Ông người Mỹ, bà người Việt, và đứa con lai trùng phùng sau 48 năm

Ông người Mỹ, bà người Việt, và đứa con lai trùng phùng sau 48 năm

Ngọc Lan/Người Việt

Từ trái, bà Huỳnh Thị Chút, ông Gary Wittig và người con chung của họ, chị Nguyễn Thị Kim Nga, trùng phùng tại Georgia sau 48 năm. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)

RIVERDALE, Georgia (NV) – “Khi Nga báo cho biết là đã gặp lại cha, tôi mừng lắm, vì không bao giờ tôi dám nghĩ đến điều này. Nhưng mà quả đất xoay tròn quá.” Đó là cảm nghĩ của bà Huỳnh Thị Chút, người phụ nữ 75 tuổi, lần đầu tiên ngồi máy bay, mà lại bay cả nửa vòng trái đất để đến Riverdale, Georgia, hội ngộ cùng ông Gary Wittig, cha của con gái bà, sau khi bặt tin từ năm 1969.

Con gái bà Chút, chị Nguyễn Thị Kim Nga, cũng chỉ mới tìm lại được cha ruột của mình, ông Gary Wittig, một người Mỹ từng làm việc ở Việt Nam, sau 17 năm sang Mỹ định cư ở tiểu bang Nebraska.

Câu chuyện được kể lại sau gần một nửa thế kỷ, không chỉ chứa đầy niềm vui của ngày trùng phùng, mà hơn những điều thông thường đó, là tấm lòng, là nghĩa cử cao thượng, của hai người đàn ông đứng bên cạnh hai người phụ nữ này trong suốt mấy mươi năm qua, nhằm giúp họ đạt được ước nguyện của mình.

Câu chuyện của nàng lao công nghèo, người yêu Mỹ, và ông chồng Việt

Bà Chút từ Mepu, Bình Thuận, đặt chân đến thành phố Riverdale hôm Thứ Ba, 3 Tháng Mười, nói với Người Việt qua điện thoại, “Đây là lần đầu tiên tôi gặp lại ông Gary sau 48 năm. Nhưng gặp là nhận ra liền, dù ngày trước ổng còn rất trẻ.”

Câu chuyện theo dòng hồi ức của người phụ nữ đã đi qua gần hết đời mình trong nghèo khó, lam lũ, vẽ lên bức tranh chung của nhiều phụ nữ Việt “đi làm sở Mỹ” ở miền Nam Việt Nam vào thời chiến tranh Việt Nam.

“Tôi lúc đó có chồng và một đứa con trai. Khi tôi lấy chồng là cha mẹ tôi coi như bỏ luôn, không biết tới luôn. Rồi tôi đi làm lao công, dọn dẹp cho hãng Mỹ ở ‘Kem’ (Camp) Tiên Sa, Đà Nẵng. Ở đó có một bãi đậu xe lớn lắm. Tôi rửa xe ở đó. Ông Gary lái xe tới cho tôi rửa. Sau tôi mới biết ông cũng làm việc cho hãng đó,” bà kể bằng giọng “miền ngoài” đặc sệt.

“Không biết đây có phải là duyên nợ trời đất gì không,” bà tiếp tục câu chuyện. “Vì hồi đó đi làm mà thấy Mỹ là sợ lắm, vậy mà sao tôi lại thương ông, dù tôi với ông có nói chuyện được gì nhiều với nhau đâu.”

Theo lời bà Chút, bà quen ông Gary Wittig được một năm. Ông biết bà mang dòng máu của ông trong người, ông chở bà đi bệnh viện khám thai, biết được bà sẽ sanh con gái và cả ngày giờ sanh đứa bé.

Bà Chút nói thêm, “Trước khi về Mỹ, ông Lary có đưa tôi hình và thẻ có số quân của ông. Nhưng đến khi thấy Mỹ rút đi hết trong một đêm tối, tôi sợ quá, không bao giờ nghĩ có ngày gặp lại, nên tôi đốt hết. Mất liên lạc luôn từ đó.”

Khi ông Gary trở về quê hương thì bên kia bờ đại dương, bà Chút cũng sanh em bé. Đó là năm 1969.

Như bao phụ nữ sanh “con lai” khác, bà Chút bị tai tiếng nhiều, nhưng bà “không buồn, vì bụng làm dạ chịu.”

“Thương là thương ông chồng Việt của tôi, ông chưa bao giờ oán trách, ghen tuông gì hết,” bà nói.

Bà nhớ lại, “Ông chồng dẫn tôi đi sanh mà không mang theo đồ chi hết. Khi bà mụ bồng đứa con ra, ông nhìn và nói liền ‘Ô choa, Mỹ con! Mỹ con!’ rồi ông cởi cái áo đang mặc quấn cho nó. Đến sáng ông về nhà nấu cháo cho tôi và mang quần áo em bé vô. Lúc về nhà, ông cũng là người bồng con bé đi trước, tôi đi theo sau.”

“Tên con bé cũng là do ông đặt. Ông nói nó là con Mỹ thì đặt tên nó là Nga chứ không có tên gì khác hết, Nguyễn Thị Kim Nga,” bà cho biết.

Nếu đời sống người dân bình thường vốn đã quá cơ cực sau Tháng Tư, 1975, thì đời sống của những gia đình có con lai lại khốn đốn hơn nhiều lần.

“Lúc đó khổ lắm, tiền không có ăn, áo không có mặc, mà nuôi đến ba, bốn đứa con, khổ quá là khổ. Mà vì khổ nên quẫn có lúc ông đánh con, nhưng không phải vì ghét mà đánh đâu,” bà khẳng định.

Cũng theo lời bà, khi nghe nói Nga có thể làm giấy tờ đi Mỹ, thì chính ông chồng “dẫn mẹ con tôi đến chỗ xã làm giấy tờ.”

“Nhưng khi xuống tới thì họ nói chỉ có tôi và Nga đi được chứ chồng tôi không đi được. Khi đó ông nói với tôi một câu mà tôi nhớ thương hoài, ‘Thôi, đi về đi bà, về làm ăn với tôi. Khi nào tôi chết rồi mẹ con bà muốn đi mô thì đi.’ Rồi năm sau thì ông mất,” người phụ nữ lam lũ bồi hồi.

Ngày quen nhau họ chỉ ở độ tuổi ngoài 20. Gần nửa thế kỷ gặp lại, tóc đã trắng mái đầu. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)

Người con gái lai và con đường đến quê cha bằng sự kiên trì của chồng

“Hồi nhỏ, anh tôi không biết tôi con lai, nhưng ba ghẻ thì chắc biết, nên cũng có lúc bị đòn. Rồi đi học bị bạn bè chọc ‘con lai 12 lỗ đít’ cho nên vừa bất mãn mà nhà cũng nghèo quá nên chỉ học được lớp 1, lớp 2 là bỏ học luôn,” chị Nga cười nhớ lại.

Cuộc đời của người con gái lai cứ thế trôi đi trong cảnh nghèo không thể nghèo hơn, “cứ đi làm mướn, đi làm ruộng, gặt, cấy, cho người ta cho đến lớn.”

Rồi “phong trào con lai” bùng lên, nhiều người từ Kiên Giang, An Giang cũng ra tận quê Bình Thuận của chị kiếm con lai “mua” để được đi Mỹ.

“Tôi nhớ lúc đó họ nói đưa cho má một cây vàng trước, rồi chừng nào làm giấy tờ đi được thì đưa thêm một cây. Tôi không chịu. Sau đó tôi để cho họ làm không lấy tiền nhưng phải cho má tôi đi, họ làm giấy tờ ghép hộ gì tùm lum hết. Nhưng rồi đi phỏng vấn rớt, rồi lại làm lại, kéo dài cả bốn năm như vậy nên tôi nói thôi không có muốn đi Mỹ nữa,” chị Nga kể.

Rồi chị quen anh Quế, chồng hiện tại của chị, tình yêu càng khiến chị không muốn rời bỏ mảnh đất đang sống, dù cơ cực, nhọc nhằn.

Chị cười nhớ chuyện xưa, “Lúc đó má nói ‘mày muốn sướng thì kiếm đường mà đi Mỹ, còn muốn cực thì cứ ưng thằng Quế.’ Nhưng rồi do sự quyết định của mình nên thôi không muốn đi Mỹ, ở lại cưới nhau năm 1994.”

Điều may mắn cho chị Nga, như má chị nhận xét, là “Thằng rể tôi nghèo nhưng lòng hắn tốt. Hắn làm mọi thứ để mẹ con tôi được thỏa nguyện. Tôi gặp được ông chồng tốt. Con gái tôi cũng có người chồng tốt, như vậy thì tôi thấy cuộc đời mình thỏa mãn rồi.”

Theo lời chị Nga, “hai vợ chồng phải vất vả bon chen kiếm sống bằng cách đi rẫy, đi núi cưa cây cưa củi bán. Tằn tiện, tích cóp đến cuối năm mới có dư được 5 phân vàng, nhưng cứ có tiền là ông chồng nói để đi vô Sài Gòn kiếm đường làm giấy cho đi Mỹ. Ông cứ làm hết năm này qua năm khác. Lúc đó tôi khóc hoài, nói không có đi đâu hết, nói làm khó khăn, kiếm không ra tiền ăn mà cứ có đồng nào cũng đi Sài Gòn. Nhưng ông vẫn quyết tâm làm. Cuối cùng Chúa cũng cho ông làm được, để rồi hai vợ chồng và đứa con trai lớn được đi Mỹ năm 2000.”

Anh Quế Nguyễn, hiện sống cùng vợ con tại thành phố Omaha, tiểu bang Nebraska, kể thêm, “Ai cũng biết ở Việt Nam rất khổ cực, mà bà xã lại là con lai, không đi được thấy cũng thiệt thòi cho bà nên tôi phải hết sức tìm đường đi. Làm được đồng nào tôi lại lặn lội lên Sài Gòn, tôi dòm tôi ngó, đi hỏi hết người này đến người khác, mà đi tới luật sư nào họ cũng đuổi về vì họ nói đi tìm mà không có hình bóng, giấy tờ gì hết thì như tìm kim đáy bể thôi.”

Lặn lội suốt sáu năm như thế, cho đến một lần anh Quế “gặp may.”

Anh nhớ lại, “Một lần tôi với bà xã sau khi để dành được mấy phân vàng quyết định dắt con vô Sài Gòn, may sao nhờ ‘ông tổng lãnh sự quán’ ở đường Pasteur nhìn thấy bà xã tôi thì ông nói bà xã tôi lai Mỹ. Thế là ông giúp làm giấy cho đi. Cuối cùng thì hai vợ chồng và con tôi được sang Mỹ vào ngày 17 Tháng Mười, 2000.”

Đặt chân đến vùng đất không có một ai thân thích, chị Nga cho rằng mình “may mắn” khi xin được việc làm liền ở một hãng bánh của người Mexico, rồi “làm miết từ đó cho đến Tháng Sáu vừa rồi họ đóng hãng thì tôi mới thất nghiệp ở nhà.” Anh Quế cũng sau vài năm làm ở hãng bánh cùng chị, đã xin được việc làm trong trường học từ hơn 10 năm qua.

Ngoài đứa con trai lớn sanh ở Việt Nam, anh chị còn có thêm một con gái 14 tuổi và một con trai 12 tuổi được sanh tại Mỹ.

Vợ chồng chị Nguyễn Thị Kim Nga, anh Quế Nguyễn cùng ba người con. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)

“Ráng tìm cha cho có người thân nương tựa”

“Trong đời sống lúc vui, lúc buồn tôi đều có trong đầu câu hỏi sao mình sinh ra không biết cha là ai? Tại sao mình không có tình thương của cha?” chị Nga tâm sự bằng chất giọng thật thà, chất phác của người không có quá nhiều cơ hội để nói về những nỗi niềm của mình.

Thêm vào đó là lời nhắn gửi của má chị “con thử đi kiếm coi có tìm được cha không, để còn có người thân nương tựa, vì ở đây mình không có ai là bà con hết.”

Thôi thúc ước muốn được biết cha mình là ai, còn hay mất, nhưng “mình lại không biết gì hết, không biết chữ, không biết viết, cái gì cũng phải nhờ chồng.”

Anh Quế, chồng chị Nga cũng giãi bày, “Tôi biết ước mơ của vợ tôi là tìm được tung tích của người cha có từ mấy chục năm qua. Nhưng mà mình không biết cách nào để tìm hết.”

Nhưng rồi họ lại gặp may.

“Một chị bạn quen tên Minh, cũng là con lai, cũng đi tìm cha. Nhưng tìm rồi mới biết cha đã mất vì tai nạn từ hồi còn ở Việt Nam. Rồi chị hướng dẫn, giúp đỡ tụi tôi tìm. Mọi chuyện chị giúp hết, bắt đầu từ Tháng Mười Hai, 2016, đến Tháng Tư thì tìm được,” chị Nga cho biết.

Theo lời vợ chồng chị Nga, chị Minh chính là người đã tìm được tung tích của ông Gary, liên lạc với ông và gia đình ông, sắp xếp cho mọi người được gặp lại nhau.

Về phần ông Gary, do sức khỏe, nói chuyện khó khăn, nên chị Christine Kimmey, cháu ruột ông Gary, là người thay ông kể chuyện với Người Việt.

Chị cho biết, “Chú Gary đến Việt Nam hai lần, tôi không nhớ chính xác lần đầu là năm nào nhưng lần thứ hai là năm 1967, chú được đưa đến trại Tiên Sa ở Đà Nẵng. Chú làm việc với Seabee’s, đơn vị MCB-8 (Mobile Construction Company-8). Công việc của chú lúc đó là lái xe chạy vòng quanh trại để sửa chữa bảo trì.”

“Thời gian đó cũng là lúc chú Gary gặp cô Chút đang làm công việc rửa xe cho đơn vị đó,” chị Christine nói thêm.

Chị kể, “Tôi nhớ một lần vào năm 1980, khi đó tôi 14 tuổi, dì Linda, vợ chú Gary, nói cho tôi và em gái tôi biết là chú Gary có một đứa con ở Việt Nam. Tôi không biết tại sao dì muốn chúng tôi biết điều đó. Tôi nghĩ có thể đó là một chuyện lạ. Dì Linda mất năm 2006. Dì Linda và chú Gary không có con.”

“Và rồi chuyện này không bao giờ được nhắc đến nữa. Nhưng tôi lại luôn ghi nhớ điều đó trong đầu bởi vì đó là một đứa bé. Chuyện gì đã xảy ra. Dù vậy, chưa bao giờ tôi hỏi chú Gary về điều này. Cho đến một ngày, tôi nhận được tin nhắn trên Facebook của một thám tử chuyên về DNA hỏi tôi có quan hệ họ hàng với ai từng tham chiến ở Việt Nam trong khoảng thời gian năm 1968, 1969 không. Họ nói họ đang giúp một người tìm lại cha đẻ,” chị Christine tiếp tục câu chuyện.

Theo lời cháu ông Gary, mới hai tuần trước khi chị nhận được tin nhắn đó, chị và em gái chị đã có cuộc trò chuyện về gia tộc, và chị có nhắc, “Đừng quên là chú Gary còn một đứa con ở Việt Nam. Em tôi nghe vậy thì nói nó đã hoàn toàn quên béng những gì mà dì Linda đã kể cho chúng tôi nghe từ mấy chục năm về trước.”

“Theo những gì tôi hiểu, tôi nghe, thì người mẹ đó muốn quay trở lại với chú Gary thì cũng không thể vì những ràng buộc của gia đình. Chú Gary cũng không thể mang người phụ nữ đó theo về Mỹ ở thời điểm đó được. Tôi không biết đã có bao giờ chú muốn tìm kiếm lại đứa con của chú chưa, nhưng tôi biết chắc rằng chú luôn nghĩ về đứa con ấy suốt những năm tháng qua. Chú nói điều đó mới đây thôi,” chị Christine chia sẻ bằng tâm tình của người trong gia tộc.

“Lần đầu tiên tôi được gặp cha mình là ngày 15 Tháng Tư, cuộc hội ngộ diễn ra trong bốn ngày. Mừng lắm, cha con đều khóc, vì nào giờ mình cứ ao ước tình thương của cha mà,” người con gái kể bằng giọng xúc động.

Lần thứ hai, gia đình chị Nga lại từ Ohoma bay sang Atlanta thăm cha đúng vào ngày Father’s Day.

“Muốn làm bất ngờ cho ông, nên cả nhà đi qua mà không cho ông biết trước. Đến khi ổng mở cửa thấy vợ chồng con cái mình đứng ở ngoài cửa, ông mừng ông khóc, vì hồi nào giờ ông đâu có con, nên giờ ngay ngày Lễ Cha tụi tôi muốn làm cho ba vui,” chị Nga lại cười sau câu chuyện kể.

Ông Lary, qua điện thoại cũng cố gắng nói với Người Việt bằng giọng yếu ớt, khó nhọc, “Tôi rất rất vui khi được gặp lại con tôi sau mấy mươi năm. Giờ chúng tôi đã là một gia đình. Tôi không ngờ tôi có người con gái xinh đẹp như vậy.”

Ngay thời điểm này, chị Nga đã bay sang chăm sóc cha mình từ hơn ba tuần qua, sau lần ông bị té ngã phải vào bệnh viện.

Má chị cũng từ Việt Nam sang trùng phùng cùng “người yêu” như cách nói của bà.

Bà nói, “Tôi không nghĩ, mà chắc ông Gary cũng không nghĩ có ngày gặp lại như thế này.”

“Giờ gặp lại vui thì rất vui nhưng cũng thấy có chút gì tiếc vì mình tìm ra ông trễ quá. Phải chi gặp lại lúc ông còn khỏe mạnh để có thể chuyện trò, còn giờ ông bệnh, nằm một chỗ, nói nhiều là ông quạu vì ông mệt. Tiếc là tiếc như vậy. Nhưng mà cũng thỏa nguyện vọng rồi,” bà lại cười.

Chị Christine nói, “Đây là một câu chuyện quá là cảm động. Tôi muốn câu chuyện này được nhiều người biết đến, để có thể góp thêm cảm hứng cho những người con lai vẫn đang trong hành trình đi tìm kiếm cha của mình.”

Tôi không biết còn bao nhiêu người con lai nữa vẫn đang khắc khoải trong lòng niềm mơ ước được biết về tung tích của người đã góp phần hình thành nên hình hài của họ.

Tôi cũng không biết còn bao nhiêu người cha nữa còn đang sống, và chờ mong một ngày có đứa con gốc Việt bất ngờ đứng trước mặt mình gọi tiếng “Cha ơi!”

Nhưng, câu chuyện hội ngộ với sự có mặt đầy đủ của những người trong cuộc vừa diễn ra, là một trong những câu chuyện hay nhất mà tôi từng nghe liên quan đến một “hiện tượng có lãng mạn mà cũng có không ít sự đau đớn” trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử quê hương mình.

—-

Liên lạc tác giả: ngoclan@nguoi-viet.com

‘Cuộc đời quá ngắn ngủi’: Mẹ Michelle Võ trải lòng về nỗi đau mất con

‘Cuộc đời quá ngắn ngủi’: Mẹ Michelle Võ trải lòng về nỗi đau mất con

Bà Hana Bùi và con gái thứ ba, Michelle Võ. Michelle Võ thiệt mạng trong vụ xả súng vào một lễ hội nhạc đồng quê ở Las Vegas vào tối Chủ nhật tuần trước. (Ảnh gia đình)

Bà Hana Bùi và con gái thứ ba, Michelle Võ. Michelle Võ thiệt mạng trong vụ xả súng vào một lễ hội nhạc đồng quê ở Las Vegas vào tối Chủ nhật tuần trước. (Ảnh gia đình)

“Sáng sớm ngày thứ Hai khoảng 5-6 giờ sáng thì Cathy ghé nhà cho hay là Michelle bị thương,” bà nói về người con gái thứ ba của mình. “Lúc đó tôi giống như là nghẹt thở vậy.”

Bà biết Michelle bị thương ở vai. Bà thầm hy vọng vết thương không quá nghiêm trọng và sẽ mau lành, nhưng bà vẫn nóng lòng muốn biết cụ thể tình trạng của con gái ra sao.

Những cú điện thoại không người trả lời.

Rồi bà chờ đợi. Con gái, con rể và một số người bạn hối hả đáp máy bay tới thành phố Las Vegas, nơi Michelle đang nằm viện.

Khoảng 11 giờ sáng, bác sĩ tuyên bố Michelle không qua khỏi. Những vết thương của cô quá nặng.

Michelle Võ, 32 tuổi, là một trong 58 người thiệt mạng trong vụ xả súng vào một lễ hội nhạc đồng quê ở Las Vegas vào tối Chủ nhật tuần trước. Đó là vụ xả súng hàng loạt làm chết nhiều người nhất trong lịch sử hiện đại của Mỹ.

Stephen Paddock, 64 tuổi, đã nhả hàng trăm phát đạn từ tầng 32 của khu khách sạn sòng bạc Mandalay Bay gần đó. Michelle bị trúng đạn bên trên ngực trái và được một người bạn mới quen giúp đưa vào bệnh viện.

Hung thủ đã chết trong căn phòng chứa đầy vũ khí của ông ta khi cảnh sát ập vào.

Bà Hana đối diện với nỗi đau đớn mà bà không hề chuẩn bị trước. Nỗi đau đớn càng hiển hiện và day dứt khi câu chuyện của Michelle thu hút sự chú ý của truyền thông toàn quốc và các thành viên trong gia đình trả lời phỏng vấn trong nước mắt.

 

Giờ bà chọn cách giữ cho mình bận bịu tại tiệm cắt tóc Dave’s mà bà làm chủ ở thành phố San Jose, California để tâm trí không bị choáng ngợp bởi bi kịch vừa xảy ra.

Bà tiếp tục chờ đợi. Lần này là điện thoại của bệnh viện báo lúc nào thì gia đình có thể đưa thi thể của Michelle về nhà.

“Trước khi Michelle chết, Michelle có nói với chồng Michelle – hai người lập gia đình khoảng một năm – là Michelle không muốn view (viếng nhìn mặt). Michelle chỉ muốn thiêu,” bà Hana nói với VOA qua điện thoại từ San Jose.

“Cốt thì đem rải tất cả sông, biển, hồ – tất cả những chỗ nào người ta tới du lịch. Không phải riêng sông, biển không nhưng mà Michelle rất thích biển, rồi làm một tang lễ thật lớn ở San Jose. Tại vì Michelle lớn lên ở đây, đi học [trường trung học] Independence ở đây, bạn bè rất là đông.”

Từ khi tin tức về cái chết của cô loan đi vào đầu tuần này, mạng xã hội tràn ngập những lời tiếc thương của bạn bè và gia đình.

“Tôi học cùng trường trung học với Michelle Vo,” một người bạn tên Mekenna Melvin viết trên Facebook. “Suốt bốn năm tôi ngồi cùng lớp, đi trong cùng sảnh và có cùng bạn bè với cô ấy. Cô ấy thông minh lém lỉnh, tử tế, xinh đẹp và đúng là tuýp người nỗ lực nhiều hơn mức trông đợi.”

Sau khi tốt nghiệp trung học năm 2003, cô theo học Đại học California ở Davis và sau đó làm cho một số công ty gần nhà trước khi dọn đến miền nam California làm việc cho công ty bảo hiểm New York Life ở Los Angeles.

Trong một thông cáo gửi cho VOA, Phó chủ tịch công ty bảo hiểm New York Life, viết:

“Giống như mọi người Mỹ, chúng tôi bàng hoàng và đau buồn về thảm kịch khủng khiếp xảy ra ở Las Vegas. Nỗi đau của chúng tôi càng sâu sắc hơn khi biết rằng một thành viên của gia đình New York Life, Michelle Vo, một nhân viên thuộc văn phòng khu vực Pasadena Lớn của chúng tôi, là một trong số những người thiệt mạng. Trong thời điểm khủng khiếp này, chúng tôi dành những suy nghĩ và lời cầu nguyện của mình cho gia đình và những người thân yêu của cô ấy.”

Bà Hana Bùi (giữa) và các con, từ trái, Diane Võ Hawkins, Alex Võ, Cathy Võ Warren và Michelle Võ (Ảnh gia đình)

Bà Hana Bùi (giữa) và các con, từ trái, Diane Võ Hawkins, Alex Võ, Cathy Võ Warren và Michelle Võ (Ảnh gia đình)

Bà Hana cho biết tên tiếng Việt của Michelle là Võ Ngọc Chí Mỹ, một cái tên gắn liền với ước nguyện của bà trong khoảng thời gian khốn khó ở Indonesia trong tư cách người tị nạn sau khi bà vượt biên rời Việt Nam vào năm 1981.

“Thời gian mà Michelle ở Indonesia, tôi có bầu Michelle, thì trên đường muốn đi tới Mỹ nên đã đặt Michelle là Võ Ngọc Chí Mỹ,” bà nói.

Bà cho biết thêm lần cuối cùng mà bà nói chuyện với Michelle là khoảng ba, bốn ngày trước khi cô qua đời. Hai mẹ con đã hẹn nhau sẽ họp mặt gia đình vào ngày thứ Sáu này và cô dự định ở chơi một tuần

“Ngày 6 tây tới San Jose thì ngày 13 đi về dưới Los Angeles lại. Michelle sẽ bay. Tôi có nói là lên đây mẹ con anh em trong gia đình sẽ gặp ở nhà hàng Đại Hàn, thành ra ngày mai trên đây vẫn tổ chức ngay cái chỗ đã hẹn với Michelle, lấy cái hình của Michelle để lên ghế, cho Michelle một ghế ngồi kế mẹ.”

Và khi gia đình tụ họp ngày hôm nay, đó sẽ là dịp để mọi người tưởng nhớ về Michelle như một người con, người em và người chị. Một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất của bà Hana về cô là chuyến đi bộ leo núi của họ với nhau cách đây chừng một tháng, ở phía bắc thành phố San Francisco.

Bà Hana Bùi (phải) và Michelle Võ trong một chuyến đi hiking (Ảnh gia đình)

Bà Hana Bùi (phải) và Michelle Võ trong một chuyến đi hiking (Ảnh gia đình)

“Rất là vui vẻ,” bà chia sẻ. “Michelle nói ‘Con rất là vui thấy mẹ vẫn đi hiking rất là khỏe.’ Michelle thì cứ lo, nói ‘Con không biết mẹ có đi được không, chỗ đó 8 dặm rồi đi vòng vòng vô xa lắm.’ Nhưng mà đi vẫn bình thường vì mỗi chủ nhật tôi vẫn đi hiking. Kỷ niệm đó rất là gần và rất là vui.”

Một chiến dịch kêu gọi quyên góp ủng hộ Michelle và gia đình, do anh rể của cô khởi xướng trên trang GoFundMe, giờ đã vượt quá 50.000 đôla, vượt xa mục tiêu ban đầu của họ là 10.000 đôla.

Bà Hana cho biết một phần số tiền sẽ được trang trải cho chi phí vận chuyển, đám tang và hỏa táng. Số tiền còn lại sẽ được dành để giúp đỡ những người nghèo và những người cần sự giúp đỡ ở Việt Nam, theo lời bà.

Sự ra đi của Michelle để lại nỗi tiếc thương khôn nguôi cho những người thân yêu của cô và có lẽ người thấm thía nỗi đau đó hơn cả là em trai út Alex.

“Sau khi người chị chết rồi thì Alex rất là hối hận,” bà Hana kể.

“Con trai thì không cởi mở. Alex cảm thấy như là mình thấp hơn chị, học cũng thấp hơn, cảm thấy thua sút chị không muốn nói chuyện với chị. Chị Michelle thì rất thương Alex, muốn nói chuyện mà Alex không cho lại gần, gặp thì nói ‘Hi’ thôi rồi đi chứ không nói chuyện. Từ lúc chị Michelle chết tới giờ thì Alex cởi mở hơn, cảm thấy rất là thiếu sót. Những lời nói đã mất rồi không thể nói lại được. Alex có vẻ gần gũi với mẹ hơn, với chị Cathy và chị Diane.”

Bà Hana nói bi kịch của Michelle đã khiến gia đình bà gắn bó hơn, và bà hình dung tương lai sẽ vẫn như vậy.

“Cuộc đời quá ngắn ngủi,” bà nói bằng tiếng Anh, niềm xúc động chực tuôn trào.

Con gái 9 tuổi bị bỏng đến tan chảy khuôn mặt, cha cầu cứu suốt 4 năm và phép màu đã đến

Con gái 9 tuổi bị bỏng đến tan chảy khuôn mặt, cha cầu cứu suốt 4 năm và phép màu đã đến

Cô bé Zubaida Hasan là người Afghanistan, cô sống cùng gia đình trong một ngôi làng hẻo lánh ít người biết đến. Và cuộc đời của cô bé sẽ chẳng bao giờ được đưa lên truyền thông nếu như vào năm 9 tuổi, Zubaida không đổ dầu lên chiếc chảo quá nóng đang đặt trên bếp.

Hành động này của Zubaida đã khiến dầu bốc cháy, lửa bốc lên ngùn ngụt và đau lòng nhất là nó đã thiêu đốt gương mặt xinh đẹp của cô bé mới lớn đến mức không ai nhận ra: da mặt bé chảy xệ xuống tận ngực, chảy đến nỗi nó kéo căng cả miệng và bé không thể khép miệng vào được.

Tai nạn kinh hoàng trong nhà bếp đã cướp đi gương mặt vốn rất xinh đẹp của Zubaida.

Tất nhiên, người thân của Zubaida đã hết lòng chạy chữa. Cha mẹ đã đưa em đi tất cả các bệnh viện ở địa phương nhưng đều không có kết quả khả quan. Vị bác sĩ nào khi nhìn thấy em cũng chỉ thốt lên rằng: “Tôi không thể cứu chữa được… Cô bé còn sống cũng là một phép lạ rồi”.

Tuy nhiên, bỏ ngoài tai mọi sự can ngăn và từ chối, cha của Zubaida vẫn kiên trì tới cùng để không bỏ lỡ cơ hội mang về gương mặt bình thường cho con.

Cha mẹ của cô bé đã rất đau lòng tìm mọi nơi chạy chữa nhưng kết quả vẫn bằng 0.

Thời điểm 1 năm sau vụ tai nạn bỏng kinh hoàng đó cũng là lúc quân đội Mỹ đang chiếm đóng tại Afghanistan. Cha của Zubaida đã quyết định tiếp cận một số lính Mỹ với hy vọng có thể qua đó liên lạc được với thế giới hiện đại bên ngoài, nơi khác xa với sự lạc hậu và nghèo túng ở đây.

Cuối cùng, các binh lính đã giúp ông liên lạc với cán bộ cấp cao trong Chính phủ Mỹ và nhờ liên hệ với bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nổi tiếng thế giới tại Los Angeles, ông Peter Grossman. Bác sĩ đã nhận lời dù không dám chắc liệu trình của ông sẽ làm được tốt nhất cho cô bé Zubaida tội nghiệp.

Cha con Zubaida đã gặp được một bác sĩ người Mỹ chuyên ngành phẫu thuật chỉnh hình.

Zubaida đã bay cùng cha cô bé đến Los Angeles để gặp bác sĩ điều trị. Lần đầu chạm mặt, chính bác sĩ Peter đã phải thừa nhận Zubaida là trường hợp biến dạng tồi tệ nhất mà ông từng gặp. Tuy nhiên, người bác sĩ tốt bụng này vẫn hứa sẽ giúp và còn huy động mọi nguồn lực, tâm huyết để tìm cách giải quyết ca phẫu thuật thẩm mỹ khó khăn này.

Bác sĩ Peter cho biết để lấy lại được khuôn mặt cho Zubaida, mọi người sẽ phải chờ đợi khoảng 3 năm cùng nhiều cuộc chỉnh hình lớn nhỏ. Do vậy, sức kiên trì của cô bé là điều vô cùng quan trọng.

Bác sĩ đã lấy da ở lưng để cấy lên da mặt và chỉnh hình lại gương mặt cho cô bé. Lần nào lên bàn phẫu thuật cũng rất đau đớn nhưng Zubaida đã được bác sĩ động viên, khích lệ tinh thần khiến cô bé tin tưởng vào khả năng lấy lại được gương mặt của mình.

Việc phẫu thuật rất đau đớn nhưng Zubaida đã cố gắng chịu đựng.

Cô bé sau nhiều lần phẫu thuật đã có tiến triển đáng kể.

Trong lúc đó, cha của Zubaida lại không thể ở bên cạnh con gái mà phải trở lại quê nhà, nên cô bé đành ở lại Mỹ một mình. Và cũng thật may mắn khi vợ chồng bác sĩ Peter lại cho bé đến ở nhà mình vì hai người chưa có con. Họ đã coi Zubaida như con gái mình và cho cô bé sự ấm áp, yêu thương của một gia đình thực sự.

Zubaida vừa điều trị vừa tham gia học tiếng Anh để có thể sống và giao tiếp được ở Mỹ. Cô bé đã tham gia học tiếng Anh gần 3 tháng và có thêm những người bạn mới. Với sự giúp đỡ của bác sĩ, Zubaida càng ngày càng cởi mở hơn, cô bé luôn giữ nụ cười trên môi. Bác sĩ Peter Grossman thậm chí còn thay cha cô chúc mừng sinh nhật lần thứ 11 của cô bé với món quà là cuộc giải phẫu lần thứ 10 thành công.

Bác sĩ Peter đã cho cô bé một mái nhà thứ hai để yên tâm điều trị bệnh.

Thành quả cuối cùng cũng tới khi sau 2 năm phẫu thuật chỉnh hình, Zubaida đã tìm lại được khuôn mặt mới. Sau khi nhìn thấy hình ảnh con gái, cha cô bé đã xúc động rơi lệ. Zubaida cũng trở về quê nhà không lâu sau khi cuộc đại phẫu kết thúc. Cô bé đã được bác sĩ Peter mua vé máy bay cho và dặn dò rất kỹ càng.

Cuộc đời của Zubaida đã được thay đổi từ đây.

Cô bé đã gần như lấy lại được khuôn mặt của mình từ hình hài biến dạng đến khó tin trước kia.

Lúc chia tay, bác sĩ đã cố gắng để không khóc, ông còn đùa: “Giờ cháu đã là cô gái xinh đẹp, có thể có bạn trai rồi” và ôm cô bé vào lòng. Cô bé nói: “Bác đúng là thiên sứ đến từ nước Mỹ”.

Về phía gia đình của Zubaida, họ hạnh phúc vô cùng khi con gái mình có thể sống cuộc đời bình thường từ đây. Họ luôn tin rằng bác sĩ là điều kỳ diệu và là món quà trời cho đã tới giúp đỡ họ. Còn bác sĩ Peter và vợ thì lại rất quý Zubaida, họ đã đặt mua một chiếc điện thoại vệ tinh đặc biệt và thường gọi điện hỏi thăm bé mỗi tuần.

Gia đình Zubaida đã nhận được sự quan tâm đặc biệt từ bác sĩ Peter và vợ của ông.

Zubaida đã từng gây bão truyền thông vì sự đặc biệt của mình. Cô bé đã được sinh ra bởi một người cha tuyệt vời và lại được hồi sinh bởi một bác sĩ vô cùng tốt bụng. Cô bé hẳn sẽ biết trân trọng gương mặt của mình và tình yêu thương mà tất cả mọi người đã dành cho bé.

Niềm hạnh phúc vô bờ của gia đình Zubaida khi nhìn thấy gương mặt mới của cô bé.

Đây đúng là kỳ tích và vị bác sĩ kia đúng là phép màu của Zubaida.

Nguồn: Trueactivist

Bác sĩ đỡ đẻ ở Delaware gây thương tật trẻ sơ sinh, bồi thường $3 triệu

Bác sĩ đỡ đẻ ở Delaware gây thương tật trẻ sơ sinh, bồi thường $3 triệu

Bác sĩ Peter Wong. (Hình: Eden Hill Medical Center, Dover, Delaware)

WILMINGTON, Delaware (NV) – Một bồi thẩm đoàn ở Delaware vừa đưa ra quyết định theo đó một bác sĩ sản khoa phải bồi thường $3 triệu vì dùng sức quá mạnh để kéo đầu đứa trẻ khi đỡ đẻ, khiến cánh tay phải của đứa trẻ sơ sinh này bị liệt.

Bản tin của tờ USA Today cho hay đơn kiện năm 2014 tại tòa án ở New Castle County cáo buộc Bác Sĩ Peter Wong, làm việc tại bệnh viện ở thành phố Dover, tiểu bang Delaware, khi đỡ đẻ đã kéo đầu và cổ đứa bé quá mạnh khi tìm cách gỡ phần vai bị kẹt trong bà mẹ.

Điều này khiến dây thần kinh ở vai phải đứa bé bị thương tật vĩnh viễn, theo hồ sơ tại tòa.

Các bác sĩ thần kinh nhi đồng cho hay hệ thống thần kinh ở vai đứa bé có năm dây thì có hai bị đứt đôi và ba dây còn lại bị kéo giãn đến nỗi không còn hoạt động được nữa.

Bác Sĩ Wong cho hay ông không làm điều gì bất cẩn mà đây là các thương tích có trong tiến trình sinh nở, cũng theo USA Today. (V.Giang)

Sao các cháu không đi học mà phải ra vỉa hè ngồi bán rau thế này?

From facebook: Thiên Đức‘s post.
 
Image may contain: 2 people, people sitting
Thiên Đức

-Sao các cháu không đi học mà phải ra vỉa hè ngồi bán rau thế này?
-Dạ cả nhà chúng cháu không có nổi 100 ngàn đồng mua cho cháu bộ đồ mới để đi tựu trường mà nhà trường bắt cha mẹ chúng cháu đóng những hơn 10 triệu đồng cho mỗi đứa thì lấy đâu chúng cháu có cơ hội đến trường nữa chú?
-Các cháu không sợ ông Đoàn Ngọc Hải tới hốt các cháu sao?
-Dạ chúng cháu cũng đang rất mong ông ấy tới hốt chúng cháu đi cho khỏe !
-Sao vậy các cháu?
-Chúng cháu mong được hốt đi ở tù vì ở tù còn có áo quần tù để mặc, có cơm tù để ăn chứ ở nhà chúng cháu rách ruới, bữa đói bữa no khổ lắm chú ạ.
-Thế các cháu có điều gì mong ước?
-Dạ chúng cháu mong được làm con của các “tên đầy tớ” để được ăn ngon mặc đẹp. Đi học bằng xe hơi mát lạnh…sướng lắm chú ạ. Nghe nói ba má chúng cháu là những “ông bà chủ” mà sao khốn nạn đến thế hả chú?
-…hic…hic…
-ủa ủa sao chú khóc???
-…hic…hic…

Chồng đi VN chơi ba tuần, về nghe vợ muốn ly dị liền siết cổ cho chết

 


Bà Michelle tại tiệm Penn Nails

MINNEAPOLIS – Thảm kịch của đời một người làm nail. Những người thân quen và thân chủ của một tiệm làm móng tay ở thị xã Richfield đã bày tỏ sự thương yêu dành cho một phụ nữ vừa bị sát hại. Nạn nhân là chủ tiệm nail và bị chồng giết tại tư gia.

Tony Lê sau khi bị cảnh sát bắt (Hennepin County)

Theo tin của đài WCCO, vào sáng thứ Hai, 25 tháng Chín, 2017, cảnh sát nhận được một cú gọi 911 và liền đến nhà của bà Michelle Lê ở ngoại ô phía nam thành phố Minneapolis.

Vào trong nhà, cảnh sát thấy xác của Michelle Lê nằm cuộn mình trong phòng tắm ở tầng trệt.
Họ đã bắt ông Tony Lê, 55 tuổi, chồng của bà Michelle, 48 tuổi. Vào ngày thứ Ba, 26 tháng Chín, ông Tony Lê bị truy tố tội sát nhân với mức nghiêm trọng ở cấp bậc thứ hai.


Bà Michelle Lê (WCCO)

Cặp vợ chồng này đã sống với nhau được 20 năm. Cảnh sát nói rằng bà Michelle Lê bị siết cổ chết bằng dây điện thoại.

Người gọi số 911 chính là ông Tony Lê. Cảnh sát rằng ông Tony Lê mới trở lại Minnesota sau ba tuần đi “vacation” ở Việt Nam. Ông đã nổi nóng khi nghe vợ đã làm đơn ly dị.


Ông Tony Lê bị bắt ngày thứ Hai, sau khi giết bà Michelle ở trong nhà của họ tại Minneapolis, Minnesota. (WCCO)

Ông Tony có nói với cảnh sát rằng hôn nhân của họ đang có khó khăn. Và sau chuyến đi Việt Nam thì ông đã nổi nóng khi nghe vợ đã làm đơn ly dị.

Người chồng này kể với cảnh sát rằng vào sáng sớm thứ Hai, ông đã đợi cho đến 3 hoặc 4 giờ sáng để chờ vợ về. Sau đó hai người đã cãi nhau kịch liệt.

Tony Lê nói rằng ông đi theo vợ vào phòng tắm, nơi mà ông dùng dây điện thoại để siết cổ vợ từ đằng sau lưng, trong lúc bà Michelle chống cự mãnh liệt.
Sau khi vợ bị nghẹt thở, ông gọi số 911. Ban đầu ông nói ông không biết tại sao vợ chết.
Khi cảnh sát đến nhà vào lúc 9 giờ sáng, ông đã mở cửa đón họ và nói “vợ tôi đã chết.”
Sau khi bị bắt, ông mới thú thật rằng ông đã giết bà Michelle.

Hai con trai đã lớn của họ và những người bạn của gia đình cũng cho biết trong thời gian gần đây Michelle Lê đã nói với chồng rằng bà muốn ly dị.


Các thân chủ chụp hình lưu niệm tại tiệm Penn Nails ở Richfield. (Facebook)

Tại tiệm nail, nhiều thân chủ nói rằng họ quí mến bà Michelle rất nhiều, không phải chỉ vì bà phục vụ họ tận tâm.

Bà Karen Stone nói với đài truyền hình WCCO ngày thứ Ba, “Tôi sẽ thương nhớ bà ấy rất lâu. Bà không chỉ là một người làm móng, mà còn là một người bạn tốt.”
Như một số thân chủ của Michelle Lê, bà Karen Stone đã đi theo bà Michelle từ tiệm nail này đến tiệm nail khác, và cuối cùng là tại Penn Nails và Spa ở Richfield, nơi mà Michelle Lê đã mua và làm chủ năm năm trước.


Hình bên ngoài tiệm Penn Nails ở Richfield đăng trên Facebook của tiệm.

“Tôi rất đau buồn,” bà Karn Stone nói. “Tôi đã quen Michelle suốt 17 năm. Tôi đã từng ăn tối ở nhà bà ấy.”
Bà Stone không là người duy nhất nói về khiếu nấu ăn món Việt Nam của bà Michelle Lê, và tình thương yêu mà bà Michelle đã dành cho hai con trai ở tuổi mới trưởng thành.
Vào ngày thứ Ba, bà Barb Gellatly, một thân chủ lâu năm của Michelle, đã nhận trách nhiệm làm việc ở quày tiếp khách.

Bà Barb nói với đài WCCO về việc đứng tiếp khách ở tiệm Penn Nails, “Đây là vinh dự. Tôi rất hân hạnh được giúp đỡ bà Michelle.”

Ông Charles Parsons, một cựu chiến binh từ thời chiến Việt Nam, cho biết ông từng được bà Michelle Lê trợ giúp với đôi chân bị đau của ông. Cựu chiến binh này kể rằng hai người thường trao đổi những mẩu chuyện về Việt Nam.

“Bà ấy là một trong những người rất đặc biệt. Bạn không thể nào quên,” ông Charles Parsons nói. “Thật đáng buồn khi bà ấy không còn ở đây với chúng ta nữa.”

Bà Michelle Lê từng tâm sự với vài thân chủ là bà có vấn đề khó khăn trong hôn nhân.
Ba ngày trước khi bị chồng giết, bà có ghé văn phòng của một luật sư chuyên về ly dị. Thế nhưng đối với những ai từng biết ông Tony Lê, họ đã kinh ngạc khi hay tin ông đã giết vợ.

“Thật không thể ngờ,” bà Barb Gellatly nói. “Làm sao mà chuyện đó có thể xảy ra?”
Tại tiệm nail, nhiều người đã mang hóa đến phúng điếu. Họ tạo một bàn thờ nhỏ theo nghi thức Phật giáo.
Các thân chủ nói rằng họ sẽ vận động để giúp gia đình điều hành tiệm móng tay, vì họ tin rằng bà Michelle Lê muốn tiệm được duy trì.

Tổng thống Trump và phu nhân sẽ tới VN dự APEC

From facebook: Phan Thị Hồng‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, standing and suit
Phan Thị Hồng

1 hr · 

 

Tổng thống Trump và phu nhân sẽ tới VN dự APEC

Ảnh: Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ thăm 5 quốc gia châu Á trong tháng 11. Bản quyền hình ảnh REUTERS

Tổng thống Mỹ Donald Trump loan báo thăm 5 quốc gia châu Á trong tháng 11, trong đó có chặng dừng tại Việt Nam dự hội nghị APEC.

Nhà Trắng cho hay hôm thứ Sáu rằng ông Trump sẽ thăm Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam và Philippines từ 3 đến 14/11.

Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ thúc đẩy nghị trình thương mại của ông tại APEC ở Việt Nam và hội nghị ASEAN ở Philippines.

Theo BBC

Cảnh giác nước dừa ngon ngọt

 From facebook:  shared Biên Hòa – Đồng Nai‘s post.
 
Image may contain: one or more people, motorcycle, tree and outdoor

 
Biên Hòa – Đồng Nai added a photo and a video — in Biên Hòa.

 

⛔️ Cảnh giác nước dừa ngon ngọt

Thông tin do bạn “Huỳnh Giang” chia sẻ: Sáng bảnh mắt ngồi ngoài đường thấy xe ba gác bán dừa tươi đậu dưới lòng đường Nguyễn Thị Minh Khai, lạ một điều anh bán dừa cứ thập thò ngó trước ngó sau. Quan sát một hồi mới vỡ lẽ là kế bịch ống hút có một bịch nylon đen bọc một chai nước suối, trong chai nước suối là hóa chất, chai này cắm sẵn cái ống hút. Kết quả là ai mua dừa chặt sẵn sẽ được khuyến mãi hóa chất từ cái ống hút vào trái dừa. Ảnh làm điêu luyện hơn nghệ sĩ ảo thuật nên mua rần rần mà chẳng ai biết.Thấy bực quá phải đến mua một trái 12k và hỏi ảnh ở đâu đến bán, ảnh nói ảnh Bến Tre lên bán. Mình hỏi cái chai trong bọc đen đựng cái gì? Đưa đây, thì ảnh chối và tìm cách đổ bỏ phi tang..   

Cỗ xe tăng Đức lừ lừ áp sát khung thành và sút!

 
 
From facebook:  Trần Bang 

Cỗ xe tăng Đức lừ lừ áp sát khung thành và sút!

Thoibao.de:
Đức từ chối cấp Visa cho đoàn công tác nhà nước,
Và tạm ngưng cấp Visa cho du học sinh VN vào Đức!

“Sau khi phía Đức nhận được từ Việt Nam thư trả lời về vụ việc ông Trịnh Xuân Thanh, nội các chính phủ nước này đã có cuộc họp và đi đến nhất trí đưa ra quyết định hôm 22.9 tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược giữa Đức và Việt Nam, đồng thời trục xuất thêm 1 cán bộ ngoại giao tại Đại sứ quán Việt Nam ở Berlin.

Cùng ngày Đại sứ quán Đức ở Hà Nội đã lập tức phổ biến trên trang web và Faecebook của mình Thông cáo báo chí của Bộ Ngoại Đức về những quyết định kể trên.

Các nước trong Liên minh châu Âu (EU) cũng đã bắt đầu đồng hành với nước Đức. Gần như đồng loạt, Đại sứ quán các nước EU như Pháp, Bỉ, Hà Lan, Ý, Thụy Điển đã đăng trên Facebook của mình bản Thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Đức để ủng hộ tuyên bố này của Chính phủ Đức.”

Người Việt trong và ngoài nước bàng hoàng vì quyết định cứng rắn này đã được Bộ Ngoại giao Đức đưa ra chỉ 2 ngày trước bầu cử, điều đó nói lên quyết tâm của nước này đã thực hiện đúng lời tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Gabriel đưa ra trước đó đối với Việt Nam: „Chúng tôi không thể dung thứ và sẽ không dung thứ.“

Biện pháp hạ mức quan hệ ngoại giao này lập tức đã có tác động ngay tới các giao thương giữa hai nước khi đoàn công tác tới gần 20 người với vị Chủ tịch một tỉnh lớn ở miền bắc Việt Nam bị phía Đức từ chối cấp Visa sang công tác vào dịp cuối tháng 9, các kế hoạch gặp gỡ đối tác Đức của tỉnh này đã phải hủy gấp.

Hội nghị giới thiệu, kêu gọi đầu tư để tạo việc làm cho nhân dân tỉnh nhà tại Việt Haus Berlin vào ngày 2.10 sắp tới cũng không thể tiến hành như dự định.

Giới sinh viên, học sinh đang du học và lao động Việt Nam đang làm việc tại Đức cũng đang xôn xao lo lắng, không biết tình trạng căng thẳng quan hệ giữa hai nước căng thẳng như trên có làm ảnh hưởng đến công việc cũng như tình trạng cư trú của họ hay không?

Bên cạnh đó, lịch đăng ký phỏng vấn xin Visa cho thời gian cư trú trên 90 ngày (du học, học nghề và làm việc) cũng bị đóng băng ít nhất tới hết tháng 01.2018 mà không có lời giải thích nào.

Có thể thấy, do cuộc khủng hoảng ngoại giao kéo dài giữa 2 nước, nhiều sinh viên học sinh đang chuẩn bị xin thị thực đến Đức sẽ ít nhiều gặp trở ngại trong quá trình xin Visa. Đây là một thiệt thòi lớn cho thế hệ trẻ, sinh viên học sinh Việt Nam đang muốn đăng ký du học hoặc học nghề tại CHLB Đức.

Tại Berlin, nhiều doanh nghiệp kiều bào tỏ rõ lo lắng với các khoản mà họ đã đầu tư về Việt Nam và cho biết ´´ Chúng tôi đang rút dần khỏi Việt Nam để đầu tư ngay tại châu Âu cho an toàn´´, các tín hiệu xấu ngày càng hiện rõ với nhiều khó khăn trong thời gian tới, việc bất ổn về ngoại giao do vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh ở Berlin đã dẫn đến khủng hoảng niềm tin đối với vài lãnh tụ cổ hủ, không còn thích hợp cho nền chính trị Việt Nam đang cần sự đổi mới toàn diện với một nhà nước pháp quyền để có thể giúp đất nước đủ năng lực hợp tác quốc tế và cạnh tranh với thế giới…

http://thoibao.de/…/duc-tu-choi-cap-visa-cho-doan-cong-tac-…

No automatic alt text available.
 

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

  • Điều đình ngoài luật: Bài học từ cộng đồng tị nạn Nicaragua
  • Cơ hội để giúp “dân oan” ở Việt Nam

  • Công thức áp dụng cho người Việt ở các quốc gia khác

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 25 tháng 9, 2017

http://machsongmedia.com

Ngoài con đường kiện ra toà và con đường giải quyết hành chính của Uỷ Hội FCSC, chúng tôi còn thực hiện con đường thứ ba: điều đình trực tiếp giữa nạn nhân và chế độ đã cưỡng đoạt tài sản, với sự theo dõi và hỗ trợ của chính quyền Hoa Kỳ.  Con đường này có những lợi điểm sau đây:

(1)    Các hồ sơ không hội đủ tiêu chuẩn cho 2 con đường đầu tiên có thể được giải quyết qua điều đình;

(2)    Chúng tôi có thể đưa vào cuộc điều đình một số điều kiện liên quan đến người dân ở Việt Nam;

(3)    Con đường này có thể làm khuôn mẫu cho các người Việt có quốc tịch Canada, Đức, Pháp, Úc… muốn đòi bồi thường tài sản.

Muốn chính quyền Việt Nam ngồi vào bàn điều đình, chúng tôi sẽ phải chứng minh rằng đấy là con đường ít tại hại và ít rủi ro nhất họ.  BPSOS đã bắt đầu công cuộc này vào cuối tháng 7 vừa qua, qua việc đánh chặn thoả thuận giữa tiểu bang Virginia và 6 tỉnh thành Việt Nam. Tuần này, chúng tôi nới rộng nó ra toàn quốc và leo thang lên cấp liên bang.

Phương thức điều đình để đòi bồi thường tài sản không là điều mới lạ. Cách đây 20 năm, cộng đồng tị nạn Nicaragua ở Hoa Kỳ đã thành công trong việc ép chính quyền Nicaragua phải bồi thường trên 1 tỉ Mỹ kim tại bàn điều đình. Họ đã chọn con đường điều đình vì có đến 2/3 số tài sản thuộc các người tị nạn Nicaragua chưa là công dân khi bị tịch thu.

 

Nhiều công ty doanh nghiệp Việt Nam và hợp doanh với ngoại quốc đang sử dụng tài sản do chính quyền cưỡng đoạt của công dân Hoa Kỳ gốc Việt (ảnh BPSOS)

Tấm gương Nicaragua

Năm 1979 nhóm kháng chiến quân Sandinista cướp chính quyền ở Nicaragua và lập tức quốc hữu hoá tài sản của các người có “máu mặt”. Trong đó có gần 5 nghìn tài sản của công dân Hoa Kỳ, và 23,000 của người Nicaragua. Ngay sau khi nhóm Sandinista lên nắm chính quyền, khoảng 20 nghìn người Nicaragua bỏ nước đến Hoa Kỳ tị nạn. Trong 10 năm sau đó, có thêm khoảng 100 nghìn người Nicaragua định cư Hoa Kỳ. Theo cuộc kiểm tra dân số gần đây nhất, năm 2010 dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ là 348 nghìn, bằng ¼ dân số người Việt ở Hoa Kỳ. Trong số người tị nạn Nicaragua, có khoảng 10 nghìn trường hợp bị chính quyền Sandinista tịch thu tài sản.

Tuy với dân số ít và hãy còn chân ướt chân ráo ở Hoa Kỳ, cộng đồng tị nạn Nicaragua đã vận động mạnh mẽ và hiệu quả. Trong những năm 1990, Hành Pháp Bill Clinton thương thảo với Việt Nam về thiết lập bang giao và lờ đi việc bồi thường tài sản cho người Mỹ gốc Việt, nhưng lại áp lực chính quyền Nicaragua bồi thường tài sản đã tịch thu của các người Nicaragua đang ti nạn ở Hoa Kỳ. Điểm cần lưu ý là, không như trường hợp ở Việt Nam, chính quyền Sandinista quốc hữu hoá ngay tất cả các tài sản mà họ tịch thu. Do đó, hầu như không người tị nạn Nicaragua nào có quốc tịch Hoa Kỳ khi bị mất tài sản. Thành ra, Uỷ Hội FCSC không thể can thiệp.

Cộng đồng Nicaragua tị nạn đã chọn giải pháp là vận động cả Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ  đe doạ trừng phạt nặng nề, bao gồm cúp viện trợ, ngưng phát triển mậu dịch và chặn mọi khoản vay của Ngân Hàng Thế Giới … nếu chính quyền Nicaragua không chịu giải quyết các đòi hỏi bồi thường tài sản của người tị nạn gốc Nicaragua. Để tăng áp lực, năm 1995 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua luật cho phép Hành Pháp trừng phạt Nicaragua nếu chậm trễ trong việc bồi thường.

Dưới áp lực ngày càng leo thang, chính quyền Nicaragua đồng ý ngồi vào bàn điều đình với toán đại diện cho các người tị nạn Nicaragua có hồ sơ đòi bồi thường. Cuộc điều đình diễn ra dưới sự quan sát chặt chẽ của Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ. Tiến trình điều đình đến đâu bồi thường đến đó kéo dài 20 năm. Tháng 8 năm 2015, chính quyền Nicaragua giải quyết việc bồi thường cho hồ sơ cuối cùng của người tị nạn Nicaragua. Tổng cộng số tiền bồi thường vượt trên 1 tỉ Mỹ kim. Xem tường trình của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về việc này: https://www.state.gov/e/eb/rls/othr/ics/2016/wha/254545.htm

Người tị nạn Nicaragua đã thành công vì họ không chỉ dốc sức vận động mà còn khôn khéo nhờ cộng đồng bạn là người Mỹ gốc Cuba, vốn có kinh nghiệm về đòi bồi thường tài sản, yểm trợ. Đó là bài học cho chúng ta. Cộng đồng tị nạn Nicaragua ít ỏi hơn chúng ta, mới mẻ hơn chúng ta nhưng đã gặt hái kết quả nhờ làm đúng cách.

Con đường thứ ba cho công dân Hoa Kỳ gốc Việt

Cộng đồng người Việt tị nạn có nhiều lợi thế hơn cộng đồng tị nạn Nicaragua. Thứ nhất, dân số người  Việt đông gấp hơn 4 lần dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ; trên nguyên tắc cộng đồng Mỹ gốc Việt phải có nhiều ảnh hưởng đối với chính giới Hoa Kỳ hơn hẳng cộng đồng Nicaragua tị nạn. Thứ hai, tuyệt đại đa số tài sản của người  Mỹ gốc Việt hội đủ tiêu chuẩn để được phán quyết bởi Uỷ Hội FCSC. Không như Nicaragua, chính quyền Việt Nam đã không quốc hữu hoá ngay các tài sản của người bỏ nước ra đi mà chỉ quản lý tạm thời; mãi sau này họ mới có chính sách quốc hữu hoá. Lúc ấy thì tuyệt đại đa số người Việt tị nạn và di dân đã trở thành công dân Hoa Kỳ.

Theo ước lượng của chúng tôi, khoảng 50% tổng số hồ sơ của người Mỹ gốc Việt có thể giải quyết qua con đường phán quyết của Uỷ Hội FCSC và 20% có thể điều kiện để kiện ra toà. Nghĩa là 30% tổng số hồ sơ chỉ có thể giải quyết bằng con đường thứ ba.

Ngoài ra, thể thức điều đình tạo cơ hội để hai bên thương lượng. Chẳng hạn, chúng tôi có thể đặt điều kiện là chính quyền Việt Nam phải đình chỉ các lệnh cưỡng chế đất đai ở Việt Nam cho đến khi hai bên cùng thoả mãn rằng tài sản của công dân Hoa Kỳ sẽ không bị xâm phạm. Nhắc lại, mọi vùng đất ở Việt Nam, kể cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc, đều có thể có tài sản của công dân Hoa Kỳ lẫn trong đó, tương tự trường hợp của Giáo Xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng.  Bởi vậy, mỗi lệnh cưỡng chế đều phải đi kèm với thủ tục loan báo ở Hoa Kỳ, và cho đủ thời gian để mọi công dân Hoa Kỳ có thể lên tiếng nếu bị ảnh hưởng. Khi ấy, chính quyền Việt Nam phải bảo đảm mức bồi thường cho công dân Hoa Kỳ sẽ tuân theo công thức của Hoa Kỳ hay quốc tế chứ không tuỳ tiện như hiện nay. Nếu vậy, chính quyền cũng sẽ phải áp dụng cùng mức bồi thường cho mọi người dân trong khu đất bị cưỡng chế. Trên đây một ví dụ về các điều kiện có thể đưa ra tại bàn điều đình và chỉ tại bàn điều đình chứ không thể tại toà án hay với Uỷ Hội FCSC.

Các giai đoạn của cuộc vận động

Cuộc vận động cho giải pháp điều đình sẽ được tiến hành song song với các vụ kiện ra toà và cuộc vận động Uỷ Hội FCSC mở chương trình cho người Mỹ gốc Việt. Cuộc vận động này gồm có:

(1)    Vận động cắt viện trợ, chặn chương trình vay vốn quốc tế cho Việt Nam:

Luật pháp Hoa Kỳ có những biện pháp trừng phạt mạnh mẽ đối với quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Một trong những luật này là Tu Chính Án Helms (Helms Amendment) được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 30 tháng 4, 1994. Tu Chính Án này do Thượng Nghị Sĩ Jesse Helms (Cộng Hoà, North Carolina) đề xướng. Ngôn ngữ của Tu Chính Án Helms:  http://uscode.house.gov/view.xhtml?req=(title:22%20section:2370a%20edition:prelim

Theo đó, Bộ Ngoại Giao phải phúc trình hàng năm cho Quốc Hội danh sách các trường hợp tài sản của công dân Hoa Kỳ bị cưỡng đoạt ở từng quốc gia và nỗ lực phối hợp giữa Hoa Kỳ và quốc gia ấy để giải quyết các đòi hỏi bồi thường của công dân Hoa Kỳ.

Luật này đòi hỏi Tổng Thống Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho quốc gia nào không bồi thường công dân Hoa Kỳ cho các tài sản bị họ tịch thu mà được nêu lên trong bản phúc trình của Bộ Ngoại Giao. Không những vậy, Tổng Thống còn phải chỉ định đại diện của Hoa Kỳ tại các định chế tài chính và ngân hàng quốc tế ngăn chặn không cho quốc gia ấy vay vốn.

Cuộc vận động này bắt đầu trong tuần này. Chúng tôi sẽ phối hợp các “khổ chủ” mà chúng tôi đang có hồ sơ để liên lạc và yêu cầu các dân biểu và thượng nghị sĩ của họ đòi hỏi Hành Pháp Trump thực thi Tu Chính Án Helms.

(2)    Đẩy lùi nỗ lực của Việt Nam để xin đặc quyền mậu dịch:

Luật Mâu Dịch (Trade Act of 1974) của Hoa Kỳ ngăn cản Tổng Thống không được cấp những đặc quyền thuế quan cho các quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Xem:  https://fas.org/sgp/crs/misc/RL33663.pdf

Trước khi tham gia cuộc thương thảo Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, hay TPP), Việt Nam ráo riết vận động Hoa Kỳ cho hưởng Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Tổng Quát Hoá (Generalized System of Preferences, hay GSP) để được giảm thuế đánh lên các mặt hàng xuất cảng vào Hoa Kỳ. Nay Tổng Thống Trump đã rút Hoa Kỳ khỏi TPP, Việt Nam đang quay trở lại vận động các đặc quyền mậu dịch song phương với Hoa Kỳ.

Nếu Việt Nam không chứng tỏ là họ chấp nhận bồi thường hoặc điều đình việc bồi thường, họ sẽ không thể xin xỏ các đặc quyền về thuế quan. Chúng tôi bắt đầu xúc tiến nỗ lực này vào cuối tháng 6 vừa qua.

(3)    Đánh chặn mọi nỗ lực đi cửa sau của Việt Nam để thu hút mậu dịch và đầu tư:

Bị sa lầy về cả GSP lẫn TPP, chế độ ở Việt Nam đã mở đường đối tác theo công thức kết nghĩa chị em giữa các thành phố Hoa Kỳ và Việt Nam. Gần đây, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đạt được thoả thuận thư giữa 6 tỉnh thành Việt Nam với chính quyền Virginia về đầu tư và mậu dịch. Đây có thể xem như bước đột phá để mở đường cho các thoả thuận tương tự với nhiều tiểu bang khác của Hoa Kỳ.

Cuối tháng 7, chúng tôi đã thực hiện cuộc đánh chặn thoả thuận này bằng cách yêu cầu Thống Đốc và Quốc Hội Virginia đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng tài sản của người Mỹ gốc Việt sinh sống tại Virginia trước đã. Cuộc đánh chặn này được một số dân biểu và thượng nghị sĩ tiểu bang hậu thuẫn. Mục đích của chúng tôi là cho chế độ ở Việt Nam thấy mọi nỗ lực đi cửa sau của họ sẽ vấp phải chướng ngại là số tài sản của công dân Hoa Kỳ mà họ đã cưỡng đoạt không bồi thường.

Chúng tôi đang theo dõi những nỗ lực đi cửa sau tương tự ở các thành phố và tiểu bang Hoa Kỳ để sẵn sàng đánh chặn.

(4)    Lôi cuốn sự quan tâm của những doanh nhân và nhà đầu tư Hoa Kỳ:

Cuối tháng 7 BPSOS đã gửi đến tất cả các phòng thương mại trong tiểu bang Virginia thông tin về tình trạng cưỡng đoạt không bồi thường tài sản của công dân Hoa Kỳ. Trong những tháng tới đây, chúng tôi sẽ tuần tự gửi thông tin đến các phòng thương mại ở từng tiểu bang Hoa Kỳ, cho đủ 50 tiểu bang.

Chúng tôi cũng khai thác mọi cơ hội để nêu lên tình trạng chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Chẳng hạn, trong số 8 danh sách mà chúng tôi đề nghị trừng phạt theo Luật Magnitsky Toàn Cầu, có trường hợp thành phố Đà Nẵng đã xâm phạm tài sản của 12 công dân Hoa Kỳ.

Tại sao chế độ ở trong nước chấp nhận điều đình?

Chính quyền Việt Nam sẽ chỉ chấp nhận ngồi vào bàn điều đình khi hiểu ra rằng nếu không điều đình thì sẽ bị thiệt hại nhiều hơn.

Trước hết, họ sẽ không muốn ra hầu toà vì sợ bị đối chất về yếu tố bạo tàn lồng trong chính sách cưỡng đoạt tài sản: bắt người đi tập trung cải tạo, đuổi người đi kinh tế mới, xoá trắng cả một cộng đồng bản địa hay tôn giáo, tra tấn, đánh đập, bỏ tù, sát hại… Khi yếu tố bạo tàn này bị phanh phui trước toà, nó không những trở thành một vế nhơ lớn cho chế độ về mặt dư luận, mà còn tăng rủi ro bị toà áp đặt mức phạt gấp 3 lần trị giá của tài sản phải bồi thường. Điều này đã xảy ra cho chính quyền Cuba trong vụ kiện của Ông Gustavo Villoldo, người Mỹ gốc Cuba, năm 2008 toà tiểu bang Florida phán quyết Cuba phải trả gấp 3 lần trị giá tài sản mà họ đã tịch thu, tổng cộng lên đến 1.2 tỉ Mỹ kim.

Chế độ ở Việt Nam cũng không muốn bị rơi vào thế bó tay trước các phán quyết của Uỷ Hội FCSC. Họ đã có kinh nghiệm không vui ấy khi năm 1986 Uỷ Hội FCSC đơn phương phán quyết Việt Nam phải bồi thường cho 192 hồ sơ người Mỹ bị cưỡng đoạt tài sản năm 1975. Năm 1995 Việt Nam đã phải chấp nhận bồi thường số tiền trên 208 triệu Mỹ kim mà không được phép phản bác, phân trần, giải thích hay kháng cáo. Thiếu hợp tác thì sẽ bị trừng phạt về mậu dịch, viện trợ và vay vốn các ngân hàng quốc tế.

Cộng vào đó là cuộc vận động đánh chặn mọi toan tính đi cửa sau, có thể ảnh hưởng đến nỗ lực của chính quyền Việt Nam nhằm đạt mức 6.7% về tăng trưởng kinh tế. Nay TPP không còn và thương ước mậu dịch tự do Liên Âu – Việt Nam bị đẩy lùi, chế độ ở Việt Nam sẽ cân nhắc việc ngồi vào bàn điều đình để giảm tổn hại. Điều kiện tiên quyết của họ, nếu có điều đình, chắc chắn sẽ là đình chỉ các vụ kiện và con đường giải quyết theo Uỷ Hội FCSC. Đấy sẽ là điều mà chúng tôi cùng với toán luật sư tư vấn sẽ phải cân nhắc.

Người Việt ở các quốc gia khác có thể đòi bồi thường?

Trong thời gian qua, chúng tôi đã nhận được email của nhiều đồng hương ở Canada, Pháp, Đức và Úc hỏi về cách thức để đòi bồi thường tài sản đã bị chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt. Dĩ nhiên, luật pháp Hoa Kỳ chỉ binh vực và can thiệp cho lợi ích của công dân Hoa Kỳ. Và có lẽ Hoa Kỳ có luật mạnh mẽ nhất để bảo vệ tài sản của công dân.

Chúng tôi không rõ luật pháp của các quốc gia khác về bảo vệ tài sản của công dân. Ngay dù một quốc gia không có luật bảo vệ tài sản công dân, nạn nhân bị cưỡng đoạt tài sản vẫn có thể đòi hỏi chính quyền của mình can thiệp và ép chế độ ở Việt Nam phải điều đình việc bồi thường. Bảo vệ tài sản của công dân là trách nhiệm đương nhiên của một chính quyền dân chủ, và được ghi đúc trong Điều 17 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền viết:

(1)    Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.

(2)    Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách tuỳ tiện.

Chính quyền của quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc không những phải tôn trọng mà còn phải bảo vệ quyền này của công dân. Do đó, khi công dân bị một quốc gia khác xâm phạm tài sản, chính quyền có nghĩa vụ phải can thiệp. Hơn nữa, cưỡng đoạt tài sản của công dân một quốc gia khác là vi phạm những cam kết quốc tế giữa các quốc gia thành viên của LHQ với nhau. Công pháp quốc tế đã đề ra một số nguyên tắc để ngăn chặn sự vi phạm ấy: nguyên tắc không kỳ thị, nguyên tắc “vì công ích”, nguyên tắc bồi thường đầy đủ… Tuy nhiên, chính quyền sẽ không tự động can thiệp nếu họ không được thuyết phục rằng một số đông công dân đã bị xâm phạm tài sản khi đã là công dân.

Trước khi vận động chính quyền sở tại, bước chuẩn bị là thu gom hồ sơ. Lý tưởng là có khoảng 100 trở lên và “khổ chủ” đã là công dân của quốc gia sở tại khi tài sản bị quốc hữu hoá. Trong một bài trước tôi đã giải thích là nhà, đất của những người bỏ nước ra chỉ bị quản lý tạm thời bởi nhà nước. Đến cuối năm 1991 mới có quyết định của chính phủ là nhà, đất đang được quản lý đều trở thành tài sản của nhà nước; tuy nhiên việc thực hiện quyết định này rất tuỳ tiện và qua loa. Mãi đến năm 2003, Quốc Hội Việt Nam mới ra nghị quyết yêu cầu Uỷ Ban Nhân Dân các cấp tỉnh, thành phải hoàn tất việc quốc hữu hoá các tài sản do nhà nước quan lý tạm thời. Thời hạn thự thi là từ tháng 10, 2005 đến cuối tháng 6, 2009. Năm 1991, nhiều người Việt đã trở thành công dân của các quốc gia định cư. Trong khoảng thời gian 2005 – 2009, phần lớn người tị nạn và di dân Việt Nam đều đã là công dân của các quốc gia định cư.

Đối với các đồng hương ở Pháp, Canada, Đức, Úc và những quốc gia khác nữa, tôi đề nghị những người có hồ sơ đòi bồi thường tài sản phối hợp với nhau theo quốc gia.  Mỗi nhóm phối hợp cần bắt tay ngay vào việc phổ biến thông tin và thu thập hồ sơ, đồng thời nghiên cứu luật pháp và chính sách ở quốc gia mình về bảo vệ tài sản của công dân. BPSOS sẽ làm việc trực tiếp với các nhóm này để cập nhật thông tin và phối hợp hành động. Trong trường hợp chưa có nhóm phối hợp, đồng hương vẫn có thể gửi hồ sơ đến cho BPSOS qua email: taisan@bpsos.org. Chúng tôi sẽ lưu giữ hồ sơ và chuyển cho nhóm phối hợp khi được hình thành và nếu có sự đồng ý của chủ nhân của hồ sơ.

Con đường vận động sẽ không đơn giản. Tuy nhiên, nếu đi sau cuộc vận động ở Hoa Kỳ một bước thì có thể sẽ nhẹ đi gánh nặng nghiên cứu hồ sơ và nghiên cứu luật và thể thức quốc tế. Việc vận động cũng có thể sẽ nhẹ đi sau khi cuộc vận động của chúng tôi ở Hoa Kỳ tạo ra tiền lệ.

Lời kêu gọi

Cuộc vận động chính giới Hoa Kỳ cho giải pháp điều đình sẽ đòi hỏi một lượng lớn hồ sơ rải ra ở nhiều tiểu bang, thành phố, và địa hạt cử tri. Chúng tôi do đó rất cần sự hợp tác của đồng hương ở trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Quý vị nào có hồ sơ đòi tài sản, xin liên lác với chúng tôi qua email: taisan@bpsos.orghay qua số điện thoại: 703-538-2190. Dù không có hồ sơ, xin quý vị giúp chúng tôi chuyển thông tin này đến những người quen có hồ sơ.     Xin cảm ơn.

Các thông tin về Chương Trình Đòi Tài Sản của BPSOS được lưu trữ tại: http://www.doitaisan.org

Bài liên quan:

Đòi bồi thường tài sản: Khi nào chính quyền Hoa Kỳ can thiệp?
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1254-2017-09-19-16-01-56.html

Công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản: thể thức phán quyết hành chính
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1250-2017-09-11-01-10-19.html

BPSOS công bố chương trình công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1245-2017-08-30-22-18-18.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Khai thác luật Hoa Kỳ
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1246-2017-08-31-04-16-57.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Thế kẹt của chính quyền khi bị kiện
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1247-2017-09-01-17-16-30.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Người ở trong nước có thể tiếp tay
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1248-2017-09-05-01-10-13.html