Campuchia trục xuất hơn một nghìn người Việt

Campuchia trục xuất hơn một nghìn người Việt

VOA

Người biểu tình Campuchia đốt cờ Việt Nam bên ngoài Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Phnom Penh hồi cuối năm 2014.

Người biểu tình Campuchia đốt cờ Việt Nam bên ngoài Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Phnom Penh hồi cuối năm 2014.

Gần 2 nghìn người, phần lớn là người Việt, đã bị chính quyền Phnom Penh trục xuất trong 9 tháng đầu năm 2015, số liệu của chính phủ Campuchia cho biết.

Tính từ tháng Một tới tháng Chín năm nay, 1.919 người đã bị đuổi khỏi vương quốc này, trong đó có 90% là người gốc Việt.

Theo con số mà cơ quan nhập cảnh Campuchia công bố, tỷ lệ người Việt Nam bị trục xuất gia tăng kể từ năm ngoái.

Năm 2014, trong khoảng thời gian từ tháng Bảy và tháng 12 khi số liệu được ghi nhận, có 1.307 vụ trục xuất, trong đó người Việt chỉ chiếm hơn 80%.

Phe đối lập Campuchia bấy lâu nay thường sử dụng “con bài” người Việt ở Campuchia để cáo buộc chính quyền Phnom Penh nhân nhượng Hà Nội.

Chưa rõ là việc Campuachia trục xuất nhiều người Việt như trên có nhằm mục đích chứng tỏ sự cứng rắn đối với vấn đề nhập cư cho những người phản đối thấy hay không.

Ngoài người Việt, các di dân trái phép còn từ các nước như Trung Quốc, Nigeria, Mỹ, Anh, Pháp và Italia.

Theo các quan chức địa phương, những người bị trục xuất không có giấy tờ nhập cảnh hợp pháp, giấy phép làm việc và thường vào Campuchia trái phép qua các tuyến đường không chính thống.

Tổ chức nhân quyền Adhoc hoan nghênh việc chính phủ minh bạch về con số người bị trục xuất, nhưng nhấn mạnh rằng họ cần phải được đối xử công bằng.

Ngoài vấn đề di dân, phe đối lập cũng thường cáo buộc chính quyền “dâng đất” cho Viêt Nam.

Trả lời VOA Việt Ngữ khi biểu tình bên ngoài trụ sở Liên Hiệp Quốc hôm 26/9, ông Thành Kiên, một người Khmer Krom, nói với VOA Việt Ngữ: “Nếu mà giải quyết vụ đất đai không được hoặc không thể giải quyết cái vụ người Việt Nam ở trên đất nước Campuchia bất hợp pháp quá nhiều thì nên cho [Thủ tướng] Hun Sen ra đi”.

Theo Phnom Penh Post, VOA

Công an Việt Nam ‘tính sổ’ với ‘Otofun’

Công an Việt Nam ‘tính sổ’ với ‘Otofun’

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Công an Hà Nội vừa mời các thành viên quản trị “Otofun” đến “làm việc” về những nội dung đã được đăng và thảo luận trên trên diễn đàn này

Viên đại úy tên Vũ Việt Đức trong video clip đang gây rắc rối
cho “Otofun.” (Hình: tintuc.vn)

“Otofun” là tên của một trong hai diễn đàn trên Internet dành cho những người yêu thích xe hơi ở Việt Nam. Diễn đàn còn lại là “Otosaigon.” Từ năm ngoái đến nay, “Otofun” và “Otosaigon” được nhiều người chú ý và hoan nghênh vì là nơi tập hợp rất nhiều video clip và các bài viết giới thiệu cách thức đối phó với nạn mãi lộ của cảnh sát giao thông Việt Nam.

Qua “Otofun” và “Otosaigon,” các video clip ghi lại những cuộc tranh luận với cảnh sát giao thông Việt Nam và các bài viết tập hợp những quy định hiện hành, chỉ dẫn cách thức vô hiệu hóa các chiêu, trò làm tiền của cảnh sát giao thông Việt Nam đã được trích dẫn, giới thiệu trên nhiều diễn đàn điện tử và mạng xã hội khác.

“Otofun” và “Otosaigon” được xem như một trong cú hích, khuyến khích dân chúng Việt Nam sử dụng camera, điện thoại di động ghi lại những hành vi, lời nói không thể chấp nhận được của cảnh sát giao thông Việt Nam nói riêng và công an Việt Nam nói chung để bày ra trên Internet. Do áp lực của công luận, cả cảnh sát giao thông Việt Nam lẫn công an Việt Nam đã phải xử lý nhiều thuộc cấp vì những thuộc cấp này bị “bắt tận tay, day tận trán.”

Mới đây, “Otofun” tiếp tục giới thiệu một video clip ghi lại cảnh hai cảnh sát giao thông đã lăng mạ và đánh một người dân khi ông ta đòi cảnh sát giao thông chứng minh ông ta đã vượt đèn đỏ ở ngã tư Giải Phóng-Đại Cồ Việt, thành phố Hà Nội.

Bởi video clip rất rõ ràng nên hôm 1 Tháng Mười, phòng cảnh sát giao thông của công an Hà Nội đã buộc phải tạm đình chỉ công tác của một viên đại úy tên là Vũ Việt Đức – kẻ mà qua video clip vừa kể cho thấy đã nói năng hết sức mất dạy và hành xử hết sức thô lỗ.

Tuy nhiên lần này, những người điều hành “Otofun” đã gặp rắc rối. Họ bị công an Hà Nội mời “làm việc” vì phòng cảnh sát giao thông của công an Hà Nội có công văn của đề nghị phòng cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao cũng của công an Hà Nội xác minh xem ai là người đưa video clip vừa kể lên Internet và những ai là người đã dùng những lời lẽ thiếu văn hóa, xúc phạm lực lượng công an.

Mới đây, trả lời BBC, ông Nguyễn Mạnh Thắng, người quản trị “Otofun” bảo rằng, công an Hà Nội chỉ tìm thông tin về những thành viên đưa video clip lên diễn đàn. Ông Thắng phủ nhận tin đồn là công an Hà Nội đã buộc các thành viên quản trị “Otofun” phải cam kết không để cho các thành viên nói xấu công an.

“Otofun” hiện có một quy định: “Tuyệt đối không đăng tải/chia sẻ/dẫn link/bàn luận các chủ đề về chính trị. Không đăng tải các tin tức, hình ảnh gây không rõ ràng, gây tranh cãi và/hoặc khởi nguồn cho các bình luận thiếu tính xây dựng.”

Có thể vì vậy, một thành viên của “Otofun” góp ý rằng, dường như admin và nhiều thành viên của diễn đàn quá sợ hãi trước hai từ “chính trị.” Thành viên này nhấn mạnh, tán dương hay phê phán công an không phải là chuyện “chính trị.” Công an là công bộc. Đừng khoác yếu tố “chính trị, chính em vào đó.” Góp ý này hiện đã bị xóa.

Cũng cần nhắc lại là hồi Tháng Năm vừa qua, công an Hải Phòng đã bắt giữ hai Facebooker ở Hải Phòng sau khi họ lập một trang Facebook để chỉ dẫn mọi người tránh các điểm mà cảnh sát giao thông Hải Phòng thường rình rập. (G.Đ)

Có những nhà văn như thế đấy!

Có những nhà văn như thế đấy!

Tạp ghi Huy Phương

Hồ Anh Thái, sinh năm 1960 tại Hà Nội, là một nhà văn đương thời của Việt Nam, từng là chủ tịch Hội Nhà Văn Hà Nội trong vòng 10 năm, tác giả của gần 30 tác phẩm và đoạt bốn giải thưởng “nội địa.” Ông được xem thuộc thế hệ nhà văn thời hậu chiến và là một nhà ngoại giao, tiến sĩ Văn Hóa Đông Phương, hiện giữ chức vụ phó đại sứ Việt Nam tại Iran.

Nói về Hồ Anh Thái, Anh Chi, trong tạp chí Nghiên Cứu Văn Học Hà Nội đã ca tụng: “Bây giờ nhìn nhận hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái, chúng tôi nghĩ, anh đã và đang tiếp tục sáng tác những tác phẩm chứa đựng nhiều phẩm chất văn hóa,” hay “…Với lao động sáng tạo liên tục và mang tính chuyên nghiệp, anh đã thể hiện bản lĩnh của một nhà văn hàng đầu ở Việt Nam trong thời đại văn chương nước ta hội nhập với văn chương thế giới!” Nói chung Hồ Anh Thái được ca tụng như một nhà văn lớn, có tầm cỡ quốc tế của Việt Nam.

Như vậy, khi Bắc Việt chiếm miền Nam, Hồ Anh Thái mới 15 tuổi, chưa đến tuổi ra trận, trước 1975 chỉ mới là loại thiếu nhi khăn quàng đỏ, đánh trống ếch và thuộc lòng “ai yêu bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng,” bị nhiễm độc bằng lối tuyên truyền xảo trá Mỹ đang xâm lược miền Nam và lính ngụy là bọn ăn thịt người. Thời nhỏ, có thể Hồ Anh Thái mục kích cảnh máy bay Mỹ dội bom xuống Hà Nội, thấy lửa cháy và những cái chết, muốn trở thành nhà văn, nhưng nếu muốn viết về chiến tranh, phải cần có kinh nghiệm sống, hay học hỏi, nghiên cứu, chứ không phải qua những câu chuyện kể của những người đi xâm lược miền Nam trở về sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Khi đã trở thành người thắng cuộc, ai cũng là anh hùng, người lính có bao nhiêu điều phấn khởi, hả hê, khoác lác để kể chuyện cho bọn trẻ đang ngóng tai nghe. Một trong những đứa trẻ ấy lớn lên trở thành một nhà văn viết về chiến tranh, mà kinh nghiệm sống là chỉ cần nghe những kẻ bốc phét, hoang tưởng, kể lại những chuyện không có được một phần nghìn sự thật.

Câu chuyện lính ngụy ăn gan người, uống máu có lẽ đã được mô tả trong nhiều tác phẩm của các nhà văn miền Bắc trong và sau chiến tranh, chỉ với mục đích gây lòng căm thù cho quần chúng, nhưng nhà văn mới lớn sau 1975, Hồ Anh Thái đã đi quá đà, thêm câu chuyện moi gan, ăn tim bằng cách mô tả lính ngụy “quay” tử thi Việt Cộng, rồi “róc thịt uống rượu!” như sau:

“Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị bằm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội.”

Trong một cảnh khác, lính ngụy không quay Việt Cộng như quay heo, mà chỉ nổi lửa để nướng tim, gan ăn tại chỗ, đặc biệt trí tưởng tượng của nhà văn bắt đầu đi đến chỗ điên khùng khi viết: “Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”

“…Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đã tới. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao, Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”

Hồ Anh Thái có thể chỉ nghe kể lại qua một nhân vật ngôi thứ ba, với chuyện lính ngụy quay người, moi tim gan uống rượu, nhưng với Dương Thu Hương, như lời người kể chuyện thật với nhân vật “chúng tôi” nói về lính thám báo miền Nam, hiếp dâm, xẻo vú và cửa mình thanh nữ xung phong miền Bắc:

“…Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.

Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.

Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ hay một con cóc chết!” (tiểu thuyết Vô Đề)

Phải chăng vì bọn ngụy ác độc, man rợ như vậy nên miền Bắc có quyền vẽ lên hình ảnh “người lính cụ Hồ” đáp lễ với những cách người hả hê, khát máu, để làm gương cho cả một thế hệ sôi sục vì căm thù:

“Quân ta ào lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe ‘thụt’ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giãy chết như con tôm sống bị ném vào chảo m…ỡ.” (Tạ Duy Anh, “Đi Tìm Nhân Vật,” tiểu thuyết, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002.)

Tôi ở miền Nam, không biết ngoài mặt trận “con ngụy cái” này là ai, vì chúng tôi không có nữ quân nhân tham chiến, không lẽ đây là một người đàn bà trong ngôi làng, một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn để lính Bắc Việt trút hết nỗi căm hờn và thỏa mãn thú tính lên cao độ như thế, một con chó cắn người hay một con cọp vồ mồi cũng không “thú” hơn” là chất “thú” của một người lính Việt Cộng?

– “Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế!”

Ở ngoài mặt trận, không giết người thì người giết. Nhưng giết người mà thấy khoái cảm thì nhân loại chỉ thấy có người lính Bắc Việt. Ngay cả ISIS cắt cổ người cũng không có cái hả hê như thế! Tạ Duy Anh còn không che đậy, nói rằng “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình!” Thì ra thế là đấu tranh, không phải tạo hạnh phúc cho người khác, mà là nếu họ hạnh phúc hơn mình, hãy giết hết họ, chẳng qua vì lòng ganh ghét.

Đó là nguyên nhân rõ ràng của “cải cách ruộng đất,” vì họ giàu hơn mình, của “thảm sát Mậu Thân,” vì họ sướng hơn mình.

Với Tạ Duy Anh “giết người thấy sướng,” đối với Dương Thu Hương “với khoái cảm không che đậy”:

“…Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã kể lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng xuống tim, kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, kẻ gã lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ quan ngụy, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên xuống. ‘Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt…’” (TTVĐ- chương 11)

Một sự thèm khát đầy dục vọng, ở đây Dương Thu Hương rất giống Tạ Dụy Anh hay Tạ Duy Anh rất giống Dương Thu Hương, ở chỗ “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực.”

Đó là chưa nói đến chuyện bừa bãi, vô lý trong tình tiết một tên bộ đội bò “vào phòng riêng một tên sĩ quan ngụy,” “bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò,” thám báo hoạt động trong lòng địch mà nổi lửa quay người hay hiếp dâm, xẻo vú!

Chuyện căm thù, dã man của người lính miền Bắc đã để lại trong một câu chuyện có thật, đó là cái chết của nhà văn Y Uyên, người sĩ quan của TK Bình Thuận năm 1966.

“Trên thân xác của Uy, khi chở về quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết.”

Tôi xin nhường sự phê phán ấy cho một nhà văn miền Nam:

“Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, ròng rã hơn 20 năm này, những người lãnh đạo Cộng Sản đã dạy cho binh lính của họ như thể nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất là hợp lý – Ừ, thì cứ cho là hợp lý. Nhưng những viên đạn bắn bồi, những nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người Cộng Sản Việt Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín.” (“Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy” của Lê Văn Chính -Tạp Chí Văn, số 129, phát hành ngày 1 Tháng Năm, 1969)

Bốn mươi năm đã trôi qua, bây giờ người ta đang nói chuyện “hòa hợp hòa giải,” “khép lại quá khứ,” nhưng sau 40 năm cũng là lúc đã nhìn rõ mặt nhau. Có những nhà văn như thế đấy! Nếu có một cuộc xét lại, những nhà văn miền Bắc sẽ nghĩ gì về những tác phẩm “hoang tưởng” như thế? Và dù sao thì nó cũng đã để lại những vết dơ của nền văn hóa XHCN, còn ảnh hương lâu dài đến những nhận thức của những lớp người mới lớn lên sau khi Sài Gòn đổi tên.

Để kết luận bài này tôi xin ghi lại những câu thơ đầy lương tri của miền Nam viết trong chiến tranh:

“…Xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi.”
(Nguyễn Bắc Sơn)

“…Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?”
(Tô Thùy Yên)

Tùy Bút Võ Phiến – Rụp Rụp

Tùy Bút Võ Phiến – Rụp Rụp

tuongnangtien

RFA

Võ Phiến (1925 – 2015)

L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm Xuân Đài vừa cho biết một tin buồn:

“ Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi…

Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.

Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà…; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v… Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.”

Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng xuất bản lần vào năm 1973.

Tưởng Năng Tiến

Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.

Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1)

Cũng trong quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu, tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên về một nhận xét. Không phải ngạc nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt miền Nam với một người Việt miền Trung, tức một đồng bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng… tài giỏi như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!

Một buổi trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của người chủ quán.

Ngôi quán khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn có ngọn điện vàng cạch thả toòng teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô quần lính, đầu đội chiếc mũ địa phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da đen, không vớ. Tại sao phải giày và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là một thói quen, hay chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên nào đó, tức một chi tiết không có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước mắt tôi lúc này. Hình ảnh một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.

Mỗi người có một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái cách của người chủ quán hôm ấy, trời ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt: chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô, xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v. Tất cả bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng, hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc lên hạ xuống đều như có gì quá mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy tám phần cần thiết, lại thêm vài ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu diễn sự thích thú trong công việc. Ðộng tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa men. Một điệu vũ ca ngợi lao động.

Ðứng bên chủ quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ đây mới là người chạy bàn chính thức; người đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta trong chốc lát.

Khi đã đủ một vợ một con bên mình, chủ quán điều động càng hào hứng:

– Bàn trong. Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.

– Bàn ngoài, số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số một.

– Bàn số ba tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba, còn lại…

Bà vợ nhắc:

– Hăm bảy.

– Hăm bảy. Nè!

Ông ta đưa món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh tay, ông ta chặt một miếng cánh gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh nhẹn chặt luôn miếng khác, trao cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa; ăn xong lại ló ra, sẵn sàng…

– Tô nước, tô khô. Bàn số hai. Rồi!

Cứ thế, chủ quán làm việc, cắt đặt công việc, điều khiển vợ con v.v., điệu bộ vẫn lại cứ như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp của một tổ chức hoàn hảo, một bộ máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.

Vừa rồi có lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói của người chủ quán đều có một tiếng “rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất, ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ – ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v. – đến chỗ sau cùng thường được gằn mạnh. Như thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.

Dầu sao lần ấy tôi không có một đối tượng quan sát im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng các lần sau này thì họ im lặng.

Sau buổi trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ, và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn; nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.

Những người ấy họ có cung cách làm việc giống nhau. Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm một chữ để diễn tả. Tôi loay hoay tìm kiếm… A! Ðây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm việc “rụp rụp”.

Chữ nghĩa sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa phương ra đời ở miền Nam này. Thế mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên, không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.

“Rụp rụp” là một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí trong sự mau mắn.

– Nhưng tại sao lại bảo đó là của miền Nam? Ðâu phải người nào trong Nam cũng làm việc rụp rụp?

– Tất nhiên đó không phải là tác phong của toàn thể. Cũng không thể nào biết được là tác phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra sao. Có điều tác phong ấy không gặp thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện khác…

– Nào, xem chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng.

Trong một bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những tiếng “luôn” dùng kiểu đó không có trong ngôn ngữ các miền ngoài.

Cũng thế, ở ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc đường, hành khách lên xe xong, anh “ết” hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.

Tại sao lại luôn? Những tiếng “luôn” ấy không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công dụng. Trái lại, công dụng đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những tiếng có nghĩa rõ rệt đứng trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”: tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng “luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch… luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng “Luôn!”.

Không chừng đó cũng là trường hợp đã xảy đến cho tiếng “vô”. Mời nhau uống rượu, anh em hô: “Dô!” Có lẽ thoạt tiên là tiếng “nhậu vô”, “uống vô” chăng? Dần dần tiếng trước bị lướt phớt qua rồi bị bỏ rơi. Chỉ còn lại tiếng sau; từ một tiếng trợ từ, nó tiến lên nhận lấy cái nghĩa của các tiếng nhậu, uống.

Trong “chạy luôn”, nghĩa ở tiếng chạy; trong “hết hồn luôn”, nghĩa ở hết hồn; trong “nhậu vô”, nghĩa ở nhậu v.v. Còn tiếng “luôn”? Nó thêm vào một thái độ phát biểu, không thêm gì vào cái ý nghĩa đã phát biểu. Trong “chạy luôn” chẳng hạn, “luôn” là một tiếng kêu hơn là một tiếng nói: nó phát lên để tỏ thái độ thúc giục, nó không nói gì về cái nội dung của sự thúc giục ấy. Nó có công dụng về ngữ khí, chứ không phải về ngữ ý.

Như vậy trong cách nói này cái nội dung, cái cần thiết, đôi khi bị lướt qua; cái phụ, có phần thừa thãi, lại được nhấn mạnh.

Lại cái thừa thãi.

Trong cử chỉ, một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết; trong lời nói, cũng một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết. Cử chỉ và lời nói đều được phóng đại lên…

– Vẫn không có gì rõ rệt.

– Không rõ, về mặt nào?

– Một dấu hiệu để phân biệt bản sắc địa phương như vậy không mấy cụ thể.

– Thực ra ở đây vấn đề không phải là đi tìm một dấu hiệu phân biệt. Cái đó đâu cần tìm kiếm nữa? Ðã có sự khác nhau thật rõ ràng, thật cụ thể, ấy là cái chỉ số sọ của ông Bình Nguyên Lộc: cuộc di cư của nhóm Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Ðịch làm cho đồng bào ta ở miền Nam có xương sọ hơi dài thêm.(2) Kẻ Nam người Bắc tha hồ yên lặng, ông Bình Nguyên Lộc đo đạc là biết ngay.

Vậy ở đây không có chuyện tìm một dấu hiệu phân biệt. Chẳng qua là chộp bắt một nét cá tính phản ảnh trong phong cách, ngôn ngữ. Và hình như sự phản ảnh không dừng lại ở vài tiếng trợ từ, ở mấy điệu bộ. Hình như trên sân khấu cải lương, một bộ môn nghệ thuật của miền Nam, chúng ta có cảm tưởng nhận thấy cá tính ấy xuất lộ ở phong cách diễn xuất…

– Cảm tưởng? Không có gì rõ rệt.

– Quả nhiên.

Võ Phiến
________________
(1)
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd., trang 453.

Việt Nam báo động bão Mujigae

Việt Nam báo động bão Mujigae

Ngư dân tỉnh Quảng Nam đẩy một tàu đánh cá vào bờ. Tàu bè các tỉnh duyên hải từ miền Trung trở ra đã được khuyến cáo trở lại đất liền.

Ngư dân tỉnh Quảng Nam đẩy một tàu đánh cá vào bờ. Tàu bè các tỉnh duyên hải từ miền Trung trở ra đã được khuyến cáo trở lại đất liền.

Trà Mi-VOA

Giới hữu trách cảnh báo bão nhiệt đới Mujigae đang quét qua Philippines có thể đổ bộ vào bờ biển Việt Nam sáng ngày 5/10.

Truyền thông nhà nước hôm nay dẫn nguồn tin từ Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương cho biết tâm bão đang cách quần đảo Hoàng Sa hơn 700 cây số về hướng Đông.

 Hiện cơn bão thứ tư ở Biển Đông này đang ở cấp 8 với sức gió 75km/giờ và có thể mạnh lên tới 100km/giờ tức trên cấp 10. Dự báo tới ngày Chủ nhật bão có thể đạt cấp 10-11.

Giới hữu trách Việt Nam cho hay hiện chưa biết chắc bão sẽ đổ bộ vào đâu, nhưng có thể vào phía Nam đồng bằng Bắc Bộ và nhiều khả năng sẽ ập vào khu vực Quảng Ninh – Hải Phòng với sức gió mạnh cấp 10.

Ông Hoàng Đức Cường, Phó giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương được tờ Zing.vn dẫn lời cho hay khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam có thể hứng một lượng mưa rất lớn nếu bão Mujigae đổ vào Quảng Ninh.

Giới chức Việt Nam yêu cầu các khu vực này có kế hoạch ứng phó với lũ quét và sạt lở đất.

Việt Nam nói Bộ quốc phòng đã điều động lực lượng cùng các phương tiện như máy bay, tàu, xuồng, ô tô cho công tác cứu hộ.

Tàu bè các tỉnh duyên hải từ miền Trung trở ra đã được khuyến cáo trở lại đất liền.

Bây giờ bà con họ rút kinh nghiệm, nay họ nghe bão là nghe trước hết, nghe đài Nhật Bản với đài Hoa Kỳ là nhiều, lo nghe trước để tránh thiệt hại. Trước đây có nhiều cơn bão đổi hướng nhiều khi nghe đài cũng không chính xác. Trước đây cũng bị dự báo không chính xác nhưng sau thời gian kinh nghiệm, giờ thì cũng chính xác lần lần, bà con ngư dân giờ cũng đỡ.

Anh Lê Văn Xinh, thuyền trưởng tàu đánh cá ở Sơn Trà chuyên hoạt động ở khu vực Hoàng Sa, nói với VOA Việt ngữ ngư dân địa phương đã được báo bão và nhiều tàu đánh cá như anh đã quay về bờ:

“Cũng nhiều tàu đã vào bờ, một số còn ở ngoài biển. Họ nghe bão 2, 3 ngày nay rồi, chiếc nào ở gần thì họ lo họ tránh vào gần bờ. Không biết miền Bắc ra sao chứ miền Trung này thì thấy đường đi của bão cũng hụt Đà Nẵng rồi cho nên bà con đi xa bờ không được thì cũng làm ở gần bờ để có gì thì vào bờ nghỉ thôi”.

Anh Xinh cho biết sau những thiệt hại trong các trận bão trước, ngư dân địa phương giờ đây cảnh giác bão cao hơn, chủ động tìm kiếm các kênh thông tin bão và liên lạc truyền tin bão với nhau:

“Bây giờ bà con họ rút kinh nghiệm, nay họ nghe bão là nghe trước hết, nghe đài Nhật Bản với đài Hoa Kỳ là nhiều, lo nghe trước để tránh thiệt hại. Trước đây có nhiều cơn bão đổi hướng nhiều khi nghe đài cũng không chính xác. Trước đây cũng bị dự báo không chính xác nhưng sau thời gian kinh nghiệm, giờ thì cũng chính xác lần lần, bà con ngư dân giờ cũng đỡ. Hơn nữa, giờ bà con cũng lo nghe báo bão trước để tính đường đi và thời gian để lo vào bờ trước 1 ngày chứ không để sát tới nơi mới chạy”.

Anh Xinh nói anh hy vọng công tác báo bão của Việt Nam được cải thiện hơn sao cho hiệu quả và kịp thời cũng như các khâu ứng phó, hỗ trợ, cứu hộ cho dân cần được chú ý tăng cường hơn nữa để giảm thiểu hậu quả khôn lường từ các trận bão mà cư dân duyên hải miền Trung như anh phải đón nhận mỗi năm.

Báo nhà nước loan tin Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chỉ thị các ban ngành địa phương chuẩn bị sẵn sàng cho mọi tình huống để tránh thiệt hại về người và của. Ông Hải yêu cầu giới hữu trách tuyệt đối không được chủ quan khi ứng phó với thiên tai trong điều kiện biến đổi khí hậu.

Trung tâm dự báo thủy văn trung ương cũng được lệnh cập nhật tin bão từng giờ ‘cho dân chủ động ứng phó’ khi bão áp vào gần bờ.

Rau xanh không còn an toàn

Rau xanh không còn an toàn

Nhóm phóng viên tường trình từ VN

RFA
2015-10-02

rau-xanh-622.jpg

Những người nôi trợ ngày càng ngại mua những loại rau xanh có màu xanh mơn mởn như thế này. (Ảnh chỉ mang tính minh họa)

RFA

Rau xanh không còn là thực phẩm an toàn đối với con người, đây là một thẩm trạng mà càng ngày người Việt Nam càng lún sâu vào. Nếu như với khoa học, rau xanh là một loại thực phẩm quan trọng, có khả năng bổ sung vitamin mạnh nhất thì với người nông dân, rau xanh là một tấm xốp hút đầy thuốc độc và bán nó, người ta kiếm được tiền. Còn với người tiêu dùng, rau xanh là một loại thực phẩm có chứa độc vừa đủ để ngấm dần vào cơ thể cho đến một lúc nào đó tự động phát tác mà hằng ngày người ta phải bỏ tiền ra để mua độc vào cơ thể.

Lượng thuốc độc quá cao

Một người nông dân tên Thiện, sống ở huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ, chia sẻ: “Ở ngoài này họ trồng nhiều rau lắm, nhưng phân đạm, phân lân thì nhiều chứ phân hữu cơ thì ít lắm! Rau cải, rau muống… các thứ đều bơm thuốc dưỡng chứ. Nhưng mà đắt đỏ chứ lúc nào rau quá rẻ thì họ để cho lên tự nhiên…!”

” Ở ngoài này họ trồng nhiều rau lắm, nhưng phân đạm, phân lân thì nhiều chứ phân hữu cơ thì ít lắm! Rau cải, rau muống… các thứ đều bơm thuốc dưỡng chứ. Nhưng mà đắt đỏ chứ lúc nào rau quá rẻ thì họ để cho lên tự nhiên…
-Ông Thiện”

Ông Thiện cho biết thêm là hiện tại, không có loại rau nào là đáng tin cậy cho dù rau được trồng theo công nghệ trồng rau sạch. Bởi những làng trồng rau sạch vẫn có bơm thuốc nhưng thay vì bơm ban ngày, người ta chuyển sang bơm ban đêm, vào lúc người khác đã đi ngủ. Ông Thiện đã nhiều lần chừng kiến người ta bơm thuốc hàng loạt cho rau xanh vào lúc nửa đêm khi ông đi bán rau chợ khuya.

Ông Thiện cho rằng sở dĩ một số làng rau sạch lại lén lút bơm thuốc trừ sâu cho rau của họ là vì họ cũng rơi vào thế bí. Họ đã bỏ ra không ít tiền để đầu tư làm rau sạch nhưng lại không có đầu ra, không có chỗ tiêu thụ ổn định, cuối cùng, phải mang ra chợ bán chạy đua với rau không an toàn. Và khi họ làm như vậy, để gở được một phần vốn của họ, họ buộc phải nói dối với các đầu mối thường đến mua rau sạch của họ. Cuối cùng, người tiêu dùng chịu trận nặng nhất khi mua rau với giá cao nhưng lại không sạch, vẫn nguy hiểm.

Cũng theo ông Thiện, hiện nay, rau xanh trên thị trường không có rau nào là không bơm thuốc trừ sâu, thuốc dưỡng cây, chống nấm. Bởi vì thời tiết quá khắc nghiệt, khi nắng thì như đổ lửa, mưa thì như trút nước, không có cây rau nào trụ nổi với thời tiết như vậy. Muốn giữ vườn rau, người nông dân buộc phải bơm thuốc.

Có hai cách để giữ vườn rau, hoặc là làm giàn, che lưới, đưa nguồn nước sạch từ thủy cục vào hồ chứa chừng ba ngày để lượng clo trong nước hoàn toàn bốc hơi, sau đó tưới rau và bón rau bằng phân chuồng. Hoặc là dùng thuốc hóa học và bơm thường xuyên mỗi ngày, dùng phân hóa học, có thể tưới nước giếng bơm.

Nếu chọn phương án che giàn lưới và tưới nước sạch, chi phí cho một vụ rau sẽ đội lên rất cao, người nông dân sẽ không thu được lãi nếu bán đồng giá trên thị trường. Chỉ bán cho siêu thị, nhà hàng thì mới có thể kiếm chút lãi, mà những siêu thị, nhà hàng, khách sạn thường có mối ổn định, người nông dân khó mà lọt vào được.

rau-xanh-400.jpg
Ảnh minh họa. RFA PHOTO.

Ngược lại, chọn phương án tưới nước giếng bơm và bón phân hóa học, bơm thuốc kích thích sinh trưởng, chu kì phát triển của cây rút ngắn đáng kể, từ chỗ một tháng hoặc một tháng rưỡi rút xuống còn một tuần hoặc nửa tháng. Người nông dân thường xuyên bơm thuốc vào mỗi chiều tối, bơm chất kích thích tăng trưởng, sau một tuần là vụ thu hoạch bắt đầu.

Ông Thiện cho rằng nguồn nước giếng bơm với hàm lượng phèn, thậm chí thạch tín trong đó quá cao cũng sẽ là mối nguy cho người tiêu dùng bởi cây rau phải thường xuyên tiếp xúc với nước không an toàn, thuốc trừ sâu, thuốc dưỡng cây, kích thích tăng trưởng.

Để chốt lại vấn đề, ông Duy khẳng định là hiện tại, không bao giờ có rau sạch bán trên thị trường, trừ khi đó là rau do tự người ta trồng ra. Bởi muốn có rau sạch, việc đầu tiên phải có một thị trường sạch và có một môi trường chính trị, văn hóa và kinh tế sạch.

Những thứ này tưởng chừng không liên quan với nhau nhưng trên thực tế, khi sống trong một môi trường chính trị, kinh tế và văn hóa sạch sẽ, lành mạnh, tâm hồn người nông dân sẽ nhanh chóng trở về với bản nguyên hồn nhiên, tốt bụng và chất phác.

Mũi dùi Trung Quốc

Một nông dân khác tên Khải, sống ở huyện Đoan Hùng, Phú Thọ, chia sẻ thêm: “Dùng thì người ta vẫn phải dùng (loại rau bơm thuốc). Bởi rau ở đây khô cằn, không tăng trưởng được, nó tùy thuộc vào thời tiết, khí hậu của từng năm. Mùa Đông thì rau tốt chứ mùa này thì cằn lắm. Ví dụ như vào mùa này thì rau đang bị cằn cỗi lắm, mùa đông thì đỡ hơn.”

” Dùng thì người ta vẫn phải dùng (loại rau bơm thuốc). Bởi rau ở đây khô cằn, không tăng trưởng được, nó tùy thuộc vào thời tiết, khí hậu của từng năm. Mùa Đông thì rau tốt chứ mùa này thì cằn lắm.
-Ông Khải”

Theo ông Khải, vấn đề rau xanh trở nên độc hại, gây ảnh hưởng không nhỏ đến người tiêu dùng hiện nay lại có một nguyên nhân sâu xa khác mang tên Trung Quốc. Yếu tố Trung Quốc đã chi phối quá nặng trên thị trường Việt Nam, tao ra những cơn lốc sử dụng vô hồn, nghĩa là cứ rẻ thì mua, mua xài xong lại vứt, lại xài tiếp. Chính thứ tâm lý này đã tác động không nhỏ đến người nông dân.

Người nông dân đã trở nên nóng vội trong việc kiếm tiền, bất chấp sức khỏe đồng loại để kiếm tiền. Đương nhiên, cũng vì hố sâu ngăn cách quá rõ rệt, ngày càng nới rộng giữa đời sống xa hoa, phung phí của giới quan quyền, tư bản đỏ và nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn mọi thứ của người nông dân, giới lao động nghèo. Trong khi đó, chính người nông dân và giới lao động nghèo phải hằng ngày còng lưng đóng đủ các loại thuế trong từng chai nước mắm, gói bột ngọt, chai xì dầu…

Chính hố sâu ngăn cách cùng với những bất công về đất đai đã khiến người nông dân một mặt chạy đua với thời gian, còn nước thì còn tát, cố gắng đào thật nhiều tiền trên mảnh vườn trước khi nó dính vào một dự án nào đó.

Nhưng đáng sợ hơn là sâu thẳm trong tâm hồn người nông dân, sự oán giận đã biến thành hành động, họ bơm thuốc vô tội vạ và không bao giờ ăn rau mình trồng bởi họ biết rằng những kẻ có tiền, ăn trên ngồi trốc sẽ là khách hàng của họ trong một ngày nào đó. Đương nhiên điều này đã được chuyển hóa thành hành động gần với vô thức của người nông dân.

Ông Khải nói rằng ông không đồng cảm với người nông dân trong vấn đề trồng rau xanh của họ nhưng điều này cũng nói lên rằng nếu như có một xã hội tử tế, một hệ thống nhà nước tử tế, người nông dân sẽ cho ra đời những cây rau sạch. Cây rau Việt Nam hiện tại giống như một biểu kế đo sự tử tế của nhà nước. Hệ thống quản lý càng tốt thì cây rau càng sạch, ngược lại, hệ thống quản lý nhà nước càng bệ rạc bao nhiêu thì cây rau càng chứa nhiều độc tố bấy nhiêu. Đây giống như luật nhân quả vậy!

Nói đến đây, ông Khải lắc đầu, thở dài.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Chris Mintz, người hùng trong vụ tàn sát ở Oregon

Chris Mintz, người hùng trong vụ tàn sát ở Oregon

Nguoi-viet.com

 ROSEBURG, Oregon (NV) – Trong vụ tàn sát ở trường Umpqua Community College hôm Thứ Năm, ông Chris Mintz bị trúng nhiều phát đạn và nay được tuyên dương anh hùng.

Ảnh chụp ông Chris Mintz đang hồi phục được người anh em họ đưa lên mạng. (Hình: Go Fund Me/Chris Mintz)

Theo đài NPR, người ta được biết, lúc xảy ra vụ nổ súng, ông chạy về phía hung thủ và tìm cách chận cửa lớp học, nhờ vậy bảo vệ được tính mạng cho nhiều sinh viên.

Ông Mintz, 30 tuổi, một cựu chiến binh đã có con và từ North Carolina chuyển đến sống ở Oregon, nay đang hồi phục dần sau cuộc giải phẫu.

Sinh viên Hannah Miles, 19 tuổi, kể lại: “Tôi thấy ông Mintz chạy về phía thư viện rồi kéo chuông báo động. Ông bảo mọi người lo chạy đi trong khi ông phóng trở lại phía tòa nhà nơi phát xuất tiếng súng.”

Bà Wanda Mintz, dì của ông, cho biết chi tiết vì sao ông bị thương: “Trong khi cố chận cửa để hung thủ không thể vào được, cháu tôi bị trúng ba phát đạn. Gục xuống sàn nhưng nó vẫn nhìn lên và nói, ‘hôm nay là sinh nhật con tao,’ thế là nó bị bồi thêm hai phát nữa.”

Gia đình ông Mintz nói, ông bị gãy cả hai chân.

Bà Wanda Mintz thêm rằng vì cháu bà là cựu cầu thủ football và đô vật, “tôi nghĩ nếu nó không mạnh và còn trẻ như vậy chưa chắc nó sống nổi.”

Ông Derek Bourgeois, một người anh em họ của ông Mintz, mở trang Go Fund Me để quyên góp giúp trả chi phí y tế cho ông. Chỉ trong hai giờ, số tiền thu được $20,000, nhiều hơn gấp đôi con số mong ước là $10,000.

Tuy nhiên, cho đến chiều Thứ Sáu, số tiền quyên góp lên đến gần $360,000.

Câu chuyện của người cựu chiến binh thu hút sự chú ý rộng rãi và ông Mintz nhanh chóng trở thành một đề tài nóng trên truyền thông xã hội, rằng tên của ông chứ không phải của hung thủ là cần được ghi nhớ mỗi khi nhắc đến vụ tấn công làm chết chín nạn nhân này.

Ngay chính các giới chức địa phương cũng cương quyết từ chối nói đến tên hung thủ nơi công cộng.

Ông Mintz là một trong bảy người bị thương trong cuộc tấn công. Những người này trong hạng tuổi từ 18 đến 34.

Hôm Thứ Sáu, một người bạn đăng một cập nhật trong mục sơ lược tiểu sử của ông Mintz, nói rằng, “Chris nhờ tôi gửi lời cám ơn đến mọi người vì sự ủng hộ của họ dành cho anh. Anh tri ân và không bao giờ quên cộng đồng cũng như tất cả các nạn nhân.” (TP)

Mâu thuẫn ăn nhậu, hai thầy giáo đánh nhau, một người nhập viện

Mâu thuẫn ăn nhậu, hai thầy giáo đánh nhau, một người nhập viện

Nguoi-viet.com

HÀ TĨNH (NV) – Lao vào đánh nhau sau cuộc nhậu do mâu thuẫn, khiến một người phải nhập viện cấp cứu, hai thầy giáo ở Hà Tĩnh bị đình chỉ công tác.

Trường tiểu học Hương Liên, nơi hai thầy giáo đánh nhau đang công tác.
(Hình: VnExpress)

Truyền thông Việt Nam loan tin, sáng 2 tháng 10, ông Trần Đình Hùng, trưởng phòng Giáo Dục và Đào Tạo huyện Hương Khê, cho biết đã chỉ đạo trường tiểu học Hương Liên xử lý vụ đánh nhau giữa hai thầy giáo Trần Song Hào và Trần Văn Kham.

“Ông Kham bị đình chỉ công tác từ ngày 25 tháng 9. Ông Hào đã xuất viện, nhưng đang ốm nên chưa tới trường. Khi nào trở lại làm việc cũng sẽ bị đình chỉ. Dự kiến thời hạn đình chỉ kéo dài một tuần,” ông Hùng nói.

Theo tin Thanh Niên, trước đó, khoảng 2 giờ chiều 19 tháng 9, 2015, sau khi kết thúc cuộc ăn nhậu ở xã Hương Liên, lúc đã ngà ngà say, ông Hào và ông Kham xảy ra xích mích rồi lao vào đánh nhau.

Một lãnh đạo trường tiểu học Hương Liên kể lại, trong lúc xô xát, thầy Kham lấy một khúc cây đánh mạnh vào người thầy Hào, khiến bị thương nặng phần đầu và tay, phải đi cấp cứu tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Tĩnh. Phòng Giáo Dục huyện Hương Khê sau đó đã yêu cầu hai thầy giáo viết bản tường trình sự việc.

Điều gây quan ngại và lấy làm lạ cho dư lận là theo ông Hùng: “Khi cơ quan chức năng xem xét, giải quyết xong hành vi đánh nhau của ông Hào và ông Kham thì sẽ cho hai người này trở lại trường giảng dạy bình thường.” (Tr.N)

Đức Giáo Hoàng ‘dịu giọng’ về chủ nghĩa tư bản trong chuyến thăm Mỹ

Đức Giáo Hoàng ‘dịu giọng’ về chủ nghĩa tư bản trong chuyến thăm Mỹ

 VOA

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc diễn văn trước Quốc Hội Hoa Kỳ.

 

Nhiều người dự kiến Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ gây ‘bão dư luận’ khi đến Mỹ vì những chỉ trích chủ nghĩa tư bản mạnh mẽ của ông trước đây khiến một số người phản đối, thậm chí gán ghép ngài là ‘cộng sản’. Thế nhưng kết quả thực tế là ngài không những không gây xung đột, mà còn khiến giới nhà lập pháp Mỹ ở cả hai đảng xúc động mạnh mẽ. Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói Đức Giáo Hoàng đã không dùng ngôn ngữ của các chính trị gia mà là ngôn ngữ của Tin Mừng. Khánh An và thông tín viên William Gallo có bài tường thuật chi tiết sau đây.

Trước khi Đức Giáo Hoàng đến Mỹ, một số nhà phân tích dự liệu sẽ có một sự ‘bùng nổ’ trong chính trường và dư luận Mỹ vì sự kết hợp hoàn hảo của hai yếu tố: Một, Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nổi tiếng với phát biểu cho rằng chủ nghĩa tư bản là trung tâm mọi vấn đề bất bình đẳng, cội rễ của các căn bệnh xã hội. Hai, nước Mỹ là cường quốc thống lĩnh về kinh tế thị trường. Việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến Mỹ sẽ là cơ hội hội tụ đủ hai yếu tố gây ra xung đột.

Tuy nhiên, những bài phát biểu của vị đứng đầu Giáo hội Công Giáo, trong đó có bài phát biểu ở Quốc hội Mỹ, không những không gây ra xung đột mà còn đem lại kết quả ngược lại.

Điều này không có nghĩa là Ngài [Đức Giáo Hoàng] thay đổi thông điệp. Nó chỉ có nghĩa là Ngài quyết định nhấn mạnh những khía cạnh đức tin khác. Tôi nghi rằng là để không gây khó chịu cho chủ nhà và để hòa điệu tốt hơn với nhiều Mỹ nói chung.

Một số nhà phân tích nói ngôn ngữ ‘mềm mỏng’ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có tác dụng cân bằng giữa vấn đề tôn trọng nước Mỹ chủ nhà và điều mà Ngài xem là mối nguy của chủ nghĩa tiêu thụ quá đáng.

Ông Marian Tupy, nhà phân tích chính sách cấp cao của Viện CATO, nói: “Ngài chắc chắn sẽ phát biểu chống chủ nghĩa tư bản nhiều hơn trong những chuyến đi khác đến Châu Mỹ Latinh và các nơi khác. Nhưng ở đây tại Hoa Kỳ, Ngài rõ ràng là đã dịu giọng xuống, đặc biệt là tại Quốc hội. Đó giống như là một vị giáo hoàng khác vậy”.

Nhưng Giám mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy ban Công lý Hòa bình, thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam cho biết: “Mỗi lần thì Đức Giáo Hoàng có những đề tài riêng, như lần này Ngài nói về môi sinh, về gia đình. Thành thử đâu phải bài nào cũng nói về chủ nghĩa tư bản, trước đây Ngài đã nói nhiều rồi”.

Mặc dù được cho là ‘dịu giọng’ hơn, nhưng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không hoàn toàn bỏ quên những vấn đề kinh tế trong chuyến thăm Mỹ của Ngài.

Trong bài phát biểu ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Đức Giáo Hoàng đã chỉ trích ‘sự ích kỷ và ham muốn quyền lực và của cải vật chất vô hạn dẫn đến việc lạm dụng tài nguyên thiên nhiên và loại trừ người nghèo và người yếu thế’.

Trong bài phát biểu trước Quốc hội Mỹ một ngày trước đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô liên tục lặp lại từ ‘công ích’ và nhắc các nhà lập pháp Mỹ về trách nhiệm không chỉ là bảo vệ quyền tự do cá nhân, mà còn phải để ý đến những người bị thiệt thòi.

Đức Giáo Hoàng nói: “Ngay trong thế giới phát triển, những ảnh hưởng của các hành động và cơ cấu bất công là quá rõ ràng. Những nỗ lực của chúng ta phải nhằm mục đích khôi phục lại hy vọng, sửa chữa sai lầm, duy trì các cam kết và rồi thúc đẩy phúc lợi của cá nhân và của dân tộc. Chúng ta phải tiến lên cùng nhau, làm một, trong thần khí canh tân của tình huynh đệ và đoàn kết, hợp tác quảng đại vì lợi ích chung”.

Có một chi tiết thú vị, đó là có một phần trong bài phát biểu đã soạn không được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói tới khi Ngài đứng trước Quốc hội Mỹ. Đoạn này nhắc một chút về lịch sử chính trị của Mỹ và vai trò của tiền bạc trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Một trong những câu gây tranh cãi là: “Chính trị thực sự là để phục vụ con người, như thế nó không thể là nô lệ của kinh tế và tài chính”.

Quan điểm của Đức Giáo Hoàng là lấy Tin Mừng làm chính, thành ra ngôn ngữ, cách ứng xử, xử lý cũng dựa trên nền tảng của Tin Mừng. Thành thử ra là nói mà nói khéo, chứ không phải dùng ngôn ngữ của các chính trị gia, nhất là khi đang trong cuộc tranh luận… Chính vì vậy, nhiều người thấy đồng thuận và nhìn thấy nơi Đức Giáo Hoàng vai trò của một vị mục tử, một sứ giả của Tin Mừng, chứ không phải là người đến để gây chia rẽ.”.

Không ai biết tại sao Đức Giáo Hoàng lại bỏ qua đoạn này khi nói trước Quốc hội Mỹ, nhưng nhà phân tích Tupy nói ông ‘ngạc nhiên một cách phấn khởi’ vì sự thiếu vắng những lời lẽ chỉ trích chủ nghĩa tư bản mạnh mẽ của Đức Giáo Hoàng.

“Điều này không có nghĩa là Ngài thay đổi thông điệp. Nó chỉ có nghĩa là Ngài quyết định nhấn mạnh những khía cạnh đức tin khác. Tôi nghi rằng là để không gây khó chịu cho chủ nhà và để hòa điệu tốt hơn với nhiều Mỹ nói chung”.

Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho biết không phải lúc nào Đức Giáo Hoàng cũng nói nguyên văn bài phát biểu đã soạn.

“Khá nhiều lần Đức Giáo Hoàng không đọc hết mà lại nói thêm, chẳng hạn như nói với các giám mục hay nói ở những nơi khác, Ngài nói thêm nhiều điều mà không có trong bản văn chính thức”.

Với lối nói từ tốn, nhẹ nhàng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khiến cho nhiều dân biểu Mỹ xúc động. Người ta thấy Chủ tịch Hạ viện John Boehner liên tục lấy khăn lau nước mắt. Những nhà lập pháp ở cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã đưa ra những phản ứng tích cực về bài phát biểu của người đứng đầu Vatican.

Nhận xét về lối nói cũng như những phát biểu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong chuyến thăm Mỹ, Gíam mục Nguyễn Thái Hợp nói:

“Có thể nói và nói rất rõ là quan điểm của Đức Giáo Hoàng là lấy Tin Mừng làm chính, thành ra ngôn ngữ, cách ứng xử, xử lý cũng dựa trên nền tảng của Tin Mừng. Thành thử ra là nói mà nói khéo, chứ không phải dùng ngôn ngữ của các chính trị gia, nhất là khi đang trong cuộc tranh luận. Chuyện đó thì ta thấy rõ. Chính vì vậy, nhiều người thấy đồng thuận và nhìn thấy nơi Đức Giáo Hoàng vai trò của một vị mục tử, một sứ giả của Tin Mừng, chứ không phải là người đến để gây chia rẽ.”

Hoa Kỳ là quốc gia thứ 15 mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến thăm trong hơn hai năm trở thành giáo hoàng. Những điểm đến ưu tiên đã thể hiện rõ quan điểm đến gần những người bị gạt ra ngoài lề xã hội trong khẩu hiệu ‘Cảm thương và lựa chọn’ của Ngài.

CẬU BÉ NỬA HỘP SỌ TRỞ THÀNH BIỂU TƯỢNG CHIẾN THẮNG SỐ PHẬN

CẬU BÉ NỬA HỘP SỌ TRỞ THÀNH BIỂU TƯỢNG CHIẾN THẮNG SỐ PHẬN

Tri’ch EPHATA 661

Jaxon Emmett Buell sinh ra bị khiếm khuyết một nửa não và hộp sọ. Các bác sĩ tiên lượng bệnh nhi không thể sống được, song cậu bé đã không đầu hàng số phận. Theo Telegraph, bé Jaxon Emmett Buell bị hội chứng bẩm sinh hiếm gặp gọi là Microhydranencephaly, khiến em bị thiếu phần lớn bộ não và hộp sọ.

Miracle baby ... Jaxon Emmett Buell recently turned one. Picture: Facebook

Không ai nghĩ cậu bé có thể sống được, các bác sĩ sau khi chọc ối phát hiện dị tật này đã khuyên người mẹ nên bỏ thai. Theo thống kê ở Mỹ, cứ khoảng 5.000 trẻ sinh ra mỗi năm thì có một trường hợp mắc hội chứng này, hầu hết đều tử vong ngay sau khi chào đời. Trường hợp của Jaxon là một ngoại lệ kỳ diệu. Em đã vượt số phận với một nghị lực sống phi thường. Tháng 8 vừa qua, cậu bé cười tươi hạnh phúc bên cha mẹ trong lễ mừng sinh nhật đầu tiên của mình.

Câu chuyện về nghị lực sống của cậu bé “nửa hộp sọ” đã lan truyền khắp nước Mỹ, trở thành nguồn cảm hứng sống cho hàng triệu người, đặc biệt là người mang trong mình bệnh nan y. Trang Facebook của Jaxon có 90.000 lượt thích và 18.000 lượt chia sẻ. Con số này không ngừng gia tăng.

Mẹ của em là Brittany 27 tuổi và cha là Brandon Buell 30 tuổi, sống tại Tavares, Florida, Mỹ. Người mẹ cho biết còn nhớ như in cảm giác tồi tệ lúc được bác sĩ thông báo con trai của mình bị một trục trặc não hiếm gặp khi mang thai bé ở tuần thứ 17. Jaxon đã được chẩn đoán bị thiếu não, một khiếm khuyết ống thần kinh khiến bé không có một số bộ phận của não và hộp sọ.

Jaxon was born with Microhydranencephaly. Picture: Facebook

Người cha cho biết, vợ chồng anh như sụp đổ khi nhận thông báo từ bác sĩ về đứa con chưa ra đời đã mắc phải căn bệnh hiểm nghèo. Bác sĩ khuyên hai vợ chồng nên bỏ thai ở tuần thứ 23. Tuy nhiên họ kiên quyết bảo vệ đứa trẻ bởi nghĩ rằng “Giết con của mình là tội ác. Bệnh tật của đứa trẻ không phải là lý do cho việc phá thai”.

Một số người chỉ trích vợ chồng Brandon “ích kỷ” hoặc “dại dột” không chịu bỏ cái thai. Ông bố trẻ đã đáp lại những lời chỉ trích bằng một bài viết chân thành trên trang Facebook. Anh khẳng định rằng hai vợ chồng quyết định bảo vệ đứa con bé bỏng bởi đó là “sự lựa chọn của cả hai chúng tôi và chúng tôi chỉ có sự lựa chọn ấy mà thôi”.

Người mẹ đã hạ sinh bé Jaxon bằng phương pháp mổ lấy thai. Cậu bé chào đời hoàn toàn khỏe mạnh trong sự ngạc nhiên của nhiều người.

Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước ĐTC Phanxicô

Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước

ĐTC Phanxicô

(Tòa Bạch Ốc, 23.9.2015).

                       Chào buổi sáng!

Chúa đã làm nên một ngày thật tuyệt vời!

Kính thưa Đức Thánh Cha, Michelle và tôi xin chào mừng Ngài đến với Nhà Trắng. Ở đây thường không đông người như thế này – nhưng tầm mức và tinh thần của cuộc gặp gỡ ngày hôm nay chỉ phản ánh phần nào lòng yêu mến sâu xa của 70 triệu người Công Giáo Mỹ… và con đường sứ điệp tình yêu và hy vọng của Ngài đã truyền cảm hứng cho biết bao người, trên khắp đất nước chúng tôi và trên toàn thế giới. Thay lời cho người dân Mỹ, thật là vinh dự lớn lao và là đặc ân cho tôi được chào đón Ngài đến với nước Mỹ.

Hôm nay, chúng ta đánh dấu nhiều điểm khởi đầu. Thưa Đức Thánh Cha, Ngài được chúc mừng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ châu Mỹ. Đây là chuyến thăm nước Mỹ đầu tiên của Ngài. Và Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên chia sẻ Thông Điệp trên Twitter.

Thưa Đức Thánh Cha, chuyến thăm của Ngài không chỉ cho phép tôi, trong cách thế khiêm tốn, đáp lại lòng hiếu khách đặc biệt mà Ngài rộng mở với tôi tại Vatican năm ngoái. Nó cũng cho thấy biết bao người dân Mỹ, từ mọi nền văn hóa và thuộc mọi niềm tin, quý trọng vai trò của Giáo Hội Công Giáo trong việc phát triển đất nước. Ngay từ thời tôi làm việc tại các khu phố nghèo cùng với Giáo Hội Công Giáo tại Chicago, đến thời tôi làm Tổng Thống, tôi đã tận mắt thấy cung cách mà mỗi ngày, các cộng đồng Công Giáo, các linh mục, các nữ tu, và các giáo dân nuôi những người đói khát, chữa lành người đau ốm, che chở người vô gia cư, giáo dục các trẻ em, và củng cố đức tin nâng đỡ rất nhiều người.

Điều ấy thật đúng trên đất Mỹ, cũng đúng trên toàn thế giới. Từ đường phố nhộn nhịp của Buenos Aires tới ngôi làng xa xôi ở Kenya, các tổ chức Công Giáo phục vụ người nghèo, giúp đỡ các tù nhân, xây dựng các trường học và nhà ở, thành lập các cô nhi viện và các bệnh viện. Và khi Giáo Hội đứng về phía những người đấu tranh để phá vỡ xiềng xích của nghèo đói, thì đó cũng là tiếng nói và niềm hy vọng cho những ai đang tìm cách bẻ gãy xiềng xích của bạo lực và áp bức.

Tuy nhiên, tôi tin rằng, niềm vui nồng nhiệt xung quanh chuyến viếng thăm của Ngài phải được ghi nhận, không chỉ do vai trò của Ngài trong tư cách là Giáo Hoàng, mà còn do những phẩm tính độc đáo của Ngài trong tư cách là một con người. Với lòng khiêm tốn của Ngài, Ngài mang lấy một sự đơn sơ, lịch thiệp trong lời nói và sự quảng đại trong tinh thần, chúng tôi nhìn thấy một mẫu gương sống động cho những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Đấng là vị lãnh đạo có thẩm quyền luân lý không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.

Ngài mời gọi tất cả chúng ta, Công Giáo cũng như không Công Giáo, đặt “người nhỏ bé nhất” vào tâm điểm của sự quan tâm của chúng ta. Ngài nhắc chúng ta rằng, trong cái nhìn của Thiên Chúa, sự đo lường của chúng ta như là các cá nhân, như là các xã hội, không được xác định bởi sự giàu có hay quyền lực hay địa vị hay danh tiếng, nhưng xác định bởi cách thế chúng ta đáp lại lời mời gọi của Kinh Thánh để nâng đỡ người nghèo và người bị thiệt thòi, thúc đẩy công bằng và chống lại bất công, và đảm bảo rằng, mỗi người có thể sống đúng phẩm giá – bởi vì tất cả chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.

Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng “sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thiên Chúa” là lòng thương xót. Điều ấy có nghĩa là chào đón người lạ với sự đồng cảm và con tim rộng mở, từ những người tị nạn phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh tàn phá, đến những người nhập cư phải rời bỏ nhà cửa để đi tìm cuộc sống tốt hơn. Điều ấy có nghĩa là diễn tả sự cảm thông và tình yêu với những người chịu thiệt thòi và bị gạt ra bên lề, với những người chịu đau khổ, với những người đang tìm sự cứu độ.

Ngài nhắc chúng ta nhớ về cái giá phải trả cho chiến tranh, đặc biệt là những người cô thế và người không có khả năng tự vệ, và thúc giục chúng ta hướng tới tính khẩn thiết của hòa bình.

Thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi biết ơn Ngài vì sự nâng đỡ vô giá mà Ngài dành cho chúng tôi trong những bước khởi đầu với nhân dân Cuba, với lời hứa cho mối tương quan tốt hơn giữa hai quốc gia, cho sự hợp tác hơn nữa, và cho đời sống tốt hơn với người dân Cuba. Chúng tôi cám ơn Ngài vì tiếng nói đầy nhiệt huyết của Ngài chống lại các cuộc xung đột chết người. Các xung đột ấy tàn phá cuộc sống của quá nhiều người nam nữ và trẻ em. Chúng tôi cám ơn Ngài vì Ngài mời gọi các quốc gia chống lại chiến tranh và giải quyết các tranh chấp thông qua ngoại giao.

Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng, con người chỉ thực sự tự do khi họ có thể thực hành đức tin của mình cách tự do. Ở nước Mỹ này, chúng ta trân quý tự do tôn giáo. Thế nhưng, trên thế giới ngay lúc này đây, những người con của Chúa, kể cả các Kitô hữu, bị phân biệt đối xử, thậm chí bị giết chết vì đức tin của mình. Các tín hữu bị ngăn cản, không được tụ họp tại nơi thờ phượng. Họ bị tù đày. Các nhà thờ bị phá hủy. Vì thế, chúng tôi cùng với Ngài đứng về phía bảo vệ tự do tôn giáo và thúc đẩy đối thoại liên tôn, biết rằng mọi người ở mọi nơi phải có khả năng sống đức tin cách tự do khỏi nỗi sợ hãi và khỏi sự đe dọa.

Thưa Đức Thánh Cha, Ngài nhắc chúng tôi nhớ rằng, chúng ta có bổn phận thánh thiêng bảo vệ hành tinh của chúng ta. Đây là món quà tuyệt với Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng tôi ủng hộ lời mời gọi của Ngài đối với các nhà lãnh đạo thế giới, cho việc nâng đỡ những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trong sự biến đổi khí hậu, cho việc xích lại gần nhau để bảo vệ thế giới của chúng ta cho các thế hệ tương lai.

Với sự Thánh Thiện, trong lời nói và hành động của Ngài, Ngài là tấm gương đạo đức sâu sắc. Và với những lời nhắc nhẹ nhàng nhưng kiên quyết về bổn phận của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, Ngài đang lôi kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn. Tất cả chúng ta, nhiều lần, có thể kinh nghiệm sự khó chịu, khi chúng ta nhận thấy khoảng cách giữa cung cách sống hằng ngày với những gì chúng ta biết là thật là đúng. Nhưng tôi tin rằng, sự khó chịu ấy là một phúc lành, vì nó chỉ ra cho chúng ta điều gì đó tốt hơn. Ngài đánh thức lương tâm chúng ta khỏi giấc ngủ mơ; Ngài mời gọi chúng ta vui trong Tin Mừng, và trao tặng chúng ta sự tự tin để đến với nhau, trong khiêm tốn và phục vụ, và theo đuổi một thế giới yêu thương hơn, công bằng hơn, và tự do hơn. Ở đây và trên khắp thế giới, cầu chúc cho thế hệ chúng ta lưu tâm đến lời mời gọi của Ngài để “không bao giờ đứng bên ngoài chuỗi hy vọng sống động này!”

Vì món quà hy vọng lớn lao mà Ngài dành cho nước Mỹ, thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi cám ơn và chào đón Ngài, với niềm vui và lòng biết ơn.

Chuyển ngữ: Vinhsơn Vũ Tứ Quyết, S.J

Ông Robert Funseth, ân nhân của cựu tù cải tạo

Ông Robert Funseth, ân nhân của cựu tù cải tạo

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-10-01

 RFA

hinh1

Ông Robert Funseth và Hội gia đình tù nhân chính trị VN.

Hình do bà Khúc Minh Thơ gửi RFA
Ông Robert Funseth, phụ tá ngoại trưởng kiêm phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thời chiến Việt Nam, qua đời ngày 25 tháng Chín vừa qua trong sự nhớ tiếc của những  gia đình cựu tù cộng sản từ Việt Nam qua Mỹ định cư theo chương trình HO từ năm 1990. Thanh Trúc ghi nhận cảm tưởng của một số cựu tù HO khắp nơi:Nếu không nhờ chương trình HO và nhờ nỗ lực ngoại giao của phụ tá ngoại trưởng Robert Funseth thì không chắc những quân nhân  miền Nam  ra khỏi tù cộng sản có thể được tái định cư hợp pháp tại Mỹ từ năm 1990 trở đi.

Đó là cảm tưởng chung của những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, còn được gọi là những người HO vì được qua Mỹ định cư theo chương trình Humanitarian Operation, tạm gọi là chương trình nhân đạo, mà người lãnh nhiệm vụ thương thuyết với phía Việt Nam khi đó không ai khác ngoài ông Robert Funseth .

Từ Illinois, ông Bùi Bổn, cựu sĩ quan miền Nam bị cộng sản tập trung cải tạo 10 năm, qua Mỹ theo diện HO4 năm 1990:

Khi ở trong trại tù thì tôi đã nghe được những tin tức là chính phủ Hoa Kỳ có can thiệp với cộng sản Việt Nam để cho một số tù cải tạo và gia đình của họ được ra đi định cư tại  Hoa Kỳ. Ông Funseth là người mà chúng tôi rất biết ơn bởi vì cũng nhớ chính sự ngoại giao của ông at thành thử chương trình HO tị nạn và nhân đạo cho những tù nhân cải tạo được hoàn tất.

Phải nói thành thật chúng tôi sống được là nhờ công lao của ông Funseth. Nếu không có chương trình HO này thì chúng tôi và gia đình chúng tôi mãi mãi sống trong sự đau khổ và nhục nhã ở trên chính quê hương của chúng tôi. Trước sự ra đi của ông Funseth chúng tôi vô cùng đau lòng và tiếc nuối. Bản thân tôi đã chuyển những tin tức nhanh nhất về tin ông Funseth đã rời bỏ chúng tar a đi đến cộng đồng người Việt.

Người thứ hai, cũng là HO4 với 6 năm tập trung cải tạo, ông Bùi Phước Ty, hiện cư ngụ tại California:

Chúng tôi được tin ông Robert Funseth không còn nữa. Với việc làm của ông, với tư cách phụ tá ngoại trưởng Mỹ, ông Robert Funseth đã bỏ không biết bao nhiêu công sức để có thể thương thuyết với chính quyền Việt Nam và sau đó chương trình HO giúp những gia đình của người tù cộng sản tái định cư ở Mỹ.

Cá nhân  tôi và gia đình chúng tôi thì không bao giờ quên được người đã giúp mình tái lập được một cuộc sống mới ở Hoa Kỳ, con cái có cơ hội học hành và thay đổi cuộc sống từ sự cùng khổ ở đất nước Việt Nam sang xứ người.

Cá nhân  tôi và gia đình chúng tôi thì không bao giờ quên được người đã giúp mình tái lập được một cuộc sống mới ở Hoa Kỳ, con cái có cơ hội học hành và thay đổi cuộc sống từ sự cùng khổ ở đất nước Việt Nam sang xứ người.
– ông Bùi Phước Ty

Chúng tôi được biết vào khoảng tháng Mười Một này tại Nam Cali, anh Nguyễn Phán với tư cách hội phó Hội HO, Thương Phế Binh Và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa, sẽ tổ chức một buổi hội ngộ cựu tù tại Nam Cali. Chúng tôi sẽ đề nghị ban tổ chức một buổi vinh danh và tưởng niệm ông Robert Funseth. Ngày thang nào còn sống trên cuộc đời này thì chúng ta còn nhớ đến ông Robert Funseth. Hy vọng ban tổ chức sẽ thực hiện trong buổi hội ngộ HO này.

Phải mất 7 năm ông Robert Funseth mới thành công và ký kết bản thỏa thuận về chương trình HO với viên chức cao cấp  Việt Nam lúc bấy giờ là ông Vũ Khoan.

Nói về ông Robert Funseth, phụ tá ngoại trưởng thời tổng thống Ronald Reagan, là nói đến một viên chức tận tụy với trách vụ, một con người giàu tình cảm và lòng nhân đạo ngay cả với những người  không phải ruột  thịt của mình:

Từ năm 1977 Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị bắt đầu vận động, điểm quan trọng nhất là khi tổng thống Reagan chấp thuận, đồng ý cho Bộ Ngoại Giao cử ông Funseth thương thảo với Việt Nam về vấn đề tù nhân chính trị.

Không bao giờ chúng tôi trong hội quên cái ngày mà ông Funseth cùng phái đoàn đi qua Việt Nam để ký kết bản thỏa hiệp ngày 30  tháng 7 năm 1989, khi đó ông Funseth đã cầu nguyện một đêm cho việc được hoàn thành. Khi về tới phi trường Bangkok thì ông Funseth đã gọi vợ là bà Marylin để bà báo tin cho chúng tôi biết vì tất cả anh chị em Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị đều chờ đợi kết quả đó.

Đó là lời bà Khúc Minh Thơ, người cùng tổ chức Gia Đình Cựu Tù Nhân Chính Trị từng sát cánh với ông Robert Funseth để chương trình HO hoàn thành. Theo bản thỏa thuận này, quân dân cán chính miền Nam được chấp thuận cho sang Mỹ định cư sau khi bị tập trung cải tạo trong các trại tù cộng sản 3 năm trở lên.

hinh2-400
Ông Robert Funseth và bà Khúc Minh Thơ

Không chỉ những cựu sĩ quan HO mà cả những cựu quân nhân không đi theo diện HO, điển hình như người ở Houston, Texas, ông Huỳnh Công Ánh, không giấu được sự bàng hoàng trước tin ông Robert Funseth qua đời:

Tôi là cựu tù chính trị các trại tù khắp miền Nam tới miền Bắc. Tôi trốn tù đầu năm 1981và qua Mỹ năm 81. Từ đó tôi sát cánh với bà Khúc Minh Thơ và ông Funseth. Sau  khi  có hội Gia Đình Từ Nhân thì tôi thành lập Tổng Hội Cựu Tù Nhân và chúng tôi sát cánh với nhau.

Tôi biết rất rõ là mỗi lần ông Funseth họp hành với phía bên kia thì ông đều báo về cho bà Khúc Minh Thơ. Cũng nhiều lần, hình như 3 lần, ông có xuống Houston để cùng tổ chức với tôi chương trình vận động đó.

Tôi biết ông là một người rất tha thiết, rất nhiệt tình. Nếu  không có ông thì tôi e rằng bản thỏa hiệp không có, hoặc là có chậm đi năm mười năm nữa thì liệu anh em HO trong các trại tù khốn khổ mà tôi biết rõ sẽ chết chóc rất nhiều. Cho nên công của ông đối với anh em HO rất lớn. Hàng năm chúng tôi đều có liên lạc với nhau. Khi ông nằm bịnh thì chính bà Khúc Minh Thơ hàng ngày vô bệnh viện và thông báo cho tôi những chi tiết. Từ khi ông nằm xuống thì chúng tôi cứ chờ đợi chương trình tang lễ để chúng tôi lên và có cơ hội đưa tiễn cuối cùng.

Từ thành phố Dallas, Texas, nhà báo Thái Hoa Lộc, cựu tù cộng sản:

Thời gian mà tôi biết ông Robert Funseth là khi thành  lập Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị đầu tiên tại Dallas Fort Worth, sau đó chúng tôi phối hợp với 3 khu hội khác là Khu Hội Houston, Khu Hội Nam Cali và Bắc Cali, thì lần đầu tiên mà chúng tôi gặp được ông Funseth là trong lần chúng tôi đi Washington để tham dự bữa cơm ĐồngTâm do bà Khúc Minh Thơ tổ chức, lúc đó ông Funseth đã ký được cái hiệp ước với ông Vũ Khoan ngày 30 tháng Bảy năm 1989. Chúng tôi đã gặp ông rất nhiều lần. Nhờ sự cố gắng trong vòng 7 năm mà ông Robert Funseth đã đưa được một số cựu tù nhân chính trị, trong đó có những chiến hữu của tôi, đến được Hoa Kỳ cùng gia đình của họ gần 300.000 người.

Sự ra đi của ông Ông Robert Funseth là sự mất mát. Dù không là HO nhưng chúng tôi biết ơn ông, tất cả những tù nhân chính trị đều biết ơn ông.

Đã có nhiều gia đình HO, khi đã tạm ổn cuộc sống tại Mỹ, tìm cách liên lạc với ông Robert Funseth để thăm hỏi và cảm ơn. Cũng vậy, khi về hưu và không còn phục vụ trong nghành ngoại giao nữa, cựu phụ tá ngoại trưởng Robert Funseth vẫn thường xuyên giữ mối dây thân tình đến những gia đình HO mà ông biết.

Đó là tính cách của nhà ngoại giao Robert Funseth, người ân của HO. Anh Lê Thành con trai một gia đình đi khá muộn là HO 31, hiện  là giám đốc công ty kỹ thuật cao Luraco nổi tiếng, nói như vậy về ông Robert Funseth:

Không bao giờ chúng tôi trong hội quên cái ngày mà ông Funseth cùng phái đoàn đi qua Việt Nam để ký kết bản thỏa hiệp ngày 30  tháng Tám năm 1989…
– bà Khúc Minh Thơ

Ba của Lê Thành là Khóa 1 đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt, khi miền Nam sụp đổ, ba vào trại cải tạo 7 năm. Ba đi tù cộng sản về thì gia đình rất khó khăn, tuy nhiên nhờ chương trình HO, đặc biệt sự vận động của ông Funseth, thì gia đình Lê Thành sang Mỹ theo diện HO 31 năm 1995 để có được sự đổi đời như vậy.

Trong thời gian qua Lê Thành cũng may mắn có sự gần gũi với ông, ông có viết thư cho Thành và Thành cũng có viết thư cho ông. Trong những giờ phút hấp hối tại bệnh viện, cô Khúc Minh Thơ hỏi ông có nhớ Tom Lê của Luraco không thì ông nói ông có nhớ, một điều mà hôm qua nói chuyện với cô Khúc Minh Thơ làm Thành rất nghẹn ngào và cảm động. Cho phép Thành đại diện gia đình cũng như toàn thể nhân viên công ty Luraco xin thành kính phân ưu.

Thể theo ý nguyện của người quá cố, tang lễ sẽ được tổ chức rất đơn giản trong vòng riêng tư với gia đình. Ông Robert Funseth sẽ được an táng bên cạnh mộ phần người vợ thân yêu của ông là bà Marylin Funseth và con trai của hai người.

Một buổi lễ tưởng niệm ông Robert Funseth sẽ được tổ chức tại Washington DC đầu tháng Mười Hai để những người yêu mến ông có thể đến tham dự đông đủ hơn.