câu chuyện qua mấy mục như sau.

I – Lai lịch về cơ sở vật chất của ngôi trường.

Vào  năm 1966,  ông Mai Như Mạnh Quận trưởng Quận 6 có sáng kiến mời một số nhà doanh nghiệp tại địa phương cùng họp lại với nhau để thiết lập một cơ sở nhằm trưng bày và quảng cáo cho những sản phẩm công kỹ nghệ được sản xuất trong quận. Ông nói : “Trước đây, tôi có dịp đi tham quan tại Đài Loan và Nhật Bản, tôi thấy nơi nào họ cũng có những trung tâm trưng bày sản phẩm kỹ nghệ như thế…” Ý kiến này được nhiều người hoan nghênh và đưa đến việc cấp tốc xây dựng một ngôi nhà tiền chế trên khu đất trống nằm sát cạnh bến xe Chợ Lớn mới ở góc đường Phạm Đình Hổ và Trương Tấn Bửu.

Nhằm lôi cuốn giới tiêu thụ đến quan sát tại phòng trưng bày này, ban tổ chức dự định khai trương cơ sở vào dịp Tết Đinh Mùi đầu năm 1967 kèm theo với một số gian hàng bán hàng hóa thông dụng và đồ ăn, nước uống v.v…Tất cả các gian hàng này được dựng lên bên cạnh phòng trưng bày sản phẩm và được gọi với cái tên chung là Khu Chợ Tết. Và vì cái danh xưng “Chợ Tết” này, mà sóng gió nổi lên dữ dội từ một phiên họp của Hội Đồng Đô Thành ở trung tâm Sài gòn. Các nghị viên tới tấp phản đối chuyện tổ chức “Chợ Tết”, họ coi đây là một thứ “Hội Chợ” (Foire) nhằm kiếm tiền bỏ túi cho cá nhân. Đó là một thứ việc làm “bất hợp pháp” vì không có giấp phép đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền v.v…

Cuối cùng, thì Bác sĩ Văn Văn Của là Đô trưởng vẫn đến khu Chợ Tết để cắt băng khánh thành – như vậy là đã mặc nhiên coi là việc này không có chi là trái luật và để bà con cứ tiếp tục vui chơi nhân dịp đón xuân mới.

Tuy vậy, do có sự chỉ trích của các nghị viên thành phố như đã nói ở trên, mà sau đó giới chủ nhân các công ty xí nghiệp ở địa phương – mà phần đông là người gốc Hoa – đâm ra chán nản không còn thiết tha gì với chuyện tiến hành hòan tất trung tâm trưng bày sản phẩm công kỹ nghệ nữa. Vì thế mà trong suốt năm 1967, khu nhà tiền chế rộng tới 5 gian với sườn sắt, mái và vách đều được che bằng tôle vẫn còn để im lìm trống vắng không được sử dụng vào việc gì nữa cả.

Mãi đến khi chiến cuộc mở rộng hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì bà con các nơi có chiến trận mới đổ xô vào lánh nạn tại khu nhà tiến chế này. Và từ đó mà nơi đây đã biến thành một trại tạm cư cho các nạn nhân chiến cuộc phải bỏ nhà cửa ở các khu vực kế cận trong suốt hai đợt tấn công liên tục của bộ đội cộng sản xuất phát từ tỉnh Long An vào thành phố.

Sau khi chiến sự lắng đọng, bà con lại kéo nhau trở về nhà mình và trả lại khu nhà tiền chế lại cho chính quyền địa phương. Nhờ thế mà Chương trình Phát triển chúng tôi mới nghĩ đến chuyện sử dụng khu nhà đó để làm trường sở cho Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Thành ra, khu nhà này tuy không còn được sử dụng cho mục tiêu kinh tế thương mại như dự trù lúc ban đầu nữa, thì nay lại được biến thành một cơ sở giáo dục. Đó cũng là một cách phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng địa phương mà thôi.

2 – Chuyện vận động xin phép mở trường với Bộ Giáo Dục.

Dân số trong quận 6 vào năm 1967 có đến trên 250.000 người. Vì thế mà vào năm 1970, chính quyền phải thiết lập thêm một đơn vị mới nữa là quận 11 bằng cách chia bớt lãnh thổ của quận 6 sang cho quận mới này. Dân số quá đông như vậy, nên cần phải mở thêm trường học, đặc biệt là trường trung học cho các học sinh trong quận. Đó là mối quan tâm nóng bỏng của các phụ huynh mà chúng tôi không thể nào xem nhẹ được.

Với kinh nghiệm thu thập được từ chuyện vận động thành công để thành lập được trường trung học cộng đồng ở quận 8 từ mấy năm trước – nên lần này anh chị em trong chương trình phát triển chúng tôi cũng lại hướng dẫn đại diện phụ huynh học sinh mang thư thỉnh nguyện đến trình bày với các giới chức có thẩm quyền tại Bộ Giáo Dục để xin được phép mở trường ở quận 6. Chúng tôi còn phải nhờ đến các vị Nghị sĩ, Dân biểu và cả đến giới truyền thông báo chí để họ cùng lên tiếng kêu gọi tiếp tay với các phụ huynh tại quận 6 để xin cấp trên cho thiết lập trường trung học trong quận.

Mà nhờ đã có sẵn cơ sở vật chất là khu nhà tiền chế cộng với một số bàn ghế mới đóng sẵn, nên ban vận động (gồm đại diện các phụ huynh và đại diện chương trình phát triển) mới dễ thuyết phục được cấp lãnh đạo ở Bộ Giáo Dục thỏa thuận cấp giấy phép cho trường được thành lập. Chúng tôi phải cam kết với Bộ Giáo Dục rằng : Địa phương chúng tôi chịu trách nhiệm hòan tòan về việc xây dựng nhà cửa và trang bị bàn ghế cho tòan bộ các lớp của trường.  Đổi lại về phần mình, thì Bộ Giáo Dục chỉ phải cử các thầy cô giáo đến trường để lo việc giảng dậy mà thôi.

Và cuối cùng, nhờ sự thúc đảy đặc biệt nhiệt tình của Giáo sư Lê Thanh Minh Châu lúc đó giữ chức vụ Phụ Tá Bộ Trưởng Giáo Dục đặc trách về kế hoạch, mà trường trung học cộng đồng quận 6 được giấy phép thành lập và bắt đầu khai giảng mấy lớp học đầu tiên kể từ niên khóa 1968 – 69.

Giáo sư Nguyễn Đức Tuyên được bổ nhiệm là vị Hiệu trưởng tiên khởi của trường. Với kinh nghiệm lâu năm trong ngành giáo dục, Hiệu trưởng Tuyên đã kiên trì cùng với tập thể các thầy cô giáo thiết lập được một nền nếp trật tự ngăn nắp cho ngôi trường mới mẻ và khiêm tốn này. Và với quy chế công lập, nên học sinh không phải đóng học phí như ở các trường tư thục. Mà phụ huynh chỉ phải góp một lệ phí là một số tiền rất nhỏ – để dùng vào việc bảo trì trường lớp, tân trang sửa chữa bàn ghế mà thôi.

Sau mấy năm, thì giáo sư Tuyên lại thuyên chuyển đi nơi khác và giáo sư Võ Văn Bé được bổ nhiệm vào chức vụ Hiệu trưởng thay thế giáo sư Tuyên. Và giáo sư Bé tiếp tục giữ nhiệm vụ này trong ít lâu sau năm 1975 trước khi xin nghỉ việc ra khỏi ngành giáo chức để tham gia vào ngành chế biến hóa chất.

Vì đây chỉ là một trung học đệ nhất cấp – tức là chỉ dậy có 4 lớp từ lớp 6 đến lớp 9 – nên học sinh học hết lớp 9 ở trường này, thì phải chuyển lên học tiếp lớp 10 ở một trung học đệ nhị cấp mà cụ thể ở quận 6 là trường Mạc Đĩnh Chi cũng là một trường công lập.

3 – Mối liên hệ của Trung Học Cộng Đồng với Chương Trình Phát Triển.

Mới gần đây, có một em cựu học sinh của trường Lương Văn Can tức Trung Học Cộng Đồng Quận 8 có hỏi tôi đại khái như thế này: “Em là dân ở quận 8, hồi trước năm 1975 em theo học ở trường Lương Văn Can, mà vì còn nhỏ tuổi em cũng không biết gì về mối liên hệ của trường đó với chương trình phát triển quận 8 ra sao. Xin thày vui lòng giải thích cho em với…”

Tôi đã giải thích cho em đại lược như thế này: “Chương trình Phát triển chúng tôi họat động trong cả 3 quận 6,7 và 8 trong 6 năm từ năm 1965 đến năm 1971. Bắt đầu ở quận 8 trước nhất từ năm 1965, sau đó kể từ năm 1966 thì nới rộng phạm vi họat động sang quận 6 và 7. Chúng tôi chủ trương phát triển về mọi mặt như chỉnh trang gia cư, cải thiện môi trường, chăm sóc y tế -ưu tiên cho bà con tại các khu xóm ngõ bình dân lao động. Và đặc biệt là mở mang giáo dục cả về phổ thông cũng như về huấn nghệ v.v…

Riêng về 2 trường trung học cộng đồng ở quận 6 và quận 8, thì chương trình chúng tôi góp nhiều công sức để vận động xin Bộ Giáo Dục cho phép thành lập và chúng tôi yểm trợ trong việc xây cất trường sở cũng như trang bị bàn ghế lúc ban đầu. Nhưng khi cơ sở trường học đã hòan tất và các giáo sư do Bộ Giáo Dục cử về bắt đầu giảng dậy ở trường, thì chương trình chúng tôi đã hòan tất trách nhiệm trong việc vận động rồi. Và từ lúc đó trở đi, chúng tôi không thể can dự vào sự điều hành của nhà trường nữa.”

Nghe tôi giải thích như thế, em hiểu ngay và nói với tôi như thế này: “Có thể ví như chương trình là một công ty xây dựng, sau khi xây xong ngôi nhà rồi, thì công ty trao căn nhà đó cho sở hữu chủ để họ tòan quyền sử dụng – mà nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì đó là phương thức “Chìa Khóa Trao Tay.

Nhân tiện, tôi cũng xin nhắc lại là vào hồi thập niên 1960, thì thủ tục xây dựng một trường học mới đòi hỏi Bộ Giáo Dục phải tham khảo trước với Bộ Tài Chánh để xem đã có ngân sách dành riêng cho ngôi trường đó chưa. Do đó mà Bộ Giáo Dục không thể dễ dàng tùy tiện để mở thêm trường mới được. Vì biết rõ tình trạng bế tắc bị động như vậy của Bộ Giáo Dục, nên chương trình chúng tôi dựa vào “cái thế chủ động của quần chúng nhân dân” mà phát động “Đi Bước Trước” – tức là địa phương quận 6 và 8 chúng tôi tự nguyện đứng ra xây cất trường sở và đóng bàn ghế sẵn trước.Và Bộ chỉ có mỗi một việc là cử giáo sư về dậy học mà thôi.

Và đó là nguyên do chính yếu của sự thành công trong việc thuyết phục được giới lãnh đạo của Bộ Giáo Dục chấp thuận cho thành lập Trung Học Cộng Đồng Quận 8 từ năm 1966 và Trung Học Công Đồng Quận 6 từ năm 1968.

4 – Để tạm kết thúc.

Vì chưa được thông tin đày đủ về sinh họat của các cựu học sinh Trung học Cộng đồng Quận 6, nên tôi hy vọng các bạn trẻ này sẽ bổ túc cho bài viết bằng những tư liệu và hình ảnh liên hệ đến “trường xưa, bạn cũ” – để giúp cho bà con độc giả hiểu biết thấu đáo hơn về một cơ sở giáo dục của địa phương quận 6 mà đã xuất hiện cách nay trên 47 năm rồi. Mong lắm thay.

San Jose California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn” Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

1052670_562697663776915_300149667-622.jpg

Cô sinh viên người Nhật Aki Tanaka
Courtesy photo

Your browser does not support the audio element.

Không có gì lạ trong nền giáo dục Việt Nam

Ngày 9 tháng 1 năm 2007, trong trò chơi “Ai là triệu phú” trên đài Truyền hình VTV3 Hà Nội, do MC Lại Văn Sâm điều khiển, người được mời lên chiếc “ghế nóng” tham dự chương trình là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.

Câu hỏi nguyên văn như sau: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người không phải anh em ruột với ba người kia?”

Cô giảng viên Đại học Sư phạm suy nghĩ một lát rồi nói:

– Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. – Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không.

– Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia?

– Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.

– Chị muốn gọi cho ai?

– Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.

Phòng máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho cô Tâm.

Cô Tâm lập lại câu hỏi như chương trình đã hỏi: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai không phải là anh em ruột với ba người kia…” Đầu dây có tiếng trả lời rất lớn và dứt khoát, nghe rõ mồn một:

– Hoàng Đạo, Hoàng Đạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và Khái Hưng.

– Chắc chắn không anh?

– Chắc trăm phần trăm.

– Ba mươi giây của chị đã hết. Xin chị cho biết câu trả lời.

– Tôi tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo không phải anh em ruột với ba người kia.

– Chị quyết định như thế?

– Vâng, câu trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.

– Sai. Giải đáp của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không phải anh em ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn Tường Long, sinh năm 1906, em ruột nhà văn Nhất Linh, anh ruột nhà văn Thạch Lam. Như vậy phần thưởng của chị từ năm triệu đồng còn lại một triệu đồng. Nhưng không sao, chúng ta lấy vui làm chính. Xin cám ơn chị đã tham dự chương trình.

Câu chuyện về cô giáo giảng viên trường Đại học sư phạm thành phố Thái Bình thật ra không có gì lạ trong nền giáo dục Việt Nam bởi lẽ chương trình giáo dục không hề có bốn chữ Tự Lực Văn Đoàn mặc dù đây là một nhóm tác giả quan trọng bậc nhất trong nền văn học hiện đại của Việt Nam. Điều làm cho Tự Lực Văn Đoàn bị gạt ra khỏi dòng văn học là chủ trương chính trị của nó. Nguyễn Tường Tam, thủ lãnh của nhóm cũng là một chính khách với quan điểm chính trị đi ngược lại hoàn toàn quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.

1177319793-400.jpg

Tự Lực Văn Đoàn

Tự Lực Văn Đoàn chủ trương đổi mới văn học, nâng cao dân trí, chống cường quyền phong kiến, bài thực dân, trong đó không quên những người cùng khổ và bị áp bức dưới bất cứ hình thức nào. Sức mạnh của Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu từ sự ủng hộ của trí thức tiểu tư sản sau đó lan rộng trong quần chúng bình dân và ảnh hưởng trực tiếp tới nền báo chí An Nam đang có xu hướng hòa nhịp cùng đời sống đô thị.

Chẳng những tại miền Bắc Tự Lực Văn Đoàn bị cấm xuất hiện nhưng sau năm 1975 ngay cả khi hai miền Nam Bắc đã hoàn toàn thống nhất thì số phận của nó cũng không may mắn gì hơn, vẫn bị vùi dập, che dấu và cấm đoán ngay trong từng tù sách gia đình. Những tên tuổi như Nhất Linh, Thạch Lam, Khái Hưng, Hoàng Đạo… hoàn toàn biến mất trong mái trường xã hội chủ nghĩa, mãi tới hơn hai mươi năm sau một vài tác phẩm của họ mới được in lại từ những chiếc máy in của nhà nước với nội dung bị cắt xén cho vừa với tầm nhìn của cách mạng vô sản, vốn bất đồng với các tác giả này.

Aki Tanaka

Vậy mà từ nước Nhật xa xăm, lại xuất hiện những con người yêu văn hóa Việt Nam trong đó Tự Lực Văn Đoàn được nhắc tới như một dấu son của nền văn học Việt.

Một trong những người ấy là cô sinh viên Aki Tanaka.

Từ Tokyo, Aki Tanaka đã lặn lội tới Việt Nam, tìm hiểu về Tự Lực Văn Đoàn với mục đích học chữ Việt để rồi mê đắm nó đến nỗi bỏ hơn 13 năm theo dõi, nghiên cứu, viết tham luận rồi luận án về Tự Lực Văn Đoàn. Aki đã bay sang Hoa Kỳ nơi có khá nhiều tư liệu lẫn thân nhân của các tác giả để từ đó thấy yêu mến thêm nhóm tác giả đặc biệt này.

Mặc Lâm có duyên may gặp Aki Tanaka tại California trong lần cô sang Mỹ tìm kiếm thêm tư liệu về nhà văn Khái Hưng, người mà Aki Tanaka đặc biệt yêu thích. Cuộc phỏng vấn ngắn nhằm mang cô sinh viên người Nhật này tới gần với người Việt Nam hơn bởi cô đáng được người Việt mở lòng ra đón nhận như một người bạn chân thành của văn hóa Việt.

Aki Tanaka, trước tiên cho biết thời gian đầu cô tới Việt Nam:

Aki Tanaka: Khoảng năm 2000 khi sang Việt Nam tôi đã gặp ông Huy Tưởng thì ông ấy nói nếu Aki muốn học tiếng Việt thì nên tìm đọc Tự Lực Văn Đoàn để biết được tiếng Việt chính xác cho nên tôi đã tìm mua các cuốn sách về Tự Lực Văn Đoàn. Ban đầu thì tôi không hiểu hết, chỉ hiểu sơ sơ thôi nhưng mà đã cảm thấy tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn rất hay cho nên tiếp tục mua sách Tự Lực Văn Đoàn. Ước mơ của tôi là muốn nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn nhưng lúc đó cảm thấy là điều thực tế chỉ là ước mơ thôi.

Mặc Lâm: Aki vừa nói là tìm mua những cuốn sách Tự Lực Văn Đoàn trong nước, không biết là sách cũ đã được in từ xưa hay những cuốn vừa được in lại trong nước?

Aki Tanaka: Tôi chỉ mua được sách tái bản thôi lúc đó không để ý là sách của nhà nước in hay sách cũ nó có gì khác nhau hay là sự khác biệt như thế nào cho nên chỉ mua được sách tái bản thôi.

Mặc Lâm: Sau này khi nghiên cứu sâu về Tự Lực Văn Đoàn thì Aki có thấy sự khác biệt nào giữa bản in gốc và bản in đã được in lại sau năm 1975 và nếu có thì những khác biệt ấy có quan trọng không?

Aki Tanaka: Dạ có. Tôi có học với thầy giáo người Nhật thì thầy này sử dụng sách cũ là sách trước 75 còn tôi thì cầm sách tái bản mới. Cuốn tôi thất vọng nhất là cuốn Đời mưa gió. Khi hai người đọc chung với nhau thì chúng tôi phát hiện sách tái bản và sách gốc nó khác biệt nhau. Tôi thấy nếu mình nghiên cứu văn học Việt Nam mà có sự khác biệt quá nhiều như thế này, mà mình là người phân tích mà tài liệu sai thì rất nguy hiểm cho việc nghiên cứu của mình.

Mặc Lâm: Khi Aki sang Mỹ để tìm gặp thân nhân những người trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì Aki đã gặp được ai và câu chuyện gặp gỡ ấy như thế nào?

Aki Tanaka: Hai năm trước có một buổi hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại Mỹ lúc đó gia đình con cháu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn tập họp lại cho nên lúc đó tôi gặp được nhiều người nhưng lúc đó tôi không có dịp nói chuyện nhiều với họ. Tháng Ba năm nay tôi có dịp thăm riêng ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của ông Khái Hưng và Nguyễn Tường Thiết là con trai út của ông Nhất Linh. Tôi đã thăm được hai người này.

Mặc Lâm: Về ông Nguyễn Tường Thiết là con ruột thì đã đành rồi riêng về ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của Khái Hưng thì Aki có nắm vững những nhận định hay lời kể lại của ông Triệu có chính xác và phù hợp với những gì Aki tìm hiểu không?

Aki Tanaka: Aki cũng biết được sơ sơ thôi vì lúc ông Khái Hưng mất thì ông Triệu còn rất nhỏ cho nên ông Triệu không biết gì nhiều. Tuy nhiên ông Triệu có cung cấp một số tài liệu cho Aki.

Mặc Lâm: Trong khi nghiên cứu Tự Lực Văn Đoàn và có dịp gặp gỡ hay thông qua tư liệu thì tác già nào trong nhóm làm cho Aki ấn tượng và yêu thích nhất?

Aki Tanaka: Tôi rất thích ông Khái Hưng. Lý do ông là người có tư tưởng sâu sắc nhất trong Tự Lực Văn Đoàn cho nên đọc tác phẩm của ông thì thấy rất hay.

Mặc Lâm: Nhưng rất nhiều người cho rằng ông Nhất Linh là người lãnh đạo của nhóm và là linh hồn của Tự Lực Văn Đoàn … Aki thấy thế nào về tác phẩm của ông?

Aki Tanaka: Theo tôi thì Nhất Linh là một người hành động, ông có cái ý tưởng cách mạng tuy nhiên so với ông Nhất Linh thì ông Khái Hưng là người suy nghĩ và theo sự tìm hiểu của tôi thì ông Khái Hưng không quan tâm mấy đến chính trị.

Mặc Lâm: Trong một thời gian khá dài sống ở Việt Nam Aki quan sát và thấy giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là sinh viên khoa văn họ có chú ý tới Tự Lực Văn Đoàn hay không?

Aki Tanaka: Tôi thấy họ không chú ý đâu. Tôi nói chuyện với bạn bè đồng nghiệp với cái ý là tôi thích Tự Lực Văn Đoàn nhưng bạn bè đồng nghiệp của tôi lại không biết Tự Lực Văn Đoàn là ai nữa! Bây giờ ở Việt Nam không giảng dạy tác phẩm của nhóm này cho nên không ai biết, không được ai quan tâm đến.

Mặc Lâm: Có một thời gian rất dài Aki đã sang Mỹ tiếp xúc với người viết văn hay hoạt động văn hóa…Aki thấy họ có còn tha thiết khi nói về Tự Lực Văn Đoàn nữa hay không hoặc thời gian đã quá lâu khiến họ dần dần quên Tự Lực Văn Đoàn luôn, không giống như cách đây 40 năm?

Aki Tanaka: Do tôi tiếp xúc với nhiều người làm văn nghệ cho nên họ thường bảo rất còn quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn và họ muốn bảo tồn tác phẩm của nhóm này cho con cháu để sau biết được việc làm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cho đời sau. Tôi cảm thấy như vậy

Mặc Lâm: Aki cũng có bạn bè người Nhật yêu mến văn hóa Việt Nam trong số họ có ai nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn như Aki hay không?

Aki Tanaka: Thầy cũ của tôi đã nghỉ hưu rồi ông ấy hồi trước cũng có nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn trong trường đại học của tôi và ông cũng đã dạy Tự Lực Văn Đoàn cho sinh viên Nhật. Nhưng bây giờ vị giáo sư mới không quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn nên không dạy nữa cho nên sinh viên không biết gì về Tự Lực Văn Đoàn nữa

Mặc Lâm: Một lần nữa xin cám ơn Aki Tanaka rất nhiều và hy vọng những công trình nghiên cứu của Aki về Tự Lực Văn Đoàn sẽ mang lại nhiều kết quả mong đợi.

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ CẦU NGUYỆN TRONG GIA ĐÌNH

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ CẦU NGUYỆN TRONG GIA ĐÌNH

Tác giả:  Phaolô Phạm Xuân Khôi

“Nếu tình yêu đối với Thiên Chúa không thắp lên ngọn lửa, thì tinh thần cầu nguyện không sưởi ấm thời gian được.… Một tâm hồn được tình yêu đối với Thiên Chúa cư ngụ biến ngay cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh thánh, hoặc một nụ hôn gửi đến nhà thờ, thành lời cầu nguyện.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô được ban hành ngày 26 tháng 8 năm 2015 trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về Gia Đình.  Ngài giải thích về tầm quan trọng của việc Cầu Nguyện trong gia đình.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Sau khi suy nghĩ về cách các gia đình sống thời gian nghỉ lễ và làm việc, giờ đây chúng ta xét đến thì giờ cầu nguyện. Lời than phiền thông thường nhất của các Kitô hữu về thì giờ là: “Tôi đáng lẽ phải cầu nguyện nhiều hơn…; tôi muốn làm điều ấy, nhưng tôi thường không có thì giờ.”  Chúng ta thường xuyên nghe thấy lời than ấy.  Sự hối tiếc này chắc chắn là chân thành, bởi vì tâm hồn con người luôn luôn tìm cách cầu nguyện, ngay cả khi không ý thức điều ấy; và nếu không tìm được nó thì không thấy bình an.  Nhưng để chúng gặp nhau, chúng ta phải vun trồng trong tâm hồn mình một tình yêu “nồng nàn” với Thiên Chúa, một tình yêu trìu mến.

Chúng ta có thể đặt ra một câu hỏi rất đơn giản.  Thật tốt khi hết lòng tin vào Thiên Chúa, thật tốt khi hy vọng Ngài giúp chúng ta lúc gặp khó khăn, thật tốt khi cảm thấy có bổn phận phải cảm tạ Ngài.  Rất tốt.  Nhưng chúng ta có yêu Chúa, dù một chút không?  Suy nghĩ về Thiên Chúa có làm cho chúng ta cảm động, ngạc nhiên và mềm lòng không?

Chúng ta hãy nghĩ đến công thức của điều răn trọng nhất, là điều răn nâng đỡ tất cả các điều răn khác: “Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Đnl 6:5; x Mt 22:37).  Công thức này sử dụng ngôn ngữ mãnh liệt của tình yêu, đổ dồn vào Thiên Chúa. Đấy, tinh thần cầu nguyện sống trước hết ở đây.  Và nếu nó ở đây thì nó ở luôn mãi và không bao giờ đi ra nữa.  Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa như là cái vuốt ve giữ cho chúng ta được sống, mà trước đó không có gì không?  Một cái vuốt ve mà không có gì, ngay cà cái chết, có thể tách chúng ta ra được không?  Hay có phải chúng ta chỉ nghĩ rằng Ngài là Đấng cao cả, Đấng Toàn Năng, đã tạo nên mọi sự, là vị Thẩm Phán kiểm soát mọi hành động của chúng ta?  Đương nhiên, tất cả là sự thật.  Nhưng chỉ khi Thiên Chúa là tình thương mến trên tất cả các tình thương mến của chúng ta, thì ý nghĩa của những lời này mới trở nên trọn vẹn.  Khi ấy, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, dù hơi “bối rối”một chút, vì Ngài nghĩ đến chúng ta và đặc biệt yêu thương chúng ta!  Đó không phải là điều cảm động sao?  Không cảm động sao khi Thiên Chúa vuốt ve chúng ta bằng tình yêu của một người Cha?   Thật quá đẹp!  Ngài đã có thể đơn thuần làm cho người ta nhận biết Ngài là Đấng Tối Cao, ban hành các giới răn của Ngài và chờ đợi kết quả.  Nhưng thay vào đó, Thiên Chúa đã và đang làm hơn điều này một cách vô cùng.  Ngài đồng hành với chúng ta trên đường đời, che chở và yêu thương chúng ta.

Nếu tình yêu đối với Thiên Chúa không thắp lên ngọn lửa, thì tinh thần cầu nguyện không sưởi ấm được thời gian.  Như Chúa Giêsu nói, chúng ta có thể đọc nhiều lời “như dân ngoại làm”; hoặc thậm chí phô trương các nghi lễ của mình, “như những người Biệt Phái đã làm” (Mt 6:5.7).  Một tâm hồn được tình yêu đối với Thiên Chúa cư ngụ biến ngay cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh thánh, hoặc một nụ hôn gửi đến nhà thờ, thành lời cầu nguyện.  Và tốt đẹp thay khi các bà mẹ dạy những đứa con nhỏ của họ gửi một nụ hôn đến Chúa Giêsu hay Đức Nữ Trinh Maria.  Có biết bao nhiêu sự dịu dàng trong việc này!  Khi ấy trái tim của trẻ em biến thành một nơi cầu nguyện.  Và đó là một hồng ân của Chúa Thánh Thần.  Đừng bao giờ quên cầu xin hồng ân này cho mỗi người chúng ta!  Bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa có cách nói đặc biệt của Ngài trong tâm hồn chúng ta, “Abba” – “Cha ơi”, Ngài dạy chúng ta nói “Cha ơi” như Chúa Giêsu đã nói, một cách nói mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình tìm ra được (xem Gl 4: 6).  Chính trong gia đình mà chúng ta học cầu xin hồng ân này của Chúa Thánh Thần và trân quý nó. Nếu anh chị em học nó với cùng một sự bộc phát như khi anh chị em học cách gọi “cha ơi” và “mẹ ơi”, thì anh chị em đã học được nó mãi mãi.  Khi điều này xảy ra, thời gian cho toàn thể cuộc sống gia đình được bao bọc trong cung lòng của tình yêu Thiên Chúa, và chúng ta tự nhiên tìm được thì giờ cầu nguyện.

Như chúng ta biết rõ, thì giờ của gia đình là thì giờ phức tạp và eo hẹp, bận rộn và bận tâm.  Nó luôn luôn ít, không bao giờ đủ, có quá nhiều điều để làm. Ai đã có gia đình sớm học được cách giải một phương trình mà ngay cả các nhà toán học vĩ đại cũng không làm sao mà giải nổi: người ta làm gấp đôi trong vòng hai mươi bốn giờ!  Có những bà mẹ và những người cha có thể thắng giải Nobel vì việc biến 24 giờ thành 48 giờ này:  Tôi không biết họ làm điều ấy thế nào, nhưng họ tra tay và làm!  Có quá nhiều công việc trong một gia đình!

Tinh thần cầu nguyện dâng thì giờ cho cho Thiên Chúa, ra khỏi sự ám ảnh của một cuộc sống luôn thiếu thì giờ, tìm thấy sự bình an nơi những điều thiết yếu, và khám phá ra niềm vui của những món quà bất ngờ.  Hai vị hướng dẫn tốt cho việc này là hai chị em cô Martha và Mary, được đề cập trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe; hai cô đã học được từ Thiên Chúa sự hài hòa của các nhịp điệu trong gia đình: vẻ đẹp của ngày lễ nghỉ, sự thanh thản của công việc và tinh thần cầu nguyện (x. Lc 10:38-42).  Cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu, Đấng mà họai cô yêu mến, là ngày lễ của hai cô.  Tuy nhiên, là một ngày mà cô Martha đã học được rằng công việc tiếp đãi khách, dù quan trọng, nhưng không phải là tất cả, mà việc lắng nghe Chúa, như cô Maria, lại là điều thiết yếu, là “phần tốt nhất” của thì giờ.  Cầu nguyện phát sinh từ việc lắng nghe Chúa Giêsu, từ việc đọc Tin Mừng.  Anh chị em đừng quên đọc một đoạn Tin Mừng mỗi ngày. Cầu nguyện phát sinh từ lòng tin tưởng vào Lời Chúa.  Chúng ta có lòng tin tưởng này trong gia đình của mình không?  Chúng ta có sách Tin Mừng trong nhà không?  Chúng ta có đôi lúc mở nó ra để đọc với nhau không?  Chúng ta có suy niệm về nó khi đọc kinh Mân Côi không? Tin Mừng được đọc và suy niệm trong gia đình giống như một bánh bổ dưỡng nuôi tâm hồn mọi người.  Vào buổi sáng và buổi tối, và khi chúng ta ngồi vào bàn ăn, chúng ta học cách cùng nhau đọc một lời cầu nguyện, rất đơn sơ: chính là Chúa Giêsu đến giữa chúng ta, như Người đã đến với gia đình các cô Martha, Maria và Lazarô.  Có một điều mà tôi giữ mãi trong lòng vì tôi đã nhìn thấy trong thành: có những trẻ em đã không học làm Dấu Thánh Giá! Nhưng anh chị em, bậc cha mẹ, hãy dạy con con cái mình cầu nguyện, làm Dấu Thánh Giá: đây là một nhiệm vụ cao quý của các bà mẹ và các người cha!

Trong lời cầu nguyện của gia đình, trong những lúc mạnh mẽ cũng như những khi khó của nó, chúng ta được Chúa trao phó cho nhau, để mọi người trong gia đình được tình yêu của Thiên Chúa che chở..

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Nguyên bản: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2015/documents/papa-francesco_20150826_udienza-generale.html

Tác giả:  Phaolô Phạm Xuân Khôi

Phó tổng thư ký Thanh Niên online bị cách chức và thu thẻ nhà báo

Phó tổng thư ký Thanh Niên online bị cách chức và thu thẻ nhà báo

Nguoi-viet.com

SAIGON, Việt Nam (NV) – Ngày 4 Tháng Chín, Thứ Trưởng Bộ Thông Tin Và Truyền Thông CSVN Trương Minh Tuấn đã ký quyết định số 1485/QĐ-BTTTT về việc thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ Văn Hùng, nguyên Phó Tổng Thư Ký Tòa Soạn Báo Điện Tử Thanh Niên.

Nhà báo Đỗ Hùng. (Hình: Facebook)

Quyết định nêu rõ: “Thu hồi Thẻ nhà báo mang số hiệu IBT 00209, thời hạn 2011-2015 của ông Đỗ Văn Hùng được cấp tại Báo Thanh niên, vì ông Đỗ Văn Hùng đã bị xử lý miễn nhiệm chức vụ Phó Tổng thư ký toà soạn Báo điện tử Thanh niên.”

Cũng theo quyết định này, “Báo Thanh niên có trách nhiệm thu hồi Thẻ nhà báo của ông Đỗ Văn Hùng nộp về Bộ Thông tin và Truyền thông (qua Cục Báo chí) trước ngày 18 tháng 9 năm 2015.”

Quyết định này ngoài yêu cầu “Báo Thanh Niên và ông Đỗ Văn Hùng chịu trách nhiệm thi hành quyết định” thì cũng đồng thời gửi tới “Ban Tuyên Giáo Trung Ương, A87 Bộ Công An.”

Quyết định thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ Văn Hùng. (Hình: Facebook)

Trước đó, Tổng Biên Tập Báo Thanh Niên đã ký quyết định số 65/QĐ-TN ngày 3 Tháng Chín về việc xử lý miễn nhiệm chức vụ Phó Tổng Thư Ký Tòa Soạn Báo Điện Tử Thanh Niên đối với ông Đỗ Văn Hùng.

Báo chí trong nước cũng chỉ loan tin ông Đỗ Văn Hùng bị cách chức và bị thu hồi thẻ nhà báo theo quyết định của Bộ Thông Tin Và Truyền Thông CSVN.

Tuy nhiên, giới nhà báo trong nước cho rằng ông Đỗ Văn Hùng “gặp nạn” do một đoạn ngắn trên Facebook cá nhân của ông Hùng.

Ông Đỗ Văn Hùng, thường được biết với tên Đỗ Hùng, và là facebooker Mít Tờ Đỗ.

Ngày 2 Tháng Chín, trên Facebook của mình, ông Hùng đăng tải một status “toàn dấu sắc”, nhan đề “Quốc khánh”, chơi chữ và có tính chất trào phúng:

“Lúc ấy, Thế chiến (thứ mấy tớ đéo nhớ), Đế quốc đánh với Phát xít. Phía Phát xít, Thống chế chết. Đám tướng tá, lính lác đánh đấm kém, chết hết đéo sót mấy mống. Phía Đế quốc thắng lớn. Thế chiến kết thúc.

Chớp lấy cái thế ấy, bác Ái Quốc, tướng Giáp với mấy chú, mấy mế xứ Pác Bó vác cuốc, vác giáo mác, vác súng ống xuống đánh phát xít, đánh Pháp, cướp lấy khí giới, cướp thóc, chiếm bốt, cứ thế đánh tới bến.

Đánh tới cuối tháng 8, bác Ái Quốc thắng lớn. Bác ấy với các chú kéo xuống Giáp Bát, chiếm phố, chiếm lấy bốt phát xít, chiếm hết. Hết đánh đấm, bác ấy nói: ‘Các chú thắng phát xít, thắng Pháp, quá xuất sắc.’

Tới tháng 9, bác ấy xuống phố bố cáo quốc khánh. Bác ấy nói: ‘Đất nước hết chiến đấu, hết đói kém. Phát xít cút. Đế quốc Pháp cút. Các mế, các chú, các cháu bé hết khóc lóc. Thế giới bác ái…’

Nói tới đó, bác Ái Quốc thắc mắc: ‘Bác nói thế các chú, các mế, các cháu có thấy quá lí nhí?’

Bá tánh phía dưới đáp: ‘Chúng cháu thấy bác nói rất lớn. Nói thế quá tốt!’

Tướng Giáp đứng kế đó thét lớn: ‘Quyết chiến quyết thắng!’

Bá tánh đáp: ‘Quyết thắng! Quyết thắng!’

Hết!

(Chúc các bác Quốc khánh sướng nhé!)”

Status nhan đề “Quốc khanh” trên Facebook của nhà báo Đỗ Hùng. Hiện status này đóng. (Hình: Facebook)

Status này được đăng tải trên Facebook cá nhân của ông Đỗ Văn Hùng. Chỉ một tiếng sau, nó đã được trang Facebook của dư luận viên là “đơn vị tác chiến điện tử” tha về, rỉa rói, xâu xé như:

“Nguyễn Dược: Nhà báo gì mà thô tục thế”

“Nguyễn Thu Trang: Các nhà báo phải có cái đầu ít ra là bình thường mới làm được nghề… Hôm nọ có bác gửi cho mình cái ảnh chụp status của nhà báo Đỗ Hùng. Đọc xong thấy anh rấy có cái đầu không bình thường… Nói xấu Bác Hồ là mình ghét”

“Hiền Anh: Không có tâm và tuyên truyền bậy bạ thì cầm bút sao nổi? Thể hiện sự không hiểu biết… Chửi cái gì cũng được nhưng nói xấu Bác là mình cực ghét…”

Trong khi đó, một số facebooker thì:

“Tuyet Anh Jethwa: Đọc bao nhiêu cái quyết định trên mạng chả tìm được cái nào nêu rõ lý do vì sao bị thu thẻ??? Không thẻ càng khỏe viết”

“Dũng Quang Lương: Không nêu lý do và tội danh, sao bị thu thẻ nhà báo nhỉ???”

“Nguyễn Thông: Hùng chơi Facebook, bởi là đứa thông minh, hài hước, dí dỏm nên những status y phát lên đều gây cười, tiếng cười thoải mái. Y không chừa thứ gì, miễn là có thể cười, từ chuyện ăn thịt chó, đi xe đạp, đến chuyện quốc sự. Tôi có lần nhắc y, gì thì gì, cũng cần lơ đi vài thứ, nhưng cứ lâu lâu lại thấy y xé rào. Chỉ cốt cười. Và lần này thì tai vạ. Đụng đến cụ Hồ, đến thần tượng của họ, đến cả Tuyên ngôn độc lập thì họ không thể tha. Chỉ trong ba ngày từ khi Hùng đăng status lên Facebook, nhà chức việc có ngay quyết định kỷ luật cách chức Phó tổng thư ký tòa soạn, tước thẻ nhà báo, do đích thân thứ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông ký. Lần này thì khiếu hài hước đã hại Hùng, bạn nghề mà tôi rất trân trọng, quý mến.” (Q.D.)

Mỹ vinh danh 2 nữ tù nhân lương tâm Việt Nam

Mỹ vinh danh 2 nữ tù nhân lương tâm Việt Nam

Nhà hoạt động Tạ Phong Tần là một trong hai nữ tù nhân lương tâm được Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh.

Nhà hoạt động Tạ Phong Tần là một trong hai nữ tù nhân lương tâm được Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh.

Trà Mi-VOA

04.09.2015

Hai nữ tù nhân lương tâm đang bị Việt Nam cầm tù được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh trong chiến dịch kêu gọi phóng thích 20 phụ nữ trên thế giới can đảm dấn thân vì nhân quyền.

Hai nhà hoạt động Tạ Phong Tần và Bùi Thị Minh Hằng có tên trong chiến dịch được phát động suốt tháng này. Qua đó, từ nay đến trước Hội nghị Bắc Kinh +20 ở New York vào hôm 27/9, mỗi ngày Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ lần lượt vinh danh từng người trong danh sách để đánh đi một thông điệp tới các chính phủ độc tài rằng nếu muốn tăng cường sức mạnh cho phụ nữ như những gì đã cam kết với quốc tế, hãy thôi giam cầm những phụ nữ đi đầu cho nhân quyền.

Trong lời tuyên bố phát động chiến dịch, Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, Samantha Power, nhấn mạnh:

“Mỗi ngày từ nay đến trước hội nghị Bắc Kinh +20, chúng tôi sẽ chia sẻ câu chuyện về từng người trong số 20 phụ nữ này với chi tiết đầy đủ. Chúng tôi sẽ nêu rõ tên tuổi, lai lịch, lý do họ bị bắt giam một cách bất công, cùng tên các chính phủ đã tước bỏ tự do của họ, các chính phủ cử đại biểu tới dự hội nghị Bắc Kinh +20 ở New York”.

Bà Tạ Phong Tần là người số 12 và bà Bùi Thị Minh Hằng số 19 trong danh sách bao gồm 20 nhà hoạt động nữ nổi bật của nhiều nước từ châu Á tới châu Phi.

Riêng tại Châu Á, ngoài Việt Nam, những nước có các nhà hoạt động nữ được vinh danh đến từ Miến Điện, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

“ Mỗi ngày từ nay đến trước hội nghị Bắc Kinh +20, chúng tôi sẽ chia sẻ câu chuyện về từng người trong số 20 phụ nữ này với chi tiết đầy đủ. Chúng tôi sẽ nêu rõ tên tuổi, lai lịch, lý do họ bị bắt giam một cách bất công, cùng tên các chính phủ đã tước bỏ tự do của họ, các chính phủ cử đại biểu tới dự hội nghị Bắc Kinh +20 ở New York.

Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Samantha Power.”

Nhà hoạt động Phong Tần, nguyên là một nữ công an, bị tuyên án 10 năm tù vào năm 2012 về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’. Bà là một trong những sáng lập viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do vào năm 2007 cổ súy cho quyền tự do bày tỏ quan điểm. Bà được biết đến qua trang blog Công lý Sự thật, với các bài viết phơi bày bất công xã hội, phản ánh vi phạm nhân quyền và vấn đề chủ quyền dân tộc trước họa xâm lăng của Trung Quốc.

Bà Bùi Thị Minh Hằng là nhà hoạt động được nhiều người biết đến từ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn Hoàng Sa – Trường Sa. Kể từ đó, bà trở thành mục tiêu thường xuyên bị hành hung, bắt bớ và giam cầm. Năm 2014, bà bị Tòa án Nhân dân Đồng Tháp kết án 3 năm tù với cáo buộc ‘gây rối trật tự công cộng’ sau loạt các hoạt động của bà cổ súy cho tự do tôn giáo và nhân quyền trong nước.

Cô Quỳnh Anh, con gái bà Hằng, chia sẻ cảm nghĩ khi nghe tin mẹ mình được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh:

“Bọn em cảm thấy rất lớn lao, rất vinh dự khi mẹ em là một trong hai nữ tù nhân lương tâm được nhắc tới. Đối với gia đình em, như thế là đủ. Nhưng đối với đất nước Việt Nam, em nghĩ điều này còn cần nhiều hơn nữa vì hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều tù nhân lương tâm. Không chỉ mẹ em và cô Tạ Phong Tần là nữ tù nhân lương tâm, còn rất nhiều người nữa cũng cần được nhắc đến”.

Cô Tạ Minh Tú, em gái nhà hoạt động Tạ Phong Tần, cho biết tình trạng của bà Tần hiện nay:

“Hiện giờ chị Tần bị nhốt chung phòng với 2 tù nhân hình sự. Trong phòng rất kín, không có chỗ thông gió nên chị không ngủ được, cũng không được ra ngoài. Một tuần được mở cửa phòng ra 1 lần để ra trước sân thôi chứ không được ra ngoài lao động”.

Cả hai nhà hoạt động Phong Tần và Minh Hằng từng tuyệt thực nhiều lần trong trại giam để phản đối các điều kiện đối xử khắc nghiệt và ngược đãi.

Con gái bà Minh Hằng chia sẻ thêm về những khó khăn này:

“Đối với tù nhân lương tâm, rất khó khăn, nói chung khó khăn trong tất cả mọi điều. Tù nhân thường, người nhà họ có thể dùng tiền hay các mối quan hệ để lo lót để có thể có được những điều tốt nhất cho người thân của họ trong tù. Còn những tù nhân lương tâm, hoàn toàn không thể làm những điều đó. Họ khắt khe và tìm mọi cách o ép vì luật nằm trong tay họ. Có những điều luật rất mập mờ. Ví dụ về quy chế thăm nuôi, luật quy định được thăm gặp ‘đến 1 giờ’, có nghĩa là cũng có thể là 5, 10 phút hay 1 tiếng cũng là ‘đến một giờ’. Như gia đình em, thường chừng 15 – 20 phút là họ bắt em phải đi ra”.

“ Với tư cách con của một tù nhân lương tâm, em hy vọng duy nhất một điều là Việt Nam không còn tù nhân lương tâm nữa. Tù nhân lương tâm là những người xứng đáng được ghi nhớ, được biết ơn. Họ là những người đi đầu khởi xướng đòi tự do dân chủ cho đất nước.

Cô Quỳnh Anh – con gái bà Minh Hằng.”

Khi được hỏi nguyện vọng của gia đình hiện nay, cô Quỳnh Anh cho biết:

“Với tư cách con của một tù nhân lương tâm, em hy vọng duy nhất một điều là Việt Nam không còn tù nhân lương tâm nữa. Tù nhân lương tâm là những người xứng đáng được ghi nhớ, được biết ơn. Họ là những người đi đầu khởi xướng đòi tự do dân chủ cho đất nước”.

Thân nhân của nhà hoạt động Tạ Phong Tần cho rằng kêu gọi ngoại giao không thôi chưa đủ, cần các áp lực mạnh mẽ hơn để buộc Việt Nam phải thực hiện cam kết về quyền con người.

Cô Tạ Minh Tú:

“Nguyện vọng của gia đình là chị Tần được ra ngoài để trị bệnh vì hiện giờ chị ấy bị 4 thứ bệnh. Bộ Ngoại giao Mỹ kêu gọi tự do cho chị, nhà cầm quyền Việt Nam có nghe hay không thì không biết được. Còn phía Hoa Kỳ cần kêu gọi và xử trí thế nào vì Việt Nam đã ký với Liên Hiệp Quốc về Công ước nhân quyền, Hoa Kỳ phải có áp lực buộc họ phải thi hành”.

Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Samantha Power cho biết vinh danh 20 nữ tù nhân này là một thông điệp mà Hoa Kỳ muốn gửi tới bản thân các nhà hoạt động và gia đình của họ rằng thế giới không quên những đóng góp hy sinh của họ thăng tiến cho quyền con người và rằng Mỹ sẽ tiếp tục áp lực các chính phủ phải phóng thích họ vô điều kiện.

Hà Nội phủ nhận có tù nhân lương tâm và gọi đó là những người phạm pháp bị xử lý theo pháp luật Việt Nam, khơi dậy những lời kêu gọi yêu cầu Việt Nam cải thiện luật nội địa phù hợp với các chuẩn mực nhân quyền căn bản chung của quốc tế.

Nhà báo mất chức ‘vì bài về 2/9’

Nhà báo mất chức ‘vì bài về 2/9’

  • BBC

Image copyright AFP

Một nhân vật cấp lãnh đạo tại một tờ báo lớn của Việt Nam đã bị cách chức và thu hồi thẻ nhà báo.

Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam ngày 4/9 loan báo thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ Văn Hùng, thường được biết với tên Đỗ Hùng.

Hôm 3/9, báo Thanh Niên đã miễn nhiệm chức vụ Phó Tổng Thư ký tòa soạn Báo điện tử Thanh Niên với ông Hùng.

Quyết định của Bộ Thông tin và Truyền thông không nêu nguyên do, nhưng giới nhà báo trong nước tin rằng nó xuất phát từ một đoạn ngắn trên Facebook cá nhân.

Hôm 2/9, trong lúc Việt Nam đánh dấu 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh, ông Hùng đăng một đoạn trên Facebook nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Giọng văn hài hước của ông Hùng sau đó bị một số người trên mạng lên án là giễu cợt Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Quyết định nhanh chóng của báo Thanh Niên và của Bộ Thông tin và Truyền thông dường như cho thấy giới chức xem đây là vấn đề nghiêm trọng.

Loan báo của Bộ Thông tin và Truyền thông nói báo Thanh Niên phải thu hồi thẻ nhà báo của ông Hùng và nộp về Bộ trước ngày 18/9

Tôn giáo và các Lớp Dậy Nghề Tại các Quận 6, 7, 8 Sài Gòn

Tôn  giáo  và  các  Lớp  Dậy  Nghề Tại  các  Quận  6,  7,  8  Sài  Gòn

Bài 2:

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

*      *     *

Ngòai việc mở thêm 2 trường trung học cộng đồng ở quận 6 và 8, chúng tôi còn tìm cách giúp mở thêm nhiều lớp dậy nghề trong cả 3 quận 6,7 và 8. Các lớp dậy nghề này hầu hết là được tổ chức tại các chùa hay nhà thờ và do các vị tu sĩ và tín đồ chịu trách nhiệm chính yếu. Xin lần lượt ghi ra các địa điểm có tổ chức các lớp dậy nghề đó như sau.

1 – Tại Chùa Huê Lâm ở Khu Bùng Binh Cây Gõ – Quận 6

Ngôi chùa Huê Lâm tọa lạc tại góc đường Lục Tỉnh và đường Minh Phụng là một cơ sở tôn giáo rất nổi tiếng tại vùng Chợ Lớn. Sư Bà Thích Như Thanh là người rất có uy tín, nên được nhiều Phật tử khắp nơi đến theo học với Bà, tôn vinh Bà là vị Thày hướng dẫn cho mình về các mặt tu đức và hành đạo.

Tại đây, còn có ngôi trường Tiểu học lấy tên là Kiều Đàm dành cho con em các gia đình bình dân lao động trong khu vực. Và đặc biệt có những lớp dậy thêu đan dành cho các thiếu nữ. Tất cả các lớp học này đều miễn phí, học viên không phải trả tiền cho nhà trường.

Có vài lần, theo yêu cầu của Sư Cô Như Châu là người trực tiếp phụ trách các cơ sở giáo dục và huấn nghệ này, thì Chương Trình chúng tôi đi gõ cửa nơi cơ quan CARE để xin họ giúp cho lớp học vài máy thêu đan và máy may. Ban Giám đốc cơ quan này gửi người đến tận nơi xem xét và cuối cùng họ đã vui vẻ cấp phát máy móc đúng theo lời yêu cầu của nhà chùa.

Sư Bà Như Thanh đã viên tịch từ lâu. Và hiện tại, theo chỗ tôi biết, thì Sư Cô Như Châu là người kế vị Sư Bà tại ngôi chùa danh tiếng này.

2 – Tại nhà thờ Bình Đông, phường Rạch Cát, Quận 7.

Nhà thờ này tọa lạc trong một khu đất rộng nằm sát cây cầu hình chữ U bác qua Kinh Ngang số 3 từ phường Bình Đông qua phường Rạch Cát. Giáo xứ này chỉ có chừng vài ba trăm gia đình công giáo và do Linh mục Nguyễn Huy Chương phụ trách cai quản.

Tuy sức khỏe yếu kém, nhưng linh mục Chương cũng cố gắng mời được các chuyên viên kỹ sư từ Sài gòn đến giúp dậy về kỹ thuật sửa chữa radio/tv cho các học viên ở địa phương. Và do sự giao tế khôn khéo, ông đã đi xin được nhiều dụng cụ và máy móc cũ để cho các học viên thực tập. Vì thế, mà Chương Trình Phát Triển chúng tôi cũng không phải bận tâm lo lắng gì cho các lớp dậy nghề tại đây.

Sau năm 1975, linh mục Chương bị bắt giam và vào năm 1983 – 84, ông đã chết tại nhà tù có số hiệu là A20 ở Xuân Phước Tuy Hòa. Nhà báo Vũ Ánh cũng bị giam giữ tại đây khá lâu và có tường thuật lại vụ các tù nhân chính trị bỏ xác tại trại giam được gọi là Thung Lũng Tử Thần này.

3 – Tại chùa Đông Phước, Phường Bình Đông, Quận 7.

Chùa Đông Phước tọa lạc ở phía giữa cù lao Bình Đông, là một ngôi chùa lâu đời nhất tại vùng Chợ lớn. Nhìn qua mấy ngôi mộ sát bên hông chùa, ta có thể suy đóan được ngôi chùa này được tạo dựng đã trên 100 năm dưới thời Vua Tự Đức. Vì tình hình lọan lạc, nên rất đông bà con đã tụ tập về nơi đây từ lâu và cất nhà la liệt ngay trong khuôn viên nhà chùa – đến nỗi mà không còn cả cái hàng rào để ngăn cách ngôi chùa với khu nhà của dân chúng lân cận nữa. Thật đúng là chuyện “Cửa chùa rộng mở vậy”.

Vị sư trụ trì hồi thập niên 1960 – 80 là Thượng Tọa Thích Tắc Thành. Thày là người vui vẻ xởi lởi, nên được nhiều Phật tử yêu mến kính trọng, họ thường gọi ông bằng cái tên thân mật là Thày Mười.

Bắt đầu từ năm 1969 – 70, Thày Mười cho mở thêm một phòng phát thuốc và mấy lớp dạy may cắt cho các thiếu nữ tại địa phương. Cả hai cơ sở này đều được Nhóm Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội cung cấp thuốc men và máy móc, cho nên nhà chùa chỉ phải tìm chuyên viên may cắt đến chỉ dẫn cho các học viên mà thôi.

Sau năm 1975, thì tất cả mọi lớp huấn nghệ của các tổ chức tôn giáo như ở đây đều phải ngưng họat động. Và nhà nước cho cán bộ đến chở hết các máy móc thiết bị đi nơi khác.

Vào các năm 1985 – 86 trở đi, tôi hay có dịp đến thăm Thày Mười và lần nào Thày cũng đích thân pha một bình trà ngon ra để đãi tôi. Có lần Thày lại giữ tôi lại dùng cơm chay chung với Thày nữa. Thày nói : “Gần đây tại khu vực Chơ lớn, nhà nước cho mở nhiều nhà máy chuyên may quần áo để xuất khẩu. Nhờ vậy mà các học viên xưa kia theo học may cắt ở đây, thì bây giờ đều kiếm được việc làm tươm tất trong các xí nghiệp may xuất khẩu gần nhà. Thật là điều đáng mừng cho bà con ở xung quanh đây vậy đó…”

4 – Tại nhà thờ Bình An, Quận 8.

Nhà thờ Bình An tọa lạc trên bến Phạm Thế Hiển dọc theo con sông Kinh Đôi, phía bên kia cầu Nhị Thiên Đường. Đây là một giáo xứ với cả ngàn gia đình giáo dân do vị linh mục nổi danh là Hòang Quỳnh đưa dân di cư từ miền Bắc vào hồi 1954.

Vào năm 1969, chúng tôi xin với một cơ quan xã hội quốc tế để cấp cho giáo dân tại đây một dãy nhà tiền chế khung sắt, mái lợp tôle dài đến 30 mét để dùng làm một Trung Tâm Xã Hội. Người phụ trách điều khiển cơ sở này là linh mục Đinh Công Hùynh hồi đó mới có chừng 30 tuổi. Ông là người phụ tá cho linh mục Chánh Xứ Hòang Quỳnh đã ở vào tuổi 70. Sau 1975, cha Quỳnh bị bắt giam và đã chết tại nhà tù Chí Hòa.

Trung tâm này còn có cả một ký nhi viện và rất nhiều lớp dậy nghề. Các lớp dậy nghề ở đây phần lớn là nhằm dậy về cắt may, dậy cắm hoa dành riêng cho các thiếu nữ. Nhưng cũng có vài lớp dậy về đánh máy chữ, dậy tập võ và đặc biệt còn có lớp hướng dẫn dành riêng cho các em “bụi đời” nữa. Nhưng sau 1975, thì Trung Tâm bị đóng cửa.

Vào cuối thập niên 1970, vì lý do gặp nhiều phiền phức với nhà cầm quyền cộng sản, nên linh mục Hùynh đã phải tìm cách xuống tàu vượt biên và hiện đang là cha xứ coi sóc một họ đạo có nhiều giáo dân người Việt tại thành phố Philadelphia.

5 – Các lớp nữ công gia chánh lưu động ở Quận 6 và 8.

Ngòai các lớp dậy nghề tại các chùa, các nhà thờ như đã ghi trên đây, thì chúng tôi còn mở các lớp gia chánh lưu động tại Quận 6 và Quận 8. Các lớp này lại cũng được các giảng viên do Nữ tu Nicole trong tu viện Regina Pacis giới thiệu đến giảng dậy. Vì lớp học được tổ chức vào ban tối tại các trường học ở địa phương, nên chương trình chúng tôi phải kiếm xe lam để đưa đón các cô giáo đến giảng dậy mỗi ngày trong tuần. Thành ra, dù lớp học do chúng tôi tổ chức, thì rút cục vẫn phải nhờ cậy đến vị nữ tu công giáo này mới có thể duy trì lâu dài trong nhiều khóa học được.

Nhân tiện, tôi cũng xin nói qua về vài lớp học chuyên hướng dẫn về kỹ thuật sửa mày thủy động cơ do chúng tôi tổ chức tại Quận 8 vào năm 1966. Các lớp này do kỹ sư người Nhật từ đại lý hãng Kubota gửi đến giúp đỡ chúng tôi – lý do là vì bà con ở địa phương hay dùng các lọai máy chạy tàu, chạy ghe, nhất là máy đuôi tôm, nên đã yêu cầu chương trình phát triển làm sao mở được các lớp đặc biệt như vậy.

6 – Để tóm tắt lại.

Trong mấy năm họat động tại địa phương các quận 6,7 và 8 Sài gòn, chương trình phát triển chúng tôi đã có dịp hợp tác với các tổ chức tôn giáo để góp phần xây dựng cộng đồng về nhiều phương diện. Và đặc biệt trong lãnh vực huấn nghệ để đào tạo những công nhân có tay nghề vững chắc, đủ khả năng đảm nhận một công việc chuyên môn trong các công ty xí nghiệp – thì tại các chùa, các nhà thờ, giới tu sĩ và tín đồ đều tham gia hết sức phấn khởi tận tình trong việc tổ chức và điều hành những lớp học nghề – như đã ghi chi tiết ở trên.

Sự kiện đó chứng tỏ rằng : “Tôn giáo ở nước ta vẫn còn có thể đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc phục vụ xã hội ngay tại các cơ sở hạ tầng (at the grassroots)”.

Rất tiếc rằng, từ khi nắm giữ được chính quyền trong tay, người cộng sản quá khích cuồng tín đã dẹp bỏ tòan thể những cơ sở y tế, xã hội, giáo dục và văn hóa do các tôn giáo tự nguyện hy sinh đảm trách. Quả thật, đó là một sự phí phạm quá lớn lao về tiềm năng chung của dân tộc và cũng là điều thiệt thòi không có gì bù đắp nổi cho các tầng lớp nhân dân sinh sống tại những khu vực nghèo túng nữa vậy./

Costa Mesa California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm