CHÂN DUNG MỘT SIÊU LỪA!

Nguyễn Hoàng Tuấn 

Hãy nhìn qua sự nghiệp hoành tráng của người đàn ông này. Ông từng bị bắt vào Nhà tù Liên bang Mỹ do bị kết tội trong nhiều phi vụ lừa đảo khác nhau. Sau khi ra tù, Comisar tuyên bố quy ẩn giang hồ, rửa tay gác kiếm và trở thành một chuyên gia cố vấn… chống lừa đảo. Ông sau đó còn xuất hiện trên nhiều chương trình truyền hình rồi xuất bản cả một cuốn sách mang tựa đề “Cẩm nang chống lừa đảo ở Mỹ” (2012). Nhìn chung, con đường hoàn lương của Comisar có vẻ ổn thỏa, nhưng cái làm cho mọi người nhớ nhất chính là một trong những phi vụ hồi ông mới vào nghề.

Dường như thấy rằng, trong những phi vụ gạt người khác, những tay thích lừa cứ nhất thiết phải “nói dối”, Comisar tự nhủ với chính mình “tại sao lại không nói thật nhỉ?” Nghĩ là làm, chàng trai Comisar trẻ tuổi liền đặt mua một mẩu quảng cáo trên tờ tạp chí quốc gia National Enquirer với nội dung như sau:

“Thiết Bị Phơi Đồ Năng Lượng Mặt Trời, chỉ với giá 49,95 đô la. Các kiểm định khoa học cho thấy, thiết bị này đảm bảo dùng tốt lên đến 5 năm nếu được cung cấp đủ ánh sáng mặt trời. Không phải dùng bất kì một nguồn năng lượng nào khác, không pin, không điện. Miễn phí giao hàng toàn quốc.”

Những khách hàng xem được dòng chữ này tỏ ra khá là hứng thú với sản phẩm. Ai cũng biết nỗi niềm phơi đồ canh nắng chạy mưa khá là khổ sở, đó là còn chưa kể đến mùi ẩm mốc nếu quần áo không được hong khô hoàn toàn. Giờ mà có thiết bị không dùng năng lượng gì cả, chỉ tốn khoảng 50 đô la để giải quyết vấn đề này thì còn gì bằng. Thế là, những đơn hàng nối tiếp bay về.

Thời gian chờ đợi dằng dặc không cản được cảm giác háo hức khi nhận được sản phẩm. Các khách hàng cẩn thận cắt xé từng mẩu băng dán, nhẹ nhàng gỡ hộp ra và trước mặt họ, được đóng gói kĩ càng giữa hộp, là một… đoạn dây phơi đồ! Có gì đó có vẻ sai sai, rõ ràng là họ đặt hàng một thiết bị phơi đồ dùng năng lượng mặt trời chứ đâu phải đoạn dây này chứ? Vài khách hàng tìm cách liên lạc cho người bán (Comisar) và nhận được phản hồi như sau:

Sản phẩm là một thiết bị phơi đồ, đúng không? – Đúng.

Dùng năng lượng mặt trời, tức là ánh nắng, đúng không? – Đúng.

Đảm bảo dùng tốt nếu cung cấp đủ ánh sáng mặt trời? – Đúng.

Không pin, không điện, miễn phí giao hàng? – Cũng đúng nốt.

Vậy đích thị người bán đã cung cấp đúng sản phẩm y như quảng cáo, không có gì khuất tất ở đây cả.

Đến lúc này thì khách hàng đã vỡ lẽ ra họ bị “lừa” một cách không thể thật thà hơn. Không có bằng chứng hay lý do gì để khởi kiện nhà bán hàng, người mua đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Phi vụ này của Comisar đi vào sách giáo khoa của những kẻ lừa đảo khi hoàn toàn né được những cáo buộc liên quan đến pháp luật (mặc dù về sau, rồi ông cũng bị vào tù trong một phi vụ khác). Chỉ bằng những lời lẽ không thể nào thật hơn, Comisar đã chứng minh rằng, sức mạnh của ngôn từ thật vô cùng khó lường. Chỉ cần muốn, người ta có thể đổi trắng thay đen một cách rất ư dễ dàng. Giữa dòng đời nhiễu nhương, nơi lòng tin của con người liên tục bị thử thách, đừng chỉ đề phòng với những lời nói dối, vì biết đâu, ngay cả những lời nói thật 100% đấy cũng chắc gì đã tốt đẹp hơn?

( Sưu tầm )

“Vào Viện Dưỡng Lão” – Trần Văn Giang

Trần Văn Giang.

(6 điều hối tiếc)

Lời giới thiệu

Đây là một câu chuyện dài, thật buồn rất đáng đọc; nhưng cũng là một bài học lớn về việc yêu thương và tôn trọng người cao niên; đồng thời tìm cách giúp họ duy trì tự do và phẩm giá trong cuộc sống còn lại.

Có người nói “Viện dưỡng lão là phòng khách của địa ngục!?” Hay là “Thôi già rồi thì đành phải chịu thôi… Than vãn làm gì nữa hè!”

Đúng hay sai cũng còn tùy mỗi hoàn cảnh…

TVG

*******

Nếu chỉ có một điều trong đời mà tôi thực sự hối tiếc thì đó chính là bước chân vào Viện dưỡng lão.

Năm nay tôi 82 tuổi. Tóc tôi đã bạc trắng, chân cũng không còn nhanh nhẹn như xưa, nhưng tâm trí vẫn còn minh mẫn lắm. Tôi từng nghĩ rằng tuổi giả chỉ đơn giản là một hành trình nhẹ nhàng khi con người ta được tận hưởng quãng thời gian cuối đời trong sự thanh thản. Nhưng mà không. Tôi đã sai và sai lầm lớn nhất đời tôi chính là rời bỏ căn nhà mà tôi đã gắn bó suốt hơn nửa cuộc đời để bước vào nơi mà người ta vẫn hay gọi là chốn “An dưỡng tuổi già.”

Ban đầu tôi không có ý định vào Viện dưỡng lão vì tôi còn đủ sức chăm sóc bản thân, mặc dù hơi chậm chạp hơn trước một chút. Nhưng rồi con cái tôi, những đứa con mà tôi đã nuôi nấng bằng tất cả yêu thương, lại bảo rằng đưa tôi vào đó là cách tốt nhất để tôi có một cuộc sống thoải mái, được chăm sóc đầy đủ không phải lo nghĩ gì nữa. Con gái tôi nắm lấy tay tôi với ánh mắt đầy lo lắng, nhưng cũng có chút thúc giục, nói:

“Mẹ vào đó đi. Ở đó có người chăm sóc; có bác sĩ; có bạn bè trò chuyện; Ở nhà một mình lỡ có chuyện gì không ai biết được?

Tôi đã do dự rất lâu. Căn nhà nhỏ của tôi tuy cũ nhưng đó là nơi lưu giữ bao nhiêu kỷ niệm. Chiếc tủ gỗ do chồng tôi tự tay đóng từ thời trẻ. Góc bếp nơi tôi vẫn nấu những bữa ăn ấm cúng cho gia đình. Chiếc ghế dựa cũ kỹ cạnh cửa sổ nơi tôi hay ngồi đọc báo vào mỗi buổi sáng… Làm sao tôi có thể rời bỏ những kỷ niệm đó. Nhưng rồi tôi cũng xuôi lòng. Tôi tin vào lời con cái. Tôi tin rằng vào Viện dưỡng lão tôi sẽ có một cuộc sống tốt hơn. Tôi tin rằng mình sẽ được chăm sóc chu đáo, được trò chuyện, được an yên…

Vậy mà ngay khi cánh cửa Viện dưỡng lão khép lại sau lưng, tôi đã nhận ra một sự thật cay đắng. Nơi đây không phải là nhà và có lẽ tôi đã không còn đường quay lại. Bạn có bao giờ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi một người giả đánh mất tất cả những gì quen thuộc, những thứ làm nên cuộc sống của mình. Tôi cũng từng là người không nghĩ đến điều này cho đến khi chính mình rơi vào hoàn cảnh hiện tại.

Tôi ước chi có ai đó đã nói cho tôi biết trước khi tôi bước vào Viện dưỡng lão. Nếu bạn hiện, đang cân nhắc về việc sẽ “Vào Viện dưỡng lão,” dù cho chính mình hay cho người thân, hãy nghe câu chuyện của tôi trước khi quyết định. Vì một khi bạn bước vào Viện dưỡng lão thì cuộc sống của bạn sẽ không bao giờ còn như trước nữa. Tôi muốn kể cho bạn nghe “Sáu (6) điều mà tôi hối tiếc” như sau.

Hối tiếc 1: Đã mất đi sự tự do.

Sáng hôm đó tôi thức dậy trên một chiếc giường lạ. Tôi vươn vai theo thói quen định bước ra bên hiên nha` để hít thở chút không khí buổi sáng. Nhưng rồi tôi chùng lại vì không có hiên nhà nào cả. Không có ánh nắng nhẹ nhàng len qua khung cửa sổ quen thuộc. Không có tiếng chim ríu rít trên mái hiên. Chỉ có bốn bức tường trống trơn và mùi thuốc khử trùng thoang thoảng trong không khí.

Phải mất một lúc để tôi nhớ ra là tôi không còn ở nhà mình nữa. Tôi đã ở Viện dưỡng lão. Cảm giác xa lạ ấy không biến mất sau một ngày, một tuần, hay thậm chí một tháng. Mọi thứ trong Viện dưỡng lão đều vận hành theo một lịch trình cứng ngắc mà tôi không có quyền thay đổi: 7:00 sáng nhân viên y tế mở cửa bước vào đánh thức tôi dù tôi chưa muốn dậy; 7:30 bữa sáng được mang đến dù tôi không hề đói; 9:00 có một buổi sinh hoạt chung nơi mọi người ngồi nghe nhạc hoặc tập thể dục nhẹ; 1:00 ăn trưa dù tôi thích món khác hơn tôi vẫn phải ăn thứ được mang ra. Mọi thứ đều có sẵn nhưng tôi chẳng được lựa chọn gì cả. Tôi không còn có thể nấu món canh khổ qua nhồi thịt mà tôi vẫn thích; Không thể uống trà vào buổi chiều như tôi vẫn hay làm; Không thể đơn giản đi bộ ra đầu ngõ mua một túi bánh khi thèm một chút đồ ngọt; Ngay cả việc muốn ra đi ngoài cũng phải xin phép và chờ có người hỗ trợ (?).

Tôi nhớ ngày đầu tiên ở đây tôi đã định ra ngoài đi dạo một chút nhưng cửa đã khóa. Một nhân viên nói tôi:

– “Bác cần ra ngoài ạ? Để con gọi người dẫn bác đi.”

Tôi sững sờ. Tôi cần ai đó dẫn đi để bước ra ngoài sao? Dù chỉ là một đoạn đường ngắn thôi. Dần dần tôi hiểu ra ở đây tôi không còn được quyết định cho chính mình nữa. Từ một người có thể tự do làm mọi thứ, tôi trở thành một người phải chờ đợi người khác quyết định giúp mình. Cảm giác mất đi sự tự do không ập đến ngay lập tức. Nó len lỏi vào từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống nó khiến tôi nhận ra những thứ đơn giản nhất như tự chọn giờ ăn; Tự quyết định hôm nay sẽ làm gì là những điều tôi từng xem là hiển nhiên, nhưng giờ lại là một thứ xa xỉ.

Rồi tôi bắt đầu quen dần với việc không thể tự do ra ngoài; Quen với việc phải ăn thứ được đưa ra dù tôi không thích; Quen với việc ngồi chờ đến giờ ngủ dù tôi chưa muốn ngủ. Nhưng bạn cũng biết: Không quen, không có nghĩa là chấp nhận. Có những đêm tôi nằm trên giường mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà. Tôi nhớ lại những ngày còn ở nhà khi tôi có thể tự tay mở cánh cửa nhà mình bất cứ lúc nào. Khi tôi có thể tự quyết định hôm nay sẽ làm gì khi tôi vẫn còn là người làm chủ cuộc đời mình. Giờ đây tôi chỉ là một cái tên trên một danh sách, một phần trong hệ thống người già phụ thuộc vào lịch trình của người khác.

Nếu bạn đang cân nhắc đưa cha mẹ mình vào Viện dưỡng lão hoặc chính bạn đang nghĩ đến điều đó. Hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự tự do của mình để lấy sự tiện lợi không? Bạn có thể chịu đựng được cảm giác mỗi ngày trôi qua mà không thực sự được quyết định điều gì trong cuộc sống của mình không? Vì một khi bạn đã đánh mất sự tự do thì việc lấy lại nó gần như là không thể được.

Hối tiếc 2: Cảm giác bị lãng quên.

Những ngày đầu tiên ở Viện dưỡng lão tôi vẫn còn niềm tin. Tôi tin rằng dù có xa nhà tôi vẫn sẽ được con cháu quan tâm. Tôi tin rằng dù ở một nơi khác, tình cảm gia đình vẫn không thay đổi. Ban đầu thì đúng như vậy.

Tuần đầu tiên con gái tôi đến thăm nó mang theo ít bánh ngọt, một hộp sữa và ngồi trò chuyện với tôi suốt cả buổi chiều. Nó hỏi tôi ánh mắt đầy quan tâm:

– “Mẹ có quen không? Mọi thứ ổn chứ?”

Tôi mỉm cười gật đầu vì tôi không muốn nó lo lắng. Cuối tuần đó, các cháu tôi cũng đến. Chúng ríu rít kể chuyện trường lớp. Chúng ôm tôi rồi chụp vài tấm ảnh. Tôi cảm thấy lòng mình ấm áp. Tôi tự nhủ mình không cô đơn đâu. Mọi người vẫn sẽ nhớ đến mình… Nhưng rồi những lần thăm hỏi cứ thưa dần đi. Tuần thứ hai con gái tôi bận công việc. Nó chỉ gọi điện thoại dặn dò vài câu rồi gác máy. Tuần thứ ba cháu tôi nói nó có bài thi ở trường không thể đến thăm Ngoại. Đến tuần thứ tư thì chẳng còn ai ghé nữa. Tôi bắt đầu đếm từng ngày mong chờ có ai đó mở cánh cửa phòng nói với tôi rằng “Mẹ ơi con đến rồi.” Hoặc “Ngoại ơi. Con nhớ Ngoại lắm…” Nhưng cửa vẫn đóng, điện thoại vẫn im lặng.

Rồi tôi nhận ra tôi không phải là người duy nhất rơi vào tình cảnh này. Tôi thấy những cụ già khác cũng ngồi lặng lẽ bên cửa sổ; Đôi mắt nhìn ra xa chờ đợi một bóng dáng quen thuộc. Tôi nghe những câu chuyện thì thầm” “Thằng con tôi nói cuối tuần này nó tới; nhưng rồi lại báo là bận”; “Hôm nay là sinh nhật tôi mà chắc chẳng có ai nhớ đâu?”… Và tôi hiểu rằng một khi đã vào Viện dưỡng lão rất dễ để người ta lãng quên mình. Không phải vì con cháu không yêu thương tôi nữa. Tôi biết chúng vẫn yêu tôi, nhưng cuộc sống bận rộn khiến chúng dần dần xem sự vắng mặt của tôi là chuyện hiển nhiên.

Lần đầu tiên tôi thực sự cảm nhận được điều này là vào dịp Tết. Những năm trước, vào ngày 30 Tết, tôi sẽ cùng con gái gói bánh, quét dọn bàn thờ tổ tiên, chuẩn bị mâm cơm cúng mọi thứ luôn rộn ràng ấm áp. Nhưng năm nay tôi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ của Viện dưỡng lão lắng nghe tiếng pháo vọng từ xa. Không ai đến đón tôi về nhà. Không ai nhớ rằng Tết của tôi không phải là ăn một phần cơm cứng ngắc trong bữa ăn tập thể mà là những khoảnh khắc bên con cháu; Là mùi hương trầm nghi ngút trong nhà.

Lúc đó tôi mới thực sự hiểu một khi bạn rời khỏi cuộc sống thường ngày của con cái, bạn cũng rời khỏi những thói quen của họ. Họ sẽ tiếp tục với công việc với gia đình nhỏ của họ họ sẽ nhớ đến bạn nhưng không còn là mỗi ngày. Họ sẽ vẫn yêu thương bạn, nhưng không còn dành thời gian cho bạn như trước và rồi dần dần bạn trở thành một cái tên trong ký ức của họ – Một điều gì đó quan trọng nhưng không còn là ưu tiên.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão hoặc định gửi cha mẹ mình vào đó, hãy tự hỏi là bạn có sẵn sàng sống những năm tháng cuối đời trong sự mong chờ mà không biết khi nào người thân sẽ đến thăm bạn. Có chắc rằng dù bạn không còn ở nhà con cháu vẫn sẽ đến gặp bạn thường xuyên như họ hứa bởi vì một khi bạn bước vào nơi này, cuộc sống ngoài kia sẽ tiếp tục nhưng không còn có bạn trong đó. 

Hối tiếc 3: Mất đi ý nghĩa cuộc sống.

.Tôi từng nghĩ rằng khi về già, con người ta chỉ cần một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Tôi từng tin rằng không phải làm gì cả là một điều tốt… Nhưng không phải vậy. Ngày còn ở nhà tôi luôn có việc để làm. Sáng thức dậy tôi pha một ấm trà; Tưới mấy chậu cây ngoài hiên; Rồi tự nấu một bữa ăn đơn giản; Tôi có thể ra chợ đi dạo trò chuyện với hàng xóm; Tôi có thể tự tay thu dọn nhà cửa giặt rũ quần áo sắp xếp lại những kỳ vật cũ… Những điều nhỏ nhặt ấy khiến tôi cảm thấy mình vẫn còn giá trị, vẫn có một mục đích sống. Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão mọi thứ đột nhiên dừng lại.

Tôi không cần phải nấu ăn nữa vì bữa ăn được đưa đến tận nơi dù tôi có thích hay không; Tôi không cần phải quét dọn nữa; Nhân viên vệ sinh làm tất cả rồi; Tôi không cần lo lắng gì cả nhưng tôi cũng chẳng còn gì để làm. Ban đầu tôi nghĩ đây là một điều tốt (!); Cuối cùng thì mình cũng được nghỉ ngơi. Nhưng chỉ sau vài tuần, tôi bắt đầu cảm thấy trống rỗng. Buổi sáng thức dậy, tôi chẳng biết hôm nay mình sẽ làm gì? Tôi ngồi trên giường nhìn quanh căn phòng nhỏ tự hỏi mình có thực sự còn ý nghĩa gì không?

Tôi không phải người duy nhất cảm thấy như vậy. Tôi nhớ có một bác tên Minh trước đây là một thầy giáo. Lúc còn ở nhà bác vẫn dạy kèm mấy đứa trẻ trong xóm vẫn đọc sách mỗi ngày. Nhưng khi vào đây, bác chẳng còn học trò cũng chẳng còn sách vở mỗi ngày. Bác chỉ ngồi yên trên chiếc ghế cũ, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Một lần tôi hỏi bác không định làm gì sao? Đọc sách viết gì đó chẳng hạn? Bác thở dài:

– “Tôi cũng muốn lắm nhưng chẳng ai cần tôi nữa. Không có ai để dạy. Không có ai để chia sẻ. Tôi dần dần quên mất mình là ai.”

Câu nói ấy ám ảnh tôi. Một người từng là thầy giáo; Một người đầy tri thức từng cống hiến cả đời cho học trò giờ đây ngồi lặng lẽ trong căn phòng nhỏ tự hỏi mình còn ý nghĩa gì nữa không? Tôi chợt nhớ lại những người bạn đồng niên ngày xưa. Một bác từng là thợ mộc ngày nào cũng sửa chữa đóng bàn ghế; Một cô từng là thợ may lúc nào cũng bận rộn với kim chỉ. Nhưng khi vào đây tất cả đều trở thành những con người ngồi chờ thời gian trôi qua. Không phải vì họ không muốn làm gì mà vì ở đây chẳng có gì để làm cả.

Dần dần tôi hiểu ra một điều con người không chỉ cần ăn uống và ngủ để tồn tại. Chúng ta cần có một mục đích một lý do để thức dậy mỗi sa’ng; Một điều gì đó để mong chờ nhưng ở Viện dưỡng lão những thứ ấy dần dần bị lấy đi.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão thì hãy tự hỏi điều gì khiến cuộc sống của bạn có ý nghĩa? Bạn có thể sống mà không có trách nhiệm; Không có công việc gì để làm; Không có ai cần đến bạn không? Vì khi đã mất đi ý nghĩa cuộc sống bạn không còn thực sự sống nữa. Bạn chỉ đang tồn tại.

Hối tiếc 4: Sức khỏe suy giảm nhanh hơn mong đợi.

Trước khi vào Viện dưỡng lão tôi vẫn còn khá khỏe so với tuổi của mình. Tôi không thể chạy nhanh như thời trẻ, nhưng tôi vẫn có thể tự đi chợ tự nấu ăn tự làm những công việc nhỏ trong nhà mỗi sáng. Tôi vẫn có thói quen đi bộ quanh khu phố để giữ cho chân cứng cáp. Nhưng mọi thứ thay đổi nhanh hơn tôi tưởng.

Ngày đầu tiên vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra mình không cần phải làm gì nữa: Bữa ăn đã có người mang đến tận phòng không cần phải đi chợ, không cần đứng bếp, có nhân viên chăm sóc. Nếu tôi cần gì chỉ cần bấm nút sẽ có người giúp ngay không cần phải đi bộ xa vì mọi thứ đều ở ngay trong khuôn viên chỉ vài bước chân. Nghe qua thì có vẻ như một cuộc sống lý tưởng; Nhưng chính sự thoải mái đó đã làm cho cơ thể tôi yếu đi nhanh chóng. Ban đầu, tôi chỉ nghĩ rằng mình được nghỉ ngơi; Nhưng rồi chỉ sau vài tháng tôi bắt đầu cảm thấy hai chân mình yếu hơn, đi lại chậm hơn, thậm chí đứng lên cũng thấy khó khăn hơn.

Rồi tôi bắt đầu để ý đến những người xung quanh. Có một bà tên Lành ngày đầu vào đây bà vẫn còn nhanh nhẹn tự đi lại bình thường nhưng chỉ sau vài tháng bà bắt đầu dựa vào gậy để đi rồi dùng xe lăn và cuối cùng thì bà không còn đủ sức đứng lên một mình nữa. Một ngày nọ, bà nhìn tôi cười buồn. Tôi không biết nó xảy ra từ khi nào, nhưng tôi có cảm giác như mình già đi cả chục năm chỉ sau vài tháng.

Lúc còn ở nhà, dù tôi không tập thể dục nhiều nhưng ít nhất tôi vẫn di chuyển vẫn phải tự làm mọi thứ. Điều đó giúp cơ thể tôi duy trì được sự linh hoạt. Nhưng khi vào đây, tôi ít vận động hẳn. Tôi bắt đầu ngồi nhiều hơn, và cũng nằm nhiều hơn. Rồi tôi nhận ra cơ bắp của mình dần yếu đi. Có một bác sĩ từng nói với tôi:

– “Cụ biết không, khi một người già ngừng vận động họ sẽ mất khả năng vận động nhanh hơn gấp nhiều lần so với người trẻ. Cơ thể con người vốn dĩ cần được hoạt động. Khi cụ ngừng đi lại ngừng làm việc cơ thể cụ sẽ bắt đầu suy yếu.”

Đúng vậy. Nếu tôi biết trước điều này tôi sẽ cố gắng vận động nhiều hơn ngay cả khi đã vào đây. Nhưng vấn đề là môi trường này không khuyến khích điều đó. Khi mọi thứ đều được làm sẵn người ta sẽ dần quên mất cách tự chăm sóc chính mình.

Nếu bạn đang cân nhắc Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có còn động lực để duy trì sức khỏe khi mọi thứ đã được làm thay cho bạn không? Bạn có đủ mạnh mẽ để tự thúc ép mình vận động ngay cả khi không còn ai nhắc nhở? Vì một khi bạn ngừng sử dụng cơ thể mình bạn sẽ bắt đầu mất đi; và đến khi nhận ra điều đó có thể đã quá muộn để lấy lại. 

Hối tiếc 5: Mất đi sự riêng tư.

Còn nhớ ngày còn ở nhà, tôi có một căn phòng riêng, một không gian của riêng tôi. Tôi có thể đóng cửa bất cứ khi nào tôi muốn nếu tôi thấy mệt. Tôi có thể nằm dài cả buổi mà không ai làm phiền. Nếu tôi muốn tắm tôi chỉ cần bước vào phòng tắm mà không cần xin phép ai. Tôi tự quyết định mình làm gì khi nào và như thế nào. Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra rằng sự riêng tư là một thứ xa xỉ. Tại đây cánh cửa phòng không bao giờ thực sự thuộc về tôi nữa. Nhân viên y tế có thể vào bất cứ lúc nào để khám tình trạng sức khỏe của tôi; Người dọn vệ sinh gõ cửa rồi bước vào ngay cả khi tôi chưa kịp trả lời; Những cuộc kiểm tra định kỳ được thực hiện mà tôi không có quyền từ chối. Tôi không trách họ vì họ chỉ làm đúng như được chỉ định; Nhưng cái cảm giác bị theo dõi mọi lúc mọi nơi; Cái cảm giác không còn một góc riêng để thực sự gọi là của chính mình nó không dễ chịu chút nào.

Nhưng điều khiến tôi đau lòng nhất không phải là mất đi sự riêng tư mà là mất đi phẩm giá của một con người. Ở nhà, tôi tự tắm rửa tự mặc quần áo tự chăm sóc bản thân, nhưng ở đây khi tôi bắt đầu yếu đi tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác. Tôi muốn đi tắm tôi phải chờ nhân viên hỗ trợ. Tôi cần đi vệ sinh, nếu tôi không tự đi được tôi phải nhấn chuông gọi. Tôi muốn mặc bộ quần áo mình thích; nhưng nếu không phù hợp với quy định tôi cũng không được mặc.

Bạn có biết cảm giác đứng trước một người xa lạ để họ giúp bạn làm những việc rất cá nhân, trong khi cả đời bạn đã tự làm những việc ấy là như thế nào không? Nó không chỉ là sự bất tiện mà nó là sự tổn thương. Tôi nhớ có lần tôi bị sốt. Người hơi yếu nên y tá giúp tôi thay đồ dù cô ấy rất nhẹ nhàng, rất chuyên nghiệp, nhưng tôi cảm thấy mình không còn là chính mình nữa. Tôi không còn là một người phụ nữ từng sống độc lập, từng tự chăm sóc bản thân. Tôi chỉ còn là một người già, một bệnh nhân, một con số trong danh sách và điều đó thực sự rất đau lòng.

Không phải ai cũng cảm thấy như tôi. Một số người ở đây có thể quen với điều đó; Thậm chí chấp nhận nó, nhưng với tôi một người đã từng tự do, từng tự quyết định cuộc sống của mình thì việc mất đi quyền kiểm soát ngay cả những điều nhỏ nhất là điều khiến tôi thấy mình không còn là mình nữa.

Nếu bạn đang nghĩ đến Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự riêng tư để đổi lấy sự chăm sóc. Bạn có chấp nhận việc mỗi ngày có thể bạn sẽ cần nhờ ai đó giúp làm những điều mà bạn từng làm một cách tự nhiên, bởi vì một khi bạn mất đi sự riêng tư bạn cũng mất đi một phần phẩm giá của chính mình và điều đó khó lấy lại hơn bất cứ thứ gì khác.

Hối tiếc 6: Khó khăn khi muốn rời đi.

Lúc mới bước vào Viện dưỡng lão, tôi đã tự nhủ rằng đây chỉ là một thử nghiệm. Tôi nghĩ nếu không hợp mình có thể rời đi bất cứ lúc nào; nhưng tôi đã quá ngây thơ. Tôi còn nhớ ngày đầu tiên con gái tôi đưa tôi đến đây nó siết chặt tay tôi và nói:

– “Mẹ cứ thử một thời gian xem sao. Nếu không thích mẹ có thể về nhà.”

Câu nói đó khiến tôi an tâm phần nào. Tôi nghĩ rằng mình vẫn có sự lựa chọn. Thế nhưng chỉ sau vài tháng tôi nhận ra rằng việc rời đi không đơn giản như tôi nghĩ. Một ngôi nhà cũ không còn là của tôi nữa. Lúc tôi vào Viện dưỡng lão, căn nhà của tôi vẫn còn đó nhưng tôi không còn ở đó để giữ gìn nó. Con cái tôi bắt đầu sắp xếp lại mọi thứ. Chúng bớt đi những đồ đạc không cần thiết. Thậm chí có ý định bán một số món đồ cũ. Hàng xóm cũng dần dần quên đi sự có mặt của tôi. Những người từng ghé qua trò chuyện mỗi sáng giờ đây không còn nhớ tôi đã từng sống ở đó?

Một ngày nọ, tôi nói với con gái rằng tôi muốn trở về nhà. Tôi tưởng rằng nó sẽ vui mừng, nhưng thay vào đó tôi thấy sự do dự trong mắt nó:

– “Mẹ có chắc không? Mẹ về nhà rồi ai chăm sóc mẹ? Mẹ có tự lo được cho mình không?”

Tôi cứng họng. Tôi biết rằng mình đã yếu hơn trước. Tôi biết rằng sự tự tin mà tôi từng có giờ đã lung lay và tôi sợ. Tôi sợ rằng nếu tôi rời khỏi Viện dưỡng lão tôi sẽ không biết cách thích nghi với cuộc sống bên ngoài nữa. Y như con chim đã được nhốt nuôi trong chuồng quá lâu. Tôi đã quá quen với việc có người mang cơm đến tận nơi; Có người nhắc nhở uống thuốc; Có người hỗ trợ khi cần. Giờ đây nếu tôi trở về tôi phải tự lo mọi thứ tôi thì liệu có làm được không? Sức khỏe của tôi đã thay đổi từ khi mới vào đây. Tôi vẫn còn khỏe mạnh, nhưng như tôi đã nói ở phần trước, việc ít vận động đã khiến tôi yếu đi nhanh hơn. Tôi không còn đi bộ nhanh như trước. Tôi không còn đủ sức nấu ăn một cách linh hoạt. Y như tâm trạng con chim nuôi trong chuồng lâu ngày nay được thả, tôi không còn cảm giác tự tin khi sống một mình.

Tôi nhận ra một sự thật cay đắng: Chính thời gian sống ở đây đã khiến tôi trở thành một người không còn đủ sức để trở về. Trước đây tôi từng nghĩ rằng Viện dưỡng lão chỉ là một điểm dừng chân tạm thời nhưng thực tế càng ở lâu tôi càng mất đi khả năng tự lập và dần dần Viện dưỡng lão trở thành nơi duy nhất mà tôi có thể tồn tại. Tôi nhìn quanh và thấy nhiều người khác cũng rơi vào tình trạng giống mình. Có cụ bà từng nghĩ rằng bà chỉ vào đây một thời gian để hồi phục sức khỏe nhưng rồi bà không bao giờ rời đi nữa vì bà đã quen với sự phụ thuộc. Có cụ ông từng nói rằng sẽ về nhà khi thấy ổn định hơn nhưng sau một năm ngôi nhà của ông bị bán đi và ông không còn nơi nào để về nữa.

Tôi chợt nhận ra một sự thật mà không ai nói với tôi trước đây: Việc vào Viện dưỡng lão là một quyết định dễ dàng nhưng một khi đã vào thì việc rời đi lại là điều gần như không thể làm được – A Mission Impossible!

Nếu tôi có thể quay ngược thời gian tôi sẽ tìm cách ở lại nhà lâu hơn. Tìm kiếm những giải pháp khác thay vì từ bỏ mái ấm, bước vào đây quá vội vàng. Tôi sẽ nhờ con cái thuê một người giúp việc bán thời gian. Tôi sẽ thử sống với một người bạn già để cùng nhau hỗ trợ. Tôi sẽ tìm đến những trung tâm hỗ trợ người cao niên mà không nhất thiết phải vào một nơi như thế này… Nhưng tôi đã không làm như vậy; và bây giờ tôi không biết mình có thể quay lại cuộc sống cũ hay không?

Nếu bạn đang suy nghĩ về Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có chắc mình sẽ dễ dàng rời đi (trở lại nhà cũ) nếu không thích? Việc trở lại không dễ như bạn tưởng và nếu bạn không chuẩn bị trước có thể bạn sẽ không bao giờ có cơ hội để làm điều đó.

Tôi hy vọng rằng câu chuyện của tôi sẽ giúp bạn có một quyết định sáng suốt hơn cho chính mình hoặc cho người thân của mình. Hãy suy nghĩ thật kỹ vì tuổi giả có thể là quãng thời gian hạnh phúc nếu bạn biết cách lựa chọn đúng để chúng ta có thể đồng hành, cùng nhau trưởng thành, cùng nhau sống bình yên và cùng nhau già đi một cách hạnh phúc, êm thắm!

Peace.

Trần Văn Giang (ghi lại)

Orange County

Tháng 3/2025 


 

Có một Nick Út mà tôi biết-Tuấn Khanh

Ba’o Tieng Dan

Tuấn Khanh

17-5-2025

Ông Nick Út về nước ra sách và tặng cho ông Trương Tấn Sang (trái) cuốn sách về cuộc đời của em bé Napalm. Ảnh trên mạng

Câu chuyện về nhà nhiếp ảnh Nick Út và bức ảnh “Em bé Napalm”, trước khi bị đưa ra ánh sáng, đã có nhiều bài viết khẳng định rằng bức ảnh này không phải của ông ta. Năm 2015, nhà bình luận Đức Hồng viết trên BBC tiếng Việt, đã khởi đi rất nhiều tranh luận của người Việt trong và ngoài nước về sự thật ai là tác giả của bức ảnh này. Bằng giọng văn thuyết phục và quả quyết, ông Đức Hồng cho thấy sau bức ảnh “Em bé Napalm” đó còn nhiều điều chưa nói hết, khiến lâu nay nhiều người Việt Nam vẫn lầm tưởng.

Bài viết đặt một câu hỏi – rất hiển nhiên – mà cũng rất cay đắng, vì sao cái gọi là nạn nhân chiến tranh xâm lược của Đế Quốc Mỹ, cô Kim Phúc, cuối cùng đã tìm cách đào thoát và được giúp tỵ nạn ở phương Tây, chứ không ở lại Việt Nam. Nạn nhân đó cũng không muốn được hưởng vinh quang như một biểu tượng chống chiến tranh. Câu hỏi đặt ra là cô Kim Phúc, nhân vật chính trong bức ảnh đó, có hài lòng cho cuộc đời trở thành điểm tựa đẹp nhất về tuyên truyền cho quân đội miền Bắc Việt Nam hay không?

Sự thật là năm 1992, cô Kim Phúc đã thoát khỏi Việt Nam, tỵ nạn ở Canada để không biến mình thành công cụ truyên truyền cho một phía, cũng như tác giả Đức Hồng đặt lên một câu hỏi rất đáng chú ý rằng năm 1972, những người lính Cộng sản Bắc Việt đang làm gì ở đất của miền Nam trong một hiệp định phân chia đất nước vẫn còn hiệu lực. Và vì sao “các em nhỏ ấy lại chạy về phía lính Việt Nam Cộng hòa để kêu cứu mà không một chút sợ sệt, sao các em không chọn những người lính Cộng sản Bắc Việt cũng đang lẩn trốn ở ngay gần đó?”.

Sự thật ít người biết là gia đình cô Kim Phúc cũng bị đánh tư sản vào năm 1975. Cả nhà sống rất khó khăn. Năm 1982 khi một phóng viên người Đức đến Việt Nam để tìm lại nhân vật lịch sử trong bức ảnh “em bé Napalm” thì Kim Phúc bị đẩy thành một nhân vật tuyên truyền cho giai đoạn sau chiến tranh. Mọi thời gian sinh hoạt của cô Kim Phúc lúc bấy giờ đều bị công an kiểm soát chặt chẽ. Thậm chí Kim Phúc bị buộc thôi học trường đại học Y khoa ở Sài Gòn, về sống ở quê Trảng Bàng để tiện dễ kiểm soát ngôn ngữ tuyên truyền.

Sau đó, khi lấy chồng là một du học sinh sống ở Cuba, nhân một chuyến đi, máy bay ngừng chặng ở Gander, Newfoundland (Canada), Kim Phúc cùng chồng trốn khỏi sự kiểm soát của công an viên đi kèm và xin tị nạn. Mọi sự kiện này không là lời kể miệng, mà được bày tỏ công khai trên trang web riêng của Kim Phúc tên là Kim Foundation, quỹ từ thiện do cô sáng lập và cũng như trong quyền hồi ký The Girl in the Picture, hiện vẫn còn bán online trên các nhà sách lớn, như Amazon.

Cùng với những câu hỏi của tác giả Đức Hồng, cũng có một câu hỏi khác được đặt ra, là một người phóng viên của AP, vì sao từ vị trí là một nhiếp ảnh gia ghi chép sự kiện một cách trung dung, ông Nick Út dần dần biến mình thành một người quảng bá sai ý nghĩa của bức ảnh, biến mình thành một nhân vật tuyên truyền hơn cả cô Kim Phúc?

Trong cuộc tranh cãi về sự kiện ông Nick Út trở lại Việt Nam hồi Tháng Sáu 2015, họa sĩ Trịnh Cung nêu một ý kiến khác. “Nếu là một phóng viên có đạo đức, Nick Út đã phải có một thái độ khác. Trái lại, ông Út đã biến cơ hội giữ lại khoảng khắc thương đau của một sinh mệnh, tạo hào quang cho mình, mà không đứng về sự thật của nạn nhân trong suốt nhiều năm liền”, họa sĩ Trịnh Cung nói, “giả sử khi được trao giải Pulitzer, ông Nick từ chối và trao tặng cho nạn nhân mà ông chụp được, có lẽ ông đã giải bày được một cách khiêm tốn về cơ may – hơn là tài năng – và tỏa sáng gấp bội lần hơn lúc này”.

Nhưng điều quan trọng là bên cạnh sự thật ít ai biết về cô Kim Phúc khi phải đào thoát sang Canada – trong số ít đó có ông Nick – thì dường như ông cũng tảng lờ việc đứng về phía nỗi khổ và khó khăn của cô Kim Phúc, và chỉ bám chặt vào bề mặt bức ảnh, lấy câu chuyện để nuôi ánh hào quang cho mình, phản bội lại đạo đức nghề nghiệp báo chí, là phải nói thật về điều mình thấy, trình bày sự thật mà mình biết.

Đạo đức nghề nghiệp đó, đã từng được chứng minh như chuyện nhà nhiếp ảnh Eddie Adams với bức ảnh chấn động thế giới về tướng Nguyễn Ngọc Loan khi bắn phục binh Bắc Việt Bảy Lốp vào năm 1968. Sau khi biết được sự thật, nhất là khi nghe tin tướng Loan qua đời, Eddie Adamas đã nói với báo chí rằng ông đã rất hối hận vì bức ảnh đó làm hại một tướng quân và làm hại một chế độ.

Đạo đức con người cũng đã được thể hiện, khi diễn viên Jane Fonda đi ra miền Bắc Việt Nam cổ vũ cho cuộc chiến tranh tương tàn vào năm 1972. Nhiều năm sau, nhiều lần, người diễn viên này đã bày tỏ sự hối hận vô bờ bến về hành động của mình khi biết rõ tác hại từ chuyến đi của mình. Bà Jane Fonda vẫn lập lại lời xin lỗi đến các cựu chiến binh Mỹ, mỗi khi có dịp.

Nhưng Nick Út thì khác. Ông quay lại Việt Nam để làm triển lãm riêng, ra sách, chụp hình với các quan chức và đặc biệt là tảng lờ về cuộc đời thật của cô Kim Phúc mà ông lúc nào cũng quảng bá là thương mến và thân thiết.

Trong các buổi ra sách, và ký tặng, ông Nick cũng chưa bao giờ nói về sự thật của cuộc đời cô Kim Phúc, cũng như luôn mỉm cười im lặng, như một sự tán đồng với hệ thống truyên truyền Nhà nước rằng đó chính là bức ảnh ông chụp như để tố cáo tội ác xâm lược của đế quốc Mỹ.

Khi được hỏi về việc bị thế giới phát hiện ông là “kẻ cắp” của bức ảnh lừng danh, Nick Út nói ông sẽ đòi công lý “với nỗi đau của mình”. Nhưng có nỗi đau nào bằng chuyện công sức của một người bị cưỡng đoạt suốt nửa thể kỷ, và ông Nick Út thì bao giờ cũng cười tươi che hết ống kính khi nghe nhắc về bức ảnh này. Cũng như có nỗi đau nào diễn đạt được thành lời, khi cô Kim Phúc luôn bị ông giấu trong bóng tối, để làm sáng lòa hơn gương mặt của ông trước báo chí và ống kính truyền thông Việt Nam.


 

GIÁO SƯ ĐOÀN VIẾT HOẠT QUA ĐỜI

Phạm Thanh Nghiên

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một trong những biểu tượng tiêu biểu của phong trào dân chủ và nhân quyền Việt Nam trong vài thập niên trở lại đây, vừa qua đời vào chiều 14/5/2025 tại Nam Cali.

Ông sinh năm 1942 tại Hà Đông, từng là phụ tá Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975. Sau năm 1975, ông bị bắt và bị giam cầm suốt 12 năm trong trại cải tạo mà không qua xét xử. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục đấu tranh ôn hòa cho tự do ngôn luận và dân chủ, dẫn đến việc bị kết án 20 năm tù vào năm 1993. Dưới áp lực quốc tế, ông được trả tự do và sang Hoa Kỳ năm 1998, nơi ông tiếp tục hoạt động cho đến cuối đời.  

Ông được mệnh danh là “Sakharov của Việt Nam” và từng nhận nhiều giải thưởng quốc tế danh giá như Giải Tự do Báo chí Quốc tế (1993), Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy (1995), Giải Bút vàng Tự do (1998) và được vinh danh là Anh hùng Tự do Báo chí Thế giới năm 2000.

Khoảng 3 năm trước, ông chuyển từ Washington DC tới sinh sống tại Nam Cali , nơi có đông người Việt tị nạn cộng sản.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt qua đời là một mất mát cho cộng đồng người Việt tị nạn tại hải ngoại. Di sản của ông chắc chắn sẽ là nguồn cảm hứng cho những người đi sau, trên hành trình tìm kiếm tự do cho quê hương.


 

NÊN CẢM ƠN AI?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 

“Được thừa hưởng một nền giáo dục nhân bản, nên gương mặt rất Chân chất và đôn hậu.”

Trong hình là tiến sĩ Nguyễn Thị Hoàng Dương (Kelly Nguyễn), quê Quảng Ngãi.

Hiện cô làm việc tại MRC-Phòng thí nghiệm về sinh học phân tử tại Cambridge, Anh quốc. Báo chí loan tin cô sẽ được trao huy chương Colworth năm 2024 vì những kết quả nghiên cứu xuất sắc.

Cô là nhà khoa học người Việt đầu tiên nhận huy chương này trong lịch sử 60 năm của giải thưởng.

Con đường của tiến sĩ Hoàng Dương bắt đầu khi học xong lớp 10 ở tỉnh nhà, cô nhận học bổng toàn phần chương trình phổ thông tại Trường nữ sinh Wellington New Zealand.

Khi tốt nghiệp xong, cô có thành tích rất tốt và thi đậu học bổng toàn phần học Hóa học tại đại học danh giá Australian National University (ANU). Ở đây, cô học rất giỏi và tốt nghiệp với hạng đứng đầu khóa học First Class Honours với một huy chương University Medal. Thường 1 năm chỉ có 1 sinh viên của khoa nhận vinh dự này.

Từ kết quả đó, năm 2010 cô được nhận vào học tiến sĩ với học bổng toàn phần tại University of Cambridge (Trinity College).

 Cô tốt nghiệp tiến sĩ khi mới chỉ 26 tuổi và ở lại trường làm công tác nghiên cứu. Cô cũng từng qua nghiên cứu tại Đại học California Berkeley, Mỹ.

Là một nhà nghiên cứu về sinh học phân tử đầy tiềm năng, cô đã từng nhận rất nhiều giải thưởng quốc tế danh giá về chuyên ngành.

Trinity College, nơi cô theo học tiến sĩ và đang làm việc là đại học tốt nhất của Viện đại học Cambridge- trường đại học chất lượng bậc nhất thế giới. Thành lập từ 1546, trường này đã có 34 thành viên nhận giải thưởng Nobel (trong số 121 giải thưởng mà các thành viên của Đại học Cambridge nhận được). Đây là trường mà nhà vật lý Isaac Newton và rất nhiều vĩ nhân từng theo học.

Trường chỉ hiện có tổng số 180 sinh viên tiến sĩ, do đó được vào đây học hành và đỗ đạt là vô cùng vinh dự.

Có một nhà khoa học Việt tại nước Anh, trong 1 trung tâm khoa học lớn của thế giới như tiến sỹ Hoàng Dương thật quý báu. Chúc mừng cô và mong cô đạt nhiều thành tựu khoa học mới.

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

Ba ‘cô tiên’ gốc Việt cứu người suýt chết trong nhà hàng ở Little Saigon

Ba’o Nguoi-Viet

May 14, 2025

Văn Lan/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) – Ba cô gái Việt Nam vừa được vinh danh trong một buổi tiệc nhỏ ở nhà hàng Brodard Chateau, Garden Grove, lúc 7 giờ tối 23 Tháng Tư, vì trước đó cứu được một người suýt chết trong một buổi tiệc ở một nhà hàng khác trong vùng Little Saigon.

Cô Michelle Đỗ (bìa trái, đại diện GSV Janet Nguyễn) trao tặng bằng tưởng lục vinh danh ba “cô tiên” cứu người, từ trái, Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Vì hành động anh hùng đó mà ba “cô tiên” Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm được Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn tuyên dương.

Tại buổi tiệc, cô Michelle Đỗ, đại diện vị dân cử gốc Việt, trao tặng bằng tưởng lục đến ba người này, và nói rằng: “Họ đã có hành động anh hùng, phản ứng nhanh chóng và vị tha trong trường hợp khẩn cấp đe dọa tính mạng người khác. Khi sự việc xảy ra, hô hấp nhân tạo (CPR) và sự hỗ trợ cần thiết của họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc cứu sống một người. Lòng dũng cảm và lòng trắc ẩn mà bạn thể hiện phản ảnh lý tưởng cao nhất về tinh thần cộng đồng và lòng nhiệt huyết.”

Được biết, sự việc xảy ra tại nhà hàng White Palace, Westminster, hôm 15 Tháng Hai.

Cô Tricia Hoàng, y sĩ của bệnh viện UCI, nhớ lại: “Hôm đó ở nhà hàng rất đông người, rất ồn ào và náo nhiệt. Khi em đang cắt bánh sinh nhật, bỗng nhiên ông xã em chạy lại báo có một phụ nữ không được khỏe. Em chạy lại thấy người phụ nữ lúc đó còn tỉnh nhưng mặt mày phờ phạc y như người thiếu ngủ.”

“Rồi gương mặt cô ấy tái nhợt, cô không còn thở, té ngửa ra bất tỉnh kéo em té theo. Em đỡ cô ấy lên làm CPR (bằng miệng). Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là y sĩ, chạy tới làm phương pháp đập ngực để giúp tim bệnh nhân có nhịp đập trở lại. Khoảng hơn 5 phút sau, cô ấy bắt đầu thở lại được. Tiếp đến, cô Vannessa Nina Rose Phạm chạy tới nâng đầu cô ấy qua một bên, và cô ta nôn mửa lên người Nina. Mấy phút sau, xe cấp cứu tới chở cô ấy đi bệnh viện,” cô Tricia kể tiếp.

Cô Liên Nguyễn (ngồi, thứ hai từ phải), em cô Vân Nguyễn, đại diện chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” đã cứu sống chị cô. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Theo cô Tricia, “có thể cô ấy bị nhồi máu cơ tim, hoặc là gì khác nữa chăng, có nhiều nguyên nhân lắm. Ngay lúc nguy cấp đó em chỉ biết cứu người thôi. Nếu mình biết cách cứu chữa thì nên làm. Là người trong ngành y thấy người sắp chết không thể không cứu.”

Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là một y sĩ lâu năm, cộng tác với Trung Tâm Y Tế Michael Đào tám năm nay, cho biết khi cô chạy đến, bệnh nhân đã bất tỉnh, mặt tái ngắt và không còn hơi thở.

Cô tiếp: “Tricia đỡ cô ấy nằm xuống đất làm hô hấp nhân tạo, và em thăm dò coi mạch máu ở cổ còn đập hay không. Khi không thấy nhịp đập thì Tricia làm CPR, còn em kích thích nhịp tim bằng CPR, ấn lòng ngực nhiều lần để hồi sức tim phổi, kết hợp giữa ép tim trong lồng ngực và thông khí nhân tạo.”

“Sau đó, bệnh nhân có hơi thở trở lại nhưng rất yếu, tụi em ngưng làm CPR, lay cho đến khi cô mở mắt ra thì nạn nhân buồn nôn, phải đặt cô ấy nằm nghiêng một bên đề phòng khi ói không chảy ngược vào cuống phổi. Cô ấy ói rất nhiều, vài phút sau là xe cấp cứu tới đưa nạn nhân đi nhà thương,” cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần kể.

Cô Jacqueline kể thêm: “Trường hợp này cho thấy triệu chứng của người bị nhồi máu cơ tim. Ví dụ như không còn hơi thở, không còn nhịp tim, mặt tái lại, nếu để nạn nhân nằm yên không can thiệp kịp thời thì nguy cơ tử vong rất cao vì não không có oxy. Nếu có cứu được thì não cũng bị tổn thương, tuy sống sót nhưng có thể bị đột quỵ, nếu chúng em không có ở đó, có thể chuyện không hay đã xảy ra.”

Nhóm bạn và đồng nghiệp của ba “cô tiên” cứu người, trong buổi tiệc mừng vinh danh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Cô Vannessa Nina Rose Phạm, Hoa Hậu Nhân Ái California, cũng có mặt trong giây phút cấp cứu người bị nạn.

Cô cho hay cô cũng là y tá ở San Jose, California. Trong phút giây nguy cấp, cứu người là hành động tức khắc, chậm một giây phút nào là nguy đến tính mạng ngay lập tức.

Tại buổi tiệc, cô Vân Nguyễn, người bị ngưng tim trong tiệc sinh nhật hai tháng trước đã được cứu thoát trong gang tấc, vì bận việc không đến dự được, nên cô Liên Nguyễn là em của cô Vân, thay mặt chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” trong đời thường, đã kịp thời cứu chị cô qua cơn nguy hiểm.

Cô Michelle Đỗ cho hay hành động nhanh chóng, phản ứng kịp thời của ba cô này để cứu người đang cơn nguy cấp đến tính mạng rất đáng ca ngợi, vì không phải ai biết CPR cũng có thể làm với phản xạ cấp kỳ như vậy được.

Cô tiếp: “Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn khuyến khích mọi người nên biết đến phương pháp CPR này, ít nhất là trong gia đình để khi gặp trường hợp khẩn cấp có thể hành động nhanh được, cứu sống một mạng người rất quan trọng, mọi người nên để ý đến.” [đ.d.]


 

ANH CÒN NỢ EM….- Phan Công Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Phan Công Tuấn

Đó là bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Anh Bằng, phổ thơ Phạm Thành Tài. Nhưng có lẽ không nhiều người biết Phạm Thành Tài không chỉ là nhà giáo, nhà thơ mà còn là lương y tham gia sinh hoạt và viết sách xuất bản ở Câu lạc bộ Châm cứu Sông Bé vang bóng một thời.

Trưa nay, thấy trên mạng xã hội dẫn lại một bài viết có thông tin Thi sĩ Phạm Thành Tài sinh năm 1932 và mất năm 1997. Quê quán ở quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa. Ông từng bị tù cải tạo sau năm 1975, đi qua Mỹ qua diện HO và học lấy bằng Đông Y Bác Sĩ (OMD- Oriental Medical Doctor).

Tôi liền vùng dậy, lục tìm cuốn sách “Phối Huyệt Châm Cứu Chữa Bệnh Kinh Đới Trong Phụ Khoa” của lương y Phạm Thành Tài trong tủ sách của mình, và thêm vài cú nhấp chuột tôi mới khẳng định được vị lương y này chính là tác giả lời ca của nhạc phẩm nổi tiếng đó.

Về bối cảnh ra đời bài thơ, có thông tin cho biết có một phụ nữ kể lại câu chuyện tình của cô bạn thân của cô với một thanh niên học cùng trường nhưng hơn mấy lớp ở Ninh Hoà. Chàng và nàng quen nhau từ thủa học trò. Đỗ tú tài, chàng vào Sài Gòn, rồi sau đó du học Mỹ, nàng thì ở lại quê làm cô giáo trường làng. Ra đi, chàng bảo nàng yên tâm đợi chàng về. Nhưng rồi sau đó được tin chàng đã lấy vợ, một người con gái học thức, sang giàu, nàng đau khổ một thời gian rồi cũng lấy chồng.

Sau 1975, một lần họp đồng hương Ninh Hoà ở Mỹ, người phụ nữ kể chuyện gặp lại chàng, biết cô sắp về thăm quê, chàng gửi ít tiền về biếu nàng ngày xưa, vốn là bạn thân của cô. Nàng sống ở quê cùng chồng là thương phế binh chế độ cũ, với năm con, nghèo lắm nhưng từ chối món tiền của chàng.

Qua Mỹ, đến thăm chàng trong ngôi nhà cao đẹp, nhưng một mình vì đã li di vợ, có đứa con trai cũng sống với mẹ. Người phụ nữ kể lại câu chuyện, chàng ngậm ngùi nói “anh còn nợ em”.

Nhạc sĩ Anh Bằng kể rằng đọc tập thơ nhỏ của Phạm Thành Tài, có mấy bài thơ ngắn, rồi thích thú phổ thành bản Anh Còn Nợ Em.

“Anh còn nợ em, công viên ghế đá, công viên ghế đá, lá đổ chiều êm. Anh còn nợ em, giòng xưa bến cũ, giòng xưa bến cũ, con sông êm đềm. Anh còn nợ em, chim về núi nhạn, trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm. Anh còn nợ em, nụ hôn vội vàng, nụ hôn vội vàng, nắng chói qua rèm. Anh còn nợ em, con tim bối rối, con tim bối rối, anh còn nợ em. Và còn nợ em, cuộc tình đã lỡ, cuộc tình đã lỡ, anh còn nợ em.”

Trong mỗi đoạn nhạc, có 4 câu thơ mà có câu lập lại hai lần, toàn bài câu “anh còn nợ em” lập lại 8 lần; đó là nét riêng của ca khúc và lập lại mà nghe không chán.

Khi bài hát phổ biến, nhạc sĩ Anh Bằng nhờ người tìm tác giả bài thơ và khi tìm được thì thi sĩ Phạm Thành Tài đã qua đời hơn mười năm. Ông chép tay bài nhạc Anh Còn Nợ Em và tặng cho người vợ của thi sĩ làm kỷ niệm.

Phan Công Tuấn


 

‘Giấc Mơ Mỹ’ đang hấp hối – Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi- Viet

May 11, 2025 

Trúc Phương/Người Việt

Nếu có thuật từ nào xứng đáng được chọn là một trong những đại diện cho xã hội văn minh hiện đại được nhắc nhiều nhất, từ đó chắc chắn là “Giấc Mơ Mỹ” (American Dream).

Người nhập cư vào Mỹ từ nhiều quốc gia trên khắp thế giới qua lao động nặng nhọc để tìm kiếm “Giấc Mơ Mỹ.” (Hình minh họa: Brent Stirton/Getty Images)

Tác giả thuật từ, James Truslow Adams, trong quyển The Epic of America (1931), đã định nghĩa: “‘Giấc Mơ Mỹ’ là niềm mơ ước về một vùng đất, nơi mà cuộc sống trở nên tốt hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho tất cả, với cơ hội cho mỗi người đều có thể có được chỉ bằng tài năng.”

“Giấc Mơ Mỹ” trở thành khái niệm quen thuộc tượng trưng cho sự thành đạt được đền bù xứng đáng từ nỗ lực bền bỉ. “Giấc Mơ Mỹ” đưa nước Mỹ trở thành cường quốc thịnh vượng. Bây giờ, sự thịnh vượng đó đang tan hoang…

Lý tưởng của “Giấc Mơ Mỹ”

Nhắc đến “Giấc Mơ Mỹ,” người ta thường liên tưởng đến hình ảnh cơn sốt đào vàng thế kỷ 19, đến sự thành đạt từ bàn tay trắng cần cù và nghị lực phi thường, đến sự khát vọng làm giàu, đến hình thái chính trị-xã hội tự do dân chủ đích thực mang lại sự phóng khoáng trong tư duy, đến mô hình kinh tế thị trường tự do và còn nhiều điều tốt đẹp khác.

Khi Franklin Delano Roosevelt nhậm chức tổng thống năm 1933 với chương trình cải tổ toàn diện New Deal đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc Đại Suy Thoái, “Giấc Mơ Mỹ” bắt đầu đâm hoa thật sự. Dân Mỹ được chăm lo tốt hơn bằng những chính sách cụ thể. “Giấc Mơ Mỹ” chưa dừng lại ở đó.

“Giấc Mơ Mỹ,” được hiểu đơn giản là những câu chuyện đổi đời ngoạn mục trên đất Mỹ, bắt đầu hình thành khi nhiều gia đình bồng bế nhau trực chỉ hướng Tây ngọn Rocky để mua hàng hecta đất với giá rẻ trong cơn sốt tìm vàng. Ðổi đời từ vàng là làn sóng ban đầu của khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.”

Làn sóng thứ hai bắt đầu từ những người di cư. Mong muốn thoát cảnh quanh năm ruộng vườn, đặc biệt bởi nhiều yếu tố trực tiếp chẳng hạn hậu quả nạn đói kinh khủng từ trận thất mùa khoai tây lịch sử tại Ireland;tình trạng hậu chiến sau thời Napoleon, nhiều gia đình Châu Âu bắt đầu lên đường sang Mỹ. Tính năng động và thoáng mở của xã hội Mỹ là sức hút đầu tiên. Sau Châu Âu, đến lượt nhiều gia đình Châu Á cũng đến Mỹ (tạo ra những khu phố Tàu như thấy hiện nay). Như trong ý nghĩa phổ biến về “Giấc Mơ Mỹ,” bất kỳ ai cần cù, quyết chí học và có gan làm giàu gần như chắc chắn sẽ được toại nguyện ước mơ đổi đời.

Có rất nhiều ví dụ về “Giấc Mơ Mỹ.” Andrew Carnegie là một trong số đó. Sinh tại Scotland trong gia đình với bố làm nghề dệt tay, Carnegie lớn lên trong cảnh gia đình giật gấu vá vai và đong gạo từng bữa. Sự xuất hiện của máy dệt khiến gia đình Carnegie thêm lận đận. Cuối cùng, bố Carnegie quyết định đến Mỹ, sau khi bán tất cả tài sản khiêm tốn và vay thêm 20 bảng Anh. Tháng Năm, 1848, gia đình Carnegie đến New York và bố Carnegie xin làm việc tại một nhà máy bông vải.

Andrew Carnegie cũng phải đi làm, với lương $1.2/tuần. Năm 1851, Carnegie làm người phát điện tín cho Ohio Telegraph Co với mức lương $2.5/tuần. Tự học kỹ thuật điện tín, Carnegie sau đó được công ty hỏa xa Pennsylvania Railroad Co thuê với lương $4/tuần (lúc này Carnegie 18 tuổi). Lần lần, Carnegie được bổ nhiệm giám sát khu vực Pittsburgh. Dành dụm từng xu, năm 1864, Carnegie bắt đầu đầu tư số tiền tiết kiệm $40,000 vào nông trại Storey (Pennsylvania).

Khi Nội Chiến Mỹ bùng nổ, Carnegie được ông chủ công ty Pennsylvania Railroad Co (Thomas A. Scott, lúc đó là thứ trưởng Bộ Chiến Tranh phụ trách vận chuyển quân sự) đưa lên Washington, DC với vai trò giám sát hệ thống hỏa xa quân đội và hệ thống điện tín chính phủ. Cuộc Nội Chiến Mỹ giúp nhiều ngành công nghiệp phát triển nhanh, trong đó có công nghiệp sắt thép.

Triển vọng công nghiệp thép không lọt khỏi quan tâm Carnegie. Dùng tất cả vốn liếng, Carnegie đầu tư vào ngành thép. Và đến cuối thập niên 1880, công ty Carnegie Steel đã trở thành nhà sản xuất gang, than cốc và thanh ray hỏa xa lớn nhất thế giới! Ở giai đoạn đỉnh cao sự nghiệp, Carnegie là người thứ hai giàu nhất thế giới, chỉ xếp sau vua dầu lửa John D. Rockefeller (cũng thuộc thành phần di cư từ Pháp – hoặc Ðức, như một số tài liệu ghi). Nước Mỹ đem lại cơ hội và mở cửa đón những người như Andrew Carnegie và cũng chính những điển hình Andrew Carnegie đã đem lại thịnh vượng cho nước Mỹ ngày nay. Tuy nhiên, như nhiều phóng sự gần đây, “Giấc Mơ Mỹ” thời nay dường như khó đạt được…

Ai đang phá nát “Giấc Mơ Mỹ”

Tính ổn định trong nghề nghiệp trong xã hội Mỹ, theo Griff Witte (Washington Post), trở nên ngày càng bất an. Bi kịch lên voi xuống chó xảy ra như cơm bữa. Không ít người lao động Mỹ không biết chắc đời sống mình an toàn đến chừng nào. Trình độ và bằng cấp đại học cũng không hứa hẹn.

Theo David R. Francis (Christian Science Monitor), gần 1/5 gia đình Mỹ hiện có giá trị tài sản là zero và vài trường hợp thậm chí còn nợ nhiều hơn những gì mình sở hữu. “Tính ổn định trong thu nhập đã giảm trong 20 năm qua,” theo Bhashkar Mazumder, nhà kinh tế thuộc Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Chicago (Federal Reserve Bank of Chicago).

Từ 1950-1980, thế hệ Mỹ sau thường thành công hơn thế hệ trước. Bố mẹ thường thấy con cái họ thành đạt hơn. Bây giờ, cần đến 5-6 thế hệ để xóa bớt khoảng cách giữa thành phần nghèo và lớp trung lưu. Ảnh hưởng từ chính sách là một phần nguyên nhân cho thái độ bi quan về “Giấc Mơ Mỹ.”

Donald Trump luôn hứa hẹn về một sự bùng nổ kinh tế ngay sau khi ông trở lại Tòa Bạch Ốc, hồi sinh “Giấc Mơ Mỹ” và sẽ tạo ra bốn năm thịnh vượng “chưa từng có.” “Tiền lương của các bạn sẽ cao hơn, đường phố của các bạn sẽ an toàn và sạch sẽ hơn, cộng đồng của các bạn sẽ giàu có hơn và tương lai của các bạn với tư cách là người Mỹ sẽ tốt hơn nhiều so với trước khi tôi nhậm chức,” Trump phát biểu trong cuộc vận động tranh cử cuối cùng tại Grand Rapids, Michigan. “Bởi vì đây sẽ là thời kỳ hoàng kim của nước Mỹ.”

Tuy nhiên, giọng điệu của Trump đã thay đổi đáng kể gần đây, khi đề cập đến sự “hy sinh” và “giai đoạn quá độ” cho đến khi chính sách thuế quan của ông mở đường cho “một sự bùng nổ.”

Trump đã nói về “nhu cầu” nước Mỹ phải “uống thuốc” trước khi có thể “khỏe” trở lại. “Đây là giai đoạn chuyển tiếp,” Trump nói trong chương trình “Meet the Press” của NBC ngày 4 Tháng Năm. “Tôi nghĩ chúng ta sẽ làm rất tốt… Tôi chỉ muốn nói rằng họ (người dân Mỹ) không cần phải có 30 con búp bê. Họ có thể chỉ có ba con. Họ không cần phải có 250 cây bút chì. Họ có thể chỉ có năm cây.”

Toàn cảnh, người Mỹ ngày càng hoài nghi về khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.” Theo khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew năm 2024, 41% người Mỹ cho biết giấc mơ không còn khả thi nữa và 6% nói rằng giấc mơ không bao giờ khả thi. Bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ đã tăng đáng kể. Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội cho biết 10% người giàu nhất nước Mỹ đang kiểm soát gần 60% tài sản quốc gia, trong khi “một nửa dưới” chỉ nắm 6% (Newsweek ngày 9 Tháng Năm).

Một phóng sự của Vanity Fair thuật vài câu chuyện điển hình cho thấy giấc mơ Mỹ đang vỡ vụn như thế nào. Ông Greg Dillon, 49 tuổi, sống tại Marietta thuộc bang Georgia, là nhà tư vấn nghề nghiệp. Ông từng tình nguyện làm việc tại những trung tâm giới thiệu việc làm thuộc giáo hội để giúp người xin việc điền tờ khai và tư vấn chiến lược tìm việc. Bây giờ, chẳng ai có thể tư vấn để giúp ông không thất nghiệp! Vào ngày trước sinh nhật lần thứ 49, Dillon bị sa thải khỏi Forum Co., lần mất việc thứ hai trong 18 tháng…

Trả lời một cuộc phỏng vấn (“What Has Happened to the American Dream?” The New York Times ngày 3 Tháng Năm, 2025), Malinda Burke, 40 tuổi, ở Raleigh (North Carolina) nói, “Tôi có cảm giác như nó đang tuột khỏi tầm tay.”

Vài ngày trước Lễ Tạ Ơn, Malinda Burke “mất job.” Trong nhiều tháng tìm việc làm, đặc biệt trong một thị trường đột nhiên tràn ngập nhân viên liên bang thất nghiệp, Burke phải dùng tiền tiết kiệm hưu trí để trả tiền nhà và khoản nợ sinh viên. Lần đầu tiên trong đời, Burke bắt đầu hoang mang về cái gọi là “Giấc Mơ Mỹ.”

“Tôi luôn nghĩ rằng nếu làm việc đủ chăm chỉ, tôi có thể đạt được ‘Giấc Mơ Mỹ.’ Tôi đã có thể tự mua được nhà… Và rồi trong chớp mắt, tôi nghĩ, ‘Ôi trời, nếu tôi mất nhà thì sao?’… Tôi thuộc tầng lớp trung lưu vốn ngày càng bị thu hẹp. Tôi nghĩ hầu hết chúng ta đều muốn có một cuộc sống thoải mái, nhưng điều đó thực sự khó khăn trong thời buổi ngày nay…”

Năm 1941, Henry Luce (người sáng lập tờ Time) tung ra bài bình luận nổi tiếng The American Century trên tạp chí Life với nội dung rằng nước Mỹ không nên đứng ngoài lề Thế Chiến Thứ II mà nên dùng sức mạnh mình để hoằng dương “lòng yêu tự do, sự công bằng trong tận dụng cơ hội, truyền thống độc lập tự chủ và thái độ hợp tác.” Luce cũng đề nghị “Giấc Mơ Mỹ” cần được sử dụng như một cách để quảng bá lối sống Mỹ, thứ mà những quốc gia phi dân chủ nên noi theo.

Gần như trong cùng thời gian, trong diễn văn Thông Điệp Liên Bang năm 1941, Tổng Thống Roosevelt cũng gián tiếp mở rộng khái niệm “Giấc Mơ Mỹ” với việc đưa ra “bốn sự tự do tối cần thiết cho con người” mà nước Mỹ thề sẽ chiến đấu giành cho được đến cùng, gồm: Tự do ngôn luận; Tự do tôn giáo; Tự do yêu thích và Tự do sợ hãi. Bây giờ, nước Mỹ chỉ còn lại “Tự do sợ hãi,” sợ đủ thứ, và nỗi sợ đến từ chính những kẻ luôn mồm nói nước Mỹ sẽ lại thịnh vượng và “Giấc Mơ Mỹ sẽ hồi sinh.” [kn]


 

Những ‘người con’ của Trường Xuân sau nửa thế kỷ tha hương

Ba’o Nguoi-Viet

May 10, 2025

Trà Nhiên/Người Việt

MISSION VIEJO, California (NV) – Trường Xuân là tên con tàu cuối cùng rời cảng Sài Gòn ngày 30 Tháng Tư, 1975, chở theo hơn 3,600 người vượt biển đến bến bờ tự do. Trên chuyến hải hành nghìn trùng ấy, một hài nhi đã ra đời. Trên tàu còn có một thiếu niên 16 tuổi.

Trường Xuân và hàng ngàn “người con” dìu dắt nhau đến bến bờ tự do (hình trái) và tàu Trường Xuân chờ tàu Clara Maersk của Đan Mạch giải cứu. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Giờ đây, sau hơn nửa thế kỷ tị nạn và thành danh nhưng trong tâm khảm của hai số phận vẫn mãi khắc khoải hai chữ “Trường Xuân.”

Vết lăn trầm

“Khoảng 2 giờ sáng 2 Tháng Năm, 1975, tôi chào đời trên tàu Trường Xuân giữa đại dương mênh mông. Mẹ tôi không có sữa cho con. Đôi mắt và rốn tôi bị nhiễm trùng, xương vai tôi bị gãy, vai cụp vô sau khi chú phi công dùng hai tay ôm chặt tôi để những người cứu hộ kéo chúng tôi từ tàu lên máy bay cứu hộ,” cô Chiêu Anh Vũ-Lieberman, “em bé Trường Xuân” năm nào tường thuật.

Lieberman là họ phu quân. Chữ Vũ được cô Chiêu Anh lấy từ tên bà ngoại khi cô ngoài 30 tuổi.

“Tôi đã có thể chết vô số lần…,” cô Chiêu Anh bồi hồi kể.

Ngày 27 Tháng Tư, 1975, bà Nguyễn Thị Mùi, mẹ cô Chiêu Anh, ôm bụng bầu chín tháng vào bệnh viện chờ lâm bồn, nhưng đến ngày 29 thì chồng bà báo phải di tản. Bác sĩ phân vân giữa hai lựa chọn là chích thuốc cho sinh sớm hoặc cứ để em bé trong bụng. Cuối cùng, gia đình nhất trí cứ để em bé nguyên trong bụng.

“Mẹ tôi ôm bụng bầu đi di tản cùng cha tôi và anh trai 2 tuổi vào ngày định mệnh ấy. Chúng tôi đến Tòa Đại Sứ Mỹ để đợi phi cơ, nhưng phi cơ không đáp được vì Cộng Sản nhắm bắn. Gia đình tôi trốn trong một chiếc tủ. Mẹ tôi nghe tiếng bước chân của Việt Cộng nên phải che miệng anh trai tôi. Cuối cùng, chúng tôi lên chiếc phi cơ khác. Mẹ tôi phải khệ nệ bụng bầu leo cầu thang dây để lên phi cơ,” cô Chiêu Anh thuật lại.

Gia đình bà Mùi bị lỡ chuyến tàu đầu tiên đưa đoàn người đi vượt biển vì họ đến trễ 10 phút, nhờ thế mà gia đình thoát được vì chiếc tàu ấy bị Cộng Sản bắt được.

Bà Mùi ôm cô Chiêu Anh khi mới lọt lòng cùng người con trai 2 tuổi sau khi được cứu từ tàu Trường Xuân. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Như định mệnh, gia đình bà Mùi cùng hơn hàng ngàn mảnh đời leo lên tàu Trường Xuân. Sau hai ngày lênh đênh trên biển, bà Mùi trở dạ và “vượt cạn” giữa đại dương. Cô Chiêu Anh ra đời trong sự thiếu thốn trăm bề. Chỉ có một cây kéo để cắt dây rốn và nước biển được dùng để sát trùng.

“Chúng tôi sống được…, tôi sống được là sự nhiệm màu,” cô Chiêu Anh nhìn xa xăm nói. “Tôi tự hỏi vô số lần rằng tại sao lại là tôi?”

Khi trưởng thành, “em bé Trường Xuân” năm nào quyết tâm thu thập những mảnh ghép về sự ra đời của mình cũng như câu chuyện của quê hương. Cô lần dò được người ký giấy khai sinh ở trại tị nạn Hồng Kông là ông David Weeks. Cô cũng dốc lòng tìm đúng tọa độ hải phận để biết chính xác nơi mình chào đời. Nhờ Internet, cô cũng gắn kết được với gia đình vị phi công chở cô và gia đình đến bệnh viện lúc cô mới lọt lòng.

Năm 2010, cô tham dự “Đại Hội Trường Xuân Thế Giới,” buổi kỷ niệm những thuyền nhân của Trường Xuân sau 35 năm, được tổ chức tại Úc. Tại đây ban tổ chức đã tặng kỷ yếu “Hành Trình Tìm Tự Do – Trường Xuân – Journey to Freedom,” bao gồm những câu chuyện về các “người con” của Trường Xuân và gia đình của họ sau hơn ba thập niên tị nạn. Cô Chiêu Anh cũng đến dự sinh nhật mừng thượng thọ 95 tuổi của vị thuyền trưởng tàu Trường Xuân là ông Phạm Ngọc Lũy.

Cô Chiêu Anh Vũ-Lieberman (trái) cùng thuyền trưởng tàu Trường Xuân, ông Phạm Ngọc Lũy lúc sinh thời. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Những mảnh ghép dần hình thành nhưng số phận thường trêu ngươi. Biến cố lúc gần sinh đã khiến mẹ cô Chiêu Anh bị tổn thương tâm lý dẫn đến việc cô con gái cũng bị ảnh hưởng. Cả gia đình, ai cũng mang “vết lăn trầm” với nỗi đau mất nước và cố gắng hòa nhập vào cuộc sống mới ở Canada, nơi gia đình cô được bảo lãnh. Duy chỉ có cha cô Chiêu Anh không thoát ra được vết thương tâm lý.

“Lúc tôi 8 tuổi, cha tôi để lại mảnh giấy rằng ông dẫn tôi và anh trai đi cắm trại, nhưng chúng tôi không bao giờ quay lại… Cha đã bắt cóc chúng tôi,” cô điềm tĩnh nhớ lại. Sau một năm, mẹ cô và cơ quan công lực mới tìm ra hai anh em cô.

“Chiến tranh đã qua đi, nhưng trong tâm trí cha tôi thì mọi thứ vẫn đang tiếp diễn,” cô nói. Trải qua “bao cuộc bể dâu,” và bao cơn “thập tử nhất sinh,” cô Chiêu Anh thành danh, trở thành nhà thiết kế thời trang.

Từng du học ở Paris, cô tốt nghiệp trường thiết kế danh giá Parsons School of Design ở New York City. Cô cũng được nhiều giải thưởng cao quý của ngành thời trang. Trước đó, cô nằm trong top 5% sinh viên khi tốt nghiệp trường Marianopolis College ở Quebec, Canada.

Hiện gia đình cô sống tại Mission Viejo, miền Nam California. Cô là một trong những lãnh đạo cấp cao của công ty nhu liệu Nogin. Cô cũng đang cho “ra đời” ứng dụng tư vấn tâm lý để hỗ trợ những người phải ngày đêm vật lộn với cơn khủng hoảng tâm trí.

“Em bé Trường Xuân” Chiêu Anh bên một mẫu thiết kế tâm huyết của mình. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Người di tản buồn

Trên chuyến hải hành của nửa thế kỷ trước cũng có một chàng trai 16 tuổi chưa hiểu sự đời nhưng đứng trước phận nước, anh đành thoái thác cho số phận. Đó là câu chuyện của tài tử Long Nguyễn. Tài tử này được biết đến qua các vai diễn trong các phim truyền hình Mỹ, nhưng nổi bật nhất là vai chính trong phim “Vượt Sóng” của đạo diễn Hàm Trần, tái hiện câu chuyện của những thuyền nhân và gia đình có thân nhân đi tù cải tạo.

Ông từng hai lần thắng giải Nam Diễn Viên Xuất Sắc Nhất cho phim “Vượt Sóng” tại Newport Beach Film Festival và cho phim “Vai Diễn Đổi Đời” tại Viet Film Fest – Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế. Dù đã bay cao, bay xa với đam mê nghệ thuật nhưng ông Long vẫn luôn mang nặng nỗi niềm khi nhắc tới cái tên Trường Xuân.

“Có những mốc thời gian làm ta thay đổi, biến cố 1975 là cột mốc thay đổi nhận thức một con người,” tài tử Long nói. Tàu Trường Xuân từng rất nguy kịch khi bị nước tràn vào khoang, hết lương thực, hết nước uống, và cố gắng cầm cự trôi dạt trên Biển Đông cho đến khi được tàu Clara Maersk của Đan Mạch cứu, đưa người tị nạn đến Hồng Kông.

“Không chỉ riêng tôi mà ai phải bỏ quê hương ra đi trước thế sự cũng đều chịu tổn thương. Khi khổ đau quá, con người ta sẽ gồng lại, siết chặt tâm can, để tự vệ. Càng nhạy cảm thì càng bị đau,” ông Long trầm mặc. Như bao người tị nạn, chàng thanh niên năm ấy đè nén cơn đau để hòa nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ. Khoảng năm 1980, ông học lấy bằng kỹ sư, nhưng theo ông, ngành này khiến ông bị “bí.”

“Cuối thập niên 1980, tôi loay hoay mãi không biết đời nên làm gì, vì sao mình ở nơi đây. Tôi bị bí từ tinh thần lẫn thể chất. Rồi tôi quyết định cho mình được tự do, thả lỏng cơn đau bị siết chặt ấy,” ông kể. “Tôi vượt qua sự tội lỗi để tâm trí được tự do ‘bay bổng.’”

Tài tử Long Nguyễn. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Năm 1985, ông lấy bằng cao học về nghệ thuật, trở thành họa sĩ. Ánh dương lại từ từ xuất hiện vì ông được tự do với đúng đam mê. Lúc đó, ông sống với các họa sĩ trong một khu nhà kho ở Oakland, miền Bắc California, mà ông đùa vui gọi là “khu nghệ sĩ.”

Hiện ông sống ở Huntington Beach, miền Nam California. Ông còn theo đuổi diễn xuất và kịch nghệ vì cảm thấy mình được tự do khi hóa thân vào các nhân vật. Song song với diễn xuất, ông vẫn “giữ lửa” với đam mê cầm cọ. Các tác phẩm nghệ thuật của họa sĩ Long Nguyễn được triển lãm ở các viện bảo tàng ở Oakland và các tiểu bang khác.

“Khi ở Việt Nam, tôi là người rất bảo thủ. Những mốc thời gian đã thay đổi tôi. Tôi giờ đây nhìn mọi việc thoáng hơn, tích cực hơn, không ghét hay trách móc ai cả. Mình phải bình an trước thì mới chia sẻ bình an cho người khác,” ông cười nói.

(Trà Nhiên) [qd]

—–
Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com

Con tàu định mệnh

Câu chuyện của cô Chiêu Anh và tài tử Long Nguyễn là hai trong vô số mảnh đời của hàng ngàn “người con” của Trường Xuân, và cũng chỉ là một phần định mệnh của hơn 1.5 triệu mảnh đời vượt biên khỏi cố hương, dắt dìu nhau đến Tự Do. Trường Xuân – con tàu của sự hãi hùng và hy vọng – đã chứng kiến cái chết của ba sinh mạng nhưng cũng là nơi hai sinh linh ra đời. Trường Xuân mãi là một phần lịch sử của người Việt tị nạn sau nửa thế kỷ tha hương nơi xứ người.


 

Bài phát biểu của Phạm Thanh Nghiên tại Thượng viện Hoa Kỳ nhân ngày Nhân Quyền VN

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Phạm Thanh Nghiên

05/05/2025

Phạm Thanh Nghiên phát biểu tại Thượng Viện

Kính thưa quý vị,

Hai năm trước, vào tháng 4/2023, gia đình tôi đặt chân đến miền đất này nhờ vào chương trình tiếp nhận người tị nạn chính trị của Chính phủ Hoa Kỳ. Hôm nay, chúng tôi vinh dự có mặt ở đây với tư cách là nhân chứng, là nạn nhân của sự đàn áp không ngừng tại Việt Nam.

Tôi và chồng tôi là hai trong số ít những người lên tiếng ở Việt Nam còn sống, và thoát khỏi sự bao vây của nhà nước cộng sản Việt nam để tố cáo tội ác. Nhiều người- trước và sau tôi, đã chết trong tù hoặc trở về với bệnh tật, bao vây kinh tế và luôn luôn bị khủng bố.

Em chồng tôi, Huỳnh Anh Trí, đã bị giam cầm suốt 14 năm và đã qua đời chỉ sáu tháng sau khi ra tù vì bệnh AIDS. Cai tù đã cố ý cùm chân Trí bằng chiếc cùm còn dính máu và thịt của bạn tù nhiễm AIDS trước đó. Đó không phải sự cẩu thả. Đó là một hình thức giết người có chủ đích –tinh vi và tàn nhẫn.

Khi tôi đang nói ở đây, bạn bè tôi vẫn đang ở tù. Có người phải đi tù lần thứ hai, có người chạy đi tỵ nạn ở đâu đó. Tất cả họ đang đối mặt với hiểm nguy và có thể bị Hà Nội truy bắt bất cứ lúc nào.

Thưa quý vị, có thể quý vị đã được nghe về các báo cáo vi phạm nhân quyền và tình trạng ngược đãi tù nhân lương tâm tại Việt Nam suốt nhiều năm qua: Vượt xa những chi tiết được kể lại về sự đáng sợ và tàn bạo mà cả thế giới được biết, vẫn không đủ từ ngữ để diễn đạt hết những câu chuyện đầy máu, nước mắt và cả xác người với sự tàn bạo của Cộng sản Việt Nam.

Có người đã phải tự hủy hoại thân thể của mình để thoát khỏi sự chịu đựng đau đớn trong nhà tù, với sự bỏ mặc không chăm sóc y tế của trại giam. Đó là trường hợp của người tù chính trị Phạm Xuân Thân. Ông ta đã gần 80 tuổi, bị giam cầm hơn 20 năm nay trong nhà tù Xuân Lộc với bản án không có ngày về.

Đã có những người lên tiếng vì công bằng xã hội, bị bắt giam đã chết một cách đáng nghi ngờ trong nhà tù như các ông Đào Quang Thực, Đỗ Công Đương, Huỳnh Hữu Đạt, Đinh Diêm, Phan Văn Thu, Phan Thanh Ý…

Công an CSVN áp dụng việc tra tấn có từ thời Sô Viết, mà nay nâng lên những mức độ cao hơn, như đưa người vào trại tâm thần, cưỡng ép điều trị với những loại thuốc không tên, không bệnh án, và không có cả tên bác sĩ chịu trách nhiệm. Chúng tôi và thế giới có danh sách dài những người như vậy: nhà văn Phạm Thành, nhà báo Lê Anh Hùng, ông Nguyễn Trung Lĩnh, ông Trịnh Bá Phương, bà Nguyễn Thúy Hạnh….

Đáng ghê sợ hơn là còn vô số những tù nhân khác vô danh, đang chịu án bí mật khắp đất nước mà không biết khi nào có thể nhìn thấy ánh sáng tự do.

Để duy trì sự cai trị, chính phủ Việt Nam ngày càng gia tăng việc bắt bớ và sử dụng biện pháp ngược đãi hết sức tinh vi nhằm thực hiện chính sách hủy hoại các nhà bất đồng chính kiến trong tù, lẫn ngoài đời.

Thưa quý vị!

Chiến tranh đã kết thúc tròn nửa thế kỷ, nhưng người Việt vẫn phải đi tìm tự do bằng máu, nước mắt và bằng chính mạng sống của mình. Năm nay, cộng đồng người Việt tại hải ngoại kỷ niệm 50 năm được gọi tên là “Quốc hận”, ngày chế độ Việt Nam cộng hòa bị quân cộng sản xâm lược và hủy diệt. Đã 50 năm, nhưng chế độ hôm nay vẫn giữ sự thù hận, căm ghét với những gì không còn tồn tại.

Tám năm trước, Ngày 2 Tháng Năm 2017, ông Nguyễn Hữu Tấn, một công dân ở Vĩnh Long đã bị vây bắt, chỉ vì công an tìm thấy trong nhà ông có một tấm vải màu vàng mà họ cho là hình ảnh lá cờ của chế độ cũ Việt Nam Cộng hòa. Nhưng thực tế, đó chỉ là vật liệu được nhà sản xuất thiết kế ra để trang trí cho những lon nước giải khát. Hai ngày sau, công an thông báo ông Tấn đã lấy dao tự cắt cổ và chết trong nhà tù không có lý do, và chính công an cũng không giải thích được cái chết này với gia đình nạn nhân.

Việt Nam trên bề mặt là phát triển kinh tế và các mối quan hệ ngoại giao khéo léo, nhưng bên trong, người dân phải sống trong nỗi sợ hãi.

Chúng tôi đặc biệt quan ngại khi, vào dịp kỷ niệm ngày 30 tháng Tư năm nay, nhà cầm quyền Việt Nam đã tổ chức diễu binh trọng thể với sự tham gia của Trung Cộng, như một hành động tri ân sự hỗ trợ của Bắc Kinh trong chiến tranh, và cũng là lời nhắc nhở với cộng đồng quốc tế về sự “đoàn kết” giữa hai đảng cộng sản. Việc chọn kỷ niệm ngày Quốc Hận bằng một màn phô diễn vũ lực chung với Trung Cộng không chỉ là một sự khiêu khích, mà còn cho thấy rõ lập trường của Hà Nội: họ không giấu giếm sự thần phục trước Bắc Kinh, kể cả về mặt biểu tượng và chính trị.

Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, một bước ngoặt được ca ngợi là lịch sử. Thế nhưng, hàng năm, không chỉ dịp Tháng Tư, truyền thông nhà nước vẫn tuyên truyền luận điệu chống Mỹ, tái hiện hình ảnh “kẻ thù xâm lược” và gieo rắc hận thù chiến tranh.

Tôi tin đó không phải cách hành xử của một đối tác đáng tin cậy.

Nhà cầm quyền Hà Nội cần Đô La, nên một mặt kêu gọi người Việt hải ngoại về nước làm ăn, đầu tư, nói về “hòa hợp dân tộc”, nhưng mặt khác lại gọi họ là “thế lực thù địch” và tạo cớ trừng phạt bất kỳ ai thể hiện quan điểm khác biệt với chế độ.

Tôi tin đó không phải cách hành xử của một nhà nước chân chính phục vụ nhân dân.

Việt Nam nói muốn trở thành bạn với Hoa Kỳ, nhưng lại bỏ tù những công dân của mình vì họ chia sẻ các giá trị của Hoa Kỳ: tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được phản biện chính sách v.v…

Nhưng tôi không đến đây để nói về chiến tranh hay lòng thù hận. Thưa quý vị, tôi đến để nói về khát vọng tự do, về lương tri và phẩm giá con người.

Tôi tin rằng, chừng nào nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam còn coi những quốc gia giữ nguyên tắc Tự do và Quyền con người là kẻ thù, thì những quốc gia đó, dù có đang bang giao với Việt Nam cũng đang bị coi thường, và lừa gạt để trục lợi.

Chúng tôi lên tiếng để đất nước mình có được lộ trình có tự do, nhân quyền như quý vị đã trải qua và tranh đấu vì những nguyên tắc đó cho nước Mỹ. Và vì vậy, chúng tôi mong mỏi được sự ủng hộ của quý vị – của nước Mỹ – trong con đường chung đi đến tương lai.

Xin chân thành cảm ơn.

DC ngày 1/5/2025.


 

Các vị hành giả thuộc nhóm Minh Tuệ gặp Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma  (RFA)

RFA

Vị lãnh tụ Phật giáo Tây Tạng cũng đang trong tình cảnh lưu vong, không thể trở về quê nhà.

Trường Sơn 2025.05.09

An Lạc, một trong những người đi theo Minh Tuệ, gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma. (RFA)

Vào ngày 9 tháng 5, một nhóm các hành giả người Việt thuộc đoàn của hành giả Minh Tuệ đã gặp Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, lãnh tụ tinh thần của người Tây Tạng, tại Dharamsala, Ấn Độ.

Nhóm 12 hành giả trước đó đã lên tàu để đến Dharamsala vào ngày 7 tháng 5, trong khi hành giả Minh Tuệ và những người khác ở lại Bodh Gaya.

Dharamsala là nơi Đạt-Lai-Lạt-Ma cùng cộng đồng người Tây Tạng lưu vong sinh sống, nơi này đã trở thành trung tâm hành hương của tín đồ Phật Giáo trên toàn thế giới, tới để diện kiến ‘hóa thân của Quán Thế Âm’, tức Đạt-Lai-Lạt-Ma.

“Lần đầu tiên con được đến đây, được gặp Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, con cảm nhận thấy một niềm vui, có nhân duyên với nơi này. Lần đầu tiên đi cùng với sư phụ Minh Tuệ thì chỉ nghĩ là đi sang thăm bốn thánh tích của Đức Phật, nhưng lần này hữu duyên được đến mảnh đất Dharamsala này.” Hành giả Minh Thiện chia sẻ với RFA.

Rời Việt Nam vào ngày 12 tháng 12 năm 2024 tại cửa khẩu Bờ Y, với chỉ 6 vị hành giả cùng với ước nguyện bộ hành đến Ấn Độ. Đoàn của Minh Tuệ giờ đây đã lên đến 35 người, đặt chân tới 7 quốc gia, và di chuyển liên tục trong 148 ngày.

“Huynh đệ con hay ngay cả sư phụ Minh Tuệ, khi đã đến Ấn Độ rồi sư phụ đã thốt lên một câu: ‘Biết ở đây tốt đẹp thế thì đã bay đến sớm hơn.’ Chấp nhận bay tới sớm hơn. Sư phụ cũng nói về đây rồi giống như về nhà. Con cũng có cảm giác như vậy.” Hành giả An Lạc nói về việc đến Ấn Độ.

Minh Tuệ và tăng đoàn tới Ấn Độ vào ngày 25 tháng 4 bằng đường hàng không, sau khi kế hoạch đi bộ ở Sri Lanka bị bỏ dở giữa chừng vì gặp phải sự cản trở từ chính quyền sở tại, được cho là chịu sự tác động bởi một bức thư do ông Thích Nhật Từ viết.

Ở Ấn Độ, nhóm các tu sĩ người Việt cũng gặp phải sự quấy rối của những người đến từ Việt Nam tự xưng “yêu nước”. Những người này mặc áo cờ đỏ sao vàng thường xuyên khiêu khích những tình nguyện viên đi theo trợ giúp nhóm các hàng giả.

Trong khi đó ở trong nước, chính quyền đã thông báo kỷ luật Đảng đối với ông Lê Anh Tuấn, anh trai của hành giả Minh Tuệ. Và ông Thân Thành Vũ, một tình nguyện viên thường xuyên giúp đỡ Minh Tuệ, cũng đã bị cấm xuất cảnh, không cho rời khỏi Việt Nam.

Theo các vị hành giả, nhóm 12 người sẽ quay trở lại đoàn tụ với Minh Tuệ để tiếp tục hành trình ở Ấn Độ. Họ cũng sẽ tìm cách gia hạn visa để kéo dài thời gian lưu trú tại quốc gia Nam Á này.


 

2025-1975, Nửa Thế Kỷ Nhìn Lại: Tháng Tư Đen và Chuyến Di Tản Của Gia Đình Tôi Trong Ngày Cuối Cuộc Chiến

Viet Bao

22/04/2025

Tầu Đông Hải neo trong vịnh Tân Gia Ba vào tháng 5 năm 1975, sau khi hơn nửa số người di tản trên tầu đã được chuyển sang các tầu khác. Ảnh: Tác giả cung cấp.

 Viết cho hương hồn bố

và cho mẹ, vợ, cùng các em

Bắt phong trần, phải phong trần, 

Cho thanh cao mới được phần thanh cao 

(Truyện Kiều)

Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi.

Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó.

Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.

Tháng Ba Xám, Tháng Tư Đen

Lúc bấy giờ tôi đang là sinh viên ban Đốc Sự của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (QGHC), một cơ sở giáo dục nằm trên đường Trần Quốc Toản, đặt trọng tâm vào việc đào tạo nhân viên hành chánh cao cấp cho chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Nói rõ hơn, tôi là một sinh viên gốc quân nhân trong số 105 sinh viên của khóa.

Đầu năm 1974, khi 21 tuổi và đang là chuẩn úy phục vụ tại tiểu đoàn 253 Pháo Binh, thuộc sư đoàn 25 Bộ Binh, tôi ghi danh học hàm thụ năm thứ nhất Luật khoa, viện đại học Sài Gòn. Tháng 7 năm ấy, tôi thi đậu chứng chỉ năm thứ nhất với số điểm cao thứ hai trong tất cả thí sinh. Thừa thắng xông lên, hai tháng sau tôi thi đậu vào ban Đốc Sự khóa 22 của Học Viện QGHC với học trình 4 năm. Theo quy định của chính phủ lúc bấy giờ, các quân nhân thi đậu được trở lại đời sống sinh viên, một hình thức xem như biệt phái vĩnh viễn từ quân đội sang hành chánh. Tháng 12 năm 1974, khi đã được thăng chức thiếu úy trong lúc tình hình chiến sự trở nên sôi động, tôi nhận được sự vụ lệnh từ Bộ Quốc Phòng để trình diện trường QGHC. Được bảo trợ bởi đại học Michigan State University, trường QGHC tổ chức chương trình học gồm hai khóa mùa Xuân và mùa Thu với những kỳ thi cuối khóa như những đại học ở Hoa Kỳ.

Chúng tôi nhập học ngay sau Tết Dương Lịch năm 1975. Đến ngày 12 tháng Ba, tin tức thị xã Ban Mê Thuột thất thủ trước sự tấn công của Cộng quân khiến quân dân miền Nam rúng động. Gia đình tôi có nhiều kỷ niệm với thành phố cao nguyên này. Năm 1968, bố tôi, khi còn là thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), giữ chức vụ quận trưởng quận Ban Mê Thuột trong gần hai năm cho đến khi ông được thăng chức trung tá và đổi về Sài Gòn. Gia đình tôi đã chuyển lên sống tại thị xã này trong thời gian ấy.

Hai ngày sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku. Cao nguyên Trung phần ở Vùng II chiến thuật bị thất thủ. Thêm vài ngày nữa, Quảng Trị, Quảng Ngãi rồi Huế ở Vùng I mất vào tay địch. Cuối tháng Ba, Đà Nẵng, Phú Yên, và Bình Định cùng chung số phận. Sang đầu tháng Tư, đến lượt Khánh Hòa, Bình Thuận, Phan Rang. Chỉ trong vòng chưa đầy ba tuần, miền Nam đã mất nửa lãnh thổ. Quân đội hoang mang, lắm nơi địch chưa đến mà người lính đã bỏ thành. Làn sóng đồng bào từ vùng I và vùng II ồ ạt theo chân người lính VNCH, trốn chạy Cộng sản bằng đường bộ và đường thủy. Những tội ác của Cộng sản Việt Nam như chiến dịch cải cách ruộng đất ở miến Bắc trong giai đoạn 1954-1957 và cuộc thảm sát tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968 còn gieo rắc kinh hoàng trong ký ức họ. Cũng vì hồi ức về những tội ác của Cộng sản mà hàng triệu người miền Nam đã cuống cuồng tháo chạy khỏi những vùng bị địch chiếm đóng trong những ngày tang thương thuở ấy. Biết bao chuyện thương tâm đã xẩy ra trên những con đường di tản đầy máu và nước mắt, bi thảm nhất là dọc Liên Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku đến Phú Bổn, nơi hàng ngàn thường dân đã bị tàn sát vì đạn pháo của Việt Cộng liên tục rót vào đoàn người đang lũ lượt gánh gồng xuôi Nam vào hạ tuần tháng Ba.

Bước sang tháng Tư, Hoa Kỳ đã bắt đầu cho di tản người Mỹ còn ở Việt Nam cùng các nhân viên người Việt đang làm cho sở Mỹ, và gia đình các quân nhân, công chức VNCH mà họ nghĩ sẽ bị Cộng sản trả thù sau khi chiếm được miền Nam. Lúc ấy, chúng tôi, những sinh viên QGHC, sau giờ học, thường vào câu lạc bộ của trường, gọi một tách cà phê hay ly nước ngọt, đăm chiêu ngồi bàn chuyện thời sự. Thật đau lòng khi trông thấy tấm bản đồ miền Nam với những tỉnh lỵ, thành phố được tô đỏ dần trên các tuần báo Time và Newsweek.

Theo chỉ thị của Ban Giám Đốc học viện, sáng ngày 8 tháng Tư, lớp chúng tôi tề tựu tại sân trường, chuẩn bị lên ba chiếc GMC đến trại Chí Linh, trung tâm huấn luyện cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, tại Vũng Tầu để giúp người tỵ nạn từ miền Trung theo tầu, thuyền đến thành phố này. Khi xe lăn bánh, chúng tôi nghe hai tiếng nổ lớn, vang đến từ hướng trung tâm thủ đô. Nhìn về hướng tiếng nổ phát ra, mọi người trông thấy một phản lực cơ F5 của Không lực VNCH đang lượn trên vùng nơi dinh Độc Lập tọa lạc nên đoán là quân đội, hay một phần của quân đội đang thực hiện cuộc đảo chánh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mãi khi đến trại Chí Linh, chúng tôi mới nghe kể một phi công của Không lực VNCH oanh tạc dinh Độc Lập rồi bay ra vùng Việt Cộng đã chiếm.

Theo chương trình đã hoạch định, lớp chúng tôi ở Vũng Tầu một tuần. Tuy nhiên, đến sáng ngày thứ ba của chuyến đi, tức ngày 10 tháng Tư, trường QGHC cho xe đón chúng tôi trở về vì e ngại an ninh trên lộ trình Vũng Tầu – Sài Gòn sẽ không còn được bảo đảm trong vài ngày sắp đến. Hôm trước, bốn sư đoàn Cộng quân đã tấn công Xuân Lộc, nơi được ví von là cánh cửa thép để bảo vệ Sài Gòn từ hướng Đông của thành phố. Trên đường về, qua từng chặng, chúng tôi lại thấy những đơn vị lính kẻ đứng người ngồi dọc hai bên lề. Không hiểu họ được lệnh canh gác huyết lộ dẫn đến thủ đô hay triệt thoái về đấy để tránh sức ép của địch. Đó đây, có những đoàn người tay xách, nách mang đi bộ về hướng về Sài Gòn. Có lẽ họ là những người dân chạy loạn.

Tin tức những người được Mỹ chấp thuận cho di tản đã lên máy bay từ phi trường Tân Sơn Nhất rời khỏi Sài Gòn được loan truyền rộng rãi. Khoảng trung tuần tháng Tư, bố tôi liên lạc với một đại tá quân đội Mỹ đang phục vụ tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ mà ông quen biết đã nhiều năm để nhờ ông này giúp gia đình tôi rời khỏi Việt Nam bằng đường hàng không. Ông đại tá hứa sẽ giúp và bảo bố tôi rằng khi nhận được điện thoại của ông, cả gia đình phải ra ngay phi trường Tân Sơn Nhất. Mẹ tôi may cho chúng tôi, mỗi người một túi vải nhỏ để đựng hai bộ quần áo. Bà dặn tôi và các em, sau giờ học, phải về nhà ngay, đừng để sự vắng mặt của mình ảnh hưởng đến cả gia đình.

Bố Tôi 

Bố tôi tình nguyện nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, tiền thân của Quân lực VNCH, năm 1951. Ông tốt nghiệp thủ khoa trường Võ bị Phà Đen ở Hà Nội với cấp bậc chuẩn úy và rồi phục vụ trong một liên đoàn lưu động từng tham gia các trận đánh khốc liệt với Việt Minh, về sau gọi là Việt Cộng, tại Bắc phần. Di cư vào Nam, đơn vị ông đóng ở Phú Yên rồi Bình Định. Năm 1956, ông tham dự lớp Chỉ Huy Tham Mưu và tốt nghiệp thủ khoa nên được thuyên chuyển về Phòng Ba Bộ Tổng Tham Mưu. Đôi ba năm sau, ông được thăng cấp đại úy và giữ trách nhiệm Trưởng Khối Kế Hoạch. Năm 1968, ông theo học khoá Quân Chánh, khoá học bắt buộc dành cho các sĩ quan sẽ được bổ nhiệm làm tỉnh hay quận trưởng. Sau khi mãn khóa, được chọn quận đầu tiên vì tốt nghiệp thủ khoa, ông đã chọn Ban Mê Thuột, quận lỵ lớn nhất ở cao nguyên Trung phần thuộc tỉnh Dak Lak. Tháng Ba năm 1970, ông được biệt phái sang hành chánh và trở về Sài Gòn. Năm 1974, ông giữ trách nhiệm chánh sở kế hoạch thuộc Bộ Nội Vụ.

Bố tôi nhập ngũ một phần vì mối căm thù với Việt Cộng, sau khi họ giết ông nội tôi một cách dã man.

Thẻ căn cước quân nhân của thân phụ tác giả bài viết

Ông tôi vốn là nhà giáo trong một làng thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng chục cây số. Khi Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội vào năm 1945, làng bố tôi trở thành vùng xôi đậu, ban ngày Quốc Gia kiểm soát, ban đêm Việt Minh mò về. Những người bên kia ép buộc ông tội nghỉ dậy không được nên trong một đêm năm 1947, họ xông vào nhà tuyên án tử, rồi bắn ông tôi 5 phát súng lục trước sự chứng kiến của người thân. Lúc đó bố tôi đang là thông ngôn, làm việc ở nơi khác. Bắn xong, họ khênh ông tôi đi rồi bỏ lại đầu ngõ vì nghĩ ông đã chết. Bác gái tôi, tức chị kế bố tôi năm ấy mới 20 tuổi, thấy ông còn thoi thóp nên cùng hai người trong họ thay nhau khênh cáng đưa ông đến một đồn lính Tây cách nhà khoảng 3 cây số nhờ họ chữa trị tạm thời. Mãi ba hôm sau, những người lính trong đồn mới có xe đưa ông tôi lên nhà thương Phủ Doãn ở Hà Nội. Ông dần dần bình phục và tạm trú ở Hà Nội. Đầu năm 1951, làng bố tôi trở thành làng Tề, tức đã được quân Pháp và quân đội Quốc Gia kiểm soát. Những người trong làng ra Hà Nội thỉnh cầu ông tôi trở về dậy học lại. Bùi tai, ông quay về làng. Ít lâu sau, vào một buổi tối, khi dân trong làng, trong đó có ông tôi, đang xem hội hàng năm của làng thì cán bộ Việt Minh đột kích vào bắn ông tôi. Khi ông tôi ngã xuống, họ cẩn thận đâm thêm dăm bẩy nhát dao găm cho chết hẳn rồi mới rút lui.

Bố tôi có người em út, kém ông 15 tuổi, là đại úy trưởng Phòng Tiếp Liệu Quân Y Viện Ban Mê Thuột. Khi thành phố thất thủ, ông theo đoàn người chạy giặc ra vùng ngoại ô và được một chiếc trực thăng bốc về Sài Gòn ngày hôm sau, trong khi vợ và con gái nhỏ vẫn đang kẹt lại thành phố. Khi về đến Sài Gòn, ông tá túc tại nhà chúng tôi nhưng không tìm đường ra nước ngoài với hy vọng được đoàn tụ vợ con. Hậu quả là ông phải trả giá với hơn 5 năm tù. Khi cùng vợ con sang định cư tại Houston năm 1990 theo diện tù cải tạo, ông kể rằng trong những năm tháng bị cầm tù, ông và các bạn đồng cảnh phải học tập cái gọi là “tội ác Mỹ Ngụy,” dĩ nhiên theo sự tuyên truyền dối trá của Cộng Sản. Trong những “tội ác” này có chiến dịch truy lùng cán binh Cộng Sản nằm vùng tại Phú Yên sau hiệp định Geneva mà bố tôi là người trong cuộc. Lúc ấy, tiểu đoàn 10 khinh chiến của Quân Đội Quốc Gia do đại úy Vũ Duy Đê là tiểu đoàn trưởng và bố tôi là trung úy đại đội trưởng Đại Đội Chỉ Huy đã lùng soát và tiêu diệt thành phần chủ chốt của Việt Cộng tại làng Ngân Sơn, thị trấn Chí Thạnh thuộc tỉnh Phú Yên. Hiện nay vẫn còn rất nhiều báo mạng của Cộng Sản Việt Nam ghi lại chuyện này nhưng với những lời thêu dệt, như những dòng sau đây trên trang mạng báo Phú Yên Online: “Ngày 5/9/1954, tiểu đoàn lính ngụy mang tên Lê Hữu Từ (một linh mục phản động khét tiếng ở Bùi Chu – Phát Diệm di cư vào Nam) do Vũ Duy Đê chỉ huy đã gây ra vụ thảm sát Ngân Sơn – Chí Thạnh làm chết 64 người, bị thương 76 người. Đây là một trong ba vụ thảm sát man rợ ở miền Nam gây chấn động cả nước và quốc tế.”

Nói tóm tắt, bố tôi là người không bao giờ có thể sống chung với Việt Cộng. Miền Nam mất mà ông còn ở lại trong nước thì cách này hay cách khác, ông cũng mất. Gia đình tôi biết rõ như vậy.

Thân phụ tác giả và các con trong buổi tiệc mừng thọ 80 tuổi của ông vào năm 2009.

Ba Tổng Thống trong 10 Ngày Cuối của Miền Nam Tự Do

Tối 21 tháng Tư, đài truyền hình Sài Gòn chiếu trực tiếp cảnh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lãnh đạo đất nước cho tân tổng thống Trần Văn Hương, trong lúc tình hình chiến sự thêm bi thảm cho quân đội VNCH.

Trong khung cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, trong tâm trạng buồn rầu, hoang mang, lo lắng ấy, chúng tôi tự đánh lừa mình với một giải pháp chính trị chấm dứt cuộc chiến sẽ xuất hiện trong những ngày sắp tới. Tin tưởng như thế để còn có thể gạo bài chuẩn bị cho kỳ thi cuối khoá.

Gần 8 giờ sáng thứ Hai ngày 28, chúng tôi ngồi trong lớp chờ giáo sư Đoàn Triệu Yến, vị thày môn Kinh Tế đến phát đề tài bài thi đầu tiên trong kỳ thi cuối học kỳ. Giáo sư đến đúng giờ với y phục chỉnh tề như thường lệ; vừa bước vào lớp, ông tuyên bố môn thi được hoãn lại cho đến ngày sẽ được thông báo sau. Ngay sau đó, ông ra về. Sau này, tôi nghe một bạn cùng lớp kể lúc đến trường, ông đưa gia đình theo trên chiếc xe hơi. Sau khi ông rời trường, họ đến phi trường Tân Sơn Nhất, lên một vận tải cơ của Hoa Kỳ đưa những người tỵ nạn thoát khỏi Sài Gòn. Nếu chuyện thật sự xẩy ra như vậy, ông là một người đáng ngưỡng mộ. Ít ra thì ông cũng đến trường để cho sinh viên biết họ được hoãn thi và chào giã biệt chúng tôi. Tư cách ông hơn hẳn biết bao cấp chỉ huy quân sự đã lén lút trốn thuộc cấp để đào tẩu trong những ngày tháng gian nan ấy.

Được hoãn thi, tôi và một số bạn trong lớp lại vào câu lạc bộ của trường chia sẻ cho nhau những tin tức cùng tin đồn về tình hình chiến sự và chính trị. Lúc bấy giờ có rất nhiều tin đồn đang được loan truyền. Đến quá trưa, mọi người từ giã, hẹn mai gặp nhau cho môn thi khác.

Khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, khi tôi đứng ở cổng nhà trong cư xá Bắc Hải tiễn người bạn cùng khóa Đốc sự vừa đến thăm, chợt có tiếng bom nổ rung chuyển nhà cửa vang đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Về sau, tôi được biết Nguyễn Thành Trung, một phi công của Không lực VNCH nhưng là gián điệp cho Cộng Sản Việt Nam đã hướng dẫn các phi công miền Bắc lái 4 chiếc oanh tạc cơ A-37 do Không quân bỏ lại ở phi trường Phan Rang để dội bom Tân Sơn Nhất. Trung cũng là người lái chiếc F5 oanh tạc dinh Độc Lập sáng ngày 8 tháng Tư như đã kể.

Chừng một tiếng sau, đài truyền hình Sài Gòn trực tiếp buổi bàn giao chức vụ tổng thống giữa cụ Trần Văn Hương và đại tướng Dương Văn Minh tại phòng khánh tiết dinh Độc Lập. Ngày hôm trước, Quốc Hội lưỡng viện sửa đổi hiến pháp để ông Minh thay cụ Hương trong niềm hy vọng ông đủ uy tín đàm phán với Việt Cộng để đạt được một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được.

Ngay sau khi nhận trách nhiệm tổng thống, tối 28, ông Dương Văn Minh tuyên bố Sài Gòn được đặt trong tình trạng thiết quân luật, người dân bị cấm ra khỏi nhà.

Cư Xá Sĩ Quan Chí Hoà

Cư xá nơi gia đình tôi cư ngụ trước kia có tên là Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa, thuộc Quận 10 trước tháng Tư năm 1975. Cư xá do người Pháp khởi công xây từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, dành cho những sĩ quan trong quân đội Pháp. Tuy nhiên, khi cư xá vừa xây xong thì người Pháp phải về nước theo quy định của Hiệp Định Geneva chia đôi nước Việt. Năm 1957, chính quyền VNCH cấp các hộ trong cư xá cho gia đình những sĩ quan trung cấp và cao cấp của Quân Lực VNCH đang phục vụ ở Sài Gòn và họ có thể cư trú tại đây trong thời gian tại ngũ. Gia đình tôi là một trong những gia đình đầu tiên dọn đến cư xá vào mùa hè 1957 và ở đây suốt 18 năm trời. Thoạt đầu, cư xá chỉ có 16 dẫy nhà, mỗi dẫy gồm 4 hộ ở tầng dưới và 4 hộ ở tầng trên, tức tổng cộng 128 hộ. Cổng chính cư xá ăn thông với đường Bắc Hải dẫn ra đường Lê Văn Duyệt. Cổng sau hướng ra cuối đường Nguyễn Tri Phương, nơi cắt ngang đường Tô Hiến Thành. Khoảng năm 1965, chính quyền cho xây thêm nhiều dẫy ở các khoảnh đất rộng gần cổng sau, nâng số hộ trong cư xá lên đến hơn 300. Đến cuối năm 1968, chính quyền cho những sĩ quan đứng tên chủ gia đình ở đây mua các căn hộ họ đang cư ngụ và cũng cho phép thường dân sở hữu các căn này. Vì không còn được dành riêng cho các sĩ quan như trước, nên cư xá được đổi tên thành Cư Xá Bắc Hải.

Kể từ những ngày đầu tiên, cư xá luôn có vị sĩ quan được chính quyền chỉ định là người có thể đưa ra những quyết định liên quan đến sự quản trị cư xá mà cư dân quen gọi là “trưởng trại.” Vị trưởng trại sau cùng là trung tướng Đổng Văn Khuyên. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, trong thời gian dầu sôi lửa bỏng vào tháng Tư năm 1975, trung tướng Khuyên giao quyền điều hành cư xá cho đại tá Lê Kim Ngô thuộc binh chủng Công Binh. Ông đại tá này có lẽ ác cảm với những người đang tìm cơ hội thoát khỏi Việt Nam nên ra lệnh cho trung đội lính và đám Nhân Dân Tự Vệ canh gác chặt chẽ tại hai cổng cư xá, nội bất xuất ngoại bất nhập từ chiều ngày 28 đến sáng 30. Trong thời gian này, tuy có lệnh thiết quân luật nhưng dân chúng vẫn tiếp tục tất tả ngược xuôi trên các nẻo đường thành phố, chỉ riêng cư xá chúng tôi bị ông quyền trại trưởng phong tỏa. Tôi được biết nhiều gia đình đã không thể di tản khỏi Sài Gòn trong ngày 29 vì không ra được cổng cư xá.

Rốt cục, ông quyền trại trưởng ở lại khi cuộc chiến kết thúc và cũng phải đi “lao động cải tạo” nhiều năm trời như những sĩ quan QLVNCH khác. Nghe nói ông và gia đình đã sang Hoa Kỳ tỵ nạn theo diện cựu tù nhân cải tạo tức Humanitarian Operation vào đầu thập niên 1990.

Hỗn Quan, Hỗn Quân

Sáng thứ Ba ngày 29, tôi lấy xe định đến nhà một người bạn. Tuy nhiên, cổng ra vào cư xá đã đóng với những người lính cơ hữu của cư xá cùng vài anh Nhân Dân Tự Vệ lăm lăm tay súng đang đứng gác. Những người này giải thích với tôi rằng đại tá Lê Kim Ngô, quyền trường trại, đã ra lệnh nội bất xuất còn ngoại bất nhập, tức là tất cả cư dân trong cư xá không được ra ngoài, ngoại trừ những quân nhân có sự vụ lệnh di chuyển. Người từ ngoài cũng không được vào nếu không xuất trình giấy tờ chứng minh mình đang ở cư xá. Những người lính gác cổng nói năng khá nhã nhặn nhưng các ông Nhân Dân Tự Vệ luôn biểu diễn nét mặt khó đăm đăm. 

Tôi trở về nhà, pha tách cà phê mang ra ngồi ở bậc thềm, vừa uống vừa nghe tin tức đài phát thanh Sài Gòn từ chiếc radio nhỏ. Có tiếng bấm chuông, tôi ra mở cổng, trông thấy anh Tiềng, một trong số hơn 10 công nhân của nhà in do một Hoa kiều và mẹ tôi làm chủ. Đây là một trong năm hay sáu nhà in các bộ bài tại miền Nam thời bấy giờ; bài Tây có, bài chắn, tứ sắc, tam cúc, bất, tổ tôm cũng có. Gọi là nhà in chứ thật ra chỉ là một cơ sở in đặt trong hai căn phòng khá lớn mà mẹ tôi cho xây thêm ở vườn sau nhà. Các công nhân làm việc, ăn ở tại đây.

Anh Tiềng trạc tuổi tôi nhưng không phải đi lính. Có người thợ in đồng nghiệp nói anh được hoãn dịch gia cảnh. Lại có người bảo anh trốn quân dịch. Anh quý tôi nên thỉnh thoảng mời tôi đi uống cà phê sáng tại một tiệm khá gần cổng sau cư xá. Hôm ấy, khi lên nhà trên nhưng không gặp tôi nên anh đi bộ một mình đến quán. Anh kể là khi trở về, đi ngang sân cỏ rộng mà các thanh, thiếu niên trong cư xá dùng làm sân bóng đá, anh trông thấy một chiếc trực thăng, có lẽ loại UH-1 khá thông dụng trong chiến tranh Việt Nam, đang bay là là chực đáp xuống. Gần đó là một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn hay năm con, đứa lớn, đứa nhỏ với hành lý lỉnh kỉnh đứng chờ bên cạnh một chiếc xe hơi. Bỗng dưng một chiếc gắn máy phóng rất nhanh đến. Hai thanh niên đeo băng tay Nhân Dân Tự Vệ xuống xe, giơ súng carbine nhắm bắn vào trực thăng, có lẽ là bắn dọa. Trực thăng vội bốc cao lên, đảo một vòng tròn có vẻ ngập ngừng như chưa biết nên bay xa hay liều đáp xuống. Hai anh nhắm bắn thêm vài phát. Chiếc trực thăng vút cao hơn rồi bay thẳng.

Nhân Dân Tự Vệ là lực lượng dân quân bán thời gian được thành lập sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 với mục đích bảo vệ an ninh tại làng, xã, thôn xóm. Hầu hết nhân sự trong lực lượng là thanh, thiếu niên chưa đến hạn tuổi quân dịch và không được huấn luyện đầy đủ, nhiều người còn chưa được học sử dụng súng, đạn. Báo chí thời bấy giờ gần như đăng tin mỗi ngày trong mục tin vặt “Từ Thành Đến Tỉnh“ về chuyện Nhân Dân Tự Vệ bắn lầm, bắn lẫn nhau khi tức giận, phá phách xóm làng, hay nghịch ngợm súng đạn đến nỗi gây thương vong cho người khác và cho chính mình. Những tin tức này nhiều đến nỗi lắm tờ báo bắt chước báo Sóng Thần đặt tít cho bản tin thường ngày về chuyện này là “Truyện Dài Nhân Dân Tự Vệ.” Trong hai tháng cuối của cuộc chiến, tình trạng hỗn quan hỗn quân khiến các anh Nhân Dân Tự Vệ cảm thấy mình uy quyền hơn, quan trọng hơn lên để thế thiên hành đạo mà đoàn Nhân Dân Tự Vệ trong cư xá chúng tôi là một trường hợp điển hình.

Anh Tiềng kể tiếp rằng những người đứng cạnh xe hơi đứng ngẩn ra nhìn theo bóng dáng chiếc trực thăng nhỏ dần, nhỏ dần, rồi mất hút. Họ lục tục mang hành lý trở vào xe. Xe nổ máy rồi rời sân bóng.

Hai anh Nhân Dân Tự Vệ đứng chờ vài phút để chắc chắn trực thăng không quay lại. Sau đó họ lên xe gắn máy, nổ máy và lao đi.

Tôi tự hỏi chiếc trực thăng ấy định đưa gia đình những người đứng chờ cạnh chiếc xe hơi đến đâu; một tầu chiến Mỹ đang đợi sẵn ngoài khơi Vũng Tầu hay một nơi nào họ nghĩ còn an toàn ở vùng IV? Tôi cầu xin ơn trên cho gia đình họ rồi sẽ thoát khỏi cánh cửa địa ngục đang mở dần để nuốt trọn khối người dân miền Nam tự do.

Trong chiều hôm ấy, hai em trai tôi, đứa lớn chín tuổi và đứa nhỏ bẩy tuổi, đã chứng kiến một tình trạng tương tự, nhưng với kết thúc có hậu cho người di tản.  

Đang chơi đùa trước cửa, hai cậu em trông thấy một trực thăng, có lẽ cũng là loại UH-1, đảo vòng tròn trên sân bóng tròn, cùng lúc các thanh niên Nhân Dân Tự Vệ ngồi trên vài xe gắn máy phóng nhanh ngang nhà. Trẻ con thì lúc nào chẳng hiếu kỳ và hiếu động, các cậu bé chạy đến sân bóng xem chuyện gì. Khi các cậu đến nơi, đám Nhân Dân Tự Vệ đến trước đã dựng xe máy, giơ súng bắn chỉ thiên về chiếc trực thăng nhưng trực thăng vẫn đáp xuống bãi cỏ. Các cậu đang hăm hở xông đến thì bỗng có một tràng đạn chát chúa vọng ra từ trực thăng. Tất cả khựng lại thì thấy ngoài viên phi công, trên máy bay có người xạ thủ chĩa nòng súng đại liên đang bốc khói về hướng mình. Một tràng đạn nữa nổi lên từ khẩu đại liên, chắc người xạ thủ chỉ bắn dọa. Thế là cả đám hoảng hốt chạy lui. Ba bốn người đang đứng đợi gần đó phóng nhanh đến trực thăng, rồi được người xạ thủ kéo lên. Chiếc trực thăng từ từ  bốc cao trong khi nòng đại liên vẫn hướng về đám Nhân Dân Tự Vệ.

Về sau, tôi nghe kể có thêm vài trực thăng khác định đáp xuống cư xá chúng tôi trong ngày hôm ấy nhưng cũng bị đám Nhân Dân Tự Vệ bắn đuổi. Cư xá lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của nhiều vị sĩ quan cao cấp trong đó có cả mươi ông tướng nên các trực thăng đến đón gia đình họ trong hai ngày cuối của cuộc chiến là điều bình thường.

Tôi nghĩ không hẳn các anh Nhân Dân Tự Vệ của cư xá trong những ngày tháng ấy là những kẻ xấu, thích hành hạ người khác. Không hiểu lúc ấy họ suy nghĩ gì. Họ hành động theo lệnh cấp trên hay họ muốn thể hiện uy quyền? Khi được giao quyền lực với khẩu súng trong tay, họ có sức mạnh của tập thể và muốn thể hiện quyền uy với người khác, với đồng bọn, và với chính mình.

Hay phải chăng vì gia đình họ quyết định không di tản hoặc không có phương tiện để ra đi nên họ ngăn cản những người khác? Tao không đi được thì mày cũng không được đi, thế thôi!

Đêm Cuối Ở Sài Gòn 

Trưa ngày 29, sau bữa cơm trưa với gia đình, bố tôi mặc quân phục, đeo lon trung tá, lái xe ra đi. Tôi ngồi trong nhà dán tai vào chiếc radio để theo dõi tin tức. Khoảng 3 giờ, đài phát thanh Sài Gòn phổ biến lời thủ tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu người Mỹ rời khỏi Việt Nam ngay lập tức. Cuộc chiến đến hồi kết thúc. Coi như xong! Thật khủng khiếp khi biết trước thứ tương lai tồi tệ đang đưa cao bàn tay gớm chiếc vẫy gọi mình và mình đang bị kéo đến gần theo từng nhịp vẫy của nó.

Đến 6 giờ chiều, bố tôi trở về gọi tôi, mẹ tôi, ông chú lớn, và ông chú út vào một căn phòng để kể những chuyện vừa xẩy ra cho ông. Người chú lớn, em kế bố tôi, là một thiếu tá đang phục vụ tại Phòng 2, tức phòng có trách nhiệm tình báo, của Bộ Tổng Tham Mưu. Gia đình ông sống ở căn hộ số 3 dẫy L trong cư xá, đấu lưng với căn hộ của chúng tôi, số 3 dẫy K. Vì vậy hai gia đình có chung khoảng sân sau khá rộng. Như gia đình những sĩ quan phục vụ tại Phòng 2, vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản bằng máy bay từ hai tuần trước.

Bố tôi kể, bố tôi vừa vào được tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, nơi có hàng hàng lớp lớp người vây quanh cố gắng vượt qua cánh cổng sắt để có chỗ ngồi trên những chuyến trực thăng bay ra Hạm Đội số 7 đang đợi ở hải phận quốc tế gần Vũng Tầu. Bố tôi gặp ông đại tá quân đội Hoa Kỳ đã hứa giúp gia đình chúng tôi di tản từ nhiều ngày trước. Ông này xin lỗi chưa giúp được và khuyên bố tôi nên ở lại tòa đại sứ để di tản bằng trực thăng ra hạm đội cùng ông. Bố tôi bảo ông rằng bố không thể đi một mình khi gia đình kẹt lại. Thuyết phục bố tôi không được, ông viết một tờ thư, ghi rõ tên và cấp bậc ông để yêu cầu những quân nhân Mỹ tại phi trường Tân Sơn Nhất có trách nhiệm giúp người Việt rời Sài Gòn chấp thuận cho gia đình tôi lên một chuyến bay vào sáng sớm ngày 30. Sau đó, ông cùng một người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đưa bố tôi ra cửa sau của tòa đại sứ để ra ngoài. “Mình sẽ ra phi trường trước 7 giờ sáng mai,” bố tôi bảo chúng tôi. “Sống thì sống hết! Chết thì chết hết!”, ông nói thêm, một cách dứt khoát.

Vấn đề đặt ra là Sài Gòn đang trong tình trạng thiết quân luật và cư xá đang bị phong tỏa. Với chiếc lon trung tá trên cổ áo, bố tôi có thể ra khỏi cổng cư xá dễ dàng nhưng vợ con sẽ bị chận lại. May mắn thay, khoảng nửa tiếng sau, đài phát thanh Sài Gòn phát ra bản tin tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh các quân nhân, công chức phải trình diện nhiệm sở vào 8 giờ sáng hôm sau. Chúng tôi bàn nhau sẽ khởi hành sáng sớm với xe hơi bố tôi lái, trên xe có các em tôi, cô em kế tôi chở ông chú thiếu tá trên chiếc PC, ông chú đại úy chở mẹ tôi trên chiếc Vespa của ông, và tôi chở một cô em trên chiếc Lambretta. Chúng tôi sẽ bảo lính canh và các Nhân Dân Tự Vệ là đi trình diện nhiệm sở và không yên tâm khi để phụ nữ và trẻ em ở nhà trong tình trạng bất an. Bàn bạc xong xuôi, mọi người uể oải ăn cơm tối rồi đi nghỉ, lấy sức cho một ngày đầy cam go sắp đến.

Tôi vào giường, nằm thao thức trong mớ hỗn độn của những âm thanh xa gần vọng đến. Tiếng động cơ máy bay vần vũ trên trời, tiếng đại bác nổ vang xen kẽ với tiếng súng lớn, súng nhỏ từng phát, từng tràng liên tục, và tiếng kinh cầu của mẹ tôi vọng đến từ bàn thờ. Mãi đến hơn một giờ sáng, tôi vẫn trằn trọc trong khi các em ở những giường bên đã yên giấc. Tôi bước xuống giường, soi đèn pin vào tủ sách rút đại ra một quyển, vặn ngọn đèn nhỏ đầu giường nằm đọc để quên đi thực tại. Đó là quyển Vợ Chồng Son, truyện phóng tác của Hoàng Hải Thủy mà tôi đã đọc từ năm, bẩy năm trước. Đến hôm nay nghĩ lại, tôi không thể tưởng tượng được trong lúc cả thành phố đang rung chuyển dưới cơn lửa đạn, bao nhiêu người đang thấp thỏm trước một tương lai tăm tối đầy tai ương mà tôi có thể nằm suốt đêm để ngốn xong một quyển tiểu thuyết với nội dung hài hước. Tôi vẫn biết ngày trước, ông Đỗ Mục chê các cô gái nước Thương qua hai câu thơ “Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu đình hoa” (cô gái nước Thương không biết đến nỗi hận mất nước, ở bên kia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa là khúc hát tình tứ, du dương). Thôi thì xem như mình không thể làm gì để thay đổi vận mệnh nước thì sách vở là sự khuây khoả tốt nhất dành cho người đang tuyệt vọng. 

Tìm Đường Di Tản

Khoảng 6 giờ sáng hôm sau, tức sáng sớm ngày 30 tháng Tư, khi mẹ tôi đánh thức cả nhà thì tôi vừa đọc xong quyển truyện. Nửa tiếng sau, mọi người lên đường. Trước khi rời nhà, tôi định mang bốn quyển album đầy hình ảnh gia đình trong hơn 20 năm kể từ những ngày bố mẹ tôi sống ở Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Tuy nhiên, lúc bấy giở, tôi thật sự nghĩ gia đình không đi thoát và sẽ trở về trong ngày nên thôi. Quyết định này khiến tôi ân hận cả đời. Chiều hôm ấy, khi những người lính Cộng sản đầu tiên tiến vào cư xá, hai người cô tôi, tức em ruột của bố tôi, đến nhà tôi mang tất cả quân phục của bố tôi, bốn quyển album, các giấy tờ chúng tôi để lại mang ra sân sau đốt sạch. Đúng mười lăm năm sau, khi mẹ tôi về Việt Nam lần đầu để thăm thân nhân, bà xin được vài tấm ảnh đã tặng cho họ ngày trước, trong đó có tấm tôi vừa đúng ba tháng tuổi đang nằm lẫy trong hiệu ảnh Tân Việt ở Hà Nội.

Sáng hôm ấy, khi bước ra sân trước, chúng tôi trông thấy cô em gái thứ hai tôi đã lập gia đình cùng chồng, đứa con trai một tuổi và cả bà mẹ chồng. Hôm trước, bố tôi dặn con gái và con rể đến đúng 6 giờ rưỡi sáng để cùng đi. Sự hiện diện của mẹ chồng cô với chiếc va ly khá to trong khi gia đình tôi, mỗi người chỉ một túi xách nhỏ bằng vải với hai bộ quần áo là điều không định trước. Tuy nhiên, đã như thế thì cứ như thế. Bà có mang theo con mèo của bà chắc chúng tôi cũng đành chịu. Chúng tôi chia nhau lên các xe như đã bàn với nhau. Cậu em rể và bà mẹ ngồi trên xe hơi với các em tôi.

Khi chúng tôi chuẩn bị rời nhà, một người bạn bố tôi gọi điện thoại cho biết Việt Cộng đã về đến Ngã Ba Ông Tạ, nơi nằm trên quãng đường ngắn nhất từ nhà tôi đến phi trường, lộ trình chúng tôi chọn từ tối hôm trước. Vì vậy, bố tôi quyết định sẽ đi qua cổng sau cư xá thay vì cổng trước, rẽ trái đường Tô Hiến Thành, gửi xe gắn máy tại nhà một người bạn của bố tôi ở ngã ba Tô Hiến Thành và Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), rồi tất cả lên xe hơi, đi đọc theo đường Lê Văn Duyệt về hướng trung tâm thủ đô, rẽ trái đường Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng), rẽ trái đường Trương Minh Giảng (sau 1975 thành Trần Quốc Thảo), vài cây số nữa Trương Minh Giảng đổi thành Trương Minh Ký (tức Lê Văn Sĩ bây giờ) dẫn đến phi trường.

Ra đến xe, bố tôi đưa cho tôi khẩu súng lục Colt 45 còn ông giữ khẩu Smith Wesson 38 mà chúng ta vẫn gọi là “súng sáu” để phòng thân. Ông biết tôi bắn Colt 45 rất khá. 

Đến cổng sau cư xá, nghe chúng tôi nói phải đi trình diện nhiệm sở theo lệnh của tổng thống, những người lính gác và Nhân Dân Tự Vệ mở cổng cho chúng tôi ra.

Sau khi chúng tôi gửi các xe gắn máy ở nhà người bạn bố tôi, mọi người cùng lên xe hơi. Riêng chú út chúng tôi quay về để đợi đoàn tụ với vợ và con còn ở Ban Mê Thuột. Chiếc xe Opel nhỏ của bố tôi phải chở 15 người kể cả hành lý gồm bố mẹ tôi, ông chú thiếu tá ngành tình báo, 9 anh chị em chúng tôi, chồng và đứa con một tuổi của em tôi, cùng bà mẹ chồng cô. Người này ngồi trên đùi người kia sát chặt vào nhau như những khoanh cá trong một hộp cá mòi.

Khi xe chạy trên đường Lê Văn Duyệt, tôi chứng kiến một khung cảnh vừa hỗn loạn, vừa thê thảm. Đường phố đầy người ngược xuôi như đàn kiến nhớn nhác túa ra khi tổ bị một đứa trẻ cầm que chọc vào. Dọc hai bên lề đường, ngổn ngang những bộ quân phục, giầy bốt, mũ sắt, và cả súng đạn của những người lính tan hàng vứt lại. Đâu đó có những xác người được phủ một chiếc chăn hay chiếu trên vỉa hè. Thỉnh thoảng, chúng tôi chứng kiến cảnh những người khuân bao gạo, bàn, ghế, tủ, và cả nồi niêu nửa đi nửa chạy trên đường. Có lẽ họ vừa đột nhập vào những căn nhà không còn người ở để hôi của. Khi xe đi qua Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trên đường Lê Văn Duyệt, tôi trông thấy một xe tăng M-48, loại tăng lớn nhất và tối tân nhất mà Hoa Kỳ viện trợ cho quân lực VNCH trong cuộc chiến, nằm giữa lòng đường với nòng đại bác chúc thẳng lên trời. Người lính trưởng xa chiếc xe tăng này quả là người có cái tâm tốt lành. Trước khi rời xe, anh cẩn thận ngước nòng súng lên cao để địch quân từ xa nhận biết chiếc tăng đã bỏ cuộc chơi nên không nã đạn vào, gây thương vong cho dân chúng gần đó.

Đến cầu Trương Minh Giảng gần Đại Học Vạn Hạnh, xe chúng tôi bị chận lại bởi một toán Biệt Cách Dù đang bố trí dọc cầu. Người trung uý, có vẻ là trưởng toán, tiến đến xe. Trông thấy bố tôi đang trong bộ quân phục với lon trung tá, anh đưa tay lên chào. Đó là lần cuối bố tôi nhận được kiểu chào đúng quân kỷ của một người dưới cấp trong 24 năm quân ngũ của ông. Sau khi nghe bố tôi nói rõ mục đích, anh cho biết phi trường đã bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng và khuyên bố tôi đưa gia đình về nhà cho an toàn vì Việt Cộng đã trà trộn với dân trong thành phố. Anh cũng để nghị bố tôi thay bộ quân phục bằng thường phục dù đang ngồi trong xe.

Thất vọng, bố tôi quay xe lại, rồi ngừng xe bên đường để cởi chiếc áo quân nhân ra thay bằng áo polo tôi mang theo. Ông bảo “thua keo này, ta bầy keo khác,” và lái xe đến bộ tư lệnh Hải quân gần đường Cường Để (nay là đường Tôn Đức Thắng) hy vọng gặp vài sĩ quan cao cấp ông quen biết để nhờ giúp gia đình lên một chiến hạm di tản. Đến nơi, chúng tôi thấy đường dẫn vào bộ tư lệnh đã bị chắn ngang bởi những hàng rào sắt với kẽm gai. Toán lính gác cho bố tôi biết tất cả những tầu Hải quân còn sử dụng được đã ra đi trong đêm. Nhớ lại mà tôi cảm thấy ngưỡng mộ các anh, dù biết rõ cấp chỉ huy đã ra đi, họ vẫn ở lại thi hành trách nhiệm cho đến giây phút cuối cùng của chế độ họ đang phục vụ.

Nước đã tràn vào thuyền, chẳng lẽ buông xuôi để chìm trong biển đỏ, thôi thì “còn nước, còn tát,” bố tôi quay đầu xe hướng đến bến Bạch Đằng với hy vọng mong manh gặp một chiếc tầu đang đậu ở đó. Khi bố tôi lái xe dọc theo bến, chúng tôi trông thấy xa xa có một tầu buôn lớn lố nhố đầu người trên boong. Ông đậu xe dưới một tàng cây ven bến, cách tầu khoảng 200 mét, tức gần gấp đôi chiều dài sân bóng, và bảo tôi lên tầu hỏi những người trên đó xem tầu có rời bến không. Tất cả mọi người ngồi đợi trong xe, tôi chạy nhanh đến tầu. Đây là một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương, trên mạn có sơn tên Đông Hải, và đang cập sát một chiếc tầu lớn khác có vẻ như đang hỏng vì sàn tầu đầy rác rưởi và không có ai ngồi trên boong. Tôi trèo thang lên chiếc tầu hỏng, bước đến thành tầu đối diện sát thành tầu Đông Hải để trèo qua con tầu đầy người này. 

– Tầu này có đi không? Tôi hỏi người đàn ông gần tôi đang ngồi bệt trên sàn tầu cùng những người có lẽ trong gia đình ông.

– Tôi cũng không biết! Ông ta trả lời.

– Không biết sao ngồi đây?

– Thì thấy người ta ngồi nên mình cũng ngồi.

Hỏi vài ba ngồi gần đó, cũng không ai biết tầu có đi hay không.

Tôi trở lại xe, trình bầy những điều tai nghe mắt thấy cho mọi người. Sau ít phút bàn thảo, tất cả rời xe đi đến tầu, ngoại trừ tôi. Trong vài ngày qua, tại bến Bạch Đằng, có một đoàn quân hôi của, lùng sục khắp nơi để lấy những xe gắn máy, xe hơi do những người đi tản để lại trên bến. Với những xe hơi họ không nổ máy được hoặc không biết lái thì họ tháo bánh xe, gỡ bình điện, và lấy đi những phụ tùng khác có thể bán được. Với khẩu súng giắt trong lưng quần, tôi phải ở lại giữ xe để có phương tiện trở về nếu không tìm được tầu di tản.

Bước ra khỏi xe, tôi bật que diêm đốt điếu thuốc đầu ngày. Bỗng có gã thanh niên gầy gò, áo quần luộm thuộm bước đến.

– Lương xe hả? Cho em ké cái bánh nhé! Gã nhăn nhở cười hì hì nói (“lương” là tiếng lóng của giới giang hồ lúc bấy giờ, có nghĩa là lấy trộm).

– Lương mẹ gì? Xe tui đó cha!

Mặt tiu nghỉu, gã biến đi thật nhanh.

Hút xong điếu thuốc, tôi vào xe ngồi ở ghế tài xế để những tên đang lùng sục các xe bỏ lại trên bến biết xe có chủ nên không đến làm phiền. Tôi nhớ đến những bài báo thuật cảnh hàng ngàn người chen chúc nhau trên những chuyến tầu xuôi Nam sau khi miền Trung thất thủ trong tháng trước. Trên những chuyến tầu đó, biết bao trẻ em đã chết vì đói khát, và bị hải táng vào lòng biển. Gia đình tôi, vì tưởng có thể đi tản bằng phi cơ nên không mang theo chút thực phẩm và nước uống nào. Các đứa em nhỏ của tôi, đứa lên 9, đứa lên 7, đứa lên 5, đứa 21 tháng và đứa cháu đang chập chững tập đi chắc khó thế vượt qua cuộc hải trình cam go này mà không có cái để ăn, để uống.

Hơn nửa tiếng sau, có lẽ khoảng 9 giờ, mặt trời lên cao, nắng gắt chan hòa, trời trở nên nóng nực, tôi quyết định lên tầu gọi cả nhà ra về. Tuy nhiên, tôi e khi mình bước đi, chỉ trong dăm bẩy phút, sẽ có kẻ bất lương đến tháo bánh xe, lấy bình điện, hoặc tệ hơn, câu giây điện để nổ máy rồi lái xe đi. Đang ngập ngừng tiến thoái lưỡng nan, chợt có một trung đội Nhẩy Dù kéo đến bố trí cạnh gốc cây nơi xe chúng tôi đang đậu. Tôi bước đến hỏi han anh chuẩn uý trung đội trưởng, một sĩ quan Thủ Đức sau tôi vài khoá. Anh cho biết trung đội của anh vừa trải qua một đêm quần thảo với Cộng quân ở Hàng Xanh, gần xa lộ Biên Hoà để ngăn địch tiến vào Sài Gòn. Và rồi, vì thiếu đạn dược nên phải rút về đây. Anh cho trung đội đóng tạm nơi này để chờ lệnh. Chỉ tay về chiếc tầu Đông Hải, tôi bảo anh rằng gia đình tôi đang ở trên tầu. Tôi cần lên đó để gọi mọi người về và nhờ anh trông hộ chiếc xe cho tôi, không để kẻ bất lương lấy trộm. Tôi sẽ trở lại trong khoảng 10 phút. Anh gật đầu đồng ý và nói dứt khoát: “Anh yên tâm! Tôi giữ xe cho anh!”

Trở lại lên tầu Đông Hải, tôi nhanh chóng tìm được gia đình trong đám đông hỗn tạp. Tôi trình bầy với mọi người nỗi lo âu của tôi. Tất cả đồng ý trở về. Chúng tôi lần lượt, người lớn bế trẻ em, trèo qua thành tầu Đông Hải, bước vào con tầu hỏng bên cạnh để xuống bến. 

Khi mọi người qua hết con tầu hỏng, nhìn sang tầu Đông Hải không thấy chú tôi. Chúng tôi biết ông chắc chắn không về theo vì vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản bằng đường hàng không như đã kể. Ông phải tìm mọi cách để đi. Tôi bước dọc theo thành con tầu hỏng tìm ông đứng lẫn lộn trong đám đông trên tầu Đông Hải, vừa đi vừa lớn tiếng gọi tên ông để báo ông biết chúng tôi quyết định trở về. Đúng lúc ấy có tiếng đạn pháo kích nối tiếp nhau nổ long trời lở đất. Bụi bốc lên mờ mịt ngay chỗ trung đội Nhẩy Dù đang bố trí dưới gốc cây bên cạnh xe hơi của chúng tôi. Rõ ràng là tiền sát viên Việt Cộng trà trộn trong dân đã chỉ điểm cho một đơn vị pháo binh của họ đội pháo vào vị trí toán quân Nhẩy Dù. Chợt có tiếng kêu to từ tầu Đông Hải: “Việt Cộng pháo kích! Nổ máy! Chặt neo!” Tiếng máy tầu rung lên rồi tôi trông thấy một người cầm chiếc rìu lớn chặt dây neo. Giây đứt, con tầu tự động chậm rãi tách ra khỏi chiếc tầu hỏng. Mọi người trong gia đình hối hả trèo lại sang tầu Đông Hải. Bố tôi sang trước, tôi đủn những người khác qua thành tầu, bố cầm tay đỡ xuống. Những đứa trẻ thì tôi bế lên chuyền cho bố tôi. Đến khi tôi ném những túi quần áo cho bố tôi thì tầu Đông Hải đã tách ra hơn một thước nên tôi phải lấy sức nhẩy sang. Có lẽ tôi là người cuối cùng từ con tầu hỏng sang được tầu Đông Hài.

Khi tầu tách xa khoảng ba hay bốn thước, tôi trông thấy một đứa bé trai khoảng năm tuổi đứng trên boong con tầu hỏng, hai tay khoắng loạn lên trời vừa nhẩy tưng tưng vừa khóc gào “Ba ơi! Ba ơi!” Trên tầu Đông Hải, có cặp vợ chồng đứng sát thành tầu nức nở thét to “Con ơi! Con ơi!” Những tiếng gào tiếng thét chìm vào tiếng đạn pháo nổ dập dồn trên bến. 

Tầu dời xa dần bến.

Hỏi chuyện những người đứng gần, tôi được biết cặp vợ chồng đang vật vã khóc đã đưa được hai con lên tầu Đông Hải, đứa lớn là gái, khoảng 7, 8 tuổi, đứa bé là trai, lên 5 hay 6. Ngồi trên tầu khá lâu mà không thấy động tĩnh nên cũng như gia đình tôi, họ quyết định về. Khi sang con tầu hỏng thì đạn pháo rơi trên bến và tầu Đông Hải mở máy chạy, họ vội vã trở sang tầu Đông Hải mà quên mang theo đứa con trai. Tôi chạnh lòng thương đứa trẻ, đời sẽ dẫn nó đến đâu? Tôi chạnh lòng thương cặp vợ chồng lạc con, ắt họ sẽ mãi mãi phải sống với nỗi buồn xé nát tâm can và cảm giác tội lỗi trong những ngày còn sống. Người xưa có câu thành ngữ “can trường thốn đoạn” có nghĩa ruột gan đứt ra từng đoạn để chỉ người cha, người mẹ mất con. Đứa con chết đi, bậc cha mẹ đau đớn có thể ngước lên trông Trời mà trách móc “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống Trời hay không Trời” nhưng rồi sẽ nguôi ngoai theo thời gian. Đằng này, đứa con nhỏ bị dứt ra khỏi đời mình vì một sơ suất của chính mình. Mỗi lần nhớ đến đứa con, chắc chắn họ lại đau đớn tự hỏi thằng bé giờ ra sao, sống chết thế nào, đói hay no, khổ nhiều hay khổ ít. Cầu xin Thượng Đế giữ gìn, che chở họ cho đến ngày cha, mẹ, chị, em, được đoàn tụ.

Đường Ra Vũng Tầu 

Tầu đi được khoảng gần hai tiếng, khi đến chỗ sông Sài Gòn đổi tên thành sông Lòng Tảo, trời bỗng đổ cơn mưa rào, tuy không kéo dài nhưng cũng khiến mọi người ướt sũng. Có lẽ vì cả đêm trước không ngủ, đang bần thần, bải hoải nên tôi rét run cả người. Đứng gần tôi là một cô bé trạc 16, 17. Trông thấy tôi đang co ro, run lên từng chập nên cô mở va ly mang theo, lấy chiếc áo len cho tôi mượn. Dáng cô nhỏ hơn tôi khá nhiều nhưng áo đan bằng sợi len có thể dãn ra nên tôi cài nút được. Tôi đã mặc chiếc áo này cho đến lúc cơn mưa dứt và đợi cho áo khô mới trả lại cô. Lúc tàu khởi hành, tôi trông thấy cô ngồi dựa vào thành tầu, tay ôm hai đứa trẻ, gái độ 10 tuổi, trai chắc lên 5, và sùi sụt khóc. Hỏi thăm cô, tôi được biết ba chị em được mẹ dẫn lên tầu. Ngồi trên tầu một chốc, cậu em kêu đói nên bà mẹ xuống bến tìm mua bánh mì cho con và cho cả gia đình để dành ăn trong những ngày sắp tới. Bà vừa xuống bến độ dăm phút thì tầu chạy. Chuyện gia đình cô và chuyện đứa trẻ bị lạc cha mẹ ở bến tầu chỉ là hai trong hàng vạn câu chuyện “đau lòng kẻ ở người đi; lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm?” (Truyện Kiều) trên quê hương ta trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. 

Khoảng hai giờ chiều, có lẽ tầu Đông Hải đã đi được quá nửa đoạn sông Sài Gòn – Vũng Tầu, qua chiếc máy phát thanh nhỏ của người đứng gần, chúng tôi nghe tiếng ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Có những tiếng bật khóc nức nở chung quanh tôi. Thế là hết! 

Tin tức ông Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng đầu hàng vô điều kiện khiến những người trên tầu vừa bàng hoàng vừa lo lắng cho sự an toàn của con tầu. Khoảng một tiếng sau, đài Sài Gòn phát lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đang ngồi trong phòng vi âm của đài ca ngợi thành quả thống nhất đất nước của Cộng sản và lên án những người bỏ nước tìm tự do là những kẻ phản bội. Sau đó, ông hát vang ca khúc Nối Vòng Tay Lớn với tiếng vỗ tay theo nhịp của những người trong cái gọi là “Uỷ Ban Cách Mạng Lâm Thời” đang hiện diện tại đài phát thanh.

Tôi không hiểu ông Trịnh Công Sơn có bao giờ nhận thức được chính mảnh đất miền Nam tự do đã nuôi dưỡng, cưu mang ông và cung cấp cho ông môi trường thuận lợi để ông sáng tác? Thử tưởng tượng nếu sống ở miền Bắc, dù có thể tự học nhạc, chắc chắn ông chỉ được phép viết lên những ca khúc tầm thường xưng tụng bác và đảng, như bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ nô bộc của chế độ. Xét ở khía cạnh này thì chính ông mới là kẻ phản bội miền Nam tự do, phản bội những người thiết tha yêu mến nhạc của ông, đã xúm lại công kênh ông lên đỉnh cao ngất ngưởng của âm nhạc Việt.

Về sau, tôi được biết kể từ khi miền Nam đổi chủ, ông Trịnh Công Sơn đã viết cả trăm ca khúc thuộc loại nhạc “giác ngộ cách mạng,” nhưng những sáng tác này của ông nhanh chóng bị rơi vào quên lãng. 

Tầu tiếp tục chạy, khi đến cửa Cần Giờ, cách Vũng Tầu chỉ khoảng 20 cây số đường sông, bỗng có những tiếng nổ vang và những cột nước bắn lên tung toé gần tầu. “Nằm xuống! Việt Công bắn!” Tiếng người hét lên và mọi người nằm rạp xuống sàn tầu.” Sau này tôi biết nơi đây chính là khúc sông Việt Cộng từ bờ bắn vào tầu Việt Nam Thương Tín, con tầu khởi hành tuy sau nhưng khi đến sông Lòng Tảo đã vượt qua tầu Đông Hải, khiến nhà văn Chu Tử bị thiệt mạng. Có lẽ họ vừa bắn bằng súng cối vừa bằng B40 vì khúc sông khá hẹp. 

Khi tầu vượt qua tầm súng Việt Cộng, mọi người lồm cồm trổi dậy. Đứng bên thành tầu, vài phút sau, chúng tôi trông thấy ba, bốn chiếc thuyền máy trông giống như giang tốc đỉnh của Hải quân đuổi theo. Vài người trên thuyền cầm súng trường hướng lên trời bắn chỉ thiên như ra lệnh tầu ngừng lại. Lại có tiếng la to “Việt Cộng đuổi! Chạy nhanh lên! Nhanh lên!” Chẳng hiểu tiếng la hét dục tầu đi nhanh có vọng đến phòng lái hay không nhưng tôi có cảm tưởng như tầu đang dần tăng tốc độ. Tuy nhiên, khoảng cách giữa những chiếc thuyền máy và tầu dần dần thu hẹp theo từng phát đạn vang đến từ thuyền. Mọi người trên tầu hoảng loạn, kẻ nằm sóng soài trên boong, người đứng sát mạn tầu nhô đầu lên lo âu nhìn về hướng những chiếc thuyền đang xả hết tốc lực đuổi theo.

Trong thoáng chốc, tôi tưởng tượng ra cảnh đám lính Việt Cộng chặn tầu lại, bắt tầu tấp vào gần bờ, lùa dân trên tầu lội nước vào khu rừng bên cạnh. Họ chia người di tản ra làm hai, đàn ông trong tuổi lính đứng một bên, người già, phụ nữ, và trẻ con một bên, rồi nổ súng từng loạt vào những người đàn ông. Đúng thế, họ sẽ làm như đã làm đối với những đoàn người di tản mà họ chận lại trên Liên Tỉnh Lộ 7B và những nạn nhân của họ trong dịp Tết Mậu Thân ở Huế như tôi được biết qua các bài báo. Ồ không đúng, ở Huế thì họ không mất công chia ra làm hai mà lính tráng hay thường dân, đàn ông hay đàn bà, người già hay con trẻ cùng chung số phận như nhau, tức cùng bị giết. Các hố chôn tập thể được khai quật cho thấy rõ ràng sự công bằng, không phân biệt nam phụ lão ấu đối với các nạn nhân của họ. Tôi chuẩn bị cách đối phó, lòng tự nhủ “chết là cùng!”

Tuy nhiên, bố tôi bảo tôi đưa ông khẩu Colt 45. Ông lấy khẩu súng sáu ông đang giữ thả xuống biển rồi nhét khẩu Colt 45 vào bụng. Kế đó, ông nói tôi đưa ví cho ông. Mở ví tôi ra, ông lấy thẻ căn cước quân nhân và thẻ sinh viên trường QGHC có in cờ vàng ba sọc đỏ của tôi ném xuống biển như đã ném súng, rồi trao ví lại cho tôi. Ông bảo nhà còn mẹ, còn em, Việt Cộng bắt thì đừng chống cự, cứ nói là dân thường. Lúc bấy giờ người trên tầu nghĩ những người đang ngồi thuyền máy, bắn súng đuổi theo là Việt Cộng. Bố tôi giữ súng và giữ cả thẻ quân nhân ghi cấp bậc trung tá là quyết chống cự địch, nhưng buộc tôi không được liều mạng như ông.

Cuộc rượt đuổi kéo dài cũng cả mươi phút. Tuy nhiên, mọi người thở phào khi những thuyền máy đến gần. Đó không phải Việt Cộng mà là những người lính Việt Nam Cộng Hoà muốn được lên tầu Đông Hải vì biết những thuyền nhỏ của họ không thể ra biển. Tầu Đông Hải đi chậm lại để những người lính này trèo thang ở mạn tầu lên boong.

Ra Khơi: Những Ngày Đói Khát 

Khoảng 5 giờ chiều hôm ấy, tầu Đông Hải vượt qua Vũng Tầu và hướng đến hải phận quốc tế. Mọi người cùng bùi ngùi nhìn về thành phố Vũng Tầu xa dần, xa dần trong tầm mắt, “đoái trông muôn dặm tử phần, hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Truyện Kiều). Lúc đó, cũng như tôi, những người trên tầu nghĩ không bao giờ có thể trở về thăm quê hương, gặp lại người thân yêu, và tương lai thì đầy bất trắc.

Ra đến hải phận quốc tế, chúng tôi trông thấy rất nhiều thuyền nhỏ chung quanh. Mặt trời xuống dần rồi chìm vào lòng biển. Tầu Đông Hải ngưng chạy và bồng bềnh trên sóng nước suốt đêm. Thủy thủ đoàn đã neo tầu lại bằng neo khác vì một giây neo đã bị chặt đứt khi tầu khởi hành. Trong thời gian tầu được neo, nhiều thuyền nhỏ, trong đó có những thuyền đánh cá, cập vào để xin phép lên tầu và họ đều được chấp thuận.

Đêm xuống, tôi đứng tựa người vào thành tầu nhìn ra ngoài. Biển đêm thật đẹp. Ảnh trăng hạ huyền vẽ một đường lấp lánh trên mặt sóng lăn tăn, từ hướng mặt trăng ở chốn xa xăm chạy dài đến con tầu như chia đôi mặt biển. Tôi đã mang ơn đất và hôm nay tôi mang ơn biển. Trong một trận chiến năm xưa, khi đang nằm bẹp dí trên mặt đất thì một quả đạn pháo rơi cách tôi chỉ dăm thước. Tôi không hề hấn gì vì đất che chở tôi. Hôm nay biển cưu mang chúng tôi, đưa chúng tôi thoát khỏi địa ngục của trần thế.

Biển cả bao la trước mặt tôi, bầu trời sao khuya lấp lánh trên đầu tôi, không khí chúng ta đang thở, sinh vật dưới biển, chim chóc trên trời, các động vật trên mặt đất, núi, rừng, ngày, đêm, cỏ, cây, hoa, lá, và loài người là những tác phẩm tuyệt diệu chỉ có thể hoàn thành bởi bàn tay Thượng Đế. Tôi tự hỏi tại sao với quyền uy và phép mầu như vậy, sau khi dựng nên con người, Ngài lại để cho bao cảnh bi thảm, bao mối thương tâm xẩy ra trong lịch sử nhân loại. Loạn lạc, thiên tai, chiến tranh, kế cả những cuộc thánh chiến mà cả hai phe cùng nhân danh Ngài, thời nào cũng có. Có chiến tranh thì có hằng hà sa số cảnh người giết hại người, cha mất con, vợ mất chồng, những kiếp người lầm than, những mảnh đời khốn khổ. Phải chăng vì vậy mà Friedrich Nietzsche, triết gia nổi tiếng người Đức trong thế kỷ 19, từng tuyên bố “Thượng Đế đã chết” để ám chỉ (vì một lý do nào đó) Thượng Đế đã quay mặt không đếm xỉa đến loài người sau khi tạo ra sinh vật có thể gọi là tác phẩm vĩ đại nhất của Ngài? Có lẽ vì chịu ảnh hưởng của Nietzsche, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã mở đầu ca khúc Này Em Có Nhớ của ông với câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này em xin cứ phụ người.”

Sau khi đứng ngắm biển đêm một lúc, tôi tìm một chỗ trên sàn tầu lúc nhúc những người là người để nằm dỗ giấc ngủ. Nằm ngửa mặt nhìn bầu trời khuya chi chít những vì sao lấp lánh, tôi nhớ đến những khuôn mặt thân quen, họ hàng có, bạn hữu có, mà lúc ấy mình nghĩ đã vĩnh viễn rời xa. Nổi bật trong số này là hai đứa bạn gắn bó với tôi từ những ngày thơ ấu và có với nhau rất nhiều kỷ niệm, cùng một cô bạn khả ái người Huế có thể gọi là tâm giao nhưng chúng tôi chưa bao giờ vượt quá ranh giới của tình bạn. Tưởng tượng nét mặt bần thần của họ khi đến nhà tôi hôm nay hay ngày mai, bấm chuông không ai mở cửa mà thấy xót lòng. Tôi vui mừng vì đã thoát được Cộng sản nhưng buồn rầu, đau đớn vì những ly tan, cùng những mơ ước, những kế hoạch cho đời đã tan thành mây khói. Bao nỗi vui buồn va vào nhau, xô đẩy nhau trong tôi khiến tôi không ngủ được mặc dầu vừa trải qua đêm thức trắng. Lúc ấy, tôi chưa biết được thời gian rồi sẽ là liều thuốc chữa lành vết thương dù để lại trong ta những đường, ngấn sẹo suốt đời.

Một gia đình Công Giáo gần chỗ tôi nằm cất tiếng đọc kinh. Vài người chung quanh phụ họa. Khi hoang mang, lo lắng, trẻ con cậy đến cha mẹ còn cha mẹ cậy đến Chúa, Phật. Con người, khi đã trưởng thành, thường gần Phật hay Chúa nhất trong lúc nguy nan, gần đến nỗi có cảm tưởng mình cố vươn tay cao thêm một chút là có thể chạm đến trái tim từ ái của các ngài. Kể từ khi con người tin vào Thượng Đế hay Đấng Chí Tôn theo cách riêng của từng tôn giáo, họ đã cậy đến Ngài trong cơn nguy khốn. Ngài có lắng nghe những lời cầu xin của đàn con không, tôi không biết. Tuy nhiên tôi biết chắc một điều rằng Ngài không bị thiệt thòi. Nếu kẻ cầu xin rốt cục được tai qua nạn khỏi, họ tin đã được Ngài phù hộ. Trong trường hợp ngược lại, họ chép miệng thở dài “cái số mình như vậy” và vẫn một mực yêu mến, thờ kính, tin tưởng nơi Ngài. Thôi thì cứ mơ mộng, cứ cầu xin, đáp ứng hay không là việc riêng của Ngài. Dù sao, sự tin tưởng là điều cứu rỗi trong lúc ấy và chẳng thiệt thòi gì khi mình có một niềm tin. Ít ra nó cũng mang đến cho mình hy vọng.

Nhưng rồi, quá mệt mỏi, cuối cùng tôi cũng chợp mắt được khi giấc mơ về một ngày mai tươi sáng vẫn còn dang dở.

Tờ mờ sớm hôm sau, tiếng léo nhéo của những người chung quanh đánh thức tôi. Vừa ngồi dậy, tôi cảm thấy lưng áo mình ướt đẫm. Sờ tay vào sàn tầu, tôi thấy râm rấp nước. Chẳng lẽ mình ngủ say đến độ mưa xuống mà không biết. Sinh nghi, tôi đưa tay lên mũi ngửi thì rõ ràng là nước tiểu. Hàng ngàn người chen chúc trên sàn tầu mà không có một nhà vệ sinh nào trong tầm mắt thì tiểu tại chỗ, nhất là các em nhỏ, là chuyện thường. Đành tự an ủi trong cái rủi có cái may, người ta không đại tiện ra sàn tầu gần chỗ mình nằm là tốt rồi. 

Tôi nhặt chiếc túi đặt dưới sàn tầu đựng hai bộ quần áo mang theo định lấy một chiếc áo ra thay thì mới hay lớp vải chiếc túi cũng đẫm nước. Thôi thì cứ như vậy mà lạy trời mưa xuống.

Tầu Đông Hải nổ máy, chuyển minh rồi lầm lũi trôi đi trên mặt nước biếc xanh như ngọc. Nếu gạt bỏ được những xao động trong tâm tư, chắc những người trên tầu sẽ chứng kiến được vẻ đẹp tuyệt vời của biển Đông trong buổi bình minh sóng lặng như sáng hôm ấy, ngày 1 tháng 5 năm 1975. Chẳng ai ngờ, chỉ vài năm sau cũng chính biến Đông này đã nổi cơn thịnh nộ nuốt chìm hàng chục ngàn, có lẽ đúng hơn là hàng trăm ngàn thuyền nhân phải bỏ nước ra đi như chúng tôi ngày hôm ấy.

Xa xa, trong màn sương sớm, thấp thoáng một chiếc tầu trông giống chiến hạm. Tiến đến gần, chúng tôi thấy đó là một chiến hạm Hoa Kỳ với những người Việt tỵ nạn lố nhố đứng trên boong nhìn về tầu chúng tôi. Thủy thủ đoàn trên tầu Đông Hải quyết định cập vào chiến hạm Mỹ để xin họ cho những người trên tầu sang vì Đông Hải không có đủ thực phẩm cho số người trên tầu. Một trực thăng từ chiến hạm bay lên để quan sát số người đứng chật kín trên boong tầu. Loa phóng thanh trên chiến hạm phát ra những lời bằng Anh ngữ rồi ngay sau đó một người trên chiến hạm dịch sang Việt ngữ là trên tầu họ đã đầy người, không còn chỗ để chứa thêm; tầu chúng tôi phải tránh xa để giữ an toàn. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn Đông Hải vẫn lái tầu cập vào chiến hạm. Ngay lập tức một tràng đạn đại liên từ chiến hạm nổ chát chúa và chúng tôi nghe tiếng đạn bay cao veo véo trên tầu. Rõ ràng họ không muốn cho chúng tôi đến gần và bắn chỉ thiên cảnh cáo chúng tôi. 

Tôi không biết ai là trưởng tầu trên tầu Đông Hải, nhưng những người đang nắm vận mạng con tầu quyết định đưa tầu đi Tân Gia Ba. Với sự trợ giúp của một số thanh niên, các thủy thủ dựng được hai chòi vệ sinh bằng các thanh gỗ có bạt che gắn vào mạn trước của tầu, bên trái dành cho nam, bên phải dành cho nữ. Thế là giải quyết được nhu cầu cho những người di tản mà đến lúc ấy tôi mới biết có cả 2.000 người. Tôi cũng nghe một người trong thủy thủ đoàn kể rằng không có gia đình chủ tầu trong số người tỵ nạn. Sáng hôm trước, khi tầu neo trên bến Bạch Đằng, ông chủ tầu về nhà để đón vợ con. Lúc Việt Cộng pháo kích vào bến, một số quân nhân đã lên sẵn tầu, trong đó có nhiều người lính Hải quân, chặt giây neo và lái tầu đi. Cuộc đời có lắm oái oăm, chủ tầu bị bỏ lại, những người ông không hề quen biết dùng tầu ông tự do ra đi. Xin tạ ơn ông và mong ơn Trên bù lại cho ông công lao đã làm chủ một chiếc tầu đưa 2.000 người đến miền đất hứa.

Cũng đến lúc ấy, tôi mới biết gần giữa tầu có một chiếc thang đứng dẫn xuống khoang dùng để chứa hàng hoá nơi đang có chắc cũng phải bẩy hay tám trăm người la liệt đứng, ngồi, nằm. Để tránh nắng, mẹ tôi đưa các em nhỏ vào khoang. Và rồi, chúng tôi bắt đầu những ngày đói khát. Số bếp trên tầu chắc được thiết kế để đủ dùng cho một thủy thủ đoàn khoảng 30 người nên dĩ nhiên quá thiếu để phục vụ cho 2.000 người. Vì vậy, mỗi người chỉ được chia khoảng 5 thìa cơm trắng và 5 thìa nước hằng ngày. Xin nói cho rõ là thìa ở đây là cái muỗng cà phê. Điều may mắn là trên tầu có sẵn vài bao sữa bột nên các em nhỏ còn uống sữa hay bú chai được phát vài thìa sữa bột và khoảng nửa cốc nước; dĩ nhiên là nước lạnh chứ không phải nước nóng. 

Hai ngày sau, tầu Đông Hải vào hải phận Tân Gia Ba. Một chiến hạm hải quân của đảo quốc này hướng dẫn tầu đến bỏ neo trong vùng vịnh, xa xa là thành phố với những tòa building chọc trời. Mọi người phải chịu đựng cơn đói khát trong nhiều ngày nữa. Có lần trông thấy một gia đình bên cạnh lấy gói mì mang theo ra ăn sống vì không có nước và bỏ lại những túi bột gia vị mặn chát, cô em 12 tuổi của tôi xin họ rồi bóc những túi này ra chia cho ba em 9, 7, và 5 tuổi liếm cho đỡ thèm. Trên tầu, tôi gặp người bạn cùng khóa Đốc sự trường QGHC là anh Nguyễn Tử Nha, một sinh viên gốc quân nhân như tôi. Anh vốn là đại úy phục vụ tại Nha Kỹ Thuật trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, đơn vị hoạt động biệt kích thu thập tin tức tình báo để nhận biết hoạt động của địch. Anh có biệt tài châm cứu và tôi đã nhiều lần chứng kiến anh châm cứu bệnh nhân ngay trong khuôn viên Học Viện QGHC khi họ đến trường nhờ anh chữa bệnh. Khi di tản, anh xách theo túi kim và dụng cụ châm cứu. Anh đề nghị tôi để anh châm cứu cho cảm thấy đỡ đói. Tôi không tin tưởng lắm ở châm cứu nhưng đói quá hóa liều, đành nằm dài trên sàn tầu để anh cắm kim vào người. Thế mà sau đó tôi cảm thấy đỡ đói thật.

Mọi người trên tầu tiếp tục chịu đói thêm vài ngày, cho đến khi chúng tôi được nhà cầm quyền Tân Gia Ba tiếp tế lương thực bằng cách cho một tầu nhỏ đến sát tầu Đông Hải, ném những ổ bánh mì lên cho đám đông trên tầu giành giật. Những ổ bánh này có kích thước tương đương những ổ bán trong các siêu thị ở Mỹ nhưng không xẻ sẵn ra từng lát mỏng. Tham gia vào cuộc giành giật này cùng với các trai tráng trên tầu, tôi chụp được hai ổ. Khi bước về chỗ gia đình đang trú ngụ, trông thấy cô gái cho mượn áo len, tôi bẻ nửa ổ tặng ba chị em cô.

Hôm ấy, lúc chia phần bánh mì cho các em, tôi hả hê với cảm tưởng mình như một anh hùng khi trông thấy ánh mắt mừng vui của chúng. Tuy nhiên về sau, trưởng thành hơn, tôi thấy hỗ thẹn khi nhớ đến hành vi của mình tả xung hữu đột, chen lấn trong đám đông, xô nhau, đẩy nhau để chộp bắt những ổ bánh mì đang rơi xuống. Mình phải nhẩy cao hơn họ, phải vươn tay cao hơn họ. Trong nỗi hỗ thẹn, tôi lòng trấn an lòng rằng mình hành động như vậy để mang lợi ích cho thân nhân. Nhưng rồi tôi tự hỏi nếu chỉ có mình tôi trên chuyến tầu ấy, sau vài ngày nhịn đói, tôi có đủ dũng khí để làm kẻ bàng quan trong khi mình đủ sức tham gia cuộc giành giật ấy không? Rồi tôi buồn rầu vì tự hiểu chắc mình cũng không làm khác được. Thôi thì phải cậy đến câu nói của nhà hiền triết Plato để lòng còn thanh thản: “Trong mỗi chúng ta, ngay cả những người ôn hòa, chừng mực nhất, đều có một thứ ham muốn tồi tệ, hoang dã, và vô luật pháp.”

Khoảng 10 ngày sau khi tầu đến Tân Gia Ba, hải quân của đảo quốc này mang sà lan đến để chuyển hơn một nửa số người trên tầu Đông Hải sang những tầu buôn Việt Nam khác còn trống chỗ cũng đang neo trong vịnh và chỉ đường đến Subic Bay, một vịnh trên biển Đông thuộc lãnh thổ Phi Luật Tân và là căn cứ của Hải Quân Hoa Kỳ, nơi đang đón tiếp người tỵ nạn Việt Nam. Gia đình chúng tôi được chuyển lên tầu Long Hồ với số người trên tầu khoảng 700. Chính quyền Tân Gia Ba tiếp tế gạo, bánh mì, và thực phẩm đóng hộp cho chúng tôi đủ dùng trong hành trình. Thế là chấm dứt chuỗi ngày đói khát.

Từ lúc gia đình chúng tôi được chuyển sang tầu Long Hồ, tôi không gặp lại cô gái cho mượn áo len. Cô và hai em còn ở tầu Đông Hải. Về sau, tôi được biết tầu này đã từ Tân Gia Ba đến thẳng Guam, một hòn đảo thuộc Hoa Kỳ, ở phía tây của Thái Bình Dương, nơi từng đón tiếp cả trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi họ được chuyển đến các trại tạm trú trên lục địa Hoa Kỳ.

Khi đến trại tạm cư trên đất Mỹ, một cô em tôi nhắc lại chuyện cô gái cho tôi mượn áo và bảo tôi đừng tưởng bở mà mộng mơ, có khi chiếc áo cô cho tôi mượn là của mẹ cô. Cô em khác hỏi đùa tôi sao anh hùng không bắt chước Từ Hải xưa mà cưu mang giai nhân. Tôi chưa kịp trả lời thì mẹ tôi đã phang cho câu thành ngữ “Ốc không mang nổi mình ốc, lại còn đòi mang cọc cho rêu.” Tôi vẫn tiếc đã quên hỏi tên cô hay đã hỏi mà giờ không nhớ. Thậm chí, bây giờ tôi không thể hình dung ra gương mặt cô mà chỉ nhớ cô có dung nhan phảng phất câu thơ của Trần Dạ Từ: “em mười sáu tuổi, trăng mười sáu.” Trong nỗi hoang mang, lo âu cho sự sống còn, không những cho mình mà còn cho cả gia đình, sự quên lãng này là điều đáng được tha thứ. Cầu mong cho cô và các em hạnh phúc, thành công trên xứ người trong nửa thế kỷ qua, và đã được đoàn tụ với bà mẹ.

Các Trại Tạm Trú Dành Cho Người Di Tản

Ba tuần sau khi rời Sài Gòn, chúng tôi đến Subic Bay vào một buổi tối. Hải quân Hoa Kỳ đưa sà lan ra đón nửa số người trên tầu Long Hồ vào tạm trú tại căn cứ này, trong đó có gia đình tôi. Đứng trên sà lan, bố tôi thả khẩu Colt 45 xuống biển. Tôi được biết người Mỹ cung cấp thêm lương thực cho những người còn lại trên tầu Long Hồ và chỉ đường cho thủy thủ đoàn lái tầu đến Guam.

Chúng tôi ở Subic Bay dễ chừng cả tháng, ngày ba buổi xếp hàng ở nhà ăn nhận phần ăn sáng, trưa, chiều. Gia đình tôi đông người và có nhiều trẻ em nên được tạm trú tại một phòng của khách sạn hai tầng độc nhất trên đảo, nơi trước đây dành cho các các quân nhân Hoa Kỳ nghỉ phép ngắn hạn, trong khi đa số người tỵ nạn ở các lều vải với ghế bố. Chỉ vài ngày sau, tôi được những người tạm trú trong khách sạn bầu làm trưởng khu vì người tiền nhiệm lên chuyến bay sang Guam, Nhiệm vụ chính của trưởng khu là cắt cử những người dọn dẹp vệ sinh tại khách sạn và đặc biệt là cùng với những nhóm khác, luân phiên làm công tác đổ thùng trong những nhà vệ sinh dã chiến do các quân nhân Hoa Kỳ dựng tạm cho người tỵ nạn trên đảo, một công tác khá nặng nhọc chỉ dành cho những thanh niên và trung niên phái nam. Dĩ nhiên, tôi phải có mặt cùng với những người trong nhóm mình. Đến cuối tháng Năm, tôi lại được chỉ định làm trưởng ban văn nghệ cho buổi tiệc cảm ơn những quân nhân Hoa Kỳ phục vụ giúp người tỵ nạn. Thật ra, người giữ trách nhiệm trưởng ban là nghệ sĩ La Thoại Tân. Tuy nhiên, khoảng hai tuần trước buổi tiệc, ông cùng gia đình có tên trong danh sách những người sang Guam nên tôi được chỉ định thay thế. Buổi tiệc được tổ chức tại nhà ăn trong một chiếc lều thật lớn có bàn ghế đủ cho khoảng 500 người với sự hiện diện của hầu hết những người lính Hải quân Mỹ trên đảo. Điều lý thú là buổi tiệc dành để cảm ơn họ nhưng âm thanh, ánh sáng, nhạc cụ, và cả thức ăn đều do họ cung cấp.

Vào đầu hạ tuần tháng Sáu, chúng tôi được chuyển sang căn cứ không quân Clark của Hoa Kỳ cách Subic Bay khoảng 80 cây số để lên một vận tải cơ bay đến Guam. Gia đình tôi chỉ ở Guam gần ba tuần trước khi đáp chuyến bay của hãng hàng không Pan Am do chính quyền thuê để đến thành phố Fort Smith thuộc tiểu bang Arkansas. Từ phi trường Fort Smith, chúng tôi lên chuyến xe bus đến Fort Chaffee, một trong năm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được dùng làm nơi tạm trú cho người Việt tỵ nạn sau biến cố tháng Tư năm 1975. Fort Chaffee là một trại huấn luyện khá lớn của Lục Quân Hoa Kỳ với vài trăm dẫy nhà gỗ (barracks) đã đón tiếp khoảng 50.000 người Việt tỵ nạn trong năm 1975. 

Gia đình chúng tôi đến Fort Chaffee ngày 12 tháng 7, khi trại đang có rất đông người tỵ nạn đến trước. Tại đây, ông chú thiếu tá tình báo của chúng tôi đoàn tụ với vợ con đã được Hoa Kỳ cho di tản khỏi Việt Nam từ trung tuần tháng Tư như đã kề. Cuối tháng 8, tôi và cô em kế được học bổng của một trường đại học ở tiểu bang Oklahoma và rời trại đến trường để học nội trú. Khoảng 3 tuần sau, bố mẹ tôi và 6 người em được Northwoods Presbyterian Church, thuộc Giáo Hội Trưởng Lão có nguồn gốc từ Tô Cách Lan, ở Houston bảo lãnh. Cô em đã lập gia đình sang định cư ở Hoa Thịnh Đốn, tức Washington D.C. Mùa hè năm 1976, sau một năm học ở Oklahoma, tôi và cô em kế chuyển trường về Houston, tiểu bang Texas để sống chung với gia đình.

Hình gia đình tác giả với bố mẹ và 8 người con tại trại Fort Chaffee trong hồ sơ xin bảo lãnh.

Định cư tại xứ người, chúng tôi có cuộc sống gọi là tốt đẹp trong nửa thế kỷ qua. Tôi và các em lần lượt tốt nghiệp đại học, rồi đi làm, lập gia đình, sinh con đẻ cái. Chín anh chị em chúng tôi trên tầu Đông Hải ngày nào bây giờ trở thành một đại gia đình với hơn 60 người kể cả dâu rể. 

Chuyến di tản của gia đình tôi tuy gọi là cam go nhưng khi ra đến hải phận quốc tế, dù phải chịu đựng vài ngày đói khát, mọi người vẫn quá may mắn so với những đồng hương vượt biển tìm tự do vài năm sau đó. Chúng tôi ở trên một con tầu lớn trong những tuần lễ biển lặng, sóng êm chứ không phải ngồi chen chúc trên những tầu thuyền nhỏ bé mong manh giữa sóng to gió lớn, và không phải lo lắng về tệ trạng hải tặc. Chuyến đi của chúng tôi cam go ở nghĩa mình không làm chủ được vận mạng mình, những tính toán trước khi ra đi đã không thành sự thật. Thoát đi được là cả một đất trời may mắn.

Nửa thế kỷ trước, chúng tôi chỉ mong thoát khỏi Việt Nam mà không thể biết mình sẽ đến đâu, ở đâu, mưu sinh như thế nào. Những người tỵ nạn Việt Nam đầu tiên vào Hoa Kỳ được phân phối rải rác đến 50 tiểu bang, sống gần hoặc sống chung với người bảo trợ. Chúng tôi phải tìm hiểu, tự mầy mò để bắt đầu cuộc đời mới trên xứ người. Kinh nghiệm để sống còn, để tiến thân là kinh nghiệm từ chính những thất bại của mình chứ không thể học hỏi từ người đi trước, vì làm gì có người đi trước.

Quê Hương Ở Đâu?

Tháng 11 năm 2013, sau hơn 38 năm định cư tại Hoa Kỳ, tôi và nhà tôi về Việt Nam lần đầu để thăm người chị ruột nhà tôi đang bị ốm nặng. Khi máy bay chuẩn bị đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, lòng tôi vừa bồi hồi, vừa bùi ngùi, vừa xao xuyến, lại vừa cảm động. Nước mắt tôi ứa ra, quả tim tôi đập mạnh. Hình như có giai điệu của ca khúc Chiều do Dương Thiệu Tước phổ từ một bài thơ của Hồ Dzếnh đang réo rắt trong tôi: “trên đường về nhớ đầy, chiều chậm rơi chân ngày, tiếng buồn vang trong mây…”

Ấy vậy mà hơn hai tuần thăm viếng vài nơi từ Sài Gòn ra Hà Nội, tôi không có cái cảm xúc “về với quê hương” như mình hằng tưởng tượng, ngay cả khi đứng trước căn nhà cũ ở cư xá Bắc Hải, nơi tôi lớn lên với rất nhiều kỷ niệm, và một chung cư nhếch nhác ở Hà Nội mà trước năm 1954 là nhà bảo sanh Hồ Thị Mão, nơi tôi được sinh ra đời. Những người chiếm nhà chúng tôi đã chia nhà thành hai căn và xây thêm phòng ở nơi vốn là vườn trước. Tôi không thể nhận ra dấu tích quen thuộc nào của căn nhà yêu dấu cũ và những con đường cư xá năm xưa.

Rốt cục, trong chuyến đi hơn 11 năm trước, tôi đã đến thăm vài thành phố ở Việt Nam với con mắt của một khách du lịch. Lúc bấy giờ, tôi ước ao phải chi mình mang tâm trạng của một kẻ xa quê bao năm trời vừa trở về, như người về lại nhà sau chuyến du sơn du thủy nhiều nơi trong bài đọc “Chốn quê hương đẹp hơn cả” của Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà tôi đã học từ tấm bé. Tôi chợt thấy buồn rầu trong ý nghĩ hay là tôi đã mất quê hương?

Ngày hôm ấy, tôi bần thần suy nghĩ quê hương tôi ở đâu? Ở vùng Bắc Ninh, nơi mồ mả tổ tiên tôi đang yên nghỉ; ở Hà Nội, nơi tôi cất tiếng khóc chào đời và là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi; ở Sài Gòn, mảnh đất tôi khôn lớn, lưu giữ biết bao kỷ niệm cho tôi suốt 20 năm trời; hay là ở thành phố Houston trên xứ người, nơi bố, mẹ, vợ, và các em tôi sinh sống suốt nửa thế kỷ qua, nơi chúng tôi đang có bốn con trai và sẽ có những đứa cháu được sinh ra đời? Vâng, có người quả quyết rằng quê hương đích thực chính là nơi có sự hiện diện của người thân yêu, nơi ta nhung nhớ mỗi khi đi xa, và rộn rã niềm vui trên đường trở lại.

Dĩ nhiên, tổ quốc cùa tôi thì muôn đời vẫn là Việt Nam; nhưng câu hỏi về “quê hương” khiến tôi không khỏi quặn lòng. Trong lần thăm Việt Nam năm ấy, ngoài những đổi thay về khung cảnh mà ở bất cứ xã hội nào cũng có sau chiều dài gần bốn thập niên, tôi nhận rõ rằng ở những nơi mà trước chuyến đi tôi vẫn nghĩ là quê hương mình đã không còn những phong tục, tập quán, nếp sống, và cả thứ ngôn ngữ tôi từng quen thuộc. Lúc ấy, tôi nghĩ tôi đã có cùng tâm trạng với Bà Huyện Thanh Quan thuở trước, khi bà từ kinh đô nhà Nguyễn trở về thăm lại cố đô của nhà Lê và viết nên bài thơ bất hủ “Thăng Long Thành Hoài Cổ” với hai câu kết “nghìn năm gương cũ soi kim cổ, cảnh đấy người đây luống đoạn trường.” Thật buồn thay!

Ngẫu Nhiên Hay Số Mệnh?

Ngày còn trong lứa tuổi thanh niên “mộng vói tay cao hơn trời,” tôi nghĩ mình làm chủ vận mệnh của chính mình. Trước khi biến cố 30 tháng Tư ập đến, tôi đã từng nhiều lần phát ngôn với lòng tự tin của tuổi trẻ rằng nếu số mệnh cho mình một quả chanh chua, hãy vắt nó thành ly nước chanh ngon ngọt, cho mình và cho người chung quanh. Câu này dựa trên một giả thuyết chủ quan lắm khi không tồn tại là mình được số mệnh trao quả chanh kèm theo gói đường. Lỡ số mệnh cho thêm gói muối chứ không phải gói đường thì làm gì có nước chanh ngon ngọt mà thưởng thức? 

Hôm nay, chân đã bước qua cột mốc “thất thập nhi tòng tâm sở dục” như lời cụ Khổng dậy khi cụ khoảng tuổi tôi bây giờ, tôi tin rằng cuộc đời mỗi người sinh ra đã được dành sẵn một số phận mà mình không cưỡng lại được. Nhìn lại chuyến vượt thoát khỏi bàn tay Cộng sản vào ngày 30 tháng Tư năm ấy, với những biến chuyển nối tiếp nhau như đã được một bàn tay vô hình sắp xếp, tôi tin rằng định mệnh đã an bài sẵn cho chúng tôi thoát khỏi bàn tay bạo tàn của Cộng sản, trước khi chúng tôi bàn đến chuyện ra đi.

Nghĩ lại, tôi thấy nếu thiếu một chữ “nếu” trong những trường hợp dưới đây, gia đình chúng tôi đã không đi thoát trong ngày lịch sử 30 tháng Tư năm ấy.

– Nếu tôi không thi đậu vào Học Viện QGHC thì vào sáng 30 tháng Tư, giả thử còn sống sót trong trận chiến cuối, có lẽ tôi cũng bị bắt làm tù binh như những đồng đội ở sư đoàn 25. Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, vị tư lệnh sư đoàn, cũng bị Cộng quân bắt tại Củ Chi hôm ấy. Bố mẹ tôi sẽ không ra đi nếu thiếu một người con.

– Mẹ tôi có một xưởng cưa ở Ban Mê Thuột từ năm 1971 và cho một người thuê để khai thác. Ông này không trả tiền thuê trong suốt 6 tháng liên tục nên đầu tháng Ba năm 1975, mẹ tôi quyết định đến thành phố này nhờ thừa phát lại lập vi bằng tại xưởng và đóng xưởng cho đến khi họ thanh toán số tiền đang thiếu. Bà đã mua vé máy bay từ Sài Gòn đến Ban Mê Thuột ngày 9 tháng Ba. Tuy nhiên, sau khi bà mua vé, người Tầu đang thuê phòng nhà tôi để làm nhà in như đã trình bầy ở trên muốn thay thế các máy đang có bằng những máy tốt hơn, in đẹp hơn và nhanh hơn. Ông đề nghị mẹ tôi góp vốn để làm chủ một nửa nhà in. Mẹ tôi đồng ý nên hoãn chuyến đi Ban Mê Thuột một tuần để lo liệu giấy tờ liên quan đến nhà in. Nếu bà không mua một nửa nhà in thì sẽ đến Ban Mê Thuột ngày 9 và bị kẹt lại thành phố này vì hôm sau Cộng quân tấn công và rồi chiếm thành phố. Bà bị kẹt ở Ban Mê Thuột thì gia đình tôi, không ai nghĩ đến chuyện tìm đường ra khỏi nước.

– Sáng 30 tháng Tư, bố tôi đã chọn lộ trình đến phi trường qua Ngã Ba Ông Tạ. Nếu trước khi rời nhà, ông không nhận được điện thoại từ người bạn cho biết ngã ba này đã bị Việt Cộng chiếm mà vẫn theo lộ trình đã sắp xếp thì nếu vẫn an toàn, chúng tôi khó thể thoát ra khỏi khu vực này.

– Tương tự, nếu không có những người lính Biệt Cách Dù gác cầu Trương Minh Giảng cho chúng tôi biết phi trường đã rơi vào tay Cộng Quân thì gia đình không còn cơ hội đến bến Bạch Đằng để lên tầu Đông Hải.

– Nếu không có trung đội Nhẩy Dù đến bố trí ở chỗ chiếc xe gia đình tôi đang đậu thì chắc tôi phải tìm người nào đó nhờ trông xe để lên tầu gọi gia đình về. Việt Cộng không pháo kích vào bến, tầu Đông Hải chưa khởi hành còn chúng tôi đã lên xe về nhà.

– Nếu Việt Cộng pháo kích sớm hơn dăm bẩy phút lúc tôi còn trông xe, tầu Đông Hải sẽ khởi hành với gia đình tôi đang ở trên boong. Một mình tôi bị bỏ lại trên bến.

– Nếu họ pháo kích chậm hơn đôi ba phút, hoặc nếu ông chú tôi đứng gần chúng tôi lúc trên tầu để tôi không phải tốn vài phút tìm ông chào giã biệt, thì cả gia đình tôi đã rời tầu xuống bến, và tầu khởi hành không có chúng tôi. Trường hợp tệ hơn là vừa đi bộ đến xe hoặc vừa vào trong xe thì Việt Cộng pháo kích. Có thể vài người trong gia đình bị thương hoặc thiệt mạng vì mảnh đạn.

Vâng, quả thế, nhớ đến cuộc di tản cam go cuối tháng Tư năm ấy, thiếu một trong những chữ “nếu” nêu trên thì gia đình chúng tôi không đi thoát. Bố tôi, chú tôi, và tôi đã bị hành hạ trong cái gọi là trại cải tạo suốt nhiều năm ròng rã. Riêng bố tôi, với bản tính ương ngạnh “uy vũ bất năng khuất” và lòng căm thù Cộng sản, chắc khó có thể sống sót trong hoàn cảnh bị tù đầy. Mẹ tôi trở thành nạn nhân trong chiến dịch đánh tư sản. Gia đình tôi trắng tay sau hai đợt đổi tiền. Các em tôi rồi lêu bêu, phải bỏ học vì lý lịch để bươn chải kiếm miếng ăn tại những chốn rừng thiêng nước độc có tên mỹ miều là Vùng Kinh Tế Mới. Những cái người khác gọi là “ngẫu nhiên” xẩy ra cho gia đình tôi trong buổi sáng 30 tháng Tư như sự sắp xếp của bàn tay định mệnh để thành những mảnh ghép của con đường dẫn gia đình tôi đến bến bờ tự do. Ắt hẳn mỗi người đã mang sẵn một số mệnh khi vừa được sinh ra đời theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” (một hớp uống một miếng ăn cũng là việc được định trước) như lời cụ Mạnh Tử quả quyết?

Thời mới lớn, tôi được dậy cha đẻ của trách nhiệm là đức hạnh và lòng tự trọng. Trách nhiệm được ca tụng và được trao phần thưởng trong các sách giáo khoa và tiểu thuyết nhưng trên thực tế, trong nhiều hoàn cảnh, người chu toàn trách nhiệm là những người chịu thiệt thòi. Điển hình là những chiến sĩ VNCH tôi gặp sáng ngày 30 tháng Tư năm ấy: những người lính Hải quân đứng gác bộ chỉ huy dù họ biết rõ rằng cấp chỉ huy và những chiến hạm đã ra đi trong đêm, toán Biệt Cách Dù gác cầu Trương Minh Giảng để ngăn Cộng quân tiến vào trung tâm thủ đô, và trung đội Nhẩy Dù ở bến Bạch Đằng đã thức suốt đêm chong mắt quần thảo với địch dù đang trong hoàn cảnh thiếu thốn đạn dược. Họ và những người lính VNCH khác đã can trường bảo vệ thành phố trong những ngày cuối của cuộc chiến. Nhờ vậy mà hàng chục ngàn đồng bào có đủ thời giờ để vượt thoát được cái nhà tù vĩ đại đang mở rộng cửa để nuốt trọn khối người dân miền Nam, trong đó có gia đình tôi. Tôi suốt đời mang ơn các anh!

Khi ở trại tạm trú Fort Chaffee, tôi quen một thiếu tá binh chủng Nhẩy Dù, chỉ hơn tôi khoảng mươi tuổi. Anh là một người lính tác chiến, đã bao phen vào sinh ra tử trong chiến trận. Đêm 29 tháng Tư, anh đưa được gia đình nhỏ bé của anh gồm vợ và ba con nhỏ lên một chiến hạm Hải quân rời bến Bạch Đằng. Một buổi tối, anh rủ tôi đi uống bia ở Hitching Post, quán bia vốn dành cho quân nhân Mỹ trong trại nay được trưng dụng làm nơi tiếp đón người tỵ nạn. Anh bảo uống một bữa để mừng ngày sắp được hôn lên bàn chân tuyệt trần của Nữ thần Tự Do. Đó là lần đầu trong hơn hai tháng tôi lại được thưởng thức chất men của thứ nước mà lắm người quả quyết là phát minh vĩ đại nhất của loài người sau lửa. Chất men, dù nhẹ như men bia, làm người ta cởi mở với nhau hơn. Trong câu chuyện trao đổi, tôi kể anh nghe chuyện những người lính can trường đã chu toàn trách nhiệm mà tôi gặp trong những giờ phút cuối của cuộc chiến.

– Cậu phải hiểu có nhiều thứ trách nhiệm. Anh trầm ngâm một chốc rồi thở dài nói tiếp. “Trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, với tập thể, với xã hội, và với đất nước. Ngày 29, khi biết tình hình không thể cứu vãn, tôi phải có trách nhiệm đối với bản thân để không bị bỏ mạng hay sa vào tay địch. Tôi phải có trách nhiệm đối với gia đình để đưa vợ con đến bến bờ tự do. Ông cụ của cậu cũng thế thôi. Tôi có ba đứa nhỏ còn ông cụ cậu có 9 người con. Trách nhiệm của ông còn to lớn hơn nhiều so với tôi.”

Lời anh nói khiến tôi suy nghĩ. Quả vậy, khi trưởng thành, mỗi người lắm phen phải phân vân, phải lưỡng lự cân nhắc khi đứng ở ngã ba hay ngã tư đối diện với những con đường trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng người dám chọn bước vào con đường đầy chông gai và có thể mất mạng như chơi mà tuổi tên không ai biết đến là những người cao cả và đáng trọng, như những người lính tôi đã gặp trên bước đường di tản. Mỗi lần nghĩ đến họ, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của Đằng Phương, tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy: “Họ là những anh hùng không tên tuổi, sống âm thầm trong bóng tối mông mênh, không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, nhưng can đảm và tận tình giúp nước.” Cầu mong họ vẫn lành lặn qua ngày định mệnh năm ấy. Cầu mong họ có một cuộc sống không gọi là bi thảm suốt nửa thế kỷ qua.

Vâng, nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hôm nay, cũng như bố tôi, có lẽ hầu hết những người chủ gia đình đưa được người thân yêu rời khỏi quê hương trong tháng Tư tang thương ngày ấy đã không còn trong cuộc đời này. Nghĩ mà thương bố tôi. Khi khởi đầu cuộc đời tỵ nạn, tôi là một thanh niên độc thân chưa đầy 23 tuổi và với tuổi này, không khó khăn lắm để thích nghi với xã hội mới và xây dựng tương lai. Ngày ấy, bố tôi đã 45 và từ lúc trưởng thành, ông là một người lính chuyên nghiệp, chỉ biết đánh giặc, biết làm tham mưu, dĩ nhiên là tham mưu trong cuộc chiến. Sang định cư tại xứ người, ông phải học một nghề lao động, quần quật nuôi đàn con ăn học nên người. Ông đã từ giã chúng tôi về “ngôi nhà lớn” gần ba năm trước. Những người chủ gia đình người Việt tỵ nạn năm 1975, trong đó có bố tôi, chính là những kẻ đã khai sinh ra cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ và cả tại những quốc gia Âu Mỹ khác. Cộng đồng ấy lớn mạnh đều đặn theo thời gian và đã cống hiến cho xã hội nơi họ định cư những đóng góp quan trọng trong mọi lãnh vực. Xin thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ và biết ơn những chủ gia đình thuở ấy nay đã về thế giới bên kia.

Trong cuộc đời, có lúc chúng ta phải đương đầu với những thách đố ảnh hưởng đến vận mạng. Những thách đố chúng ta chịu khuất phục để lại bóng tối trong hồi tưởng, nhưng những thách đố chúng ta vượt qua trở thành thứ ánh sáng ấm áp của ký ức, có thể soi rọi vào tâm hồn khiến bản thân thay đổi theo hướng tích cực. Hồi ức với những ngày tháng Tư năm ấy cho tôi sức mạnh để vượt qua những chướng ngại trong nửa thế kỷ qua. Nhờ mớ ký ức của tháng Tư thuở ấy, tôi đã có cái nhìn khoan dung hơn với người, với đời. Tôi nỗ lực hơn để cuộc sống mình ý nghĩa hơn.

Bài viết này được mở đầu bằng hai câu trong Truyện Kiều: “Bắt phong trần, phải phong trần; cho thanh cao mới được phần thanh cao;” Viết đến đây, tôi nhớ đến hai chữ “túc nhân” của nhà Phật, tức nhân duyên từ kiếp trước, nên xin mượn bốn câu khác cũng của Truyện Kiều để kết thúc:

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Cỗi nguồn cũng ở lòng người, 

Túc nhân âu cũng có Trời ở trong.

Nguyễn Ngọc Bảo