
Nước Mỹ Hôm Nay – USA Today
Nguồn: DKN Video

Tin Cộng Đồng Việt Nam ở Mỹ và ở Việt Nam

Nguồn: DKN Video

Công dân Mỹ gốc Việt bị chính quyền Việt Nam trục xuất hôm 20/7 vừa đăng tải dòng trạng thái trên cả tài khoản Facebook và Twitter Will Nguyễn bày tỏ “không hối tiếc” với những gì đã qua, trái ngược hẳn với “video nhận tội” trên truyền thông nhà nước Việt Nam.
“Bị bỏ tù mà không có án, không có bất kỳ hạn định là một sự ức hiếp tột độ. Will không bao giờ hối tiếc vì sự đóng góp cho nền dân chủ tại Việt Nam… và Will sẽ tiếp tục góp phần cho sự phát triển của Việt Nam trong suốt đời mình,” William Nguyễn sử dụng 2 hashtag #Vietnam và #danchu cho bài viết ngắn của mình.
Will Nguyen này còn chia sẻ hình ảnh chú cá voi “bơi trên không trung” của thành phố Hồ Chí Minh và cho biết ông xúc động vì hình ảnh này.
“Đắm mình trong ấn tượng bởi sự sáng tạo của người dân Việt. Cứ vấp vào hết hình ảnh này đến hình ảnh khác của dòng sự kiện dồn dập trong tháng trước, nhưng hình ảnh này – hình ảnh đã được một người bạn gửi sau khi bản án của Will được công bố – là hình ảnh làm Will xúc động nhất. Will những muốn được cám ơn, bất kể tác giả của nó là ai.”
Bị bỏ tù mà không có án, không có bất kỳ hạn định là một sự ức hiếp tột độ. Will không bao giờ hối tiếc vì sự đóng góp cho nền dân chủ tại Việt Nam.
Cựu sinh viên đại học Yale úp mở: “Một tuyên bố công khai đang thành hình”.
William Nguyễn (hay còn gọi là Will Nguyễn, William Nguyễn Anh), năm nay 32 tuổi. Anh bị bắt ngày 10/6/2018 sau khi trở về nước từ Singapore, tham dự cuộc biểu tình phản đối dự Luật Đặc khu và luật An ninh mạng của người Sài Gòn.
Các video đăng tải trên mạng xã hội sau đó cho thấy anh bị bắt, bị đánh bởi số đông người mặc thường phục, đầu đổ máu.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN Lê Thị Thu Hằng sau đó cho biết, Will Nguyễn bị bắt với cáo buộc “gây rối trật tự công cộng” và an ninh Việt Nam “không dùng vũ lực” với Will Nguyễn.
Ngày 18/6, thanh niên gốc Việt xuất hiện trên truyền hình Việt Nam hứa “sẽ không tham gia các hoạt động ‘chống phá’…nữa”, đồng thời bày tỏ hối hận là các hành động của anh đã “gây rắc rối cho gia đình, bạn bè…”
William Nguyễn cũng thừa nhận “cản trở giao thông, gây khó khăn cho những người ra phi trường”.
Hàng chục các dân biểu Mỹ gọi điện cho Đại sứ nước này tại Việt Nam và gửi thư cho Ngoại trưởng Mike Pompeo thúc giục trả tự do cho thanh niên sinh ra tại thành phố Houston, bang Texas.
Ngày 8-9/7, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo thăm Việt Nam, nêu vụ bắt công dân Mỹ và “thúc giục giải pháp nhanh chóng đối với vụ này”.
Ngày 20/7, William Nguyễn bị tòa án nhân dân TPHCM tuyên hình phạt “trục xuất ngay lập tức”.
Ngày 22/7, cô Victoria Nguyễn cho hay, anh của cô cần nghỉ ngơi để hồi phục và ngày 1/8 này William Nguyễn sẽ có mặt ở Houston.

Hà nội rác và động vật chết tanh rình, hôi thối nổi bồng bềnh ở Chương Mỹ Hà nội.
Đây là mầm mổng gây bệnh cho con người nhanh nhất.
Đấy . Chúng ta không quan tâm đến chính trị nhưng chính trị vẫn tìm đến ta từng ngày đó các bạn ! #đừngimlăng
Nếu phải sinh hoạt ngoài trời nên:
1. Mặc quần áo trắng hoặc màu dợt (nhợt), đội nón, che dù, uống nhiều nước lạnh tốt nhứt là nên uống loại nước Vitamin Water (có bán trong siêu thị), nước đá (ice)
2. Khi ở ngoài trời nên thường xuyên uống nước, đừng bao giờ đợi khát mới uống mà cứ 10-15 phút là uống một cup nước.
3. Khi thấy đổ mồ hôi lạnh là bắt đầu có triệu chứng người bị thiếu nước, thiếu muối, phải cấp tốc tìm nơi mát mẻ, nếu làm việc ở sân nhà cấp tốc vào trong nhà có điều hoà không khí, uống nước nhiều nước Vitamin Water.
Nếu ở ngoài công viên hay nơi làm việc thì tìm ngay bóng mát và uống nước Vitamin Water nhiều vào, dội nước lạnh từ trên đầu xuống.
Gặp trường hợp này mà không phản ứng kịp thời sẽ gây nguy hiểm cho sức khỏe có khi nguy hiểm đến cả tính mạng:
– Nếu nhẹ thì bị vọp bẻ (Heat Cram)
– Nếu nặng có thể đưa đến đột quỵ, đưa đến tình trạng hôn mê (Heat Strock)
Do đó rất nguy hiểm, vì vậy trong khoảng thời gian này nếu không có nhu cầu quá cần thiết thì nên ở trong nhà không nên ra ngoài, nhứt là trong thời gian này đừng bao giờ tổ chức cắm trại ngoài trời.
Trường hợp nhà bị hư máy lạnh hay bị cúp điện nên tìm nhà thân nhân ở tạm , hay vào khách sạn ở. Nếu ai không đủ điều kiện để tạm lánh nạn “nóng” thì có thể liên lạc với City Houston vào nơi tạm cư nơi đó có nhân viên xã hội phục vụ và tạm trú.
Chúc tất cả bà con đều được an toàn và khỏe mạnh trong mùa hè quá nóng của Texas năm nay, nhứt là tại thành phố Houston thân yêu của chúng ta.


Đằng-Giao/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Ai cũng biết học tiến sĩ (Ph.D.) là rất tốn tiền. Nhưng em Phan Quang Thịnh, sinh viên trường đại học University of California, Irvine (UCI), đang theo học tiến sĩ lại không phải lo chuyện tiền bạc gì cả.
Thịnh tươi cười nói: “Lúc đầu, cháu có ngại rằng nếu học thêm nữa thì tiền đâu mà đóng học phí. Nhưng đến khi biết rằng vào chương trình tiến sĩ, cháu có tiền, là cháu hoàn toàn an tâm mà tiếp tục học ngay.”
Trước hết, đại học UCI trả học phí cho sinh viên muốn lấy bằng tiến sĩ. Thịnh nhấn mạnh: “Chỉ cho những ai học tiến sĩ thôi, chứ sinh viên học cao học thì vẫn phải tự lo tiền học.”
Ngoài ra, trường còn cho sinh viên học tiến sĩ một khoản tiền nữa. Thịnh khẳng định: “Đây không phải là học bổng, vì sinh viên học cử nhân mới có học bổng mà thôi.”
Một cách vắn tắt, UCI bảo đảm cho Thịnh mỗi năm có từ $20,000 đến $30,000, là tiền “stipend.” “Đó là chưa nói đến họ trả học phí cho cháu, mỗi năm trị giá $17,000,” em nói.
“Tiền ‘stipend’ này là tiền lương của cháu. Nghĩa là cháu phải làm việc ở trường, như trợ giảng hay phụ tá giáo sư,” Thịnh giải thích.
“Đó là chưa nói nếu hội đủ diều kiện, sinh viên có thể xin thêm tiền ‘fellowship’ nữa,” em thêm.
“Fellowship” là một loại ngân sách mà chính phủ hay các cơ quan nghiên cứu lớn cấp cho sinh viên (thường là một nhóm) có những công trình nghiên cứu mà họ cảm thấy thích hợp.
Một cách tổng quát, Pell Grants là học bổng dành cho sinh viên học bằng cử nhân lần thứ nhất. Sau khi có bằng rồi, dù muốn lấy thêm bằng cử nhân khác, sinh viên không thể xin học bổng nữa.

Ngoài ra, còn có Cal Grants, cũng là học bổng dành cho sinh viên học cử nhân hay học trường huấn nghệ.
Chỉ có sinh viên học tiến sĩ mới có những khoản tiền mà Thịnh kể.
Như vậy để được nhận vào chương trình tiến sĩ, điều kiện thế nào?
“Với cháu, việc ghi danh vào chương trình tiến sĩ không có gì khó khăn lắm, chỉ cần mình giữ cái đà học ngay từ đầu,” Thịnh cho biết. “Cháu học tại UCI từ năm đầu tiên đến giờ.”
Với Thịnh, có thể đây là việc “không có gì là khó khăn lắm,” nhưng thống kê cho thấy, hằng năm, trong số 8,000 sinh viên nhận bằng cử nhân tại đây, mỗi ngành học chỉ có chừng 20 sinh viên được tuyển chọn vào chương trình tiến sĩ, cho nên toàn trường chỉ có khoảng 280 sinh viên học tiến sĩ.
Vẫn với thái độ khiêm tốn, Thịnh kể về những yêu cầu em phải vượt qua để được nhận vào hậu đại học phân khoa kỹ sư y tế (biomedical engineering) tại UCI.
Em nói: “Về điểm trung bình (GPA), cháu chỉ có 3.7 thôi.”
Nhưng đó chưa phải là tất cả những điều kiện em phải hội đủ. Em cần nộp tài liệu chứng minh công trình nghiên cứu trong thời gian qua dưới sự hướng dẫn của giáo sư chuyên trách.
Song song, em phải viết một bản tuyên bố mục đích cá nhân (personal statement) cho biết em muốn lấy bằng tiến sĩ ngành kỹ sư y tế để làm gì. “Sau điểm trung bình và công trình nghiên cứu, bản tuyên bố mục đích quan trọng hàng thứ ba. Mục đích phải hợp lý và thực sự có ích cho xã hội thì hội đồng tuyển sinh mới chấp nhận,” Thịnh kể.
Rồi điều kiện thứ tư là điểm thi GRE (Graduate Record Examinations). “GRE có ba phần là đọc, viết và toán. Vì là ngành kỹ sư nên họ không chú trọng nhất đến môn toán. Đọc và viết chỉ cần bốn trên sáu là đủ rồi,” Thịnh cho biết.
Nói về việc chọn học tiến sĩ ngành kỹ sư y tế, Thịnh cho hay, năm đầu tiên đại học, em cũng định theo học ngành y như nhiều sinh viên gốc Việt giỏi khác. “Nhưng dần dần, cháu thấy không thích hợp với công việc này. Vốn có kiến thức về ngành y, cháu nghĩ kỹ sư y tế là thích hợp với cá tính mình nhất. Rồi cháu nghĩ đến việc các bác sĩ đều phải dùng sản phẩm của kỹ sư y tế,” em chia sẻ.
Thứ nhất, công việc của kỹ sư y tế là cung cấp những dụng cụ hữu ích cho bác sĩ và bệnh nhân. Thịnh cười: “Cứ nghĩ rằng trong tương lai, cháu có thể phát minh ra những dụng cụ có ích lợi cho người khác là cháu thấy vui rồi.”
Thịnh thêm: “Hơn nữa, cháu muốn chứng minh cho chính mình là cháu có thể làm cái gì khác hơn là trở thành bác sĩ. Sinh viên gốc Việt nào học giỏi đều muốn thành bác sĩ thôi.”
Điều đặc biệt, Phan Quang Thịnh mới sang Mỹ có sáu năm, khi em đang học nửa chừng lớp 12 tại Việt Nam. (Đằng-Giao)
–—————-

Tại phía tây Bosnia và Herzegovina, trong khu vực Herzegovina. Từ năm 1981, nó đã trở thành một địa điểm phổ biến của cuộc hành hương Công giáo do có báo cáo về việc Đức Mẹ hiện ra với sáu người Công giáo địa phương, ngày nay thường gọi là Đức Mẹ Mễ Du.
Mễ Du (Medjugorje) là một làng nhỏ nằm giữa hai ngọn núi Krizevac và Podbrdovới dân số vài ngàn cư dân, thuộc tỉnh Mostar, nước Bosnia và Hercegovina. Ngày 24 tháng 6 năm 1981 là ngày lễ Thánh Gioan Baotixita, một số em nhỏ trong làng báo cáo rằng đã nhìn thấy hình bóng sáng chói của một người phụ nữ bồng trên tay một trẻ sơ sinh trên viền đồi Pobrdo. Các trẻ em này bao gồm: Vicka Ivankovic (sinh 1964, lúc đó 17 tuổi), Mirjana Dragicevic (sinh 1965, 16 tuổi), Marija Pavlovic (sinh 1965, 16 tuổi), Ivan Dragicevic (sinh 1965, 16 tuổi), Ivanka Ivankovic (sinh 1966, 15 tuổi) và Jakov Colo (sinh 1971, 10 tuổi).
Trong nhiều năm sau, những người thị nhân này cho rằng họ nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra hàng ngày và nói chuyện với họ khiến cho làng Mễ Du trở thành nơi thu hút đông đúc khách hành hương. Đáng chú ý, thị nhân Vicka Ivanković nói rằng cô đã cầu nguyện với Đức Mẹ và được Đức Mẹ ban cho chín “bí mật” và “nhiệm vụ”. Vicka nói rằng việc Đức Mẹ hiện ra với cô mỗi ngày vẫn chưa dừng lại và rằng, cô đã nhận được một tiểu sử về cuộc đời Đức Mẹ lưu trữ trong hai máy tính xách tay, sẽ được công bố khi Đức Mẹ cho phép. Hơn hai thập kỷ trôi qua, Vicka Ivanković vẫn tiếp tục gặp gỡ với khách hành hương tại Mễ Du với nụ cười tràn đầy niềm vui trên khuôn mặt của cô.
Lê Ngọc Thanh
Võ Đình Tuấn (11/4/1948) sinh ở Nha Trang. Từ bé, ông bắt đầu tự làm các đồ chơi cho mình khi còn nhỏ. Dưới sự khuyến khích của cha, ông đi theo con đường học tập để trở thành một nhà khoa học.
Năm 17 tuổi, tốt nghiệp trung học ở Việt Nam, Võ Đình Tuấn sang Thụy Sĩ du học và lấy bằng cử nhân vật lý năm 1971. Bốn năm sau, Tuấn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (TS) hóa lý tại Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ (ETH) ở Zurich.
Năm 1975, ông sang định cư tại Mỹ. Hai năm sau, ông là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại ORNL.
Bằng phát minh đầu tiên của Võ Đình Tuấn trao cho sáng chế “Băng dán cứu sinh” (1987) là một loại băng rất nhỏ và dễ sản xuất hàng loạt, dùng để gắn vào áo của công nhân khi họ làm việc trong những môi trường có nguy cơ cao, nhằm ghi lại các thông số của loại chất độc hại mà họ bị mắc phải trong quá trình lao động.
Chỉ cần 11 giây người ta đã biết mình bị ngộ độc ở mức độ nào và chữa chạy ngay mà không cần phải đưa vào bệnh viện, rồi phải tốn thì giờ lấy máu, nước tiểu để xét nghiệm.
Ngoài ra, TS Tuấn còn nghiên cứu cải tiến những công nghệ mới như: bộ phận cảm ứng quang học nano có khả năng phát hiện những thay đổi phân tử ở cấp độ tế bào; công nghệ mạch điện tử sinh-quang học siêu nhỏ (“chip” sinh-quang học) giúp việc thí nghiệm hóa học trở nên dễ dàng hơn và ít tốn kém hơn; quang học lượng tử giúp cho việc truyền những dữ liệu y khoa cá nhân trở nên an toàn hơn.
Sau gần 30 năm hoạt động khoa học, TS Tuấn là tác giả của trên 30 bằng phát minh và sáng chế đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực môi trường, sinh học, y học… Các viện nghiên cứu lớn đã sử dụng kỹ thuật của ông như Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ và hầu như tất cả bệnh viện của Mỹ đều áp dụng phương pháp và thiết bị chẩn đoán của ông.
Tiến sĩ Võ Đình Tuấn còn là viện sĩ Viện Hóa học Mỹ và là biên tập viên cũng như cố vấn của nhiều tạp chí quốc tế chuyên ngành. Ông còn là tác giả của 330 bài viết được công bố trên các báo và tạp chí. Ông cũng là tác giả của 6 cuốn sách về các đề tài khoa học và là giảng viên tại nhiều trường đại học.
TS Tuấn đã đoạt năm giải thưởng nghiên cứu và phát triển (R&D) vào các năm 1981, 1987, 1992, 1994 và 1996. Năm 1988, ông vinh dự được Hiệp hội Quang phổ học ứng dụng trao tặng huy chương vàng; năm 1989, ông là người đoạt giải Languedoc-Rousillon của Pháp. Ông cũng là người 2 lần đoạt giải chuyển giao công nghệ của Federal Laboratory Consortium (năm 1986 và 1995).
Năm 1992, ông phát minh một hệ thống lưu trữ quang học (SERODS) dùng trong các bộ nhớ máy tính, cơ sở dữ liệu y tế và cả NASA cũng dùng hệ thống này cho vệ tinh nhân tạo của mình. Trong năm này, Hiệp hội Câu lạc bộ Sáng chế Mỹ trao tặng ông giải International Hall of Fame.
Năm 1994, ông đạt một thành công rất lớn trong việc chế tạo một hệ thống phát hiện ung thư bằng quang học.
Năm 1996, ông được Câu lạc bộ Sáng chế Mỹ và Hiệp hội Sáng chế Tennessee bình chọn là Nhà phát minh giỏi nhất trong năm.
Năm 1997, ông được Bộ Năng lượng Mỹ trao giải nghiên cứu công nghệ và môi trường; một năm sau đó, ông lại đoạt giải Thương mại hóa công nghệ…
Vào ngày 9/5/2002, nhân kỷ niệm tháng truyền thống của các dân tộc thiểu số châu Á tại Mỹ, bà J.C. Hayward – người phát ngôn của USTPO – cho rằng những phát minh của tiến sĩ Võ Đình Tuấn cùng các nhà khoa học khác đã góp phần làm cho nước Mỹ trở thành nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới.
Cũng trong năm 2002, các trường tiểu học và trung học của Mỹ đều chiếu cuốn video về những nhà khoa học, trong đó có tiến sĩ Tuấn, cho các học sinh xem như một chương trình ngoại khóa. Bà Hayward nói: “Chủ yếu để thế hệ trẻ Hoa Kỳ nhớ đến những nhà bác học của các dân tộc và màu da khác nhau đã có những đóng góp to lớn không những cho xứ sở Hoa Kỳ mà còn cho toàn thế giới”.
Năm 2003, ông còn là một trong bốn nhà khoa học Mỹ gốc Á được Cơ quan Thương hiệu và phát minh Mỹ (USPTO) tôn vinh. Theo đánh giá của USPTO, những phát minh của TS Võ Đình Tuấn đã góp phần làm cho Mỹ trở thành một trong những nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới.
Creator Synetics – chuyên tư vấn hỗ trợ cho các công ty, tổ chức liên quan đến phát minh, sáng tạo và các tư tưởng đột phá đã gửi email đến 4.000 người Anh có hiểu biết và yêu cầu họ đề cử mười người họ cho là thiên tài hiện còn sống. Kết quả, Synetics nhận được các đề cử tới 1.100 nhân vật, nhưng chỉ 60% trong số này còn sống. Synetics đã lập ra một hội đồng gồm các chuyên gia trong lĩnh vực phát minh, sáng tạo để cho điểm (tới mười trên các tiêu chí đã nêu) để lọc ra “100 thiên tài đương đại”.
Để có được danh sách 100 thiên tài này, Creator Synetics đã tính điểm các ứng viên theo năm tiêu chuẩn: tạo ra những thay đổi lớn, được nhiều người biết đến, quyền lực của tri thức, thành tựu và tầm quan trọng về văn hóa.
Đứng đầu danh sách mà Creator Synetics công bố là nhà hóa học Thụy Sĩ Albert Hoffman (đã 101 tuổi, nổi tiếng thế giới như người phát minh ra LCD) và thiên tài máy tính người Anh Tim Berners – Lee (một trong những người sáng tạo ra mạng Internet).
TS Tuấn chính là người đi tiên phong trong lĩnh vực lượng tử ánh sáng, ông xây dựng nền tảng cho Viện Fitzpatrick trong các lĩnh vực: Lượng tử ánh sáng sinh học, Công nghệ nano, Vật liệu quang học và Công nghệ thông tin lượng tử.
Với những thành công liên tục trong nghiên cứu khoa học, từ năm 2003, ông là giám đốc Trung tâm Lượng tử ánh sáng của ORNL cho đến khi giữ chức Viện trưởng Viện Lượng tử ánh sáng Fitzpatrick của Mỹ.
(Ảnh: ornl.gov)

Bài số 5404-19-31245-v8060318
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, “Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên,” tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
***
Người Việt yêu tiếng Việt, là lẽ đương nhiên. Nhưng phụ huynh người Mỹ yêu tiếng Việt mới là điều đặc biệt.
Tuy dạy ngôn ngữ chính là tiếng Anh, tôi luôn khuyến khích phụ huynh người Việt và bạn bè thân hữu hãy cố gắng cho con em học tiếng Việt để bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ chúng ta nơi hải ngoại. Tôi chưa bao giờ “dụ” một người Mỹ nào cho con cái họ đi học Việt Ngữ, vậy mà có duyên may tôi lại được một người Mỹ nhờ dạy tiếng Việt cho bà và cháu ngoại.
Thường ngày ngoài thời gian đi dạy và làm việc nhà, tôi lại còn bận thêm chuyện viết lách, phải chia thời gian thật kỹ để còn tập thể dục chút đỉnh, cho nên thời gian rảnh rất hiếm hoi. Một lần anh phó hiệu trưởng của trung tâm Việt Ngữ cách thành phố tôi ở khoảng ba chục dặm gọi nhờ tôi “take over” dùm lớp tiếng Việt vì cô giáo chính đã nghỉ dạy. Tôi chỉ nhận lời dạy tạm một thời gian. Nhưng đến lớp, nhìn mười mấy cái miệng chim non mỗi ngày ê a tiếng Việt ngọng nghịu chen lẫn tiếng Anh, tôi yêu các em quá đỗi. Và tôi đành “hy sinh” các ngày thứ Bảy trong tuần để dạy luôn đến mấy mùa, cho tới khi gia đình dọn đi nơi khác.
Niên khóa mùa Thu năm đó bà con người Việt đưa con em đến ghi danh khá đông. Tôi mải mê đứng ngắm cái hàng dài phụ huynh chờ làm thủ tục, trong khi các em cặp trên vai chạy nhảy vui đùa xung quanh mà lòng bồi hồi nhớ lại những ngày tuổi thơ. Ngày tựu tường xưa tôi hớn hở trong quần áo mới, mang cặp đi nghêu ngao trên đường làng, hái hoa đuổi bướm bắt chuồn chuồn. Những ngôi trường mái ngói rêu phong, có cây đa cổ thụ rợp bóng mát cạnh đình làng. Nhớ lại để mà quý mà thương các thầy cô, ban chấp hành, các vị cố vấn, và những thiện nguyện viên đã bỏ bao công sức để cho trường Việt Ngữ được tồn tại nơi hải ngoại.
Các lớp học xưa ở quê nhà có cả một hệ thống giáo dục của chính phủ Quốc Gia ủng hộ chở che. Nhưng những lớp Việt Ngữ nơi quê hương thứ hai này, ban điều hành và mọi người đã phải “tự biên tự diễn” tự lo liệu tất cả. Hầu hết giáo viên và nhân sự ở đây đều làm thiện nguyện, chỉ một số ít nhận chút lương tượng trưng. Học phí thu vào một lần cho cả học kỳ chẳng được là bao, mà phải chi phí đủ thứ, từ dụng cụ giảng dạy đến thức ăn vặt cho bọn trẻ trong giờ chơi như bánh kẹo, nước, trái cây, rồi tốn kém cho các chương trình văn nghệ, lễ Tết này kia, làm cho ban điều hành đôi khi cũng phải chới với. May mắn là trường tiểu học thành phố cho mượn mấy phòng học trong những ngày cuối tuần nên khỏi phải trả tiền thuê địa điểm.
Ngày đầu tiên đến lớp tôi trao đổi với cô phụ giáo tên Linh về chương trình giảng dạy mà tôi soạn sẵn. Vì trường không thể cung cấp sách và truyện Việt Ngữ để dạy, nên tôi tự soạn chương trình, vẽ những hình ảnh minh hoạ theo các mẫu tự giống như trong sách tiếng Anh để cho các em dễ nhớ. Tôi cũng mua các loại truyện nhi đồng Anh Ngữ về rồi dùng bút marker ghi chữ Việt thật lớn bên cạnh những hàng chữ tiếng Anh để đọc cho các em nghe và tập các em đọc. Chỉ là “ngộ biến tùng quyền”, nhưng về sau tôi thấy cách này dạy các em cũng rất hiệu quả.
Vì sách truyện các em học ở trường đều là tiếng Anh, nên dùng loại sách này dịch ra tiếng Việt đi kèm các em cảm thấy quen thuộc nên rất thích học và còn dễ nhớ nữa. Nhìn đám trẻ loi nhoi với độ tuổi từ 5 đến 6, có bé mới hơn 4 tuổi, tôi biết dạy lớp này không hề đơn giản chút nào. Là lớp vỡ lòng, phần lớn các em không biết nhiều tiếng Việt, chỉ nghe, nói, và hiểu tiếng Anh, vì ngày thường bọn trẻ đang học Mẫu Giáo hoặc lớp Một ở trường Mỹ.
Để các em cảm nhận được bầu không khí quen thuộc như ở trường Mỹ, khi phụ huynh đưa các em đến tôi và Linh ra tận cửa đón chào từng em và dắt vào chỗ ngồi. Thầy hiệu trưởng vô lớp, giới thiệu chúng tôi với đám trò nhỏ rồi đi qua các phòng khác.
Bắt đầu buổi dạy, tôi nói tiếng Việt, nhưng nhiều em ngồi ngớ ra tỏ vẻ không hiểu, nên tôi phải dùng cả hai ngôn ngữ Việt Anh để làm quen các em. Sau đó chúng tôi bày bọn trẻ tự viết tên theo tiếng Việt vào mảnh giấy nhỏ rồi giúp chúng xếp thành hình tam giác để trước mặt cho các bạn chung bàn có thể đọc và nhớ tên nhau. Bất chợt tôi nhìn ra cửa sổ và thấy một phụ nữ Mỹ đứng dán mắt nhìn chăm chú vào lớp học. Tôi đưa tay vẩy chào bà rồi trở lại làm việc với đám học trò.
Không ngờ lát sau thì có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở và thấy người đàn bà Mỹ khi nãy dắt một đứa bé gái xin được nói chuyện với tôi. Tôi tự giới thiệu tên, bà cũng cho biết tên bà là Kathy và đứa cháu gái tên Daisy rồi bà nói bằng giọng rất tha thiết:
– Cô giáo à! Nãy giờ từ ngoài kia tôi đã quan sát và rất thích cách dạy của cô, nói tiếng Việt bọn nhỏ không hiểu thì cô giải thích thêm bằng Anh Ngữ và tụi nó đã nghe lời, làm theo những gì cô dạy. Thật tốt quá. Vậy nên tôi đã mang đứa cháu này của tôi từ một lớp khác ở phòng bên kia sang đây nhờ cô giúp nó. Tôi chưa kịp trả lời bà đã nói tiếp giọng nài nỉ: – Làm ơn đi mà!
Tôi thấy hơi bất ngờ, hỏi bà làm như vậy có tiện không vì tôi là cô giáo mới của lớp này nên ngại quá. Bà trấn an tôi, nói không sao vì bà đã giải thích cho thầy giáo lớp bên kia hiểu rồi, vì đứa cháu của bà thuộc dạng “đặc biệt” nên bà cần phải chọn cô giáo cho nó.
Nghe nói học trò “đặc biệt” là tôi đã giật mình kêu khổ thầm. Trong thời gian đi thực tập và đi dạy tôi đã gặp nhiều em bé thuộc loại đặc biệt và vất vả không ít, như trường hợp đứa trẻ bị tổn thương chuyển sang bệnh tự kỷ tên Athan mà tôi đã từng kể trong một bài viết trước đây.
Vì không muốn làm mất lòng người giáo viên lớp bên cạnh, nơi mà bà đã lấy đứa cháu ra khỏi lớp, ngại vị đó sẽ tự ái thì không hay, tôi định từ chối. Nhưng khi nhìn bé Daisy, trái tim tôi bỗng dưng thắt lại. Bé gái này xinh như một con búp bê, mà sao thần sắc lại vô cùng bạc nhược như không còn sức sống. Dù có làn da trắng, mặt mũi bé tái xanh, đôi mắt như vô hồn nhìn tận đâu đâu, bé không đáp lại khi tôi chào bé. Tôi hỏi thêm vài câu thì được biết Kathy là bà ngoại của bé. Bà Kathy thấy tôi không phản đối biết tôi nhận lời nên ôm lấy bé vỗ vỗ vào bờ vai nó:
– Daisy, đây là cô giáo của con, hãy ở lại học nhé! Con bé nhìn trừng trừng vào bà, rồi nhìn qua tôi mà vẫn không đáp lại lời nào. Bà xoay qua tôi: – Cô làm ơn để ý kỹ dùm cháu, dù tinh thần có chút bất ổn, bé rất ngoan chứ không quậy phá đâu. Trước đây nó là đứa trẻ bình thường, rất thông minh nhanh nhẹn và hoạt bát. Chỉ là sau khi mẹ mất tinh thần Daisy mới suy sụp trầm trọng như thế. Bé nghe thì hiểu hết, nhưng không chịu mở miệng nói chuyện, chúng tôi đã nhờ nhiều bác sĩ, chuyên gia tâm lý chạy chữa cho bé, nhưng vẫn không ăn thua.
Tôi thấy thương đứa bé đến xót xa, mới chừng này tuổi mà đã mồ côi mẹ thật là tội nghiệp. Bà Kathy cám ơn rối rít khi tôi trả lời sẽ nhận Daisy. Bà chào tôi ra về, nhưng suốt buổi học tôi thấy bà vẫn đứng ngoài cửa sổ dõi mắt nhìn vào lớp quan sát đứa cháu, làm tôi dù chăm chú dạy mà cũng có chút hơi…lúng túng, giống như ngày xưa khi dạy thực tập có các giáo sư đứng sau bức màn theo dõi chấm điểm vậy.
Điều đặc biệt làm tôi cảm động, là tấm lòng thiết tha mong muốn cháu mình học được tiếng Việt của bà ngoại Mỹ Trắng này. Mỗi thứ Bảy cuối tuần thay vì đưa cháu đi dã ngoại, đi chơi xa như phần đông những gia đình Mỹ, bà chịu khó đưa cháu đến trường Việt Ngữ, và chưa bao giờ bỏ một ngày nào.
Không phải chỉ ngày đầu, hầu như mỗi buổi học của Daisy bà Kathy đều đứng ngoài cửa kính nhìn vào, lúc lớp ra chơi thì bà lảng vảng gần đó quan sát, khi vô lớp lại thấy bà đứng bên ngoài. Mỗi khi tan lớp học, bà vào nhận cháu lúc nào cũng hỏi tôi hôm nay Daisy làm những gì, có viết, có nói được tiếng nào không, có nghe lời cô không. Cảm động vì tấm lòng của bà chúng tôi gom góp hết bài học, bài tập viết, tập vẽ của các em không bỏ sót một bài nào, cho Daisy và bọn nhỏ mang về khoe với gia đình.
Đáng buồn là học mấy tuần rồi mà tình trạng bé Daisy vẫn như ngày đầu đến lớp chứ chẳng khá hơn chút nào. Tôi và Linh rất thương con bé, luôn luôn kèm cặp, vỗ về chăm sóc đặc biệt, mua cho bé những món đồ chơi nho nhỏ, và nói chuyện với bé thường xuyên. Bé nghe và hiểu hết những gì tôi nói, kêu làm thì làm, bảo viết thì viết, vẽ cũng đẹp, cắt giấy cũng okay, viết chữ cũng rất đúng. Nhưng bé chỉ đáp lại bằng gật đầu hay lắc đầu, chứ tuyệt không mở miệng. Lúc nào con bé nhìn cũng lẻ loi, cô đơn rất tội nghiệp.
Còn vài tháng nữa thì đến Tết Trung Thu, trường Việt Ngữ tổ chức đêm văn nghệ Trăng Rằm để nhắc nhở các em về cái Tết Trăng Tròn truyền thống của trẻ em Việt Nam. Các tiết mục được chuẩn bị dàn dựng kỹ lưỡng, mỗi thầy cô lớp lớn sẽ tập dợt cho các em lớp mình trình diễn một màn. Các cô phụ trách dạy những điệu múa cổ truyền Việt Nam rộn ràng bàn tính, gửi về Việt Nam mua những chiếc gùi tí hon, đặt may trang phục đầy sắc màu cho các điệu múa của người Dân Tộc.
Lớp tôi dạy các em còn khá nhỏ nên thầy hiệu trưởng cho tôi toàn quyền quyết định chọn bất cứ màn trình diễn nào tiện cho các em. Tôi chọn tiết mục đơn giản nhất, là sẽ mở lên bài hát “Rước Đèn Tháng Tám” của nhạc sĩ Đức Quỳnh, rồi cho các em xách lồng đèn vừa đi vòng sân khấu vừa hát theo băng đĩa. Tôi và Linh cắt dán cho mỗi em một chiếc mũ giống vương miện với đủ màu sắc. Trang phục thì em nào có gì mặc nấy, áo bà ba, áo dài truyền thống, đồng phục học sinh của trường các em đang theo học, đồ bình thường…
Bà Kathy nghe có văn nghệ Tết Trung Thu cho các em thì mừng lắm. Bà thấy có vài đứa bé mặc áo dài chữ thọ truyền thống Việt Nam thì thích thú nên nhờ tôi đến tiệm người Việt mua dùm một bộ màu hồng cho Daisy. Những ngày Chúa Nhật chúng tôi tập dợt cho các bé bà đều đưa Daisy đến và ở lại xem từ đầu đến cuối. Các em nhỏ rất hào hứng, cùng nhau đi vòng quanh phòng học và hát theo “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường…”
Ngày đầu tập dượt, cả lớp vui vẻ. Khổ nỗi, bé Daisy nhất quyết không tham gia tập dợt dù tôi và bà ngoại bé hết sức dỗ dành. Tội nghiệp bà Kathy, cố gắng mọi cách cho bé tham gia mà vẫn không thành công. Dầu vậy bà không chịu bỏ cuộc, dù đưa bé đến chỉ để bé nhìn các bạn bà vẫn làm.
Đến giờ giải lao của buổi tập thứ hai, tôi ra ngồi nơi băng ghế ngoài sân trường canh chừng bọn nhỏ chơi đùa sau khi nhận phần quà ăn vặt và nước trái cây. Daisy cũng nhận phần bánh của mình và đứng ăn một cách từ tốn chỗ bồn hoa. Bỗng bà Kathy bước lại và ngồi xuống cạnh tôi.
– Xin lỗi bà! Tôi nói, mắt nhìn Daisy. – Tôi đã cố gắng để giúp Daisy hoà nhập tham gia tập luyện văn nghệ cùng với các bạn, nhưng không thành công. Dù tôi từng gặp và giúp thay đổi được nhiều học sinh có tình trạng “đặc biệt”, nhưng với Daisy thì đành bó tay rồi!
– Không phải lỗi do cô đâu! Bà nói giọng thật buồn. – Bữa giờ tôi chưa có dịp tâm sự chi tiết cùng cô về nguyên nhân đã khiến bé bị như vậy.
– Có phải bé bị bệnh tự kỷ không? -Cuối cùng tôi cũng đã hỏi ra một câu không đáng hỏi mà tôi cố dằn lòng lâu nay. – Tôi cũng từng gặp nhiều em bị tình trạng như bé vậy. Chịu khó chăm sóc kỹ càng, đôi khi sau một thời gian thì bé sẽ khá trở lại.
Bà cười buồn:
– Cũng mong là vậy. Đã hơn sáu tháng rồi, không biết đến bao giờ đây.
– Tội nghiệp bé quá! Tôi nói. – Tuy vậy, Daisy vẫn còn diễm phúc có bà ngoại tốt như bà. Tôi thấy bà lo lắng chăm sóc bé đủ điều đâu thua gì mẹ ruột.
– Thật ra, tôi không phải là bà ngoại ruột của Daisy đâu, ngoại ruột bé là người Việt Nam.
– Ủa? Tôi kêu lên. – Sao bé không có vẻ gì giống người Việt hết? Vậy bà ngoại ruột bé đâu rồi?
– Mẹ bé Daisy là trẻ lai, con riêng của chồng tôi. Bà ngoại bé mất trước, nửa năm sau là mẹ nó mất luôn. Cho nên nếu tôi không giúp thì chẳng còn ai trên đời này giúp cho bé cả!
– Trời! Sao mà con bé tội nghiệp đến thế! Tôi kêu lên lần nữa và nhìn bà chăm chú.
Thấy tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, bà Kathy do dự một chút, rồi bắt đầu kể tôi nghe về thảm họa của gia đình bé Daisy. Giọng bà nghe thật buồn giữa tiếng nô đùa huyên náo của đám học trò.
Chồng bà, ông Robert từng là một cựu chiến binh Việt Nam. Bà trẻ hơn ông gần chục tuổi. Hai người kết hôn sau khi ông trở về từ Việt Nam, đi học tiếp tốt nghiệp luật sư và ra đi làm.
Thời gian chiến đấu bên Việt Nam, Robert còn là chàng trai độc thân. Năm 1974, sau khi anh rời Việt Nam trở về Mỹ, Tha, cô bạn gái người Việt nơi anh đồn trú mới biết mình có thai. Sau đó Robert gửi thư qua Việt Nam, và cô ấy nhờ người viết dùm thư báo cho anh biết chuyện đứa con trong bụng. Robert đã hồi âm là sẽ tìm cách qua Việt Nam lần nữa để đem cô qua Mỹ. Tuy nhiên, ngay sau đó chiến tranh lan tới vùng cô ở nên sau cái thư thứ hai của Robert là họ bị mất liên lạc cho tới tháng Tư năm 1975.
Kể tới đây bà Kathy thở dài:
– Tha sinh con gái đặt tên là My, và sau chiến tranh mẹ con cô ấy bị đuổi đi vùng rừng núi sống cuộc đời vất vả đói khát, thật là tội nghiệp.
– Đúng rồi! Tôi tiếp lời bà. – Sau 1975, những người có con lai bị chế độ mới đối xử rất tệ, cũng giống như gia đình tôi, chồng tôi là quân nhân Nam Việt Nam nên chúng tôi từ thành phố cũng bị đuổi đi vùng rừng sâu nước độc mà họ gọi là kinh tế mới để phát rừng trồng trọt mà sống!
Bà Kathy kể tiếp.
– Trong những năm con lai được đưa qua Mỹ, chồng tôi Robert cố gắng tìm kiếm mẹ con bà ấy nhưng không được. Bà Tha vì đau yếu triền miên, con gái lớn lên cơ cực không được học hành nên họ đã không còn nghĩ đến việc tìm lại ông ấy. Mãi đến sau này, hội thánh Tin Lành giúp tìm lại được bọn họ, nhờ vào lá thư sau cùng chồng tôi gửi bà Tha còn dấu được mang theo, tuy đã cũ nát và phai màu, chỉ còn nhận ra mỗi chữ ký của Robert mà thôi. Khi chồng tôi gặp lại được họ, thì bé Daisy đã hai tuổi. Nhưng rồi vì sức yếu bà Tha đã ra đi, bỏ lại My đứa con gái còm cõi và đứa cháu ngoại tội nghiệp này.
– Chuyện quả thật ly kỳ! Tôi nói. – Và thật là tội nghiệp! Nhưng cũng còn may, Thượng Đế đã giúp họ tìm lại được ông ấy trước khi họ lìa đời. Cho nên bây giờ bé Daisy mới có chỗ nương thân mà không phải vào viện mồ côi. Còn cha của bé đâu hả bà?
Bà Kathy lắc đầu:
– Chúng tôi thật tình không biết! My bị chứng còi xương vì thuở nhỏ nuôi dưỡng trong tình trạng đói khổ nên lớn không nổi, gần bốn chục tuổi mà nhỏ xíu như đứa trẻ mười mấy, lại ốm yếu, dù mặt mũi nhìn cũng okay mà chẳng có ai thương. Nhưng rồi không biết cái đứa khốn kiếp nào đã dụ con nhỏ và làm cho nó mang bầu. Khi gặp lại chồng tôi rất giận, tra hỏi mãi muốn tìm thằng đó để trừng trị, nhưng My không chịu nói tên cha của đứa bé là ai. Gia đình họ sau đó dọn về sống cùng thành phố với chúng tôi. Tôi đã chứng kiến Daisy rất thương bà ngoại Tha và bà cũng cưng quý bé hơn bất cứ thứ gì. Bà nuôi bé kỹ càng, ngày lo cho ăn uống, tối hát ru bé ngủ. Bé ít khi ngủ với mẹ đến khi bà ngoại mất.
– Vậy mẹ bé bị tai nạn ra sao mà mất?
– Bị xe đụng, mới năm ngoái thôi. Hôm đó My đưa Daisy đi Walmart, đậu xe xong My dắt con bé đi vào thì một bà già lui xe đụng phải My. Thay vì đạp thắng, bà hoảng hốt đạp ga và cưỡi lên người My trước sự chứng kiến của Daisy.
– Trời đất ơi! Tôi thấy lạnh cả người, và tôi nói như muốn khóc. – Thảo nào! Bé đã bị hai cú sốc quá lớn, mất bà rồi lại mất mẹ trong một thời gian ngắn làm sao trái tim bé bỏng chịu nổi chứ!
Giọng bà Kathy cũng trở nên nghẹn ngào:
– Robert nhà tôi đau lòng vô kể. – Ông ấy nằm liệt giường cả tháng trời. Rồi khi dậy được thì bắt đầu uống rượu để quên. Tôi phải giúp ông ấy, đưa Daisy về ở vói chúng tôi và lo cho nó, vì ngoài tôi ra không còn ai có thể giúp bé hết! May mà hai đứa con của chúng tôi đã lớn và dọn ra ngoài hết rồi.
Tôi thật cảm phục tấm lòng nhân hậu của bà Kathy. Không có bà, Daisy tội nghiệp biết làm sao. Người ta nói người Mỹ rất lạnh lùng và rạch ròi về tình cảm liên quan của gia đình, hay đúng hơn là “mạnh ai nấy mạnh.” Nhưng bà Kathy đã thương yêu đứa cháu ngoại của chồng mình bằng cả trái tim của người bà, người mẹ ruột. Thật là chuyện hiếm thấy. Tôi nói với bà suy nghĩ của tôi.
– Đó là chuyện tôi phải làm mà. Kathy nói với vẻ khiêm nhượng. – Chỉ có điều là từ khi vợ chồng tôi đem bé về nuôi, bé không có cơ hội nói tiếng Việt với ai hết. Đó là lý do Bác sĩ tâm lý kêu tôi cho bé đi học Việt Ngữ. Nhưng đến giờ bé cũng chưa nói được câu nào. Thật là buồn!
Nói đến đây bà Kathy chào tôi, nói bà cần đi toa lét. Tôi ngồi suy nghĩ lan man, chợt từ đâu hai đứa học sinh lớp lớn rượt đuổi nhau chạy ào qua sân trường. Một đứa bỗng đâm sầm vào Daisy làm con bé ngã xuống đất, và nó khóc thét lên. Tôi vội chạy tới đỡ bé dậy, vén áo đầm bé lên thì thấy nơi đầu gối bị một vết thâm tím. Đau đớn làm bé khóc không ngừng. Tôi dắt Daisy lại chỗ bàn cung cấp thức ăn, chộp vội chai nước trái cây còn lạnh rồi đưa bé trở lại chỗ ngồi. Đặt bé ngồi trên đùi, tôi lăn nhè nhẹ chai nước lên chỗ bầm để hơi lạnh làm cho tan sưng.
Con bé có lẽ bớt đau nên nín khóc ngồi im, đầu tựa vào ngực tôi. Ôm đứa trẻ vào lòng, tôi chợt nhớ lại những gì bà Kathy vừa kể, và một niềm thương cảm dâng lên làm tôi nghẹn ngào. Tai hoạ đã giáng xuống đầu đứa bé tội nghiệp này, còn nhỏ xíu mà đã chịu mồ côi, chứng kiến cảnh mẹ mất kinh hoàng bảo sao bé không bị chấn động tâm thần cho được. Tôi từng tuổi này mà khi mất mẹ còn đau đớn vô ngần, huống chi đứa bé còn đang cần sự vỗ về của mẹ. Suy nghĩ miên man trong vô thức, tự nhiên bàn tay tôi vỗ nhè nhẹ lên vai Daisy và buột miệng hát bâng quơ nho nhỏ vài câu ru em:
– Ầu ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, con thi trường học… mẹ thi trường đời…
Đột nhiên tôi giật mình vì cảm giác có một bàn tay nhỏ mềm mại sờ lên mặt tôi. Rồi có tiếng gọi:
– Cô ơi!
Tôi sững sờ, không tin vào tai mình. Đó là tiếng của bé Daisy. Tôi nhìn xuống, thì ra là bé gọi tôi, bàn tay bé vẫn còn sờ lên mặt tôi, ánh mắt bé ngước nhìn thật là thân thiện và đầy vẻ tin cậy.
– Con mới gọi cô hả? Tôi lập cập hỏi, cảm thấy tim mình đập thật nhanh.
– Cô ơi! Daisy gọi lần nữa. – Con… lạnh…
Chai nước trái cây trên đầu gối Daisy rời khỏi tay tôi, rơi đánh bộp xuống đất. Tôi đưa bàn tay lạnh ngắt vì nãy giờ cầm chai nước, nắm lấy bàn tay nhỏ xíu đang sờ mặt tôi và hôn lên đó. Nước mắt tôi rơi làm ướt tay con bé. Vậy là bé đã mở miệng. – Cám ơn con! Tôi thì thầm, siết chặt bé vào lòng.
– Oh my God!
Có tiếng kêu đầy ngạc nhiên bên cạnh. Tôi quay lại thì thấy bà Kathy đang đứng mồm há hốc, mắt trợn tròn nhìn chằm chằm vào Daisy.
– Bé vừa gọi tôi “Cô ơi” bằng tiếng Việt đấy bà ạ! Tôi la lên với bà bằng nỗi vui mừng khôn tả. Bà Kathy nghe thế thì kêu to hơn:
– God! Chúa ơi! Con bé đã nói được! Bà nói xong chạy lại ngồi xuống cạnh tôi rồi choàng tay qua ôm lấy Daisy, nói trong tiếng khóc: – Oh My God! Cháu tôi đã nói chuyện lại được rồi! Thật không uổng công tôi đưa bé đến đây!
Và bà lấy điện thoại ra gọi ông chồng, líu lo hớn hở khoe với ông Robert về chuyện bé Daisy đã nói được, mà còn nói tiếng Việt.
Tôi cũng cảm động đến nghẹn lời. Hít sâu và thở vài hơi, tôi kể lại cho bà Kathy nghe về lời ru tiếng Việt tôi vừa hát ru để vỗ về cho bé nín khóc vì bị ngã sưng đầu gối. Lời ru mà bất cứ người mẹ, người bà Việt Nam nào cũng biết hát ru cho các bé thơ. Vậy là nhờ tiếng ru vô tình của tôi dỗ dành đã đánh thức được tâm trí của bé. Có lẽ là bà ngoại quá cố của bé hay mẹ bé cũng đã từng hát ru cho bé ngủ bằng bài hát ru này chăng?
Bà Kathy tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng, luôn miệng lập đi lập lại hai chữ “Thần kỳ! Thần kỳ” (Miracle!).
Tôi cũng thấy quả đúng là thần kỳ! Lời ru con của người mẹ Việt Nam đã đánh thức được tâm trí bị đóng băng của đứa bé. Vô lại phòng tập, tôi đội cho Daisy chiếc vương miện và đưa bé cái lồng đèn. Lần này bé không đẩy ra nữa, mà nhập vào cũng các bạn rồi cầm lồng đèn đi vòng quanh, miệng bé cũng bập bẹ hát theo bài “Rước Đèn Tháng Tám.
Lúc chào tôi ra về, bà Kathy bất chợt cầm lấy tay tôi và nói một cách thiết tha:
– Cô giáo à! Tôi muôn vàn cám ơn cô! (Millions thanks!) Nhờ cô, mà bé Daisy đã nói lại được. Tôi nghĩ mình cũng có lỗi, vì trong nhà mọi người đều nói tiếng Anh, đáng lý tôi phải cho bé đi học tiếng Việt sớm hơn, hoặc chí ít tôi cũng phải tìm bạn Việt Nam cho chơi với bé! Bà do dự một chút rồi nói tiếp: – Tôi vừa nghĩ ra chuyện này, không biết cô có thể giúp tôi chăng?
– Bà cứ nói, nếu làm được tôi sẽ không ngại đâu.
– Tôi muốn học tiếng Việt! Bà cười vẻ bẽn lẽn. – Chắc là khó lắm đây, tôi chẳng biết có học nổi không. Nhưng tôi rất muốn học để về nhà tôi có thể nói chuyện trao đổi chút đỉnh vừa tiếng Việt vừa tiếng Anh với Daisy.
Nghĩ tới cái cảnh lâu nay bé không nói được lời nào tôi thương quá!
Tôi thật xúc động vì cái tình cảm bà Kathy dành cho Daisy. Tự nghĩ nếu mình ở vai trò “bà ngoại ghẻ” như bà không biết có đủ rộng lượng để làm như bà ấy hay không.
– Sure! Chắc chắn rồi! Tôi nói. – Bà là một bà ngoại tuyệt vời! Tôi rất vui được làm điều này cho bà. Tiếng Việt học thú vị lắm chứ không khó đâu! Bà sẽ học được!
Tôi kể bà nghe về cô ca sĩ Mỹ tóc vàng Dalena ban đầu không hể biết tiếng Việt, nhưng giờ thì hát tiếng Việt hay nổi tiếng khắp nơi, nhiều chương trình, băng đĩa, sân khấu tiếng Việt đã mời cô đến hát và cô có rất nhiều fan hâm mộ người Việt khắp nơi trên thế giới.
Bà Kathy mừng quính:
– Oh yeah! Thú vị thật! Robert chắc chắn sẽ vui lắm!
Từ đó mỗi buổi học bà Kathy đưa bé Daisy đến tôi kêu bà vô lớp ngồi học chung với Daisy. Tan học ra ngoài tôi nán lại nửa giờ đưa bà và bé Daisy vô ngồi trong xe tôi để dạy thêm cho họ. Ông xã tôi nghe kể chọc là tôi mở “Lớp học trong xe”.
Tôi về soạn thêm nhiều câu đàm thoại ngắn hàng ngày và những câu chào hỏi thông thường bên trên viết tiếng Việt bên dưới tiếng Anh và đưa cho bà Kathy đem về nhà học. Bà ấy rất thông minh và ham học. Bà kể ngày xưa bà từng học tiếng Tây Ban Nha (Spanish), ngôn ngữ mà cách phát âm gần giống tiếng Việt nên bây giờ học tiếng Việt khá dễ dàng. Bà đã nói đúng, tiếng Tây Ban Nha cách dùng chữ cũng tương tự Việt Ngữ của chúng ta, tính từ luôn đứng sau danh từ chứ không phải đứng trước như tiếng Anh. (Tiếng Anh: The red house, Việt: Cái nhà đỏ, Spanish: La casa roja).
Daisy từ đó cũng siêng hơn nên tiếng bộ rất nhiều. Bà cháu học bằng cách mỗi ngày về nhà sau khi Daisy học và làm bài tập ở trường xong, thì hai bà cháu thực tập tiếng Việt với nhau. Mỗi buổi đến học bà đều khoe với tôi hai bà cháu học được bao nhiêu chữ. Bà cho tôi biết từ khi Daisy nói chuyện bình thường ông Robert đã thấy khoẻ hẳn ra và không uống rượu nữa. Hai người còn tính chuyện khi Daisy lớn lên, thế nào họ cũng sẽ đưa Daisy đi du lịch Việt nam một chuyến về thăm lại quê ngoại bé, cũng là nơi ông Robert từng đóng quân ngày xưa.
Rồi ngày văn nghệ Trung Thu cũng đến. Tối đó, sau khi sắp xếp cho tiết mục lớp tôi xong thì tôi giao lại cho cô Linh trông chừng bọn trẻ, tôi ra bên ngoài tìm ông xã. Tôi còn đang nhìn dáo dác, bỗng đâu bà Kathy đưa ông Robert lại gặp tôi, trên tay ông cầm một bó hoa. Mặc áo khoác màu lính, đầu đội mũ dìm có chữ “Viet Vet” và hàm râu quai nón, trông ông rất oai phong. Thảo nào bà Kathy lại yêu ông đến thế, tôi mỉm cười thầm nghĩ. Trong lòng tôi rất cảm động, Robert là luật sư đã về hưu, mà vẫn thích trang phục kiểu nhà binh thuở còn đi chiến đấu, chứng tỏ ông mê đời binh nghiệp hơn là cái nghề làm thầy cãi kiếm nhiều tiền sau này. Ông nghiêng mình chào và trao bó hoa cho tôi:
– Cám ơn cô thật nhiều, đã giúp cho Daisy nhà tôi trở lại trạng thái bình thường. Không thể nào nói hết lòng cám ơn của gia đình tôi đối với cô đâu!
– Dạ tôi không có công gì lớn đâu ông! Tôi cười, quay sang bà Kathy: – Ông phải cám ơn bà nhà mới đúng! Kathy quả là người phụ nữ thật nhân hậu. Ông có phúc lắm, bà Kathy đã thương và lo lắng chăm sóc bé Daisy rất thật lòng, lại còn chịu khó đi học tiếng Việt để còn nói chuyện với Daisy nữa chứ.
Ông cười, nụ cười tràn đầy hạnh phúc:
– Ở nhà Bà ấy và Daisy còn dạy tôi vài chữ tiếng Việt nữa đó! Tôi ở Việt Nam hơn một năm nhưng chỉ biết được mấy chữ “Xin chao”, “Cam on” thôi. Bà ấy nói học tiếng Việt thật là thú vị.
Tới đây thì loa thông báo buổi lễ sắp bắt đầu, tôi phải chào từ giã ông bà để vào cùng cô phụ giáo chuẩn bị cho tiết mục của lớp tôi.
Buổi lễ Tết Trung Thu hôm ấy thật là vui nhộn, các bài hát Trung Thu, điệu múa, kịch nói. Nhờ sự tận tâm của quý thầy cô, các em trình diễn hết mình, nhìn rất chuyên nghiệp, và nhận được nhiều tràng pháo tay vang dội.
Đến tiết mục “Rước Đèn” của lớp tôi, tôi đứng chỗ góc khán đài quan sát các em trình diễn. Chúng tôi trang điểm cho tất cả các em, kể cả con trai, bé nào cũng đều má đỏ môi hồng xinh xắn. Daisy nhìn rất dễ thương trong áo dài chữ thọ màu hồng, tay cầm lồng đèn con cá, vừa đi cùng các bạn vừa hát theo bài “Rước Đèn” trong CD. Bé bước lắc lư theo điệu nhạc, miệng hát tay ve vẩy lồng đèn, mặt mày rạng rỡ dưới ánh đèn sân khấu:
“Tết Trung Thu rước đèn đi chơi
Em rước đèn đi khắp phố phường
Lòng vui sướng với đèn trong tay
Em múa ca trong ánh trăng rằm…”
Liếc mắt qua chỗ vợ chồng bà Kathy, tôi thấy ông Robert cầm tay bà đưa lên cao vung vẩy qua lại theo nhịp bài hát của các bé, miệng hai người cười đến như không thể khép lại…
Giáng Sinh năm đó, tôi nhận được một giỏ quà với đủ loại trái cây tươi, được cắt sẵn theo những hình ngôi sao, trái tim, chim, cá… rồi nhúng vào sô cô la, của hảng “Edible Fresh Fruit Arrangements” đem giao tận nhà, có kèm theo tấm thiệp ghi bằng tiếng Việt, “Chúc Mừng Giáng Sinh Cô Giáo Linda. Học trò cô: Kathy và Daisy.”
Phương Hoa
|
NGẢ MŨ TRƯỚC TẤM LÒNG BỒ TÁT
CỦA PHU NHÂN BILL GATES Bồ-tát Quán Thế Âm trong chân nghĩa thực sự, không phải là “một vị” Bồ-tát, mà là một lực lượng (force) vĩ đại của tình thương, có mặt khắp nơi, vô sở bất tại (omnipresent). Bạn là một người bình thường, nhưng trước một tình huống thương tâm, bạn bỗng quên mình lao người ra giúp đỡ kẻ bị nạn. Ngay chính lúc đó, Bồ-tát Quán Thế Âm đã thị hiện trong bạn, hay nói cách khác bạn đã là sự thị hiên của Bồ-tát Quán Thế Âm trong thế giớinày. (Thư Viện Hoa Sen) Thông qua quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates,
vợ chồng tỷ phú này đã dành phần lớn tài sản của mình tài trợ cho giáo dục, y tế và người nghèo. Là phu nhân của tỷ phú Bill Gates, bà Melinda Gates khôngquan tâm đến đồ trang sức, quần áo đắt tiền…, mà luôn hướng tới nâng cao sức khỏe cộng đồng ở quy mô quốc tế. Sau khi cưới tỷ phú Bill Gates, Melinda bắt đầu làm từ thiệnmột cách khá thầm lặng. Vợ chồng tỷ phú này kết hôn năm 1994 và hai người đã có 3 mặt con: 2 gái, 1 trai. Trước khi hẹn hò với chồng mình, bà Melinda Gates đã có 9 năm làm việc tại Microsoft và từng giữ chức vụ Giám đốc phụ trách các sản phẩm thông tin của tập đoàn này. Tháng 1/1994, Melinda rời khỏi Microsoft và sát cánh cùng chồng trong cương vị đồng chủ tịch quỹ tài trợ lớn nhất hànhtinh Bill & Melinda Gates. Quỹ này đã có tổng tài sản lên tới 29,1 tỷ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng ở quy mô quốc tế. Có lần, vợ chồng Bill Gates đã tặng máy vi tính xách tay cho người dân ở các ngôi làng ở khu vực cận Sahara (châu Phi). Nhưng rồi vợ chồng bà nhận ra người dân lục địa đen cần thức ăn để no bụng và thuốc men đểchống lại bệnh tật chứ không phải là những sản phẩm công nghệ xa xỉ.
Chính vì vậy, họ bắt đầu mua và tìm đọc rất nhiều sách về các bệnh lây lan vì ký sinh trùng, về hệ miễn dịch, về cách phòng bệnh… “Bạn không thể nói về chuyện tài trợ cho thuốc chống sốt rét nếu như bạn không hiểu rõ chu trình sống của con muỗi. Làm từ thiện không chỉ đơn giản là ký séc chi tiền”, bà Melinda nói.
Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates (BMGF) bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi ra mắt chính thức vào năm 2000. Vợ chồng Gates đã cam kết trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình (ước tính khoảng 46 tỷ USD) cho quỹ BMGF cho mục đích tiêm vắc-xin và tạo hệ miễn dịch cho trẻ em. Hồi đầu năm 2011, BMGF đã tặng cho Liên minh Vắc-xin và miễn dịch toàn cầu (Gavi) 750 triệu USD – một trong những món quà cá nhân lớn nhất lịch sử. Những lần tài trợ trước đó của vợ chồng Bill Gates đã giúp tiêm phòng viêm gan siêu vi B cho 43 triệu trẻ em, giúp giảm 39% tỷ lệ trẻ em bị sởi. Ngoài ra, BMGF còn chi mạnh cho các dự án khoa học nghiên cứu vắc-xin và thuốc men, trong đó phải kể đến chương trình trị giá 35 triệu USD để thử nghiệm vắc-xin chống sốt rét ở Zambia. Cuộc sống hàng ngày của nữ tỷ phú có tấm lòng nhân ái
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, nữ tỷ phú Melinda Gates chia sẻ về kế hoạch hiện tại của mình là dự án cung cấp biện pháp tránh thai hiện đại cho 120 triệu phụ nữ trên toàn thế giới vào năm 2020. Đảm nhiệm ghế đồng Chủ tịch Quỹ BMGF, công việc của bà Melinda liên quan đến các mục tiêu chính sách lớn từ cải cách giáo dục tới “thôn tính” bệnh bại liệt. Một ngày điển hình tại văn phòng của bà gồm đánh giá chiến lược và tham gia các cuộc họp.
Tuy nhiên, bà Melinda dành tới 1/3 thời gian của mình cho các chuyến đi thực tế ở các quốc gia. Bà chia sẻ rằng bà phảicố gắng hết sức để cân đối thời gian giữa công việc và gia đình, thậm chí đôi khi bà phải lên kế hoạch dẫn theo con cái tới nơi làm việc.
“Một số chuyến công tác của mình lại trùng với những kỷ nghỉ của các con và tôi buộc phải lên kế hoạch đưa 3 đứa trẻ cùng bố mẹ tới châu Phi”, bà Melinda chia sẻ. Bà nói thêm: “Bill và tôi thường xuyên phải cân đối lịch làm việc để đảm bảo một trong hai người luôn có mặt ở nhà để bọn trẻ biết được rằng chúng thực sự rất quan trọng đối với cuộc sống chúng tôi”. Cả hai vợ chồng tỷ phú này đều cố gắng lái xe đưa đón các con đi học hàng ngày, thúc giục chúng lên giường ngủ mỗi đêm. Đồng thời, họ luôn ở bên động viên con cái mọi lúc.
“Nếu Bill định trốn thời gian dành cho gia đình để giải quyết các vấn đề khác, tôi sẽ gọi điện để nhắc nhở”, Melinda tâm sự. Melinda kể lại rằng: “Có một hội chợ khoa học diễn ra gần đây ở tại trường của bọn trẻ và Bill đã hứa sẽ đến đó.Tuy nhiên cùng lúc đó, anh ấy có một chuyến đi khá quan trọng. Và tôi đã phải lên tiếng: “Anh biết đấy, anh đã hứa sẽ làm việc đó”. Vì thế, điều chắc chắn là anh ấy sẽ giữ đúng lời hứa”.
Giải thích quyết định trên, Bill Gates chia sẻ: “Đúng, đó chỉ làmột phần nhỏ bé trong tài sản của tôi. Điều này có nghĩa là các con tôi phải tự tìm ra con đường tiến thân của riêngmình. Việc học của chúng sẽ được đảm bảo tốt nhất. Chúng tôi không bao giờ tiếc tiền đầu tư vào việc học và những vấn đề về chăm sóc sức khỏe. Riêng chuyện kiếm tiền thì chúng phải tự tìm việc mà chúng thực sự thích. Đến nay, con của chúng tôi hoàn toàn là những đứa trẻ bình thường chứ không giống như sống trong nhung lụa”. Truyền thông Mỹ cho biết, hai con lớn của Bill Gates đều phải làm việc nhà mới được cho tiền tiêu vặt. Ông từng nói hồi đầu năm nay: “Tôi chắc chắn rằng việc để lại khối tài sản lớn cho bọn trẻ sẽ không phải là mộtđặc ân đối với chúng”. Bà Melinda cũng đồng ý với quan điểm này của chồng.
“Một điều quan trọng mà tôi đang nỗ lực với cương vị là một người mẹ mẫu mực, đặc biệt đối với 2 con gái. Thông qua công việc hàng ngày của mình, tôi muốn hướng chúng thành một người phụ nữ sắc sảo, biết sắp xếp hài hòa giữa công việc và cuộc sống gia đình”, bà Melinda Gates chia sẻ. Nguyên Thảo BÀ BILL GATES: MỘT BỒ TÁT CỦA NHÂN LOẠI Bà là người có vai trò không thể thay thế trong cuộc đời Bill Gates Một người phụ nữ hơi bất thường chăng? Ngay sau khi cưới nhau, vợ chồng Bill Gates bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực cận Sahara (Phi châu). Nhưng rồi hai người nhận ra người dân lục địa đen cần thức ăn để no bụng và thuốc men để chống lại cái chết hơn là phần mềm Windows xa xỉ. Thế là họ tậu bao nhiêu là sách về các bệnh lây lan vì ký sinh trùng, về hệ miễn dịch, về cách phòng bệnh… “Bạn không thể nói về chuyện tài trợ cho thuốc chống sốt rét nếu như bạn không hiểu rõ chu trình sống của con muỗi. Làm từ thiện không chỉ đơn giản là ký séc chi tiền”, Melinda nói. Tại sao lại phải nhọc công đến thế? Melinda có thể tận hưởng một cuộc sống trong nhung lụa, dành thời gian chăm sóc con cái. “Khi cưới nhau, tôi và Bill định khi về già sẽ chia sẻ tiền bạc với người khác. Lần đầu tiên chúng tôi đến châu Phi là nhân một chuyến đi săn năm 1993. Chúng tôi không thể nào tận hưởng thiên nhiên hoang dã vì cảnh tượng mọi người đi chân đất, phụ nữphải vừa bế con vừa xách nước đi hàng cây số và bởi lời mời từ một bộ lạc về việc dự buổi lễ cắt âm vật phụ nữ. Sau đó về nhà, chúng tôi tìm đọc Báo cáo về phát triển thế giới năm 1993 và không khỏi giật mình. Trẻ con đang chết hàng loạt chỉ vì căn bệnh tiêu chảy và những loại bệnh cơ bản mà trẻ con ở nước chúng tôi đã được tiêm vắc-xin. Chúng tôi tự thấy mình phải có trách nhiệm tìm hiểu sự thật và càng tìm hiểu, chúng tôi càng thấy không thể chờ vì bệnh tật không đợi chúng tôi. Tôi đi vòng quanh thế giới để xem điều gì đang xảy ra. Nỗi sợ hãi khi quay về quá khủng khiếp đến độ tôi không dám hy vọng. Nhưng rồi bạn thấy đó, kinh tế đang thay da đổi thịt ở các nước phát triển và tự nó cải thiện mọi chuyện. Điều đó đã vực Bill và tôi dậy”. “Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động” / Melinda Gates Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates (BMGF) bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000. Vợ chồng Gates đã cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình (hiện ước tính khoảng 46 tỉ USD). Vắc-xin và tạo hệ miễn dịch cho trẻ em là mục tiêu chính của quỹ. Đến nay BMGF đã chi tổng cộng 28,8 tỉ USD. Hồi đầu năm, BMGF đã tặng cho Liên minh Vắc-xin và miễn dịch toàn cầu (Gavi) 750 triệu USD – một trong những món quà cá nhân lớn nhất lịch sử. Những lần tài trợ trước đó của vợ chồng Bill Gates đã giúp tiêm phòng viêm gan siêu vi B cho 43 triệu trẻ em, giúp giảm 39% tỷ lệ trẻ em bị sởi… Ngoài ra, BMGF còn chi mạnh cho các dự án khoa học nghiên cứu vắc-xin và thuốc men, trong đó phải kể đến chương trình trị giá 35 triệu USD để thử nghiệm vắc-xin chống sốt rét ở Zambia . Hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên vì ông bà Gates không dành phần lớn tài sản của mình để lại cho con cái. Hiện họ đang có 3 đứa con nhỏ nhưng Melinda không tỏ ra lo lắng: “Bất cứ lúc nào gia đình tôi nói tới chuyện tài sản, chúng tôi đều nói đến trách nhiệm phải trao tặng nó cho thế giới. Các con của chúng tôi đã có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua gì cũng được nấy mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền”. Hiệp hội Bill & Melinda Gates đã chi bao nhiêu cho ai? Chúng được chia ra như sau: Sức khoẻ: 5,5 tỷ USD (gồm chiến lược sức khoẻ toàn cầu, 2,3 tỷ USD; nghiên cứu trị HIV/AIDS, bệnh lao và y tế sinh sản, 1,5 tỷ USD; các bệnh lây lan khác, 1,1 tỷ USD; nghiên cứu phát triển công nghệ y tế toàn cầu, 0,4 tỷ USD; nghiên cứu y tế, chiến dịch y tế toàn cầu…, 0,1 tỷ USD) Giáo dục: 2,4 tỷ USD Melinda Gates- quyền lực mà thầm lặng Có một người phụ nữ giản dị, nhân hậu đã chinh phục được biết bao chính khách, doanh nghiệp. Xuất thân trong một gia đình bình dân Mỹ nhưng nhờ nỗ lực cá nhân và cả nét duyên thầm, người phụ nữnày đã trở thành biểu tượng của quyền lực mềm thế giới. Năm nay 44 tuổi, Melinda Gates luôn sát cánh cùng người chồng tỷ phú, nhà sáng lập và điều hànhMicrosoft trong nhiều năm qua, và bản thân bà cũng là chủ tịch quỹ tài trợ lớn nhất thế giới. Bà là người có vai trò không thể thay thế trong cuộc đời Bill Gates, là một trong những động lực to lớn để Bill Gates lập ra quỹ Bill & Melinda Gates. Chung sống với Bill Gates đã 14 năm nhưng Melinda luôn có một cuộc sống trầm lặng, ít khi lộ diệntrước báo giới. Những cuộc phỏng vấn luôn bị từ chối, thay vào đó là những cuộc trò chuyện mỗi tuần với những người cộng sự. Người ta biết đến Melinda qua những người bạn của bà nhiều hơn. Mối thâm tình với chiếc máy tính Trước khi quen biết Bill Gates, nàng thiếu nữ Melinda đã mê tít máy tính. Chính tình yêu này đã thay đổi cuộc đời cô. Khi Melinda 14 tuổi, cha cô tặng cho con gái yêu chiếc máy tính Apple II. “Tôi đã nịnh cha mẹ đặt vào phòng riêng của mình để tiện học tập nhưng thời gian đầu tôi khoái chơi game hơn”, Melinda nhớ lại. Không lâu sau, Melinda đã nắm được ngôn ngữ lập trình cơ bản và thường xuyên trao đổi kiến thức với các cậu con trai quanh xóm. Chính việc ham thích trao đổi về máy tính đã khiến cô bé bớt đi những rụt rè tuổi dậy thì, tự tin và hòa đồng hơn hẳn. Chiếc máy tính Apple II năm sau đã được nâng cấp lên thành Apple III. Melinda thường dùng máy tính giúp cha quản lý sổ sách, kế toán. Gia đình Melinda không giàu có. Bố cô là kỹ sư và mẹ cô là một người nội trợ điển hình. Mặc dù cha mẹcô có cho thuê một vài gian phòng để phụ thêm nhưng việc lo cho cả 4 chị em Melinda học lên đại họcquả thật không hề dễ dàng. Melinda cùng các anh chị em từ nhỏ đã phụ giúp mẹ lau bàn, dọn bếp và cắt cỏ. Khi Melinda còn đi học, tuy không có quy định thành văn nhưng thành tích học tập luôn được cả gia đìnhcoi trọng. Melinda luôn đặt cho mình những mục tiêu để chinh phục một cách bền bỉ và quyết tâm. Cô giáo dạy môn đại số đã nhận xét “Melinda luôn tìm ra cách học tập hiệu quả nhất!”. Khi đó, Melinda theo học tại một trường nữ sinh Thiên Chúa giáo, cô ao ước được vào trường Notre Dame. Trong suốt quá trình học, Melinda luôn cố gắng và đã trở thành đại diện phát biểu trong lễ bế giảng. Nhưng cũng chính Melinda là người đưa ra quyết định từ bỏ trường đại học đặc biệt này vì nơi đây coi “máy tính là sở thích nhất thời, phụ nữ không phù hợp với nghiên cứu công nghệ”. Sau đó Melinda được nhận vào trường đại học Bắc California .. Trong 5 năm học tại đây, Melinda đã được nhận bằng cử nhân khoa học máy tính và thạc sỹ quản trị kinh doanh. Ngay trước hôm tiến hành lễ tốt nghiệp, Melinda đã tham gia phỏng vấn vào công ty IBM. Cô nhớ lại “Tôi đã nói với người phỏng vấn là mình sẽ tham gia thi tuyển vào một công ty phần mềm nữa. Bà ấy đã mỉm cười và nói nếu tôi được công ty phần mềm đó chọn, tôi càng có nhiều cơ hội hơn”. Và Melinda đã đến nơi có nhiều cơ hội hơn – Microsoft. Tình yêu với sếp và khát vọng chung thay đổi thế giới Năm 1987, Melinda bắt đầu làm việc chính thức tại Microsoft. Cô phụ trách quảng bá phần mềm văn bản. Ngay từ những ngày đầu tiên, Melinda đã thích không khí làm việc cởi mở, năng động nơi đây. Cô chúi mũi vào công việc mà không thể ngờ rằng chỗ làm việc lý tưởng này lại đem đến cơ hội tình yêu cho mình. Melinda là người trẻ nhất trong những người được nhận vào Microsoft làm việc đợt đó. Trong 10 người có bằng MBA, cô cũng là người nữ duy nhất. “Những người được tuyển đợt đó rất tài năng. Tôi đã choáng ngợp khi tiếp xúc với họ và nghĩ họ có thể thay đổi thế giới. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì sao công ty phần mềm nho nhỏ hồi đó lại hấp dẫn họ đến thế!” Khi đó hai sếp lớn Bill Gates và Steve Ballmer đang bất đồng trong khá nhiều vấn đề, họ thường căng thẳng và quát cả cấp dưới. Nếu như không có cảm tình đặc biệt khi nhìn thấy dáng vẻ thư sinh của Bill, Melinda đã bỏ việc từ lâu. Sau khi vào công ty được 4 tháng, Melinda đến New York tham dự một triển lãm công nghệ và ngồi cạnh Bill Gates trong một buổi tiệc. Melinda nhớ lại: “Anh ấy quả thật rất có phong cách, còn hơn trong tưởng tượng của tôi”. Khi Bill được hỏi tại sao để ý Melinda, ông trả lời: “Tôi nghĩ chắc là do vẻ đẹp của cô ấy”. Mùa thu năm đó, Bill và Melinda gặp lại nhau tại nhà để xe của công ty. Melinda nhớ hôm đó là thứ 7 và mọi người trong công ty vẫn phải đi làm. Họ nói chuyện một lúc, Bill nhìn đồng hồ và hỏi: “Em có đồng ý hẹn hò với tôi trong vòng hai tuần bắt đầu từ thứ 6 tuần sau không?” Melinda trả lời: “Từ thứ 6 tuần sau bắt đầu hai tuần hẹn hò? Em thấy không được tự nhiên lắm! Không biết được, đến lúc đó hãy gọi cho em”. Trước khi hai người gặp nhau, Bill đã là một tỉ phú nhưng điều đó không có nghĩa là ông có thể “mua” được tình yêu. “Theo đuổi cô ấy thật vất vả”, Bill than thở. Số là mẹ của Melinda vốn cho rằng chuyện tình cảm của con gái mình với sếp không có gì hay ho cả. Nhưng Melinda đã đặt ra những giới hạn cho mối quan hệ này, quyết không để ảnh hưởng đến công việc. “Tôi không muốn công khai tình cảm, không bao giờ nói chuyện công việc trong thời gian hẹn hò…” Dù có công khai chuyện tình cảm với sếp lớn hay không thì bạn bè đồng nghiệp vẫn phải nể Melinda về năng lực làm việc. Sau 9 năm làm việc bà đã lên chức giám đốc phụ trách các sản phẩm thông tin. Cấp trên trực tiếp của Melinda lúc đó, bà Patty Stonesifer đã nhận xét: “Nếu tiếp tục ở lại làm việc, Melinda chắc chắn sẽ đứng trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất của Microsoft”. Tháng 1/1994, Melinda rời khỏi Microsoft, dành toàn bộ tâm huyết cho quỹ từ thiện. Tình cảm hai người dành cho nhau càng trở nên sâu sắc. Trước đây Bill Gates chưa bao giờ nghĩ đến việc thành lập quỹ tài trợ, dù luật sư và kế toán của ông thường xuyên khuyên ông nên dành thời gian và tiền bạc để chính thức tham gia các hoạt động từ thiện. Đó cũng là lý do mà báo chí những năm 1990 gọi Bill là “kẻ hà tiện”. Cha của Bill giải thích “Con tôi không muốn đứng ra thành lập quỹ từ thiện vì không muốn sở hữu thêm một công ty nữa”. Ngay từ ngày đầu lập quỹ, Melinda đã quán xuyến công việc quản lý. Khi đi khảo sát các trường học, Melinda nhận ra rằng, chỉ trang bị cơ sở vật chất đơn thuần không giảiquyết được những vấn đề giảng dạy, vì thế sau này thúc đẩy phổ cập giáo dục mới là mục tiêu chính của quỹ. Dưới ảnh hưởng của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình trong lĩnh vực phòng chống AIDS, bệnh sốt rét… Melinda chia sẻ: “Chúng tôi muốn dần dần thiết lập một danh sách cần cứu trợ hợp lý. Tiền chỉ có ích khi mang lại những lợi ích thực sự cho những người cần cứu trợ nhất”. Bà cũng cho biết, quỹ Bill & Melinda Gates không quyên gửi thẳng tiền cho viện nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ mà tập trung cho những dự án và khu vực khẩn thiết hơn. Bà Gates dùng phương pháp liên kết những nhà bán thuốc và bảo đảm trợ cấp tài chính cho việc nghiên cứu để đổi lấy sự hạ giá thuốc cho những nước nghèo, qua đó tạo đà mới cho ngành y học ngừa bệnh của các nước kém phát triển vốn đã bị chững lại từ những năm 1990. Và rõ nét nhất là việc sáng lập Công ty Vaccine HIV – là công ty liên kết các nhà nghiên cứu với ngân sách 400 triệu USD. Trải qua 7 năm hoạt động, dưới sự điều hành của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã góp phần cứu sống ít nhất 700.000 người tại các quốc gia nghèo thông qua các khoản đầu tư vào những chương trìnhvaccine. Quỹ Bill & Melinda Gates hiện là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, với tài sản lên tới 29,1 tỉ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế. Melinda, Bill Gates và cha của Bill là 3 thành viên điều hành quỹ. Gần đây, Bill Gates đã chính thức rời khỏi Microsoft để hoàn toàn tập trung cho công việc từ thiện. Mỗi năm quỹ này nhận được khoảng 6.000 thư xin được trợ giúp ở khắp nơi trên thế giới. Bill và Melinda sẽ tự mình phê duyệt với tổng số tiền trên 40 triệu USD. Cách làm những công việc ở quỹ của đôi vợ chồng này uyển chuyển và có phần thử thách hơn cả khi điều hành Microsoft. “Chúng tôi trò chuyện ngay cả lúc cùng chạy bộ với nhau”, Bill cười nói. Trong vòng hai năm trở lại đây Bill Gates đã chạy bộ khá đều đặn và cùng luyện tập trí nhớ một cách thú vị và ý nghĩa. Hai người cùng thảo luận và nêu ra các phương án hành động cho các dự án tài trợ. Các thông tin này sẽ được cả hai nhẩm nhớ, không ghi lại bằng giấy gì cả và ghi nhớ cho đến khi thông báo lại cho các thành viên quản lý quỹ để thông qua chính thức. Tháng 6/2006, Warren Buffet đã chuyển giao một phần tài sản trị giá khoảng trên 30 tỉ USD của mình vào việc làm từ thiện, trong đó 83% số tiền được đưa vào Quỹ Bill & Melinda Gates. Khoản hiến tặng này được xem là lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, số tiền được quyên này còn lớn hơn gấp đôi số tiền hiện có của quỹ. Đây là lời công nhận đầy thuyết phục đối với khả năng quản lý từ thiện, một lĩnh vực mới mẻ và nhiều thách thức của nhà đầu tư tài chính hàng đầu với hai vợ chồng Bill Gates. Tin vui này cũng đến khi cả hai người đang chạy bộ. Melinda nhớ lại với một vẻ bồi hồi: “Tôi nhận được điện báo và không tin vào tai mình nữa. Tôi nói với Bill, và thực sự muốn khóc. Chúng tôi đã làm được, chúng tôi đã có niềm tin của mọi người, và chúng tôi có nhiều trách nhiệm hơn nữa”. Hiện nay, Quỹ từ thiện của hai vợ chồng bà đã thu thập được 37,6 tỉ USD, trong đó, 3,5 tỉ USD là phần góp của nhà tỉ phú Warran Buffet, người đứng đầu công ty Berkshire Hathaway. Sắp tới đây, Warren Buffet dự định chuyển cho quỹ Bill & Melinda Gates thêm 9.000 cổ phiếu nữa với trị giá 41 tỉ USD. Như vậy, cùng với các khoản lạc quyên và hàng tỉ USD của chính hai vợ chồng Bill Gates, tổng số vốn của quỹ trong vài năm tới sẽ đạt đến con số khổng lồ là 100 tỉ USD. Cả hai vợ chồng đều sẵn sàng chi tiêu toàn bộ số tiền này vào việc giúp đỡ những người nghèo khổkhông chỉ ở nước Mỹ. Đến nay, quỹ đã chi gần 20 tỉ USD cho nhiều hoạt động từ thiện. Bill Gates thừa nhận rằng vợ ông hiểu biết về con người hơn ông. Khi động chạm đến việc nên chi tiền trong quỹ vào những lĩnh vực gì, bà Melinda bao giờ cũng có những ý tưởng thông minh hơn chồng. Melinda nói: “Hai vợ chồng chúng tôi đã cùng soạn lập danh mục những hiện tượng bất công nhất trên thế giới. Và chúng tôi lựa ra những hiện tượng mà chúng tôi có thể đấu tranh”. Trong hoạt động nhân đạo chung của cả hai vợ chồng, vai trò của bà Melinda dường như nổi bật hơn. Không phải vô cớ mà người bạn thân của họ – nhà tỉ phú Warren Buffet – đã có nhận xét rất đáng chú ý: “Bill Gates cực kỳ thông minh. Nhưng khi ta nhìn toàn bộ bức tranh chứ không phải một phần riêng biệt nào đó thì Melinda hiển nhiên là vượt xa chồng. Nếu như Melinda không làm việc trong quỹ từ thiện của hai vợ chồng họ thì liệu tôi có trao tiền cho Bill không? Có lẽ không”. Như vậy, điều kiện chủ yếu thúc đẩy Buffet chuyển giao tài sản chính là người vợ nhanh nhẹn, hiểu biết, thấu tình đạt lý của Bill Gates. Buffet đã khiến Bill phải thốt lên: “Melinda đúng là vận may lớn nhất cuộc đời tôi”. Yêu thích cuộc sống bình lặng Là vợ người thường xuyên giữ vị trí giàu nhất thế giới, Melinda không tránh khỏi những phiền toái của cuộc sống. Dù cố gắng thế nào đi nữa, Melinda cũng rất khó khăn để có được cuộc sống bình thường. Nhưng đến nay, sau nhiều nỗ lực, người phụ nữ dịu dàng này vẫn có cách để cuộc sống của mình đi theo những quỹ đạo mong muốn. Trước khi kết hôn với Bill Gates, Melinda cũng chịu nhiều áp lực từ khối tài sản đồ sộ này. Melinda luôn băn khoăn con người mải mê công việc và cạnh tranh thương trường của Bill Gates có thích hợp với cuộc sống gia đình hay không. Câu hỏi: “Cái người có thể phát điên lên vì công việc này nếu làm chồng mình sẽ ra sao?” luôn quẩn quanh trong đầu Melinda. Cuối cùng bà cũng nói thẳng điều này ra với Bill, rằng: “Nếu muốn em dọn đến ở cùng anh, anh cần phảitạo nên một ngôi nhà thực sự ấm cúng của gia đình giống như em tưởng tượng”. Sau 6 tháng thảo luận, bàn bạc với vị hôn phu, Melinda đã đích thân thuê kiến trúc sư cải tạo khu nhà ở 3.700m2. Đến nay, cứ cuối tuần Melinda đều cho đội ngũ làm thuê trong tư gia nghỉ, để gia đình có thể trải qua những giây phút quây quần bên nhau như những gia đình bình thường khác. Có 3 con, điều đáng ngạc nhiên là chính Melinda đã tuân thủ các quy định nuôi con bằng sữa mẹ như các bác sĩ khuyến cáo. Trong việc nuôi dạy bọn trẻ, Melinda cũng khuyến khích các con tự lập và làm việc chăm chỉ. Bà cũng tranh thủ đưa các con đi cùng trong các chuyến đi từ thiện để vừa rèn luyện sức khỏe, vừa mở rộng tầm nhìn về thế giới cho chúng. Melinda và Bill cũng thống nhất trong việc để dành thừa kế cho các con. Sẽ không quá 5% tài sản của họ sẽ trở thành tiền thừa kế của 3 con, còn khối tài sản khổng lồ còn lại sẽ trở thành khoản đầu tư từ thiện với mong muốn sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa. Thực ra, ban đầu Bill và Melinda thậm chí không muốn để lại tài sản gì cả nhưng người bạn thân Buffet đã khuyên : “Một người có rất nhiều tiền nên để lại cho con cái họ đủ số tiền, để chúng thực hiện ước mơ của mình, nhưng cũng không được nhiều đến mức, chúng không muốn làm gì nữa”. Không thích mua sắm, ghét những nhãn hàng xa xỉ và chỉ trang điểm nhẹ nhàng, Melinda vẫn giữ được vẻ đẹp trẻ trung suốt những năm qua. Một trong những bí quyết của bà là luyện tập thể thao đều đặn. Melinda đã tập chạy marathon từ gần 15 năm qua, thậm chí còn tham dự cả giải Seattle Marathon. Dù bận rộn đến mấy, mỗi tuần bà cũng có một cuộc chạy việt dã, trong 1 giờ vượt qua 11km. Việc Bill tham gia chạy trong 2 năm trở lại đây cũng là do Melinda khuyến khích và thôi thúc. |
httpv://www.youtube.com/watch?v=WOty1_L64nw&feature=share
Bài giảng CÔNG LÝ HOÀ BÌNH Chúa Nhật 08/7/2018 khiến nhà cầm quyền HN HỘC MÁU
Nếu yêu nước, yêu dân tộc Việt Nam, hãy tẩy chay hàng hoá của Tàu khựa.
Cong Binh Nguyen CẦN MỌI NGƯỜI THAM GIA TẨY CHAY HÀNG HÓA CỦA TÀU KHỰA_KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CỦA DÂN TỘC VN!
HÃY CHIA SẺ (SHARE) bất cứ bài viết, hay bất cứ tài liệu nào có chủ đề TẨY CHAY HÀNG HÓA KHỰA, HÀNG KHỰA LÀ ĐỒ DÕM, ĐỒ ĐỘC HẠI… càng nhiều càng tốt!
Đừng like suông_ Mỗi cái chia sẻ của các bạn là một lời cảnh tỉnh đồng bào ta, và là một viên đạn bắn vào giặc Tàu Khựa!
Nếu có thể, xin các bạn làm thơ, viết bài, soạn nhạc, làm live Stream, làm clip, làm logo, in truyền đơn(tờ rơi), dán áp phích, in áo thun …v.v…và v.v…Nghĩa là mọi người phát huy sáng kiến nhắm vào chủ đề TẨY CHAY HÀNG HÓA KHỰA… Càng vận động mạnh càng tốt… THỜI CƠ MỸ – KHỰA ĐẤU NHAU LÀ THỜI CƠ VÀNG ĐÓ MỌI NGƯỜI ƠI! Cố lên!
Cám ơn các bạn.
* * *
Yêu nước là vận động tẩy chay hàng hoá của Tàu khựa. Mỗi ngày nói với 5 người, 10 ngày được 50 người, 100 ngày được 500 người. Những người được vận động hãy nói với họ vì đất nước, vì dân tộc Việt Nam, để không lệ thuộc Tàu, nô lệ Tàu giống như Tây Tạng, Tân Cương,..lại cần tiếp tục vận động , mỗi người lại vận động cho 5 người mới liên tục như vậy mỗi ngày, mỗi người đều vận động có 5 người mới. Chắc chắn đất nước ta sẽ có nhiều thay đổi.
Nếu yêu nước, yêu dân tộc Việt Nam, hãy tẩy chay hàng hoá của Tàu khựa.