Tác giả bài hát KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ đã về Nhà Chúa

Thao Teresa

 Tác giả bài hát KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ đã về Nhà Chúa

Xin tạ ơn Chúa với cha Phêrô Kim Long.

Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm viết về cha Kim Long:

TIỂU SỬ LM. NS. KIM LONG…..

Lm Phêrô Nguyễn Kim Long (bút danh Kim Long) sinh ngày 9 tháng 1 năm 1941 tại Nam Định, trong gia đình Công giáo. Năm 1954, ông theo gia đình di cư vào Nam.

17 tuổi, ông đã sáng tác bài thánh ca đầu tay “Con hân hoan”, và sau đó ba năm, năm 1960, phổ nhạc lời Việt cho “Kinh Hòa Bình” – tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.

Thụ phong linh mục năm 1968, Lm Kim Long được cử đi du học tại Học viện Thánh nhạc giáo hoàng ở Roma, tốt nghiệp năm 1972 với các bằng Magistero (bình ca) và Cử nhân Thánh nhạc.

Trở về Việt Nam, ông giữ chức quản xứ Đức Hòa (Mỹ Tho) và là giảng viên thánh nhạc tại Đại học Đà Lạt, Đại học Thành Nhân và nhiều Đại chủng viện khác.

Sau 1975, ông phụ trách giảng dạy và biên soạn giáo trình âm nhạc liturgy, đồng thời giữ nhiều chức vụ cao như Phó chủ tịch Ủy ban Thánh Nhạc và Tổng thư ký Ủy ban Phụng Tự – Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Với hơn 50 năm sáng tác, Lm Kim Long đã sáng tác khoảng 3.000–3.500 bài thánh ca, là một trong bốn nhạc sĩ hàng đầu của dòng bình ca Việt Nam.

Các tác phẩm tiêu biểu như “Kinh Hòa Bình”, “Chúa không lầm”, “Con hân hoan”, và nhiều tuyển tập khổng lồ như “Ca lên đi”, “Bài ca suy niệm” đã trở thành nền tảng của thánh nhạc Việt.

Ông được đánh giá là “cây đại thụ trong nền thánh nhạc Việt Nam” với phong cách âm nhạc đơn giản, sâu lắng, dễ đi vào lòng người.

Theo thông tin mới nhất, Lm Phêrô Nguyễn Kim Long đã qua đời vào lúc 12 giờ trưa ngày 17 tháng 6 năm 2025.


 

 Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già

MC Nguyễn Ngọc Ngạn

 Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già.”

Tôi không biết từ lúc nào, bàn tay cha bắt đầu run khi cầm đôi đũa. Mẹ thì hay quên, vừa kể chuyện xong lại hỏi: “Má nói chưa con?”

Lúc đầu, tôi bật cười nhẹ. Sau đó là im lặng.

Rồi một ngày, tôi chợt thấy dáng cha đứng ở cửa… nhỏ bé đến lạ.

Và bỗng hiểu: chúng ta đang chứng kiến người từng là bức tường vững chãi nhất trong đời mình… lùi dần vào phía hoàng hôn.

Người già không cần gì nhiều.

Chỉ mong con cái bớt cao giọng.

Chỉ mong có ai ngồi cạnh, nghe họ kể chuyện cũ mười lần như mới.

Chỉ mong mỗi lần lỡ tay làm rơi bát, không bị thở dài.

Họ từng là người đỡ ta qua những ngày chập chững.

Giờ đến lượt ta dắt họ đi qua những bước cuối cùng của kiếp người.

Làm người tử tế không cần điều gì cao xa.

Chỉ cần đủ dịu dàng với người đã từng vì ta mà gồng lên cả một đời.

Vì mai này, khi họ đi rồi… sẽ chẳng ai còn hỏi ta ăn chưa, hay nhắc ta mặc thêm áo khi trở trời.

Hãy thương khi còn kịp.

Đừng đợi đến lúc chỉ còn được gọi tên họ trong gió…

(Theo MDang – An Nhiên Giữa Dòng Đời)


 

Những ngày cuối ở bên cha – HOANG LE

 HOANG LE

Viet cho ngay father day

Một tháng  trước ngày Father day , ba bị stroke phải gọi xe cấp cứu đưa vào phòng ICU . Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ , ba được cứu sống ra khỏi bệnh viện, họ đưa ba qua Rehab để điều trị tiếp và tập cho ba đi trở lại. 

Cứ mỗi buổi chiều sau khi tan sở,  tôi đến thăm ba khu rehabilitation ở thành phố Sugarland. Hôm đó là ngày thứ Bảy tôi được về sớm có thời giờ ở với ba nhiều hơn.  Tôi đẩy xe lăn cho ba ra ngoài ngồi hưởng không khí trong lành ngắm cây cảnh trong khu vườn nhỏ dành cho các bệnh nhân. 

“ Ba thấy hoa nở đẹp không ba? ” . Vừa hỏi tôi vừa chỉ tay phía trước có hai cây crape myrtles đang nở những chùm hoa màu hồng đậm và màu trắng đong đưa trong nắng chiều của hoàng hôn. Ba gật đầu nhẹ vì cổ họng đã bị tê liệt  không nói được sau khi bị stroke.  

Không ngờ ngày đó cũng là ngày cuối cùng ba được nhìn thấy hoa của cây crapes myrtle nở trên dương thế. 

Có lẽ rất nhiều người đã nhiều lần đi dự đám tang của bạn bè và của người thân nhưng rất ít ai trong số đó chứng kiến cảnh cuối cùng của một người hấp hối, giây phút mà tâm hồn của một con người đang lìa khỏi xác. Riêng tôi, đó là những giây phút trải nghiệm buồn đau hằn sâu trong ký ức để nhắc nhở cho tôi biết đời là phù du, hãy yêu thương nhiều đi, tha thứ mau đi. 

Khi ông bác sĩ  Michael là người trực tiếp nhận ca của ba tôi chuyển từ khu Rehab đến phòng cấp cứu nói với tôi rằng chắc chắn là ba tôi sẽ không qua khỏi trong vòng hai mươi bốn tiếng nữa, thì thần kinh tôi bỗng bị tê liệt và tim tôi bấn loạn, tôi nắm tay vào thành giường của bệnh nhân để khỏi bị ngã quỵ.  Mỗi buổi tối, tôi đều đọc kinh Chết Lành chung với nhóm Con hẹn gặp Chúa trong nhà thờ nhưng tôi vẫn thấy cái chết chắc là xa lắm. Lúc này tôi mới cảm nghiệm được cái chết thật rất gần và linh hồn thật là vô giá. Tôi cầu nguyện với Chúa cho tôi lấy lại bình tĩnh để có thể làm được gì cho linh hồn của ba tôi đang hấp hối . Linh mục của bệnh viện không có ở đây. Bây giờ mới là chín giờ sáng . Tay của tôi run rẩy tìm số điện thoại của Linh mục Tiến trong Giáo xứ .  Linh mục đang trên đường đi họp nhưng ông nói sẽ hủy bỏ cuộc họp để đến bệnh viện xức dầu Thánh cho ba tôi.  Trong lúc chờ Linh mục đến, tôi cầm xâu chuỗi đọc kinh Lòng thương xót Chúa. Đang cầu nguyện thì một cô gái mang cây đàn guitar bước vào phòng tự giới thiệu tên là Stephanie , music therapist,  hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát không?  Tôi có một chút ngạc nhiên vì trong bệnh viện cũng có dịch vụ này rồi gật đầu đồng ý vì biết ba tôi cũng rất thích nghe nhạc. 

Cô hát bài Amazing grace, tôi nghe não nề nát ruột nát gan . Thấy tôi khóc, cô hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát tiếp không, tôi quay qua nói với cô: “ Stephanie, tôi đã từng nghĩ ông ấy sẽ sống với tôi đến ngày Giáng Sinh nhưng ông đã ra  đi sớm hơn . Bạn có thể đàn và hát chung với tôi bài Silent Night và O Holy Night để xem như ba tôi đã sống với tôi đến Giáng Sinh được không? “Cô ta đồng ý dạo đàn và chúng tôi cùng hát . Sau đó , Stephanie lấy máy recording thâu lại nhịp tim của ba tôi đang đập để sau này mổi lần nhớ ba, tôi có thể nghe và cảm nhận ba vẫn bên tôi. Tôi tiếp tục đọc kinh Lòng thương xót Chúa và lần chuỗi kính Mân côi . Vừa đọc kính vừa khóc nhìn khuôn mặt đau đớn với những nếp nhăn trên trán của ba đang vật lộn với tử thần,  tôi lo lắng tột độ , cầu xin Chúa và Đức Mẹ giữ linh hồn ba tôi lại cho đến khi Linh mục tới. Ba vẫn nghe được tôi đang khóc, hai giọt nước mắt của ba chảy ra từ đôi mắt nhắm nghiền. Huyết áp của ba tôi đã xuống rất thấp 70/ 45  nhưng rồi lên trở lại từ từ 86/57. Rất may Linh mục đã đến kịp lúc. Linh mục đọc những lời nguyện và kinh đặc biệt cho người sắp chết rồi xức nước Thánh lên trán và hai tay của ba. Vừa nhận phép xức dầu xong, tôi nhìn thấy khuôn mặt ba thanh thản ngay tức khắc . Con số nhịp tim trên máy xuống thấp dần. Ba sống thêm mấy phút  chờ mẹ tôi đến để được nắm tay mẹ tôi rồi mới trút hơi thở cuối cùng. Ba đã ra đi lúc 1h15 pm nhanh hơn là bác sĩ đã dự đoán. 

Năm nay ngày Father’s day tôi không còn cha để đến thăm. Năm ngóai cũng ngày này tôi đã đến thăm ba trong Rehabilitation. Ba đang tập đi với một người Physical therapist , tên anh là Kevin. Tôi đã đến cổ vủ cho ba tôi đi những bước đầu tiên sau khi bị liệt nửa người . Tôi đã ôm chúc ba: “ Happy Father day, ba của con. Ba ráng tập đi để về nhà với mẹ và con nha ba.” Tôi cũng chúc anh Kevin “ Happy Father day.” Mặt anh đang rạng rỡ bổng biến sắc,  anh  trả lời tôi giọng lạnh như băng: “ Tôi còn thậm chí không biết ba tôi là ai.” Lúc đó tôi  cảm thấy thương cảm cho anh và nói lí nhí xin lỗi anh. 

Vâng, trên thế giới này có rất nhiều đưa trẻ mồ côi cha từ rất nhỏ hoặc có nhiều người không được may mắn hưởng được tình yêu của người cha. Tôi ước gì họ biết được vẫn còn có một người Cha trên Trời vẫn luôn yêu thương và quan tâm đến họ .  Nhìn hoa crape myrtles đua nhau nở trên các đại lộ doc theo freeway trong mùa hè tháng Sáu , tôi lại nhớ đến những ngày cuối cùng được ngồi cùng với ba ngắm hoàng hôn buông xuống . Mặc dù tôi đã mất một người cha trên dương thế nhưng tôi biết tôi vẫn còn có một người Cha trên trời luôn hằng thương tôi che chở  và bảo vệ tôi . Tôi cũng tin tưởng ba tôi giờ đã ở với Cha trên trời và đang nở một nụ cười bình an mãn nguyện. 

  HOANG LE


 

Giáo sư Vũ Quốc Thúc gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012

Luật Khoa Saigon 67-75Chanh Le

  Uyên Vũ

Nov 23 – 2021

Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc – Cựu Thống Đốc ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, nhà kinh tế học và chính khách VNCH, người góp phần quan trọng trong việc đào tạo môn kinh tế học tại trường Đại học Luật khoa và Trường Hành chính Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa – vừa qua đời tại Paris ngày 22 Tháng 11/2021, hưởng thọ 102 tuổi.

Theo thông báo của gia đình, thánh lễ cầu nguyện cho giáo sư Vũ Quốc Thúc sẽ được cử hành ngày 25 Tháng 11/2021 tại Giáo xứ Việt Nam ở Paris; lễ hỏa táng được cử hành ngày 1 Tháng 12/2021.

Gia đình Giáo sư Vũ Quốc Thúc vốn không phải là Kitô hữu, ông đã đón nhận đức tin vào Chúa, gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012. Theo trang vncatholic thì:

“Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.

Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Saigon, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng”.

Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói : « Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh».

Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

Xin Chúa đón nhận linh hồn Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc sớm hưởng nhan thánh Chúa.


 

Thăm trại Tị Nạn Mã Lai và Nam Dương sau 50 năm viễn xứ – Nguyễn Ngọc Duy Hân

 Nguyễn Ngọc Duy Hân

Tôi đã về lại Toronto – Canada bình an sau 3 tuần lang thang ở Mã Lai và Nam Dương, chủ yếu là đi thăm các hòn đảo từng là nơi tạm trú của thuyền nhân Việt Nam. Tạ ơn Chúa, cảm ơn mọi người, tôi đã  được học hỏi thêm về tình người, về quê hương và tin rằng nhờ thế có thể sống tốt hơn.

Âm vang câu hát “Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương, Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong” vẫn còn vang vọng trong lòng. Số là mỗi khi thắp hương cầu nguyện trước mộ phần các thuyền nhân xong, chúng tôi đều hát và thấm thía hơn bao giờ hết nỗi đau qua những nốt nhạc này.

Lịch trình thăm viếng của nhóm chính thức bắt đầu vào thứ Hai 28 tháng 4, 2025, nhưng 3 anh em Toronto chúng tôi đã ra phi trường từ 24 tháng 4. Đi sớm mấy ngày để ghé thăm thành phố Kuala Lumpur và nghỉ ngơi. Chuyến bay dài gần 21 tiếng, cộng thêm giờ phải tới sớm, giờ chờ chuyển tiếp máy bay nên tổng cộng lượt đi và về hết khoảng 60 tiếng đồng hồ. Ôi chuỗi thời gian dài ớn quá là ớn. Mà khi tới nơi rồi cũng có yên đâu, suốt ngày thường xuyên chúng tôi phải ở trên xe bus, xe van, trên tàu lớn, tàu nhỏ hoặc máy bay nhỏ… “Thôi rồi còn chi đôi mông tôi!” Ba tuần lúc nào cũng bồng bềnh chênh vênh, nên mỗi khi được đặt 2 chân xuống mặt đất thì thấy thật là hạnh phúc! Giá mà Elon Musk chế xong được cái ống chui tọt vào là tới nơi thì hay biết mấy.

Nhớ lại cách đây gần 10 năm, khi đó ông xã còn sống, chúng tôi có đi hành hương châu Âu với nhóm nhà thờ, mà tôi là một trong những người tỉnh táo để giúp các bác lớn tuổi hơn kéo hành lý, trả lời họ hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu, ngày mai sẽ làm gì. Thế mà bây giờ tôi lại chính là một trong những “bác” lớn tuổi đó, tức là cần người giúp di chuyển vali, cần người trả lời hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu hoặc ngày mai sẽ làm gì. Rõ chán!

Bây giờ xin được xuống câu vọng cổ chia sẻ lý do tôi tham dự chuyến đi này. Trong nhóm có các anh chị không biết vượt biên là gì nhưng vẫn hăng hái tìm về nguồn, cũng có các anh chị dù không phải trong ban tổ chức, mà vẫn tham dự nhiều lần chỉ để thắp hương cầu nguyện ở các mộ phần – thật là cao cả, cũng có một số em trẻ đi theo cha mẹ. Riêng tôi thì thú thật xem qua chương trình chẳng lấy gì làm hào hứng. Gì đâu mà ngày nào cũng đi thăm nghĩa trang, mà tôi biết thời tiết ở các nơi này rất nóng, lại phải trèo đèo lội suối ở các nơi đầy muỗi mòng, khỉ ho cò gáy theo đúng nghĩa đen. Hơn nữa, thời gian cuối tháng Tư 2025, tôi muốn ở nhà để giúp tổ chức 50 năm Quốc Hận tại tòa thị sảnh Toronto và quốc hội Ottawa – đây là truyền thống chúng tôi chưa vắng mặt năm nào. Tôi lại đã đóng tiền cọc để đi du thuyền qua Âu Châu chơi với nhóm bạn, rồi công ty tôi đang làm cũng khó cho phép vắng mặt liên tục 3 tuần…. Đủ thứ lý do tại, bị, thế mà cuối cùng tôi cũng được đi với nhóm, thật là một điều quá vui mừng. Nghĩ lại nếu không đi, tôi sẽ hối tiếc nhiều lắm.

Tôi đã thực hiện dùm ý nguyện của ông xã. Khi đi qua các hòn đảo kỷ niệm nơi anh từng đặt chân đến, tôi đã thở phào thầm nghĩ “Mission Completed”. Rất buồn là ông xã – anh Nguyễn Ngọc Duy – mới qua đời cách đây 7 tháng vì bệnh phổi lúc 65 tuổi. Từ nhiều năm nay, lúc nào anh cũng ước ao về thăm lại đảo Air Raya rồi trại tị nạn Galang, nơi tôi và anh đã gặp nhau, nhưng lần nào cũng có trở ngại. Những ngày cuối đời anh lại nhắc tới trại tị nạn nhiều hơn, nên tôi rán đi dùm anh dù biết đi một mình sẽ rất buồn.

Bây giờ xin kể sơ về chuyến hành trình. Nhóm có 233 người ghi danh đi thăm các đảo ở 3 nước Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân. Có người chỉ đi một quốc gia rồi về, tôi và một số đông thì đi 2 nước, còn lại khoảng 50 người thì đi cả 3 nơi. Số người tập trung đông nhất ở một thời điểm là trên 100 người. Thật là khẩu phục tâm phục ban tổ chức, nào là đón tiếp hướng dẫn ở từng chặng đường, lo xe, lo khách sạn, giúp vé máy bay, rồi đặt thức ăn, sắp xếp chương trình khoa học và ý nghĩa. Sau chuyến đi chắc hẳn họ già hơn nhiều vì căng thẳng lo lắng.

Riêng cái chuyện sắp hàng đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn. Tôi đã nói đùa khi người thứ 100 “xả nước cứu thân” xong, là đã đến lúc người số 1 cần đi nữa rồi! Các vùng hẻo lánh này nhà vệ sinh rất ít, có nơi còn là loại cầu tiêu xưa, nghĩ lại còn rét dù trời nóng hừng hực! Thế nhưng chúng tôi luôn tận dụng thời gian sắp hàng mà trò chuyện rôm rả, mang bánh trái ra mời mọc nhau nên cũng thấy bớt chán. Nhớ quá những cây cà-rem do thầy Tấn Phước đãi. Nhóm thường đi bằng 2 xe bus lớn và một xe van nhỏ, hôm đó thầy mua kem cho mọi người, nhưng 1 xe bị lạc nên xe của chúng tôi phải ăn dùm hai phần. Trời nóng mà ăn kem vừa mát vừa ngọt vừa thơm mùi sầu riêng thì không gì thích thú bằng. May mắn hơn xe chúng tôi lại có cha Phạm Quang Hồng ở Úc đi cùng, nên lúc nào cũng tràn đầy tiếng cười, mà cũng hại não lắm vì cha hay đố những câu khó quá!

Nhóm lại có Youtuber Trương Minh Quân với channel TmQ nổi tiếng, lúc nào chương trình cũng được livestream với 40 ngàn người xem. Tôi ở trại mà bạn bè Toronto thường xuyên gởi video thâu từ TmQ cho xem, nhắc là đã thấy Hân ở phút số mấy trong youtube. Vấn đề xài tiền cũng khá rắc rối, tới Mã Lai phải xài tiền Mã, tới Nam Dương phải xài tiền Indo, nhưng nhóm thì có người tới từ Mỹ, có người tới từ Canada, Phần Lan, Úc…. nên chả chục thứ tiền đủ màu đủ loại, đổi qua đổi lại cũng khá nhức đầu!

Ngoài ban tổ chức là nhóm anh em bên Úc như anh chị Sơn-Anh, anh chị Minh-Thanh và bác sĩ Ken, còn có cô Heidi (Hay Đi!), cô Ngọc Ân, anh Long, bố con anh Chính và vài nhân vật rất đặc biệt. Từ khi ghi danh thì chúng tôi đã thường xuyên nhận được bản tin với nhiều chi tiết hữu ích từ anh Sơn. Cháu Ken ở Cali là một nam bác sĩ cao ráo giỏi giang, tấm lòng hy sinh yêu người không biết dùng chữ gì để diễn tả. Một cậu trẻ khác là Jammy sinh ra ngay tại Bi Đông, đi với nhóm lần này là lần thứ 2. Được biết lần đầu Jam đi thì hiểu tiếng Việt rất ít cần thông dịch, nhưng lần này tiếng Việt của cháu đã rất khá. Jam đẹp trai vui vẻ, ai cũng muốn làm mai gả con gái, cháu gái cho. Vào đúng sinh nhật của Jam trong tháng 5, cháu đã tìm cách để được về đứng ngay bệnh viện xưa – nơi Jam sanh ra để chụp hình và “thu thập năng lượng”. Vài cháu khác đi với cha mẹ, nhưng cũng rất hòa mình không tỏ vẻ khó chịu hay bị ép uổng gì cả. Chúng tôi mừng lắm vì có giới trẻ tham gia. Trong nhóm có ít nhất 4 anh, chị không biết trại tị nạn là gì, vì không phải là thuyền nhân, chân nhân hay phi nhân. Họ rời Việt Nam từ 30 tháng 4, 1975 nhưng vẫn muốn tìm về nguồn cội, lịch sử. Một vài anh chị cũng đã tham dự các chuyến này nhiều lần, còn nhớ được đường đi trèo đèo lội suối để đi thăm đầy đủ các khu bia mộ. Ai nấy đều quá chân thành, dễ thương, chăm sóc an ủi nhau… thật là cảm động và quý giá. Tôi vốn bi quan, thường cho rằng người tốt trên đời này không còn bao nhiêu, nhưng qua hành trình này tôi mới cảm nghiệm được “bông hoa còn đẹp, lòng chưa thấm mệt” (thơ Phạm Thiên Thư).

Bây giờ tôi xin sơ lược về lộ trình. Mọi người đã tập trung tại địa điểm đầu tiên là phi trường số 2 Kuala Lumpur – Mã Lai để cùng đi xe bus thăm nghĩa trang đầu tiên tại Terengganu. Sau đó ngày nào cũng thăm viếng nhiều khu mộ tập thể hoặc mộ cá nhân không bỏ sót khu vực chôn cất nào như Kuantan, Dungun, Kota Baru, Besut, Cherang Ruku, Panji, sau đó thăm Romping, Endau, Mersing… Đặc biệt nhóm đã thắp hương trước ngôi mộ tập thể chôn xác nhiều người, trong đó có vợ và con của MC & nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn.

Ban tổ chức cũng sắp xếp để mọi người được viếng mộ các vị đại ân nhân như ông Alcoh Wong, ông Heng… Quý ông này là một trong những người Trung Hoa ở Mã Lai đã bỏ công sức và tình yêu nhân loại để tìm vớt xác, chôn cất rất nhiều thi thể thuyền nhân Việt trôi dạt vào bờ biển Mã Lai hơn 40 năm trước. Ông Wong và thân hữu cũng đã in một cuốn sách tài liệu với chi tiết lịch sử, bản đồ, tên họ của các thi thể mà họ chôn cất. Ban tổ chức đã liên lạc trước với thân nhân của ông Wong, ông Heng và mời họ đi ăn chung với nhóm để tỏ lòng biết ơn. Bà Wong vẫn còn sống và đã giúp rất nhiều trong việc đặt khách sạn, nhà hàng… Bà từng là chủ tịch hội phụ nữ Trung Hoa ở Mã Lai, tuy sức khoẻ kém nhưng luôn có mặt với nhóm. Một người em trai trong gia đình ông Wong khi phải vớt xác người chết chìm trên biển, đã chịu sốc tâm lý nên phải phát nguyện cạo đầu, cầu nguyện. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để nói hết lòng khâm phục và biết ơn những đại ân nhân này, được bắt tay họ tôi rưng rưng nước mắt.

Sinh hoạt chính tại Mã Lai là cuộc hội ngộ tại đảo Bi Đông, nơi từng có hằng trăm ngàn người Việt Nam tạm trú trong khi chờ đi định cư ở quốc gia thứ ba như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… Đúng ngày Quốc Hận lần thứ 50 là 30 tháng 4, 2025, nhóm đã có một buổi lễ thật ý nghĩa ngay tại bờ biển Bi Đông, cùng Chào Cờ hát quốc ca Việt Nam Cộng Hòa và tôi được hân hạnh đọc phút Mặc Niệm trong buổi lễ. Sau đó nhóm đi vòng quanh biển với lời cầu nguyện của thầy Tấn Phước và cha Quang Hồng, cùng đốt nến, giấy vàng mã, hương trầm cầu nguyện cho người đã khuất và cho quê hương Việt Nam. Tối hôm đó và nhiều đêm sau, nhóm luôn có các buổi hội ngộ tâm sự, ca hát, đốt lửa trại thật cảm động. Đây cũng là cơ hội cho mọi người thi thố tài năng – nào là ngâm thơ, đơn ca, hợp ca với tiếng đàn guitar và kèn harmonica sống động, cũng như dàn Karaoke khá tốt.

Điều mắc cười là tôi vốn khó ngủ, nên xin trả thêm tiền để có phòng riêng tại các khách sạn, thế mà khi ở Bi Đông, không có khách sạn phải ngủ ngoài lều, có lều tới 20 người, thì tôi lại ngủ ngon hơn hết. Có người gọi Bi Đông là Bi Đát, thật không sai với bao câu chuyện bi thương đáng nhớ, chẳng hạn câu nói luôn được lưu truyền “Tình Bi Đông có list thì dông”, tức là tình cảm yêu thương chỉ là tạm bợ, khi được lên list đi định cư thì mọi hứa hẹn liền chấm dứt.

Ngôi chùa tên là Từ Bi còn sót lại vừa có nghĩa là từ bi bác ái, vừa cũng có nghĩa là từ Bi-Đông mà có. Các người đi trước đã kể lại vài câu chuyện tâm linh khá hi hữu, như chuyện ngay sau khi phái đoàn thăm viếng khu mộ tập thể, thì hoa vàng bỗng rộ nở rất nhiều, hoặc một đàn bướm vàng mấy trăm con bỗng xuất hiện bay lượn ngay trên các ngôi mộ, mà theo dân địa phương thì khu này rất ít khi thấy bướm. Một ông người Hoa giúp việc trùng tu các ngôi mộ đã mua vé số với số tàu của người tị nạn, thì đã trúng độc đắc. Ông đã trích ra một phần tiền trúng để bỏ vào quỹ trùng tu. Cũng có nhiều chuyện ly kỳ khi người chết báo mộng để gia đình tìm ra thi hài, hoặc cho biết mộ bị nứt hay tên họ trên tấm bia đã bị khắc sai…

Nhóm cũng đã được tận mắt nhìn bức tượng “ông già Bi Đông” mà thương xót cho những mảnh đời kém may mắn, phải tìm sự sống trong cái chết.

Chúng tôi cũng được đi thăm một quán cà-phê sang trọng nằm dọc theo bờ biển, thuộc khách sạn 5 sao làm từ chiếc thuyền tị nạn mà họ đã mua của Liên Hiệp Quốc. Bảng khắc ghi chú các chi tiết về Boat People rất rõ ràng cảm động.

Vào 2 tháng 5, 2025 nhóm đã rời Mã Lai để cùng đi tới Nam Dương bằng phà qua đảo Batam, mà chúng tôi gọi là Bà Tám cho dễ nhớ. Indonesia là mục tiêu chính mà tôi muốn thăm viếng, vì tôi và ông xã đã từng ở đó. Chúng tôi thăm viếng nghĩa trang thuyền nhân Việt Nam, nhà bảo tàng, nhà thờ Công Giáo, chùa Quan Âm, miếu Ba Cô, bãi biển Galang…Tiếc là rất nhiều di tích ở khu Galang 1 đã bị xóa mất sau gần 50 năm, chẳng hạn các địa điểm như văn phòng Cao ủy, Ban điều hành trại, Trung tâm huấn nghệ, Youth Center, tòa soạn báo Tự Do, đạo quán Hướng Đạo, đồi Nhà thờ, bệnh viện ICM …. đã không còn nữa.

May mắn là ở Galang 2, chính quyền Indo đã cho trùng tu, làm museum với nhiều ảnh chụp, mô hình, đền thờ Mẹ Maria và bản đồ Việt Nam rất lớn. Đặc biệt có 14 chặng đàng Thánh Giá của Chúa Giesu làm trên 14 con tàu tị nạn vừa to vừa đẹp để thu hút du khách. Chúng tôi đi xe bus hoặc thuyền qua các đảo nhỏ như Letung (gọi theo tiếng Việt là Lê Tùng), Air Raya, Keramut, Tarempa, biển Padang Melang, khu phố shopping Nagoya… Chúng tôi được ban tổ chức sắp xếp đến tận nơi thăm viếng, tặng quà cho các cô nhi viện, trường học, nhà dưỡng lão… thật là cảm động. Các em học sinh tiểu học tại 4 trường mà chúng tôi ghé thăm đều mặc đồng phục thật đẹp để chào đón khách, ca hát rất dễ thương. Các em và dân địa phương đều rất hiền lành, khuôn mặt lộ ra nét chân thành đáng mến, không thấy trộm cắp lừa lọc, không ai phải đề phòng kẻ gian, đời sống thật là an bình.

Tại Galang chúng tôi được đi ngang cầu tàu, nơi từng có bảng để chữ “Cửa ngõ của Tự Do và Tình Người”. Người ta cũng có câu “Galang tình xù”, nhưng tình cảm của tôi và anh Duy thì may mắn thay không bị xù! Chúng tôi quen nhau ở Galang, thề hứa và đám cưới ở Cali sau 3 năm rời khỏi trại tị nạn. Tôi đi Cali mang quốc tịch Mỹ, còn anh đi Toronto mang quốc tịch Canada. Một người họ Nguyễn, một người họ Trịnh, tuy có phân tranh nhưng sống với nhau 40 năm ở Toronto tạm ổn cho tới khi anh mất vì bệnh phổi. Cầu tàu này là nơi đưa tiễn của biết bao người. Nhớ làm sao những lon coca cola, những ly milo sữa đá, những chai bia, những bao thuốc lá hiếm hoi … Chúng tôi cũng rất xúc động khi đi ngang khu vực được gọi là “Con đường Máu” – nơi các thuyền nhân Galang đã từng phải xuống đường biểu tình. Gần 20 người đã phải tự sát khi bị cưỡng bức hồi hương vì không đủ tiêu chuẩn tị nạn. Quân đội Indonesia đã từng phải vùng vũ lực để can thiệp. Chúng tôi cũng được thăm 2 ngôi mộ của “Romeo và Juliet”, là đôi nam nữ trẻ đã phải tự vẫn vì gia đình hận thù không cho cưới nhau sau khi đã vượt biên thành công. Cũng có một số ngôi mộ của những người ăn cháo rắn bị trúng độc chết, hoặc uống rượu pha cồn nên cháy ruột mà qua đời, thật là buồn và đáng tiếc vì đã thoát được Việt Nam nhưng vẫn không đến được đất định cư.

Nhóm cũng dành thời gian viếng Miếu Ba Cô dưới tàng cây bồ đề to lớn tại Galang 2. Câu chuyện được kể lại là có hai cô gái bị hải tặc xâm hại nên rất mặc cảm, đau khổ. Người Việt lúc đó lại không ý tứ, hay xầm xì chỉ trỏ, 2 cô lại không đủ bằng chứng pháp lý để được nhận đi định cư. Giọt nước làm tràn ly khiến hai chị em cùng quyết định treo cổ trên cây là khi họ bị vu oan ăn cắp chiếc bóp của nhân viên Cao ủy. Nghe nói có 1 cô gái khác vì ghen tức với sắc đẹp của cô em, mà cô em này lại được con trai người chủ tàu yêu thương, nên chính cô gái này đã lấy cái bóp bỏ vào phòng đổ oan cho 2 chị em. Ngày 2 chị em quyên sinh trước lúc họ được chấp nhận đi định cư chỉ một ngày.

Chúng tôi cũng nghe nhắc lại câu chuyện thương tâm của 12 cô gái Việt bị cướp biển hãm hại, bọn quỉ dữ trói 12 cô khỏa thân lại thành một chùm rồi thả trôi trên biển. Người ta chỉ thấy 11 xác, nhưng vì có nút thòng lọng thứ 12, nên tin là đã có 12 nạn nhân xấu số. Tôi vốn mít ướt nên khóc sướt mướt khi nghe chuyện, và thắc mắc bọn ác độc bắt các cô cưỡng hiếp đã đành, nhưng sao lại phải bỏ công cột xác lại thả trôi? Câu trả lời là bọn này có lẽ mắc bệnh bạo dâm, muốn cảm giác mạnh, muốn chơi trò ma quỉ! Ôi lòng dạ con người, ôi đau khổ và hệ lụy sinh ra từ cộng sản, làm sao tả hết những đau thương nhục nhã, làm sao để xóa bỏ nỗi đoạn trường từ những câu chuyện vượt biên.

Xin lỗi nãy giờ kể toàn chuyện buồn, tôi xin thay đổi kể vài chuyện nho nhỏ vui hơn. Ngoài đi thăm bia mộ, chúng tôi cũng được đi tắm biển vài lần. Có một khu vực gọi là “Water of God” là nơi biển rất vắng, thuộc loại đặc biệt được bảo tồn với nước trong xanh và san hô thật đẹp. Một vài anh chị hơi ngần ngại vì con thuyền đưa nhóm đi tới khu này hơi nhỏ, áo phao cấp cứu lại cũ kỹ nên quyết định về lại khách sạn. Tôi thì thầm nhủ cứ liều, chết thì về với anh Duy lo gì! Nhưng số tôi cũng lớn nên đã trở về toàn mạng, mang theo một bụng nào là nước dừa tươi, nào là cá biển mực nướng thơm ngon được dân địa phương phục vụ ngay tại bãi biển. Cũng được biết trái thanh long và rau muống trên các vùng đất Nam Dương là do người tị nạn Việt Nam mang tới, và dân địa phương rất trân trọng loại giống mới này.

Tôi cũng đi thăm viếng các ngôi chùa, đền thờ Hồi giáo lớn, 2 lần được đi xe ôm dạo phố. Một lần do cô Indo làm bếp tại Homestay cho quá giang đi chợ chung. Lần khác 4 chị em chúng tôi trả tiền đi vòng quanh đảo Tarempa chung với nhau bằng xe hai bánh, xem thác 7 tầng. Cảnh chiều trên đảo vắng thật đẹp với sương mờ bảng lảng, nhưng có một đoạn dài ông tài xế bị lạc, trời lại tối nên tôi khá lo sợ. Không rõ bác tài lạc đường hay ông ta cố ý đem tôi đi bán! Nhưng nghĩ lại nếu cần bán, chắc họ đã chọn các cô gái trẻ đẹp, loại ốm yếu sắp về hưu như tôi thì đâu có ai mua. Nghĩ vậy nên tôi yên tâm, và may mắn thay chúng tôi đã trở về không suy xuyển gì!

Tôi lại được một thời gian dài không phải đi làm, ngày 3 bữa thịnh soạn không phải nấu ăn thật là sung sướng, nhưng báo hại bị lên mấy ký, lại thêm bị muỗi và rệp cắn nên rất “mập mình”. Tôi tên Hân, nếu nặng thêm tức là thêm vào dấu nặng, thì từ “Hân” hoan sẽ trở thành “Hận” thù, thật không nên nặng thêm tí nào!

Điều thú vị trong chuyến đi hầu như ai cũng khóc, cũng mít ướt kể cả các anh to con, râu ria tướng tá nhìn rất “ngầu”. Ừ nhỉ, nhắc tới kỷ niệm, mất mát và biệt ly ai mà cầm lòng cho được. Trên các con tàu và các nơi dừng chân, chúng tôi đều có những lá cờ Vàng Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới. Nhóm lại treo thêm 4 lá cờ lớn là cờ Indo, cờ Mã Lai, cờ Phi Luật Tân và Việt Nam ở các sinh hoạt chính nên nhìn rất trang trọng và ấm cúng.

Chúng tôi cũng nhắc tới những đêm Noel ở nhà thờ Galang, người ta đốt hai hàng đuốc dọc theo đường đồi, tạo ra hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi nhớ tới Linh Mục Dominici và Mục Sư Flemming, cả hai đều giỏi tiếng Việt và giúp người tị nạn rất nhiều. Ngày mới tới Galang được nhóm Tin Lành phát cho mỗi người một túi bánh kẹo và sách vở chúng tôi rất quý. Riêng cha Dominici thì khá thân với chúng tôi. Hồi đó bạn bè nói anh Duy là con cưng của cha Dominici. Quả vậy, anh Duy từng là đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, suốt ngày lo làm chuyện xã hội như sửa đường đi, giúp xây phòng tắm kín đáo hơn, giúp tổ chức picnic, văn nghệ… Các bác già thuộc Hội đồng Giáo xứ xin tiền làm công tác có khi bị từ chối, nhưng nếu anh Duy gặp cha Dominici trình bày kế hoạch sinh hoạt cho giới trẻ, thì cha đồng ý ngay. Riêng tôi cũng có duyên may được nhận làm việc cho báo quán Tự Do ở Galang với lương tháng khá cao. Tôi cũng được may mắn trúng giải thi thơ năm 1981, với bài thơ “Nước Mắt Yêu Thương” mà chị Ánh Linh đã diễn ngâm lại trong buổi đốt lửa trại.

Cha Dominici giúp chuyển thư của trại viên cho thân nhân, bênh vực người tị nạn bị hà hiếp, sáng lập báo Tự Do, viết cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi” và nhiều bài báo rất ý nghĩa. Bài này dài quá rồi tôi xin được nói về cuốn sách của cha trong một dịp khác. Ngày cha mất vì ung thư ruột già, chúng tôi ở Toronto có tổ chức lễ cầu nguyện và tri ân tại 2 nhà thờ ở Toronto, người không Công Giáo cũng tham dự khá đông và rất cảm động. Chúng tôi cũng từng được cơ hội đi “Tĩnh Tâm” với cha ở tại Toronto, hiểu rằng chính bản thân Chúa Giêsu cũng từng phải đi sang Ai Cập tỵ nạn. Cha đang được đề cử để phong chức Chân Phước trong đạo Công Giáo.

Chúng tôi về lại Toronto an toàn vào khuya ngày 14 tháng 5, 2025, trong khi nhóm vẫn tiếp tục đi thăm Phi Luật Tân. Cho tới bây giờ trong Whatsapp Group, chúng tôi vẫn luôn thường xuyên nhận được hình ảnh, video, sáng tác nhạc, chia sẻ tâm tình để ân tình còn mãi, và đặt hy vọng vào những lần gặp gỡ khác trong tương lai.

Khép lại chuyến trở về quá khứ để hiểu rõ thêm thân phận thuyền nhân và hoàn cảnh người tị nạn, sống lại một lần nữa với kỷ niệm, tôi thấy mình quá may mắn và thật lòng trân trọng khoảng thời gian này. Tôi nhủ lòng đừng quên những hy sinh mà thế hệ người tỵ nạn Việt Nam trước đó đã gánh chịu – để mang lại đời sống tự do và dân chủ cho các thế hệ sau. Xin đặc biệt tri ân ban tổ chức và từng người trong nhóm, nhất là hai anh Nhỏ và Kiệt trong nhóm Toronto đã giúp tôi trong suốt đoạn đường. Tôi lại càng hiểu rõ hơn giá trị của Tự Do, càng biết mình phải cố gắng hơn nữa để góp phần trao ra, học gương hy sinh dù chỉ với những việc và tâm tình đơn sơ nhất. Vài người bạn rủ tôi vận động xin thêm ít tiền để nhóm gia đình Bi Đông có thêm chi phí mà tu sửa mồ mả, làm thêm các di tích của thuyền nhân. Tôi chưa biết mình sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ góp tay dù những việc bé nhỏ nhất. Xin tri ân tận đáy lòng, và cũng không quên cảm ơn ông xã đã phù hộ cho tôi có một chuyến đi thật ý nghĩa và bình an.

Nguyễn Ngọc Duy Hân


 

Mỹ truy tố 2 người Việt Nam hối lộ Andrew Đỗ để được $12 triệu tiền COVID-19

Ba’o nguoi-Viet

June 6, 2025

SANTA ANA, California (NV) – Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ vừa chính thức truy tố hai người Việt Nam bị tố cáo hối lộ ông Andrew Đỗ, cựu giám sát viên Orange County, để có các hợp đồng trị giá khoảng $12 triệu tiền COVID-19, rồi lấy số tiền này làm một số việc cá nhân khác, trong đó có mua một số bất động sản.

Thông cáo báo chí của cơ quan nêu trên đưa ra hôm Thứ Sáu, 6 Tháng Sáu, cho biết hai người bị truy tố là ông Peter Phạm, 65 tuổi, cư dân Garden Grove, và là sáng lập viên tổ chức Viet America Society (VAS), và bà Nguyễn Thanh Hương, 61 tuổi, cư dân Santa Ana, và là tổng giám đốc tổ chức Hand to Hand Relief Organization (H2H).

Ông Peter Phạm, sáng lập viên Viet America Society, người đang tại đào và bị Bộ Tư Pháp Mỹ truy tố hối lộ cựu Giám Sát Viên Andrew Đỗ. (Hình: Cắt từ YouTube Supervisor Andrew Do)

Ông Peter Phạm hiện bị coi là tại đào.

Còn bà Hương sẽ trình diện tòa án liên bang ở Santa Ana vào ngày Thứ Hai, 9 Tháng Sáu, cùng ngày và cùng tòa nhà mà ông Andrew Đỗ sẽ bị tuyên án vì tội nhận hối lộ.

Ông Andrew Đỗ nhận tội hồi Tháng Mười, 2024, và Thứ Hai tới có thể bị tối đa năm năm tù.

Theo Bộ Tư Pháp, ông Peter Phạm bị truy tố một tội rửa tiền, một tội âm mưu rửa tiền, sáu tội rửa tiền bất hợp pháp, sáu tội giấu tiền để rửa tiền, và một tội hối lộ.

Bà Nguyễn Thanh Hương bị truy tố một tội âm mưu rửa tiền, một tội rửa tiền, và một tội giấu tiền để rửa tiền.

“Hai người này bị truy tố tội âm mưu hối lộ một chính trị gia tham nhũng để bỏ tiền vào túi riêng trong khi đất nước đang bị đại dịch COVID-19 hoành hành,” công tố viên Bill Essayli của Bộ Tư Pháp Mỹ nói. “Văn phòng tôi và các cơ quan công lực đối tác sẽ tiếp tục truy tố các cá nhân ăn cắp tiền trợ cấp của chính phủ dự định sử dụng giúp những người bị cơn đại dịch lớn nhất trong thế kỷ ảnh hưởng.”

Ông Peter Phạm (trái) và ông Andrew Đỗ. (Hình: Cắt từ YouTube Supervisor Andrew Do)

Ông Todd Spitzer, chánh biện lý Orange County, được trích lời nói: “Âm mưu này được thực hiện qua một loạt những dối trá, phản bội, và lòng tham không đáy. Truy tố của Bộ Tư Pháp hôm nay là một bước quan trọng để quy trách nhiệm – và trừng phạt – đối với những người sử dụng quỹ COVID-19 của Orange County như là máy rút tiền của cá nhân họ – và lấy lại số tiền này cho những người đáng lẽ được hưởng – đó là cộng đồng, nơi mà số tiền này được cung cấp ban đầu.”

Theo hồ sơ truy tố, ông Peter Phạm là bạn và cộng sự của ông Andrew Đỗ, 62 tuổi, cư dân Santa Ana, người từng làm giám sát viên Orange County từ năm 2015 đến khi từ chức vào Tháng Mười, 2024. Trong vai trò giám sát viên, ông Andrew Đỗ là một trong năm thành viên Hội Đồng Giám Sát Orange County quản trị một ngân sách hơn $9 tỷ.

Từ Tháng Sáu, 2020 đến Tháng Mười, 2024, ông Andrew Đỗ sử dụng lá phiếu của mình trong Hội Đồng Giám Sát để có hàng triệu đô la tiền được chia cho Địa Hạt 1 mà ông đại diện và được tùy tiện quyết định. Tuy nhiên, ông “rót” số tiền này cho ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương, theo hồ sơ truy tố.

Ví dụ, vào Tháng Sáu, 2020, ông Andrew Đỗ bỏ phiếu chuẩn thuận một ngân sách, trong đó có $5 triệu tiền COVID-19 sử dụng cho chương trình cung cấp thức ăn cho người cao niên và người nghèo. Ông Andrew Đỗ trích ra $1 triệu cho chương trình cung cấp thức ăn trong Địa Hạt 1. Tám ngày sau cuộc bỏ phiếu đó, ông Peter Phạm sáng lập VAS, có văn phòng ở Huntington Beach.

Một cơ sở của tổ chức Hand to Hand Relief Organization ở vùng Little Saigon. (Hình minh họa: Facebook Hand to Hand Relief Organization)

Ông Peter Phạm, qua VAS, và bà Hương, qua H2H, có văn phòng ở Garden Grove, ký nhiều hợp đồng với Orange County. Trong các hợp đồng này, VAS và H2H nói dối rằng họ sẽ trả các khoản tiền còn lại cho quận hạt nếu không chi tiêu đúng theo hợp đồng. Trong mỗi hợp đồng, VAS và H2H đều nói dối rằng tất cả tiền sẽ được chi đúng mục đích.

Đề bù cho sự hối lộ của ông Peter Phạm, qua hình thức đưa tiền cho hai cô con gái của mình là Ilene Đỗ và Rhiannon Đỗ, ông Andrew Đỗ vận dụng chức vụ giám sát viên của mình “bơm” VAS và H2H lên, để nhân viên quận hạt chuẩn thuận các hợp đồng với hai tổ chức này.

Ông Andrew Đỗ và nhân viên của ông – bao gồm cả chánh văn phòng của ông – điều chỉnh các điều khoản trong hợp đồng để có lợi cho ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương. Nhờ ảnh hưởng của ông Andrew Đỗ và nhân viên của ông, mà quận hạt chuyển tiền cho ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương.

Sau khi có số tiền do quận hạt đưa, ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương chuyển gần như toàn bộ vào các công ty mà họ kiểm soát. Sau đó, họ dùng tiền này trả các chi phí cá nhân như tiền nhà, tiền nợ của các doanh nghiệp khác của họ, và đầu tư, bằng cách mua bất động sản. Hai người này sử dụng tiền của quận hạt hối lộ ông Andrew Đỗ bằng cách chuyển qua hai cô con gái.

Cô Rhiannon Đỗ (bìa trái) và cô Ilene Đỗ (bìa phải) hai người con gái “nhận tiền hối lộ” giùm ông Andrew Đỗ (thứ hai từ phải). Người còn lại trong hình là Chánh Án Cheri Phạm, vợ ông Andrew Đỗ. (Hình: Facebook Supervisor Andrew Do)

Ông Peter Phạm còn chi một cách trá hình cho người vợ tương lai của chánh văn phòng của ông Andrew Đỗ bằng cách trả tiền tư vấn cho VAS.

Khi bị yêu cầu nộp các hóa đơn cho quận hạt, để biết số tiền đã được chi tiêu như thế nào, ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương nộp hóa đơn giả mạo, nói rằng đã chi tiêu hết số tiền đúng theo quy định của hợp đồng.

Để che giấu nguồn tiền này, ông Peter Phạm và một cộng sự nói quận hạt viết chi phiếu cho công ty tên là D Air Conditioning Co. LLC ở Westminster. Sau đó, công ty này viết chi phiếu cho ông Peter Phạm, cộng sự của ông Peter Phạm, và một trong hai cô con gái của ông Andrew Đỗ.

Tổng cộng, ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương thu gom một cách bất hợp pháp khoảng $12 triệu tiền của Orange County qua âm mưu này.

Hồ sơ truy tố bao gồm các tố cáo một bị cáo phạm tội hình sự.

Theo Bộ Tư Pháp, cho tới nay, tất cả bị cáo đều bị coi là vô tội cho tới khi được chứng minh có tội mà không có một hoài nghi nào.

Nếu bị kết tội, hai người Việt Nam này có thể bị tù tối đa 20 năm trong nhà tù liên bang. Riêng ông Peter Phạm có thể bị 10 năm tù vì tội hối lộ. (Đ.D.)


 

Bạn có biết?:Khi cần vận chuyển một con voi bằng máy bay

Khi cần vận chuyển một con voi bằng máy bay – chẳng hạn từ Ấn Độ sang Hoa Kỳ – người ta đặt vào lồng cùng với nó… những chú gà con!

 Vâng, những chú gà con bé xíu, đáng yêu! Tại sao ư? Bởi vì, dù mang thân hình to lớn khổng lồ, voi lại rất sợ làm tổn thương những sinh vật bé nhỏ. Nó không dám cử động suốt chuyến bay ✈️, vì sợ đè trúng những chú gà con. Và chính điều đó giúp giữ sự cân bằng cho máy bay. Đó là một minh chứng đầu tiên về sự cao quý trong tâm hồn của loài voi ❤️. Các nhà khoa học, say mê trước hành vi của voi, đã tiến hành nghiên cứu và phân tích não bộ của chúng. Họ phát hiện rằng não voi chứa một loại tế bào thần kinh cực kỳ hiếm – gọi là tế bào hình thoi . Đây cũng chính là loại tế bào có ở con người, và chúng chịu trách nhiệm cho ý thức về bản thân, sự đồng cảm và nhận thức xã hội . Nói cách khác… voi không chỉ lớn về thân xác, mà còn vĩ đại về cảm xúc và phẩm cách . 

  Leonardo da Vinci – thiên tài đam mê động vật – từng nói về loài voi: “Con voi có sự ngay thẳng, khôn ngoan và tiết độ trong bản tính của nó.” ‍ 

 Ông còn mô tả rất đẹp về chúng: – Khi xuống sông tắm, voi bước đi đầy trang nghiêm, như thể đang thanh tẩy bản thân khỏi mọi điều xấu xa . – Nếu thấy con người bị lạc, nó sẽ nhẹ nhàng đưa họ trở lại đúng đường . – Voi luôn di chuyển theo đàn, có trật tự, được dẫn dắt bởi một con đầu đàn . – Voi sống kín đáo… chỉ giao phối vào ban đêm, ở nơi riêng tư, sau đó lại tắm rửa trước khi quay về với đàn . – Nếu trên đường gặp đàn thú khác, voi sẽ dùng vòi nhẹ nhàng đẩy chúng sang bên để tránh gây tổn thương . ♥️ Và điều xúc động nhất… Khi biết mình sắp chết, con voi lặng lẽ rời khỏi đàn, đi một mình đến nơi xa để lìa đời… Tại sao? Vì nó không muốn bất kỳ ai – nhất là những con non – nhìn thấy mình chết và mang nỗi buồn ấy trong tim.

  Thật là một loài sinh vật mang trong mình phẩm giá, lòng từ bi, và sự cao thượng… Những phẩm chất mà đôi khi… loài người cũng không có được.

From: Phi Phuong Nguyen

Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già

An Nhiên Giữa Dòng Đời

Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già.”

Tôi không biết từ lúc nào, bàn tay cha bắt đầu run khi cầm đôi đũa. Mẹ thì hay quên, vừa kể chuyện xong lại hỏi: “Má nói chưa con?”

Lúc đầu, tôi bật cười nhẹ. Sau đó là im lặng.

Rồi một ngày, tôi chợt thấy dáng cha đứng ở cửa… nhỏ bé đến lạ.

Và bỗng hiểu: chúng ta đang chứng kiến người từng là bức tường vững chãi nhất trong đời mình… lùi dần vào phía hoàng hôn.

Người già không cần gì nhiều.

Chỉ mong con cái bớt cao giọng.

Chỉ mong có ai ngồi cạnh, nghe họ kể chuyện cũ mười lần như mới.

Chỉ mong mỗi lần lỡ tay làm rơi bát, không bị thở dài.

Họ từng là người đỡ ta qua những ngày chập chững.

Giờ đến lượt ta dắt họ đi qua những bước cuối cùng của kiếp người.

Làm người tử tế không cần điều gì cao xa.

Chỉ cần đủ dịu dàng với người đã từng vì ta mà gồng lên cả một đời.

Vì mai này, khi họ đi rồi… sẽ chẳng ai còn hỏi ta ăn chưa, hay nhắc ta mặc thêm áo khi trở trời.

Hãy thương khi còn kịp.

Đừng đợi đến lúc chỉ còn được gọi tên họ trong gió…

MDang

#annhiengiuadongdoi

#whispersofenlightenment


 

Những Tỷ Phú Cam Kết Từ Thiện Hết Tất Cả Tài Sản Của Mình Cho Cộng Đồng

Nghĩ Giàu – Làm Giàu 

  1. Chuck Feeney – Người tỷ phú “vô hình”

Người sáng lập chuỗi cửa hàng miễn thuế Duty Free Shoppers, từng sở hữu khối tài sản hơn 8 tỷ USD. Ông âm thầm quyên góp toàn bộ tài sản của mình vào giáo dục, y tế và nhân quyền – đến mức khi qua đời năm 2023, ông chỉ còn vài triệu để sống giản dị trong căn hộ thuê nhỏ. Câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi muốn tặng hết tiền khi còn sống – để được thấy tác động của nó.”

  1. Bill Gates – Tỷ phú đi đầu trong làn sóng từ thiện hiện đại

Ông cùng vợ cũ Melinda thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates, chi hơn 100 tỷ USD cho các chương trình chống đói nghèo, bệnh tật và giáo dục. Gates cũng là người khởi xướng phong trào The Giving Pledge, kêu gọi giới siêu giàu cam kết cho đi ít nhất 50% tài sản. Riêng ông – tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản trong đời.

  1. Warren Buffett – “Huyền thoại phố Wall” nhưng sống như người bình thường

Buffett cam kết hiến tặng hơn 99% tài sản của mình – khoảng 150 tỷ USD – cho hoạt động từ thiện, phần lớn thông qua quỹ của Bill Gates. Dù là tỷ phú hàng đầu, ông vẫn sống trong căn nhà mua từ năm 1958, ăn sáng ở McDonald’s và đi làm bằng xe hơi cũ.

  1. MacKenzie Scott – Người phụ nữ thay đổi bộ mặt từ thiện toàn cầu

Vợ cũ của Jeff Bezos không chỉ nhận được khoản ly hôn trị giá 38 tỷ USD, mà còn lập tức cam kết cho đi gần hết số tiền ấy. Chỉ trong vòng vài năm, bà đã quyên góp hơn 19 tỷ USD cho hàng nghìn tổ chức nhỏ lẻ, hỗ trợ phụ nữ, giáo dục, cộng đồng thiểu số – với nguyên tắc: “Trao quyền mà không đòi hỏi sự công nhận.”

  1. Ông trùm mạng xã hội Mark Zuckerberg

Khi con gái đầu lòng tên Max ra đời vào năm 2015, Mark Zuckerberg cùng vợ là Priscilla Chan đã gây chú ý khi tuyên bố không để lại khối tài sản khổng lồ cho cô bé. Thay vì lập kế hoạch thừa kế hàng tỷ USD, hai vợ chồng quyết định thành lập tổ chức từ thiện mang tên Chan Zuckerberg Initiative – một dự án đầy tham vọng nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu như khoa học, giáo dục, năng lượng sạch và kết nối cộng đồng.

“Chúng tôi cam kết dành 99% số cổ phiếu Facebook mà mình sở hữu trong suốt cuộc đời để phục vụ cho sứ mệnh này. Dù biết rằng đóng góp của chúng tôi chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh lớn, nhưng chúng tôi vẫn muốn dùng những gì mình có để góp phần thay đổi thế giới, cùng với hàng triệu con người đang nỗ lực mỗi ngày,” vợ chồng nhà sáng lập Meta bày tỏ.

#nghigiaulamgiau #typhu #tuthien


 

Quốc tế đồng loạt kêu gọi trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang

Ba’o Dat Viet

May 28, 2025

 HÀ NỘI — Nhân ngày sinh nhật lần thứ 46 của nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang (25 Tháng Năm, 1978), bốn tổ chức nhân quyền quốc tế đã lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho bà – người đang thụ án 9 năm tù vì các hoạt động ôn hòa, phản biện xã hội.

Trong một tuyên bố chung, các tổ chức gồm Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ), Hội Văn Bút Hoa Kỳ (PEN America) và Sáng Kiến Pháp Lý Việt Nam (LIV) nhấn mạnh rằng tình trạng giam giữ bà Trang là “không thể chấp nhận được” và kêu gọi cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực để Hà Nội chấm dứt sự đàn áp đối với giới làm báo độc lập.

“Xuyên qua các bài viết nghiêm túc và với sự can đảm khác thường, Phạm Đoan Trang là biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì quyền được biết và tự do báo chí tại Việt Nam. Việc bà bị cầm tù là điều không thể dung thứ,” bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc Vận động khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của RSF tuyên bố. Bà cũng nhấn mạnh tình trạng sức khỏe đáng lo ngại của bà Trang sau gần 5 năm bị giam giữ, và yêu cầu nhà chức trách phải cho bà tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế độc lập.

Bà Phạm Đoan Trang bị bắt vào Tháng Mười, 2020 tại Sài Gòn, sau nhiều năm bị theo dõi và sách nhiễu vì các bài viết phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng. Bà bị tuyên án 9 năm tù vào cuối năm 2021 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” – một điều khoản mơ hồ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, lâu nay bị giới quan sát quốc tế xem là công cụ để dập tắt tiếng nói bất đồng.

Trước khi bị bắt, bà Trang là một trong những tiếng nói nổi bật nhất trong giới báo chí độc lập tại Việt Nam. Bà là đồng sáng lập Luật Khoa tạp chí – một trang báo mạng chuyên cung cấp kiến thức pháp lý và chính trị cho công chúng – và là tác giả của nhiều tài liệu hướng dẫn người dân tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Năm 2019, RSF vinh danh bà với giải thưởng “Tự do báo chí.” Một năm sau, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng bà danh hiệu “Phụ nữ can đảm toàn cầu.”

Bà Trang là hiện thân của thế hệ trí thức trẻ, dám lên tiếng trước bất công, đấu tranh ôn hòa vì quyền con người, và chấp nhận mọi hiểm nguy – bao gồm cả tù đày – để đòi hỏi một xã hội công bằng, minh bạch hơn.

Việc bà bị giam giữ tiếp tục gây phẫn nộ trong giới hoạt động quốc tế, vốn lâu nay vẫn chỉ trích tình trạng đàn áp tự do ngôn luận tại Việt Nam. Các tổ chức nhân quyền cho rằng bản án dành cho bà Trang là bằng chứng rõ ràng cho thấy chính quyền Cộng sản Việt Nam đang bóp nghẹt quyền tự do biểu đạt, bất chấp những cam kết với cộng đồng quốc tế.

Thông điệp từ tuyên bố chung là rõ ràng: Phạm Đoan Trang không nên ở trong tù. Việc bà bị giam giữ không chỉ là một sự bất công cá nhân, mà còn là lời cảnh báo đáng sợ về tình trạng tự do báo chí đang bị đe dọa nghiêm trọng tại Việt Nam. Và nếu cộng đồng quốc tế tiếp tục im lặng, những tiếng nói như của bà Trang có thể sẽ mãi mãi bị bịt kín sau song sắt.


 

CHÂN DUNG MỘT SIÊU LỪA!

Nguyễn Hoàng Tuấn 

Hãy nhìn qua sự nghiệp hoành tráng của người đàn ông này. Ông từng bị bắt vào Nhà tù Liên bang Mỹ do bị kết tội trong nhiều phi vụ lừa đảo khác nhau. Sau khi ra tù, Comisar tuyên bố quy ẩn giang hồ, rửa tay gác kiếm và trở thành một chuyên gia cố vấn… chống lừa đảo. Ông sau đó còn xuất hiện trên nhiều chương trình truyền hình rồi xuất bản cả một cuốn sách mang tựa đề “Cẩm nang chống lừa đảo ở Mỹ” (2012). Nhìn chung, con đường hoàn lương của Comisar có vẻ ổn thỏa, nhưng cái làm cho mọi người nhớ nhất chính là một trong những phi vụ hồi ông mới vào nghề.

Dường như thấy rằng, trong những phi vụ gạt người khác, những tay thích lừa cứ nhất thiết phải “nói dối”, Comisar tự nhủ với chính mình “tại sao lại không nói thật nhỉ?” Nghĩ là làm, chàng trai Comisar trẻ tuổi liền đặt mua một mẩu quảng cáo trên tờ tạp chí quốc gia National Enquirer với nội dung như sau:

“Thiết Bị Phơi Đồ Năng Lượng Mặt Trời, chỉ với giá 49,95 đô la. Các kiểm định khoa học cho thấy, thiết bị này đảm bảo dùng tốt lên đến 5 năm nếu được cung cấp đủ ánh sáng mặt trời. Không phải dùng bất kì một nguồn năng lượng nào khác, không pin, không điện. Miễn phí giao hàng toàn quốc.”

Những khách hàng xem được dòng chữ này tỏ ra khá là hứng thú với sản phẩm. Ai cũng biết nỗi niềm phơi đồ canh nắng chạy mưa khá là khổ sở, đó là còn chưa kể đến mùi ẩm mốc nếu quần áo không được hong khô hoàn toàn. Giờ mà có thiết bị không dùng năng lượng gì cả, chỉ tốn khoảng 50 đô la để giải quyết vấn đề này thì còn gì bằng. Thế là, những đơn hàng nối tiếp bay về.

Thời gian chờ đợi dằng dặc không cản được cảm giác háo hức khi nhận được sản phẩm. Các khách hàng cẩn thận cắt xé từng mẩu băng dán, nhẹ nhàng gỡ hộp ra và trước mặt họ, được đóng gói kĩ càng giữa hộp, là một… đoạn dây phơi đồ! Có gì đó có vẻ sai sai, rõ ràng là họ đặt hàng một thiết bị phơi đồ dùng năng lượng mặt trời chứ đâu phải đoạn dây này chứ? Vài khách hàng tìm cách liên lạc cho người bán (Comisar) và nhận được phản hồi như sau:

Sản phẩm là một thiết bị phơi đồ, đúng không? – Đúng.

Dùng năng lượng mặt trời, tức là ánh nắng, đúng không? – Đúng.

Đảm bảo dùng tốt nếu cung cấp đủ ánh sáng mặt trời? – Đúng.

Không pin, không điện, miễn phí giao hàng? – Cũng đúng nốt.

Vậy đích thị người bán đã cung cấp đúng sản phẩm y như quảng cáo, không có gì khuất tất ở đây cả.

Đến lúc này thì khách hàng đã vỡ lẽ ra họ bị “lừa” một cách không thể thật thà hơn. Không có bằng chứng hay lý do gì để khởi kiện nhà bán hàng, người mua đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Phi vụ này của Comisar đi vào sách giáo khoa của những kẻ lừa đảo khi hoàn toàn né được những cáo buộc liên quan đến pháp luật (mặc dù về sau, rồi ông cũng bị vào tù trong một phi vụ khác). Chỉ bằng những lời lẽ không thể nào thật hơn, Comisar đã chứng minh rằng, sức mạnh của ngôn từ thật vô cùng khó lường. Chỉ cần muốn, người ta có thể đổi trắng thay đen một cách rất ư dễ dàng. Giữa dòng đời nhiễu nhương, nơi lòng tin của con người liên tục bị thử thách, đừng chỉ đề phòng với những lời nói dối, vì biết đâu, ngay cả những lời nói thật 100% đấy cũng chắc gì đã tốt đẹp hơn?

( Sưu tầm )