Hai vụ giết người dã man cùng ở Tiền Giang

Hai vụ giết người dã man cùng ở Tiền Giang
Tuesday, May 27, 2014

Nguoi-viet.com


TIỀN GIANG (NV)
Một vụ án mạng đầy bí ẩn vừa xảy ra tại một chòi lá ở huyện Tân Phú Ðông, tỉnh Tiền Giang hôm 27 tháng 5, 2014 gây chấn động dư luận. Nạn nhân là một người đàn ông tên PVB., 42 tuổi, nông dân, chủ một ruộng tôm ở gần đó.



Chòi lá, nơi xảy ra vụ án mạng. (Hình: báo Tiền Phong)

Theo báo Tiền Phong, khoảng 6 giờ rưỡi sáng ngày nói trên, người nhà của ông PVB không thấy ông này thức dậy như lệ thường nên chạy qua tìm ông ở chòi lá gần nhà. Tại đây, cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt mọi người. Ông PVB nằm chết trên vũng máu từ lúc nào không biết, trong chiếc áo thun màu xanh, ở tư thế nằm sấp, quần bị tuột xuống ngang gối. Khủng khiếp hơn, “sát thủ” đã cắt mất “của quý” của nạn nhân trước khi tẩu thoát, không để lại dấu vết.

Còn theo báo Người Lao Ðộng, một vụ án mạng khác xảy ra tại thành phố Tân An, tỉnh Tiền Giang trước đó mấy ngày. Nạn nhân là ông Nguyễn Thanh Phong, 47 tuổi, cư dân thành phố Tân An, đã bị vợ nhà cầm kéo đâm hai nhát thủng tim.

Ông Phong được đưa vào bệnh viện cứu cấp nhưng đã chết trên giường bệnh. Trưa ngày 27 tháng 5, 2014, Công an thành phố Tân An cho biết đã bắt bà Ðặng Hồng Giang, 42 tuổi về tội giết người.

Theo cuộc điều tra, ông Phong bị bà Giang đâm chết sau vụ cãi nhau. Bà Giang nói rằng, ông Phong thường nhậu nhẹt rồi trở về nhà kiếm cớ gây sự với vợ về đủ mọi lý do, từ chuyện làm ăn, cho đến việc sinh hoạt trong gia đình. Bà này cũng nói, ông Phong hay mắng nhiếc bà vì ghen tương vô cớ. Trong lúc bà cố nhẫn nhịn cho qua chuyện, thì ông Phong hầu như mỗi lúc một lấn tới.



Người hiếu kỳ bu coi vụ người đàn ông bị giết, bị cắt đứt “của quý.” (Hình: báo Tiền Phong)

Ðến khoảng 8 giờ tối 24 tháng 5, ông Phong lại nhậu nhẹt trở về nhà, nổi máu ghen tương cự cãi này nọ. Bực tức, bà Giang cầm kéo đâm hai nhát vào ngực và bụng của chồng khiến ông này ngã gục tại chỗ. Nạn nhân được đưa vào bệnh viện nhưng đã tử vong vì một nhát kéo làm thủng tim. Vừa đâm chết chồng xong, bà Giang đến trụ sở công an địa phương nhận tội.

Trước đó vài tháng, một phụ nữ cũng đã vung dao đâm chết chồng sau trận cãi vã nhau kịch liệt tại huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Nạn nhân là ông Nguyễn Văn Thuận, 40 tuổi bị vợ là Nguyễn Thị Nhanh, 38 tuổi dùng dao đâm hai nhát trúng tim. Ông Thuận chết tại bệnh viện một ngày sau.

Lời kể của người nhà nạn nhân nói rằng, nguyên nhân xảy ra cãi vã cũng chỉ vì ông Thuận cầm roi định đánh đứa con trai bấm điện thoại chơi game. Bà Nhanh là công nhân làm việc tại khu công nghiệp cản ngăn, dẫn đến việc cự cãi giữa hai vợ chồng. Án mạng xảy ra sau lần lời qua tiếng lại giữa đôi bên. Cha chết, mẹ ngồi tù, hai đứa con nhỏ của hai vợ chồng ông Thuận đang học lớp 11 và lớp 7 chưa biết sẽ sống ra sao.

Dư luận cho rằng, vì người dân nghèo ở Việt Nam sống trong hoàn cảnh nhọc nhằn, túng thiếu nên thường không đủ bình tĩnh để chịu đựng mọi áp lực gia đình. (PL)

Sài Gòn: Trẻ em mắc bệnh tâm thần tăng vọt

Sài Gòn: Trẻ em mắc bệnh tâm thần tăng vọt
Tuesday, May 27, 2014  ng

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV)Thống kê của bệnh viện tâm thần Sài Gòn cho thấy, có đến 25,000 trẻ em trong độ tuổi từ 3 đến 15 mắc bệnh tâm thần được điều trị trong năm 2011. Năm 2012, con số này lên tới 28,000 em, và năm 2013 là 32,000.

Báo Thanh Niên dẫn phúc trình của Khoa Tâm Lý Tâm Thần Trẻ Em thuộc bệnh viện tâm thần ở Sài Gòn nói rằng, đa số bệnh nhân nhỏ tuổi đến khám bệnh tăng vọt bất thường vào mùa thi. Thế nhưng kể từ đầu năm 2014 đến nay, theo Bác Sĩ Lâm Hiếu Minh, phó trưởng khoa Tâm Lý-Tâm Thần Trẻ Em, số bệnh nhân vị thành niên đến bệnh viện này tăng vọt đến chóng mặt. Bác Sĩ Hiếu Minh xác nhận rằng, mỗi tuần có đến 700 em đến khám và chữa bệnh, trung bình là 100 em một ngày.



Bệnh nhân bệnh viện tâm thần. (Hình: Báo Người Ðưa Tin)

Báo Thanh Niên dẫn lời Bác Sĩ Lâm Hiếu Minh nói rằng, nếu con số thực tế trên không giảm, chắc chắn trong vòng 5 năm tới bệnh viện tâm thần Sài Gòn sẽ không còn chỗ chứa bệnh nhân trẻ em. Triệu chứng thường thấy ở số bệnh nhân này là trạng thái hay hốt hoảng, lo âu thái quá. Trong số này, có rất nhiều em là học sinh giỏi, hoặc đang theo học các “trường chuyên” ở Sài Gòn.

Báo Thanh Niên đưa trường hợp của một nam sinh đang học lớp 10 vừa đoạt giải “Học sinh giỏi cấp thành phố” ở Sài Gòn làm bằng chứng điển hình. Em này đang trong thời gian ôn luyện để tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia thì lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần. Gặp bác sĩ ở bệnh viện tâm thần, em kể bị bệnh run tay chân, đổ mồ hôi lạnh, và đâm ra sợ hãi, hoảng loạn khi nhìn thấy cuốn sách…

Bác Sĩ Hiếu Minh còn liệt kê một số dấu hiệu cho thấy, học sinh có triệu chứng của bệnh tâm thần như không muốn đến trường học, sợ tiếp xúc với bạn bè; và… tiểu trong quần khi vừa nhìn thấy cô giáo. Cũng theo Bác Sĩ Minh, nguyên nhân trực tiếp khiến các em đi đến nguy cơ bị mắc bệnh tâm thần là tình trạng bị cha mẹ thường xuyên la rầy vô cớ hoặc ép buộc phải học ngày, học đêm.

Dư luận cũng cho rằng, một số vụ học sinh nhảy lầu hoặc thắt cổ tự tử thời gian qua cũng vì sống trong tình trạng căng thẳng quá lâu trong gia đình, hoặc bị sức ép tâm lý nặng nề từ phía cha mẹ. Từ nhiều năm trước, có em nữ sinh bị mẹ ép học ngày đêm mà không đạt kết quả mong muốn, đã lao vào xe lửa để tự tử tại quận 3, Sài Gòn.

Theo Bác Sĩ Hiếu Minh, cha mẹ cần quan tâm và dành thời gian để nói chuyện, chia sẻ những khó khăn trong việc học hành, kể cả vui buồn trong cuộc sống với con em mình để giúp ngăn chặn tình trạng trên. (PL)

 

Hệ thống song trùng Đảng – Nhà nước VN

Hệ thống song trùng Đảng – Nhà nước VN

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-05-27

05272014-dang-nhanuocvn-kh.mp3

000_Hkg5156689-600.jpg

Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng và TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng tại Hả Nội tháng 7/2011

AFP photo

Hệ thống song trùng Đảng- Nhà nước là một hệ thống rất đặc biệt trong các quốc gia có thể chế cộng sản. Trong hệ thống này cứ mỗi một vị trí hành pháp là có một người đương nhiệm bên phía đảng cộng sản cầm quyền.

Đặc biệt hơn nữa là người của bên phía hành pháp cũng là đảng viên đảng cộng sản. Ví dụ như tương đương với vị trí Bộ trưởng bộ ngoại giao sẽ có một vị là Trưởng ban đối ngoại trung ương của đảng cộng sản. Những người cộng sản gọi hệ thống này là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.

Có thể là trong các quốc gia có nhiều đảng phái thì trong các đảng phái ấy sẽ có những người theo dõi các công việc của hành pháp để từ đó đưa ra chính sách của đảng mình trong công cuộc cạnh tranh chính trị. Nhưng ở các quốc gia cộng sản, các đảng cộng sản nắm quyền tuyệt đối, không phải cạnh tranh với ai, nhưng hệ thống song trùng Đảng – Chính phủ cứ tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử cộng sản của các quốc gia này.

Trong lịch sử cầm quyền của đảng cộng sản Việt nam, cho mãi đến những năm 80 của thế kỷ 20, hệ thống song trùng vẫn tồn tại, nhưng chỉ về mặt hình thức vì quyền lực tuyệt đối lần lượt nằm trong tay các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, và Nguyễn Văn Linh dù chức vụ của các ông này có thể khác nhau. Sau cái chết của ông Linh, người ta không thấy quyền hành tập trung vào một người nữa mà thường có sự xuất hiện một cách song song, một người bên đảng và một người bên chính phủ. Nếu bên chính phủ có lần lượt các ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và bây giờ là Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng thì bên kia cũng lần lượt là các ông Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và bây giờ là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Trống đánh xuôi kèn thổi ngược

Ở những tầng mức thấp của hệ thống quyền lực, đã có lúc truyền thông của nhà nước Việt Nam từng nói đến sự dẫm chân nhau của hệ thống song trùng này, cụ thể là các công việc thường nhật của các vị chủ tịch hành chính và bí thư đảng ở cấp tỉnh và huyện.

Những sự khác biệt đảng-chính phủ thấy rõ nhất là trong các quan hệ đối ngoại. Chuyện đầu tiên xảy ra vào năm 2000 trong chuyến viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa kỳ Bill Clinton. Trong lúc bên hành pháp của thủ tướng Phan Văn Khải tất bật hoan nghênh kẻ thù cũ, thì ông tổng bí thư lúc đó là Lê Khả Phiêu lên tiếng chỉ trích nặng nề người bạn mới trong một cuộc gặp gỡ mặt đối mặt.

000_Hkg8885450-250.jpg

Bộ trưởng Ngoại giao VN Phạm Bình Minh tham dự cuộc họp các bộ trưởng ngoại giao ASEAN tại Thái Lan tháng 8/2013. AFP photo

Sự khác biệt trong đối ngoại thấy rõ nhất trong mối quan hệ với với Trung Quốc. Cứ mỗi lần có xung đột gì đó giữa hai quốc gia thì bên cơ quan ngoại giao của chính phủ lên tiếng chỉ trích, trong khi bên cơ quan đảng cộng sản vẫn là những câu chữ ca ngợi tình hữu nghị như 16 chữ vàng, bốn tốt.

Bình luận về vai trò của Bộ ngoại giao, trong một lần trao đổi với chúng tôi, Tiến sĩ Vũ Tường, một người quan sát chính trị Việt Nam từ đại học Oregon, Hoa Kỳ nói rằng:

Đó là đặc biệt ở Việt Nam, nó do các cơ chế chính trị của Việt Nam thực ra là từ xưa đến nay các chính sách ngọai giao lớn đều do Bộ chính trị và ban bí thư quyết định, ngay từ thời ông Lê Duẩn đã vậy. Sau này nó vẫn như thế, chỉ có trong một thời gian ngắn ông Nguyễn Cơ Thạch đóng một vai trò đặc biệt làm nổi lên vai trò của Bộ ngoại giao vào thời kỳ bắt đầu đổi mới, nhưng sau đó thì không có ai. Tức là Bộ ngoại giao đóng vai trò làm theo những quyết định chiến lược của Bộ chính trị. Trong Bộ chính trị thì Tổng bí thư, hay trưởng ban đối ngoại trung ương, trong một tình huống nào đó có thể đóng vai trò quan trọng hơn Bộ trưởng Bộ ngoại giao.

Sự lấn lướt này của quyền lực đảng trong hệ thống song trùng đối với những vấn đề ngoại giao càng rõ hơn trong bối cảnh thế giới chỉ còn có vài đảng cộng sản cầm quyền. Trong bối cảnh đó có vẻ như đảng cộng sản Việt Nam đặt tầm quan trọng rất cao mối quan hệ giữa họ và đảng cộng sản TQ.

Trớ trêu thay, đảng cộng sản TQ lại đang lãnh đạo một quốc gia hay thể hiện sức mạnh cơ bắp với những nước láng giềng nhỏ hơn trong thời gian gần đây. Đối với trường hợp Việt Nam thì quan hệ lịch sử với TQ lại còn có cả chiều dài lịch sử phức tạp hàng nghìn năm. Đứng trước thực tế không muốn làm phật lòng một đảng cộng sản lớn hơn, những động thái đối ngoại của đảng cộng sản Việt Nam chịu nhiều chỉ trích. Ông Hà Sĩ Phu, một trí thức bất đồng chính kiến, đồng thời đã sống và làm việc nhiều năm ở Đông Âu cộng sản nói với chúng tôi:

TQ phải giữ Việt Nam ở chế độ cộng sản, vì chỉ có ở chế độ cộng sản thì mới có cái kiểu hai đảng làm việc với nhau, nhượng bộ quyền lợi với nhau, còn nhân dân thì chẳng có vai trò gì.”

Chuyện làm việc với nhau giữa hai đảng cộng sản trong cuộc khủng hoảng biển Đông vào thời điểm tháng 5/2014 có vẻ không được xuôi chèo mát mái lắm khi nhiều cơ quan truyền thông đưa tin rằng ông Nguyễn Phú Trọng tổng bí thư đảng cộng sản VN bị từ chối lời đề nghị gặp mặt của ông để giải quyết cuộc khủng hoảng.

Về mặt chính thức, khi TQ bắt đầu kéo dàn khoan nước sâu vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, người đứng đầu đảng cộng sản Việt nam và các cơ quan truyền thông của nó không có một tuyên bố nào. Hai tuần lễ sau đó trang thông tin điện tử của đảng cộng sản VN mới đăng bài chỉ trích TQ, còn ông Nguyễn Phú Trọng vẫn không nói gì. Trong khi đó bên hành pháp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng liên tục đưa ra những chỉ trích mạnh mẽ, mà đỉnh cao là lời tuyên bố của ông tại Manila rằng hành động của TQ vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế.

Sự xung đột phe phái

image-250.jpg

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (giữa) cùng các thành viên trong đoàn tại nơi diễn ra lễ bế mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN 24 tại Myanmar hôm 11/5/2014. AFP photo

Sự xung đột bên trong hệ thống song trùng đảng – chính phủ được cho là lên rất cao khi hồi năm 2013, một hội nghị trung ương đảng đã không kỷ luật được ông Dũng vì những tệ hại của nền kinh tế quốc gia. Nay trong cuộc xung đột với TQ, dường như một lần nữa sự xung đột ấy lại lên cao. Ngay sau khi cuộc khủng hoảng giàn khoan bùng nổ, Tiến sĩ Vũ Tường có nhận định rằng sự lấn lướt của TQ có thể làm phe của ông Nguyễn Tấn Dũng mạnh lên.

Tuy nhiên cũng theo Tiến sĩ Tường thì những người lãnh đạo công an và quân đội Việt Nam có khuynh hướng nghiêng về phe của đảng hơn.

Và trong cuộc khủng hoảng đang xảy ra, người ta thấy rằng Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ quốc phòng có nói với người đồng nhiệm Trung Quốc rằng Việt nam vẫn tìm cách giải quyết vấn đề một cách hữu nghị, không sử dụng quân đội, dù rằng ông Bộ trưởng quốc phòng TQ vượt qua cả sự tế nhị ngoại giao mà công kích gay gắt rằng Việt Nam là một quốc gia gây sự trong cuộc gặp đôi bên.

Trong hoàn cảnh một nền chính trị không công khai, những tuyên bố trái khoáy giữa những người của đảng và của chính phủ, mà lại cũng là của đảng, càng tăng thêm sự đồn đoán về sự xung đột phe phái. Điều này thấy rõ nhất trong cuộc bạo loạn Bình Dương-Vũng Áng với sự chậm trễ của công an, sự can thiệp của quân đội…

Nhưng điều mà mọi người có thể thấy rõ nhất trong gần một tháng qua là sự leo thang xung đột Việt Trung, người chết và nhà xưởng bị đốt cháy,…

Hệ thống song trùng đảng chính phủ đương đầu thế nào với thách thức mới trong những ngày sắp tới? Liệu họ sẽ đồng thuận chống lại đe dọa của nước ngoài? Hay họ thu xếp để trở về nguyên trạng với sự phân công đảng lo hữu nghị, còn chính phủ lo phản đối, trong bối cảnh cuộc xung đột với nước cộng sản anh em lắng dịu? Hay đi xa hơn là không còn hệ thống song trùng nữa?

Phía Sau Ông Thủ Tướng Có Ai

Phía Sau Ông Thủ Tướng Có Ai

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Không đánh đổi chủ quyền lấy ngoại giao viển vông.

T.T. Nguyễn Tấn Dũng

Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy hơi cường điệu (và cũng có phần hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ dành cho hai tác giả này, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời.

Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng điệp viên James Bond vẫn 007 sống mãi trong sự nghiệp của … giới làm phim và trong … lòng khán giả. Tương tự, nhiều nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số người Việt, kể cả giới lãnh đạo cộng sản hiện nay. Ngôn ngữ hàng ngày của họ (nghe) có “mùi” tiểu thuyết Kim Dung thấy rõ:

– Sau nửa tháng im lặng, ngày16 tháng 5 năm 2014: “Trong  cuộc gặp cử tri Sài Gòn … ông Sang nhìn nhận Việt Nam đang trong giai đoạn khó khăn, cần phải bình tĩnh, có bình tĩnh mới sáng suốt. Bên cạnh sự cương quyết phải hết sức kiên nhẫn, song không ‘thay đổi mục tiêu’ là bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao nội lực quốc gia.”

– Trước đó không lâu, T.T Nguyễn Tấn Dũng cũng kêu gọi “phải phát huy nội lực để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài hay “phát huy nội lực để đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh và bền vững.”

Và người vận dụng nội lục đều đều là TBT Nguyễn Phú Trọng:

– Hôm 11 tháng 7 năm 2013, ông khuyến cáo nhân dân Hải Phòng “cần phát huy nội lực để phát triển.”

– Qua ngày 21 tháng 8 năm 2013, ông chỉ thị nhân dân Bắc Giang cũng “phải phát huy nội lực địa phương để vươn lên phát triển, không thua kém các tỉnh bạn.”

– Bữa 18 tháng 3 năm 2014 vừa rồi, trong chuyến đi công tác miền Trung, TBT lại nhắc nhở giới công nhân địa phương “tiếp tục phát huy truyền thông thi đua lao động sản xuất và tích cực … phát huy nội lực.”

Người tiền nhiệm của Nguyễn Phú Trọng – bác Lê Khả Phiêu – cũng  hễ mở miệng ra là đòi … “phát huy nội lực” liền liền. Ông còn giải thích (một cách văn hoa) rằng đó là “sức mạnh văn hóa của dân tộc Việt Nam, đạo đức trí tuệ Việt Nam… để chúng ta vượt mọi khó khăn trong những thời điểm gian nguy nhất…” –  khi trả lời phỏng vấn của báo Sài Gòn Giải Phóng, số ra ngày 16 tháng 6 năm 2000.

Dù nghe có hơi kiếm hiệp, kêu gọi dân chúng “phát huy nội lực” – nói nào ngay – là chuyện phải làm khi hữu sự. Ðiều đáng phàn nàn là giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam rất hiếu sự nên đất nước “hữu sự hoài hoài. Kể từ khi giành được quyền bính đến nay, họ luôn luôn tìm mọi cách để đưa dân tộc này vào những hoàn cảnh “khó khăn” hay những “thời điểm gian nguy.” Nếu không phải đấu tố lẫn nhau cho đến chết thì người dân cũng bị nhà nước Việt Nam lôi kéo, lê lết hết từ trận chiến này qua trận chiến khác. Không tử thương thì cũng bị thương vô số kể.

Thôi tạm gác lại chuyện đã cũ đi, và chỉ nhìn lại vài những sự kiện nho nhỏ vừa mới xẩy ra –  trong thời gian cầm quyền của bộ ba Sang, Trọng, Dũng mà coi:

– Khi kêu gọi người dân Hải Phòng “cần phải phát huy nội lực để phát triển,” họ quên bẵng đi rằng sau vụ cầm tù anh em Đoàn Văn Vươn (cùng với chuyện thăng tướng của ông đại tá Đỗ Hữu Ca) người dân nơi đây đã gần tiêu ma nội lực, và đã mất ráo niềm tin vào chính quyền – từ địa phương tới trung ương – rồi.

– Nếu biết qua về mức sống khốn cùng ở Bắc Giang, chắc chắn, họ cũng sẽ không đủ mặt dầy mày dạn kêu gọi người dân miền núi “phát huy nội lực để vươn lên” đâu.

– Hãy nhìn qua hình ảnh một góc chợ ở địa phương này, qua ghi nhận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: “Người ta nói, đi qua một khu chợ sẽ biết đời sống của cư dân ở đó. Mình tin điều đó. Và nhìn món hàng bày trước mặt những người phụ nữ vùng cao, mình  hình dung được  nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…

Ảnh: Nguyễn Ngọc Tư

Hình ảnh vài “bó củi co ro,” hay “nụm nịu hai ba nải chuối,” và “lèo tèo mấy bó rau xanh” – ở một phiên chợ ở Bắc Giang – chỉ khiến cho tôi muốn rơi nước mắt, và không thể nghĩ đến chuyện họ có thể “phát huy nội lực để vươn lên.”  Vươn lên gì nổi, mấy cha? Tôi cũng không tin rằng giới công nhân Việt Nam còn có nội lực để phát huy sau những ngày làm việc tăng ca (liên tục) mà đồng lương chưa chắc đã đủ mua một cái bánh kẹp thịt ở cửa tiệm McDonalds.

Vắt cạn kiệt sức dân, đẩy trăm họ tới mức khốn cùng rồi vẫn thản nhiên kêu gọi vận dụng “nội lực” của mọi người khi đất nước lâm nguy chắc (chắn) không phải là điều khôn ngoan, nếu chưa muốn nói là bất nhẫn. Bởi vậy, khác với nhà báo Huy Đức, tôi không “bảo đảm” là dân chúng sẽ đứng sau giới lãnh đạo Việt Nam trong tình cảnh hiện nay:

“Giàn khoan 981 xuất hiện trước thềm Hội nghị ASEAN ở Myanmar và Diễn đàn kinh tế Manila như một trái banh được đặt vào chân Thủ tướng khi ông đang ở gần khung thành nhất. Những tuyên bố đúng lúc, ngang tầm nguyên thủ, đã khiến ông trở thành một người hùng. Thưa Thủ tướng, ông đã cùng bước, cùng dùng một ngôn ngữ sục sôi với người dân Việt Nam. Ông đã đi một đoạn đường khá xa. Đừng quay lại vì phía sau là dân chúng.”

Huy Đức, có thể, vì may mắn chưa thấy quan tài nên chưa đổ lệ. Người Việt, thuộc những thế hệ trước ông (hẳn) không mấy ai lạc quan như vậy. Trong cuốn Hồi Ký Vi Đức Hồi, tác giả đã nhắc đi nhắc lại (đến chục lần) rằng  “Đảngluôn luôn nói một đằng,làm một nẻo.” Có gì bảo đảm là ông TT sẽ không tiếp tục cái “chiến thuật” cố hữu và vô liêm sỉ này của Đảng?

Tuyên bố đúng lúc, ngang tâm nguyên thủ (e) chưa đủ đâu. Dân Việt ở cả ba miền, cũng như miền ngược – hiện nay – đều đã thuộc nằm lòng: Đừng tin những gì cộng sản nói hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm. Yêu cầu ông Dũng thử làm vài việc trong tầm tay, và ngay trước mắt coi:

-Nếu không thể phóng thích tất cả những tù nhân lương tâm tức khắc, và cùng lúc, ít nhất hãy trả tự do cùng với lời xin lỗi cho hai người tù Nguyễn Văn Hải và Tạ Phong Tần. Họ không có tội gì ngoài tội thấy sớm hơn các ông cái thứ “ngoại viển vông” Hoa-Việt.

– Ngưng ngay cái chủ trương lớn (và ngu) của Đảng về chuyện khai thác bauxite Tây Nguyên.

– Trả lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, quyền tự do ngôn luận cho những người cầm bút, và quyền thành lập công đoàn cho công nhân. Đến đón Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương tại cửa nhà tù để ôm xin họ tha lỗi. Cùng lúc, cũng phải công khai về chuyện “mất tích” của Lê Trí Tuệ (Phó Chủ Tịch Công Đoàn Độc Lập Việt Nam) người đã bị “bắt cóc” ở Cambodia vào từ hôm 16 tháng 5 năm 2007.

– Trả lại tài sản và quyền tự do tín ngưỡng cho tất cả những giáo hội và giáo phái.

– Xin làm hoà với người Việt nước ngoài bằng cách xin phép xây lại Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân ở Mã Lai và Nam Dương. Vứt cái Nghị Quyết rẻ tiền 36 vào thùng rác, đuổi việc những nhân viên ngoại giao lấc xấc và lấc cấc như Nguyễn Thanh Sơn đi cho thiên hạ đỡ bực mình.

– Nếu chưa có thể công bố thời điểm chính xác để huỷ bỏ điều bốn hiến pháp và tổ chức tổng tuyển cử tự do vào lúc này thì ít nhất cũng phải ngưng ngay cái cung cách cầm quyền như một đạo quân chiếm đóng như hiện nay, để người dân toàn quyền tự do làm những gì mà luật pháp không cấm, và trừng phạt nghiêm khắc mọi hành vi lộng quyền hay lạm quyền của viên chức các cấp.

Những điều trên trước sau gì cù̃ng phải được thực hiện ở Việt Nam thôi nhưng nếu không làm ngay hôm nay thì trước mặt ông T.T.  là kẻ thù, và sau lưng sẽ chả có ai đâu. Hai bên cũng không có bạn bè đồng minh nào ráo. Nhân loại văn minh tiến bộ giờ đây không ai muốn làm bạn với những kẻ độc ác, trí trá, giáo dở lươn lẹo, ngu (lâu) và ngoan cố. Hãy chứng tỏ thiện chí và nỗ lực muốn thoát cộng đi thì mới có hy vọng thoát Tầu. Nếu không là đi tầu suốt.

TQ lại nhắc Công hàm Phạm Văn Đồng

TQ lại nhắc Công hàm Phạm Văn Đồng

Thứ ba, 20 tháng 5, 2014

Trung Quốc nói không có tranh chấp với Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa

Một nhà ngoại giao và một học giả Trung Quốc nói Công hàm 1958 là bằng chứng Việt Nam công nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.

Công hàm 1958 gây tranh cãi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại được Trung Quốc đề cập trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc đối đầu vì vụ giàn khoan HD-981.

Căng thẳng Việt – Trung đã gia tăng, với việc nổ ra các cuộc bạo động ở Việt Nam, sau khi Việt Nam lên án Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại khu vực biển Hoàng Sa.

Hôm 20/5, đại biện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia có bài đăng trên báo Indonesia Jakarta Post để biện hộ cho Trung Quốc.

Ông Lưu Hồng Dương nói quần đảo Tây Sa (tên Trung Quốc dùng để chỉ Hoàng Sa) là “lãnh thổ vốn vẫn thuộc về Trung Quốc”.

“Vị trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai.

“Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”

Ông Lưu Hồng Dương cáo buộc “việc chính phủ Việt Nam gần đây thay đổi và từ chối công nhận Tây Sa là của Trung Quốc thật vô cùng gây sốc”.

“Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc ‘estoppel’ [không được nói ngược],” ông Lưu cáo buộc.

Bày tỏ lập trường chính thức của Trung Quốc, ông Lưu nói tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ tồn tại ở quanh quần đảo Trường Sa.

Ông Lưu cáo buộc Việt Nam có “tiêu chuẩn kép” khi đã “đánh dấu 57 lô dầu khí ở trong vùng biển tranh chấp”.

Nói về cuộc đối đầu quanh giàn khoan HD-981, ông Lưu nói Việt Nam “phải bỏ mọi ảo tưởng và tiến hành hai biện pháp quyết định”.

“Một, ngay lập tức dừng mọi hoạt động nguy hiểm chống lại giàn khoan Trung Quốc và rút toàn bộ tàu khỏi vùng biển thuộc Trung Quốc.

“Hai, thực thi lời hứa dừng mọi bạo lực trong nước để bảo vệ công dân và tài sản công ty Trung Quốc ở Việt Nam.”

Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về bài báo của ông Lưu Hồng Dương.

Trong một diễn biến liên quan, Tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, Giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, có bài trả lời phỏng vấn hãng tin Đức Deutsche Welle (DW), được đăng trên mạng hôm 20/5.

Ông này cũng nhắc lại về Công hàm Phạm Văn Đồng.

“Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.

“Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975,” tiến sĩ Ngô nói.

“Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.”

Công hàm Phạm Văn Đồng vẫn gây tranh cãi sau 50 năm

Công hàm tranh cãi

Công hàm ngoại giao do Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Phạm Văn Đồng ký năm 1958 để phúc đáp tuyên bố của CHND Trung Hoa hôm 04/9 năm 1958 về hải phận 12 hải lý của nước này.

Viết trên BBC, Tiến sĩ Trần Công Trục, cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, cho rằng công hàm “không liên quan gì đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, càng không có nghĩa là Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc”.

“Bởi thời điểm này 2 quần đảo đang do chính thể Việt Nam Cộng hòa, đại diện cho nhà nước Việt Nam quản lý, thực thi chủ quyền,” ông Trục giải thích.

Tuy vậy, tranh luận trên BBC, ông Lý Thái Hùng, một lãnh đạo của đảng Việt Tân ở Hoa Kỳ, lại nói công hàm “vẫn đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông bao gồm luôn quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, và cho Trung Quốc lý cớ để cột công hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm lược của họ hiện nay”.

Nói như một nhà nghiên cứu khác, Dương Danh Huy, công hàm có gây ra nghĩa vụ ràng buộc cho Việt Nam liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa hay không là một vấn đề “còn tranh cãi”.

Gặp gỡ ký giả trở về từ điểm nóng Hoàng Sa

Gặp gỡ ký giả trở về từ điểm nóng Hoàng Sa

Nhà báo Vũ Hoàng Lân, Phố Bolsa TV, tường thuật tại điểm nóng giàn khoan Hải Dương 981, gần quần đảo Hoàng Sa, trên boong tàu Cục Kiểm Ngư (18/5/2014)

Nhà báo Vũ Hoàng Lân, Phố Bolsa TV, tường thuật tại điểm nóng giàn khoan Hải Dương 981, gần quần đảo Hoàng Sa, trên boong tàu Cục Kiểm Ngư (18/5/2014)

 

Trà Mi-VOA

24.05.2014

Căng thẳng đối đầu giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc xung quanh khu vực giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc gần quần đảo Hoàng Sa có phần hạ giảm khi Việt Nam chuyển hướng thôi đáp trả các vụ tấn công và phun vòi rồng của phía Trung Quốc.

Ký giả Vũ Hoàng Lân từ California, sáng lập viên chương trình PhoBolsaTV, người vừa tham gia các chuyến đi thực tế ra thăm Trường Sa (ngày 18 đến 27 tháng 4) và Hoàng Sa (ngày 17 đến 20 tháng 5), chia sẻ những gì anh tận mắt chứng kiến sau hai cuộc hải trình đặc biệt này trên Tạp chí Thanh Niên đài VOA hôm nay.

Bấm vào nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn

Vũ Hoàng Lân: Tôi đi chung tàu với một nhóm viên chức của Cục Kiểm Ngư Việt Nam, trong đó có ông Cục trưởng. Vì thế, không được tiếp cận (tàu Trung Quốc) theo cách mà các tàu Việt Nam thường vẫn làm với giàn khoan này, tức là đi sát vào trong khu vực đó để tuyên truyền cho phía Trung Quốc biết rằng đây là lãnh hải của Việt Nam và Trung Quốc cần phải đi ra xa. Tuy nhiên, chiếc tàu này cũng đi tương đối sát, có lúc khoảng 7 hải lý tính từ giàn khoan đó. Thỉnh thoảng có những lúc tôi thấy có 5-6 tàu Trung Quốc chĩa thẳng chạy về hướng tàu này. Có những lúc vào ban đêm, tàu này ngưng máy để thả trôi, trôi về phía giàn khoan đó. Khi quá gần thì phía Trung Quốc bật đèn pha rất sáng, rọi thẳng vào tàu thì tàu lại nổ máy chạy ra xa.

Trà Mi: Anh thấy khoảng cách giữa tàu Việt Nam với các tàu Trung Quốc bao xa thì bị họ xua đuổi?

Vũ Hoàng Lân: Các vị đó nói thời gian đầu khoảng 3-4 hải lý thì mới bị xua đuổi, bây giờ thì cách 5-7 hải lý thì đã bị xua đuổi rồi. Khi một tàu Việt Nam vào thì có 2 tới 4 tàu Trung Quốc vây. Phía Việt Nam tuyên truyền kiểu Việt Nam, còn Trung Quốc tuyên truyền kiểu Trung Quốc. Tàu Trung Quốc nói đây là khu vực của Trung Quốc, phía Việt Nam phải đi ra nếu không sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nếu mình không đi, họ phun vòi rồng và có thể tông thẳng vào tàu của Việt Nam. Vòi rồng thì rất mạnh. Tôi lên các tàu đã từng bị phun vòi rồng thấy những thanh sắt bằng bắp tay người bị sức phun của vòi rồng làm cong hẳn 90 độ, các loại kính bị bể tan tành hết. Tôi gặp 3 chiếc, một của Kiểm Ngư, một của Cảnh sát biển, và một của ngư dân bị vòi rồng phun như vậy. Kính bị bể hết, nước vào trong tàu làm hư toàn bộ hệ thống điện.

Trà Mi: Trong chuyến hải trình từ ngày 17 đến 20 tháng 5, anh có chứng kiến những vụ việc nào đáng tiếc xảy ra giữa đôi bên không?

Vũ Hoàng Lân: Không thấy chuyện gì xảy ra giữa đôi bên trong thời gian đó cả vì tàu này không tới đủ gần để thấy điều đó. Đúng ngày 17 tháng 5 tôi có nghe có tàu bị tông vào, nhưng tôi không trực tiếp nhìn thấy. Họ nói rất rõ ràng rằng tàu Việt Nam chủ trương tránh va chạm, nghĩa là khi bị tàu Trung Quốc phun nước hoặc tông thì không tông hay phun nước lại mà bỏ chạy ra ngoài. Tàu Việt Nam đi vào đủ để cho Trung Quốc biết rằng Việt Nam vẫn đang phản đối, nhưng đến khi căng thẳng như vậy thì họ lại lui ra. Nhưng họ cứ mỗi ngày đều có đi vào, thứ nhất để nói cho Trung Quốc biết như vậy, thứ hai để quan sát thêm những hoạt động trên giàn khoan như thế nào.

Một trong nhiều tàu Kiểm Ngư Việt Nam bị Trung Quốc đâm móp.

Một trong nhiều tàu Kiểm Ngư Việt Nam bị Trung Quốc đâm móp.

Trà Mi: Qua trao đổi với ngư dân và cảnh sát biển ở đó, anh ghi nhận cảm xúc, phản ứng, tâm tư tình cảm của họ như thế nào?

Vũ Hoàng Lân: Mình nói chuyện nhiều với mấy người kiểm ngư, cảnh sát biển trên khu vực đó, họ cho biết thấy rất khó khăn với chủ trương không phản trả lại ở thời điểm hiện nay. Họ nói Trung Quốc vào đất nước Việt Nam, xua đuổi tàu Việt Nam ngay trong đất nước Việt Nam mà họ vẫn phải chấp nhận bỏ chạy chứ không đánh trả lại là điều rất khó khăn đối với họ. Tôi có tiếp xúc với một tàu của ngư dân bị Trung Quốc tông vào gây thiệt hại nhiều do thuyền trưởng Trương Văn Hải ở Đà Nẵng làm thuyền trưởng. Ông ấy nói yêu cầu phải có thêm sự trợ giúp từ phía các lực lượng của Việt Nam. Ông nói phía Trung Quốc, tàu đánh cá được tàu hải giám kè kè mà phía Việt Nam thì không có. Sau đó, tôi có nói chuyện với những người trong Cục Kiểm ngư. Họ nói Trung Quốc xuống đây đánh cá là trái lẽ nên phía Trung Quốc phải đem tàu hải giám ra kè. Còn ngư trường này là của Việt Nam, người Việt đánh cá ở đây là chuyện bình thường. Họ nói nếu hai tàu của các lực lượng đi kè bảo vệ 1 tàu cá của ngư dân thì Trung Quốc sẽ làm gấp đôi, gấp ba, sẽ leo thang căng thẳng nữa. Ở đây phải nói rõ là Việt Nam tuyên bố hoàn toàn không đưa bất cứ một lực lượng quân sự nào ra cả. Hiện nay chỉ nằm trong vòng Cảnh sát biển và Cục Kiểm ngư. ​

Trà Mi: Với tình hình anh mô tả, tại hiện trường cho thấy ưu thế hoàn toàn thuộc về phía Trung Quốc, họ quyết tâm bảo vệ hoạt động của giàn khoan, bất khả xâm phạm. Phía Việt Nam không làm được gì hơn ngoài mỗi ngày ra “tuyên truyền.” Vậy Việt Nam có cách nào thực thi hiệu quả vấn đề chủ quyền và chống vi phạm chủ quyền, họ có phương án nào khác nữa hay không? Anh có đặt câu hỏi đó với giới hữu trách?

Không có một động thái nào chứng tỏ Trung Quốc sẽ nhượng bộ…Mình nghĩ một cách khách quan là Việt Nam không thể làm gì hơn được trong việc này.

Vũ Hoàng Lân
Vũ Hoàng Lân: Đó là chiến lược hiện nay Việt Nam đang theo đuổi: vẫn tiếp tục cho Trung Quốc hiểu rằng Trung Quốc không thể yên ổn đặt giàn khoan ở đó. Và họ cũng hiểu rằng nếu Trung Quốc muốn rút Trung Quốc phải có cớ nào đó, ví dụ như đợi ngày đáo hạn vào tháng 8 mà Bắc Kinh loan báo sẽ hoàn thành thăm dò.

Trà Mi: Có vẻ giải pháp cuối cùng cho Việt Nam là phải chờ đến hết thời gian thăm dò của giàn khoan ở đó thì Trung Quốc mới rút về, chứ hiện nay không có một động thái nào chứng tỏ Trung Quốc sẽ nhượng bộ?

Vũ Hoàng Lân: Không có một động thái nào chứng tỏ Trung Quốc sẽ nhượng bộ trong vụ này. Mình nghĩ một cách khách quan là Việt Nam không thể làm gì hơn được trong việc này. Việt Nam không thể nào manh động dùng quân sự, cái mà Trung Quốc đang trông đợi nhất. Và Việt Nam sẽ không để cho Trung Quốc có cơ hội đó.

Trà Mi: Anh có cảm nhận thế nào từ những gì mắt thấy tai nghe tại hiện trường?

Vũ Hoàng Lân: Tôi nghĩ cần cố gắng làm sao đừng để xảy ra chiến tranh vì nếu có chiến tranh sẽ rất lỗ lã về phía Việt Nam. Hiện nay, tôi đang có mặt tại thành phố Đà Nẵng, nơi có rất đông du khách là Trung Quốc. Bây giờ họ gần như rút hết về nước. Họ không tới ăn chơi gì ở đây nữa. Việc này cho thấy tất cả những biến động gì đều rơi ngược ngay lập tức vào đời sống bình thường của người dân Việt Nam. Về đây, tiếp xúc với người dân, với thực địa, mình thấy vấn đề manh động là rất khó.

Trà Mi: Mình không nói tới mức manh động, mà nói tới khả năng có mức cứng rắn hơn những gì Việt Nam đang làm hiện giờ…

Vũ Hoàng Lân: Tôi hỏi chuyện họ, tôi không thấy họ có bất cứ một giải pháp nào.

Ngư dân từ Đà Nẵng kể chuyện bị tàu cá có vỏ sắt của Trung Quốc đâm bể tàu gỗ.

Ngư dân từ Đà Nẵng kể chuyện bị tàu cá có vỏ sắt của Trung Quốc đâm bể tàu gỗ.

Trà Mi: Tiếp xúc với giới chức và người dân Việt Nam trong chuyến đi này, anh thấy cách phản ứng giữa dân chúng và nhà nước trước cùng sự việc (giàn khoan Trung Quốc) khác nhau thế nào?

Vũ Hoàng Lân: Cả dân lẫn nhà nước lần này đều phản đối hành động của Trung Quốc. Cái đó quá rõ ràng, ai cũng thấy. Khác nhau là ở cách biểu hiện ra. Người dân tẩy chay hàng hóa, nhà máy, và khách hàng Trung Quốc. Khách sạn thì không tiếp người Trung Quốc..v.v..Nhà nước rõ ràng không có chủ trương làm như vậy. Hậu quả của việc đó bắt đầu tác động lên vấn đề làm ăn buôn bán ở đây. Ở Bình Dương nhà máy Trung Quốc, Đài Loan bị đập phá bây giờ hàng ngàn người không có công ăn việc làm ở Bình Dương.

Trà Mi: Khi anh ra Trường Sa, anh ghi nhận được những gì?

Vũ Hoàng Lân: Chuyến đi Trường Sa và chuyến đi Hoàng Sa hoàn toàn khác nhau. Hoàng Sa thì Trung Quốc lấy từ năm 1974 rồi, bây giờ họ xây cất dữ dội rồi. Trường Sa thì hiện nay Việt Nam gần như chủ đạo trong vấn đề chủ quyền ở khu vực đó, với 21 đảo gồm 9 đảo nổi và 11 đảo đá ngầm. Những chuyến đưa người, kể cả người Việt ở hải ngoại, ra Trường Sa để thăm hỏi nằm trong chủ trương mà Việt Nam muốn làm để khẳng định chủ quyền ở vùng đất đó.​

Trà Mi: Ra Trường Sa, anh thấy cộng đồng người Việt sinh sống, làm ăn ở đó thế nào?

Vũ Hoàng Lân: Người Việt ở đó sống giống như quân đội vậy: chồng đi đánh cá, vợ vào phụ các công việc trong các doanh trại của hải quân. Những đảo lớn thì như vậy. Những đảo nhỏ quá, nhất là những đảo đá ngầm, thì ở đó chỉ có quân sự thôi.

Trà Mi: Tình hình ở Trường Sa có gặp khó khăn gì từ phía Trung Quốc không?

Vũ Hoàng Lân: Trường Sa thì không có khó khăn gì với Trung Quốc trừ đảo Gạc Ma mà Trung Quốc đã đánh chiếm từ năm 1988. Trung Quốc đã tập trung vào đó xây dựng. Chuyến vừa rồi đi qua, tôi thấy Trung Quốc bắt đầu húc cát lên đổ cho đảo đó to ra để làm sân bay. Việt Nam không can thiệp được vào chỗ Gạc Ma. Chỗ này Trung Quốc chiếm và giữ rất kỹ. Lúc chúng tôi đi ngang đó dừng tàu lại ở khu vực Collins-Gạc Ma-Lansdowne, tôi thấy họ húc cát lên trắng xóa và xung quanh cả chục chiếc tàu của họ đậu. Trong 11 đảo đá ngầm ở Trường Sa, không có người dân. 9 đảo kia cũng không phải đảo nào cũng có dân. Những đảo lớn như Trường Sa, Sơn Ca, Song Tử Tây thì có. Đa số, nhưng không phải là tất cả, đảo đều có dân sinh sống.

Trà Mi: Mật độ dân cư ở đó thế nào? Sự hiện diện quân sự, đồn bốt ở đó có nhiều không?

Vũ Hoàng Lân: Cái đó thì vô kể. Có thể nói những đảo đó là khu quân sự. Cho tới thời điểm này quân sự ở đây rất chặt. Giao thông hào chạy khắp đảo, đặc biệt là khu ven biển giao thông hào bọc xung quanh. Ngoài biển họ dựng có những cái cọc gọi là cọc chống đổ bộ, chỉ chừa một đường để tàu chạy thẳng vào trong đảo thôi. Nói chung vấn đề quân sự rất chặt chẽ trên mấy đảo đó. Mỗi đảo có khoảng 7 hộ dân. Chia sẻ thêm, không phải về điều mình nhìn thấy mà về điều mình cảm nhận: Trường Sa-Hoàng Sa là vấn đề hết sức phức tạp. Mình nghĩ, chính quyền Việt Nam dù có giữ bí mật thế nào đi nữa cũng nên cố gắng thêm thông tin nhiều chừng nào tốt chừng đó cho người dân trong và ngoài nước để người dân có thái độ cho đúng. Nhiều khi người dân ở đây hoặc ở Mỹ có những phát biểu, ý thức, hoặc ý muốn xa rời thực tế vì thiếu thông tin. Đó là điều mình muốn chia sẻ.

Trà Mi: Xin cảm ơn anh đã dành thời gian cho Tạp chí Thanh Niên VOA trong cuộc trao đổi hôm nay.

Một số hình ảnh từ chuyến đi của ký giả Vũ Hoàng Lân:

Cán bộ Cục Kiểm Ngư Việt Nam nói về tại nạn bị tàu hải giám Trung Quốc đâm. Cán bộ này cho biết những tấm đệm quanh mạn tàu Trung Quốc bị rớt lại trên tàu Việt Nam.

Cán bộ Cục Kiểm Ngư Việt Nam nói về tại nạn bị tàu hải giám Trung Quốc đâm. Cán bộ này cho biết những tấm đệm quanh mạn tàu Trung Quốc bị rớt lại trên tàu Việt Nam.

Nhà báo Vũ Hoàng Lân, Phố Bolsa TV, phỏng vấn Chính trị viên tàu Cảnh sát biển CSB 8001

Nhà báo Vũ Hoàng Lân, Phố Bolsa TV, phỏng vấn Chính trị viên tàu Cảnh sát biển CSB 8001
Ngư dân tự sửa chữa tàu cá sau khi bị tàu cá có vỏ sắt của Trung Quốc đâm bể

Ngư dân tự sửa chữa tàu cá sau khi bị tàu cá có vỏ sắt của Trung Quốc đâm bể

“KHI ĐẤT NƯỚC TÔI THANH BÌNH…”

“KHI ĐẤT NƯỚC TÔI THANH BÌNH…”

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Những ngày đất nước tôi còn chìm trong khói lửa chiến tranh, bao nhiêu lần tôi đã cất cao những lời  hát như vậy để mơ về một ngày thanh bình không còn tiếng súng. Niềm mơ ước ấy cứ luẩn quẩn trong đầu óc thanh niên chúng tôi thời bấy giờ, và rồi đến ngày im tiếng súng, máu thịt thôi rơi vì cuộc chiến huynh đệ tương tàn, ước mơ ấy trở lại cho dù có lắm khi không hài lòng vì một thứ “thanh bình” như thế.

Vì công việc nên tôi có cơ hội đi lại hầu hết những nơi vang danh chiến trường xưa, có những nơi dừng chân lại đôi ba ngày, có những nơi thoáng qua để hồi tưởng bạn bè đã nằm xuống, nhưng có những nơi hạnh phúc cho tôi khi được dâng lễ, dù chỉ là một căn Nhà Nguyện đơn sơ vách lá hay một khoảng sân đất nhỏ tụ họp vài trăm người, thế là quá đủ, quá đủ cho giấc mơ về một ngày được đi thăm khắp nơi. Giấc mơ của một người lớn lên trong chiến tranh, hàng ngày của tuổi trẻ nghe tiếng bom đạn, kỷ niệm đầy ắp hình ảnh thương đau của dân tộc, của đồng bào, và của bạn bè thời chinh chiến xưa.

Những nơi tôi được viếng thăm là những thành phố đầy bom đạn, đầy vết tích chiến tranh, những nghĩa trang “mộ bia đều như nấm”, tôi không phải chịu nỗi xót xa khi theo “mẹ già lên núi tìm xương con mình” nhưng lại là theo một bạn trẻ “lên núi tìm xương cha mình”. Tôi còn phải đi nhiều hơn ước mơ thời trai trẻ, đó là những chuyến vào trại tập trung “tìm thăm anh mình”, hoàn toàn những cái đầu “ngây thơ” thời trước 75 có thể ngờ tới !

Mùa Phục Sinh vừa qua, anh em tôi tổ chức một ngày ghi ơn “Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa”, tôi nhận ra còn một địa chỉ nữa tôi mắc nợ mà chưa được viếng thăm. Hình ảnh và bài viết về cuộc tri ân này đã được chia sẻ rất nhiều trên các mạng xã hội, các Thương Phế Binh là những con người chịu thiệt thòi quá nhiều, xã hội đã bỏ quên họ, những người quan tâm đến họ thì lại không thể thực hiện sự nâng đỡ cần thiết đến từng người và mọi người. Ba mươi chín gần bốn mươi năm rồi, họ vẫn lây lất cố sống cho ngày đời trôi qua, không còn ai và không còn gì để cậy trông.

Hôm ấy anh em Thương Phế Binh vui mừng lắm, nhiều ông, nhiều anh cảm động bật khóc, họ không nghĩ có ngày được gặp nhau, được quan tâm thương mến, được sống những giây phút hào hùng đứng thẳng lên đọc to số quân, KBC ( khu bưu chính – địa chỉ viết thư của quan đội VNCH ngày xưa ), tên đơn vị tác chiến, ngày và nơi bị thương. Vang lên giữa buổi họp măt tiếng hô to của đơn vị Cọp Ba Đầu Rằn, Trâu Điên… Họ không ngờ có ngày họ được trân trọng, được nghe lời tri ân.

Nhưng không phải ai cũng có thể biết mà đến, không phải ai biết mà có thể đến được. Đã có nhiều người không biết ngày họp mặt này, có nhiều người biết nhưng bị ngăn cản không đến được, và có rất nhiều người vì hoàn cảnh không thể đến được dù có biết.

Sau buổi họp măt, qua thông tin từ anh em Thương Phế Binh đến dự, chúng tôi chia nhau đi thăm viếng cụ thể từng người, mục đích để có những thông tin xác thực hơn về hoàn cảnh để có một chương trình cụ thể hơn nâng đỡ anh em. Điều kỳ diệu đã đến không ngờ, qua từng Thương Phế Binh đăng ký, chúng tôi khám phá ra nhiều anh em Thương Phế Binh khác nữa, mỗi địa chỉ là một đầu mối phăng ra nhiều trường hợp thương tâm hơn. Đoàn công tác đã phải vượt qua nhiều cây số trong gian lao vất vả để tiếp cận anh em. Họ ở rất xa, những vùng rất xa, rất cơ cực và rất nghèo khổ, cả ngày đoàn chỉ đi được khoảng vài nhà, gặp họ, đoàn công tác hội ra được nhiều điều mà ngồi ở thành phố không thể biết.

Họ nghèo quá, mất hết chân tay lấy đâu vượt qua đường trường ngút ngàn để về thành phố dự ? Xe lăn ? Không thể nhận vì đường ruộng mấp mô, hoặc nền nhà đất khô gập ghềnh làm sao lăn xe ? Đi bằng hai cái ghế đẩu bằng gỗ chắc ăn hơn. Mắt mờ không có tiền lên Sàigòn phẫu thuật, mà có tiền để lên thì không biết nương nhờ vào đâu trong thời gian chữa bệnh. Một Thương Phế Binh sống đơn côi với đứa con gái 13 tuổi nói trong nước mắt: Tật nguyền mà vợ lại qua đời sớm, con nhỏ nheo nhóc không biết làm sao để sống ? Chung nhất là hoàn cảnh khó khăn đẩy họ trôi giạt về quê xa thành phố, rồi cái nghèo, phận tàn phế nhận chìm họ trong chốn tối tăm ấy suốt đời.

Bốn mươi năm rồi bị bỏ quên, họ vẫn sống, sống hào hùng không ăn bám cho dù khốn khổ, anh em không muốn lòng thương hại, nhiều anh tự trọng đến dộ không ngỏ một lời than thân trách phận chứ đừng nói đến một lời xin giúp đỡ. Các anh chị em trong đoàn công tác càng đi càng khâm phục anh em Thương Phế Binh, họ về nói với chúng tôi rằng: “Chúng con khâm phục các chú, hoàn cảnh thấy tội lắm, muốn rơi nước mắt nhưng không hề ta thán, trách móc ai cả”.

Chúng tôi lại nhận được nhiều thư từ nhiều nơi gần xa gởi về với tất cả tấm lòng dành cho các  Thương Phế Binh. Nhiều vị có ý muốn chia sẻ cách nào đó với những việc chúng tôi đang thực hiện. Chúng tôi đang lấy thông tin và xem xét từng hoàn cảnh, chắc chắn phải làm một cái gì đó cho anh em, những người bị thua thiệt quá nhiều. Chúng ta sẽ thi hành lòng yêu mến và sự công bằng mà Thiên Chúa muốn dành cho họ.

Xin biết ơn các anh em Thương Phế Binh đã cho chúng tôi gặp được Chúa Giêsu nơi anh em như Tin Mừng Mt 25 đã mô tả. Anh em chính là một trong những địa chỉ có quá nhiều người “bị bỏ rơi hơn cả” đã được ghi rõ trong Hiến Pháp Nhà Dòng chúng tôi.

Vậy là tôi vẫn còn mắc nợ địa chỉ này nữa chưa viếng thăm sau năm 75. “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm…” Vâng, tôi sẽ đi thăm, tôi phải đi thăm cho dẫu đất nước tôi hôm nay vẫn chưa thật sự được thanh bình…

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

17.5.2014

Thời điểm để lãnh đạo VN thay đổi tư duy?

Thời điểm để lãnh đạo VN thay đổi tư duy?

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2014-05-23

000_Hkg9817100-600.jpg

Tàu hải giám Trung Quốc (màu trắng, phía sau) ngay sát tàu Việt Nam trên Biển Đông hôm 14/5/2014

AFP photo

Cơ hội cho Việt Nam?

Sự kiện giàn khoan Trung Quốc chiếm lĩnh vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2 tháng Năm là cơ hội cho Việt Nam tranh thủ hậu thuẫn trên mặt trận ngoại giao, đồng thời cũng là cơ hội để giới lãnh đạo thay đổi cái não trạng, cái tư duy về nước bạn 16 chữ vàng 4 tốt này.

Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, nguyên trưởng Nhóm Tư Vấn Lãnh Đạo Bộ Ngoại Giao Việt Nam, hiện là thành viên của tổ chức Minh Triết Làm Chủ Biển Đông, khẳng định như vậy trong cuộc trao đổi với phóng viên Thanh Trúc. Ông cho biết thêm:

TS Đinh Hoàng Thắng: Rõ ràng từ một tuần nay, trên mặt trận ngoại giao, không riêng Việt Nam mà cả Trung Quốc cũng thế.

Đầu tiên là đại sứ Trung Quốc lên CNN để xuyên tạc và bôi nhọ Việt Nam như thế nào thì tin tức quốc tế đã đưa rồi. Phó đại sứ Trung Quốc ở Indonesia cũng lên truyền thông viết bài đã kích Việt Nam như thế nào. Cái mà Trung Quốc tập trung trên mặt trận dư luận trong tuần qua là biến mình từ một tác nhân gây chuyện thành một nạn nhân, đặc biệt lấy cớ là có những vụ biểu tình đập phá để biến mình thành nạn nhân.

“Cái biểu hiện ra bề ngoài như một đường lối một chủ trương như vậy là cái rất mới, thể hiện lập trường của Việt Nam ngày càng tăng lên so với cái vi phạm của Trung Quốc.
-TS Đinh Hoàng Thắng”

Việt Nam thì nhân chuyện thủ tướng đi sang Philippines ông đã có bài phát biểu rất cương quyết rất thẳng thắn và đã lên án Trung Quốc khá nặng. Tất nhiên đây không phải lần đầu tiên bởi vì ở ASEAN thì ông cũng đã nói nhưng mà ở Philippines thì cường độ nặng hơn và rõ ràng hơn. Thế rồi ngoại trưởng Việt Nam cũng vừa điện đàm với ngoại trưởng Mỹ và nội dung điện đàm được hai bên công khai là phía Việt Nam hưởng ứng yêu cầu của phía Mỹ muốn tăng cường những cuộc thăm của các hạm đội hải quân Mỹ ở các cảng biển của Việt Nam.

Tất cả những biểu hiện ấy cho thấy trên mặt trận ngoại giao từ thủ tướng đến phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng đã có những hoạt động rất tích cực để không chỉ tố cáo và xiển dương chính nghĩa mà với Hoa Kỳ cũng đã có sự phối hợp hành động.

Thanh Trúc: Thưa tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, có phải ông muốn nói sự kiện giàn khoan Trung Quốc, nay ở ngay trong vùng biển Việt Nam, buộc giới lãnh đạo phải thay đổi cách nghĩ và phải tìm ra chính sách đối phó hữu hiệu hơn?

TS Đinh Hoàng Thắng: Tôi muốn nói cái mọi người có thể thấy rõ nhất là những biểu hiện công khai. Lần lượt tất cả những vị đứng đầu đảng, nhà nước, quốc hội đều có tuyên bố rõ ràng về vấn đề lên án và phê phán Trung Quốc. Kể cả ông chủ tịch nước lẫn ông thủ tướng đều lần đầu tiên khẳng định Việt Nam có thể tính đến khả năng đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế. Cái biểu hiện ra bề ngoài như một đường lối một chủ trương như vậy là cái rất mới, thể hiện lập trường của Việt Nam ngày càng tăng lên so với cái vi phạm của Trung Quốc mà không có thay đổi gì cả.

Còn gọi thế nào là đủ thì cái này cũng khó. Chúng ta thật ra cũng chưa biết ý đồ sâu xa của Trung Quốc là còn dấn lên tới đâu nữa.

Được đằng chân, lân đằng đầu

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng quan sát các binh sĩ Việt Nam vận hành hệ thống điều khiển tên lửa phòng không S-300 do Nga chế tạo, trong chuyến thăm tiểu đoàn tên lửa phòng không 64 thuộc sư đoàn phòng không 361 đóng tại Hà Nội , hôm 13/01/2014.

Thanh Trúc: Nhiều người nghĩ Trung Quốc được đằng chân sẽ lân đằng đầu, ngoài mặt trận ngoại giao như ông nói thì Việt Nam còn có thể làm gì hơn?

TS Đinh Hoàng Thắng: Chúng ta không nên nhìn việc hạ đặt giàn khoan 981 như một hiện tượng đơn lẻ mà phải nhìn nó trong một chuỗi các hành động, một bước trong hàng loạt các chính sách mà mục tiêu cao nhất là để Trung Quốc xóa nhòa trước dư luận thế giới về việc Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, biến mình từ một kẻ đi gây sự thành một nạn nhân. Đó là đường lối rất nhất quán của Trung Quốc và phải nói họ có nhiều việc làm để hỗ trợ cho cái đó.

Như vậy về phía Việt Nam vũ khí ở đây là gì? Trước mắt cho đến nay mà nói hành động quân sự là chưa thể tính đến. Mặc dầu có những người trách nhiệm trong chính quyền cũng nói rằng Việt Nam sẽ tận dụng mọi phương tiện mọi biện pháp để giải quyết vấn đề này, chứ còn vấn đề độc lập dân tộc, vấn đề chủ quyền quốc gia, vấn đề biển đảo là không thể đem ra đổi chác, không thể có một nhân nhượng nào hết. Tôi thấy như vậy là quyết tâm của lãnh đạo Việt Nam rất cao.

Thanh Trúc: Xin ông đừng quên là trước giờ nhà nước Việt Nam không cho phép người dân biểu tình chống Trung Quốc. Mặt khác, ông thấy những cuộc biểu tình biến thành bạo loạn ngày 13 và 14 liệu có gây khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam không?

“Trong cái rủi có cái may, dầu sao đây cũng là cái để Việt Nam nhìn lại, còn làm đến mức nào thì còn tùy thuộc vào nhiều biến số khác.
-TS Đinh Hoàng Thắng”

TS Đinh Hoàng Thắng: Việc gây bạo loạn thì cái đó cho tới bây giờ mọi người Việt Nam, tôi nghĩ người Việt Nam bên ngoài người ta cũng biết, rằng đây không phải là những người trong hàng ngũ biểu tình, lại càng không phải là những người Việt Nam yêu nước. Là vì những vụ biểu tình vừa rồi tôi cũng có tham gia thì tôi biết người ta đi rất có trật tự rất có ý thức chứ không ai lại đi đập phá để riot (bạo loạn) như vậy cả. Đây chắc chắn là có những hành động mờ ám, có những bàn tay tổ chức. Ai thì chắc chắn cơ quan an ninh của Việt Nam biết, vấn đề là người ra có đưa ra xử hay không thì tôi không biết. Tôi chắc chắn những người này không phải là những người yêu nước và như vậy họ đang tiếp tay cho Trung Quốc. Từ việc hạ đặt giàn khoan, từ việc có những hành động bạo loạn trong nước dẫn đến chuyện Trung Quốc rút người rồi rút công ty về, thì cái này họ muốn gây một hình ảnh xấu trước quốc tế về Việt Nam là một đất nước không ổn định, một đất nước thích bạo lực, thích đập phá.

Như vậy, về mặt âm mưu của Trung Quốc thì không thể kể xiết được. Việt Nam đã là nạn nhân nhiều năm trước đây, hàng ngày ngư dân Việt Nam vẫn bị đập phá bị chèn ép bị hăm dọa ở trên biển. Cho nên cũng không ngạc nhiên khi nghe tin Trung Quốc tập trung quân ở biên giới.

Thế còn có gây khó khăn cho kinh tế Việt Nam không thì đương nhiên. Về mặt phát triển kinh tế thì rõ ràng nền kinh tế của Việt Nam quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Trong cái rủi có cái may, dầu sao đây cũng là cái để Việt Nam nhìn lại, còn làm đến mức nào thì còn tùy thuộc vào nhiều biến số khác.

Thanh Trúc: Ông cho rằng trong cái rủi có cái may, xin ông nói rõ hơn?

TS Đinh Hoàng Thắng: Theo tôi việc Trung Quốc đặt giàn khoan có nhiều vấn đề mới. Đây là lúc các nhà lãnh đạo các nhà quản lý của Việt Nam phải nhìn nhận lại vấn đề để mình sau này có cân đối cân bằng trong phát triển. Còn đúng là nếu cứ theo cái đà này thì Trung Quốc bất cứ lúc nào cũng có thể gây khó khăn.

Đối với Việt Nam không phải chỉ vấn đề biểu tình như chị nói đâu, nó đặt ra vấn đề quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ nay phải được nhìn nhận dưới một góc độ khác. Nó sẽ ít tính cách tuyên truyền mà tiếng Anh gọi là “get to the point” là nó phải đi vào cái nội dung của nó, đi vào cái thực chất của nó. Tôi cho đây là một cái tốt bởi vì cách đây mấy năm khi Trung Quốc hăm dọa, đe dọa tàu thuyền của ngư dân ngoài biển thì báo chí Việt Nam chỉ được đưa rằng đây là tàu lạ, nước lạ. Nhưng ngược lại bây giờ thì báo chí lại nói công khai là âm mưu bành trướng, âm mưu xâm lược, âm mưu độc chiếm biển Đông. Tôi nói trong cái rủi có cái may là vì Trung Quốc làm thế tự nhiên nó được giải phóng, ở một mặt nào đó người Việt cái chuyển cái nhận thức.

Một vấn đề nữa là ngay trong nhận thức sâu xa của người dân, trong nhận thức sâu xa của lãnh đạo, người ta phải thấy rằng không thể quét cái đống rác vào dưới cái tấm thảm mãi được mà đến lúc phải gọi sự việc đúng tên của nó. Đây là thời điểm, đây là bước ngoặt để từ người dân đến nhà lãnh đạo thay đổi cái não trạng, thay đổi cái tư duy.

Thế còn biểu tình thì nó là chuyện tự nhiên trong một xã hội dân sự, tất nhiên Việt Nam hiện nay chưa hoàn toàn là một xã hội dân sự nhưng mà nó phải tiến đến đó sớm hay muộn. Chính những hành động của Trung Quốc vừa rồi mở ra nhiều khả năng, mở ra nhiều giải pháp, mở ra nhiều cái tư duy để cho con người được suy nghĩ được hành động một cách khác nhau vì mục đích cao cả nhất là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng.

httpv://www.youtube.com/watch?v=imiGacXwA4Y

Việt Nam chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị

Việt Nam chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị

Thanh Phương

Sau nhiều năm im lặng, mãi đến những năm gần đây, chính quyền Việt Nam mới lên tiếng giải thích về công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, nhưng lần đầu tiên, Hà Nội vừa chính thức tuyên bố công hàm đó là vô giá trị, tức là không hề công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Công hàm Phạm Văn Đồng, mà nhiều người gọi là « công hàm bán nước », đã được đưa ra trong bối cảnh như thế nào ? Ngày 04/09/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố với quốc tế quyết định của chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam).

Sau đó, ngày 14/09/1958, Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai bức công hàm ghi rõ: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành” tuyên bố nói trên của chính phủ Trung Quốc và “sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.

Từ đó cho đến nay, đối với Bắc Kinh, bức công hàm nói trên của Thủ tướng Việt Nam là đồng nghĩa với việc Hà Nội thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thật ra, từ lâu, nhiều chuyên gia đã phân tích rõ là công hàm Phạm Văn Đồng chẳng có giá trị nào về mặt pháp lý trên vấn đề chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, bởi một lý do đơn giản là hai quần đảo này vào thời đó thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong bài báo ngày 20/07/2011, tờ Đại Đoàn Kết cũng đã công nhận rằng vào thời điểm năm 1958, Hoàng Sa và Trường Sa “tạm thời thuộc quyền quản lý của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa” và chính phủ này “đã liên tục thực thi” chủ quyền trên hai quần đảo đó và đặc biệt đã quyết liệt chống trả sự xâm lược của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Hơn nữa, vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền trên hai quần đảo này.

Nhưng đó chỉ mới là ý kiến của một tờ báo chính thức, được đăng tải vào lúc đó để xoa dịu dư luận, không chỉ đang phẫn nộ về những hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, mà còn rất bất bình trước hành động đàn áp người biểu tình phản đối Trung Quốc. Nay, trong bối cảnh Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam, lần đầu tiên chính phủ Hà Nội chính thức tuyên bố công hàm đó là không hề công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong cuộc họp báo quốc tế hôm qua, 23/05/2014 ( lần thứ ba kể từ đầu vụ giàn khoan HD-981 ), phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Trần Duy Hải đã nhắc lại lập luận rằng công hàm ( mà ông gọi là công thư ) Phạm Văn Đồng không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bởi lẽ hai quần đảo này lúc đó nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa, được Pháp giao lại vào năm 1956, phù hợp với Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc có tham gia.

Việt Nam đã phải chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị trong bối cảnh mà chính phủ Hà Nội đang cố vận động sự ủng hộ của quốc tế bằng cách nêu rõ những cơ sở pháp lý và lịch sử về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Việt Nam.

Hà Nội cũng đang xem xét việc khởi kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế. Trong cuộc họp báo quốc tế hôm qua, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Hàm Vụ trưởng Vụ Luật pháp quốc tế Bộ Ngoại giao, cho biết, với tư cách thành viên của Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.

Việt Nam cứu xét ‘giải pháp quốc phòng’ vụ TQ hạ đặt giàn khoan

Việt Nam cứu xét ‘giải pháp quốc phòng’ vụ TQ hạ đặt giàn khoan

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lập lại quyết tâm sẽ bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, kể cả chủ quyền các vùng lãnh hải và biển đảo, là quyền thiêng liêng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lập lại quyết tâm sẽ bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, kể cả chủ quyền các vùng lãnh hải và biển đảo, là quyền thiêng liêng

23.05.2014

Việt Nam đang cứu xét giải pháp đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế để giải quyết cuộc tranh chấp đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn về các vùng biển đang trong vòng tranh chấp giữa hai nước ở Biển Đông.

Báo Financial Times dẫn lời ông Ernie Bowers, một chuyên gia về các vấn đề Á Châu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington (CSIS), đánh giá khả năng Hà nội sẽ theo chân Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa án Trọng tài Quốc tế tại La Haye, là có xác suất 75% sẽ xảy ra.

Ông Bowers là người quen thuộc với cuộc tranh luận ở Việt Nam về liệu có nên tiến hành giải pháp pháp lý chống Trung Quốc hay không.

Cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông đã âm ỉ từ nhiều năm qua, nhưng căng thẳng tăng cao đáng kể trong 3 tuần qua, sau khi Trung Quốc kéo giàn khoan nước sâu khổng lồ vào Biển Đông, và lần đầu tiên khởi sự khoan dầu trong vùng biển mà Việt Nam cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vì chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 200 hải lý.

Hôm nay truyền thông báo chí do nhà nước Việt Nam kiểm soát, dường như muốn đẩy mạnh phương án này. Trang bienphong.com đăng bài viết với hàng tít “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để kiện Trung Quốc.” Trang mạng này dẫn lời Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ khẳng định như vừa kể.

Ông Trục nói rằng nếu Hà nội không cương quyết ngăn cản bước leo thang của Trung Quốc lần này, thì nó sẽ tạo ra một tiền lệ để Trung Quốc sau này tiến sát vào bờ biển Việt Nam và các quốc gia khác trong vùng để khai thác dầu khí. Ông Trần Công Trục cho rằng vụ hạ đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là một cuộc “xâm lược mềm”, rất nguy hiểm và rất khó đối phó.

Hơn 100 tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc đang trong tình trạng đối đầu căng thẳng gần giàn khoan HD 981 của Trung Quốc trong vùng lãnh hải Việt Nam.

Hãng tin Reuters tường thuật, Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng nói chính phủ của ông đang cứu xét một loạt “giải pháp quốc phòng” khác nhau chống Trung Quốc, kể cả giải pháp pháp ly, sau khi Bắc Kinh di chuyển giàn khoan dầu vào các vùng biển đang trong vòng tranh chấp với Việt Nam ở Biển Đông.

Quyết định của Việt Nam theo chân Philippines đưa cuộc tranh chấp ra trước Tòa Án Trọng Tài quốc tế sẽ làm Bắc Kinh giận dữ. Trung Quốc vẫn muốn giải quyết tranh chấp qua các cuộc thương thuyết song phương, nhưng một số nước ASEAN, nhất là Philippines, tin rằng quốc tế hóa cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc là giải pháp duy nhất đối với các nước nhỏ trong cuộc đối đầu ở Biển Đông.

Trả lời một cuộc phỏng vấn do Reuters thực hiện qua email hôm thứ Năm, ông Nguyễn Tấn Dũng gạt giải pháp quân sự sang một bên.

Trả lời câu hỏi của phóng viên Reuters, rằng liệu Việt Nam có nghĩ tới việc giải quyết những căng thẳng bằng các phương tiện quân sự. Ông Nguyễn Tấn Dũng viết:

“Quý vị hỏi về các biện pháp quân sự à. Không, Việt Nam đã chịu đựng quá nhiều gian khổ và mất mát do các cuộc chiến xâm lược gây ra trong quá khứ rồi. Chúng tôi chỉ mong muốn có hòa bình và hữu nghị để xây dựng và phát triển đất nước.”

Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố Việt Nam sẽ không bao giờ là nước khởi sự một cuộc đối đầu quân sự, trừ phi bị buộc vào thế phải tự vệ.

Tuy nhiên ông Nguyễn Tấn Dũng lập lại quyết tâm sẽ bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, kể cả chủ quyền các vùng lãnh hải và biển đảo, là quyền thiêng liêng.

Nhưng mặt khác, Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào chống một nước khác.

Trong khi đó, Hoa Kỳ đã dùng những từ ngữ cứng rắn và quyết liệt hơn khi nói đến cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.

Ông Kurt Campbell, từng là nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ đặc trách vùng Đông Á, nói rằng Hoa Kỳ đã quyết định đi theo một hướng tiếp cận mạnh mẽ hơn về cái gọi là đường 9 đoạn tại Biển Đông, vạch ra vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền ở Biển Đông, bởi vì ASEAN ngày càng bực dọc hơn về tình trạng thiếu tiến bộ trong các cuộc đàm phán với Bắc Kinh.

Tuần trước, ông Lê Lương Minh, Tổng thư ký ASEAN, kêu gọi Trung Quốc hãy rời các vùng biển của Việt Nam để xoa dịu cuộc khủng hoảng ở quần đảo Hoàng Sa. Lời phát biểu của Tổng thư ký ASEAN đã khơi lên một phản ứng mạnh từ Bắc Kinh, nói rằng ông Lê Lương Minh đã “làm ngơ sự thật, vi phạm lập trường trung dung của ASEAN, và đơn phương đánh đi những tín hiệu sai lạc.”

Ngoại trưởng Việt Nam sẽ gặp Ngoại trưởng Mỹ về Biển Đông

Ngoại trưởng Việt Nam sẽ gặp Ngoại trưởng Mỹ về Biển Đông
Friday, May 23, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Phạm Bình Minh sẽ gặp Ngoại trưởng Mỹ John Kerry để “trao đổi nhiều vấn đề,”phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN xác nhận như vậy hôm 23 tháng 5, 2014.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry bắt tay ngoại trưởng CSVN Phạm Bình Minh khi hai người mở họp báo chung ở Hà Nội ngày 16/12/2013. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Trong cuộc họp báo ở Hà Nội hôm Thứ Sáu, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN Lê Hải Bình xác nhận rằng “hai bên đang sắp xếp thời gian đảm bảo phù hợp nhất” mà lý do chính yếu được hiểu là các bối rối của Việt Nam cần đồng minh trong việc đối phó khó khăn ở thế yếu với Trung Quốc. Tuy nhiên, không thấy nói hai ông ngoại trưởng sẽ gặp nhau ở đâu.

Khi được hỏi nội dung cuộc họp sẽ được chuẩn bị, ông Lê Hải Bình cho hay ngoài những vấn đề song phương và khu vực “tất nhiên sự việc Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam sẽ được nhắc đến.”

Hôm 21 tháng 5, 2014, ông Phạm Bình Minh có cuộc điện đàm với ngoại trưởng Mỹ John Kerry vào lúc tình hình căng thẳng giữa Việt Nam và Trung quốc vẫn diễn ra ở khu vực giàn khoan HD981 trong vùng biển đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Luật Biển.

Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) tường thuật cuộc điện đàm cho biết, ông Phạm Bình Minh đã “thông báo (với ông Kerry) về những diễn biến mới nhất liên quan đến việc Trung Quốc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; cho biết Trung Quốc liên tục gia tăng số lượng tàu, trong đó có tàu hộ vệ tên lửa, tàu tuần tiễu tấn công nhanh và tàu đổ bộ lớn… khiến tình hình rất căng thẳng.”

Ông Phạm Bình Minh được tường thuật “Khẳng định Việt Nam đã hết sức kiềm chế, kiên trì thông qua đối thoại, tránh xung đột, đồng thời kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và các tàu hộ tống khỏi khu vực vì đây là hành động vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, đe dọa ổn định, an toàn trên biển, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.”

Theo hãng tin AP, nói chuyện với Ngoại trưởng CSVN, ông John Kerry “bầy tỏ quan ngại về những hành động khiêu khích của Trung Quốc khi đem dàn khoan và rất nhiều tàu bảo vệ tới vùng biển tran hchấp với Việt Nam. Vì vậy đã tạo ra căng thẳng ở khu vực và dẫn tới các vụ bạo động nhắm vào các hãng xưởng ngoại quốc tại Việt Nam.”, theo lời bà phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Jen Psaki.

Theo lời bà Psaki thuật lại, ông Kerry khuyến cáo hai bên nên kềm chế để làm giảm cường độ căng thẳng, bảo đảm cho tàu bè qua lại và giải quyết các tranh chấp xuyên qua các biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế. Cách đây ít ngày, Ngoại trưởng Mỹ cũng đã lên ánh hành động Trung quốc đem giàn khoan HD981 tới vùng biển tranh chấp với Việt nam là “khiêu khích” và là nguyên nhân của sự căng thẳng.

Trong cuộc họp báo ở Bộ Ngoại Giao Mỹ, bà Psaki nói ông Kerry mời ông Phạm Bình Minh đến Washington DC “để tham khảo một loạt rộng rãi về các vấn đề song phương và khu vực vốn là một phần của thỏa thuận Đối tác Toàn diện giữa hai nước”.

Nhiều nhà phân tích thời sự quốc tế cho rằng Việt Nam đang cảm thấy cô đơn vì không có một đồng minh nào khi phải đối phó với một nước Trung Quốc to lớn, hùng mạnh kinh tế và quân sự và càng ngày càng lộ rõ tham vọng bá quyền bành trướng.

Một số nhà phân tích thời sự cũng cho rằng khi Việt Nam xích lại gần Mỹ hơn, có thể sẽ được Washington bãi bỏ lệnh cấm bán võ khí sát thương. Đây là điều các lãnh đạo Việt Nam khi gặp các giới chức cao cấp Hoa Kỳ đều kêu ca nhưng đến nay vẫn chưa thấy phía Mỹ nhúc nhích. Một trong những điều kiện được đặ ra là Việt Nam phải cải tiến nhân quyền mà điều này cũng không thấy Hà Nội nhúc nhích, nếu không muốn nói mỗi ngày một tệ hại hơn.

Khi đến Việt Nam hồi giữa Tháng 12 năm ngoái, Ngoại trưởng Mỹ loan báo chương trình viện trợ gần 40 triệu USD cho một số nước Đông Nam Á trong đó có 18 triệu đô la giúp Việt Nam mua 5 tàu tuần tra biển cỡ nhỏ. Tuy nhiên, cái mà Việt Nam đang muốn từ Mỹ là các máy bay tuần tra biển Orion P-3, các dàn radar và nhiều thứ khác. (TN)

 

Tình hữu nghị” nay là hiểm họa của kinh tế Việt Nam

Tình hữu nghị” nay là hiểm họa của kinh tế Việt Nam
Friday, May 23, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .-Mâu thuẫn về chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc gia tăng có thể sẽ là lý do khiến Trung Quốc gây áp lực bằng cách cắt đứt quan hệ kinh tế, khiến kinh tế Việt Nam suy sụp.

Cửa khẩu Móng Cái. Mở rộng cửa để nhập cảng đủ thứ từ Trung Quốc, dễ dãi trong việc tiếp nhận đầu tư, nhà thầu từ Trung Quốc, khiến kinh tế Việt Nam càng ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và nay, sự lệ thuộc đó trở thành nguy cơ khiến nền kinh tế có thể bị suy sụp. (Hình: Báo Quảng Ninh)

Đó là điều đang khiến nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại bởi kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc. Kể từ năm ngoái, các chuyên gia kinh tế ở Việt Nam đã liên tục cảnh báo về sự lệ thuộc Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế, sau khi có hàng loạt dữ liệu đáng lo.

Ví dụ, năm 2013, xuất cảng của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ tăng 7% nhưng nhập cảng từ Trung Quốc tăng 28%. Tốc độ gia tăng của nhập cảng từ Trung Quốc gấp 4 lần so với tốc độ xuất cảng và chênh lệch về cán cân thương mại trong quan hệ với Trung Quốc càng lúc càng lớn.

Hồi trung tuần tháng 12 năm 2013, tại một hội nghị bàn về việc thực hiện thỏa thuận thương mại tự do, Bộ Công Thương Việt Nam xác nhận, chỉ trong 10 năm, từ 2001 đến 2012, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng 76 lần, từ 210 triệu USD hồi 2001, thành 16 tỷ USD vào năm 2012.

Tháng 6 năm 2013, sau khi có thống kê cho biết, bốn tháng đầu năm 2013, Việt Nam chi 40.2 tỷ USD cho việc nhập cảng, trong đó có tới 10 tỷ USD chỉ để nhập cảng nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, hàng hóa của Trung Quốc. Ông Võ Trí Thành, một chuyên gia kinh tế, khẳng định, điều đó cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, phụ liêu của Trung Quốc.

Nếu Trung Quốc ngừng xuất cảng chúng sang Việt Nam, sẽ có hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam hấp hối vì không kịp ứng phó. Lúc đó, ông Thành than rằng, cả khả năng cạnh tranh lẫn công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam quá yếu, vì vậy Việt Nam đang phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc cả về hàng trung gian lẫn hàng tiêu dùng cuối cùng.

Nay, những cảnh báo đó có nguy cơ trở thành hiện thực. Trò chuyện với BBC, ông Phạm Quý Thọ, Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách – Phát triển, cho rằng, Việt Nam phải chuẩn bị cho “tình huống xấu nhất”: Trung Quốc “cắt đứt quan hệ thương mại và đầu tư” do mâu thuẫn về chủ quyền.

Ông Thọ lo ngại là vì: Cán cân thâm hụt thương mại luôn luôn nghiêng về phía Việt Nam, khoảng 20 tỷ Mỹ kim/ năm. Hàng loạt những công trình rất quan trọng về năng lượng, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam do Trung Quốc đầu tư và đảm nhận. Trong thương mại tiểu ngạch giữa hai bên, lợi thế cũng nghiêng về phía Trung Quốc.

Có những dấu hiệu cho thấy “kinh tế ngầm” – do các thế lực giấu mặt điều hành, thực hiện các thương vụ gây tổn hại cho kinh tế, tài nguyên Việt Nam, kết hợp rất chặt chẽ với đối tác Trung Quốc.

Bà Phạm Chi Lan, cựu Phó Chủ tịch Phòng Thương mại – Công nghiệp Việt Nam, xác nhận, “nếu Trung Quốc đình chỉ quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Việt Nam, Việt Nam sẽ gặp một số khó khăn” vì Trung Quốc là phía thực hiện rất nhiều dự án ở Việt Nam. Nếu Trung Quốc khiến cho các dự án đó không thể tiến hành bình thường thì Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các chương trình phát triển. Chưa kể việc trì hoãn hoàn thành các dự án đó còn gây thêm tốn kém.

Một chuyên gia kinh tế khác tên là Bùi Kiến Thành nói thêm, sự phụ thuộc về nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu vào Trung Quốc sẽ khiến nhiều ngành công nghiệp lớn, sử dụng nhiều nhân công như may mặc, tê liệt nếu Trung Quốc “cắt đứt quan hệ kinh tế”, bởi đa phần vật liệu của những ngành này nhập cảng từ Trung Quốc. Ông Thành lưu ý, Trung Quốc đang đảm nhận việc thi công tất cả những nhà máy điện lớn nhất tại Việt Nam nên phải xem xét chúng ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, kinh tế Việt Nam như thế nào.

Để đối phó với “tình huống xấu nhất”, các chuyên gia kinh tế cho rằng, chính quyền Việt Nam phải sớm có giải pháp phát triển nội lực của doanh giới, xã hội. Xây dựng, củng cố những mối quan hệ khác với các quốc gia trong khu vực, với Nhật, Nam Hàn. Xích lại gần hơn với Liên minh châu Âu (EU). Tìm kiếm sự đồng thuận để trở thành một bên trong Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Ông Phạm Qúy Thọ tin rằng, đó sẽ là một trong những nội dung chính trong cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Việt Nam và Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi ông Phạm Bình Minh đến Hoa Kỳ theo lời mời của ông John Kerry. (G.Đ)