THAN ÔI! CŨNG MỘT KIẾP NGƯỜI

Phuong Trach Ngô

THAN ÔI! CŨNG MỘT KIẾP NGƯỜI.

Cụ Bà đi nhặt ve chai mất bên vệ đường.

Một cái chết lặng lẽ và khoảng trống mang tên an sinh xã hội

Một cụ bà gục xuống bên vệ đường, bên cạnh là chiếc bao ve chai cũ kỹ.

Không còi hú, không bệnh viện kịp thời, không người thân bên cạnh.

Chỉ có một cuộc đời khép lại trong im lặng.

Cái chết ấy không phải là tai nạn hiếm hoi. Nó là hệ quả của một hệ thống an sinh xã hội thiếu vắng, nơi người già không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức.

Ở những quốc gia phát triển, tuổi già là giai đoạn được chăm sóc. Người cao tuổi có lương hưu tối thiểu, có bảo hiểm y tế, có dịch vụ chăm sóc tại nhà, có nhà dưỡng lão, có những cơ chế bảo vệ để không ai phải chết trên vỉa hè vì mưu sinh. Xã hội coi việc bảo đảm phẩm giá cho người già là một nghĩa vụ căn bản.

Còn ở Việt Nam, quá nhiều người già không có lương hưu. Họ từng lao động cả đời trong khu vực phi chính thức: bán hàng rong, làm thuê, làm ruộng nhỏ lẻ. Khi sức khỏe cạn dần, họ không có điểm tựa. Không lương hưu. Không trợ cấp đủ sống. Không hệ thống chăm sóc dài hạn. Cuối cùng, họ ra đường—nhặt ve chai, bán vé số, bốc vác—đổi từng đồng lẻ lấy một bữa ăn.

Một xã hội được đo bằng cách nó đối xử với những người yếu thế nhất.

Và người già là thước đo không thể chối cãi.

Khi một cụ bà phải kéo lê tấm lưng còng trên đường phố để nhặt từng chai nhựa, đó không phải là “ý chí vượt khó”. Đó là sự thất bại của chính sách. Khi cụ chết bên vệ đường, đó không phải là “số phận”. Đó là khoảng trống của an sinh xã hội.

Người ta thường nói về tăng trưởng, về chỉ số, về thành tích. Nhưng tăng trưởng nào có ý nghĩa nếu nó không đủ để bảo vệ những người đã cống hiến cả đời? Thành tích nào có giá trị nếu cái kết của tuổi già là một cái chết lặng lẽ giữa phố?

Một bà cụ lớn tuổi đáng lẽ phải được chăm lo—được nghỉ ngơi, được chữa bệnh, được sống những năm cuối đời trong an toàn và tôn trọng. Thay vào đó, bà phải mưu sinh đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là lựa chọn của bà. Đó là lựa chọn mà xã hội đã không làm.

Cụ bà đã ra đi. Nhưng câu hỏi còn ở lại:

Bao nhiêu người già nữa sẽ phải đi nhặt ve chai cho đến khi không còn đứng dậy được?

Và bao lâu nữa, an sinh xã hội mới thôi là khẩu hiệu để trở thành điểm tựa thực sự cho những phận người yếu thế?

Im lặng trước những cái chết như vậy cũng là một hình thức chấp nhận.

Còn lên tiếng, ít nhất, là cách để nhắc nhau rằng: tuổi già không nên là một cuộc mưu sinh đến chết.

Quy Nguyen


 

 Đức chính thức lên án đàn áp xuyên quốc gia của Việt Nam

Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do

 Đức chính thức lên án đàn áp xuyên quốc gia của Việt Nam

Berlin, 19–12–2025 – Bộ Ngoại giao Đức đã chính thức lên án mọi hình thức đàn áp xuyên quốc gia, sau khi nhà báo Lê Trung Khoa, công dân Đức, bị phía Hà Nội sách nhiễu từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Trong tuyên bố gửi báo chí, Bộ Ngoại giao Đức khẳng định:

“Đàn áp xuyên quốc gia vi phạm nhân quyền của những người bị ảnh hưởng và xâm phạm chủ quyền của các quốc gia liên quan.”

Đức nhấn mạnh rằng tự do báo chí và tự do ngôn luận là những quyền cơ bản, và lập trường này đã được chính phủ Đức nêu rõ với phía Việt Nam ở nhiều cấp độ, bao gồm cả Đại sứ quán Việt Nam tại Berlin.

Bộ Ngoại giao Đức cũng cho biết đang phối hợp với các cơ quan an ninh Đức để theo dõi và xử lý các đe dọa tiềm tàng đối với những cá nhân sinh sống tại Đức, cho thấy Berlin coi đây là vấn đề an ninh và chủ quyền quốc gia, không chỉ là tranh chấp cá nhân.

Liên quan đến khả năng dẫn độ, Đức làm rõ: Bộ Tư pháp Liên bang Đức, chứ không phải Bộ Ngoại giao, có thẩm quyền xử lý các yêu cầu dẫn độ. Tuy nhiên, theo nguyên tắc pháp lý của Đức:

  • Đức không dẫn độ công dân Đức sang nước khác;
  • Đức chỉ dẫn độ nếu hành vi bị cáo buộc cũng là tội phạm theo luật Đức;
  • Hoạt động báo chí không phải là tội phạm ở Đức.

Vì vậy, các công dân Đức như ông Lê Trung Khoa, cũng như ông Nguyễn Văn Đài và bà Huệ Như, sẽ không bị dẫn độ về Việt Nam.

Vụ việc này được xem là một trường hợp điển hình của đàn áp xuyên biên giới, trong đó một chính quyền tìm cách xuất khẩu mô hình kiểm duyệt và bịt miệng ra ngoài lãnh thổ. Tuyên bố của Đức gửi đi thông điệp rõ ràng: chủ quyền quốc gia và tự do ngôn luận sẽ được bảo vệ trước mọi hành vi đàn áp từ bên ngoài.


 

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

 “CHA DONALD CALLOWAY: TỪ NGHIỆN NGẬP VÀ TỘI LỖI ĐẾN ƠN GỌI LINH MỤC”

Thao Teresa

  1. Xuất thân và tuổi thơ

Donald Calloway sinh ngày 29 tháng 6 năm 1972 tại Dearborn, Michigan, Hoa Kỳ. Gia đình ông sau đó chuyển đến West Virginia, rồi sang miền Nam California (Los Angeles – San Diego). Do cha/cha dượng phục vụ trong quân đội, gia đình thường xuyên di chuyển, khiến tuổi thơ của ông không có nhiều sự ổn định.

  1. Tuổi trẻ lạc lối: nghiện ngập – tội lỗi – mafia Nhật

Lớn lên trong môi trường thiếu định hướng, Donald rơi vào con đường sa ngã rất sớm:

– Khoảng 11 tuổi, ông đã bắt đầu dùng ma túy, nghiện ngập và sống buông thả.

– Ông bỏ học giữa chừng, lang thang và tiếp tục chìm trong tệ nạn.

– Khi gia đình chuyển sang Nhật Bản, Donald bỏ nhà đi, tham gia vào lối sống trụy lạc và dính líu đến tội phạm.

– Ông trở thành người vận chuyển ma túy và tiền cho mafia Nhật Bản (Yakuza).

– Năm 15 tuổi, ông bị trục xuất khỏi Nhật Bản vì các hoạt động phạm pháp.

– Trở về Mỹ, Donald nhiều lần vào trung tâm cai nghiện, nhưng liên tục tái nghiện.

18 tuổi, ông bị bắt và vào tù tại Louisiana.

– Thời gian này, Donald sống lang thang, nghiện ngập nặng, tinh thần suy sụp, có lúc muốn kết thúc cuộc đời mình.

Đó là giai đoạn đen tối nhất – tưởng chừng không còn hy vọng cho tương lai.

  1. Bước ngoặt hoán cải – Ánh sáng trở lại

Ơn Chúa đến một cách bất ngờ nhưng mạnh mẽ:

– Một đêm kia, trong lúc tâm hồn trống rỗng và rối loạn, Donald vô tình lấy từ tủ sách gia đình một quyển sách về Đức Mẹ Medjugorje.

– Khi đọc, ông cảm nhận một sự đánh động sâu xa: nỗi hối hận, khao khát thay đổi và ước muốn trở về với Thiên Chúa.

– Ông bắt đầu đến nhà thờ, tham dự Thánh lễ, xưng tội và quyết tâm làm lại cuộc đời.

– Nhờ ơn sủng này, ông xin gia nhập –  Dòng Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm – MIC, một dòng tu nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót.

Từ một kẻ sa đọa, Donald bước vào hành trình trở thành môn đệ của Đức Kitô.

  1. Học vấn – Đào tạo – Lãnh chức linh mục

Sau khi hoán cải, Donald quyết tâm học hành và tu luyện:

– Ông hoàn thành chương trình Đại học (B.A.) tại – Franciscan University of Steubenville.

– Học Thần học tại – Dominican House of Studies, nhận bằng M.Div. và S.T.B.

– Tiếp tục học S.T.L. chuyên ngành Thánh Mẫu học (Mariology) tại International Marian Research Institute.

– Ngày 31 tháng 5 năm 2003, Donald Calloway được – truyền chức linh mục tại National Shrine of the Divine Mercy (Massachusetts, Hoa Kỳ).

Từ đây, cuộc đời ông bước sang chương mới: sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và Hội Thánh.

  1. Sứ vụ linh mục – Truyền giáo – Viết sách

Trong sứ vụ của mình, cha Donald Calloway đã phục vụ với nhiều vai trò:

– Giữ các nhiệm vụ quan trọng trong Dòng MIC như – Vicar Provincial và Vocation Director.

– Trở thành nhà giảng thuyết – nhà truyền giáo nổi tiếng khắp thế giới.

– Tác giả của nhiều sách thiêng liêng, đặc biệt cuốn “Consecration to St. Joseph” được hàng triệu tín hữu đón nhận.

Giảng thuyết mạnh mẽ về sức mạnh của Kinh Mân Côi, lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót Chúa.

– Dẫn các chuyến hành hương đến nhiều thánh địa trên thế giới.

– Vì yêu thích lướt sóng, ngài được nhiều người gọi bằng biệt danh dễ thương: “the surfer priest”  linh mục lướt sóng.

  1. Ý nghĩa từ cuộc đời cha Donald Calloway

Câu chuyện đời ngài là một chứng tá đầy sức mạnh:

– Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai, dù họ tội lỗi đến mức nào.

– Không bao giờ quá muộn để quay đầu và trở về với Chúa.

– Lòng sùng kính Đức Mẹ có thể chạm đến những tâm hồn tội lỗi nhất.

– Quá khứ không quyết định tương lai – ơn Chúa có thể làm mới toàn bộ cuộc đời.

Ngày nay, cha Calloway dùng chính dấu tích đau thương của tuổi trẻ để nâng đỡ những ai đang nghiện ngập, tuyệt vọng, lạc lối – chứng minh rằng:

Không ai là quá tội lỗi để Thiên Chúa không thể cứu.

  1. Trích từ cha Donald Calloway

“Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao thật sự của thế giới.”

– Thế giới có nhiều “ngôi sao”:

– cầu thủ bóng đá

– ca sĩ nổi tiếng

– diễn viên

Nhưng tất cả rồi sẽ qua đi.

Chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao không bao giờ lụi tàn

là Đấng luôn tỏa sáng và dẫn dắt nhân loại.”

Câu chuyện hoán cải của cha Donald Calloway cho chúng ta thấy rằng không có ai quá tội lỗi để bị Chúa bỏ rơi, và cũng không có vết thương nào sâu đến mức ân sủng không thể chữa lành. Một con người từng nghiện ngập, sa đọa, bạo lực, vô thần… đã trở thành một linh mục thánh thiện, được cả thế giới biết đến như một chứng nhân mạnh mẽ của Lòng Thương Xót Chúa và tình yêu của Đức Mẹ.

Chúa đã không chọn người hoàn hảo. Chúa chọn người “đã từng gãy đổ” để nói với nhân loại rằng ơn Chúa mạnh hơn bóng tối, và ai biết mở lòng ra thì đều có thể trở nên mới.

Nhìn vào cuộc đời cha Calloway, chúng ta cũng được mời gọi soi lại chính mình:

Có những vùng tối nào trong trái tim mà ta chưa trao cho Chúa?

Có những thói quen, yếu đuối, vết thương hay tội lỗi nào mà ta nghĩ rằng “mình không bao giờ thay đổi được”?

Câu chuyện của ngài nhắc chúng ta nhớ:

Ơn Chúa không nhìn quá khứ, chỉ nhìn trái tim biết trở về.

Nguồn tham khảo chính:

“Donald Calloway”  Wikipedia. (Wikipedia 1)

“Biography”  fathercalloway.com. (fathercalloway.com 11)

Bài viết “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”. ([Hội dòng Đaminh Tam Hiệp][6])

Link chính thức để đọc thêm: [https://fathercalloway.com/…/fathercalloway…/biography/)

[1]: https://en.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[2]: https://de.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[3]: https://cgvdt.vn/roi-bo-mafia-nhat-de-tro-thanh-linh-muc… “Rời bỏ mafia Nhật để trở thành linh mục”

[4]: https://www.columbuscatholicwomen.com/an-interview…/… “An Interview with Fr. Donald Calloway, MIC”

[5]: https://www.catholic.com/profile/fr-donald-calloway… “Fr. Donald Calloway | Catholic Answers Profile”

[6]: https://daminhtamhiep.net/…/tu-ke-chuyen-ma-tuy-cho…/… “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”

[7]: https://chnetwork.org/…/fr-donald-calloway-m-c…/… “Fr. Donald Calloway, M.I.C.: Kicked Out of Japan as a Teen …”

[8]: https://www.206tours.com/…/fr-donald-calloway-the…/… “Fr. Donald Calloway, The Pilgrimage King!”

[9]: https://www.thedivinemercy.org/…/maybe-youve-seen-him… “Maybe You’ve Seen Him on Film?”

[10]: https://saintpaulseminary.org/…/joyful-catholic…/… “Joyful Catholic Leaders Show: Out of the depths with Fr. …”

[11]: https://fathercalloway.com/biography/?utm_source=chatgpt.com “Biography”


 

11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nguyễn Văn Tịch 

 11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nhà Tạm Lánh Mai Tiến không đồng là nơi giúp cho các mẹ bầu và mẹ đơn thân. Đây là Quán Trọ của Giáo hội, giáo phận Xuân Lộc cho những mẹ đang gặp khó khăn đến tá túc lúc bị bỏ lại, lúc khó khăn, lúc bị bạo hành, lúc lang thang… Quán Trọ Mai Tiến luôn đủ chỗ cho các mẹ và các bé, bởi vì tấm lòng của các đức giám mục và của Giáo hội luôn luôn thương xót, thì chỗ ở vẫn còn.

11 mẹ bầu và 34 mẹ đơn thân hiện trong Nhà Tạm Lánh là con số ai nghe cũng hỏi : còn đủ chỗ, đủ phòng cho các mẹ nữa không. Nhà Tạm Lánh Mai Tiến đã dự trù những căn phòng, những bữa cơm, sữa bỉm, nơi chăm sóc trẻ… Tôi chỉ nghĩ đơn giản, mình còn có tấm lòng thì các mẹ và các bé vẫn chỗ ăn ở….

Thật ấm lòng khi thấy các mẹ muốn phá thai, giờ tiếp tục cưu mang con và sinh con. Thật ý nghĩa khi thấy các bé đáng lẽ đã dừng lại ở Nghĩa Trang Thai Nhi giờ vẫn được sống và được yêu thương, được lớn lên. Thật vui khi thấy các mẹ lại đầy sức sống : đi làm, sống tốt hơn, sống trên đôi chân mình và chăm sóc con cái của mình…. Với đủ công việc : rửa chén, bảo mẫu, giáo viên, công nhân, làm việc nhà,… để các mẹ có cuộc sống và nuôi con cái.

Sáng sáng các mẹ gửi con lên nhà trẻ, tung tăng đi làm, chiều về lên nhà trẻ đón con về, chăm sóc con, tối ăn cơm chung, đọc kinh cầu nguyện và nghỉ ngơi ấm áp, riêng tư. Mỗi phòng các mẹ tự sắp xếp và chăm sóc phòng của mình ngăn nắp, sạch sẽ như căn nhà riêng để cuộc sống các mẹ có tư cách, có trách nhiệm và tử tế với mọi người chung quanh. Khi nào các mẹ hoà giải được gia đình, tự lập thì rời Nhà Tạm Lánh Mai Tiến để hội nhập với xã hội.

Các bé được tiêm vaccin theo chương trình của chính phủ cũng rất đầy đủ. Nhà sơ sinh cho các bé dưới 1,5 tuổi, nhà trẻ cho các bé từ 1,5-6 tuổi. Tất cả cũng trong Nhà Tạm Lánh Mai Tiến, thuận tiện. Còn các bé lớp 1 trở lên thì ra trường nhà nước học, hết giờ học về lại Nhà Tạm Lánh.

Xin cám ơn Giáo hội Mẹ đã cho con sứ vụ này, Xin cám ơn tất cả quý vị và các bạn cùng con làm thành Quán Trọ không đồng cho những phận người bị bỏ lại, tha hương và gánh nặng nề đến 4 con. Cầu xin ơn Trên ban sức khoẻ, bình an, lòng thương xót và thánh thiện để chúng ta tiếp tục là Quán Trọ cho các phận người mang gánh nặng nề không phân biệt tôn giáo.

Linh Mục Giuse Nguyễn Văn Tịch, TB BVSS giáo phận Xuân Lộc.


 

Chế độ Hà Nội ra lệnh truy nã, truy tố người bất chấp luật lệ-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 11, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Ngày 28 Tháng Mười 2025, Công an tỉnh Hưng Yên thông báo ban hành “Quyết định truy nã” bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như), người bị khởi tố hình sự theo Điều 117 Bộ luật Hình sự về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước”.

Khoảng hơn một tháng sau, ngày 5 Tháng Mười Hai 2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an tiếp tục ra thông báo ban hành “Quyết định truy nã” đối với luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa cùng về tội danh theo Điều 117 tương tự.

Luật sư Nguyễn Văn Đài (bên phải) và nhà báo Lê Trung Khoa (bên trái) chụp hình chung với bà luật sư của họ. Hai ông bị CSVN “khởi tố” và “truy nã” rồi sẽ xử án khiếm diện. (Hình: FB Lê Trung Khoa)

Được biết, cả ba người bị truy nã gồm bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như), luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa hiện đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Nếu chỉ đọc bản tin, công chúng có thể cho rằng đây là hoạt động tố tụng bình thường. Nhưng khi tham chiếu với Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, đặc biệt tại các điều 229 và 231 quy định về truy nã, thì bức tranh tư pháp hiện ra hoàn toàn khác, đây không phải là thực thi pháp luật, mà là sự bẻ cong pháp luật một cách cố ý vì nhu cầu chính trị của chế độ.

Truy nã, một biện pháp tố tụng

Luật tố tụng hình sự CSVN quy định rất rõ, rằng truy nã chỉ được áp dụng trong phạm vi giới hạn, bao gồm: Khi không xác định được nơi ở của bị can hoặc khi bị can trốn tránh pháp luật, cụ thể như sau:

– Điều 229 quy định: Truy nã chỉ đặt ra trong trường hợp “không biết rõ bị can đang ở đâu” sau khi đã hết thời hạn điều tra.

– Điều 231 tiếp tục khẳng định: Chỉ truy nã khi “bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu”.

Hai điều luật này không hề mơ hồ, không có khoảng trống để có thể “linh hoạt” diễn giải và cũng không có ngoại lệ cho ý chí chính trị. Nôm na, truy nã chỉ hợp pháp khi không biết họ ở đâu hoặc họ đang lẩn trốn.

Trong khi đó, sự thật không thể chối cãi là cả ba người đang bị truy nã, gồm các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài đều “ở đâu” một cách không thể rõ ràng hơn! Cả ba đều đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức, có địa chỉ rõ ràng, có quy chế cư trú. Đồng thời, họ cũng không hề có hành vi lẩn trốn đi đâu cả.

Trong đó, bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như) và luật sư Nguyễn Văn Đài viết bài, đi khắp nơi để diễn thuyết về thực trạng nhân quyền Việt Nam. Nhà báo Lê Trung Khoa vẫn đăng tải hàng ngày thông tin chính trị trong nước trên trang mạng xã hội cá nhân của mình và trên báo mạng Thoibao.de.

Chế độ CSVN biết rất rõ điều này, bằng chứng là trong chính bản cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao truy tố ông Lê Trung Khoa, được trích đăng tải trên truyền thông trong nước, tại mục lý lịch “Nơi ở hiện nay” ghi rất rõ: “Cộng hòa Liên bang Đức”. Cho thấy, chính cơ quan tiến hành tố tụng của chế độ CSVN thừa nhận rằng họ biết rõ nơi cư trú của ông Khoa.

Vậy câu hỏi pháp lý đặt ra không chỉ là: Có quyền truy nã hay không, mà là lấy tư cách gì để truy nã khi điều kiện pháp lý để truy nã không hề tồn tại? Và truy nã, một biện pháp tố tụng, trong trường hợp này, đã bị bẻ cong để biến thành một hành xử chính trị.

Truy nã không đúng luật, dấu hiệu điển hình của lạm quyền tố tụng

Khi cơ quan điều tra cao nhất thuộc về cấp bộ trung ương (Bộ Công an) ban hành lệnh truy nã trong điều kiện không có các yếu tố luật định gồm “không biết rõ nơi ở” và “trốn tránh”, thì hành vi tố tụng đó không thể là sai sót nghiệp vụ thông thường, mà đích thị, đó là sự lạm quyền tố tụng.

Nghiêm trọng hơn, đó là biến một biện pháp tố tụng thành công cụ chính trị, nhằm tạo hiệu ứng tâm lý thông qua truyền thông rằng các cá nhân này là “tội phạm bỏ trốn”, trong khi thực tế họ đang sinh sống công khai, hợp pháp và sinh hoạt bình thường tại một quốc gia khác, chứ không hề trốn tránh luật pháp.

Nói cách khác, đây là một dạng “truy nã chính trị trá hình”.

Vấn đề cốt lõi là tuy ban hành lệnh truy nã hình sự đối với các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài đầy vẻ nghiêm trọng như thế, nhưng lại trở thành trò hề cười cợt cho chính những người bị truy nã mà thôi. Vì lẽ, họ biết rất rõ rằng chế độ Cộng Sản Việt Nam không thể viện dẫn lệnh truy nã để có thể chạm mảy may đến sự tự do của họ được.

Thông thường, sau lệnh truy nã nội địa, thì lệnh ấy được chuyển đến cơ quan Interpol quốc tế để được ban hành lệnh truy nã đỏ. Thế nhưng, một lệnh truy nã đỏ chỉ có thể được ban hành khi sự khởi tố, truy nã nội địa ấy không trái với luật pháp trong nước và tiêu chuẩn pháp quyền quốc tế.

Thế nhưng, với việc khởi tố hình sự các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài bằng điều luật 117 Bộ luật Hình sự Việt Nam, một điều luật vô pháp và mang nặng màu sắc chính trị, thì bản thân sự khởi tố ấy đã không hề phù hợp với tiêu chuẩn pháp quyền quốc tế. Cho nên, việc yêu cầu Interpol ban hành một lệnh truy nã đỏ là hoàn toàn không bao giờ được chấp nhận.

Chưa kể đến việc chế độ ban hành quyết định truy nã trái pháp luật. Vì nếu một quyết định vi phạm chính luật tố tụng của quốc gia ban hành, thì trên bình diện quốc tế, nó không khác gì một văn bản pháp lý bị vô hiệu.

Bà Đặng Thụ Huệ, bút danh Huệ Như đang ở nước Đức cũnh bị chế độ Hà Nội ra lệnh “khởi tố” và “truy nã” vì hoạt động chống chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam. (Hình: FB Huệ Như)

Điều này lý giải vì sao trong thực tế, những lệnh truy nã mang màu sắc chính trị như vậy không có giá trị thực thi tại Đức hay tại hầu hết các quốc gia văn minh khác. Không phải vì họ “chống” chế độ CSVN, cũng không phải vì lý do ý thức hệ gì cả, mà đơn giản vì họ không công nhận hành vi lạm dụng tố tụng theo cách mà chế độ trong nước thường hành xử một cách phổ biến.

Hệ quả nguy hiểm về niềm tin pháp quyền

Một quốc gia chỉ có thể yêu cầu công dân tôn trọng pháp luật khi chính cơ quan công quyền hành xử trong khuôn khổ pháp luật. Khi luật tố tụng hình sự quy định rất rõ về các điều kiện truy nã hình sự, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn cố tình bẻ cong theo ý mình, thì thông điệp gửi ra xã hội là gì nếu không phải là sự vô pháp? Nếu không phải vì động cơ chính trị? Trong trường hợp này, niềm tin pháp quyền có là gì khi chính cơ quan công quyền ngang nhiên vi phạm pháp luật?

Đó chính là dấu hiệu điển hình của một nền tư pháp bị chính trị hóa.

Tóm lại, bằng việc ban hành các “Quyết định truy nã” hình sự đối với bà Đặng Thị Huệ, nhà báo Lê Trung Khoa và luật sư Nguyễn Văn Đài, những người bất đồng chính kiến đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức, đã cho thấy tình trạng vô pháp của chế độ CSVN nặng nề như thế nào. Không chỉ đối với đồng bào trong nước, mà nay còn “vươn vòi” ra thế giới để đàn áp đồng bào sinh sống tại hải ngoại.

Theo đó, chế độ đã công nhiên lạm dụng pháp lý, bẻ cong các thủ tục tố tụng, biến chúng trở thành các biện pháp đàn áp nhân dân, phục vụ cho nhu cầu chính trị, củng cố quyền lực chế độ độc tài, phản động vốn đã lỗi thời và tồn tại trong sự oán ghét, xem thường của nhân dân.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 8 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

Vụ chính quyền Trump trục xuất bà Melissa Trần phơi bày bi kịch của người Việt nhập cư (BBC)

 BBCVietnamese

Cảnh sát di trú đang thực hiện một chiến dịch truy quét nhập cư bất hợp pháp vào đầu năm 2025 tại Chicago (trái); bà Melissa Tran (phải)

Sau hàng chục năm sống tại Mỹ với tấm thẻ xanh, bà Melissa Trần đã bị trục xuất về Việt Nam ngày 17/11/2025.

Hành trình bay 48 giờ được mô tả là “đầy đau khổ”.

Bà Melissa Trần, tên thật là Trần Thị Mộng Tuyền, đã bị cùm tay và chân trong suốt chuyến bay dài 48 tiếng, qua nhiều chặng dừng, từ Mỹ về Việt Nam.

Trong tin nhắn gửi luật sư, bà Melissa Trần nói rằng bà cảm thấy “bị đối xử tồi tệ còn hơn một con vật”.

Hiện bà đang ở với một người anh họ tại Việt Nam, để lại gia đình gồm chồng và bốn con ở Maryland, Mỹ.

Luật sư của bà Melissa Trần nói với BBC News Tiếng Việt rằng vụ trục xuất là “một bi kịch”, trong khi cộng đồng ở Mỹ vẫn đang nỗ lực để đưa bà trở về Mỹ.

“Bà Melissa Trần nhận được sự ủng hộ to lớn từ cộng đồng địa phương.”

“Tất cả những người quen biết bà ấy đều đã bày tỏ rằng họ sẽ làm những gì có thể để hỗ trợ bà ấy.”

“Cần thấy rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng về mặt tư pháp và chúng ta cần tìm cách đưa bà ấy trở về,” luật sư Jennie Pasquarella nói với BBC News Tiếng Việt, và nhấn mạnh rằng việc này hiện đang phụ thuộc rất lớn vào các chính trị gia Mỹ.

Về khả năng bà Melissa quay lại nước Mỹ, bà Pasquarella nói “khó” nhưng “vẫn có thể”.

Bà Jennie Pasquarella cũng chỉ trích cách thức mà chính quyền Mỹ đối xử với những người bị giam giữ hoặc bị trục xuất, như cùm tay chân họ, là đi ngược lại hiến pháp và và các chuẩn mực quốc tế, có thể cấu thành hành động “tra tấn”.

“Luật pháp Mỹ quy định chính phủ không được phép giam giữ người nhập cư chỉ nhằm mục đích trục xuất, theo cách có tính chất trừng phạt như thể họ đang bị xử lý vì một tội hình sự,” bà Jennie Pasquarella lý giải.

Bà cho rằng đây là một chiến dịch nhằm khiến người nhập cư khiếp sợ và tự nguyện rời đi.

Phóng viên BBC từng tới thăm một trung tâm trục xuất ở New York và chứng kiến cảnh những người di cư bị “đối xử như thú vật”, khiến nhiều người sang chấn tâm lý.

Luật sư Jennie Pasquarella và bà Melissa Trần

Bà Melissa Trần từ Việt Nam đến Mỹ vào năm 1993, khi mới 11 tuổi, với tư cách là người tị nạn.

Sau đó bà trở thành thường trú nhân hợp pháp.

Năm 2001, bà bị kết tội trộm cắp.

Trong thời gian 2003-2004, tòa di trú ra lệnh trục xuất bà, nhưng Việt Nam từ chối nhận lại, nên bà vẫn được ở Mỹ và đi trình báo đều đặn với Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE) suốt hơn 20 năm.

Bà khai rằng khi còn trẻ, bạn trai cũ của bà trộm tiền của một chủ lao động, nhưng bà nhận tội, hoàn trả số tiền đánh cắp và ngồi tù sáu tháng, theo luật sư.

Thời điểm đó, bà không biết rằng thỏa thuận nhận tội trong vụ án này có thể dẫn đến việc bà bị trục xuất.

Điều này có nghĩa, về mặt luật pháp, bà Melissa Trần sau khi lãnh án tù đã nằm trong danh sách có thể bị trục xuất.

Điều đáng nói là trong nhiều năm, Việt Nam không nhận những người tị nạn rời khỏi đất nước trước năm 1995.

Do đó, bà Trần trong suốt những năm qua vẫn sinh sống bình thường tại Mỹ và chỉ phải đi trình diện viên chức di trú theo quy định – điều mà bà vẫn tuân thủ.

Đây là một thủ tục đăng ký thông thường mà bà đã thực hiện trong hàng chục năm qua: trình giấy tờ tùy thân, sau đó quan chức ICE cấp cho bà một ngày hẹn tiếp theo để ra trình diện.

Nhưng mọi chuyện đã thay đổi trong nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Trump.

Chính phủ Việt Nam gần đây đã chấp thuận những trường hợp bị Mỹ trục xuất và là những người rời Việt Nam trước mốc 1995.

Hồi tháng 2/2025, chính phủ Việt Nam đã cam kết hỗ trợ việc hồi hương của hàng chục công dân bị giam giữ tại Hoa Kỳ và nhanh chóng xử lý các yêu cầu trục xuất mới sau khi chính quyền ông Trump đe dọa áp thuế thương mại và trừng phạt thị thực.

Tháng 10/2025, bà Melissa Trần bị bắt giam khi ra trình diện ICE, sau đó bị giam năm ngày ở Baltimore, Maryland “mà không có lời giải thích”.

Sau đó, bà Melissa Trần được cho về nhà nhưng rồi bị bắt lại vào lần trình diện kế tiếp hồi tháng 11/2025, bị tạm giam, sau đó bị đưa lên máy bay đến Louisiana, rồi lên máy bay về Việt Nam, mà “không có bất kỳ thông báo nào”.

Một trong những giải pháp được xem là mang lại nhiều hi vọng nhất hiện nay là xin ân xá cho bà Melissa Trần từ thống đốc sắp nhậm chức của bang Virginia – nơi bà Trần bị kết tội trộm cắp.

Tuy nhiên, quy trình xin ân xá này rất khó khăn và sẽ kéo dài, theo luật sư.

Trong khi đó, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã trả lời về vụ việc của bà Trần:

“ICE đã bắt giữ Trần Thị Mộng Tuyền, một người nhập cư bất hợp pháp từ Việt Nam, với tiền án bao gồm làm giả, trộm cắp, gian lận và viết séc gian lận. Một thẩm phán di trú đã ban hành lệnh trục xuất cuối cùng cho bà vào năm 2004. Bà ấy có hơn 20 năm để rời khỏi Hoa Kỳ và được hưởng đầy đủ quy trình tố tụng hợp pháp,” Trợ lý Bộ trưởng An ninh Nội địa Tricia McLaughlin viết trong phản hồi với kênh truyền thông WJZ Investigates. “Thông điệp của Tổng thống Trump và Bộ trưởng Noem rất rõ ràng: người nhập cư bất hợp pháp phạm tội không được chào đón tại Hoa Kỳ.”

Thượng nghị sĩ Dân chủ Chris Van Hollen của Maryland đã lên án vụ trục xuất bà Trần, theo CBS News, và nói rằng đây là một câu chuyện “quá bi thảm”, “không đáng để xảy ra”, và rằng văn phòng của ông sẽ nỗ lực đưa bà quay về Mỹ.

Hàng trăm người Mỹ gốc Việt đã bị trục xuất, hàng ngàn người nằm trong nguy cơ cao

Nhiều người Việt đã rời đất nước để sang Mỹ tị nạn sau 30/4/1975

Trong vài tháng qua, đã có hàng trăm người gốc Việt bị Mỹ trục xuất về Việt Nam, đặc biệt trong các tháng Sáu và Bảy, theo luật sư.

Chính phủ Mỹ và Việt Nam không công bố chính thức các con số này.

Ước tính hiện có khoảng 16.000 người từ Đông Nam Á – gồm Việt Nam, Campuchia và Lào – có lệnh trục xuất của chính phủ Mỹ, nhưng chưa bị trục xuất.

Những người này hiện đều có nguy cơ bị giam giữ và trục xuất ngay lập tức, trong khi chính phủ Mỹ đang cố gắng yêu cầu các quốc gia quê hương của họ cấp giấy tờ hồi hương.

Trong trường hợp các quốc gia này không đồng ý, thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ cố gắng trục xuất họ sang một nước thứ ba, luật sư cho hay.

“Đây là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với những trường hợp này, bởi vì việc trục xuất sang nước thứ ba sẽ đưa họ đến những nơi mà họ không có bất kỳ mối liên hệ nào.

“Thường là trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, bao gồm cả việc một số người bị bỏ tù ngay khi họ đặt chân tới nơi.

“Và mọi thứ đều được thực hiện trong bí mật. Chính phủ không hề thông báo trước cho họ rằng họ đang bị đưa tới một nước thứ ba. Họ [chính quyền] cũng không cho họ bất kỳ cơ hội nào để phản đối quyết định trục xuất đó,” luật sư Jennie Pasquarella nói.

Tháng 7/2205, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã nối lại các chuyến bay trục xuất người nhập cư bằng việc đưa năm người từ Việt Nam, Lào, Jamaica, Cuba và Yemen đến Eswatini, một quốc gia nhỏ bé ở miền nam châu Phi.

Một công dân gốc Việt khác bị Mỹ trục xuất sang Nam Sudan hồi tháng 5/2025.

Chấn thương từ Chiến tranh Việt Nam

Nhưng người Việt chạy khỏi Sài Gòn sau năm 1975 để tới Mỹ tị nạn chịu nhiều vết thương tâm lý chồng chất, theo luật sư Jennie Pasquarella

Theo bà Jennie Pasquarella, điều quan trọng là cần phải nhìn thấy toàn bộ bức tranh của việc trục xuất này.

Đó là bức tranh về một cộng đồng người Việt phải di cư sang Mỹ sau khi “chính phủ Mỹ đã can thiệp vào đất nước của họ” thời Chiến tranh Việt Nam.

Những người này chịu các chấn thương tâm lý chồng chất, theo luật sư.

Họ cũng chính là lớp người rời Việt Nam trước năm 1995 mà nay chính phủ Việt Nam mới tiếp nhận họ (trong trường hợp bị Mỹ trục xuất).

Chiến tranh Việt Nam kết thúc đã dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn ở Đông Dương. Khoảng 1,5 triệu người Việt đã phải rời bỏ đất nước do cuộc chiến này. Một phần rất lớn trong số đó định cư tại Mỹ.

Người nhập cư Việt Nam và con cái của họ chào đời tại Hoa Kỳ tạo nên một trong những cộng đồng người di cư lớn nhất tại Hoa Kỳ, với 2,3 triệu người.

Khi đến Mỹ, những người vừa trải qua cú sốc chiến tranh và lìa xa quê hương lại trải qua một cú sốc khác do thiếu hụt các nguồn lực hỗ trợ dành cho cộng đồng người tị nạn.

Theo luật sư, nhiều người nhập cư mà bà từng tiếp xúc đã trải qua những khủng hoảng về sức khỏe tâm thần. Đây cũng chính là lý do khiến họ hoặc con cái họ phạm tội thời thanh thiếu niên.

Do Việt Nam không tiếp nhận họ, những người này tiếp tục ở lại Mỹ và đã xây dựng một cuộc sống ổn định, khiến bà Jennie Pasquarella cho rằng “rất đau lòng” khi họ bị trục xuất.

“Phần lớn những người hiện nay bị đưa vào diện trục xuất đều trên 40 tuổi. Họ có sự nghiệp, họ đã học hành ở đây, họ có con, có cháu.

“Họ không biết gì về Việt Nam, và vì thế mức độ tổn hại giờ đây nghiêm trọng hơn rất nhiều so với việc họ bị trục xuất cách đây 20–30 năm,” luật sư nói.

Luật nhập cư ‘lỗi thời’

Bà Monica Moreta Galarza bị quật ngã xuống đất khi chồng bà bị bắt bên ngoài tòa án di trú ở thành phố New York

Luật nhập cư được cập nhật lần cuối vào năm 1996 và những thay đổi khiến luật này trở nên hà khắc hơn rất nhiều và làm tăng hậu quả cũng như hình phạt cho những trường hợp như bà Melissa, theo luật sư Jennie Pasquarella.

Nhiều thay đổi cần phải được chỉnh sửa. Nhưng bà Jennie Pasquarella tin này điều này sẽ không xảy ra với một Quốc hội hiện tại mà bà đánh giá là không hiệu quả.

Vụ việc của bà Melissa Trần phản ánh rõ luật nhập cư của Hoa Kỳ lạc hậu đến mức nào, theo luật sư.

“Luật này không tính đến thực tế rằng một người có thể mắc sai lầm từ rất nhiều năm trước, nhưng họ đã chứng minh được họ đã thay đổi hoàn toàn, họ đóng góp cho cộng đồng và xã hội. Và họ không nên bị trừng phạt vì sai lầm đó suốt phần đời còn lại.”

“Nhưng bi kịch là luật không nhìn thấy con người đã thay đổi và đã làm mọi điều mà xã hội mong đợi họ làm. Về cơ bản, luật nói rằng: vâng, anh có thể bị trừng phạt suốt đời, chúng tôi không quan tâm. Bà Melissa là một ví dụ điển hình cho điều đó.”

“Có thể ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực mà chúng ta đang chứng kiến ​​bởi chính phủ liên bang, nhưng tại thời điểm này, chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng và rất khó để kiềm chế chính phủ này và buộc họ phải chịu trách nhiệm,” bà Jennie Pasquarella nói.

Với những người hiện đang trong diện bị trục xuất nhưng vẫn còn ở Mỹ, bà Jennie Pasquarell cho rằng họ nên kiếm tư vấn pháp lý trước khi bị ICE bắt giam.

“Hãy quay lại tòa án nơi họ bị kết án và xem liệu có cơ hội nào để bản án có thể được hủy bỏ hoặc sửa đổi hay không,” bà nói.

Bởi một khi đã bị ICE bắt giam, thì họ sẽ không có thời gian để thực hiện các thủ tục pháp lý để cứu mình.

Và tệ hơn nữa là khi bị trục xuất về Việt Nam, thì cơ hội để quay lại Mỹ của họ là rất mong manh, bà Jennie Pasquarell cho hay.


 

Phạm Đoan Trang – Ngọn lửa không bao giờ tắt

Tri Nguyen Ông Tám 

Trong lịch sử Việt Nam đương đại, hiếm có ai khiến người ta vừa kính nể vừa đau đớn như nhà báo Phạm Đoan Trang. Cô không cầm súng, không đứng trên chiến trường, nhưng lại chọn một mặt trận còn khắc nghiệt hơn: mặt trận của sự thật giữa một xã hội bị bịt miệng. Với cô, ngòi bút không chỉ là công cụ, mà là vũ khí; tự do không chỉ là khái niệm, mà là hơi thở mà cô sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời để bảo vệ.

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Đoan Trang từng là một cô gái bình thường với ước mơ làm báo tử tế. Cô tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, từng làm việc ở các tờ báo lớn, từng được đồng nghiệp yêu mến vì tài năng và sự sắc sảo. Nhưng càng đi sâu vào nghề, cô càng nhận ra rằng ở nơi cô sống, nói thật là một tội lỗi. Năm 2009, khi viết về vụ Formosa và những bất công môi trường, cô bắt đầu bị công an theo dõi, bị đe dọa, bị đánh đập. Nhiều người chọn im lặng. Cô thì không. Cô chọn viết tiếp, viết mạnh hơn, viết rõ hơn.

Những cuốn sách của Đoan Trang – “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” – không phải là những tác phẩm học thuật khô khan. Chúng là những lời thì thầm gan dạ giữa bóng tối, là ánh sáng lọt qua khe cửa nhà tù. Cô viết bằng thứ ngôn ngữ mà bất kỳ người dân nào cũng hiểu, để họ biết rằng mình có quyền, rằng mình không đơn độc. Cô dịch tài liệu về nhân quyền, về bầu cử tự do, về kháng cự bất bạo động, rồi phát miễn phí, bất chấp biết chắc sẽ bị bắt. Cô từng nói: “Tôi không muốn làm anh hùng, tôi chỉ muốn sống đúng với lương tâm mình”. Nhưng chính câu nói ấy đã biến cô thành biểu tượng.

Ngày 6 tháng 10 năm 2020, công an ập vào khách sạn ở Sài Gòn, bắt cô khi cô đang chuẩn bị ra mắt cuốn sách mới. Họ đánh gãy chân cô, kéo lê cô trên sàn như một tội phạm nguy hiểm. Bản án 9 năm tù dành cho “tội tuyên truyền chống nhà nước” đã khiến cả thế giới sửng sốt. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, Ân xá Quốc tế, Liên minh Châu Âu, Quốc hội Mỹ… đều lên tiếng. Nhưng ở trong nước, rất nhiều người chỉ biết khóc thầm.

Trong tù, Đoan Trang vẫn cười. Người thân kể rằng mỗi lần thăm gặp, cô đều hỏi thăm mọi người trước khi nói về mình. Cô từ chối nhận đồ tiếp tế nếu biết đó là từ những người đang gặp khó khăn. Cô tuyệt thực nhiều lần để phản đối việc bị đối xử tệ bạc với tù nhân lương tâm khác. Cô bị biệt giam, bị cắt hết quyền thăm gặp, bị bệnh tật hành hạ vì đôi chân từng bị đánh gãy không được chữa trị tử tế. Nhưng cô vẫn viết. Bằng cách nào đó, những dòng chữ của cô vẫn lọt ra ngoài: “Tôi không hối hận. Nếu được làm lại, tôi vẫn sẽ làm như vậy”.

Có người hỏi: vì sao một người phụ nữ nhỏ bé, không chồng con, không tài sản, lại sẵn sàng trả giá đắt đến thế? Câu trả lời nằm trong chính cuộc đời cô. Đoan Trang yêu đất nước này theo cách sâu sắc nhất: không phải bằng những lời hô hào trên tivi, mà bằng việc dám chỉ ra những ung nhọt để đất nước được chữa lành. Cô tin rằng một dân tộc chỉ thực sự tự do khi không ai phải sợ hãi vì nói lên sự thật.

Hôm nay, khi cô vẫn đang bị giam giữ ở một nơi mà ngay cả người thân cũng không được biết chính xác, vẫn có hàng ngàn người âm thầm đọc sách của cô, chia sẻ bài viết của cô, và lặng lẽ tiếp nối tinh thần của cô. Mỗi cuốn sách bị cấm là một ngọn lửa được thắp lên. Mỗi năm tù của cô là một năm thêm hàng vạn người Việt Nam biết đến khái niệm “quyền con người”.

Phạm Đoan Trang không phải là thánh nữ. Cô cũng sợ đau, cũng cô đơn, cũng từng khóc. Nhưng cô đã chọn cách sống sao cho khi rời khỏi thế giới này, cô không phải xấu hổ với chính mình. Và chính điều đó khiến cô trở thành người phụ nữ Việt Nam đẹp đẽ nhất mà thời đại này có may mắn chứng kiến.

Cô từng viết: “Tự do không phải là thứ chúng ta có, mà là thứ chúng ta làm”. Hôm nay, ngọn lửa Đoan Trang vẫn cháy. Trong song sắt, trong đau đớn, trong im lặng bị áp đặt, cô vẫn đang làm tự do – từng ngày, từng hơi thở.

Và chỉ cần chúng ta còn đọc cô, còn nhắc đến tên cô, còn dám sống thật với lương tâm mình, thì ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt.

Cảm ơn chị, Phạm Đoan Trang.

Vì chị, chúng ta học được rằng sống đáng sống là sống như thế nào.

Và vì chị, chúng ta tin rằng một ngày nào đó, Việt Nam sẽ tự do – như cách chị đã mơ, đã trả giá, và vẫn đang sống.


 

Nga`y 06/12/2023, kỷ niệm 188 năm ngày sanh Pétrus Trương Vĩnh Ký.

Le Thanh Hoang Dan

 Hôm nay 06/12/2023, kỷ niệm 188 năm ngày sanh Pétrus Trương Vĩnh Ký. Ông là một trong 18 nhà bác học hàng đầu của thế kỷ 19, và có tên trong Bách Khoa Từ Điển Larousse. Cộng Sản ghét ông lắm.

Ở Sài Gòn có trường Pétrus Ký. Năm 1975 khi Cộng Sản chiếm Sài Gòn  (họ gọi là giải phóng ?), họ lấy tên lãnh tụ Cộng Sản đặt cho thành phố, tên của Tổng Bí Thư Đảng Lê Duẩn đổi tên cho đại lộ Thống Nhất, và tên của một lãnh tụ Cộng Sản khác là Lê Hồng Phong đặt tên cho trường Pétrus Ký.

Pétrus Ký là niềm hãnh diện của nhiều người trong Nam. Nhiều người nổi tiếng trong Nam là cựu học sinh trường mang tên Ông.

Tinh thần độc lập và yêu nước trường này được bộc lộ rõ ràng nhất khi một học trò Pétrus Ký là Trần Văn Ơn bị chánh quyền Pháp nổ súng bắn chết. Trò Ơn đã cùng sinh viên và học sinh Sài Gòn biểu tình chống Pháp đầu năm 1950.

Ông sanh ở tỉnh Vĩnh Long ngày 6 tháng 12 năm 1837, và qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1898. Ông đã để lại hơn 100 công trình viết lách và dịch thuật giúp phát triển sự hiểu biết giữa nước Việt Nam và Âu Châu.

Chính nhờ ông mà chữ Quốc Ngữ ngày nay trở thành chữ viết chánh thức của nước Việt Nam, thay vì chữ Nôm và chữ Hán. Sự đóng góp lớn lao này không được Cộng Sản đề cao.

Ông được coi là ông tổ nghề báo ở Việt Nam, vì ông đã sáng lập và làm Tổng Biên Tập cho tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam tên Gia Định Báo.

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo

3 người Việt bị bắt trong ngày đầu tiên ICE bố ráp di dân ở New Orleans

Ba’o Nguoi-Viet

December 4, 2025

NEW ORLEANS, Louisiana (NV) – Có ba người Việt Nam trong số 16 người bị Cảnh Sát Di Trú (ICE) bắt trong ngày ngày đầu của chiến dịch bố ráp ở New Orleans, theo thông cáo báo chí của Bộ Nội An (DHS) hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai.

Ba người Việt Nam bị bắt trong ngày đầu tiên của chiến dịch “Catahoula Crunch” tại thành phố lớn nhất Louisiana là Bình Văn Tô, Vũ Hoàng Phạm, và Hùng Ngọc Trần.

Ông Bình Văn Tô (trái) bị còng tay và đứng cạnh một nhân viên ICE trong lúc trả lời phỏng vấn đài News Nation Network sau khi bị bắt hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai. (Hình: Chụp từ Facebook Ali Bradley)

Theo DHS, ông Bình Văn Tô là “một di dân tội phạm bất hợp pháp” phạm tội ăn cướp, tấn cộng người với vũ khí giết người, bắt cóc, giết người, và hành hung người khác, và từng bị bản án 40 năm tù.

Sau đó, ông được thả ra và bị quản chế, và bị tòa án di trú ra lệnh trục xuất.

Khi được phóng viên Ali Bradley của đài News Nation Network lúc bị bắt, ông Bình trả lời lý do ông bị kết tội: “Tôi rất tiếc. Quý vị biết tôi không bao giờ có ý định làm như quý vị biết. Nó là, quý vị biết đó, nó không phải như vậy. Cho dù sự việc tệ hại thế nào, nó không phải là như vậy, nhưng lại xảy ra như vậy.”

Ông tiếp: “Tôi xin lỗi vì tất cả những gì xảy ra. Sự việc xảy ra như vậy, nhưng không phải vậy. Tôi có sai lầm. Chỉ có tôi. Gia đình tôi. Và tất cả những chuyện này làm vợ tôi phải chịu đựng.”

“Nhưng ông vừa thú nhận ông vi phạm điều luật di trú?” phóng viên Bradley hỏi.

“Không,” ông Bình trả lời.

“Như vậy là ông không vi phạm luật di trú khi bị kết tội?” cô Ali Bradley hỏi tiếp.

Ông Bình đáp: “Đúng vậy, nhưng tôi là tội phạm vì phạm tội hình. Tôi sẽ rất biết ơn nếu tôi đi Việt Nam, mặc dù không biết một tí gì ở nơi đó. Tôi đến đây khi còn rất nhỏ.”

Nữ phóng viên hỏi tiếp: “Như vậy có nghĩa là ông sẵn sàng đi nếu họ trục xuất ông về Việt Nam?”

Ông Bình dõng dạc nói: “Nếu quý vị cung cấp giấy tờ cho tôi, tôi sẽ tự bay về Việt Nam. Tôi không cần họ đi với tôi. Tôi không cần họ mua vé cho tôi.”

Vẫn theo DHS, ông Vũ Hoàng Phạm là “một di dân tội phạm bất hợp pháp, bị bắt vì liên tục vi phạm các tội hình sự như hành hung người khác, bạo hành gia đình và tấn công bạo động, ăn cắp xe, tấn công mang tính bạo động, hành hung người khác cấp độ hai, hành hung một cảnh sát viên, ăn trộm, say rượu nơi công cộng, ăn cắp, và ăn trộm – âm mưu hình sự, lái xe khi trong cơ thể có cồn (DUI), sở hữu vật dụng dùng để ăn cắp, giả danh người khác, và các tội khác liên quan đến ma túy.”

Ông Vũ Hoàng Phạm, người vừa bị ICE bắt trong chiến dịch “Catahoula Crunch” ở New Orleans. (Hình: DHS)

Còn ông Hùng Ngọc Trần có lệnh trục xuất từ năm 2010. Ông bị kết tội tấn công tình dục, ăn cắp, và sờ mó trẻ em.

Trong thông cáo báo chí, DHS không cho biết ông Bình Văn Tô, ông Vũ Hoàng Phạm, và ông Hùng Ngọc Trần đến Mỹ khi nào và bằng cách nào, cũng như tình trạng di trú của ba người này trước và sau khi bị bắt.

Trong nhiều trường hợp, có người chưa phải là công dân, mặc dù đến Mỹ hợp pháp, nhưng phạm tội hình sự. Sau khi mãn hạn tù, những người này bị đưa ra tòa án di trú, và thường bị trục xuất.

Nếu sau đó người này không tự trục xuất, hoặc bị quốc gia gốc của mình từ chối nhận, khi bị bắt lại, DHS thường gọi họ là “di dân tội phạm bất hợp pháp.”

Việt Nam là một trường hợp cụ thể.

Năm 2008, Việt Nam và Hoa Kỳ đạt một thỏa thuận chính thức bao gồm không trục xuất những người Việt chưa có quốc tịch Mỹ nhưng phạm tội hình sự và đến Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy, 1995, ngày Hoa Kỳ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tuy nhiên, năm 2017, chính quyền Tổng Thống Donald Trump bất chấp thỏa thuận này, đe dọa trừng phạt chính quyền Việt Nam, và bắt đầu trục xuất một số người đến Mỹ trước năm 1995.

Vào Tháng Hai, 2018, vụ kiện “Trinh vs Homan” thành công, chính quyền Mỹ ngưng trục xuất những người này.

Nhưng đến năm 2020, cũng dưới thời chính phủ Donald Trump, Mỹ và Việt Nam đạt một thỏa thuận mới, hủy bỏ điều khoản bảo vệ những người Việt này không bị trục xuất.

Liên quan đến chiến dịch “Catahoula Crunch,” bà Tricia McLaughlin, phát ngôn viên DHS, cho biết: “Chính sách cho phép trú ẩn gây nguy hiểm cho các cộng đồng tại Mỹ, qua việc thả những di dân tội phạm bất hợp pháp và đẩy các nhân viên công lực DHS vào tình cảnh nguy hiểm đến tính mạng khi đi bắt những người này mà đáng lẽ họ không nên được thả ra đường.”

“Thật là ngu xuẩn khi để những kẻ gớm ghiếc như vậy trở lại đường phố để họ PHẠM TỘI THÊM và có thêm nhiều nạn nhân. ‘Catahoula Crunch’ nhắm vào những tội phạm bạo động, những người được thả sau khi bị bắt vì những tội đột nhập gia cư, cướp có vũ trang, ăn cắp xe, và hiếp dâm. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Donald Trump và Bộ Trưởng Kristi Noem, chúng tôi đang khôi phục luật pháp và trật tự cho người dân Mỹ, ” bà McLaughlin tiếp.

Chiến dịch “Catahoula Crunch” có khoảng 250 nhân viên công lực di trú có mặt tại New Orleans trong vòng một tháng, với mục tiêu bố ráp di dân bất hợp pháp vùng Đông Nam Louisiana và một phần tiểu bang Mississippi.

Chiến dịch này, có mục tiêu bắt 5,000 người, là cuộc hành quân mới nhất của ICE nhắm vào thành phố do đảng Dân Chủ lãnh đạo, trong chiến lược trục xuất di dân hàng loạt của Tổng Thống Trump.

Theo thống kê mới nhất, tính đến năm 2024, New Orleans có khoảng 14,000 người gốc Việt cư ngụ, và đây cũng là nơi có nhiều người Việt nhất Louisiana. (Đ.D.)


 

Triển lãm và hội thảo VHM: 50 năm căn cước người Mỹ gốc Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 22, 2025

Trà Nhiên/Người Việt 

SANTA ANA, California (NV) – Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt (VHM) tổ chức triển lãm và chuỗi hội thảo với chủ đề “Từ Cuộc Di Tản Đến Di Sản: 50 Năm Hành Trình Người Mỹ Gốc Việt,” trong ba ngày Thứ Sáu, Thứ Bảy, và Chủ Nhật, 21, 22, và 23 Tháng Mười Một, tại viện bảo tàng Bowers Museum, Santa Ana.

Đoàn múa Thiên Ân Performing Arts trình diễn trống khai mạc ngày thứ hai của buổi triển lãm và hội thảo của VHM. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Ngày thứ hai của buổi hội thảo hôm 22 Tháng Mười Một thu hút đông đảo khán giả tham dự các phiên hội thảo sống động để kỷ niệm 50 năm hành trình hình thành kiên cường của cộng đồng người Việt hải ngoại.

Sảnh trước của Bowers Museum được VHM trưng bày những hiện vật lịch sử quý hiếm, tư liệu cá nhân, và tư liệu cộng đồng, mời gọi khách tham quan cùng ngược dòng thời gian, từ những cuộc di tản hỗn loạn năm 1975 đến sự hình thành của một cộng đồng đa thế hệ, năng động và bền bỉ.

Chương trình bắt đầu với phần trình diễn trống đa thế hệ của đoàn múa Thiên Ân Performing Arts.

Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ, trưởng ban tổ chức, cho biết các phiên hội thảo tập trung phân tích những thành tựu nổi bật của người Việt trong kinh doanh, y tế, giáo dục, truyền thông và chính trường Mỹ, với điểm nhấn của chương trình là cuộc thảo luận giữa các diễn giả từ 20 đến 50 tuổi – những người đang trực tiếp định hình sinh hoạt cộng đồng. 

“Ngoài việc ôn lại hành trình 50 năm, sự kiện còn đặt câu hỏi trọng tâm: Làm thế nào gìn giữ ký ức và di sản để con cháu mai sau hiểu mình là ai và vì sao cộng đồng hiện diện trên đất nước này? Đây cũng là thông điệp xuyên suốt mà VHM muốn gửi gắm qua dịp kỷ niệm quan trọng này,” Tiến Sĩ Alex-Thái nói.

Tiến Sĩ Alex-Thái cho biết mục tiêu của phiên thảo luận là tạo không gian để mọi người có thể nói và lắng nghe nhau, ngay cả khi không đồng quan điểm. 

“Có những điều chúng ta đồng ý, hoặc không, nhưng quan trọng là phải có diễn đàn để hiểu nhau trước khi quyết định có thể cộng tác hay không,” anh nói.

Các diễn giả phiên thảo luận 2 và ban tổ chức của chương trình “Từ Cuộc Di Tản Đến Di Sản: 50 Năm Hành Trình Người Mỹ Gốc Việt.” (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Với 30 diễn giả trong ba ngày, chương trình không nhằm đại diện toàn bộ trải nghiệm của cộng đồng, mà phản ánh một phần sự đa chiều của người Việt hải ngoại. 

“Không ai có thể nói thay cho cả cộng đồng, nhưng từng câu chuyện cá nhân đều góp vào một bức tranh chung,” anh Alex-Thái nhấn mạnh.

“Cộng đồng chỉ có thể lớn mạnh khi chúng ta đủ can đảm để trưởng thành cùng nhau,” anh nói. “Điều quan trọng nhất là cho nhau cơ hội để cất tiếng nói, và cơ hội để lắng nghe.”

Thảo luận sống động về căn cước người Mỹ gốc Việt

Phiên thảo luận 2 với chủ đề “Vươn Lên và Đại Diện: Chính Trị, Kinh Doanh, và Giáo Dục,” cũng chính là hội thảo đầu tiên trong ngày quy tụ các diễn giả thuộc nhiều thế hệ – từ Gen Z đến thế hệ 1.5 và thế hệ tị nạn đầu tiên để chia sẻ căn cước “người Việt tị nạn.” 

Với phần điều hợp của anh Joseph Nguyễn, giáo viên Học Khu Westminster, hội thảo gồm các diễn giả như cô Cathy Beaupain (doanh nhân), Tiến Sĩ Annie Bích-Loan Dương (Sở Giáo Dục San Joaquin County), Tiến Sĩ Trí C. Trần (Liên Hiệp Các Trường Việt Ngữ Hải Ngoại), bà Frances Thế Thủy Nguyễn (ủy viên Học Khu Westminster), Bác Sĩ Nguyễn Thành Tâm (ủy viên Hội Đồng Giao Thông Orange County-OCTA), và Luật Sư Thái Việt Phan (nghị viên Santa Ana).

Các diễn giả nhấn mạnh rằng trải nghiệm tị nạn, ký ức về chiến tranh, việc học tiếng Anh, áp lực hòa nhập và niềm tự hào văn hóa là những yếu tố định hình bản sắc và động lực để vượt khó. 

Phần thảo luận tập trung vào câu hỏi: Làm thế nào các thế hệ người Việt tại Mỹ có thể dung hòa hai bản sắc, truyền thống Việt Nam và đời sống Mỹ, để xây dựng tương lai chung? 

Từ trái, nữ tài tử Quyên Ngô, Tiến Sĩ Thảo Hà, đạo diễn Đức Nguyễn, và Bác Sĩ Suzie Xuyến Đông. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Một số diễn giả khẳng định việc giữ ngôn ngữ và văn hóa Việt rất quan trọng, nhưng cũng cần mở lòng với sự thay đổi và hội nhập. 

Luật Sư Thái Việt Phan nói: “Tôi không phải chọn giữa Việt Nam hay Mỹ. Tôi là 100% người Việt Nam và 100% người Mỹ.” 

Các diễn giả cùng nhấn mạnh vai trò của giáo dục, văn hóa đại chúng, ẩm thực, và sự hợp tác liên cộng đồng để giúp thế hệ trẻ tự hào về gốc rễ, và kêu gọi các thế hệ cùng nhau gìn giữ di sản, thích ứng với thời đại mới, và tiếp tục xây dựng một cộng đồng người Việt vững mạnh, đa văn hóa và đoàn kết tại Hoa Kỳ.

Phiên thảo luận 3 có chủ đề “Những Cái Mất: Chấn Thương Tâm Lý, Im Lặng và Chữa Lành Trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại,” với sự điều hợp của nữ tài tử Quyên Ngô, đồng sáng lập VìTÂM.

Các diễn giả gồm Bác Sĩ Suzie Xuyến Đông (Southland Integrated Services), đạo diễn Đức Nguyễn, và Tiến Sĩ Thảo Hà (MiraCosta College).

Buổi hội thảo xoay quanh những câu chuyện ít khi được kể trong cộng đồng như những vết thương chiến tranh, chấn thương gia đình và hành trình đi tìm sự chữa lành. 

Các khán giả cũng được mời định nghĩa “chấn thương” và “chữa lành” bằng một câu ngắn, để thấy rằng mỗi người đều mang một câu chuyện riêng, và những câu chuyện đó đều đáng được lắng nghe và thấu hiểu.

Các chuyên gia trong buổi hội thảo phân tích chấn thương không chỉ nằm trong ký ức, mà in hằn vào cơ thể, cảm xúc, cả cách nuôi dạy con cái. 

Họ cũng nhấn mạnh vai trò của không gian an toàn để kể chuyện, của lắng nghe không phán xét, của nghệ thuật, phim ảnh, ca hát, thiền, sinh hoạt cộng đồng… như những hình thức chữa lành tập thể. 

Các diễn giả cũng thẳng thắn nhắc công việc kể chuyện, làm phim, hỗ trợ pháp lý hay công tác xã hội đều cần được cộng đồng ủng hộ cả tinh thần lẫn tài chính. 

Thông điệp của hội thảo rằng mỗi người xứng đáng có một mối quan hệ tử tế với chính mình, chấn thương có thể truyền qua nhiều thế hệ, nhưng sự cảm thông, lòng nhân ái và không gian cho sự thật được cất lên, là con đường để vá lại những gì chiến tranh và im lặng làm rạn vỡ.

Nhiều khán giả tham dự buổi hội thảo của VHM hôm 22 Tháng Mười Một. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Những ký ức quý giá

Tiến Sĩ Annie Bích-Loan Dương, ở miền Bắc California bay xuống để tham dự hội thảo, cho biết: “Tôi rất hân hạnh và rất vui khi được tham dự hội thảo và triển lãm của VHM với vai trò diễn giả.“

“Trong cộng đồng mình không thiếu doanh nhân, không thiếu chính trị gia, nhưng trong hệ thống trường công K-12 thì lại thiếu tiếng nói và sự hiện diện của người Việt. Chúng ta cần nhiều giáo viên, nhiều người làm trong ngành quản lý giáo dục hơn nữa,” bà nói.

Tiến Sĩ Annie kể rằng mình cứ bảo con mình là người gốc Việt, nhưng chưa bao giờ giải thích vì sao. Sau này, bà bắt đầu kể cho các con về hành trình vượt biên, về lịch sử gia đình và ý nghĩa thật sự của văn hóa Việt. 

“Tết không chỉ là áo mới hay lì xì. Mình phải dạy sâu hơn, vì sao đi chùa, vì sao cúng ông bà, vì sao gia đình sum họp,” bà chia sẻ. 

Bà cho rằng phụ huynh nên mạnh dạn kể lại ký ức, góc nhìn và trải nghiệm của chính mình, để con trẻ từ đó tự phát triển cách hiểu của riêng chúng.

“Cứ nói, cứ chia sẻ. Con cái rồi sẽ lớn và sẽ tự tìm hiểu thêm. Điều quan trọng là chúng biết gốc của mình bắt đầu từ đâu,” bà nói.

Đứng trầm ngâm một góc triển lãm nơi trưng bày bàn máy may là cô Nguyễn Liên Hương, cư dân Fountain Valley, qua Mỹ năm 1992.

“Lúc đầu tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng đến triển lãm để xem trưng bày các hiện vật của người Việt mang theo khi đến Mỹ,” cô nói. “Nhưng khi bước chân vào đây và nhìn bàn máy may này tôi rất xúc động.”

Cô Nguyễn Liên Hương (trái) và cô Hoàng Kim Yến bên bàn máy may gợi lại nhiều ký ức quý giá thuở mới sang Mỹ. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Cô tiếp: “Bàn máy may cũng là một trong những cái phương tiện để cho gia đình tôi kiếm sống lúc mới qua Mỹ. Những ngày đầu tiên gia đình tôi đến đất Mỹ này là cả nhà ngồi may hì hục từ sáng tới tối và một giờ tính ra chỉ làm được một đồng, nhưng chúng tôi rất mừng.”

“Khi nhìn lại thời gian đó thì mình cảm thấy biết ơn. Mình rất biết ơn nước Mỹ này đã cho mình một cơ hội để là làm lại cuộc đời,” cô Hương xúc động nói.

Cùng chung tâm sự với cô Hương, là cô Hoàng Kim Yến, ở Westminster.

“Chỉ cần nhìn thấy chiếc máy may, bao nhiêu cảm xúc của thời đó ùa về. Lúc mới qua Mỹ, ban ngày tôi đi học trung học, ban đêm cả nhà ngồi may để kiếm sống. Nhìn cái máy may này, tôi như thấy lại chính mình ngày xưa,” cô Yến, sang Mỹ 1983, chia sẻ.

“Tôi rất cảm ơn những người đã gìn giữ và hiến tặng những hiện vật này. Nhà tôi giờ không còn giữ được gì nữa, chứ nếu còn, tôi cũng sẽ đem tặng cho bảo tàng để thế hệ sau hiểu được những năm tháng khó khăn mà thế hệ thứ nhất trải qua,” cô Yến nói. [dtr]

Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com


 

Chị an nghỉ nha chị

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 Chị gần 60 tuổi, bị υпg thư đã phẫu thuật, đang chạy thận định kỳ. Chị còn bị suy tiм nặng. Quê tận Sóc Trăng, chồng mất sớm, chị và đứa con trai lưu lạc đến tận Bình Dương để con đi làm thuê, mẹ đi chạy thận…

Cuộc sống của chị mong manh. Không biết chấm dứt khi nào. Chị chạy thận suốt 2 năm mà luôn đi về một mình, vì con trai phải lo bươn chải kiếm tiền lo cho mẹ…

Sáng nay, chị trở nặng và ra đi. May mà điện thoại của chị không cài mật khẩu, nên gọi ngay được đứa con trai vào.

Thằng nhỏ khoảng hai mươi tuổi, gầy gò, lam lũ, ánh mắt đau khổ, run run hỏi tôi:

– Giờ con làm sao hả bác sĩ ?

– Con đưa mẹ con về nhà lo hậu sự đi. Để cô làm giấy tờ và lo xe bệпh viện cho con.

– Con không còn nhà để về, bác sĩ à..

– Vậy còn ai bà con không?

Thằng bé gọi điện thoại cho bà dì ruột. Xong, nó lắp bắp nói với tôi:

– Bác sĩ nói chuyện với dì của con.

Sau khi nghe hết câu chuyện, cô em gái trả lời:

– Bác sĩ thông cảm, lâu nay chị tui không liên lạc…

Có nghĩa là khốn cùng, khốn khổ cho chị. Có nghĩa là không còn chỗ nào, dù ở quê nhà, để trở về…

May sao, bác sĩ H, trưởng khoa cấp cứu liên lạc được tổ chức mai táng thiện nguyện 0 đồng, lo hỏa táng miễn phí cho chị. Khoa thận và bệпh nhân gom góp một ít tiền cho thằng bé…

Sáng, chị còn bước vô khoa thận nhân tạo; chiều, chị đã hóa thành tro bụi. Chị an nghỉ nha chị. Chị phù hộ cho thằng con côi cút của chị nha chị…