San Jose – Vào lúc 2 giờ 30 chiều ngày 25/3/2018 vừa qua, nhằm ngày Chúa Nhật Lễ Lá, cựu ĐT và nguyên TT Trần Thiện Khiêm đã được LM Justin Giuse Lê Trung Tướng, cha chính xứ giáo xứ St. Elizabeth, Milpitas, đồng thời là cha Quản hạt, Giáo hạt San Jose, miền Bắc tiểu bang California Hoa Kỳ Rửa tội theo nghi lễ Công Giáo Rôma.
Ông sinh năm 1922, như vậy ở tuổi 96, ông đã chính thức xin gia nhập đạo Công Giáo và lấy tên thánh là Phaolô.
Bí tích Rửa tội đã được cử hành tại phòng khách của một dưỡng đường tại thành phố San Jose, miền Bắc California Hoa Kỳ, nơi ông đang nằm điều dưỡng do bị gẫy xương chân. Ông đã được rước Mình và Máu Thánh Chúa
Theo tin được biết việc xin gia nhập đạo Công Giáo do chính ông quyết định sau khi đã tự nghiên cứu và tìm hiểu từ lâu. Theo lời ông kể, trước đây ông theo Đạo Ông Bà; nhưng gia đình họ hàng của ông đã có rất nhiều người theo đạo Công Giáo, đã có những người làm Linh Mục, Ma Sơ. Và đặc biệt, cũng theo ông, Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng Viện và là vị Phó Tổng Thống sau cùng là người anh bà con của ông.
Nhà nghiên cứu Peter Zinoman phát biểu về sách Bên Thắng Cuộc ở hội thảo vừa qua tại Mỹ
Một trong những thiếu sót lớn trong lĩnh vực Việt Nam Học của khoảng một thế hệ qua là không có một ghi chép đầy đủ hoặc thực sự uy tín về hiện tượng lịch sử Đổi Mới (Renovation trong tiếng Anh).
Dù đây là định hướng chính sách tháo khoán nhờ đảng-nhà nước khởi xướng ở Đại hội Đảng 6 hay tinh thần cải tổ chung trong cả nước cuối thập niên 1980, thì Đổi mới rõ ràng lực đẩy quan trọng trong đời sống trí thức, văn hóa, chính trị, kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, các học giả nước ngoài quan tâm chủ đề này có xu hướng chỉ tập trung hạn hẹp vào một số góc cạnh Đổi Mới mà lại không xem xét toàn bộ hiện tượng.
Khi các sinh viên hỏi tôi tư liệu về Đổi Mới, tôi thường giới thiệu tác phẩm của Adam Fforde về kinh tế, Carlyle Thayer chính trị, Tường Vũ ý thức hệ, Ben Kerkvliet nông nghiệp, Hy Văn Lương văn hóa làng xã, Pam McElwee chính trị môi trường, Nguyễn Võ Thu Hương quan hệ giới, John Schafer văn học…
Nhưng thật khó tìm ra một bài báo, sách, hay một học giả nào cung cấp tổng quan về Đổi Mới – bao gồm lịch sử về nguồn gốc của nó, diễn trình thay đổi theo thời gian, và ảnh hưởng khác nhau lên các lĩnh vực đời sống người Việt.
Cái nhìn toàn cảnh
Một trong những thành tựu của sách Bên Thắng Cuộc (tác giả Huy Đức) là đem lại ghi chép tốt nhất, ở bất kỳ ngôn ngữ nào, về lịch sử và tầm quan trọng của Đổi Mới. Cuốn sách xem xét kỹ lưỡng cuộc khủng hoảng trong nước đã thúc đẩy đòi hỏi xã hội muốn có những cải tổ sâu rộng trong thập niên sau kết thúc Chiến tranh Đông dương lần hai.
Sách kể lại quá trình tiến hành cải tổ theo kiểu “tiến một bước, lùi hai bước”. Sách cũng mô tả các lý do cắt bỏ đột ngột nghị trình cải cách, đặc biệt về văn hóa và chính trị.
Tóm lại, Bên Thắng Cuộc cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh về Đổi mới – giúp khám phá và giải thích những thành công và thất bại của nó.
Bên Thắng Cuộc xác định nguồn gốc Đổi mới là trong khủng hoảng tự tạo ra khiến Việt Nam khó khăn trong giai đoạn hậu chiến 1975-1986. Khủng hoảng này gồm bảy thành tố chủ chốt, được Huy Đức viết trong bảy chương:
Giam cầm không qua xử án hàng trăm ngàn người miền Nam trong các trại cải tạo khắc nghiệt sau chiến tranh
Đảng-Nhà nước đàn áp thành phần tư sản miền Nam, đóng cửa, hoặc quốc hữu hóa doanh nghiệp của họ, tịch thu của cải
Trừng phạt dân số gốc Hoa. Ban đầu chính sách này chỉ là một phần của cuộc tấn công tư sản miền Nam, nhưng sau nó phát động lên thành một phần chiến dịch riêng loại bỏ “gián điệp” ở Việt Nam trong cuộc chiến biên giới chống Trung Quốc
Quân đội Việt Nam tiến vào và chiếm đóng Campuchia từ 1978
Hàng trăm ngàn người chạy trốn qua đường biển, trên bộ vào cuối 1970, đầu 1980, hy vọng thoát khỏi sự cai trị của người cộng sản và định cư ở nước ngoài
Nỗ lực chính thức của chính phủ nhằm chuyển hóa miền Nam thông qua xóa bỏ văn hóa “suy đồi”. Các biện pháp gồm đốt sách, cấm “tác giả phản động”, kiểm soát việc mặc gì, thời trang, kiểu tóc, kiểm duyệt khắt khe về nghệ thuật, ưu tiên cho con em người lao động và cách mạng, phân biệt các gia đình từng làm cho chính thể cũ
Miền Bắc chiến thắng áp đặt hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa kém cỏi lên miền Nam bị đánh bại
Tác giả Huy Đức phát biểu tại buổi thảo luận về sách của ông hôm 24/3
Thẳng thắn
Một trong những điều phi thường về Bên Thắng Cuộc là sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên trong các phần này của sách, nhất là khi ta biết sách là của một nhà báo sống trong nước. Huy Đức mô tả các viên chức cộng sản nói dối thản nhiên và liên tục về thời hạn cải tạo. Ông mô tả các thành viên gia đình được khuyến khích khai báo về người thân. Ông liệt kê điều kiện khổ sở trong các trại, và sự đối xử tệ bạc với gia đình người bị giữ. Ông mô tả làn sóng chống tư sản, chống người Hoa là chiến dịch tham lam của ăn cướp, bóp nặn, cưỡng ép ra đi.
Phần viết về cuộc xâm phạm Campuchia nhấn mạnh sự trớ trêu trong quan hệ lịch sử gần gũi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Pol Pot. Mô tả về làn sóng ra đi sau 1975 bộc lộ vai trò của giới an ninh địa phương thoái hóa khi họ tạo điều kiện và kiếm lời từ đợt chạy trốn. Ông cũng không ngần ngại mô tả việc “Bắc hóa” tai hại trong kinh tế miền Nam, là một chiến dịch xuất phát từ kiêu ngạo, ngu dốt và bám vào ý thức hệ.
Huy Đức trách Lê Duẩn về việc “Bắc hóa” nhưng ông cũng ngụ ý về vai trò Hồ Chí Minh khi đặt cạnh nhau phần nói về chính sách (chương 8) với đoạn về “Con đường của Bác”.
Trong “Con đường của Bác”, Huy Đức mô tả Hồ Chí Minh ủng hộ tập thể hóa kinh tế miền Bắc giai đoạn 1950 – trong đó có cuộc Cải cách Ruộng đất 1953-56 tai tiếng, tấn công tư sản miền Bắc là tiền đề cho tấn công tư sản miền Nam sau 1975.
Ở đây, Huy Đức vượt khỏi cách giải thích ngày càng phổ biến về chính trị cộng sản Việt Nam giai đoạn 1950, 60 xem Lê Duẩn quá khích khác Hồ Chí Minh trung dung (một cách nghĩ được phim tài liệu mới đây của Ken Burns áp dụng).
Huy Đức không phải là cây bút đầu tiên trong nước nhắc đến những phần tiêu cực này trong lịch sử hậu chiến Việt Nam. Nhưng đáng kinh ngạc là cách ông từ bỏ bút pháp quen thuộc của giới cầm bút trong nước (dùng uyển ngữ, nói tránh nói giảm).
Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ghi chép của Huy Đức về khủng hoảng hậu chiến thật quan trọng không chỉ vì sự bộc trực, không úp mở mà còn vì cách nó giúp giải thích sự xuất hiện của chính sách Đổi mới giữa thập niên 1980.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESBên Thắng Cuộc cung cấp chi tiết tiểu sử các lãnh đạo Việt Nam
Giống như phần mô tả về khủng hoảng dẫn tới Đổi mới, phần viết về quá trình cải cách của Huy Đức cũng bao gồm nhiều yếu tố phức tạp.
Tường thuật các thử nghiệm về làm ăn tư nhân không được trên cho phép – thường gọi là phá rào – ở nhiều địa phương cuối 1970, tạo ra tăng trưởng và năng động trái ngược với trì trệ và thiếu hiệu quả của kinh tế xã hội chủ nghĩa
Mô tả các lãnh đạo đảng bắt đầu ủng hộ các thử nghiệm tại Đại hội Đảng lần 6
Tường thuật Việt Nam rút quân khỏi Campuchia nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn giúp Việt Nam mở rộng và củng cố cải tổ kinh tế
Mô tả nỗ lực thành công phần nào trong cuối thập niên 1980 mở rộng tinh thần cải cách kinh tế sang lĩnh vực trí thức và văn hóa, thông qua giải phóng cho truyền thông và giảm kiểm duyệt nghệ thuật
Mô tả thất bại của cố gắng mở rộng tinh thần cải tổ sang chính trị thông qua cổ vũ các hình thức đa nguyên và dân chủ đa đảng
Khủng hoảng 1975-1986 cung cấp bối cảnh rộng lớn cho Đổi mới được mô tả trong sách, ngoài ra, Huy Đức cũng chỉ rõ những yếu tố khác tác động việc áp dụng nghị trình cải cách. Một trong đó là môi trường toàn cầu mới có lợi bất ngờ cho cải cách ở Việt Nam. Môi trường này bao gồm giới lãnh đạo đổi mới ở Trung Quốc và Liên Xô, Bức tường Berlin sụp đổ, các đồng minh xã hội chủ nghĩa ngừng viện trợ, các tổ chức đa phương và phi chính phủ sẵn sàng giúp đỡ, và môi trường ngoại giao thay đổi trong Asean, EU và Mỹ.
Truyền thống đổi mới
Một yếu tố nữa là lịch sử lâu dài từ trước của cải cách kinh tế, hoạt động kinh doanh trong dân, đã đem lại truyền thống để từ đó Đổi mới phát triển.
Huy Đức mô tả các thử nghiệm quan trọng của Kim Ngọc với chủ trương “khoán hộ” ở Vĩnh Phú thập niên 1960, việc phá rào ở Long An của Bùi Văn Giao, Bí thư Tỉnh ủy Long An Nguyễn Văn Chính những năm 1970. Ở chương 16, ông kể thêm về sự nghiệp các doanh nhân thành đạt như Bạch Thái Bưởi giai đoạn thực dân, sự bền gan của thương nhân tơ lụa Trịnh Văn Bô trong Chiến tranh Đông dương lần một và những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Những ví dụ này báo trước sự lớn dậy tự phát của doanh nghiệp nhỏ thành công ở miền Nam trước thời Đổi mới, như vá ép áo mưa rách, bơm mực ruột bút bi, tái chế dép nhựa cũ, nấu xà bông. Số liệu ở đây cân đối thú vị với phần về bối cảnh toàn cầu để chứng tỏ năng lượng đổi mới cũng được dựng xây từ nền tảng trong nước trước đó. Nó cũng gợi ý rằng phát triển kinh tế thị trường giai đoạn 1980 có cả việc học lại tư duy đã lãng quên chứ không phải là phát triển những thói quen này từ điểm số không.
Theo Huy Đức, một yếu tố nữa định hình và khuyến khích cải tổ là việc giới trí thức Việt Nam tiếp xúc với các phiên bản quá khích của xã hội cộng sản châu Á từ giữa tới cuối 1970.
Ví dụ, ông cho rằng sau khi Nguyên Ngọc quan sát Campuchia thời hậu Khmer Đỏ bị tàn phá, ông đã đặt câu hỏi căn bản về tính chất của các hệ thống cộng sản: “Tại sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết?”
Hay cái nhìn tiêu cực về chủ nghĩa cộng sản của nhà báo đổi mới Kim Hạnh là do sau khi dự “Liên hoan Thanh niên, Sinh viên” tại Bình Nhưỡng trở về năm 1989, bà thấy Bắc Hàn “như một thứ trại tập trung có quy mô toàn quốc”.
Huy Đức cũng viết những người miền Bắc chứng kiến sự phồn thịnh vật chất của các đô thị miền Nam sau 1975 đã đặt câu hỏi về tuyên truyền nhà nước xoay quanh đời sống miền Nam. Sự say mê của người Bắc về tủ lạnh, xe máy khiến họ quan tâm đến cách làm của kinh tế tư bản miền Nam. Sự tiếp xúc với miền Nam đã “đánh thức nhu cầu văn hóa của người dân miền Bắc”.
Khán giả đặt câu hỏi về cuốn sách Bên Thắng Cuộc
Mới lạ
Với tôi, một phần bất ngờ khi đọc Huy Đức kể về sự trổi dậy của cải cách là vai trò của sinh viên đại học. Trong chương về Đa nguyên, ông kể lại lịch sử hoạt động sinh viên mà ít người biết trong thập niên 1980, khá giống với phong trào sinh viên chống độc đoán lúc đó ở Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Cuối cùng, cách Huy Đức giải thích về sự xuất hiện của Đổi mới tỏ ra chú ý khác lạ về các vai trò phức tạp của nhóm chóp bu trong Đảng. Điều này trái ngược với hầu hết ghi chép về Đổi mới ở phương Tây. Do thiếu dữ liệu về nguồn gốc gia đình, lịch sử nghề nghiệp, tính cách, xu hướng chính trị, triết lý, kết nối xã hội của các thành viên Bộ chính trị, các nghiên cứu cũ thường đặt các lãnh đạo cộng sản vào các nhóm thô sơ mang tính chất cố định, nhị nguyên.
Họ mô tả quan hệ chính trị ở Việt Nam cộng sản là cuộc đấu tranh nhị nguyên giữa các đại biểu của phe “bắc và nam”, “quốc gia, quốc tế”, “thân Trung, thân Liên Xô”, “ủng hộ cải cách, chống cải cách”. Sự trái ngược của Bên Thắng Cuộc thật kinh ngạc.
Cuốn sách mô tả thật chi tiết về tính cách, tiểu sử nhiều lãnh đạo cộng sản như Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng, Phan Văn Khải, Nguyễn Phú Trọng.
Một chương 15 hấp dẫn chỉ nói về các cuộc đấu tranh liên quan đời tư, sự nghiệp và chính trị của Võ Nguyên Giáp.
Chương 14 thì so sánh hệ thống về sự nghiệp, gia đình, phong thái của Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Chương 18 lại tìm hiểu quan hệ và cạnh tranh giữa Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Dữ liệu tiểu sử tập thể này cung cấp một phần quan trọng giúp ta hiểu về tiến trình cải tổ vì tính cách và quan hệ đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị khép kín.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESTổng thống Mỹ Bill Clinton bắt tay Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu khi thăm Việt Nam năm 2000
Anh hùng rõ rệt trong Bên Thắng Cuộc là nhà cải cách Võ Văn Kiệt, nhưng người ủng hộ bất ngờ Đổi mới lại là Trường Chinh. Ông thay đổi suy nghĩ từ một nhà bảo thủ Marxist-Leninist thành người ủng hộ đổi mới vững chắc là chủ đề chương 10.
Dù đã 80, nhân vật linh động này thành thật nghiên cứu các vấn đề miền Nam và rồi ủng hộ, đề xuất giải pháp đổi mới. Nghiên cứu trước đây xem cải tổ bắt đầu khi Trường Chinh qua đời và Nguyễn Văn Linh lên làm lãnh đạo đảng năm 1986, nhưng Huy Đức ghi nhận đóng góp quyết định của Trường Chinh cho cải tổ.
Mặt khác, một số học giả phương Tây từng xem Nguyễn Văn Linh là thủ lĩnh đổi mới, nhưng ông này, trong sách Huy Đức, là nhân vật dao động và rốt cuộc thành người bảo thủ, đã bỏ lỡ cơ hội thúc đổi mới tiến lên sau tiến bộ ban đầu. Xu hướng hiện nay của Việt Nam – kinh tế thị trường gắn với hệ thống độc đảng không nhân nhượng, lạc hậu – đã củng cố từ thời Nguyễn Văn Linh.
Hạn chế của Đổi Mới
Hạn chế của đổi mới được xem xét trong các chương 12, 13 đánh giá số phận phức tạp của cải cách về tự do trí thức và thúc đẩy dân chủ. Sau khi mô tả sự cởi trói báo chí ngắn ngủi của Nguyễn Văn Linh cuối 1980, chương 12 kể nhiều về sự đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm thập niên 1950.
Sự bịt miệng phong trào này dường như tương tự câu chuyện Huy Đức kể về việc Nguyên Ngọc mất chức lãnh đạo tạp chí Văn Nghệ cuối thập niên 1980.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESBức tường Berlin sụp đổ ngày 9/11/1989 làm Việt Nam bị sốc
Chương 13 bắt đầu với câu chuyện tích cực về giới thiệu bầu cử dân chủ trong trường đại học, nhưng giọng văn tối dần khi Đảng đối diện sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, và sau đó là sự biến mất đột ngột của chính thể cộng sản Đông Âu. Sau khi ghi lại phản ứng lúng túng, lạc lõng của ban lãnh đạo trước tiến trình dân chủ hóa ở Đông Âu, chương này mô tả thăng trầm của những người cổ vũ dân chủ như chính khách Trần Xuân Bách, nhà báo Bùi Tín, và tướng quân đội Trần Độ.
Trong các chương sau đó, những người cải cách rơi vào thế thủ, dính vào bê bối, mâu thuẫn nội bộ, không thể thúc đẩy nghị trình bên ngoài kinh tế. Đánh giá thấp của Huy Đức dành cho những lãnh đạo sau này như Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn Dũng mang lại không khí bi quan trong các chương cuối. Sau hứa hẹn của cuối thập niên 1980, cải cách tại Việt Nam đã kẹt trong sa lầy của chính trị độc đoán trong nhà nước độc đảng.
Kiến thức từ bên trong ít người sánh bằng của Huy Đức về chính trị cấp cao cho phép ông mô tả các cuộc phiêu lưu cải tổ thời hậu chiến. Cuốn sách nổi trội nhờ chi tiết và sự sâu sắc hơn mọi ghi chép đã có.
Thật đáng tiếc các nhà xuất bản ngoại quốc lại thấy sách quá dài, quá chi tiết nên không muốn cho dịch. Nhưng tôi tin rằng một khi được ra mắt bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, Bên Thắng Cuộc sẽ thay đổi căn bản cách những nhà quan sát Việt Nam ở Tây phương suy nghĩ về giai đoạn quan trọng này trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Đây là bài phát biểu trong buổi thảo luận về sách Bên Thắng Cuộc hôm 24/3, tại Hội thảo hàng năm của Hội nghiên cứu châu Á (Association for Asian Studies) ở Washington DC, Mỹ. Đây là hội thảo học thuật lớn nhất về châu Á ở Bắc Mỹ, với hơn 400 nhóm thảo luận các chủ đề, hơn 3.000 người dự.
OMAHA, Neb. — Thành phố Omaha của tiểu bang Nebraska sẽ phải trả $232,000 cho những người chủ của một căn nhà bị phá huỷ gần đường 142nd và Blondo Street.
Hội Đồng Thành Phố Omaha đã bỏ phiếu 4 thuận trên 3 chống để giải quyết cho xong vụ này vào trưa xế Thứ Ba, ngày 20 tháng 3 năm 2018.
Căn nhà ở địa chỉ 2522 N. 142nd St., tại khu dân cư Autumn Heights, bị phá huỷ vào tháng 6 năm 2017. Các nhà điều tra lập biên bản thịt thối, rữa, máu và giồi trong nhà đậu xe sau khi các viên chức Địa Hạt Điện Lực Công Cộng tại Omaha cúp điện.
Các chủ nhà là William Nguyen và người chị Loan Nguyen đã kiện thành phố.
Theo hồ sơ kiện, William Nguyen là một nhân viên điều tra thịt đã giữ một số sản phẩm của ông trong các tủ lạnh lớn. Anh chị em nói rằng họ không thực sự sống tại căn nhà này và rằng họ không biết bị mất điện.
Những chủ nhà nói rằng họ đạt được thỏa thuận với nhà điều tra thành phố, rồi dọn ẹp sạch nhà cửa, nhưng thành phố cũng đã phá huỷ căn nhà của họ.
Trong thư gửi cho Hội Đồng Thành Phố, Phụ Tá Biện Lý Thành Phố William Acosta-Trejo giải thích lý do việc dàn xếp. Ông ấy viết rằng trong khi thành phố và tất cả nhân viên bác bỏ các vụ kiện cáo, thì thành phố nên trả nhiêu tiền hơn để chấm dứt kiện cáo.
Nhân viên cơ quan an toàn giao thông xem xét chiếc xe tự hành của Uber trong vụ tai nạn chết người. (Hình: NTSP)
TEMPE, Arizona (NV) – Cảnh sát nói băng video trên chiếc xe tự hành của Uber đụng chết một phụ nữ tối Chủ Nhật vừa qua cho thấy, nạn nhân bất thình lình bước tới đầu xe, một yếu tố mà các nhà điều tra nhiều phần sẽ tập trung vào, khi họ đánh giá sự vận hành của loại xe này đối với tai nạn chết người.
Đây là tai nạn chết người đầu tiên đối với xe tự hành đang được thử nghiệm tại nhiều thành phố ở Mỹ.
Theo bản tin của Bloomberg, chiếc xe của hãng Uber có video thu hình quay về phía trước, cho thấy nạn nhân đang đi bộ với chiếc xe đạp vào khoảng 10 giờ tối và từ con lươn giữa đường, trong bóng tối, bất ngờ bước vào luồng xe đang chạy.
“Rõ ràng là rất khó để tránh tai nạn này, trong bất cứ trường hợp nào,” bà Sylvia Moir, cảnh sát trưởng thành phố Tempe, Arizona, nơi tai nạn xảy ra, nói với nhật báo The San Francisco Chronicle.
“Tài xế chiếc xe nói rằng nó giống như một ánh chớp, nạn nhân bước ngay trước mặt xe,” bà Moir nói, đề cập đến tài xế ngồi sau tay lái nhưng không điều khiển chiếc xe. “Tài xế chỉ biết tai nạn xảy ra khi nghe âm thanh của sự va chạm.”
Đánh giá của bà cảnh sát trưởng nêu ra một số câu hỏi mới trong cuộc điều tra, có tầm quan trọng đối với tương lai của kỹ nghệ xe tự động đang ngày càng phát triển mạnh.
Công ty Uber Technologies Inc. tạm ngưng tất cả thử nghiệm xe tự hành sau tai nạn này, và các giới chức ở Boston cũng yêu cầu các cuộc thử nghiệm này ở thành phố tạm ngưng.
Hiện còn quá sớm để kết luận dựa theo thông tin có được, ông Brian Walker Smith, một giáo sư luật tại trường đại học University of South Carolina, người đang nghiên cứu sự an toàn của xe tự hành, nói.
“Có thể là hệ thống tự động của Uber không nhận ra người đi bộ, không xác định được đó là một người đi bộ, hoặc không dự đoán được nạn nhân xuất phát từ con lươn giữa đường,” ông Smith nói qua một email. “Tôi không biết những chuyện này xảy ra có quá trễ để mà tránh được không, hoặc làm giảm sự va chạm, hoặc nó có bao giờ xảy ra không, nhưng không thắng kịp hoặc bẻ tay lái qua một bên, rõ ràng là đáng báo động, và cho thấy hệ thống tự động này không bao giờ dự đoán sự va chạm này xảy ra.”
Sau đó cảnh sát nói qua một tuyên bố là họ sẽ để cho biện lý quận hạt quyết định có truy tố tài xế hay không, nhưng không bác bỏ bất cứ thông tin nào do Cảnh Sát Trưởng Moir đưa ra. (Đ.D.)
Ở Mỹ là thiên đường của lớp trẻ, chúng nó được đưa đón như thế này cho hết lớp 12. Sáng rước tận nơi chiều đưa tận chỗ. Lúc tôi còn ở ngoài khu nhà kia chúng nó cũng được đưa đón như thế này. Và trong thời gian học tập thì miễn phí hoàn toàn, chỉ riêng số gia đình có thu nhập trên quy định là phải đóng tiền ăn sáng và trưa cho con em. Nhưng tiền ăn rất là rẻ không đáng là bao hết, kiểu như vừa bán vừa cho ấy mà.
Sống trong một chế độ rất ưu đãi cho con em như thế này thì hỏi cha/mẹ nào mà không muốn? Hoặc hỏi người dân nào mà không muốn sống trong một chế độ có miễn phí hoàn toàn khi họ về già, hoặc lỡ khi họ nghèo khó hoặc khi họ còn là trẻ thơ? Đóng thuế thì đất nước nào cũng có, nhưng được bao nhiêu nước người dân được ưu đãi mọi mặt?
Sống trong một chế độ có đa đảng là điểm lợi cho toàn dân. Sở dĩ những nước có ưu đãi cho dân là nhờ dân lèo lái chính phủ, họ bỏ công sức ra họ đấu tranh hằng ngày mỗi khi mà họ bị mất quyền lợi, để có được những ưu đãi đó bằng cách là phải biểu tình chống đối những gì mà sẽ mang thiệt hại đến cho họ, và họ siêng năng đi bỏ phiếu bầu cho những người lãnh đạo mà họ đặt tin tưởng sẽ mang điểm lợi về cho họ.
Tui thấy có nhiều bài báo bịa chuyện con em ở Mỹ ngủ ngoài đường, thân hình mặc áo quần rách, chân không có giày hoặc dép là chuyện xí xàm. Bịa chuyện để đánh lừa những ai mà có ý định đến Mỹ hoặc mơ được đến Mỹ.
Tủ đựng vàng cổ khoảng 100 năm, triển lãm tại Ngân Hàng Quốc Gia Hungary tại Budapest năm 2011 (Hình minh họa: Getty Images)
Ông Lê Quang Uyển, người có trách nhiệm giữ 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia (NHQG), tài sản của Việt Nam đã qua đời tại Chiang Mai, Thái Lan thọ 81 tuổi. Ông sinh Tháng Chín năm 1937 và mất ngày 26 Tháng Giêng năm 2018. Nhân dịp 49 ngày ông mất, tôi xin có bài sau đây.
Trong giới kinh tế tài chính, nhất là vào những năm chót của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ai cũng biết đến Thống đốc trẻ tuổi của Ngân Hàng Quốc Gia là ông Lê Quang Uyển.
Sau khi tốt nghiệp HEC (Hautes Etudes Commerciales) tại Paris năm 1960, ông Lê Quang Uyển về Việt Nam phục vụ. Ông đã làm một thời gian ngắn làm cho Ngân Hàng Pháp Á (BFA – Banque Francaise de l’Asie). Sau đó ông Lê Quang Uyển cũng như nhiều chuyên viên trẻ khác cũng bị động viên vào quân đội và lên đến cấp bậc đại úy.
Từ quân đội ông được chuyển sang ngạch “chuyên viên Phủ Tổng Thống,” một ngạch công vụ của VNCH dành cho các chuyên viên trẻ, có học thức và nhiều tương lai. Họ được đào tạo để trở thành các nhà lãnh đạo tương lai trong ngành kinh tế, tài chính, giáo dục; các công ty của chính phủ – nhà đèn, công ty đường, Air Vietnam,… Và sau này có thể có những trách nhiệm cao cấp trong chính phủ. Ngạch này được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để kéo các chuyên viên giỏi phục vụ cho chính phủ VNCH.
Trong cương vị này, ông đã tham gia nhiều chuyến đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có chuyên viếng thăm Manilla. Sau này ông đã được đề nghị giữ ghế thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia.
Người ta nhớ nhất về Thống Đốc Uyển là những việc sau:
Chuyện Tín Nghĩa Ngân Hàng (TNNH hay Con gà đẻ trứng vàng), một xì-căng-đan thời VNCH
Lúc đó Tín Nghĩa Ngân Hàng là một trong những ngân hàng có tiếng tại Việt Nam, có nhiều chi nhánh tại Sài Gòn, Chợ Lớn và tại các tỉnh (năm 1969, sau khi đậu cao học kinh tế tôi có về làm tập sự tại ngân hàng ở VN và được gởi đi nhiều chi nhánh để biết về các nghiệp vụ tài chính ngân hàng).
Ban thanh tra ngân hàng của Ngân Hàng Quốc Gia có trách nhiệm theo dõi các nghiệp vụ cho vay của mọi ngân hàng có mặt tại Việt Nam. Một người trong nhóm thanh tra có báo cáo “sơ hở” trong quy trình cho vay của Tín Nghĩa Ngân Hàng và việc này đã trở thành xì-căng-đan tài chính tại Việt Nam. Ông Nguyễn Tấn Đời, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng đã dùng một số bộ hạ, người thân tín trong gia đình để vay các tín dụng. Ông quên rằng những việc làm này cũng khó mà qua mắt các thanh tra ngân hàng của Ngân Hàng Quốc Gia. Những người đi vay mà tài sản quá thấp làm sao có thể thế chấp để đi vay một số tín dụng khổng lồ của Tín Nghĩa Ngân Hàng. Thật ra thì ông Nguyễn Tấn Đời đã sử dụng những người này, đứng tên vay tiền cho cá nhân ông, rồi ông dùng số tiền tín dụng này để đầu tư cho cá nhân ông.
Thời đó chưa có tin học hay máy computer, nên muốn kiểm tra phải tới tận nơi và khám xét trực tiếp các hồ sơ cho vay (các sổ sách và tính toán đều làm bằng tay hoặc bằng máy NCR). Thống Đốc Uyển đã trình Tổng Thống Thiệu và thảo luận với ngành cảnh sát hình sự để giúp Ngân Hàng Quốc Gia đánh giá các hồ sơ cho vay của Tín Nghĩa Ngân Hàng.
Thống Đốc Lê Quang Uyển đợi lúc ông Nguyễn Tấn Đời đi nghỉ ở Đà Lạt, để gởi các thanh tra ngân hàng làm cuộc truy tìm các hồ sơ tín dụng gian lận của Tín Nghĩa Ngân Hàng. Các thanh tra chặn mọi cánh cửa của Tín Nghĩa Ngân Hàng ở bến Chương Dương không cho hồ sơ thoát ra ngoài. Trụ sở Tín Nghĩa Ngân Hàng không xa Ngân Hàng Quốc Gia, có lẽ độ 1,000 m và cùng ở Bến Chương Dương. Qua việc kiểm tra này, các thanh tra đã tìm thấy các hồ sơ tín dụng “dởm.” Lúc đó ông Nguyễn Tấn Đời là một tổng giám đốc ngân hàng rất mạnh, có nhiều người che chở và việc kiểm tra sổ sách của Tín Nghĩa Ngân Hàng là một kỳ công – phải được tổ chức như một chiến dịch quân sự.
Qua việc thanh tra này ông Lê Tấn Đời đã bị đưa ra tòa. Ông bị tuyên án và phải vào khám Chí Hòa. Như thế, Thống Đốc Lê Quang Uyển đã làm đúng trách nhiệm của NHQG là thanh tra chặt chẽ hệ thống ngân hàng thương mại dưới quyền ông. Qua việc này, ông đã chận đứng các lạm dụng trong ngành tài chính.
Việc giúp các chuyên gia khối kinh tế tài chính – gởi đi làm việc tại các bộ
Một khó khăn của VNCH trong những năm 1970 là thiếu ngân sách và khó tuyển mộ chuyên viên vì lương thấp. Trong kinh tế, muốn có thăng bằng ngân sách thì chính phủ sẽ bán một số công khố phiếu ra cho công chúng. Với tiền công khố phiếu, chính phủ dùng bù đắp thâm hụt ngân sách.
Ngân Hàng Quốc Gia có nhiệm vụ tham gia vào các chính sách tiền tệ và có đóng góp qua việc mua một số công khố phiếu của chính phủ. NHQG mua một số công khố phiếu và tiền lời của công khố phiếu được bỏ vào một quỹ của Ngân Hàng Quốc Gia. Thống Đốc Uyển quyết định dùng số tiền lời này, để trả lương cho nhân viên kinh tế tài chính – mà lúc đó VNCH đang rất thiếu – và cần một số lời được chia cho nhân viên của Ngân Hàng Quốc Gia. Qua việc này, ông thống đốc giúp bồi đắp vào chỗ hổng tài trợ chuyên viên, mà trước đây cơ quan USAID tài trợ nhưng ngân khoản viện trợ lại ngày càng giảm. Qua việc này, một số chuyên gia đã được gởi đi làm tại các bộ như Tài Chính, Nha Thuế Vụ hay Bộ Kế Hoạch, nói chung mọi nơi cần chuyên gia.
Ông cũng có chương trình kéo các chuyên viên tài chính ngân hàng trẻ gia nhập NHQG, gầy dựng nhân sự cho tương lai ngân hàng. Một số người trẻ, có khả năng và có tay nghề được tuyển mộ vào NHQG làm trong văn phòng thống đốc.
Ngoài việc dùng quỹ tiền lời công khố phiếu, Thống Đốc Uyển còn sử dụng Quỹ Phát Triển (QPT) Kinh tế Quốc Gia mà ông làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) gởi các chuyên viên của QPT đi giúp các bộ. Quỹ Phát Triển là một chi nhánh – thành phần của NHQG được vốn của Hoa Kỳ (USAID) trợ giúp. Ngoài việc tái tài trợ các ngân hàng phát triển Việt Nam (Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển Nông nghiệp, SOFIDIV…) Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia có một số chuyên viên trẻ được gởi đi trợ giúp các Bộ Kế Hoạch, Bộ Tài Chính qua việc tham gia vào công tác xây dựng Kế Hoạch Phát Triển Hậu Chiến, nhất là sau khi Hiệp Định Paris được ký kết.
Thống Đốc Lê Quang Uyển cũng cố vấn cho Tổng Thống Thiệu chọn người trong khối kinh tế tài chính, trong đó có việc giới thiệu ông Nguyễn Văn Hảo vào Quỹ Phát Triển và sau này làm phó thủ tướng đặc trách về kinh tế tài chính.
Giữ 16 tấn vàng cho Việt Nam
Trong những ngày chót của VNCH, Hoa Kỳ muốn VNCH đưa 16 tấn vàng gởi dự trữ tại Ngân Hàng Trung Ương tại New York (một việc làm bình thường vì đa số các nước đều có trương mục với ngân hàng FED New York). Sau khi bàn bạc, Thống Đốc Lê Quang Uyển quyết định gởi các thoi vàng qua Thụy Sĩ, tại Ngân Hàng Banque International Ressettlement – BIR ở Basle.
Theo kinh nghiệm thế giới, nhiều chính phủ Âu Châu trước đây, khi bị Cộng Sản xâm chiếm họ đã gởi vàng dự trữ tại đây để tránh chiến tranh và sau này giữ được tài sản quốc gia. Một kế hoạch đã được lập lên để chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ chứ không phải sang Hoa Kỳ. NHQG đã cho mướn một chuyến may bay để chở số vàng này qua Thụy Sĩ.
Trong lúc hỗn loạn của những ngày miền Nam sắp mất, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và máy bay được mướn chở vàng không thể đáp xuống Tân Sơn Nhất, vì vậy kế hoạch gởi vàng qua Thụy Sĩ không thực hiện được.
Vào những ngày chót, một số nhân viên ngân hàng cấp cao đều được cấp Walkie Talkie để dễ liên lạc với nhau nhằm bảo vệ tài sản cho Việt Nam. Thống Đốc Lê Quang Uyển tử thủ trong NHQG và chỉ mở cửa NHQG khi Cộng Sản mang nhiều xe tăng đến định bắn vào NHQG.
Cộng Sản lúc nào cũng phao tin đồn là cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng đi nước ngoài trong khi nhiều người cũng kể công về việc giữ số vàng này. Vậy sự thật ra sao? Bài báo sau đây của nhân chứng nói về kiểm tra vàng tại NHQG do báo Tuổi Trẻ đăng:
Bài viết của tác giả Huỳnh Bửu Sơn trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau:
“…Những ngày đầu Tháng Năm, 1975, tôi vào trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia ở 17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.
Lần kiểm kê cuối cùng… Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.
Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.
Đại diện Ban Quân Quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt – chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.
Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi – Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.
Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia…”
Tác giả Huỳnh Bửu Sơn cũng liệt kê từng tủ và từng hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng: 1.234 thoi vàng.”
Qua việc bảo tồn tài sản quốc gia, việc này cho thấy là các công chức của NHQG và người đứng đầu là Thống Đốc Lê Quang Uyển đã làm việc một cách nghiêm túc – với tinh thần trách nhiệm của một công chức. Đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tình thần trách nhiệm) và rất trung thực. Thống Đốc Lê Quang Uyển là một tấm gương soi sáng cho thế hệ trẻ – cho tinh thần trách nhiệm của công chức miền Nam.
Thống Đốc Lê Quang Uyển và tù cải tạo
Ông Uyển, cũng như nhiều người khác, đã phải đi cải tạo trên 3 năm trong Nam (1975-1979). Trái với ông phó thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia là ông Dõng, ông Uyển không trình diện liền khi Cộng Sản kêu gọi thành phần nội các ra trình diện học tập (họ không biết là thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia có hàm bộ trưởng.) Ông Phó Thống Đốc Dõng đã ra trình diện và bị chết trong trại tù Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa. (Tôi còn gặp bà Dõng tại Sài Gòn sau khi bà bị trục xuất ra khỏi nhà tại NHQG, khi tôi đi cải tạo về vào năm 1979).
Ông Uyển là một sĩ quan VNCH cấp bậc đại úy và đã ra trình diện khi Cộng Sản gọi các sĩ quan cấp đại úy trình diện. Ông bị đi tù cải tạo 3 năm.
Ông Lê Quang Uyển đã đi Pháp cùng vợ vì bà vợ, chị Geneviève LyLap (một huynh trưởng nữ hướng đạo hệ Scout et Guide de France, bà là công dân Pháp và là nhân viên Tòa Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn).
Năm 1981, ông Uyển tham gia vào ngân hàng Banque Indosuez. Ông được gởi làm giám đốc chi nhánh tại Saudi Arabia và ở đây đến 1990. Ông đứng đầu chi nhánh “Al BankAl Saudi Al Fransi” (Saudi French Bank), ngân hàng duy nhất của Pháp tại Ả Rập Saoudi. Sau 1990, ông Lê Quang Uyển được phái đi làm cho nhiều chi nhánh của ngân hàng Indosuez tại nhiều nước khác nhau.
Ông Lê Quang Uyển đã về hưu tại Chiang Mai, Thái Lan. Ông là hình ảnh một công chức VNCH có tư cách và có tinh thần trách nhiệm rất cao. Trong dịp 49 ngày ông qua đời (ba má và gia đình ông Lê Quang Uyển theo đạo Cao Đài), tôi viết vài hàng này để đề cao tinh thần trách nhiệm của cựu Thống Đốc Lê Quang Uyển.
Với tư cách một chuyên viên trẻ đã từng có thời gian làm việc với ông, tôi xin thành kính chia sẻ nỗi buồn với chị Uyển trong sự mất mát này và cầu mong ông sớm được về miền Cực Lạc. (TS. Đinh Xuân Quân)
California, Chủ Nhật, 18 Tháng Ba, 2018
(*) TS Đinh Xuân Quân là cựu nhân viên Quỹ Phát Triển trực thuộc NHQG. Ông là cựu giáo sư Đại Học Luật Khoa, Ban Kinh Tế, Đại Học Saigon (khóa 1974-1975). Hiện nay ông là chuyên gia, cố vấn kinh tế cho Liên Hiệp Quốc (UNDP+World Bank) và USAID tại nhiều nước như Afghanistan, Iraq, Indonesia…
Bà Shaina Trần, chủ một tiệm nail bị kẻ giả dạng làm thanh tra gọi để lừa tiền. (Hình: KOB 4)
ALBUQUERQUE, New Mexico (NV) – Sở thanh tra của tiểu bang New Mexico đang tìm một người đàn ông giả dạng làm thanh tra của tiểu bang để lừa tiền các doanh nghiệp nhỏ.
Theo tin của KOB 4, sở thanh tra cho biết kẻ giả mạo này đang nhắm các tiệm nail để kiếm tiền. Sở thanh tra còn cho rằng người này đã gọi hơn cả chục tiệm nail và bắt họ trả tiền từ $500 đến $1,200 hay phải ra tòa cãi để không bị đóng cửa.
Bà Shaina Trần, chủ tiệm Club and Spa Nail Salon, cho biết bà lúc nào cũng muốn khách hàng cảm thấy hoàn hảo và bà là người nhận ra được trò lừa bịp của kẻ giả mạo thanh tra tiểu bang này. Bà cho biết ông này gọi cho bà, nhận là thanh tra và đòi bà trả tiền phạt để giữ giấy phép mở tiệm.
Bà cho biết: “Ông ấy nói nếu không muốn ra tòa thì tôi phải trả $500.”
Nghi can này cũng gọi cho tiệm La Luxe Nail Salon của bà Nini Nguyễn. Bà cho biết lúc đầu cuộc gọi nghe như thật. Nghi can nói tiếng Việt và còn biết tên của người thanh tra thật từng đến tiệm của bà, tuy nghi can chưa ghé tiệm này bao giờ.
“Tôi thấy số điện thoại mà ông này dùng là của sở thanh tra,” bà Nini cho biết.
Kẻ giả mạo này còn gửi cho bà giấy tờ có đóng dấu của tiểu bang New Mexico, nhìn như thật vì có chữ ký của nhiều nhân viên làm việc cho tiểu bang. Tuy nhiên, bà Nini có sự nghi ngờ vì nghi can gửi giấy tờ cho bà qua tin nhắn rồi còn hỏi tại sao không thèm trả lời tin nhắn của ông.
Cả hai bà Shaina và Nini liền gọi cho sở thanh tra để báo cáo sự việc và biết được đây là một kẻ giả mạo.
Ông Robert Unthank, thuộc sở thanh tra của tiểu bang New Mexico, cho biết sở thanh tra không bao giờ đòi tiền qua điện thoại và nghi can đang hù dọa các chủ tiệm nail thôi. Ông còn chưa chắc nghi can này sống ở New Mexico.
Cũng theo ông Unthank, nghi can này nói tiếng Việt rất rành và đang nhắm các tiệm nail của người Việt. (TL)
KHI ĐỀN CHÙA CHỈ LÀ CÁC “CÔNG TY BÌNH PHONG” CỦA BỘ CÔNG AN.
Sự khuynh loát các tôn giáo để dễ bề lợi dụng họ ru ngủ hoặc hướng dẫn quần chúng đi theo đảng, là mục tiêu của Đảng cộng sản. Những tôn giáo không thể khuynh loát được, thì luôn nằm trong sự thù địch của nhà cầm quyền CSVN.
Phật giáo Việt Nam đã bị khuynh loát đến mức chính những kẻ giả danh sư sãi đã phá nát chính Giáo lý nhà Phật bằng những trò hết sức ngược ngạo. Và chính đám công an, cán bộ được bố trí làm công tác sư cũng đã đưa những thói xấu xa, trần tục vào nhà chùa, vào nơi tôn nghiêm của Phật giáo.
Đồng chí Thích Thanh Sam, tức là Hoàng Đăng Sam, quan chức PGVN vừa mới chết cách đây mấy hôm, đã bị các đồng chí làm lộ bí mật 50 tuổi đảng, nghĩa là ông ta là đảng viên đảng vô thần cộng sản, việc làm sư, chỉ là công tác cách mạng giao phó.
Đền chùa hiện tại chỉ là các “Công ty bình phong” của Bộ công an, mà chúng ta thường thấy qua vụ Vũ Nhôm chẳng hạn.
Vì vậy, việc bại hoại trong giới tăng ni quốc doanh là hiện thực và càng ngày càng phổ biến.
Chỉ đơn giản là tại sao cũng công tác cách mạng, cũng nhiệm vụ đảng giao mà các đồng chí khác lại được thoải mái ăn chơi, còn các đồng chí sư lại chịu thiệt thòi? Do vậy, không công khai thì bí mật, các đồng chí bù lại bằng những việc như đại đức Thích Chúc Minh chẳng hạn.
Điều này không lạ trong PG Quốc doanh hiện nay.
Theo mình được biết, các đồng chí cấp bậc cao từ công an chính quy chuyển sang lãnh đạo ngạch Phật giáo, có quân số, quân hàm cấp bậc khá cao, đều mang họ Thích Thanh. Như Thích Thanh Tứ, Thích Thanh Quyết, Thích Thanh Sam hoặc Thích Thanh Cường… Các bạn cứ chú ý mà xem.
Những hình ảnh sau đây, thể hiện sự phá hoại giáo lý nhà Phật một cách khủng khiếp và nặng nề.
Điều bi đát hơn là với chính sách ngu dân để trị, rất nhiều những người theo Phật giáo thậm chí cũng không hiểu những trò ma mị này là những việc hoàn toàn đi ngược với giáo lý Phật giáo. Nó chỉ là “Phật giáo quốc doanh cộng sản” bày ra mà thôi.
Các Phật tử chân chính không biết đấu tranh cho một nền Phật pháp chân chính, thì Phật giáo sẽ bại hoại ngay trước mắt chứ không xa.
Hai video: – Những trò lừa đảo của bọn “đội lốt sư sãi” – Đại đức Thích Silip
Trong khi vụ 245 tỉ đồng của khách hàng Chu Thị Bình gửi tiết kiệm ở Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu VN (Eximbank) bị mất kéo dài cả năm chưa giải quyết được thì lại thêm một vụ mất hơn 50 tỉ đồng của 6 khách hàng cũng tại ngân h….
Các nhân viên cứu hỏa đang nỗ lực tìm kiếm và cấp cứu người bị nạn. (Hình: Getty Images)
MIAMI, Florida (NV) – Một cây cầu mới xây, dành cho người đi bộ bắc ngang qua xa lộ ở một trường đại học tại Miami, Florida, sập hôm Thứ Năm, đè bẹp tám chiếc xe và làm nhiều người thiệt mạng, các giới chức cho AP biết.
AP trích lời ông Dave Downey, giám đốc Sở Cứu Hỏa Miami-Dade, nói có bốn người chết tại chỗ, tám người được chở vào bệnh viện.
Thượng Nghị Sĩ Ben Nelson (Dân Chủ-Florida) cho đài truyền hình CBS biết có “từ sáu đến 10 người thiệt mạng.”
Tại một cuộc họp báo, được chiếu trên đài CNN vào lúc 4 giờ 30 chiều, giờ địa phương, một đại diện Sở Cứu Hỏa Miami-Dade cho biết có tám chiếc xe bị cầu sập đè, và nhân viên cấp cứu đưa tám người bị thương vào bệnh viện.
Giới chức này không cho biết có bao nhiêu người chết, và cho biết thêm có hơn 100 xe cứu hỏa và cần cẩu có mặt tại hiện trường.