Mẹ của tử tù Hồ Duy Hải trước trụ sở của Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan kêu cứu cho con

 

 
 
-0:06
 

 
 

 
 
24,841 Views
 
Hiện Tình Đất Nước

Mẹ của tử tù Hồ Duy Hải trước trụ sở của Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan kêu cứu cho con :'( :'( :'(

Bà Nguyễn Thị Loan, mẹ của tử tù Hồ Duy Hải người ròng rã 10 năm qua làm tất cả mọi việc để anh Hải có được công bằng và tự do hôm nay đã sang Thái để vận động quốc tế quan tâm đến trường hợp của con bà.

Xin hãy chia sẻ clip này để hỗ trợ tinh thần cho một người mẹ Việt Nam.

Nguồn Grace Bui

Cảm Nghiệm đời mình

Cảm Nghiệm đời mình

Năm nay (2017), chúng tôi lại được có dip thăm Đức Mẹ Fatima – 100 năm và một việc khác được đi qua Roma gặp Đức Giáo Hoàng Phanxico với 5,000 người trong Công Trường và được Đức Giáo Hoàng Phanxico ban phép ….Rất là special….. Xin Tạ ơn Thiên Chúa.

Mười ba năm (13) về trước, vào ngày 24/12/2004 tại Northern Virginia, tôi bị stroke vào nhà thương cấp cứu, ICU/hospital.  Hôm đó, tôi đi công tác ở Vancouver, Canada và Seattle, WA về đến Washington D.C trời xuống -36 độ lạnh.  Lúc tôi đi trời ấm như mùa xuân, lúc về buốt lạnh mùa đông. Từ terminal xe bus đưa tôi ra parking lot, không ngờ xe bus đưa tôi ra lộn parking lot.  Một tiếng rưỡi lội bộ đi tìm xe dưới nhiệt độ 36 trừ độ âm nhưng tôi không có áo lạnh.  Kết quả, tôi bị stroke sau 1-2 với cái shock bất ngờ đó. Một cái stroke rất là nặng tưởng chết, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã cứu tôi và cho tôi sống lại một cuộc sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ hơn và được làm nhân chứng cho Chúa.

Biến cố đó, gia đình và người thân và bạn bè đã đến thăm và care cho tôi nhiều lắm.  Bố Mẹ và một số người thân  26 người đã hũy bỏ chuyến đi đến Indonesia/Malaysia/Thailand để chăm sóc cho tôi.  Một ngày rưỡi sau, là biến có Tsunami làm đến 330,000 người đã bỏ mạng ở vùng Indonesia/Malaysia/Thailand, nhưng gia đình tôi đã được Chúa và Đức Mẹ cứu sống và tôi từ dạo đó tôi sống gần gũi Chúa và Đức Mẹ.

Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, tôi bị câm không nói được vài tháng, nhưng rồi trong mội buổi sang, Mai đã cùng tôi cầu nguyện để xin Sáng Danh Chúa,  xin Chúa cho tôi được nói lời ca ngợi Chúa.  Và Chúa đã nhận lời, cho tôi lần đầu tiên bật lại tiếng là Kinh Lạy Cha và Kính Kính Mừng và tôi đã ca ngợi Chúa và Đức Mẹ đọc hết Chuỗi Mân Côi trong buổi sáng đó, và mỗi ngày từ đó về sau. 40 ngày nằm nhà thương như là mầu nhiệm được vào sa mạc 40 ngày với Chúa.

Ba tháng sau khi bị stroke, tôi đã lập ra một đường dây để thông đạt với các Cha, các Soeurs, các Thầy, các Bác và các Anh Chị thân mến….bây giờ gần 13 năm rồi  Ngọc Nga, Lang Thang Chiều Tim, Cha Vũ Tiến Đạt (Linh Xuân Thôn), Kim Hà, Chị  Kim Nga, A Roger Phụng, A Phạm Trung, Tien Khuat và các Cha, các Thầy  các Sơ và Anh Chị Em….)

Xin các Đức Giám Mục, các Cha, Thầy, các Soeurs, các Bác va Bố Mẹ, gia đình, người thân và tất cả mọi người cho chúng con/tôi được cám ơn, nhầm ngày kỷ niệm 13 năm tôi bị stroke, tận đáy lòng chúng tôi…một tình yêu mà Thiên Chúa cho kết hiệp.
 

Xin chúc các Đức Giám Mục, các Cha, các Thầy, các Soeurs, các Bác và các Anh Chị một Mùa Giáng Sinh tràn đầy Hồng Ân  Chúa Cứu Thế và tiếp tục hành trình sống với Chúa.

Bảo Trọng,

Thụ & Mai

Tại sao ở Việt Nam có nhiều tiền mà vẫn muốn sang Mỹ để làm việc

From:   Giấc Mơ Mỹ

Có nhiều tiền bạn sẽ chọn làm vua ở Việt Nam hay định cư ở Mỹ

Không dùng những bài học tư tưởng chính trị để giáo dục người dân yêu nước; cũng không dùng súng ống và tay sai để cưỡng ép người dân yêu nước. Trái lại,…
TAPCHIHOAKY.INFO

NS Ngọc Đan Thanh bị đột quỵ

(NLĐO) Nghệ sĩ Tú Trinh từ Mỹ gọi về cho biết, nghệ sĩ Ngọc Đan Thanh bị đột quỵ, vẫn còn hôn mê dù đã được cấp cứu tại một bệnh viện tại quận Cam – miền Nam…
NLD.COM.VN
Dang Tuong

Cùng cầu nguyện cho cô được bình an. Cô Ngọc Đan Thanh là một nghệ sĩ đa tài của miền Nam, từ cải lương đến phim ảnh, từ ca kịch đến xướng ngôn viên, cô đều có chỗ đứng trong lòng khán giả.

Đặc biệt, với xuất thân từ QLVNCH cô Ngọc Đan Thanh là một trong những nghệ sĩ chống cộng hàng đầu hải ngoại. Cô là người dẫn chương trình cho nhiều kỳ Đại nhạc hội ASIA, đại nhạc hội Cảm ơn anh, Theo vận nước nổi trôi, các phim tài liệu về chiến tranh và tỵ nạn của đài truyền hình SBTN. Cô đã truyền ngọn lửa đấu tranh yêu nước cho nhiều thế hệ Việt Nam qua giọng đọc hào hùng, bi tráng nhưng đầy tình cảm.

Cầu mong cô sớm tĩnh lại và bình phục để tiếp tục phục vụ cho người hâm mộ ở khắp nơi trên thế giới.

Ad vô cùng hụt hẫng vì mới vừa xem cuộc trò chuyện của cô trên chương trình Jimmy Show mà giờ nghe tin cô đột quỵ bất tĩnh và đang nằm trong một bệnh viện ở quận Cam, California, Mỹ. 

 

Cảnh sát viên đập bể mặt ao đóng băng cứu bé trai 8 tuổi ở dưới

 

Cảnh sát viên đập bể mặt ao đóng băng cứu bé trai 8 tuổi ở dưới

Cảnh sát viên Aaron Thompson. (Hình: AP Photos/Alex Cabrero)

NEW HARMONY, Utah (NV) – Một cảnh sát viên bỏ hết súng đạn và áo giáp lặn xuống một cái ao đông đá cứu một bé trai 8 tuổi bị chìm ở dưới trong ngày Giáng Sinh và từ chối nhận mình là anh hùng.

Theo đài truyền hình NBC, cảnh sát viên Aaron Thompson, thuộc Sở Cảnh Sát Washington County, Utah, có mặt tại cái ao ở thành phố New Harmony, sau khi bạn của em bé cầu cứu vào chiều Thứ Hai, các giới chức cho biết.

Đứa bé, mà cảnh sát không cho biết tên, đang chạy theo con chó trên mặt ao đông đá, bất ngờ đá sụp xuống, làm em lọt xuống dưới nước lạnh.

Cảnh sát không cho biết tình trạng của em ra sao.

Trong khi đó, ông Thompson bị trầy, bầm tay, và cơ thể bị giảm nhiệt, nhưng đi làm ngày hôm sau.

“Mình không bao giờ biết chính xác chuyện gì sẽ xảy ra,” cảnh sát viên Thompson, một thợ lặn cấp cứu được huấn luyện và là cựu thành viên nhóm thợ lặn của sở cảnh sát, nói với báo giới hôm Thứ Ba. “Tôi chỉ thấy là tôi phải cứu em bé đó.”

Ông Thompson kể ông bước lên mặt nước đông đá vài bước, và bắt đầu dùng tay đập cho bể một cái lỗ để ông có thể chui xuống, nhưng “đá ngày càng dày thêm và tôi không thể làm gì được với tay và nắm đấm.”

“Thế là tôi nhảy lên nhảy xuống, dùng sức nặng của thân hình” và cuối cùng nó bể, ông kể.

Rồi ông lặn xuống dưới đáy ao xem nó lạnh ra sao, và có nhìn thấy gì không.

Mọi chuyện khả quan, hy vọng tìm được em bé.

“Tôi tìm khắp các chỗ mà băng đá bể, nhưng thực ra em lại nằm ở dưới chỗ chưa bể,” ông kể.

Nước lạnh cao tới cổ, nhưng ông vẫn cố gắng bước, hy vọng đụng vào đứa bé ở dưới.

Ông cho rằng, đứa bé ở trong nước lạnh khoảng 30 phút.

“Nhiệt độ của nước là một yếu tố vô cùng quan trọng,” ông nói. “Chúng tôi thật sự hy vọng cho em bé.”

Khi được hỏi có cảm thấy mình là anh hùng không, ông Thompson nói còn có các nhân viên cấp cứu khác nữa sẵn sàng nhảy xuống nước. Ông chỉ tình cờ là người đầu tiên đến nơi.

“Không phải tôi, mà là chúng tôi,” ông nói, và đề cập đến những người khác như nhân viên y tế, trực thăng, và một nhân chứng chỉ cho ông hướng đứa bé bị lọt xuống ao, cũng như những người khác nhanh chóng có mặt tại hiện trường.

“Đó là câu chuyện thật ở đây,” cảnh sát viên Thompson nói. “Tôi chỉ là người lặn xuống nước.” (Đ.D.)   

Cậu bé mang chăn tới nghĩa trang ngủ ngon lành bên bia mộ bố

Cậu bé mang chăn tới nghĩa trang ngủ ngon lành bên bia mộ bố

Trong chuyến thăm mộ bố lần đầu tiên, hai cậu bé mang theo một chiếc chăn và ngủ lại vì như thế ‘con có thể cảm nhận được bố bên cạnh’.

Không chỉ là một Thượng sĩ quân đội tận tâm với nghề, anh Alfred David Brazel (37 tuổi) còn là một người chồng, người cha hết mực quan tâm tới gia đình. Anh và vợ là Kait Brazel có với nhau hai đứa con kháu khỉnh là Mason (8 tuổi) và Mylan (5 tuổi).

Gia đình của anh Alfred David Brazel.

Cứ ngỡ rằng cuộc sống gia đình của họ sẽ mãi luôn hạnh phúc như vậy nhưng ông trời lại nhẫn tâm cướp đi mạng sống của ông bố hai con. Ngày 10/2/2017, trong một lần làm nhiệm vụ tại For Campbell, Kentucky (Mỹ), anh Alfred bất ngờ nhận được hung tin anh bị ung thư trực tràng giai đoạn 4 và khối u đã di căn vào gan. Tới ngày 31/7/2017, anh Alfred qua đời trong sự tiếc nuối của mọi người.

Ba mẹ con trong tang lễ của anh Alfred.

Anh được chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Virginia, M��. Ngày 20/11 vừa qua, 2 cậu bé Mason và Mylan lần đầu tiên được viếng mộ bố kể từ sau ngày chôn cất. Họ phải mất 24 tiếng để tới nghĩa trang và trong suốt quãng đường đi, chị Kait khóc không ngừng.

Nó khiến tôi có cảm giác như anh ấy vẫn có thể trở về nhà. Là một gia đình quân đội, chúng tôi phải thường xuyên sống xa nhau, vì vậy chuyến đi lần này mang lại cho tôi cảm xúc như thể anh ấy vẫn sẽ về nhà”, chị Kait nghẹn ngào.

Trong chuyến thăm này, hai cậu bé mang theo một cái chăn. Chị Kait nói: “Mylan nói như thế thì con mới có thể cảm nhận được bố bên cạnh và con muốn được ngủ trưa cùng bố. Trong khi Mylan đánh một giấc ngon lành thì Mason vẫn kiên trì cầu nguyện bên cạnh. Hai đứa trẻ đã dành thời gian cho bố và tôi chỉ đứng phía sau nhìn thôi”.

Lúc tới thăm mộ bố, hai cậu bé còn mang theo một chiếc chăn.

Mylan nằm ngủ ngon lành còn Mason đang cầu nguyện bên cạnh.

Theo lời chị Kait kể, lúc mới tới nơi, hai cậu con trai của chị liên tục chia sẻ những thành tích mà chúng đạt được ở trường với bố. Mylan khoe bố về bộ đồng phục và dây đai trong lớp học võ và chuyện cậu nhóc chiến thắng được ổ bánh kem trong dịp Halloween vừa rồi. Còn Mason lại nói với bố về chiếc cup trong cuộc thi bơi mà cậu đã đạt được. Không chỉ vậy, hai đứa trẻ còn thi nhau kể với bố về mọi chuyện trong cuộc sống thường ngày.

Kết thúc chuyến viếng thăm, chị Kait nói hai con ra xe để trở về nhà nhưng khi đang bước đi Mylan bỗng chạy quay lại, ôm chặt lấy bia mộ của anh Alfred. Cậu bé nói: “Đợi đã, con phải quay lại và ôm bố cái nữa“. Nói rồi cậu bé liền vòng tay ôm thật chặt tấm bia đá lạnh lẽo đó.

Lúc ra vềMylan còn chạy quay lại ôm chặt lấy tấm bia đá mộ phần của bố.

Tôi tin chắc rằng các con sẽ nhớ về anh ấy mãi mãi. Anh ấy đã dạy cho Mason phải tự tin và luôn có mục tiêu nhất định. Và giờ Mason cũng dạy Mylan như vậy, con thường nói: “Đây là cách bố sẽ làm”, chị Kait chia sẻ.

Hà Phương (Theo Abcnews)

From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng

GS Lâm Văn Bé: Người Tị Nạn và Việt Kiều

 

GS Lâm Văn Bé: Người Tị Nạn và Việt Kiều

 

 

Sau năm 1975, người Việt Nam bỏ nước ra đi tị nạn đã bị Cộng Sản gọi bằng những danh từ khác nhau. Những danh từ nầy mang những hậu ý chính trị gian xảo, do đó việc tìm hiểu ý nghĩa chính xác những danh từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong từng  trường hợp .


Người tị nạn.

Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam, Cộng Sản đã gọi  tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vựơt biển, vượt biên  để xin tị nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ thô tục để điểm mặt người tị nạn.

Trước tiên, trong một hội nghị với các cán bộ tại Hà nội năm 1975, Trần Phương, Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Xã hội đã ví von một cách tục tĩu dân miền Nam là những con điếm cho Mỹ làm tình để đổi lấy viện trợ. Cùng trong tư tưởng dâm ô ấy, Lê Duẩn mạt sát những người di tản là một bọn ma-cô, đĩ điếm, Phạm văn Đồng chửi người ra đi là bọn phản quốc, và các nhà báo nhà văn cộng sản, kể cả bọn cộng sản 30 cũng chửi hùa theo là  những đồ rác rưởi trôi dạt khắp năm châu bốn bểcặn bả xã hội, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sửa cặn » . Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ  trưởng Y tế còn hằn học hơn khi tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm 1993 tại Amsterdam : Những người di tản đáng bị chặt đầu.

Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên hình là bọn gian manh. Năm 1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tị nạn gởi về, bọn đĩ điếm được cộng sản « nâng cấp» lên là Việt kiều, và ân tình hơn, Đỗ Mười tuyên bốViệt Kiều là những  khúc ruột  ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc.

Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rõ thâm ý của Cộng Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác được dùng làm tỉnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống ở ngoài lãnh thổ mà người đó đã được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước».

Người Việt bỏ xứ ra đi tị nạn không phải là Việt kiều, kiều bào, vì những người nầy đã không chấp nhận chế độ Cộng Sản, đã sinh cơ lập nghiệp vĩnh viễn trên một quốc gia khác, đã có quốc tịch của một  quốc gia khác. Gọi người tị nạn là Việt kiều, Cộng Sản có gian ý là muốn «tóm thâu» cái khối chất xám nầy là «con dân» của họ, còn đặt dưới quyền sinh sát của họ. Nghị định số 78/2009/NĐ ngày 22/09/2009 về luật quốc tịch xác định rõ quan niệm nầy, theo đó bao giờ người mang quốc tịch VN chưa được chính phủ VN cho phéptừ bỏ quốc tịch, người ấy vẫn còn quốc tịch VN dù rằng người ấy đã có quốc tịch Mỹ, Canada, Úc…Càng lộng ngôn và ngang ngược hơn, với con cháu của người Việt tị nạn, dù sinh ra và lớn lên tại các quốc gia của ông cha họ đã định cư, cộng sản cũng xem những người nầy vẫn có quốc tịch Việt Nam nếu chưa phép làm đơn xin bỏ quốc tịch và chưa được chính phủ VN chấp thuận.
Về điểm nầy, chúng ta thấy rõ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008 , «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của chính phủ VN tại nước ngoài để đăng ký xin giữ quốc tịch, nếu không, sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch»

Sau 5 năm,  chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái với dự tính vì số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019.
Ngôn từ Cộng Sản thật lươn lẹo, lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019, người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn còn quốc tịch VN, vẫn bị chi phối bởi Luật quốc tịch VN  giải thích «rộng rãi» theo luật rừng. Chính bà Nguyễn Thị Bình, người lãnh tụ của Phong Trào Giải Phóng Miền Nam còn sống sót, đã ví von : Việt Nam có một rừng luật  và áp dụng luật rừng. 

Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn còn khư khư giữ quan niệm cha chú nầy với người Việt tị nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước ngoài đã nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết, ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt 20 năm trước như sau : «Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền nhân ra đi đa số là vì mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản ... Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai. (Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014).

Đối với những Việt Kiều yêu nước, Cộng Sản muốn gọi tên gì thì cứ gọi và sai bảo điều gì thì cứ làm. Nhưng đối với người Việt tị nạn Cộng Sản, họ không phải là Việt kiều mà là người Mỹ, người Canadiens, người Pháp, người Úc, người Đức gốc Việt… Phải gọi chính danh như vậy và phải tôn trọng quyền chọn lựa của họ là không chấp nhận chế độ cộng sản.

Việt Kiều và Nghị Quyết 36.

Không người Việt tị nạn nào ngu xuẩn tự xưng mình là Việt kiều, nếu có, đó là những Việt kiều yêu nước. Tưởng cần biết  qua lai lịch của những Việt kiều yêu nước nầy.

Đa số những Việt Kiều nầy là những  sinh viên xuất ngoại du học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc gia  Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước vì sợ đi quân dịch, nên tìm cách ở lại tại các quốc gia đã du học một cách bất hợp pháp. Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong trào sinh viên phản chiến ở Pháp, Mỹ, Canada để  chống chiến tranh Việt Nam mà theo họ là do Mỹ và chế độ quân phiệt miền Nam chủ động. Họ được cộng sản lợi dụng để tuyên truyền và được phong danh hiệu là Việt kiều yêu nước. Sau 1975, nhiều đám sinh viên phản chiến phản quốc nầy từ Nhựt, Âu châu, Mỹ chạy sang Canada xin tị nạn cùng lúc với thân nhân của họ vừa di tản đến. Họ trương cờ đỏ sao vàng ở những tụ điểm của họ, một số xin về nước để lấy uy với bạn bè, nhưng chính phủ cộng sản lạnh lùng với họ, có khi còn bắt họ bởi lẽ cộng sản dư biết những Việt kiều yêu nước nầy chỉ là bọn hèn, theo đóm ăn tàn.

Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già, nguyên gốc là HO, có học và vô học, vì không hội nhập được vào xã hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xã hội của quốc gia định cư, một số  khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc, làm ăn buôn bán. Để đạt được ý định, họ lập công với cộng sản bằng những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá.  Nghị Quyết 36  nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy.

Nhiều người Việt tị nạn không biết hay xem thường  những  tác hại của Nghị Quyết 36 viện lẽ không làm chính trị.  Ban hành vào tháng 3 năm 2004, Nghị Quyết 36 nhằm mục đích chiêu dụ người Việt ở hải ngoại về nước và đem tài sản về nước để gọi là đầu tư, đồng thời tìm cách khống chế lực lượng người Việt ngoài nước. Nói chung, Nghị

Quyết 36 có thể tóm lược trong 5 điểm :
– Giúp người tị nạn trong việc sinh sống
– Giúp người tị nạn đoàn kết lẫn nhau
-Thu góp tiền bạc và chất xám
– Biện pháp đối với các thành phần chống lại chánh phủ và Đảng ở hải ngoại
– Tổ chức văn hóa vận và tình báo ở hải ngoại

Nhận định từng điểm, NQ 36 mang bản chất  gian xảo, trịch thượng . Làm sao CS có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong cuộc sinh sống trong khi họ đã đẩy đa số người dân trong nước đến chổ bần cùng và mất cả đạo lý, và càng tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của họ đi qua, làm xấu xa dân tộc. Tại Nhật, Mã Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo bảng hiệu : Cảnh cáo Ăn cắp vặt,  No dogs, no Vietnamese.

Họ nói giúp người tị nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ, đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản thì quá rõ, từ việc gởi tiền đến Việt kiều du lịch mang về  nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản 12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại .

Một số tác hại của NQ 36 đã thấy rõ trong một số công tác chiến lược như sau :
 Trường dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là lò huấn luyện, tuyên truyền

Tại những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay hợp tác với các đoàn thể, tư nhân  mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách báo từ VN sang, hay soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng sản. Những buổi sinh hoạt tập thể là những cơ hội thuận lợi để cán bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn những măng non theo tư tưởng cộng sản.  Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách văn hóa vận nầy tạo một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công cuộc chống cộng.

Trong đại hội «Tổng kết 10 năm thực hiện NQ36 và công tác đối với người Việt nước ngoài » ngày 22 tháng 5, 2014, Thứ Trưởng Giáo Dục Trần Quang Huy đã có chỉ thị rõ rệt «…Cần sớm có quy chế về việc dạy  tiếng Việt cho người Việt nước ngoài, đặc biệt thế hệ thứ ba, thứ tư để việc kết nối giao lưu được thuận lợi…»

– Xâm nhập các cơ quan truyền thông

Cộng Sản đã tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua chuộc các cơ sở truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản linh tinh, nhưng thỉnh thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận động chính trị chiến lược có lợi cho cộng sản. Trong bản tổng kết Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ haitừ ngày 27-29 tháng 09 năm 2012  ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài  đã nói rõ chương trình hành động : «Tăng cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triễn lãm tranh ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt các nhóm trong cộng đồng người Việt hải ngoại…» 

Khuynh đảo, lừa gạt, xảo trá là sở trường của Cộng Sản. Chúng áp dụng kỹ chiến thuật tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin Tuyên truyển của Đức Quốc Xã) : Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc không đúng sự thật, ban đầu  người ta không tin, lần lần người ta bán tin bán nghi sau cùng người ta tin là sự thật.  Internet  và báo chí là những phương tiện hữu hiệu  dể chúng bôi lọ những người quốc gia tranh đấu chân chính, làm yếu đi  lực lượng chống cộng. để từ đó chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ chức tranh đấu chính trị đã bị chẻ làm đôi, làm ba  và khi các cộng đồng hay tổ chức này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ thì chúng dùng tiền để mua chuộc đám Việt kiều – Việt gian nhảy ra làm bình phong cho chúng hoạt động. Mặc dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng vẫn không thành công lắm trong  công tác vận động quần chúng ở Bắc Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu.

Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau :  dịu ngọt và bạo lực.
Tạp chí Cộng Sản gần đây đã viết :  «…Tính đến nay, có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người VN ở hải ngoại đang nuôi chí phục thù nhằm  thực hiện ý đồ đen tối phục quốc. Cầm đầu các hội, các nhóm trên là những phần tử cực đoan, từng là ngụy quân ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc nối, cấu kết chặt chẻ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống phá cách mạng nước ta …» (TCCS. Phát huy vai trò của Cộng đồng  http://tapchicongsan.orgvn ngày 28/05/2013)

Chánh sách vừa  chiêu dụ vừa  khủng bố của Cộng Sản đã có tác dụng phần nào  trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông Âu, nơi có đông đảo người lao động xuát khẩu, di dân bất hợp pháp  và du sinh.  Trong thập niên qua, các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng sản đã nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36 : « … Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động thì chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế lực thù địch…». Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là : 4 tại các quốc gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar, Angola), 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – ( chú thích : tại Thụy Sĩ còn có một cộng đồng chống Cộng của người Việt tị nạn). Các chủ tịch các cộng đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nhìn, việc điều khiển Cộng Đồng do sứ quán hay tòa lãnh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm 2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50).

Ngày 18 tháng 8 , 2014, Trung ương đảng đã tổ chức một cuộc «mạn đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) qui tụ những nhân vật cao cấp của Bộ Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng »

– Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện

Chùa là nơi gia đình người Việt tị nạn  gặp nhau để lễ Phật, niệm kinh, và còn là nơi sinh hoạt xã hội, văn hóa. Biết như vậy,  Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã ký kết với Hòa Thượng Thích Thanh Tứ (Tứ chớ không phải Thích Thanh Từ) Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo VN ngày 16 /07/2009 một văn kiện nhằm « phối hợp cộng tác phât sự ở nước ngoài, mở rộng quan hệ, hoạt động của giáo hội sang các nước có đông kiều bào sinh sống ». Từ mươi năm nay, tại hải ngoại có nhiều chùa, tu viện được thành lập, mà sinh hoạt chùa không theo truyền thống tôn nghiêm của  Phật pháp. Những ngôi chùa nầy tổ chức đại nhạc hội, du lịch, thi hoa hậu và nhiều sinh hoạt của đời thường. Một số thầy chùa, sư nữ  gốc là công an, tác phong không phù hợp với người tu hành, làm người phật tử chân chính chán ngán. Ngôi chùa trở nên cơ sở kinh tài cho cá nhân và đảng, sư quốc doanh làm công tác báo cáo, tuyên truyền cho chế độ. Nghị Quyết 36 đã làm tổn hại rất nhiều đời sống tâm linh của người tị nạn.

Người Việt  ở hải ngoại

Ngoài ra, chúng ta thường có thói quen gọi chúng ta thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại (diaspora) mà Cộng Sản gọi là người Việt nước ngoài. Nếu từ ngữ nầy đúng với tất cả các sắc tộc khác nhưng đối với người Việt, có khi không đúng hẳn bởi lẽ trong số người Việt hải ngoại lại có thêm những người không phải là người tị nạn. Đó là những người xuất khẩu lao động, di dân kinh tế hợp pháp và bất hợp pháp, các du học sinh thân cộng hay theo Cộng. Hiểu như vậy, sự chính xác của từ ngữ sử dụng cần phân biệt theo nội dung và hoàn cảnh.

Bảng 1-   Tổng số người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại

Quốc gia Số người Nguồn
Hoa Kỳ 1 548 450 US Census 2010
Úc    233 390 Census Explorer 2011
Canada    220 420 Canada Census 2011
Pháp    200 000 Các nhà biên khảo ở Pháp
Đức    125 000 Wikipedia và một số nguồn liệu
Anh      65 000 UK Census 2011& phỏng định
Tây/Bắc Âu    100 000 Các nguồn từ địa phương
Tổng cộng 2 492 260  

Nguồn: Lâm Vĩnh Bình. Giá Tự Do
Bảng 2– Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư 
hợp pháp  và bất hợp pháp tại hải ngoại (Việt Kiều)

Đông Âu Số người   Á Châu Số người
Nga  46 000   Đài Loan 180 000
Tiệp Khắc  50 000   Hàn Quốc 120 000
Ba Lan  20 000   Mã Lai    85 000
UKraine  10 000   Trung Quốc   30 000
Slovakia    5 000   Nhựt   38 000
Áo    5 000   Cambốt  600 000
Hungary    4 000   Thái Lan  100 000
Azerbeijan  10 000      
Trung Đông  10 000   Lào   20 000
Angola  40 000   Bangladesh   27 000
Cộng 200 000   Cộng 1 200 000
                               Tổng cộng : 1 400 000

 Nguồn :
– Người Việt ờ nước ngoài  www.vietkieu.info;
– Wikipedia,
– Migration Policy Institute.
– World Facts Book

Chú thích :  

Bảng thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ là những con số ước lượng gồm có :
 –  700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã  sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch.  Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. TheoWikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà  Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodia trình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt  (có thể đọc online).

Migration Policy Institute thiết lập  thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động : Cambot : 37 000, Lào : 11 000, Thái Lan : 6000.

–  700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau :

– một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy

–  một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.

Như vậy tổng số người Việt ở hải ngoại là :
       – Người tị nạn Cộng sản : 2.500 000 người (số tròn) Bảng 1
       – Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp :    1 400 000 người  Bảng 2 
Tổng cộng số người Việt ở hải ngoại : 3 900 000 người. 
Một cách dễ nhớ : 4 triệu người.

Nguồn : Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do

Về tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết, ngay cả những nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch đại con số, bởi lẽ thay vì sử dụng thống kê chính thức của các quốc gia sở tại, họ lại sử dụng những thống kê của Cục Người Việt nước ngoài của Cộng Sản mà bản chất là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể như luận án tiến sĩ : Mobiliser les Vietnamiens de l’étranger : enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme transnational của Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du Sud-Est contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở hải ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu (thay vì 1.5 triệu) và ở Canada là 250 000 (thay vì 220 000).  «Le RSVN estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à l’étranger. La communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la plus nombreuse avec 2.2M de personnes. Environ 250 000 Viet Kieu vivent au Canada, 120 000 en Allemagne et 60 000 en Russie…(p. 13).

Kết luận

Chúng tôi vừa phân tích hai từ ngữ người tị nạn và Việt kiều để phân biệt hoàn cảnh lúc ra đi và vị trí chính trị đối với chế độ cộng sản. Tuy nhiên, khi phải nhắc đến một từ ngữ  khác có chữ kiều là kiều hối (mà cộng sản dùng thay cho danh từ ngoại tệ), cái biên giới giữa người tị nạn và Việt Kiều như không còn nữa bởi cả hai đều dùng kiều hối để nuôi dưỡng và củng cố chế độ trong nước.

Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tị nạn về nước ào ạt vì đủ thứ lý do, thăm gia đình, du lịch, du hí… Thật là khó hiểu khi nhiều người đã ra đi tìm cái sống trong cái chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay bị lao tù, và  trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu,  họ lại quay trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ  công an, cán bộ phường xã, những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang gì ? Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi người mang về VN để chi tiêu trung bình khoảng 4000 mỹ kim, như vậy Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai thángNgoài raviệc gởi tiền về VN triền miên từ 40 năm nay để nói là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính số kiều hối khổng lồ nầy đã nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy trì một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác gì những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng ?

Theo Viện Nghiên cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (Central Institute for Economic Management  CIEM), « tính từ năm 1991 đến 2013, lượng kiều hốigởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất (57% trong tổng số  kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng 9%), Canada (8%), Đức (6%), Pháp (4%) . Kiều hối là nguồn vốn thứ hai tại VN sau FDI (chú thích của người viết : Foreign Direct Investment là tiền ngoại quốc đem vào VN đầu tư) giúp tăng tiết kiệm, đầu tư, giảm nợ, cải tiến bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, giúp ổn định tỉ giá, cán cân thanh toán và tăng dự trử ngoại hối . Tóm lại, kiều hối dùng để trả sinh hoạt hằng ngày, đầu tư vào sản xuất kinh doanh và trả nợ».    (Cứu tinh của nền kinh tế VN /Alan Phan – ngày 18/12/2014.)

Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu não của cộng sản đã cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay nói chung những Việt kiều thân Cộng đã gởi tiền về nước để nuôi chế độ mà chính đa số làngười tị nạn. Chỉ tại  5 quốc gia có đông đảo người tị nạn,  đặc biệt là Hoa Kỳ, đã  đóng góp hàng năm cho cộng sản VN 84% ngoại tệ. Có gì phi lý hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Tây Đức là thành trì chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là đại ngân hàng  tài trợ cho Việt Cộng. Giải quyết cái phi lý nầy phải là chuyện số một phải làm, tuy đã muộn màng lắm rồi, trước khi nói đến những chuyện tranh đấu khác.
 
Lâm Văn Bé
01/2015

Phụ nữ bị bắn chết, chồng cũ định tự tử nhưng sống sót

 

Phụ nữ bị bắn chết, chồng cũ định tự tử nhưng sống sót

(Hình minh họa: City of Bellflower)

BELLFLOWER, California (NV) – Một phụ nữ bị bắn chết và người chồng cũ, kẻ bị giới hữu trách coi là nghi can, bị thương trong vụ nổ súng hôm Thứ Hai ở thành phố Bellflower, vùng Nam California, gần Long Beach, và các điều tra viên vẫn còn đang tìm hiểu sự việc.

Vụ nổ súng xảy ra vào lúc khoảng 3 giờ 15  ở khu nhà trên đường Rosecrans Avenue, theo một phát ngôn viên sở cảnh sát, Guillermina Saldana, bản tin của tờ báo Long Beach Press Telegram cho biết.

Khi cảnh sát tới hiện trường thì thấy một phụ nữ bị trúng đạn vào ngực và chết tại chỗ.

Giới chức công lực cũng tìm thấy một người đàn ông bị vết đạn vào ngực, có vẻ là tự mình gây ra. Ông ta được đưa vào bệnh viện và chưa biết rõ tình trạng sức khỏe.

Điều tra sơ khởi cho thấy hai người từng là vợ chồng với nhau nhưng nay đã ly dị, theo cảnh sát viên Charles Moore, cho tờ LB Press Telegram hay.

Cảnh sát biết rằng người chồng cũ đến nhà kiếm nạn nhân, và trong khi nói chuyện, ông ta rút khẩu súng lục bắn chết bà này. Sau đó ông ta quay súng tự bắn mình. Hiện chưa rõ chuyện gì xảy ra trước khi súng nổ.

Hai người có hai đứa con, một con trai 6 tuổi và một con gái 8 tuổi. Cả hai đứa nhỏ đều ở trong nhà khi có nổ súng. (V.Giang)

SÚNG ĐẠN Ở MỸ

SÚNG ĐẠN Ở MỸ

Tôi có hứa với bạn bè sẽ viết một bài về súng ở Mỹ. Đã có vài bạn nhắc. Đành phải giữ lời, vì sim bị đổi họ Trần thành họ Hứa, và tên cúng cơm thành Lèo! Kêu bằng cụ Hứa Lèo, quê chết!

Tôi không phải chuyên gia súng đạn, cũng không phải “lái súng”, cho nên kiến thức có giới hạn. Biết cái gì viết cái nấy, viết về súng cá nhân, chớ không động tới vũ khí chiến lược của Mỹ. Viết để chia sẻ hơn là một bài sưu tầm. Cứ coi như tôi viết chơi, cho bạn bè đọc chơi đỡ buồn vậy.

Trước khi viết về súng ống ở Mỹ, tôi muốn đưa ra một vài thống kê, lượm từ trang americangunfacts.com, để người đọc có khái niệm tại sao dân Mỹ có quyền trang bị súng, và đó là quyền hiến định, không dễ gì có một đảng phái, hay một chính phủ nào, có thể thay đổi được:

+ Dân số Mỹ khoảng 300 triệu, nhưng hiện có từ 270 đến 310 triệu khẩu súng đủ loại trong nhà người dân Mỹ. Điều này không có nghĩa là mỗi người dân Mỹ từ cụ già đến bé sơ sinh, đàn ông hay đàn bà, đều có súng. Tỷ lệ dân Mỹ có súng chỉ trên dưới 30%, nghĩa là có rất nhiều người có hơn một khẩu súng trong nhà (tôi có 3 cây).

+ Người Mỹ dùng súng để bảo vệ mạng sống 80 lần nhiều hơn là để giết người.

+ Phụ nữ Mỹ dùng súng để chống lại tội phạm tấn công tình dục 200.000 lần/năm.

+ Tỉ lệ súng tính theo dân số: Mỹ 88.8%, Yemen 54.8%, Switzerland 45.7%, Finland 45.3%

+ Số người chết vì súng tính trên mỗi 100.000 người: số zách là Honduras với 91.6 người, thứ 2 là El Salvador 69.2 người, thứ 3 là Côte D’ivore 56.9 người, thứ 4 là Jamaica 52.2 người,…. USA xếp hạng thứ 103 lận, chỉ có 4.8 người chết vì súng đạn trên mỗi 100.000 dân.

+ Nước Anh cấm súng, nhưng có tới 2034 tội phạm hình sự trên 100.000 dân, và hơn phân nửa là dùng dao trong nhà bếp để gây án. Trong khi Mỹ cho xài súng thả dàn, chỉ có 466 trường hợp xảy ra trên 100.000 dân.. Từ khi cấm súng năm 1997, ở Anh, tội phạm tăng 77%, trung bình mỗi phút có 2 vụ tấn công.

+ Trong 9 nước Âu Châu cấm súng, thì tỉ lệ tội phạm cao gấp 3 lần, so với 9 nước cho xài súng.

+ FBI thống kê tội phạm giảm đáng kể khi cho xài súng: Giết người giảm 8.5%, hiếp dâm giảm 5%, tấn công giảm 7%, cướp giảm 3%.

+ Mỗi vụ nổ súng giết người hàng loạt ở Mỹ, đều xảy ra ở những địa phương cấm sử dụng súng!

+ In 1982, Kennesaw, Georgia ra luật: bắt buộc chủ gia đình phải có ít nhất một cây súng. Tội phạm đột nhập gia cư, trộm cướp, giảm 89%! Đến thời điểm hiện tại, tỉ lệ này vẫn là 85% thấp hơn so với trước năm 1982.

Đó là một vài thống kê đọc cho biết. Những thống kê tương tự, và những tư liệu khác, đã khiến nước Mỹ kiên quyết không huỷ bỏ Tu Chánh Án Số 2: Quyền sở hữu súng.

Second Amendment (Tu Chánh Án Số Hai) ban hành Dec 15, 1791, cho phép người dân sử dụng súng. Mọi công dân trưởng thành, đều có quyền mua súng (trừ những kẻ có tiền án tội phạm, hay bịnh tâm thần). Muốn mua mấy trăm cây súng cũng được! Luật lệ về súng đạn rất khác nhau, tuỳ theo từng Tiểu Bang. California tương đối gắt gao, so với Texas chẳng hạn. Alabama cho phép mang súng nơi công cộng mà không cần giấy phép. Có cả chục Tiểu Bang, như North Dakota, New Hampshire, West Virginia, Missouri, Idaho,… cũng dễ dãi như vậy, và khuynh hướng tự do mang súng ngày càng gia tăng ở Mỹ.

Một số người lo sợ là khi cho mang súng tự do, sẽ đem nước Mỹ trở lại thời kỳ các anh chàng cao bồi 3508, “ba nem không tém”: hôi ình, thúi quắc, cỡi ngựa, rút súng bằng bằng trong quán bar hay đường phố, hoặc thách đấu để thanh toán ân oán giang hồ với nhau. Quá lo xa! Luật lệ Mỹ chằng chịt như rễ của cánh rừng mắm Cà Mau, nhưng vô cùng nghiêm minh, cộng thêm trình độ dân trí rất cao, thì chuyện xã hội loạn như thời đó, là chuyện không bao giờ xảy ra.

Nếu thằng cu Ủn nổi cơn điên, dự tính đem quân “giải phóng” nước Mỹ khỏi sự kềm kẹp, bóc lột, của bọn tư bản “giãy hoài hỏng chịu chết”, thì ngoài chuyện sợ ăn bom nguyên tử, sợ Trump gởi tặng vài chục quả Tomahawk, bay là là, chui ngay vào gầm giường lãnh tụ, thì thế nào hắn cũng không khỏi lạnh cẳng, khi nghĩ đến con số 300 triệu, 300 triệu chớ hỏng phải 300 khẩu súng dài ngắn, nằm trong nhà dân. Mỗi người dân Mỹ sẽ trở thành một chiến binh mà không cần bắt “nghĩa vụ quân sự”! Anh nào cũng lái Hummer H2 (Humvee), hay Jeep mui trần, đeo kiếng râm đen đậm, loại đặc trị “nhìn lén người nghèo thiếu vải”, một tay cầm AR 16, một tay AK 47, lưng quảy thêm khẩu shotgun, lầm lầm lì lì như Arnald Schwarzenegger trong phim Terminator. Sau khi đùng, đùng, đùng, đến hết đạn, thì chào vĩnh biệt bằng một câu rất cool: “Hasta la vista, baby!” (See you later, Ủn! Hẹn gặp chú Ủn kiếp sau!)

Phe ủng hộ súng (đương nhiên dẫn đầu bởi những tên tài phiệt sản xuất súng) và phe chống xài súng, luôn cãi nhau ỏm tỏi, cả trăm năm qua, mà chưa ngả ngũ.. Chuyện ban hành nhiều luật lệ để kềm chế, kiểm soát việc sử dụng súng, thì mỗi Tiểu Bang đều có, và đương nhiên là khác nhau rất xa. Nhưng chuyện cấm súng thì chắc chắn sẽ không bao giờ xảy ra..

Một lý do hiển nhiên khác mà người Mỹ quan tâm: Khi cấm dân xài súng, thì chẳng khác nào để súng lọt vào tay kẻ xấu, trong khi người lương thiện bị tước vũ khí, vì kẻ xấu sẽ có trăm ngàn cách để có súng. Người dân lương thiện chừng đó sẽ làm bia cho chúng bắn. Người dân Mỹ không đời nào chịu bị tước vũ khí. Đó là quyền hiến định.

Những năm 1990, và cao điểm là khoảng 1995, bọn choai choai tội phạm gốc Việt lộng hành. Chúng đột nhập vào nhà, cơ sở làm ăn, thậm chí những buổi tiệc tùng đông người, dùng súng huy hiếp, khảo của, tàn ác như bọn cường sơn thảo cấu Lương Sơn Bạc.

Đột nhập lúc nhà vắng, chỉ là trộm. Đột nhập khi có người ở nhà, là cướp. Bọn này rất đáng sợ. Mua súng là để trị bọn chúng.

Người Việt có thói quen xài tiền mặt, cất giữ tiền, nữ trang quí giá trong nhà, và rất thích đeo hột xoàn vàng vòng đến những nơi tiệc tùng. Người Mỹ ngược lại, gần như không xài tiền mặt, mà chỉ sử dụng chi phiếu hay thẻ tín dụng thôi. Người Mỹ cũng không cất giữ của cải trong nhà, vì sợ ho hoạn, sợ trộm cướp. Họ thường mướn safe box ở ngân hàng để cất giữ giấy tờ quan trọng và nữ trang. Đàn bà Mỹ thích đeo nữ trang giả hơn là vàng vòng hột xoàn như đàn bà Á Châu. Cho nên người Việt là mục tiêu béo bỡ của bọn chúng thời đó. Người Việt chỉ cướp người Việt thôi.

Chúng có trăm mưu ngàn kế để đột nhập gia cư. Thí dụ, bạn đi làm về, quẹo vào garage thì thấy một cái thùng giấy hay một vật gì đó để trên driveway. Phản ứng tự nhiên là bạn ngừng xe, mở cửa bước xuống, dẹp chướng ngại vật để lái xe vào. Vừa bước xuống xe thì có đứa kè bên hong, chỉa súng vô be sườn, buộc bạn mở cửa cho đồng bọn vô nhà.

Khi đột nhập vào nhà, chúng trói gô cả nhà. Chúng dở banh thảm, cạy sàn nhà, rọc hết nệm giường, lật tung tủ lạnh,… không chừa chỗ nào! Tìm không ra của chìm, thì bắt đầu màn tra khảo. Đánh đấm nạn nhân hộc máu mồm là chuyện thường. Cắt tai, xẻo thịt cũng thường! Chúng dám đem cả con nít bỏ vào lò nướng và mở lửa. Tôi còn nghe kể, bọn nó khảo cách gì cũng không khai, chúng bèn lột quần áo bà vợ để hiếp dâm, và không quên thông báo cho hai vợ chồng biết: chúng đang mắc bệnh AIDS! Mạng quí hay của quí? Phải khai thôi! Khi nói đến sự tàn ác, người Việt cũng có hạng lắm! Gia chủ thua chúng là cái chắc!

Tôi có người khách Mỹ, và sau này trở thành bạn. Anh ta là cảnh sát. Tôi cũng có một người bạn Việt làm cảnh sát. Họ biết luật pháp, nên chỉ dẫn và khuyên tôi nhiều thứ:

+ Đầu tiên họ khuyên mua súng, và nuôi chó. Lảng vảng trước nhà, mà nghe tiếng chó sủa rân trời, nhứt định chúng lùi bước tìm mục tiêu khác dễ ăn hơn. Không có tên cướp nào dù đang cầm súng trong tay, mà không nao núng khi biết mục tiêu đột nhập cũng có đồ chơi lại. Chúng ngu gì kiếm chuyện khó, nên chúng sẽ tháo lui.

+ Chúng sợ đàn bà cầm súng, vì các bà nhát, run, bóp cò sản, đạn có khi ghim vào mình chúng như chơi! Các bà nên có súng và học bắn súng.

+ Chúng sợ nhất là shotgun. Một, khi nghe tiếng lên đạn cái rốp, dòn dã, khô khan đến lạnh xương sống, thì ba hồn chín vía chúng cũng lên mây! Hai, đạn chài shotgun gồm rất nhiều viên bi nhỏ bên trong. Khi bắn sẽ túa ra, chắc chắn chạy đàng trời cũng dính chấu. Chết chắc.

+ Handgun hay súng trường, đạn chỉ có một đầu đạn bay ra khỏi nòng. Xác suất trúng mục tiêu rất thấp, nhất là hand gun, rất khó bắn trúng mục tiêu. Trừ súng liên thanh (machine guns), xả nguyên một băng vài chục viên trong nháy mắt, thế nào cũng có vài viên trúng mục tiêu.

Nói về luật pháp, họ khuyên rất nhiều điều:

+ Không bắn thì thôi, hễ quyết định bắn thì phải bắn cố sát, bắn cho tử ẹo, chớ không bắn què giò.. Xác chết thì câm, thằng què còn miệng, nên còn ra toà nói ngược nói ngạo. Có khi nạn nhân như mày lại thành tội phạm, còn tội phạm như nó lại thành nạn nhân! Nên nhớ, nó đáng chết, chớ mày không đáng đi tù!

+ No mercy! Just destroy him before he kills you! Nó xâm nhập vô nhà mày, nhứt là nó có vũ khí, thì cái rủi ro mày và người thân bị nó sát hại vô cùng cao. Phải tự vệ, và bảo vệ người thân. Không thương xót! Hãy tiêu diệt nó trước khi nó diệt mình!

+ Khi bắn phải bắn từ phí trước. Bắn từ lưng là tù, bởi vì toà nói rằng: Mầy cố sát chớ không phải tự vệ! Nó đã bỏ chạy, đâu còn nguy hiểm tới mày, mà mày cố tình giết nó? Cho dù nó đã đột nhập vô nhà, có vũ khí, thậm chí đã gây thương tích cho mày, một khi nó quay lưng bỏ chạy, thì không được bắn nó.

+ Sau khi hạ gục nó, mày nhớ bắn một viên lên trần nhà.Toà không biết mày bắn viên đó trước hay bắn sau đâu. Cứ nói rằng mày đã bắn một phát chỉ thiên để doạ nó trước rồi, nhưng nó vẫn nhào tới, buộc lòng mày phải hạ gục nó để tự vệ.

+ Nếu nó uy hiếp, khống chế được người thân của mày, mày có buông súng đầu hàng theo lệnh của nó không? Cái đó tuỳ theo quyết định của mày, nhưng nếu là cảnh sát, tụi tao không bao giờ buông súng đầu hàng, ngay cả khi nó chỉa súng vào đầu đồng đội. Rất dễ hiểu: Khi mày buông súng thì đồng đội mày, và chính mày sẽ bị nó giết. Chết gọn cả hai. Mày bắn giỏi, bắn chính xác, có thể mày hạ được nó mà cứu đồng đội trước khi nó bóp cò, để cả hai cùng sống. Worst case là nó nhanh tay hơn, nổ súng giết đồng đội mày, thì ít nhất mày cũng giết được nó, trừ đi một kẻ xấu cho xã hội, trả được thù cho đồng đội, và cứu được mạng mày luôn. Lời hơn, đúng không? Chọn nổ súng, chỉ có lời ít hay lời nhiều, chớ không có lỗ. Buông súng, lỗ cạn tàu ráu máng!

Nghe họ nói tôi mới hiểu tại sao khi cảnh sát bắn là bắn vô tử huyêt để tiêu diệt mục tiêu. Nghe họ nói mới biết thêm nhiều thứ, và tôi dạy các con tôi y như vậy. Vì tự vệ, nên buộc lòng phải bóp cò.. Không bắn nó, nó sẽ giết mình và người thân. Không tội tình gì trước pháp luật. Cũng không tội tình gì trước lương tâm và Thượng Đế.

Tôi cũng dạy các con: Nếu bị bắt cóc, nhứt định phải chống cự, vừa chạy vừa la. Chạy có thể bị nó giết, nhưng có cơ hội thoát hiểm, sống sót, dù chỉ vài phần trăm. Còn không chạy, không chống cự, để nó bắt đi, thì chết chắc 100%. Chọn vài phần trăm sống, hay chọn 100% chết? Đó là chọn lựa vô cùng khó khăn, đòi hỏi tháo vát, can trường, vì sống và chết chỉ là đường tơ kẽ tóc..

Tôi chưa từng cầm súng. Nhưng tôi có cơ sở kinh doanh, mua bán ì xèo, đương nhiên là có tiền mặt, buộc lòng tôi phải tìm cách bảo vệ gia đình và cơ sở làm ăn của mình. Mua súng, xài súng, là chuyện bất đắc dĩ, nhưng phải làm ở thời điểm đó.

Tôi sắm 3 khẩu súng, hai súng ngắn (handguns) và một khẩu súng săn shotguns (xem hình gởi kèm). Các con tôi chưa xong high school, nhưng đứa nào cũng sử dụng súng thành thạo. Tôi và cậu con trai không cần nói. Nhưng ba cô con gái ốm yếu, nhát hít, vẫn bồng shotgun lên, nạp đạn, bắn đùng đùng. Ban đầu sợ. Bắn vài phát, không những hết sợ, mà còn thấy thích. Handguns nhẹ, ít giựt, nhưng bắn khó trúng bia hơn shotgun. Hằng tuần tôi chỡ các cháu đến trường bắn. Ai không có súng thì họ cho mướn súng, chỉ cần mua đạn, mua bia, rồi bắn bao nhiêu cũng được. Ai có súng thì đem tới, chỉ cần mua đạn, bắn tới chán thì thôi.

Ở Mỹ, tiệm bán súng công khai, đầy dẫy, khắp nơi. Mua súng dễ như mua con cá, bó rau. Ở Cali, chỉ cần chọn súng, đặt cọc, điền một mẫu đơn rất ngắn gọn, để tiệm súng gởi cho chính quyền điều tra lý lịch. Nếu không có thành tích bất hão, hay bịnh tâm thần, thì từ hai tuần cho tới một tháng, bạn có thể đến trả nốt phần tiền còn lại, và mang súng về nhà.

Thời gian chờ đợi ngoài việc để chính quyền rà soát lý lịch hình sự, nó còn là thời gian giải nhiệt (cooling period). Tại sao gọi là thời gian giải nhiệt? Thí dụ, có một anh chàng bị con vợ nó cắm cho cái sừng nhọn hoắc, dài một sãi, lủng xuyên sọ đầu. Hận người tình, hận thằng tình địch, hận đời, hận lung tung,… Phen này ông sắm súng để tiễn chúng bay vô địa ngục. Trong hai tuần hay một tháng chờ đợi, anh ta suy nghĩ miên man: Nó không còn yêu thương mình, ép uổng gì? Giữ người ở, ai giữ người đi? Tại nó lăng loàn trắc nết theo trai, chớ một bàn tay làm sao vỗ thành tiếng, giết thằng kia chi cho thêm nghiệp chướng? Còn đàn con, giết vợ rồi vô tù, ai lo cho chúng?… Cooling down, đổi ý. Đem súng về cất đó phòng thân trộm cướp, chớ không phải thanh toán đôi gian phu dâm phụ nữa. Xã hội bớt đi một thãm cảnh.

Súng cũng rẻ mạt. Từ vài trăm cho tới vài ngàn đều có. Ngày xưa mua AK 47 hay AR 16 cũng được.. Từ ngày có những vụ dùng súng tự động bắn giết ở trường học, sở làm, thì Cali và nhiều Tiểu bang cấm..

Để tôi viết sơ qua về ba cây súng tôi có, thuộc ba loại khác nhau – revolver, piston, và shotgun – cho người chưa từng đụng tới súng, biết khái quát. Ngoài ra còn nhiều loại khác như súng trường đi săn, súng liên thanh,… thuộc loại quá dữ, không cần thiết cho phòng thân, nên tôi không nghĩ tới. Chỉ viết rất khái quát, ai muốn tìm hiểu thì hỏi thằng Google nó tả tỉ mỉ hơn.

+ Cây revolver là súng có ổ đạn tròn, thường gọi trái khế, chứa 5 hay 6 viên đạn. Đây là loại súng mà các tay cao bồi Mỹ thường xài, ai coi phim cũng biết. Trong phim thường thấy cái trò chơi quay trái khế: nhét chỉ 1 viên vô trái khế, quay cái rẹt, kê súng vô màng tang, nín thở bóp cò, coi thằng nào tới số?

Revolver có hai loại. Loại single action, khi bắn phải dùng tay trái, hay ngón tay cái của tay cầm súng, bật ngược cò mổ ra sau, mới bóp cò. Double action, chỉ cần bóp cò, thì cò mổ bật ra sau, sau đó giã vô viên đạn. Loại này con cò bóp rất nặng, nhưng tiện dụng, khá nguy hiểm, và ai cũng có thể bắn mà không cần biết phải lên đạn cách nào. Cứ bóp cò là nổ. Cây tôi sở hữu là double action, của hảng Smith & Wesson, dáng rất đẹp, giá hơn $400 (năm 1996). Cây này thuộc thứ dữ, Magnum, công phá rất mạnh, mua để ở nhà.. Bắn giật khá mạnh. Chỉ sáu viên đạn. Đạn to, nhưng giá rất rẻ, khoảng 25 cents/viên. Các con tôi đều biết sử dụng thành thạo, trừ bà xã nhất định không muốn đụng tới súng đạn.

+ Cây Pistol mini, của hảng Beretta, giá cũng khoảng $400 USD. Có lẽ hảng Colt đầu tiên làm ra loại súng pistol này, nên người ta lấy tên của nó mà đặt. Colt 45 là loại trang bị cho sĩ quan VNCH. Còn phe kia thì thông dụng với K54. Khi bắn phải dùng tay kia kéo phần trên của nòng súng ra sau, rồi buông ra, để nó đẩy viên đạn lên nòng, mới bóp cò. Gọi là lên đạn. Nó có khoá an toàn, nên loại này khá an toàn nếu nhà có con nít.

Tôi chọn khẩu súng này vì nó rất nhỏ, gọn, với mục đích sẽ bỏ nó trong túi quần khi làm việc ở tiệm. Đạn bé tí tẹo, nhưng giá cả 50 cents/viên. Nó nhỏ gọn như đồ chơi con nít, bắn như không bắn, vì nó nổ nhỏ, và giựt rất nhẹ. Đàn bà Mỹ thích nó, vì nó gọn nhẹ, bỏ trong xách tay được. Cây này có 8 viên chớ không phải 6, như “súng lục” ở VN xưa kia: Một viên lên nòng, 7 viên trong băng đạn. Tôi thường nhét sẵn một viên lên nòng, và 7 viên trong băng. Như vậy khi bắn, khỏi cần lên đạn, chỉ bật khoá an toàn trong nháy mắt. Băng đạn nhỏ bằng hai ngón tay. Một băng nạp vô súng, một băng để sơ cua, thì cũng có 15 viên để ứng chiến!

Hễ gặp khách có vẻ dân chơi, nhất là buổi tối, thì tay trái tôi cầm phone, sẵn sàng ấn 911, còn tay phải thọt vô túi, ngón trỏ nằm sẵn ngay cò súng. Khi cần, không thèm móc ra, ngón cái nâng nhẹ lên mở khoá an toàn, và ngón trỏ bóp cò dễ dàng. Nếu là dân chuyên xài súng, thấy tôi thủ kiểu đó là nó biết ngay. Đương nhiên là chuồn lẹ, nếu không muốn ăn trọn 15 cục kẹo đồng!

+ Shotgun, giá chỉ trên hai trăm một chút. Dài như súng trường. Nặng. Đạn chài khoảng 70 cents/viên. Ỗ chứa được bốn viên đạn. Không tự động. Bắn một viên xong phải kéo phần tbên dưới nòng súng cho văng vỏ đạn ra, sau đó đẩy ngược lên để lên đạn viên kế tiếp. Tiếng lên đạn rất to, nghe thót ruột. Còn một loại bẻ cúp nòng súng xuống để nhét đạn vào, không tiện dụng và có vẻ lỗi thời. Shotgun bắn cũng không giựt mạnh lắm. Súng này luôn để trong nhà. Thằng nào có gan cạy cửa, chỉ nghe lên đạn cái rốp là chạy không kịp quay đầu ngó lại.

Chính vì cướp bóc lộng hành, tui phải thủ rất kỹ.. Ngoài việc mua súng, mỗi tối lái xe về, phải coi có đứa nào chạy theo không? Về tới nhà, nhìn xung quanh coi có xe lạ đậu gần nhà mình không? Coi có thằng nào lảng vảng trước cửa? Trước khi tới nhà vài block đường, phải ngừng xe lại, mở cốp xe lấy đạn nạp vào súng. Biết là trái luật, nhưng vẫn làm. Luật Cali buộc khi chuyên chỡ súng, thì súng phải bỏ trong hộp có khoá. Súng và đạn không được để gần nhau. Súng trong xe, thì đạn phải trong trunk sau xe.

Người Việt hải ngoại đã trãi qua một giai đoạn hãi hùng. Cảnh sát và FBI vô cùng vất vả để tiêu trừ đám cặn bã này, nhưng dường như bó tay, vì chúng quá đông, quá dữ, và quá liều mạng. Khi con ma nghiện nó hành, thì chuyện gì chúng cũng làm để có tiền đi hút. Sau cùng, chính quyền đã tìm ra giải pháp: Trục xuất!

Đúng vậy! Trục xuất! Họ deal với VN, mỗi thằng du đãng tội phạm, bị trục xuất, họ trả cho vài chục ngàn đô (hay cả trăm ngàn, đại khái là rất nhiều tiền).

Đối với Mỹ, điều này lợi trăm bề. Một, dẹp được tệ nạn. Hai, chỉ tốn một số tiền nhỏ, tốn một lần cho VN, hơn là nhốt bọn chúng vào tù, nuôi dai dẳng, nuôi tốn gấp nhiều lần con số tiền trả cho VN.

Đối với VN họ cũng lợi trăm bề. Nhận một thằng, họ bỏ túi bộn bạc. Bỏ gọn lỏn vào túi! Đem nhốt chúng, đâu có tốn đồng xu nào, vì bắt chúng làm khổ sai, bỏ đói xanh xương, sinh lợi nhiều gấp mấy lần tiền lẻ bỏ ra nuôi chúng.

Còn đối với mấy thằng du đãng tội phạm, sợ té đái! Trục xuất là mất cơ hội vô quốc tịch, hay bị thu hồi quốc tịch. Muôn đời trâu ngựa ở bển! Phải nói, chúng sợ tù VN hơn là sợ bị bọn tù Mỹ đen đánh đập hay hiếp dâm chúng!

Trên thế giới có lẽ chưa có tù nào khủng khiếp bằng tù VN. Hỏi mấy ông tù HO, hay những người từng ăn cơm tù thì biết. Người viết đâu có nói thêm, hay xuyên tạc chút nào. Đừng ném đá, tôi ném lại đó nghen!

Từ ngày đó, cướp có súng không phải chỉ bị phạt tù vài năm, mà là trục xuất cho nếm mùi tù thật sự của CS. Thằng nào thằng nấy sợ teo, bu gi còn bằng hột đậu phộng lép! Cướp có súng từ bọn du đãng Việt, coi như tuyệt nọc!

Cám ơn chánh phủ Mỹ vô cùng sáng suốt, biết đường binh! Cám ơn “đảng ta”, “chính phủ ta”, có thuốc trị được cơn bịnh hiểm nghèo, giúp cho hàng triệu khúc ruột ngàn dậm thân yêu, được an cư lạc nghiệp! Chúng tôi yên tâm kinh doanh, mới có tiền gởi về bển chớ. Cũng rất công bình. Người Việt hải ngoại thật sự có được những năm tháng bình yên từ ngày đó đến nay.

Mua súng cũng giống như bạn phải sắm bình chữa lửa và cái thang dây để trong nhà, phòng khi có hoả hoạn. Dù để hoài không xài tới, cũng đừng tiếc tiền mua. Bạn không bao giờ trông cho nhà cháy để có cơ hội dùng tới bình chữa lửa, hay dùng cái thang dây cho cả nhà leo xuống từ lầu hai, phải không? Nhưng nếu bạn không cụ bị những thứ đó, khi hữu sự, bạn chỉ có đứng nhìn thần hoả thiêu rụi cơ ngơi mồ hôi và nước mắt của mình một cách vô vọng, hay bạn và người thân phải liều mạng nhảy lầu, tránh chết cháy, vì không có thang dây.

Đâu có ai trông cho kẻ xấu đột nhập vô nhà mình để đem súng ra phơ chúng! Nhưng cũng đâu có ai muốn kẻ xấu đột nhập vô nhà mình, mà trong tay không một tấc sắt? Súng là giải pháp bảo vệ an toàn cho mình và gia đình. Dù mình không mong có dịp xài tới nó, nhưng không có thì không được. Tuy nhiên, nếu một xã hội vô pháp vô cương, và không có trình độ dân trí cao (đi đường lỡ cọ quẹt một chút cũng xách mã tấu ra thanh toán), thì súng sẽ là một hiểm hoạ không biết tới đâu mà lường!

Peter Chánh Trần

From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng

Người Việt Nam sợ người Trung Quốc trên đất nước Việt Nam

Tai Nguyen shared TIN THỜI SỰ‘s video.
 

 
 
-1:40
 

 
 

 
 
 
 
37,234 Views
 
TIN THỜI SỰ

 

Chuyện ngược đời, gây bức xúc cho người : Người Việt Nam sợ người Trung Quốc trên đất nước Việt Nam

Clip này tốn của bạn 2 phút 44 giây, nhưng bù lại bạn sẽ thấy người Trung Quốc đang tung hoành như thế nào ở Thành phố đáng sống nhất Việt Nam – Đà Nẵng.

Bạn cũng sẽ hiểu người Trung Quốc đang hăm dọa người Việt Nam và người Việt Nam đang sợ hãi như thế nào tại nơi này?.

Nguồn VTV1

Nó không phải giấy phạt mà là giấy… 100 dollar bill… Merry Christmas.”

From:  Thanh Tran shared Viet Phan‘s post.
Image may contain: car and outdoor
Viet Phan

………………………………….. Christmas on the Street

Cụ bà lái chiếc xe Toyota cũ đời 1998, trên đường Garden Grove bị cảnh sát giao thông chớp đèn yêu cầu dừng xe…

Vừa xuống kính xe vừa khóc, cụ nói: ” Đây là những giây phút tệ hại nhất trong năm của tôi, chỉ còn có mấy ngày nữa là qua năm mới mà cũng không tránh được… ông có thể tha cho tôi lần này được không, thưa ngài cảnh sát?”…

Viên cảnh sát ôn tồn nói: ” Thưa bà, bà hãy nhận tờ giấy này….. nó không phải giấy phạt mà là giấy… 100 dollar bill… Merry Christmas.”.

Ngày hôm qua, Dec. 21st, 2017, có một người yêu cầu không nêu tên, đã đến Garden Grove Police Department với số tiền $50,000.00 US dollars, yêu cầu các cảnh sát trên đường đi tuần, thấy ai đi xe có vẻ nghèo, người lái xe chạy chậm có vẻ mệt mõi… hoặc những gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong khu vực, tặng họ một số tiền… làm quà Noël…

Merry Christmas,

… Good luck, bạn ta.

(VP)

LikeShow more reactions

Comment

Số người dùng facebook của Việt Nam đứng thứ 7 thế giới (64 triệu – Theo The Next Web)

Dang Tuong
Bây giờ biết sợ mạng xã hội rồi hả ông Bộ trưởng Bộ thông tin?

Con số đề nghị ít quá vậy 159/64 triệu.
Đề nghị là một chuyện, có làm theo đề nghị không là do công ty Facebook?
=======================
Số người dùng facebook của Việt Nam đứng thứ 7 thế giới (64 triệu – Theo The Next Web)

Số liệu do Facebook công bố mới đây cho thấy, tính đến tháng 7/2017, Ấn Độ là quốc gia có đông người dùng nhất thế giới với 241 triệu tài khoản đang hoạt động, chiếm 11% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Trong khi đó tổng số người dùng mạng xã hội này tại Mỹ là 240 triệu đúng vị trí thứ 2, Brazil ở vị trí số 3 với 139 triệu tài khoản.

Đáng chú ý hơn, có đến 4 nước Đông Nam Á nằm trong Top 10 quốc gia có đông người dùng Facebook nhất. Trong đó, Việt Nam xếp thứ 7 với 64 triệu người dùng, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Thái Lan đứng ngay sau Việt Nam, ở vị trí số 8 với 57 triệu người dùng. Indonesia và Philippines lần lượt xếp vị trí số 4 và số 6 với 126 triệu và 69 triệu tài khoản…
(Theo Báo Mới)

Image may contain: 1 person, text