Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước ĐTC Phanxicô

Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước

ĐTC Phanxicô

(Tòa Bạch Ốc, 23.9.2015).

                       Chào buổi sáng!

Chúa đã làm nên một ngày thật tuyệt vời!

Kính thưa Đức Thánh Cha, Michelle và tôi xin chào mừng Ngài đến với Nhà Trắng. Ở đây thường không đông người như thế này – nhưng tầm mức và tinh thần của cuộc gặp gỡ ngày hôm nay chỉ phản ánh phần nào lòng yêu mến sâu xa của 70 triệu người Công Giáo Mỹ… và con đường sứ điệp tình yêu và hy vọng của Ngài đã truyền cảm hứng cho biết bao người, trên khắp đất nước chúng tôi và trên toàn thế giới. Thay lời cho người dân Mỹ, thật là vinh dự lớn lao và là đặc ân cho tôi được chào đón Ngài đến với nước Mỹ.

Hôm nay, chúng ta đánh dấu nhiều điểm khởi đầu. Thưa Đức Thánh Cha, Ngài được chúc mừng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ châu Mỹ. Đây là chuyến thăm nước Mỹ đầu tiên của Ngài. Và Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên chia sẻ Thông Điệp trên Twitter.

Thưa Đức Thánh Cha, chuyến thăm của Ngài không chỉ cho phép tôi, trong cách thế khiêm tốn, đáp lại lòng hiếu khách đặc biệt mà Ngài rộng mở với tôi tại Vatican năm ngoái. Nó cũng cho thấy biết bao người dân Mỹ, từ mọi nền văn hóa và thuộc mọi niềm tin, quý trọng vai trò của Giáo Hội Công Giáo trong việc phát triển đất nước. Ngay từ thời tôi làm việc tại các khu phố nghèo cùng với Giáo Hội Công Giáo tại Chicago, đến thời tôi làm Tổng Thống, tôi đã tận mắt thấy cung cách mà mỗi ngày, các cộng đồng Công Giáo, các linh mục, các nữ tu, và các giáo dân nuôi những người đói khát, chữa lành người đau ốm, che chở người vô gia cư, giáo dục các trẻ em, và củng cố đức tin nâng đỡ rất nhiều người.

Điều ấy thật đúng trên đất Mỹ, cũng đúng trên toàn thế giới. Từ đường phố nhộn nhịp của Buenos Aires tới ngôi làng xa xôi ở Kenya, các tổ chức Công Giáo phục vụ người nghèo, giúp đỡ các tù nhân, xây dựng các trường học và nhà ở, thành lập các cô nhi viện và các bệnh viện. Và khi Giáo Hội đứng về phía những người đấu tranh để phá vỡ xiềng xích của nghèo đói, thì đó cũng là tiếng nói và niềm hy vọng cho những ai đang tìm cách bẻ gãy xiềng xích của bạo lực và áp bức.

Tuy nhiên, tôi tin rằng, niềm vui nồng nhiệt xung quanh chuyến viếng thăm của Ngài phải được ghi nhận, không chỉ do vai trò của Ngài trong tư cách là Giáo Hoàng, mà còn do những phẩm tính độc đáo của Ngài trong tư cách là một con người. Với lòng khiêm tốn của Ngài, Ngài mang lấy một sự đơn sơ, lịch thiệp trong lời nói và sự quảng đại trong tinh thần, chúng tôi nhìn thấy một mẫu gương sống động cho những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Đấng là vị lãnh đạo có thẩm quyền luân lý không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.

Ngài mời gọi tất cả chúng ta, Công Giáo cũng như không Công Giáo, đặt “người nhỏ bé nhất” vào tâm điểm của sự quan tâm của chúng ta. Ngài nhắc chúng ta rằng, trong cái nhìn của Thiên Chúa, sự đo lường của chúng ta như là các cá nhân, như là các xã hội, không được xác định bởi sự giàu có hay quyền lực hay địa vị hay danh tiếng, nhưng xác định bởi cách thế chúng ta đáp lại lời mời gọi của Kinh Thánh để nâng đỡ người nghèo và người bị thiệt thòi, thúc đẩy công bằng và chống lại bất công, và đảm bảo rằng, mỗi người có thể sống đúng phẩm giá – bởi vì tất cả chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.

Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng “sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thiên Chúa” là lòng thương xót. Điều ấy có nghĩa là chào đón người lạ với sự đồng cảm và con tim rộng mở, từ những người tị nạn phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh tàn phá, đến những người nhập cư phải rời bỏ nhà cửa để đi tìm cuộc sống tốt hơn. Điều ấy có nghĩa là diễn tả sự cảm thông và tình yêu với những người chịu thiệt thòi và bị gạt ra bên lề, với những người chịu đau khổ, với những người đang tìm sự cứu độ.

Ngài nhắc chúng ta nhớ về cái giá phải trả cho chiến tranh, đặc biệt là những người cô thế và người không có khả năng tự vệ, và thúc giục chúng ta hướng tới tính khẩn thiết của hòa bình.

Thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi biết ơn Ngài vì sự nâng đỡ vô giá mà Ngài dành cho chúng tôi trong những bước khởi đầu với nhân dân Cuba, với lời hứa cho mối tương quan tốt hơn giữa hai quốc gia, cho sự hợp tác hơn nữa, và cho đời sống tốt hơn với người dân Cuba. Chúng tôi cám ơn Ngài vì tiếng nói đầy nhiệt huyết của Ngài chống lại các cuộc xung đột chết người. Các xung đột ấy tàn phá cuộc sống của quá nhiều người nam nữ và trẻ em. Chúng tôi cám ơn Ngài vì Ngài mời gọi các quốc gia chống lại chiến tranh và giải quyết các tranh chấp thông qua ngoại giao.

Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng, con người chỉ thực sự tự do khi họ có thể thực hành đức tin của mình cách tự do. Ở nước Mỹ này, chúng ta trân quý tự do tôn giáo. Thế nhưng, trên thế giới ngay lúc này đây, những người con của Chúa, kể cả các Kitô hữu, bị phân biệt đối xử, thậm chí bị giết chết vì đức tin của mình. Các tín hữu bị ngăn cản, không được tụ họp tại nơi thờ phượng. Họ bị tù đày. Các nhà thờ bị phá hủy. Vì thế, chúng tôi cùng với Ngài đứng về phía bảo vệ tự do tôn giáo và thúc đẩy đối thoại liên tôn, biết rằng mọi người ở mọi nơi phải có khả năng sống đức tin cách tự do khỏi nỗi sợ hãi và khỏi sự đe dọa.

Thưa Đức Thánh Cha, Ngài nhắc chúng tôi nhớ rằng, chúng ta có bổn phận thánh thiêng bảo vệ hành tinh của chúng ta. Đây là món quà tuyệt với Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng tôi ủng hộ lời mời gọi của Ngài đối với các nhà lãnh đạo thế giới, cho việc nâng đỡ những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trong sự biến đổi khí hậu, cho việc xích lại gần nhau để bảo vệ thế giới của chúng ta cho các thế hệ tương lai.

Với sự Thánh Thiện, trong lời nói và hành động của Ngài, Ngài là tấm gương đạo đức sâu sắc. Và với những lời nhắc nhẹ nhàng nhưng kiên quyết về bổn phận của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, Ngài đang lôi kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn. Tất cả chúng ta, nhiều lần, có thể kinh nghiệm sự khó chịu, khi chúng ta nhận thấy khoảng cách giữa cung cách sống hằng ngày với những gì chúng ta biết là thật là đúng. Nhưng tôi tin rằng, sự khó chịu ấy là một phúc lành, vì nó chỉ ra cho chúng ta điều gì đó tốt hơn. Ngài đánh thức lương tâm chúng ta khỏi giấc ngủ mơ; Ngài mời gọi chúng ta vui trong Tin Mừng, và trao tặng chúng ta sự tự tin để đến với nhau, trong khiêm tốn và phục vụ, và theo đuổi một thế giới yêu thương hơn, công bằng hơn, và tự do hơn. Ở đây và trên khắp thế giới, cầu chúc cho thế hệ chúng ta lưu tâm đến lời mời gọi của Ngài để “không bao giờ đứng bên ngoài chuỗi hy vọng sống động này!”

Vì món quà hy vọng lớn lao mà Ngài dành cho nước Mỹ, thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi cám ơn và chào đón Ngài, với niềm vui và lòng biết ơn.

Chuyển ngữ: Vinhsơn Vũ Tứ Quyết, S.J

Ông Robert Funseth, ân nhân của cựu tù cải tạo

Ông Robert Funseth, ân nhân của cựu tù cải tạo

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-10-01

 RFA

hinh1

Ông Robert Funseth và Hội gia đình tù nhân chính trị VN.

Hình do bà Khúc Minh Thơ gửi RFA
Ông Robert Funseth, phụ tá ngoại trưởng kiêm phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thời chiến Việt Nam, qua đời ngày 25 tháng Chín vừa qua trong sự nhớ tiếc của những  gia đình cựu tù cộng sản từ Việt Nam qua Mỹ định cư theo chương trình HO từ năm 1990. Thanh Trúc ghi nhận cảm tưởng của một số cựu tù HO khắp nơi:Nếu không nhờ chương trình HO và nhờ nỗ lực ngoại giao của phụ tá ngoại trưởng Robert Funseth thì không chắc những quân nhân  miền Nam  ra khỏi tù cộng sản có thể được tái định cư hợp pháp tại Mỹ từ năm 1990 trở đi.

Đó là cảm tưởng chung của những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, còn được gọi là những người HO vì được qua Mỹ định cư theo chương trình Humanitarian Operation, tạm gọi là chương trình nhân đạo, mà người lãnh nhiệm vụ thương thuyết với phía Việt Nam khi đó không ai khác ngoài ông Robert Funseth .

Từ Illinois, ông Bùi Bổn, cựu sĩ quan miền Nam bị cộng sản tập trung cải tạo 10 năm, qua Mỹ theo diện HO4 năm 1990:

Khi ở trong trại tù thì tôi đã nghe được những tin tức là chính phủ Hoa Kỳ có can thiệp với cộng sản Việt Nam để cho một số tù cải tạo và gia đình của họ được ra đi định cư tại  Hoa Kỳ. Ông Funseth là người mà chúng tôi rất biết ơn bởi vì cũng nhớ chính sự ngoại giao của ông at thành thử chương trình HO tị nạn và nhân đạo cho những tù nhân cải tạo được hoàn tất.

Phải nói thành thật chúng tôi sống được là nhờ công lao của ông Funseth. Nếu không có chương trình HO này thì chúng tôi và gia đình chúng tôi mãi mãi sống trong sự đau khổ và nhục nhã ở trên chính quê hương của chúng tôi. Trước sự ra đi của ông Funseth chúng tôi vô cùng đau lòng và tiếc nuối. Bản thân tôi đã chuyển những tin tức nhanh nhất về tin ông Funseth đã rời bỏ chúng tar a đi đến cộng đồng người Việt.

Người thứ hai, cũng là HO4 với 6 năm tập trung cải tạo, ông Bùi Phước Ty, hiện cư ngụ tại California:

Chúng tôi được tin ông Robert Funseth không còn nữa. Với việc làm của ông, với tư cách phụ tá ngoại trưởng Mỹ, ông Robert Funseth đã bỏ không biết bao nhiêu công sức để có thể thương thuyết với chính quyền Việt Nam và sau đó chương trình HO giúp những gia đình của người tù cộng sản tái định cư ở Mỹ.

Cá nhân  tôi và gia đình chúng tôi thì không bao giờ quên được người đã giúp mình tái lập được một cuộc sống mới ở Hoa Kỳ, con cái có cơ hội học hành và thay đổi cuộc sống từ sự cùng khổ ở đất nước Việt Nam sang xứ người.

Cá nhân  tôi và gia đình chúng tôi thì không bao giờ quên được người đã giúp mình tái lập được một cuộc sống mới ở Hoa Kỳ, con cái có cơ hội học hành và thay đổi cuộc sống từ sự cùng khổ ở đất nước Việt Nam sang xứ người.
– ông Bùi Phước Ty

Chúng tôi được biết vào khoảng tháng Mười Một này tại Nam Cali, anh Nguyễn Phán với tư cách hội phó Hội HO, Thương Phế Binh Và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa, sẽ tổ chức một buổi hội ngộ cựu tù tại Nam Cali. Chúng tôi sẽ đề nghị ban tổ chức một buổi vinh danh và tưởng niệm ông Robert Funseth. Ngày thang nào còn sống trên cuộc đời này thì chúng ta còn nhớ đến ông Robert Funseth. Hy vọng ban tổ chức sẽ thực hiện trong buổi hội ngộ HO này.

Phải mất 7 năm ông Robert Funseth mới thành công và ký kết bản thỏa thuận về chương trình HO với viên chức cao cấp  Việt Nam lúc bấy giờ là ông Vũ Khoan.

Nói về ông Robert Funseth, phụ tá ngoại trưởng thời tổng thống Ronald Reagan, là nói đến một viên chức tận tụy với trách vụ, một con người giàu tình cảm và lòng nhân đạo ngay cả với những người  không phải ruột  thịt của mình:

Từ năm 1977 Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị bắt đầu vận động, điểm quan trọng nhất là khi tổng thống Reagan chấp thuận, đồng ý cho Bộ Ngoại Giao cử ông Funseth thương thảo với Việt Nam về vấn đề tù nhân chính trị.

Không bao giờ chúng tôi trong hội quên cái ngày mà ông Funseth cùng phái đoàn đi qua Việt Nam để ký kết bản thỏa hiệp ngày 30  tháng 7 năm 1989, khi đó ông Funseth đã cầu nguyện một đêm cho việc được hoàn thành. Khi về tới phi trường Bangkok thì ông Funseth đã gọi vợ là bà Marylin để bà báo tin cho chúng tôi biết vì tất cả anh chị em Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị đều chờ đợi kết quả đó.

Đó là lời bà Khúc Minh Thơ, người cùng tổ chức Gia Đình Cựu Tù Nhân Chính Trị từng sát cánh với ông Robert Funseth để chương trình HO hoàn thành. Theo bản thỏa thuận này, quân dân cán chính miền Nam được chấp thuận cho sang Mỹ định cư sau khi bị tập trung cải tạo trong các trại tù cộng sản 3 năm trở lên.

hinh2-400
Ông Robert Funseth và bà Khúc Minh Thơ

Không chỉ những cựu sĩ quan HO mà cả những cựu quân nhân không đi theo diện HO, điển hình như người ở Houston, Texas, ông Huỳnh Công Ánh, không giấu được sự bàng hoàng trước tin ông Robert Funseth qua đời:

Tôi là cựu tù chính trị các trại tù khắp miền Nam tới miền Bắc. Tôi trốn tù đầu năm 1981và qua Mỹ năm 81. Từ đó tôi sát cánh với bà Khúc Minh Thơ và ông Funseth. Sau  khi  có hội Gia Đình Từ Nhân thì tôi thành lập Tổng Hội Cựu Tù Nhân và chúng tôi sát cánh với nhau.

Tôi biết rất rõ là mỗi lần ông Funseth họp hành với phía bên kia thì ông đều báo về cho bà Khúc Minh Thơ. Cũng nhiều lần, hình như 3 lần, ông có xuống Houston để cùng tổ chức với tôi chương trình vận động đó.

Tôi biết ông là một người rất tha thiết, rất nhiệt tình. Nếu  không có ông thì tôi e rằng bản thỏa hiệp không có, hoặc là có chậm đi năm mười năm nữa thì liệu anh em HO trong các trại tù khốn khổ mà tôi biết rõ sẽ chết chóc rất nhiều. Cho nên công của ông đối với anh em HO rất lớn. Hàng năm chúng tôi đều có liên lạc với nhau. Khi ông nằm bịnh thì chính bà Khúc Minh Thơ hàng ngày vô bệnh viện và thông báo cho tôi những chi tiết. Từ khi ông nằm xuống thì chúng tôi cứ chờ đợi chương trình tang lễ để chúng tôi lên và có cơ hội đưa tiễn cuối cùng.

Từ thành phố Dallas, Texas, nhà báo Thái Hoa Lộc, cựu tù cộng sản:

Thời gian mà tôi biết ông Robert Funseth là khi thành  lập Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị đầu tiên tại Dallas Fort Worth, sau đó chúng tôi phối hợp với 3 khu hội khác là Khu Hội Houston, Khu Hội Nam Cali và Bắc Cali, thì lần đầu tiên mà chúng tôi gặp được ông Funseth là trong lần chúng tôi đi Washington để tham dự bữa cơm ĐồngTâm do bà Khúc Minh Thơ tổ chức, lúc đó ông Funseth đã ký được cái hiệp ước với ông Vũ Khoan ngày 30 tháng Bảy năm 1989. Chúng tôi đã gặp ông rất nhiều lần. Nhờ sự cố gắng trong vòng 7 năm mà ông Robert Funseth đã đưa được một số cựu tù nhân chính trị, trong đó có những chiến hữu của tôi, đến được Hoa Kỳ cùng gia đình của họ gần 300.000 người.

Sự ra đi của ông Ông Robert Funseth là sự mất mát. Dù không là HO nhưng chúng tôi biết ơn ông, tất cả những tù nhân chính trị đều biết ơn ông.

Đã có nhiều gia đình HO, khi đã tạm ổn cuộc sống tại Mỹ, tìm cách liên lạc với ông Robert Funseth để thăm hỏi và cảm ơn. Cũng vậy, khi về hưu và không còn phục vụ trong nghành ngoại giao nữa, cựu phụ tá ngoại trưởng Robert Funseth vẫn thường xuyên giữ mối dây thân tình đến những gia đình HO mà ông biết.

Đó là tính cách của nhà ngoại giao Robert Funseth, người ân của HO. Anh Lê Thành con trai một gia đình đi khá muộn là HO 31, hiện  là giám đốc công ty kỹ thuật cao Luraco nổi tiếng, nói như vậy về ông Robert Funseth:

Không bao giờ chúng tôi trong hội quên cái ngày mà ông Funseth cùng phái đoàn đi qua Việt Nam để ký kết bản thỏa hiệp ngày 30  tháng Tám năm 1989…
– bà Khúc Minh Thơ

Ba của Lê Thành là Khóa 1 đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt, khi miền Nam sụp đổ, ba vào trại cải tạo 7 năm. Ba đi tù cộng sản về thì gia đình rất khó khăn, tuy nhiên nhờ chương trình HO, đặc biệt sự vận động của ông Funseth, thì gia đình Lê Thành sang Mỹ theo diện HO 31 năm 1995 để có được sự đổi đời như vậy.

Trong thời gian qua Lê Thành cũng may mắn có sự gần gũi với ông, ông có viết thư cho Thành và Thành cũng có viết thư cho ông. Trong những giờ phút hấp hối tại bệnh viện, cô Khúc Minh Thơ hỏi ông có nhớ Tom Lê của Luraco không thì ông nói ông có nhớ, một điều mà hôm qua nói chuyện với cô Khúc Minh Thơ làm Thành rất nghẹn ngào và cảm động. Cho phép Thành đại diện gia đình cũng như toàn thể nhân viên công ty Luraco xin thành kính phân ưu.

Thể theo ý nguyện của người quá cố, tang lễ sẽ được tổ chức rất đơn giản trong vòng riêng tư với gia đình. Ông Robert Funseth sẽ được an táng bên cạnh mộ phần người vợ thân yêu của ông là bà Marylin Funseth và con trai của hai người.

Một buổi lễ tưởng niệm ông Robert Funseth sẽ được tổ chức tại Washington DC đầu tháng Mười Hai để những người yêu mến ông có thể đến tham dự đông đủ hơn.

Bác sĩ bỏ đảng, khám chữa bệnh cho Thương Phế Binh VNCH

Bác sĩ bỏ đảng, khám chữa bệnh cho Thương Phế Binh VNCH

Nguoi-viet.com


Việt Hùng/Người Việt

SÀI GÒN (NV)Thời gian vừa qua, trong chương trình “Tri Ân Anh – Người Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)” do Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn tổ chức, luôn xuất hiện một vị bác sĩ tận tâm khám chữa bệnh cho các thương phế binh. Ít ai biết được trước đây ông từng là bác sĩ cho bộ đội Bắc Việt.


Bác Sĩ Long thăm hỏi sức khỏe một TPB VNCH. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Ông từng là trung tá Quân Ðội Nhân Dân, 30 tuổi quân, từng tham gia cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược, có nhiều kinh nghiệm chữa trị cho các thương binh. Thế nhưng, khi nhận ra sự thối nát của chế độ, ông đã từ bỏ đảng Cộng Sản và tham gia khám chữa bệnh cho Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa (TPBVNCH).

Ông là Bác Sĩ Ðinh Ðức Long, sinh năm 1959, tốt nghiệp trường Ðại Học Y Khoa Semmelweis tại thủ đô Budapest, Hungary vào năm 1977, chuyên ngành Nội Tiêu Hóa. Hiện nay Bác Sĩ Ðinh Ðức Long, sống tại Sài Gòn. Ông đã vượt qua các rào cản của ý thức hệ và quan điểm chính trị để đến với các TPBVNCH với tấm lòng chân thành.

Từ bỏ đảng Cộng Sản

Trả lời về lý do vì sao ông từ bỏ đảng Cộng Sản, Bác Sĩ Long cho biết: “Năm 2012, nhận ra tình trạng tham ô của lãnh đạo bệnh viện, tôi tố cáo bí thư đảng ủy kiêm giám đốc bệnh viện đa khoa Bưu Ðiện – ông Trương Anh Kiệt và lãnh đạo bệnh viện đã ‘cấu kết làm hồ sơ giả mạo, để rút tiền của nhà nước và bảo hiểm y tế khoảng hơn 28.5 tỷ VND trong 3 năm (2009-2011).”

“Thế nhưng thay vì lãnh đạo ngành y tế phải tiếp thu để xử phạt, mà ngược lại, họ còn tiếp tay cho bệnh viện ‘đơn phương chấm dứt hợp đồng’ làm việc với tôi. Từ đó tôi đã không còn sự tin tưởng vào chế độ này, và đã tuyên bố ra khỏi đảng.”

Theo Bác Sĩ Long, sau đó ông tiếp tục khởi kiện giám độc bệnh viện Bưu Ðiện Sài Gòn lên tòa án. Ròng rã theo đuổi vụ kiện suốt mấy năm, Tòa án Quận 10 Sài Gòn bằng bản án dân sự sơ thẩm số 25/2014/LÐ-ST, ngày 4 tháng 12, 2014, tuyên ông thắng kiện vụ án “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.”


Bác Sĩ Ðinh Ðức Long và Linh Mục Phạm Trung Thành – cựu giám tỉnh DCCT Sài Gòn trong một lần khám chữa bệnh cho TPB VNCH. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Theo đó bệnh viện phải chấp nhận thi hành án bằng việc nhận ông trở lại làm việc như cũ và bồi thường cho ông một khoản tiền. Bác Sĩ Long đã trích ra 10 triệu đồng tặng cho Chương trình “Tri Ân Anh – Người Thương Phế Binh VNCH.”

Khi đến với thương phế binh với tấm lòng chân thành, ông bộc bạch rằng, “Tôi cảm thấy mình phải có trách nhiệm chia sẻ một phần những thiệt thòi đối với các anh em TPBVNCH. Qua việc tôi khám chữa bệnh cho họ trong các đợt trước, tôi thấy các anh em TPB VNCH là những người thiếu thốn về mặt thuốc men, một số trang thiết bị như mắt kính, cặp nạng, xe lăn,… nên tôi muốn đóng góp một phần trong khả năng của tôi từ số tiền mà tôi thắng kiện để sẻ chia cho họ.”

Trả lời Người Việt về “Cảm nghĩ khi tiếp xúc với các TPB VNCH?” Ông cho biết: “Họ cũng là những quân nhân, họ cũng là con em dân tộc Việt Nam, họ chiến đấu vì một mục đích riêng của họ. Xưa nay thành bại là chuyện thường của cuộc đời. Tất cả hai bên đều là nạn nhân của chiến tranh, chiến tranh của huynh đệ tương tàn.”

“Sau cuộc chiến, họ là những người thiệt thòi nhất, theo tôi, họ nằm trong số những người thiệt thòi cần được chia sẻ cả về thể xác lẫn tinh thần. Những người thương binh của chế độ Cộng Sản được chế độ chăm sóc, còn họ không được chế độ chăm sóc, thậm chí bị bỏ rơi, miệt thị… Trên thực tế không có chính sách gì dành cho họ.”

Khi được hỏi, “Bác sĩ nghĩ như thế nào về tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc?”, ông cho biết: “Tôi nghĩ hòa hợp hòa giải dân tộc là một điều nên làm và cần làm ngay bây giờ, chứ không thể chậm trễ nữa. Bây lâu nay các lãnh đạo Cộng Sản thường hay nói về ‘hòa hợp hòa giải dân tộc’, thế nhưng trên thực tế thì họ không làm gì để thể hiện điều này?”

“Chiến tranh đã đi qua hơn 40 năm rồi, muốn khép lại quá khứ thì phải thể hiện bằng hành động, mà hành động dễ nhất là đối với các tử sĩ như trùng tu nghĩa trang Biên Hòa, sau đó là những người TPB VNCH – những người trẻ nhất là 60 tuổi, người già trên 80 – họ không còn sống được bao lâu,” BS Long nói.

Nhìn hình ảnh người bác sĩ tận tâm khám chữa bệnh cho các chú TPB VNCH, hy vọng hình ảnh này sẽ còn kéo dài mãi, để vết thương chiến tranh có thể lành hẳn trên người lính của cả hai miền chiến tuyến.

Cảm động cảnh Giáo hoàng hôn lên đầu cậu bé bại não

Cảm động cảnh Giáo hoàng hôn lên đầu cậu bé bại não
Sáng nay 26/9, khi Giáo hoàng Francis đến Philadelphia- Mỹ, ông đã dừng xe và ra khỏi ô tô để đến hôn lên trán một cậu bé 10 tuổi bị bệnh bại não bên ngoài hàng rào chắn. Một hành động tình cảm và tinh tế của Giáo hoàng khiến người dân ra chào đón ông xúc động trào nước mắt.

Ngay khi thoáng thấy cậu bé Michael Keating đang nằm trên xe lăn phía sau rào chắn, ngài đã yêu cầu dừng xe rồi sau đó bước đến chỗ Michael, xoa đầu rồi hôn lên đầu cậu bé.

  
Giáo hoàng cho dừng xe khi thấy cậu bé nằm trên xe lăn sau hàng rào.

Giáo hoàng cúi xuống hôn và xoa đầu cậu bé.

Chị Kristin Keating, mẹ của Michael, đã khóc nức nở nói lời cảm ơn khi đức Giáo hoàng nắm tay chị và chồng chị, anh Chuck Keating.

Anh Chuck Keating vốn là trưởng ban nhạc trường Trung học Shanahan ở Downingtown. Ban nhạc này đã biểu diễn chào đón Giáo hoàng Francis khi ngài đến Philadelphia trong hành trình cuối cùng của chuyến thăm nước .

“Đó là cảm xúc không thể tin nổi” – Kristin chia sẻ về cảm giác khi được gặp Giáo hoàng và nói rằng chị cảm thấy đã được Giáo hoàng “yêu thương và ban phước lành”.


Kristin Keating, mẹ của cậu bé Michael, khóc nức nở khi nắm tay Giáo hoàng.

Cậu bé Michael Keating được chẩn đoán bị bại não từ khi mới 6 tháng tuổi. Cậu bé bị thiểu năng trí tuệ, có vấn đề về thị lực và thính lực và không thể tự chăm sóc bản thân mình.

Theo tường thuật của CBS News, Michael đã thức dậy từ lúc 2 giờ 15 phút sáng để cùng gia đình đến Philadelphia.

“Khi Giáo hoàng nắm tay con tôi, tôi thấy một nụ cười nhẹ trên gương mặt nó. Với tôi, trong khoảnh khắc ấy có lẽ thằng bé đã cảm nhận được mình đang được ban phước. Còn với cả gia đình chúng tôi, khoảnh khắc ấy thật đẹp và ý nghĩa”- Kristin kể thêm.


Kristin Keating kể rằng đã thấy con trai chị bình tâm và mỉm cười khi được Giáo hoàng ban phước lành. Ảnh: AP

Sau khi gặp Michael, Giáo hoàng Francis cũng đã tiếp tục đến thăm những trẻ em khuyết tật ở Thánh đường nhà thờ Thánh Peter và Paul.

Trong thời gian thăm Mỹ, Giáo hoàng cũng từng gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama và có bài phát biểu tại Tòa nhà Quốc hội Mỹ. Đã có một sự việc bất ngờ xảy ra khi hôm 24-9 vừa qua, hạ nghị sĩ đảng Dân chủ Bob Brady đã bị bắt gặp lẻn lên bục phát biểu và lấy trộm ly nước uống thừa của Giáo hoàng Francis đã dùng khi phát biểu trong khi những người khác không để ý vì bận tiễn Giáo hoàng.

Theo tờ Philadelphia Daily News, ông Brady đã cẩn thận mang cốc nước vẫn còn một nửa về văn phòng, uống rồi chia cho vợ và hai nhân viên. Sau đó, ông còn mời thượng nghị sỹ Bob Casey cùng thuộc đảng Dân chủ đến văn phòng mình. Ông Casey cùng vợ và mẹ mình đã nhúng ngón tay vào cốc nước. Sự việc này đã được văn phòng nghị sỹ Casey xác nhận. 

Chi Nguyen Kim Bang goi

Robert Funseth, ân nhân của HO, qua đời

Robert Funseth, ân nhân của HO, qua đời

Ngọc Lan/Người Việt

ARLINGTON, Virginia (NV) – “Ông Funseth vừa mất sáng nay, Thứ Sáu, 25 Tháng Chín, lúc 10 giờ 20 tại một bệnh viện ở Arlington, Virginia.”

Bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, nói với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại, sau khi chứng kiến linh mục làm lễ và thi hài ông Robert Funseth được đưa đến nhà quàn.

Ông Robert Funseth, từng là phát ngôn nhân cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thời gian cuộc chiến Việt Nam diễn ra. Đặc biệt, khi đang làm phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, ông là người “được trao trách nhiệm đàm phán với giới lãnh đạo Hà Nội để yêu cầu thả tù chính trị và cho họ cùng với gia đình sang Hoa Kỳ định cư, cũng như cho những người thuộc diện con lai và thân nhân của những người Việt đang sinh sống tại Mỹ được rời Việt Nam theo chương trình Ra Ði Có Trật Tự (ODP),” theo lời ông nói với đài RFA vào năm 2005.

Ông Robert Funseth (ngồi), phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, và các nhân viên tại Việt Nam, vận động thả tù nhân chính trị. (Hình: vietnam.ttu.edu)

Với nỗ lực không ngừng của ông Funseth, sau bảy năm, kể từ năm 1982, chính phủ Hoa Kỳ và nhà cầm quyền Việt Nam đã ký xong bản thỏa hiệp vào ngày 30 Tháng Bảy, 1989, đồng ý đưa 300,000 tù nhân chính trị, những cựu quân nhân VNCH cùng gia đình họ, đến định cư tại Hoa Kỳ.

***

Nói về nguyên nhân cái chết của ông Funseth, bà Khúc Minh Thơ cho biết: “Ông mất chính là vì bệnh già. Khi vợ ông qua đời hồi đầu năm 2015, thì ông cũng yếu dần, chứ không bệnh gì. Vợ chồng ông Funseth chỉ có một con trai nhưng đã mất lâu rồi.”

“Nơi ông Funseth ở có những người hàng xóm rất tốt. Hai, ba ngày họ không thấy ông ra lấy báo trước cửa, nên gọi cảnh sát và báo cho người em trai ông ở New York biết. Khi cảnh sát đến nhà mới biết ông té nằm trên sàn cả ba ngày rồi, vậy mà ông vẫn sống. Người ta mang ông vô nhà thương,” bà Thơ cho biết.

Cũng theo lời bà, “tôi có hứa với ông bà Funseth là tôi sẽ thay mặt cho tất cả tù nhân chính trị chăm sóc ông bà khi họ đau ốm.”

Thế nên ngay sau khi từ Việt Nam trở về, được em trai ông Funseth báo tin cho biết, bà Khúc Minh Thơ đã có mặt mỗi ngày tại bệnh viện nơi ông nằm điều trị.

Bà cũng cho biết, hôm Thứ Ba vừa qua, ông Funseth đã yêu cầu bệnh viện tháo ống trợ thở để ông được “ra đi tự nhiên.”

Nói về ông Funseth, bà Khúc Minh Thơ cho rằng, “Tất cả tù nhân chính trị và cả bản thân tôi đều coi ông Funseth như một người ơn mà không cách gì trả ơn nổi. Đó là người đã cứu rỗi linh hồn những người tù nhân chính trị, những người HO.”

Bà Thơ kể, “Tôi vẫn nhớ khi tôi vào nhà thương thăm ông, ông tỉnh lại nói chuyện với tôi suốt hai tiếng đồng hồ. Ông cứ sợ không gặp lại tôi. Tôi có nói ông không hề cô độc, dù vợ con ông đã mất, nhưng ông vẫn còn tụi tôi, tụi tôi hứa sẽ chăm sóc cho ông.”

“Ông nhắc, ông nhớ, ông nói thao thao về những kỷ niệm, về những người tù nhân chính trị. Ông thương họ lắm. Cho đến lúc gần chết mà ông còn nói với tôi câu như thế này: Nếu bà không để tâm, thì cho phép tôi để hình tôi trên bàn thờ của bà.”

“Vì sao biết không? Vì ông muốn khi nào những người tù chính trị ngày xưa có đến thăm tôi thì cũng sẽ gặp ông luôn. Vì ông đâu có gia đình. Ông chỉ có người em và hai người cháu lại không ở gần đây,” bà Khúc Minh Thơ giải thích tâm nguyện của ông.

Cũng theo bà Thơ, “Trong nhà ông Funseth, dưới tầng hầm, có một thư viện, nơi đó ông cất giữ rất nhiều món quà của những người tù nhân chính trị, của những hội đoàn tặng cho ông.”

Bà kể thêm, “Trong nhà thương, ông nhắc đủ thứ, nhớ kỹ đủ thứ. Nhớ lại những lúc tôi làm việc với ông. Nhắc lại lúc ông đi ký thỏa hiệp, ông về kể với tôi khi sang Việt Nam ký thì bên Việt Nam đâu có đồng ý tất cả các điều khoản đưa ra, vẫn còn một số điểm họ không chịu ký. Trong khi những người trong phái đoàn cảm thấy như vậy là cũng được, thì ông lại luôn nhớ câu tôi dặn trước khi ông rời khỏi Bộ Ngoại Giao để lên máy bay đi, là ‘ông làm bằng cách nào tôi không biết, nhưng ông phải yêu cầu họ ký hết các thỏa hiệp đó mới được.’ Tôi nói là nói vậy thôi chứ làm sao buộc ông như vậy được. Mọi chuyện khó khăn lắm chứ. Vậy mà đêm đó, ông kể, 1 giờ khuya ông ngồi dậy đọc kinh cầu nguyện cho Việt Cộng ký hết những điều khoản còn lại để cho gia đình tù nhân chính trị được yên lòng.”

“Sáng hôm sau, khi phái đoàn của ông đi ăn sáng trước khi chuẩn bị trở về Mỹ, thì ông Vũ Khoan là người đại diện phía Việt Nam ký thỏa hiệp đó tiến đến nơi ông Funseth, và nói phía Việt Nam đồng ý ký hết những điều khoản còn lại. Ông nói ông mừng hết lớn. Khi ông đến phi trường Bangkok gọi về cho bà Funseth, kêu bà báo tin cho tôi biết,” bà Thơ tiếp tục kể về người ơn của chương trình H.O.

Bà Khúc Minh Thơ còn cho biết, ông Funseth, trong những ngày nằm bệnh viện, đã nói nguyện vọng muốn được bà Thơ “làm cho ông một buổi Funseth’s Day.”

“Tôi nói ông cố gắng khỏe lại thì sẽ tổ chức, dự định cũng đúng vào dịp 30 Tháng Bảy. Giờ ông đi rồi, nhưng tôi nghĩ tôi cũng sẽ làm ngày đó cho ông, trong một hình thức nào đó,” bà nói.

Chia sẻ về cảm xúc của một người thân thiết với ông từ 30 năm qua, bà Khúc Minh Thơ cho biết, “Ông ra đi tôi buồn nhưng cũng vui cho ông, vì ông vẫn thường nói ông nhớ vợ ông, con ông, ông cứ mơ thấy họ. Thì thôi coi như ông đã được đoàn tụ với vợ con mình. Nhớ về ông, điều cảm động nhất với tôi là việc ông cầu nguyện trong đêm để cho tất cả các điều khoản trong bản thỏa hiệp được ký hết.”

Liên lạc tác giả: Ngoclan@nguoi-viet.com

Nebraska: Dược sĩ gốc Việt gian lận Medicaid hơn $14 triệu

Nebraska: Dược sĩ gốc Việt gian lận Medicaid hơn $14 triệu
Nguoi-viet.com


LINCOLN, Nebraska (NV) – Một dược sĩ gốc Việt hôm Thứ Ba ràn rụa nước mắt trong khi nhận tội gian lận chương trình săn sóc y tế ở tiểu bang Nebraska, theo tin của JournalStar.com.

(Hình minh họa: Getty Images/Joe Raedle)

Ông Scott Tran, 44 tuổi, chủ nhân một tiệm thuốc tây ở Lincoln, thú nhận đã gian lận tổng cộng $14.4 triệu, được cho là vụ gian lận lớn nhất trong lịch sử Nebraska.

Công tố viên liên bang nói, ông Scott kê khai đòi tiền thuốc TOBI, thứ dược phẩm dùng cho bệnh nhân bị chứng xơ nang.

Ông Scott sống ở Ohama, sẽ đối diện với bản án từ 8 đến 10 năm tù giam tại nhà tù liên bang khi bị tuyên án vào Tháng Giêng tới.

Ông Alan Everestt, phụ tá biện lý liên bang, nói, ông sẽ tha bớt 17 tội danh khác nhờ ông Scott chịu nhận tội gian lận Medicaid.

Ngoài ra, ông Scott còn nhận phải bồi hoàn $14.4 triệu.

Ông Everestt cho biết, chính phủ có thể thu lại được dưới $3 triệu từ việc bán một căn nhà ở Omaha, tiệm thuốc tây ở Lincoln, tài khoản ngân hàng, cổ phiếu và bảo hiểm nhân thọ của ông Scott.

Luật Sư Clarence Mock, đại diện cho ông Scott, nói thân chủ ông xài hầu hết số tiền gian lận vào việc đánh bài ở Council Bluffs, Iowa.

Ông Mock tiếp: “Hành vi của ông Scott xuất phát từ bệnh ghiền cờ bạc nặng mà ông không còn có thể tự kiểm soát chính bản thân được nữa.”

Luật Sư Mock nói, việc bồi hoàn tiền chỉ mới là bắt đầu, ngoài ra thân chủ ông còn phải trực diện với sở thuế nữa.

Thẩm Phán Cheryl Zwart nói, ông Scott sẽ không bao giờ còn có thể hành nghề dược sĩ trở lại được nữa. (TP)

Cả gia đình dễ thương quá!

Cả gia đình dễ thương quá! Biểu tượng cảm xúc smile

Ảnh của Hành hương Công giáo.

Hành hương Công giáo với Nguyễn anh tuanNguyen Anh Tuan

“Các con đúng là một lũ điên” là lời mắng yêu cuả ĐTC với gia đình Zemborain, trong khi 4 đưá bé ôm chặt lấy Ngài, không thể rời ra được.
Gia đình anh Catire Walker và chị Noel cùng 4 đứa con đã thực hiện thành công một chuyến du hành dài 13 ngàn dặm (21 ngàn km, 14 lần chiều dài VN từ Bắc xuống Nam 1500km) từ Argentina tới Philadephia để tham dự Ngày Đại Hội Gia Đình Thế Giới. Cuộc du hành kéo dài 194 ngày, vượt qua 12 cửa khẩu biên giới, trên một chiếc xe ‘van’ Volkswagen đã cũ.
Anh Walker tạm nghỉ công việc tiếp thị thực phẩm cho các quán ăn cuả mình, dùng tiền tiết kiệm và vận động quyên góp thêm ở trên Mạng để trang trải chi phí cho chuyến đi. Trên đường, chị Noel lo dạy các đứa con tiếp tục việc học hành theo một chương trình trực tuyến cuả Argentina. Họ đã được hàng chục gia đình mời ở lại nhà.
DTC Phanxicô cho biết Ngài đã biết được chuyến đi cuả họ nhờ đọc bài cuả họ trên trang Facebook.

Trên trang Facebook cuả họ, họ viết như sau:
“Chúng tôi là một gia đình Argentina: Carmin (2 tuổi), Mia (5 tuổi), Dimas (8 tuổi), Cala (12 tuổi), Noël (38 tuổi) and Catire (40 tuổi). Vào tháng 3 2015, chúng tôi đã bắt đầu một cuộc hành hương (trên chiếc xe Kombi VW 1980) từ Buenos Aires, Argentina đi tới Philadelphia, USA, là nơi mà đại hội Gia đình Thế Giới sẽ họp có sự tham dự cuả DTC Phanxicô. Chúng tôi đã quyết định từ lâu là sẽ thực hiện dự án (project) mà chúng tôi mơ ước này khi các đứa con lớn đủ và để làm cho dự án trở thành một kinh nghiệm sâu sa về gia đình. Tại sao vậy?
Tán dương gia đình. Đó là một món quà mà chúng tôi muốn để lại làm gia sản cho các con cuả chúng tôi và để chia sẻ với những người khác. Chúng tôi không phải là đi dự một ngày lễ cũng không phải là tham gia một cuộc đua. Chúng tôi đơn giản chỉ muốn bước ra ngoài và gặp gỡ các gia đình khác. Nhận biết họ, chia sẻ một phần của cuộc sống của họ, tìm hiểu để nắm lấy sự khác biệt cũng như sự giống nhau của chúng ta và nuôi dưỡng linh hồn chúng tôi bằng những kinh nghiệm sống trên cuộc hành trình này.”
Mặc dù không có hy vọng được gặp riêng DGH, anh Walker cho biết họ nhận được một cú điện thoại vào lúc 06:00 sáng Chúa Nhật, cho biết DTC muốn gặp họ tại đại chủng viện Saint Charles Borromeo, nơi Ngài tạm trú.
“Chúng tôi không thể tin được điều đó. Họ gọi chúng tôi sáng nay (và), chúng tôi đã như bị một cú sốc,” cô Noel cho biết. “Nó giống như là gặp lại với một người bạn cũ,” cô kể lại về cuộc gặp. “Ngài thật là ấm áp. Ngài nói với chúng tôi, chúng tôi là một lũ điên. Ngài đùa như vậy.”
“Còn các đứa bé thì ôm chặt lấy Ngài thật là lâu. Không thể bỏ ra được. Không có lễ nghi gì cả, không có hình thức nào cả, giống như là với một người bạn vậy,” họ cho biết.

Gia đình Zemborain sẽ tiếp tục đi du lịch cho đến tháng mười, rồi sẽ bay về nhà từ Miami. Họ dự định gửi chiếc xe về bằng đường tàu thuỷ, nhưng đã có một người bà con tình nguyện lái chiếc xe từ Florida về Buenos Aires cho họ.

Nhà văn Võ Phiến qua đời, thọ 90 tuổi

Nhà văn Võ Phiến qua đời, thọ 90 tuổi
Nguoi-viet.com

WESTMINSTER (NV) – Theo tin từ gia đình, nhà văn Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi.

Nhà văn Võ Phiến.

Qua điện đàm, bà Võ Phiến cho tòa soạn Người Việt biết thời gian gần đây nhà văn Võ Phiến yếu dần theo tuổi già, đã qua vài lần vào bệnh viện, và cách đây mấy ngày đã được đưa về một Rehab Center để tĩnh dưỡng.

Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.

Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà…; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v… Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.

Gia đình cho biết thi hài nhà văn Võ Phiến sẽ được quàn tại Peek Family, chương trình tang lễ sẽ được thông báo sau. (P.X.Đ)

Xem the^m:

Nhà văn Võ Phiến qua đời tại California (RFA)

Sadie Ngô và tấm lòng nhân ái của cô bé 11 tuổi

Sadie Ngô và tấm lòng nhân ái của cô bé 11 tuổi
Nguoi-viet.com

Nhất Anh/ Người Việt

SANTA ANA, California (NV) – Dù chỉ mới 11 tuổi, Sadie Ngô đã làm được một việc mà có lẽ chỉ có người lớn mới làm được. Đó là tự gây quỹ giúp người bệnh nan y.

Trong tâm trí của mọi người, có lẽ tuổi 11 là lưng chừng giữa cái “loi choi, ngây thơ” của con nít và cái “muốn làm người lớn” với nhiều trò tinh nghịch hồn nhiên. Tuổi 11 của các em thường chỉ xoay quanh chuyện ăn, chuyện học, chuyện ngủ, và chuyện chơi. Nhưng đối với cô bé Sadie Ngô, em như được tô thêm điểm sáng của lòng nhân ái và suy nghĩ quên đi bản thân mình vì người khác.

 
Sadie Ngô từ bỏ chuyến đi dã ngoại đến Washington, DC, của mình để làm một việc cao cả hơn giúp đỡ người khác. (Hình: Gia đình cung cấp)

Buổi sáng Thứ Hai, 21 Tháng Chín, tại trường St. Barbara Catholic, Santa Ana, các em học sinh bất ngờ được tập trung ở hội trường thể dục cho một sự kiện đặc biệt.

Sau một lúc chờ đợi, bà Judith Bloom, hiệu trưởng của trường, mời các em đứng lên chào đón hai vị khách đặc biệt từ học viện St. Catherine’s Academy dành cho nam sinh là Đại Tá Barry Bizzell và Đại Úy Angel Ramos.

“Tôi nhận được email từ người chị của mình về câu chuyện cảm động của một em học sinh sẵn sàng bỏ qua lợi ích, niềm vui của mình mà quan tâm đến người khác. Câu chuyện này làm nhiều người cảm động,” Đại Úy Angel Ramos phát biểu. “Và hôm nay, tôi rất tự hào khi được đến nay trao bằng danh dự cho học sinh đó, em Sadie Ngô, vì những gì em làm và truyền cảm hứng cho tất cả mọi người.”

Sadie Ngô không giấu nổi sự ngạc nhiên và niềm sung sướng khi tên mình được xướng lên. Và càng hạnh phúc hơn nữa khi một bên góc hội trường, cả gia đình của em cũng có mặt chia sẻ niềm vui này.

 
Em Sadie Ngô (thứ hai từ trái) chụp hình với các quân nhân Hoa Kỳ. (Hình: Gia đình cung cấp)

Câu chuyện của Sadie Ngô bắt đầu từ dự định gây quỹ cho chuyến đi dã ngoại đến Washington, DC, để học và tìm hiểu thêm về nước Mỹ. Khi bắt đầu thực hiện, Sadie tình cờ nghe câu chuyện của anh Devin Wilhelm, người bạn thân của chị gái mình.

Devin Wilhelm bị tai nạn giao thông bốn năm trước. Trong lúc chữa trị, các bác sĩ phát hiện Devin có một khối u ác tính ở não và cần phải cắt bỏ. Sau một thời gian điều trị, khối u ác tính tiếp tục xuất hiện và tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, căn bệnh ung thư não không làm anh bỏ cuộc. Anh chưa bao giờ từ bỏ niềm hy vọng và luôn lạc quan, tin tưởng vào ngày mai tốt đẹp. Bên cạnh Devin luôn có sự cổ vũ của gia đình, người thân và bạn bè, đặc biệt là người vợ Shay và đứa con gái Mikayla bé nhỏ.

Và trong số đó có cả Sadie. Câu chuyện của Devin đã thôi thúc Sadie phải làm một cái gì đó, không chỉ cho anh mà còn cho những bệnh nhân khác đang dối diện với căn bệnh ung thư não.

“Người ta cần sự giúp đỡ, và em muốn giúp đỡ họ,” Sadie cho biết.

Thay vì dùng số tiền gây quỹ có được để đi một chuyến về thủ đô Hoa Kỳ, Sadie quyết định quyên góp số tiền mình có được và bắt đầu cuộc gây quỹ khác giúp đỡ cho những bệnh nhân mắc bệnh ung thư não.

“100% số tiền em gây quỹ được gửi cho Hội Ung Bướu Quốc Gia (National Tumor Society) với mong muốn một ngày nào đó sẽ có thuốc trị căn bệnh ung thư não,” Sadie chia sẻ.

 
Sadie Ngô bên chiếc hộp chứa các con rùa mình làm. (Hình: Nhất Anh/Người Việt)

Sadie gây quỹ bằng cách tự mày mò làm ra các con rùa bằng len nhung nhỏ nhỏ xinh xinh với đủ màu sắc khác nhau. Em đặt tên chung cho những con rùa của mình là Kevin.

“Em chọn làm con rùa vì theo người thổ dân Mỹ, con rùa là tượng trưng cho sự khoẻ mạnh và tinh thần thông thái. Kevin chính là người bạn và là người đồng hành cùng mọi người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, đặc biệt là với những người đang phải đấu tranh với bệnh tật,” Sadie giải thích.

Với một cô bé học sinh 11 tuổi, chuyện từ bỏ ước muốn của mình đến Washington,DC, để thực hiện một ước mơ khác cao cả hơn cho những người kém may mắn hơn mình là điều có lẽ không phải ai ở độ tuổi em có thể nghĩ tới và làm được. Có rất nhiều cách để giúp ích cho cộng đồng, nhưng với Sadie, điều đáng quý ở em chính là em biết nghĩ đến người khác.

“Sadie là nữ học sinh đầu tiên được vinh danh ở St. Catherine Academy với danh hiệu ‘Unsung Hero.’ Em không chỉ là tấm gương cho các bạn cùng lứa mà còn là nguồn cảm hứng cho người lớn chúng tôi. Tôi ngưỡng mộ em và tôi chắc rằng mọi người đều như thế,” Đại Tá Barry Bazzel cho biết.

“Tinh thần của em là tinh thần của một người lính xả thân vì người khác,” Đại Úy Angel Ramos nói. “Tôi mong rằng những đứa con của tôi cũng sẽ có tinh thần như Sadie.”

 
Các con rùa Sadie Ngô làm , được mọi người đem về nuôi.(Hình: gia đình cung cấp).

Ngoài ra, Sadie còn nhận được dây chuyền danh dự của trường St. Barbara Catholic, do bà hiệu trưởng trao tặng.

“Tôi hy vọng sau khi các em thấy được việc Sadie làm, các em cũng sẽ có cho riêng mình một bài học về niềm sẻ chia và thương yêu với mọi người,” bà Bloom phát biểu với các em trong hội trường.

Những điều Sadie làm không chỉ là niềm vui của trường mà còn là niềm tự hào của gia đình em. Ngồi một bên góc hội trường, cả gia đình Sadie ai nấy đều cảm thấy hạnh phúc và vui sướng vì em. Đây cũng là dịp để gia đình em quây quần bên nhau, cùng chia sẻ niềm vui với em.

“Là một người mẹ, tôi luôn ủng hộ con cái của mình. Những gì Sadie làm là điều tốt cho cộng đồng và tôi ủng hộ hết mình,” bà Tiffany Nguyễn, mẹ của Sadie, chia sẻ.

Trong cuộc song bề bộn, đôi khi chúng ta vô tình quên mất đi những thứ xung quanh mình cần được quan tâm và chia sẻ. Câu chuyện của Sadie đem lại một thông điệp giúp chúng ta nhận ra rằng hạnh phúc đâu đó chính là sự chia sẻ và quan tâm, và đôi khi một việc làm nhỏ có thể tạo ảnh hưởng lớn.

“Em hy vọng các con rùa có mặt ở mọi nơi và đồng hành với mọi người. Nuôi rùa cũng giống như nuôi một hy vọng về một ngày mai tốt hơn, không còn bệnh tật và đau thương,” Sadie mỉm cười cho biết.

Diễn văn của Đức Phanxicô với các sinh viên trẻ tại Trung Tâm Văn Hóa Félix Varela, Havana

Diễn văn của Đức Phanxicô với các sinh viên trẻ tại Trung Tâm Văn Hóa Félix Varela, Havana
Vũ Van An

Các bạn thân mến,

Tôi rất vui được hiện diện với các bạn tại đây ở Trung Tâm Văn Hóa này, nơi quan trọng xiết bao đối với lịch sử Cuba. Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì dịp may này, được gặp mặt rất nhiều bạn trẻ, những người, qua việc làm, việc học hành và huấn luyện của họ, đang mơ về và đang thực sự tạo ra tương lai cho Cuba.

Tôi cám ơn Leonardo vì những lời chào mừng của bạn, và nhất là vì, dù nói tới biết bao nhiêu điều quan trọng và cụ thể như các khó khăn, các mối lo sợ, các niềm hoài nghi của chúng ta, có tính vừa thực chất vừa nhân bản, bạn vẫn đề cập với ta về hy vọng. Bạn ấy đã nói với chúng ta về các giấc mơ và khát vọng từng bén rễ vững chắc trong tâm hồn người trẻ Cuba, vượt lên trên các dị biệt của họ về giáo dục, văn hóa, niềm tin và ý nghĩ. Leonardo thân mến, xin cám ơn bạn, vì khi tôi nhìn tất cả các bạn, điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí tôi cũng là chữ “hy vọng”. Tôi không thể tưởng tượng được việc một người trẻ lại không có sức sống, không có giấc mơ hay lý tưởng, không khát mong một điều gì đó vĩ đại hơn.

Nhưng ở giờ phút lịch sử này, một người trẻ Cuba nên có loại hy vọng nào? Không có gì hơn hay kém niềm hy vọng của bất cứ người trẻ nào tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Vì hy vọng nói với ta về một điều gì đó bén rễ sâu trong mọi trái tim con người, độc lập với các hoàn cảnh cụ thể và điều kiện lịch sử của ta. Hy vọng nói với chúng ta về nỗi khát mong, niềm hoài bão, lòng mong mỏi có được một cuộc đời thành toàn, niềm khát vọng hoàn thành những điều cao cả, những điều làm tâm hồn ta ngập tràn và nâng tinh thần ta lên những thực tại cao thượng như chân, thiện, mỹ, công lý và tình yêu. Nhưng nó cũng bao gồm việc chấp nhận rủi ro. Nghĩa là sẵn sàng không để mình bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn hạnh phúc mau qua, giả dối, lạc thú tức khắc và vị kỷ, bởi cuộc sống tầm thường và tự lấy mình làm trung tâm, một cuộc sống chỉ có thể đổ đầy lòng ta bằng buồn bã và đắng đót. Không, hy vọng phải mạnh dạn; nó phải biết nhìn quá bên kia tiện ích bản thân, những an toàn và bù đắp nhỏ mọn chỉ giới hạn chân trời ta; nó phải mở lòng ta cho những lý tưởng lớn lao giúp làm cho đời ta nên tươi đẹp và đáng sống hơn. Tôi muốn hỏi mỗi người trong các bạn: Điều gì lên khuôn đời các bạn? Điều gì đang nằm sâu trong trái tim các bạn? Các hy vọng và khát vọng của các bạn đặt ở đâu? Các bạn có sẵn sàng đặt mình lên tuyến phục vụ một điều gì đó lớn lao hơn không?

Có lẽ các bạn sẽ thưa: “có, thưa cha, con được các lý tưởng đó lôi cuốn mạnh mẽ. Con cảm nhận được lời mời gọi của chúng, vẻ đẹp của chúng, ánh sáng rạng rỡ của chúng trong trái tim con. Nhưng con thấy mình yếu đuối quá, con chưa sẵn sàng quyết định đi theo con đường hy vọng. Mục tiêu thì cao cả đấy nhưng sức con thì yếu quá đi. Tốt nhất là bằng lòng với những điều nhỏ mọn, không cao cả gì nhưng thực tiễn hơn, trong vòng với hơn”. Tôi có thể hiểu được phản ứng này; cảm thấy bị trĩu nặng bởi khó khăn và các điều quá đòi hỏi là chuyện thông thường thôi. Nhưng các bạn hãy ý tứ đừng để mình bị cám dỗ mà nhụt chí là thứ làm tê liệt lý trí và ý chí ta, hay lãnh cảm là hình thức bi quan triệt để trước tương lai. Các thái độ này kết thúc ở chỗ một là trốn chạy khỏi thực tế mà sa vào ảo tưởng vô ích, hai là ích kỷ tự cô lập hóa và hoài nghi bịt tai trước tiếng kêu than đòi công lý, sự thật và tình người đang nổi lên giữa ta và trong chính ta.

Nhưng ta phải làm gì? Làm thế nào tìm thấy các nẻo đường hy vọng ngay trong các hoàn cảnh ta đang sống? Làm thế nào biến các niềm hy vọng thành toàn, chân thực, công lý và chân lý trở thành một thực tại trong cuộc sống bản thân của ta, trong đất nước ta và trong thế giới ta? Tôi nghĩ: có ba ý tưởng có thể giúp duy trì niềm hy vọng của ta luôn sống động:

Hy vọng là một con đường gồm cả ký ức lẫn biện phân. Hy vọng là nhân đức để đi khắp nơi. Nó không đơn thuần là nẻo đường ta theo vì thích nó, nhưng nó có một cùng đích, một mục tiêu rất thực tế và soi dẫn đường ta đi. Hy vọng cũng được nuôi dưỡng bằng ký ức; nó không chỉ nhìn tương lai mà còn nhìn cả dĩ vãng và hiện tại nữa. Để luôn tiến tới trong đời, ngoài việc biết mình muốn đi đâu, ta cũng cần biết ta là ai và ta từ đâu đến. Các cá nhân hay các dân tộc nào không có ký ức và xóa bỏ dĩ vãng của mình đều liều mình đánh mất bản sắc và tiêu diệt tương lai của mình. Thành thử ta cần nhớ ta là ai, và di sản thiêng liêng và luân lý của ta bao gồm những gì. Tôi tin rằng điều này chính là kinh nghiệm và cái nhìn thông sáng của Cha Félix Varela, người Cuba vĩ đại. Biện phân cũng cần thiết, vì điều chủ yếu là cởi mở đối với thực tại và biết giải thích thực tại này mà không sợ thiên kiến. Các giải thích phiến diện và có tính ý thức hệ là điều vô ích; chúng chỉ làm méo mó thực tại bằng cách cố gắng nhét nó vào những khuôn khổ tiên kiến, chỉ tổ gây thất vọng và tuyệt vọng. Ta cần biện phân và ký ức, vì biện phân không mù quáng; nó được xây dựng trên các tiêu chuẩn đạo đức và luân lý vững chắc, giúp ta nhìn thấy điều thiện và điều chính đáng.

Hy vọng là con đường ta cùng người khác tiếp nhận. Một tục ngữ Phi Châu nói rằng: “Muốn đi nhanh, thì đi một mình; muốn đi xa, thì đi với người khác”. Cô lập và sống xa cách không bao giờ phát sinh được hy vọng; nhưng gần gũi và gặp gỡ người khác thì có. Để một mình, ta sẽ không đi tới đâu cả. Mà với loại trừ, ta cũng không thể xây dựng tương lai cho ai được, cho cả ta cũng không. Đường hy vọng đòi phải có nền văn hóa gặp gỡ, đối thoại, một nền văn hóa vốn có khả năng thắng vượt tranh chấp và kình chống khô cằn. Muốn tạo ra nền văn hóa này, điều sinh tử là coi các phương thức suy nghĩ khác nhau không hẳn là nguy cơ mà là phong phú và phát triển. Thế giới cần nền văn hóa gặp gỡ này. Nó cần những người trẻ biết tìm cách biết nhau và yêu nhau, cùng nhau đồng hành trong việc xây dựng xứ sở, một cuộc hành trình mà José Martí từng mơ ước: “với mọi người, và vì lợi ích mọi người”.

Hy vọng là con đường liên đới. Nền văn hóa gặp gỡ tự nhiên sẽ dẫn ta tới nền văn hóa liên đới. Tôi rất thán phục trước điều Leonardo nói lúc đầu, khi bạn ấy đề cập tới tình liên đới, coi nó như nguồn tạo sức mạnh để lướt thắng mọi trở ngại. Không có liên đới, không nước nào có tương lai cả. Vượt lên trên các tính toán và tư lợi khác, ta không những phải quan tâm tới những người có thể là bằng hữu ta, người đồng hành với ta, mà cả những ai suy nghĩ khác với ta, những ai có ý nghĩ riêng nhưng không kém nhân bản và có tính Cuba như ta. Khoan dung không thôi chưa đủ; ta còn phải đi xa hơn thế, từ thái độ nghi ngờ và phòng ngự phải tiến qua thái độ chấp nhận, hợp tác, phục vụ cụ thể và giúp đỡ hữu hiệu. Đừng sợ liên đới, phục vụ và giúp một tay, để không ai bị loại trừ khỏi con đường này.

Con đường sống trên đươc soi sáng bởi một niềm hy vọng cao hơn: đó là niềm hy vọng phát sinh từ đức tin vào Chúa Kitô. Ngưòi tự làm Người trở thành người đồng hành với ta. Không những Người khuyến khích ta, Người còn đồng hành với ta nữa; Người ở bên cạnh ta và giơ bàn tay thân hữu của Người cho ta. Là Con Thiên Chúa, Người muốn trở thành một người như ta, đồng hành với ta trên đường. Niềm tin vào sự hiện diện của Người, vào tình bạn và tình yêu của Người làm sáng lên mọi hy vọng và mọi giấc mơ của ta. Với người cạnh bên, ta học được cách biện phân điều có thực, gặp gỡ và phục vụ người khác, và bước theo con đường liên đới.

Các bạn trẻ Cuba thân mến, nếu chính Thiên Chúa đã bước vào lịch sử ta và trở thành nhục thể nơi Chúa Giêsu, nếu Người đỡ lấy các yếu đuối và tội lỗi của ta, thì các bạn không nên sợ hy vọng, hay tương lai, vì Thiên Chúa ở cạnh bên ta. Người tin tưởng các bạn và Người hy vọng nơi các bạn.

Các bạn thân mến, tôi xin cám ơn các bạn vì cuộc gặp gỡ này. Xin niềm hy vọng nơi Chúa Kitô, người bạn của các bạn, luôn hướng dẫn các bạn trên đường đời của các bạn. Và xin các bạn nhớ cầu nguyện cho tôi. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả các bạn.

Người dân còn phải chịu ngập đến bao giờ?

Người dân còn phải chịu ngập đến bao giờ?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-09-22

• RFA

Người dân Sài Gòn chịu thảm cảnh này đến bao giờ. Đường phố Saigòn ngày 15 tháng 9, 2015

Người dân Sài Gòn chịu thảm cảnh này đến bao giờ. Đường phố Saigòn ngày 15 tháng 9, 2015                                                                                                                     Báo Dân Việt

“ Nếu thống kê thì tại Việt Nam có khoảng ba mươi mấy thành phố bị ngập. Kể cả những vùng thấp ở Đồng bằng Sông Cửu Long như Cần Thơ, Vĩnh Long.. ngập thì không nói gì mà cả vùng cao cũng ngập như Dak Lak, Đà Lạt…Rồi gần đây Sơn La cũng ngập, các tỉnh ven biển cũng ngập

ông Hồ Long Phi”

Khi các cơn mưa lớn kéo dài thì đường phố Hà Nội biến thành “sông”

Khi các cơn mưa lớn kéo dài thì đường phố Hà Nội biến thành “sông” (Người đưa tin)

Qui hoạch của mình không có tầm nhìn xa mà cần phải 50-100 năm. Ở nước ngoài như London, họ xây dựng một hệ thống ngầm bên dưới rất ‘kinh khủng’, con người có thể đi dưới đó và như một ‘mê cung’ bên dưới. Như thế mới thoát được nước. Còn của mình không được như thế

Tiến sĩ Lương Văn Thanh