Cảnh sát thành phố Richardson, quận Dallas, bang Texas Bắt Khẩn Cấp Nguyễn Thị Thảo Và 4 Người Việt Khác

Làm liều ở Mỹ và cái kết ngu người ! Sang được Mỹ không biết đường hưởng còn làm thế này

Sở Di Trú cảnh báo lừa đảo dịch vụ bảo lãnh, thẻ xanh, lao động…


Sở Di Trú cảnh báo lừa đảo dịch vụ bảo lãnh, thẻ xanh, lao động…

Trong 10 năm qua, thỉnh thoảng có những âm mưu lừa đảo về di trú trong cộng đồng Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian qua, các hình thức lừa đảo này tăng đột biến. Có công ty quảng cáo là nếu đưa $10,000, họ sẽ giúp giải quyết hồ sơ nhanh chóng.
.

Công ty viễn thông Ericsson thú nhận đã hối lộ quan chức CSVN

Công ty viễn thông Ericsson thú nhận đã hối lộ quan chức CSVN

Ông Hans Vestberg, tổng giám đốc công ty viễn thông Thụy Điển Ericsson họp báo nói về kỹ thuật viễn thông mới ở Barcelona trong một hội nghị về truyền thông thế giới. (Hình: JOSEP LAGO/AFP via Getty Images)

WASHINGTON 8-12 (NV) .- Công ty viễn thông Ericsson của Thụy Điển đồng ý nộp phạt hơn 1 tỉ đô la cho Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ để giải quyết cáo buộc là họ đã hối lộ quan chức một số nước gồm cả Việt Nam.

Theo hãng thông tấn Reuters thuật lại tin tức từ Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ, công ty Ericson đã hối lộ suốt một thời gian dài tại nhiều nước gồm cả Việt Nam, Trung Quốc, Djibouti. Số tiền bao gồm tiền phạt hơn $520 triệu đô la, cộng với $540 triệu đô la nộp cho Ủy Ban Chứng Khoán Hoa Kỳ (SEC) về những vấn đề liên quan.

“Một số nhân viên tại một số thị trường, trong đó có một số là giám đốc điều hành, không trung thực và không thực thi giám sát đầy đủ.” Ông Borje Ekholm, tổng giám đốc Ericsson nói trong cuộc họp báo hôm Thứ bảy. “Tôi coi những gì đã xảy ra là hoàn toàn không chấp nhận được…”

Ericsson đã dùng một đệ tam nhân làm bình phong để hối lộ cho quan chức các chính quyền một số nước để kinh doanh. Họ đã thuê mướn những công ty cố vấn lập ra quỹ đen, chuyển tiền cho một phe thứ ba, theo một trong những lời cáo buộc.

Một trong những công ty con của Ericsson là Ericsson Egypt Ltd, nhìn nhận tội vi phạm đạo luật FCPA trong một phiên tòa ở quận hạt phía nam New York.

Trang mạng của tập đoàn viễn thông Ericson tại Việt Nam. (Hình: NV crop)

“Xuyên qua quỹ đen, tiền hối lộ, quà cáp, công ty Ericsson đã điều hành kinh doanh theo nguyên tắc nói chuyện bằng tiền”. Công tố viên Geoffrey Berman của tòa án quận hạt phía nam New York viết trong một bản thông cáo báo chí.

Công ty Ericson cho hay họ xét lại chương trình chống tham nhũng của công ty và thi hành các biện pháp để cải thiện đạo đức kinh doanh cũng như tuân thủ các quy định.

Trung Quốc là một thị trường khổng lồ, khi những công ty nội địa của Trung Quốc còn đang phát triển, Ericsson đã tốn hàng chục triệu đô la hối lộ quan chức nước này dưới nhiều hình thức khác nhau từ quà cáp, du lịch, giải trí. Thương vụ của Ericsson ở Trung Quốc ước tính gần 90 tỉ đô la.

Còn tại Việt Nam và Indonesia, công ty Ericsson cũng chi hàng triệu đô la hối lộ cho đám quan chức địa phương xuyên qua các công ty tư vấn hầu tranh được các mối thầu.

Cuối Tháng Tám vừa qua, hãng tin tài chính Bloomberg cho hay các mạng điện thoại di động lớn tại Việt Nam đều cho biết sẽ không sử dụng công nghệ hay thiết bị của Huawei để phát triển mạng 5G, vì sợ “không an toàn cho mạng quốc gia”. Những tháng vừa qua, người ta thấy nhiều tin tức Mỹ tố cáo Huawei cài chương trình phần mềm gián điệp vào thiết bị 5G, khuyến cáo các công ty không những ở Mỹ mà cả thế giới nên tránh.

Trước đó, hồi đầu Tháng Tư, hãng tin tài chính Nikkei của Nhật Bản ngày 4/4/2019 cho hay các công ty viễn thông Việt Nam đang tiến hành các công tác lựa chọn thiết bị mạng để chuẩn bị cho việc triển khai dịch vụ mạng 5G trong thời gian tới.

Theo nguồn tin này, Tập đoàn viễn thông quân đội (Viettel) cho biết đã đầu tư ngân khoản phát triển đến 80% các thiết bị sử dụng cho mạng 5G. Đây là những thiết bị sẽ được dùng trong trạm thu phát sóng mạng 5G trong tương lai.

Viettel là công ty viễn thông lớn nhất của Việt Nam với khoảng 66 triệu thuê bao hoạt động, chiếm 50% thị phần cả nước. Hiện Viettel đang vận hành thử mạng 5G, đồng thời cũng cân nhắc khả năng sử dụng công nghệ của Nokia hay Ericsson (Thụy Điển).Việt Nam “phấn đấu” là nước đầu tiên ở Đông Nam Á phát mạng 5G, đưa mạng 5G vào khai thác thương mại từ năm 2020.

Theo truyền thông Việt Nam, hai công ty viễn thông lớn còn lại là Vinaphone và Mobiphone đều đang lần lượt tiến hành hợp tác với hãng Nokia của Phần Lan và Samsung của Hàn Quốc để phát triển mạng 5G.

Mới đây, công ty Ericsson phối hợp với công ty Cổ phần Viễn thông VTC vừa trúng gói thầu thuộc dự án trang bị hệ thống thiết bị vô tuyến để mở rộng và nâng cấp vùng phủ sóng khu vực Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai giai đoạn 2018 – 2019 với giá trúng thầu là hơn 18 triệu đô la và hơn 163 tỷ đồng Việt Nam.

Trước đó, Ericsson cũng từng trúng nhiều gói thầu khác ở Việt Nam như gói thầu mua sắm trang bị dự phòng cho hệ thống vô tuyến VNPT Net sử dụng trang bị kỹ thuật Ericsson năm 2018, gói thầu cung cấp thiết bị hệ thống vô tuyến thuộc dự án mua thiết bị xoá điểm đen mạng 4G tại các khu vực Sài Gòn và các tỉnh.

Nay lộ ra chuyện Ericsson thú nhận đã hối lộ cho đám quan chức nhà nước CSVN, người ta hiểu xưa nay giới đầu tư ngoại quốc muốn kinh doanh tại Việt Nam đều phải nói chuyện bằng tiền thì mới được việc.(TN)

CỰU TỔNG THỐNG JIMMY CARTER.

Image may contain: 1 person, smiling
Image may contain: 1 person, sitting and beard
8 SÀI GÒN

CỰU TỔNG THỐNG JIMMY CARTER.

Một nhà lãnh đạo cần mẫn, Jimmy Carter Tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ

Kể từ khi ông nghỉ hưu và rời Tòa Bạch Ốc, suốt hơn 35 năm qua ông đã tham gia công việc thiện nguyện xây dựng 4000 căn nhà.

Năm 2015, ông bị chuẩn đoán có một khối u ác tính ở gan và sau đó là não.

Người ta chuẩn đoán ông chỉ có thể sống được vài tuần nữa…

Trải qua phẫu thuật , ông vẫn tiếp tục công việc tham gia xây dựng nhà tình thương ở tuổi 90.

Năm 2017 khi đang xây dựng một căn nhà ở Canada, do thời tiết quá nóng, ông bị mất nước phải nhập viện gấp. Tỉnh lại ông lại tiếp tục đi xây nhà ở cái tuổi 92.

Tháng 10 năm 2019 vừa qua, khi ông tham gia xây nhà thì xảy ra tại nạn, ông bị rơi từ trên lầu, đập đầu vào cạnh bàn , ông phải nhập viện và khâu 14 mũi, che một bên mắt. Xuất viện ông lại tiếp tục những công việc mình đang làm.

Đến nay ông đã 95 tuổi kể từ khi bị chẩn đoán ung thư chỉ sống được vài tuần cách đây 5 năm!

NGUYEN THANH

Tiến sĩ Rupert Neudeck, ân nhân của thuyền nhân Việt, qua đời tại Đức

RFA.ORG

Trên trang sử tị nạn cũng như trong lòng bao thuyền nhân Việt đi tìm tự do sau 30 tháng Tư 1975, hình ảnh  tiến sĩ Rupert Neudeck và hình ảnh những chiếc tàu cứu mạng Cap Anamur không bao giờ có thể phai mờ trong ký ức.

Ngày 31 tháng Năm vừa qua, tiến sĩ Rupert Neudeck, người đã vận động với chính phủ Đức để có được 4 chiếc tàu mang tên Cap Anamur lướt sóng ra khơi cứu người vượt biển Việt Nam trong thập niên 75 cho đến 85, đã qua đời tại thành phố quê nhà của ông ở Troisdorf nước Đức, hưởng thọ 77 tuổi.

Trái tim nhân ái

Có thể xuôi tay nhắm mắt ở tuổi 77 là hãy còn quá sớm, thế nhưng với rất nhiều người Việt thì con người phi thường ấy, tiến sĩ Rupert Neudeck, dù đã lìa đời nhưng khoảng trống để lại thì quá đầy, bởi nhờ ông mà từ 1979 đến 1986 đã có 11.300 người già trẻ lớn bé được những chiếc tàu của Ủy Ban Cap Anamur vớt từ biển cả mênh mông đưa về bến bờ an toàn hạnh phúc.

Tôi rất cảm phục ông Neudeck, một người sống rất giản dị và sống rất bình thường. Từ hồi còn trẻ, ông bị ám ảnh nhất là trong thời gian ông mới năm hay sáu tuổi thì đã phải đi lánh nạn cộng sản Nga. Thông cảm được nỗi đau khổ của người tị nạn, những nạn nhân của chiến tranh, nghèo đói hay chủng tộc mà ông xả thân ra làm. Khó có thể tưởng tượng được một con người đã hy sinh toàn bộ cuộc sống của mình cho tha nhân.

Là người Công Giáo thuần thành, ông lấy tấm gương một người Samaritain nhân hậu trong Thánh  kinh là xả thân cứu người. Khi cứu người thoạt đầu ông bị biết bao nhiêu chống đối, thậm chí có những người quá khích đã ném phân vào nhà ông, nhưng ông vẫn chịu đựng và làm đủ mọi cách. Đầu tiên ông thành  lập ủy ban có tên là Ủy Ban Một Con Tàu Cho Việt Nam, chỉ để chuyên cứu với những thuyền nhân Việt Nam đang thập tử nhất sinh trên biển cả. Cuối cùng ông đã cứu được 11.300 sinh mạng thuyền nhân Việt Nam. Từ đó ông tiếp tục cho đến ngày ông mất.

Những người mời ông đi thuyết trình hay đi nói chuyện đều đề nghị trả tiền vé máy bay hay tiền khách sạn thì ông đều từ chối hết, ông yêu cầu lấy tiền đó để vào quĩ cứu giúp người nghèo. Tôi tin chắc rằng đại đa số người tị nạn, không được tàu Cap Anamur vớt hay được tàu Cap Anamur vớt, khi biết về ông đều tỏ ra kính phục.

Bên Công Giáo nhiều người gọi ông là Thiên Thần của Chúa gởi đến cho nhân loại, người bên Phật Giáo thì gọi ông là một vị Bồ Tát đã xả thân cứu người không phân biệt chủng tộc, màu da, xu hướng chính trị.

Bên Công Giáo nhiều người gọi ông là Thiên Thần của Chúa gởi đến cho nhân loại, người bên Phật Giáo thì gọi ông là một vị Bồ Tát đã xả thân cứu người không phân biệt chủng tộc, màu da, xu hướng chính trị.
– Ông Nguyễn Hữu Huấn

Những nơi nguy hiểm nhất mà không người nào thèm đến để cứu giúp thì ông đến một mình. Thí dụ cuộc kháng chiến của Afghanistan chống lại sự xâm lăng của Liên Xô trong thập niên 80 thì ông tự một thân một mình ra đi, hòa nhập vào đoàn người tị nạn ở Afghanistan để cứu những người Afghanistan đó. Ông đã một lần bị máy bay trực thăng của Nga bắn nhưng rất may ông thoát chết.

Đó là lời ông Nguyễn Hữu Huấn, thành viên trong Ủy Ban Cap Anamur ở Hamburg,  từng được tàu Cap Anamur vớt, sau trở lại làm việc trên những chuyến tàu ra khơi cứu người mà tiến sĩ Rupert Nudeck vận động thành lập:

Đầu năm 1980 tôi đi vượt biển lần thứ ba, ghe của tôi bị hải tặc cướp 2 lần. Khi ghe lênh đênh ngoài biển và không còn dầu nhớt nữa, máy đã bị hư thì chúng tôi được tàu Cap Anamur cứu. Lúc đó cảm giác như là được sống lại. Nhìn thấy con tàu đồ sộ còn cái ghe của mình quá nhỏ thì chúng tôi rất bàng hoàng, có thể nói là được một lần nữa tái sinh. Tôi được chính phủ của tiểu bang Hamburg cho đi học tiếng Đức trong vòng 11 tháng. Cuối năm 81 tôi bắt đầu trở thành thành viên của Ủy Ban Cap Anamur, tôi đi liên tục trong 5 năm rưỡi.

Ông Nguyễn Đình Phúc, có người anh cả được tàu Cap Anamur vớt hồi năm 1980:

Ngày 9 tháng  Tám năm 1979, con tàu Cap Anamur bắt đầu khởi hành từ Hamburg. Chuyến cuối cùng thì tàu cũng cập cảng Hamburg tháng Tám năm 1986. Cộng đồng người Việt tị nạn toàn nước Đức nói chung và tại Hamburg nói riêng chân thành cảm ơn ông Neudeck và dân tộc Đức đã mở lòng nhân đạo, cứu vớt và nhận cho thuyền nhân Việt Nam được cư ngụ tại nước Đức.

Theo cựu thuyền nhân Lê Ngọc Tùng, đang sinh sống tại Hamburg, nếu không có tiến sĩ Rupert Neudeck và những chiếc tàu Cap Anamur đi vớt người vượt biển từ 1979 đến 1986 thì:

Thống kê cho biết khoảng 200.000 người Việt Nam đã đi tìm tự do đã chết giữa biển. Nếu không có con tàu Cap Anamur thì chắc chắn số người chết giữa biển vì hải tặc, bị sóng cuốn, bị thiếu lương thực … sẽ là rất nhiều. Cap Amamur là con tàu tình thương đã vớt tổng cộng 11.300 người tất cả. Và 11.300 người người này sau đó còn bảo lãnh thân nhân từ Việt Nam sang nữa để có cuộc sống tự do.

Vì được tài trợ bởi chính phủ và người dân Tây Đức lúc bấy giờ, 4  chiếc tàu của Ủy Ban Cap Anamur được trang bị như một bệnh xá di động, hoàn tất ngoạn mục sứ mạng vớt người trên biển cho đến khi chấm dứt năm 1987:

Ủy Ban Cap Anamur lấy mỗi con tàu đều là tên Cap Anamur hết. Bốn con tàu đi liên tiếp nhau chứ không phải đi vớt một lần 4 chiếc. Tôi được chuyến Cap Anamur số 1 vớt.  Tàu Cap Anamur số 1 từ 1979 đến 1982 chia thành 29 chuyến thì đã vớt được 199 chiếc ghe. Cho đến khi chấm dứt vào năm 1987 là tàu Cap Anamur số 4.

Sau khi các trại tị nạn tại các nước Đông Nam Á loan báo đóng cửa và không nhận thuyền nhân vào nữa, những con tàu Cap Anamur 5 và Cap Anamur 6 đã không vớt người mà chỉ dẫn dắt và cứu hộ những chiếc ghe vượt biển, tìm cách đưa họ an toàn vào trại tị nạn mà thôi.

Tang lễ đơn giản

Các linh mục người Việt ở Đức chuẩn bị lễ đồng tế. Hình do ông Nguyễn Hữu Huấn cung cấp RFA.
Các linh mục người Việt ở Đức chuẩn bị lễ đồng tế. Hình do ông Nguyễn Hữu Huấn cung cấp RFA. Các linh mục người Việt ở Đức chuẩn bị lễ đồng tế. Hình do ông Nguyễn Hữu Huấn cung cấp RFA.

Ngày 8 tháng  Sáu 2016 vừa qua, tang lễ chỉ được cử hành đơn giản trong vòng gia tộc thể theo ý nguyện của người quá cố. Là người thân thiết với gia đình qua nhiều năm làm việc cùng tiến sĩ Rupert Neudeck và Ủy Ban Cap Anamur, cũng là người Việt duy nhất có mặt tại  ngày vĩnh biệt, ông Nguyễn Hữu Huấn chia sẻ:

Gia đình từ vợ đến con cháu chỉ muốn mai táng ông một cách âm thầm thì vợ chồng tôi may mắn được tham dự. Tôi chưa thấy tang lễ nào đơn sơ như vậy bởi vì bà  làm theo ý nguyện của ông là không hoa, không nến, không kèn không trống và chính những người con người thân khiêng quan tài của ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Hiện tại ngày hôm nay trước mộ của ông chỉ vỏn vẹn có cây Thánh giá và vái ba cây cỏ dại và chính ông bà muốn như vậy.

Trái với vẻ bình lặng đơn sơ của tang lễ ở Troisdorf, lễ tưởng niệm tiến sĩ Rupert Neudeck, cha đẻ những con tàu tình thương Cap Anamur, hàng ngàn người Việt đã đổ về thành phố Koln để chào kính vị ân nhân, vị anh hùng không cùng máu mủ ruột thịt với mình:

Buổi tưởng niệm ngày 14 tháng Sáu vừa qua là Tòa Tổng Giám Mục ở Giáo phận Koln( Cologne)  tổ chức và Đức Hồng Y đúng chủ lễ. Trong ngày đó chỉ có một bức hình thật lớn để trên Cung Thánh và một bó hoa của nhà thờ.

Bà Neudeck nói bà không mời bất cứ một chính trị gia hay là những người nổi tiếng trên nước Đức mà riêng người Việt Nam thì bà mời đến. Đó là ý nguyện của bà và gia đình.  
– Ông Nguyễn Hữu Huấn

Bà Neudeck nói bà không mời bất cứ một chính trị gia hay là những người nổi tiếng trên nước Đức mà riêng người Việt Nam thì bà mời đến. Đó là ý nguyện của bà và gia đình.

Đó là một buổi lễ tưởng niệm long trọng, cảm động, ngập tràn nước mắt của thuyền nhân. Chủ lễ buổi tưởng niệm  là Đức Hồng Y Giáo Phân Koln cùng 12 linh mục người Đức gốc Việt:

Mười hai linh mục Việt Nam là những người được tàu Cao Anamur cứu vớt hồi trước, được phép làm lễ đồng tế chung với Đức Hồng Y trên bàn thờ.

Trong khi đó thì người Việt Nam kéo đến, theo báo chí là đến khoảng hơn một ngàn rưỡi người đến nỗi không còn chỗ ngồi. Thật tình ngày đó tôi thấy người Việt Nam người ta sụt sùi người ta khóc. Thậm chí trong khi làm lễ và sau khi làm lễ người Việt Nam mình kéo nhau đến tạ ơn ông Neudeck, cứ xếp hàng mà quì lạy trước chân dung ông Neudeck. Người ta cứ hỏi là muốn viếng mộ ông rồi muốn thắp nhang ở đó. Nhiều người theo kiểu Việt Nam mình là muốn đưa phong bì cho tang gia nhưng bà Neudeck không nhận, nói là xin chuyển vô hai hội thiện nguyện đi giúp người của ông Neudeck.

Điều bất ngờ là không chỉ người Việt mà người bản xứ cũng đến quá đông, ông Nguyễn Hữu Huấn nói:

Không ngờ người Đức đến quá đông, kể cả những người nổi tiếng, mặc dù bà Neudeck không chính thức mời. Thí dụ cựu thống đốc tiểu bang rồi cựu phó thủ tướng, cựu chủ tịch quốc hội rồi một số chủ tịch những đảng chính trị cũng đến nữa. Chúng tôi là người tổ chức chung với gia đình cho nên cái khó khăn là không biết làm sao mà sắp xếp chỗ ngồi cho họ cho đàng hoàng thì cũng chỉ biết cách xin những người Việt Nam nhường chỗ cho họ mà thôi.

Rồi lại còn thêm hầu hết những người đã từng ở trên tàu để đi vớt người thời thập niên 80, những người thiện nguyện của Ủy Ban Cap Anamur  hồi trước là bác sĩ, là y tá  đều đến hết.

Cũng nên nhắc lại hồi tháng Tám 2014,  đại hội  35 năm tàu Cap Anamur, thay vì vẫn diễn ra tại quê nhà Troisdorf của tiến sĩ Rupert Neudeck, nơi một chiếc ghe của người vượt biển được kéo về trưng bày tại đó, thì lần tổ chức 35 năm Cap Anamur này được dời qua cảng Hamburg với cả ngàn người Việt khắp nơi trên nước Đức về tham dự:

Có hai lý do giải thích sự thay đổi này, thứ nhất là tại cảng Hamburg cách đây 5 năm một tấm bia biểu tượng người tị nạn đã được dựng lên nhằm đánh dấu nơi xuất phát mà cũng là nơi trở về của các con tàu định mệnh Cap Anamur.

Thứ hai chính là yêu cầu của tiến sĩ Rupert Neudeck, người sang lập Ủy Ban Cap Anamur, nói rằng sức khỏe của ông ngày một kém vì thế đây có thể là lần cuối cùng và ông mong muốn tổ chức ngày kỷ niệm 35 Cap Anamur tại Hamburg.

Không ai ngờ đến lần kỷ niệm 37 năm Cap Anamur thì tiến sĩ Rupert Neudeck đã  lặng lẽ và  thanh thản  bay vào đại dương mênh mông trong sự nuối tiếc nghẹn ngào của những thuyền nhân vì ông mà được sống.

Một nén hương lòng thắp muộn cho vị đại ân nhân của người vượt biển Việt Nam.

LỄ ĐẶT BIA TRI ÂN NGƯỜI SÁNG LẬP CHỮ QUỐC NGỮ

Image may contain: 3 people, people standing, tree, suit, flower and outdoor
Image may contain: 3 people, people standing, sky and outdoor
Image may contain: flower, plant, table and outdoor
Image may contain: 8 people, people smiling, people standing, tree, outdoor and nature

Phong SươngFollow

LỄ ĐẶT BIA TRI ÂN NGƯỜI SÁNG LẬP CHỮ QUỐC NGỮ

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2019

Chữ quốc ngữ, bộ chữ Việt với mẫu tự La tinh, theo đánh giá của các nhà khoa học, “đã đưa người Việt Nam đi trước hơn ba thế kỷ” so với các nước lân cận có ảnh hưởng văn hoá và dùng mẫu tự tượng hình Trung Hoa. Quan trọng hơn cả, chữ Quốc ngữ đã giúp Việt Nam thoát dần văn hoá Trung Hoa.

Hơn 300 năm qua, đã có nhiều việc làm ghi ơn người có công sáng tạo chữ Quốc ngữ cho dân tộc Việt, linh mục Alexandre de Rhodes, con đường mang tên ngài ở Sài Gòn, bia vinh danh ngài bên Hồ Gươm Hà Nội (đã bị thất lạc), nhiều sách vỡ ghi nhận công lao của ngài và các thừa sai Tây phương vẫn còn lưu truyền đến nay.

Gần đây, người Việt trong nước đặt vấn đề củng cố và làm trong sáng tiếng Việt, chữ Quốc ngữ, gợi lên tình cảm biết ơn người đã ban tặng bộ chữ Quốc ngữ. Nhiều người đã tìm đến viếng mộ linh mục Alexandre de Rhodes ở Isfahan – Iran để tỏ lòng tri ân.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, một nhà khoa học 40 năm giảng dạy đại học Liège – Bỉ, với ý thức và trách nhiệm một người dân Việt yêu nước, đồng thời là Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn Tiếng Việt – Đại học Duy Tân Đà Nẵng, đã làm một việc ghi dấu ấn tri ân. Tháng 5/2018 khi tìm đến viếng mộ ở Isfahan, giáo sư có ý định đặt bia tri ân. Chức trách sở tại các cấp quản lý mộ cổ rất nghiêm nhặt, giáo sư bằng uy tín cá nhân đã được cấp giấy phép đặt bia bên mộ.

Nhân ngày giỗ thứ 358 của cha Alexandre de Rhodes, giáo sư Hưng đã tổ chức một cuộc hành hương đến nghĩa trang Công giáo Armenia ở thành phố Isfahan – Iran để làm lễ tưởng niệm và khánh thành bia. Đoàn 20 người Việt Nam bao gồm nhà khoa học, nhà văn, nhà báo, nhà sử học, doanh nhân và nhiếp ảnh đi từ Việt Nam. Buổi lễ có sự hiện diện của các nhà chức trách địa phương, ông Mazahenri đại diện cộng đồng Hồi giáo, ông Gestabian đại diện cộng đồng Cơ Đốc thành phố Isfahan, bà Gukasian Trưởng phòng quan hệ cộng đồng Nhà Thờ Vank thành phố Isfahan và gia đình ông Hojat, người trợ giúp giáo sư Hưng trong suốt quá trình làm việc.

Buổi lễ tưởng niệm và khánh thành bia tri ân đã diễn ra long trọng, trang nghiêm. Không khí thành kính và cảm động bao trùm buổi lễ khi giáo sư Nguyễn Đăng Hưng đọc khai mạc với những lời lẽ mạnh mẽ và dâng trào cảm xúc. Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu phát biểu nhìn nhận công lao của người sáng lập chữ Quốc ngữ. Nhà văn Hoàng Minh Tường cũng nói lên tình cảm tri ân nồng ấm. Các khách mời từng người đáp lời đón chào hoan hỷ, ủng hộ việc làm của đoàn Việt Nam.

Sau khi tấm lụa in hình trống đồng được các thành viên nữ trân trọng dở ra khỏi mộ và bia, tiếng hợp ca của cả đoàn vang lên: Tôi yêu tiếng nước tôi…., giáo sư Hưng dâng hương trầm, hoa, bản in lại sách Phép Giảng Tám Ngày” và lần lượt từng người đặt một cành hoa hồng lên mộ. Cuối cùng các thành viên Công giáo trong đoàn cùng đọc kinh viếng mộ.
Sau buổi lễ chính thức hơn một giờ đồng hồ, từng người đều muốn ghi lại hình ảnh kỷ niệm để lưu lại cảm xúc của mình.

Nhân dịp, nghĩ cũng nên có đôi dòng sơ lược về hoàn cảnh ra đời chữ Quốc ngữ và cha Alexandre de Rhodes:

Từ năm 1615, thời Chúa Sãi, các thừa sai dòng Tên đến Đàng Trong để truyền đạo Kitô, những người đầu tiên được ghi nhận có linh mục Buzomi, linh mục Pina, linh mục Borri và tu huynh Diza thuộc dòng Tên Bồ Đào Nha. Các ngài học tiếng Việt và ký âm bằng mẫu tự La Tinh. Các ngài đã dịch sách giáo lý sang tiếng Việt bằng chữ Nôm với phiên âm bằng mẫu tự La Tinh. Năm 1624 linh mục Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong, học tiếng Việt với các nhà thừa sai nói trên và thầy giảng Andre Phú Yên.

Linh mục Alexandre de Rhodes từ công trình của các thừa sai đi trước, đã cho ra đời cuốn tự điển Việt – Bồ – La và sách Phép Giảng Tám Ngày song ngữ La Tinh và chữ Việt mới – chữ Quốc ngữ. Hai quyển này ngài hoàn thành và in ở Roma năm 1651, sau khi bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1645 do lệnh cấm đạo của chúa Nguyễn. Hai quyển sách này chắc chắn phải theo chân các thừa sai đến Việt Nam truyền đạo sau này. Chữ Quốc ngữ từ đó được phổ biến tại Việt Nam ta.

Dù rất muốn trở lại Việt Nam, nhưng vì án tử cho ngài còn treo ở Đàng Trong, Vatican không cho ngài trở lại. Năm 1654 ngài được đưa sang truyền đạo ở Iran (Ba Tư), năm 1660 ngài mất và được an táng ở nghĩa trang Công giáo Armenia, Isfahan Iran.

Phụ lục:

BÀI PHÁT BIỂU CỦA GS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG

Thưa các bạn,

Vẫn biết lúc ban đầu các giáo sỹ cơ đốc chỉ muốn tạo dựng một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo, nhưng tính cách nghiêm túc và khoa học của công trình của họ đã cho ra đời một sản phẩm văn hóa tuyệt vời giúp cho người Việt có cơ hội nhanh chóng hòa nhập với thế giới văn minh, giúp các trẻ em Việt Nam có thể nhanh chóng biết đọc và biết viết, thoát ra những rối rắm của cách viết tượng hình vay mượn từ Trung Hoa.

Các chí sỹ yêu nước của các phong trào canh tân đất nước như Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… đã sớm ý thức được lợi thế này và đã chọn chữ quốc ngữ làm phương tiện truyền bá những tư tưởng dân chủ tiến bộ, mưu cầu giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp.

Sự ra đời và phổ biến của chữ quốc có công sức của nhiều người: Các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, các cộng tác viên người Việt, các học giả người Việt: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục…, các chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục: Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Lương văn Can, Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… các thành viên chủ chốt của Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ: Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Bùi Kỷ, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang…. Họ đã là những nhân tố tích cực cho việc mở mang dân trí, phổ biến các tư tưởng tiến bộ cho toàn dân dẫn đến độc lập dân tộc và thông nhất đất nước Việt Nam.

Nhưng công đầu có lẽ thuộc về cha Alexandre de Rhodes.

Năm 1651 sau khi bổ sung và hoàn thiện các công trình tiếng Việt khởi đầu từ các công trình của các giáo sỹ Bồ Đào Nha (Francisco De Pina , Gaspar De Amaral, Antonio Barbosa) ngài cho ra đời tại Roma, quyển tự điển Từ điển Việt–Bồ–La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum), công bố khoa học đầu tiên về Tiếng Việt và cách viết dùng ký tự La Tinh.

Đây là cả một nỗ lực, khổ luyện cá nhân hiếm có. Cha Alexandre de Rhodes đã ghi lại:
“Khi tôi vừa đến đàng trong VN và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. ..”

Cha Alexandre de Rhodes đã góp phần to lớn, giúp cho dân tộc Việt Nam hòa nhập với thế giới văn minh trước hơn 350 năm so với các nước khác tại Á Châu!
Đây cũng là thành quả giao lưu văn hóa u-Á trong sáng và trường tồn vào bậc nhất của nhân loại. Có công trình giao lưu văn hóa nào ngay thế kỷ 17 mà đã có hợp tác của đông đảo các quốc tịch: Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Hoa, Pháp và Việt Nam… đế sáng tạo, hình thành và đạt kết quả mỹ mãn như Chữ Quốc Ngữ mà ta có ngày nay?

Hôm nay, chúng tôi, những người dân từ Việt Nam xa xôi, là hướng dẫn viên du lịch, là chuyên gia nhiếp ảnh, là nhà báo, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, giáo sư đại học, đến từ Nam, Trung, Bắc, có người định cư ở nước ngoài hồi hương, chúng tôi vượt không gian trên 6000 km tụ tập về đây, nhân ngày giỗ thứ 358 của ngài.
Chúng tôi kính cẩn đặt bia tri ân, với tư cách là người Việt Nam, nói tiếng Việt và sử dụng mỗi ngày Chữ Quốc Ngữ.

Chúng tôi ghi rõ lòng biết ơn của chúng tôi lên bia đá:

“Tri ân Cha Alexandre de Rhodes đã đóng góp to lớn trong việc tạo tác Chữ Quốc Ngữ – chữ Việt viết theo ký tự Latinh” (We are very grateful to Father Alexandre de Rhodes who contributed greatly to the creation of Chữ Quốc Ngữ, Vietnamese script using the Latin alphabet).

Chúng tôi cũng mang sang đây một tấm bia ngắn, cho khắc in chân dung ngài và hình ảnh cuốn từ điển trứ danh của ngài.

Chúng tôi tin tưởng rằng từ nay, tấm bia đá lấy từ Quảng Nam này, nơi ngài lần dầu đặt chân đến học tiếng Việt, sẽ mãi mãi đứng dưới chân ngài, đem đến cho ngài hơi ấm của lòng biết ơn sâu sắc của người Việt chúng tôi!

Thật vậy, Chữ Quốc Ngữ đã quyện cùng tiếng Việt, thấm vào hồn người Việt và trong giai đoạn khó khăn đầy bất trắc hôm nay của đất nước, chúng tôi tin tưởng không gì có thể lay chuyển được được là Vinh danh Chữ Quốc Ngữ chính là bảo tồn tiếng Việt, chính là bảo vệ đất nước Việt Nam!
Xin cám ơn quý vị…

Sepas gozaram

GS Nguyễn Đăng Hưng

Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn Tiếng Việt
Đại học Duy Tân Đà Nẵng

BÀI PHÁT BIỂU CỦA NHÀ VĂN HOÀNG MINH TƯỜNG

Thưa Cha.

Ở Việt Nam có một đường phố mang tên Ngài, đường Alexandre de Rhodes, ở trung tâm Sài Gòn, tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Trước đó cả thế kỷ, ở trung tâm Hà Nội, thủ đô của nước Việt, có một tấm bia vinh danh Ngài bên Hồ Gươm, tiếc rằng, do giặc giã, đã bị thất lạc.

Điều đó nói rằng, hơn ba trăm năm qua, người Việt Nam không quên Ngài, vẫn luôn nhớ Ngài như thuở Ngài sống và cùng các giáo sỹ Emmaanuel Fernades, Buzomi, Francois de Pina…cùng các con chiên người Việt góp phần sáng tạo nên chữ Quốc ngữ.
Và sự hiện diện của chúng tôi hôm nay, một nhóm người Việt nặng lòng với tiếng Việt, chữ Việt, tại nơi yên nghỉ của Ngài, đúng ngày giỗ lần thứ 358 của Ngài ( 5/11/1660 – 5/11/2018) nói rằng Ngài vẫn luôn sống trong tâm tưởng mọi thế hệ người Việt.

Có muộn quá không, đã 372 năm kể từ ngày Ngài xa nước Việt, nơi mà Ngài đã gắn bó suốt 20 năm, từ 1625 đến 1645, đã luồn rừng lội suối, cùng ăn cùng ở với người dân, nói thứ ngôn ngữ thuần Việt với con chiên, với Chúa, để rồi kết tinh nên bộ sách khai sáng Dictionarium Annamitium Lusitanum ed Latinum ( Từ điển Việt Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh, gọi tắt là từ điển Việt – Bồ – La) , in tại Roma, 1651.

Không quên, cũng có thể hiểu là không muộn, và có thể được thể tất, được xá lỗi, thưa Ngài.

Là một người gắn với nghiệp cầm bút, chúng tôi luôn coi Ngài và các cha Francois de Pina, Buzomi, Emmanuel Fernandes như những người Thầy khai sáng. Tôi nghĩ, rồi đến một lúc, các thế hệ hậu sinh nước Việt sẽ rước Ngài vào Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội, Thánh đường của đạo học Việt Nam để phối thờ cùng các đại sư biểu Khổng Tử , Chu Văn An… Người Việt chúng tôi từng có câu tục ngữ : Uống nước nhớ nguồn, chắc ngài đã biết từ ngày ở giáo đường Thanh Chiêm, xứ Quảng?

Nói vậy để thấy rằng, kể từ khi bộ Từ điển Việt – Bồ – La ra đời, và đặc biệt từ tháng 12 năm 1918, khi triều đình nhà Nguyễn chính thức quy định dạy chữ Quốc ngữ trong các trường học cả nước, thì không chỉ giáo dục, báo chí, văn hóa, mà tất các các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, đời sống của nước Việt đã đột biến phát triển lên một bước mới. Trong những thành tựu vượt trội, phải kể đến văn chương Quốc ngữ. Cùng với sự nở rộ của báo chí, bắt đầu từ Gia Định báo ra đời năm 1865 ở Sài Gòn, cùng với phong trào Truyền bá Quốc ngữ, phong trào Đông Kinh Nghĩa thục, một dòng văn xuôi tự sự Quốc ngữ Nam Bộ đã gợi mở và đặt nền móng cho những trào lưu văn học Tự lực Văn đoàn, Thơ Mới sau này. Và tiếp theo là dòng văn học Hiện thực và văn học Hiện đại hôm nay… Nói không ngoa, một trăm năm qua là cuộc đại hợp thành của nền văn học hiện đại Việt Nam, là cuộc vật vã khai mở vào ngôn ngữ tiếng Việt của những phu chữ ( theo cách nói của nhà thơ Lê Đạt), để khởi sinh và phát triển một dòng văn học chữ Việt, ào ạt tuôn chảy, nhanh chóng chiếm lĩnh những đỉnh cao và sự toàn bích, đưa ngôn ngữ Việt, văn hóa Việt trở thành vi diệu , có khả năng giao hòa, khuếch tán vào nhân loại…

Xưa nay kẻ sĩ thường không thích nói về mình. Hẳn Ngài cũng như Đại thi hào Nguyễn Du, những người làm ra sản phẩm tinh thần, thường luôn nghĩ mình mong manh, luôn mặc cảm sợ người đời không hiểu mình, dễ lãng quên mình. “ Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” ( Không biết rằng ba trăm sau, Có ai là người khóc Tố Như (ta) không?)

Thưa Cha Alexandre des Rhodes, người Việt Nam chúng tôi không bao giờ quên những người tạo lập công đức và kiến tạo văn hóa, những Hai Bà Trưng, Ngô Quyền , Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… Và cả Ngài nữa. Ngài đã trở thành một người Việt viết hoa. Ngài đã tạo dựng Công đức, kiến lập Văn hóa với nước Việt.
Và hôm nay, tại đây, chúng tôi xin kính cẩn thắp hương tưởng niệm Ngài, xin tri ân với bạn bè nơi ngài an nghỉ, đã giành cho chúng tôi một chốn hành hương, như về với cội nguồn.

Hoàng Minh Tường
(Nhà văn)

BÀI PHÁT BIỂU CỦA TS NGUYỄN THỊ HẬU

Chữ quốc ngữ là chữ viết chung của cả nước. Trải qua gần một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ nhưng người Việt vẫn nói tiếng Việt. Từ khi giành được độc lập vào thế kỷ thứ X, các triều đại phong kiến nước ta đã mượn chữ Hán (còn gọi là chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật nhưng chữ Nho chưa bao giờ có vai trò là chữ quốc ngữ.

Từ thế kỷ XIII người Việt dựa trên chữ Nho để ra chữ Nôm nên muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán. Vì vậy cả chữ Hán và chữ Nôm đều không thể phổ biến trong dân chúng, do đó ít được sử dụng.

Từ thế kỷ XVI, các giáo sĩ phương Tây bắt đầu đến truyền giáo tại nước ta. Khi truyền đạo, các giáo sĩ không phải chỉ nói, mà còn dùng kinh sách để giảng giải. Vì vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải học tiếng Việt và viết kinh sách bằng tiếng Việt. Từ nhu cầu đó nhiều giáo sĩ đã ký âm thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi dùng thứ chữ mới ký âm nầy để viết sách giáo lý bằng tiếng Việt. Sau đó tổ chức biên soạn từ điển và in kinh thánh, giáo lý bằng loại chữ mới này.

Từ thế kỷ XVII trở đi, nhờ dễ sử dụng bằng cách ghép chữ thành vần nên thứ chữ mới bằng mẫu tự Latin phổ biến hơn. Chữ quốc ngữ phát triển được là nhờ dựa trên nền tảng tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú, linh hoạt và biểu cảm. Từ góc độ lịch sử văn hóa, sáng tạo ra chữ quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây đặc biệt là vai trò của Ngài Alexandre de Rhodes. Bên cạnh đó không thể không nói đến sự đóng góp của nhiều nhà văn hóa, trí thức người Việt, đặc biệt giai đoạn từ nửa sau thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ XX.

Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện nhiều thành tố văn hóa mới: báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật, in ấn và xuất bản… chữ quốc ngữ càng có điều kiện phát triển rộng khắp, đồng thời tác động trở lại làm cho “văn viết” và “văn nói” của tiếng Việt có sự phân biệt. Từ sau 1945 có thể nói, bằng phong trào “bình dân học vụ” phần lớn dân chúng trước đây “mù chữ” đã biết đọc biết viết. Ngôn ngữ, văn hóa nhiều vùng miền đi vào chữ viết càng làm cho chữ quốc ngữ phong phú và tinh tế, nhiều sắc thái và giàu đẹp hơn.

Chữ quốc ngữ là một thành tựu văn hóa lớn, có ý nghĩa thúc đẩy văn hóa phát triển (văn chương, giáo dục, khoa học kỹ thuật…). Vì vậy, từ buổi lễ trang trọng hôm nay tại đây, chúng ta hy vọng rằng ngoài việc tôn vinh những ngươi có công lao sáng tạo và hoàn thiện chữ quốc ngữ – tiêu biểu là Ngài Alexandre de Rhodes – chúng ta sẽ đánh giá đúng vai trò của những nhà văn hóa Việt Nam, giá trị những địa điểm ghi lại dấu ấn hình thành và phát triển chữ quốc ngữ tại nước ta vì đó là xứng đáng trở thành di tích lịch sử – văn hóa của đất nước.

Trân trọng cám ơn giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, người khởi xướng và tổ chức hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa này. Chân thành cám ơn các vị khách quý đã tham dự buổi lễ. Xin cám ơn tất cả anh chị em trong đoàn!

Chúc tất cả quý vị sức khỏe và thành công!

Ts kc Nguyễn Thị Hậu.

(https://thanhlab24.blogspot.com/…/le-at-bia-tri-nguoi-sang-…)

Nhật bắt người Việt bị nghi đưa hối lộ – Tạp Chí Hoa Kỳ

Ở đâu cũng có…hay là chỗ đó…Made in Vi Na mà…

INS.TAPCHIHOAKY.COM
Duong Thi The, 34 tuổi, bị bắt hôm 2/12 với cáo buộc hối lộ nhân viên Tổng lãnh sự quán Việt Nam ở thành phố Fukuoka để làm giấy tờ cư trú. Duong Thi The, sống tại thành phố Kobe, bị cáo buộc trả tổng cộng 150.000 yen (1.370 USD) để nhân…

HỘI BẢO VỆ TRẺ EM ĐÂU?

Trẻ em sống ở Thiên đường XHCN Việt Nam
Image may contain: one or more people and outdoor
Lê Vi

HỘI BẢO VỆ TRẺ EM ĐÂU?

CÁC LỰC LƯỢNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI ĐÂU?
CÔNG AN PHƯỜNG ĐÂU?

Các trẻ em bị bọn chăn dắt phạt quì để trừng trị điều gì đó (có thể là vì đi ăn xin được quá ít tiền nên bị chúng phạt).

Hình ảnh được chụp tại công viên Lê Văn Tám, Q1, TPHCM.

Nguồn: Sai Gon Young.