Chậm khởi kiện Trung Quốc vì nội bộ chia rẽ?

Chậm khởi kiện Trung Quốc vì nội bộ chia rẽ?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-12

06122014-vn-public-impati-wt-lawsui.mp3

Chúng ta loay hoay cứ như có lỗi khi kiện Trung Quốc vậy? (trang web của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)

Hình minh họa chụp từ trang web của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.

Screen capture

Công luận thể hiện qua báo chí và các diễn đàn trên mạng từng rất nôn nóng về việc chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc xâm lấn biển đảo, đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam từ hơn 1 tháng qua.

Người dân Việt Nam sau những tuần lễ phấn khởi bắt đầu chuyển sang thái độ sốt ruột và hoài nghi về khả năng Việt Nam làm quyết liệt, khởi kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế theo Công ước Luật biển hoặc Tòa án Công lý Quốc tế để bảo vệ chủ quyền vùng biển của mình.

Không đồng thuận và thiếu quyết tâm

Trước đó các phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, về việc không đánh đổi chủ quyền đất nước lấy hữu nghị viển vông và xem xét việc sử dụng biện pháp pháp lý đối với Trung Quốc, đã làm cho nhân dân tưởng rằng việc loan báo chính thức khởi kiện sẽ sớm diễn ra. Điều mong đợi là sẽ có vụ kiện ngay trong lúc giàn khoan HD 981 và lực lượng tàu vũ trang máy bay bảo vệ của Trung Quốc đang quấy rối trên vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc từng nói là giàn khoan sẽ hoạt động thăm dò địa chất từ 2/5 tới 15/8/2014. Liệu trong vòng 2 tháng sắp tới Việt Nam sẽ khởi kiện hay không, đây là câu hỏi chờ đợi được giải đáp.

Trả lời Nam Nguyên tối 11/6/2014 TS Trần Đình Bá, thành viên Hội khoa học kinh tế Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

” Đơn giản là ngay từ đầu nhà nước Việt Nam không quyết tâm kiện và họ làm điều đó chẳng qua là vì áp lực dư luận, áp lực của số đông và áp lực của những người trong chính nội bộ của họ mà thôi, nhưng mà họ không quyết tâm kiện.
-TS Phạm Chí Dũng “

“ Mọi người rất sốt ruột về vấn đề chủ quyền biển Đông, Việt Nam khẳng định có quyền chủ quyền, quyền tài phán thì Trung Quốc cũng nói như vậy. Cho nên bây giờ nên đưa ra phân xử để bảo vệ chủ quyền của mình bằng biện pháp đấu tranh hòa bình. Tôi cũng như mọi người dân Việt Nam mong muốn là nhân sự kiện này phải kiên quyết đòi bằng được Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm. Đây là cơ hội đưa ra tòa án quốc tế để đòi lại chủ quyền Hoàng Sa, với nỗi hận 4 thập kỷ qua nhân dân Việt Nam muốn đòi lại vùng đất của cha ông mà bao nhiêu thế hệ đã gìn giữ.”

Sự chậm trễ khởi kiện Trung Quốc mà quyền quyết định thuộc Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy một sự thiếu đồng thuận ở thượng tầng chính trị. TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập hiện sống và làm việc tại TP.HCM nhận định:

Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam. RFA files:UNCLOS-CIA

Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam. File Photo.

“Đơn giản là ngay từ đầu nhà nước Việt Nam không quyết tâm kiện và họ làm điều đó chẳng qua là vì áp lực dư luận, áp lực của số đông và áp lực của những người trong chính nội bộ của họ mà thôi, nhưng mà họ không quyết tâm kiện. Đó là chưa biết họ có củng cố hồ sơ cho có những cơ sở chắc chắn đủ để kiện Trung Quốc hay không. Nhưng mà tinh thần yếu kém trong việc chuẩn bị hồ sơ và thiếu quyết tâm đã làm giảm sút đáng kể nhiệt huyết của những người đi kiện.

Nếu đưa ra tòa án quốc tế thì tôi nghĩ việc này không thể thành công ngay được, thậm chí nhiều khả năng sẽ kéo dài rất lâu. Trong khi đó, chúng ta thấy được sự rạn nứt chia rẽ khá lớn ngay trong nội bộ nhà nước Việt Nam, về các quan điểm khác nhau, đường lối đối ngoại khác nhau. Và trong vụ kiện với Trung Quốc cũng đặc biệt xuất hiện những quan điểm trái chiều, đó là một sự giằng kéo và rất có thể làm cho vụ kiện này sẽ không đi tới được.”

Chưa kiện hay không kiện?

Trong khi đó, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự nêu nghi vấn về việc nhà nước Việt Nam nghe theo khuyến cáo của Trung Quốc là không được khởi kiện. Từ Hà Nội, TS Nguyễn Quang A nhận định:

“ Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.”

” Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.
-TS Nguyễn Quang A “

Trên báo chí Việt Nam nhiều giới chức nhà nước vẫn còn lập đi lập lại tình hữu nghị 16 chữ vàng và 4 tốt giữa Việt Nam và Trung Quốc và cho rằng việc khởi kiện giống như đổ bát nước đầy xuống đất. Ngoài ra nhiều giới chức nhà nước còn lo ngại Trung Quốc cấm vận kinh tế nếu Hà Nội muốn thoát vòng kềm tỏa của Bắc Kinh.

TS Trần Đình Bá từ Hà Nội bày tỏ ý kiến:

“ Nói tình hữu nghị thì họ đã không làm những chuyện vượt quá đạo lý quốc tế, ví dụ như đâm tàu vào ngư dân hành động rất man rợ mà cả thế giới người ta lên án, khi xem băng ghi hình ai cũng phẫn nộ. Tính mạng của ngư dân trên biển làm sao để bảo vệ? Bây giờ phải kiên quyết đấu tranh bằng pháp lý, Trung Quốc cũng phải có lương tâm để nhận ra vấn đề, họ là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thì càng phải gương mẫu chấp hành Luật biển, trong quan hệ quốc tế không thể dùng uy thế nước lớn ép nước nhỏ, bắt nạt nước nhỏ. Thời thế bây giờ là của thế giới phẳng, mọi việc đều công khai với quốc tế và đưa lên màn hình, mọi việc không thể giấu diếm được nữa. Nguyện vọng của bao nhiêu người Việt Nam đều mong muốn đưa ra giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.”

Giới luật gia, học giả trí thức tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài đã bày tỏ rất nhiều ý kiến về khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam. Qua vụ giàn khoan HD 981 Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế theo Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc hoặc Tòa án Công lý Quốc tế. Philippines thừa biết vụ kiện không mang lại những kết quả cụ thể vì Trung Quốc không ra tòa hoặc phán quyết không có tính cách ràng buộc nhưng Manila vẫn kiên quyết hành động.

Những vướng mắc liên quan đến công hàm Phạm Văn Đồng 1958, hoặc thỏa thuận bí mật Thành Đô 1990 được cho là những rào cản trên con đường khởi kiện của Việt Nam. Tuy vậy đã có rất nhiều góp ý để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng hoặc chỉ kiện về giàn khoan hạ đặt bất hợp pháp mà không kiện về chủ quyền. Về rào cản thứ hai, nếu như không có một thỏa thuận ngầm tại Hội nghị Thành Đô 1990 như lời đồn đại, thì vì cớ gì mà Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam lại không dám công khai thông tin về Hội nghị này dù đã trải qua 24 năm.

 

Trung Quốc đưa ra bằng chứng: Sách Địa Lý Lớp 9 Việt Nam nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc

Trung Quốc đưa ra bằng chứng: Sách Địa Lý Lớp 9 Việt Nam nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc

nguồn:  http://huynhngocchenh.blogspot.com

Hồi đó để đánh chiếm cho được miền Nam thì dân Việt Nam cần thiết phải hy sinh đến người cuối cùng, Trường Sơn cũng thiêu rụi thì ăn thua gì mấy hòn đảo trên biển Đông. Công hàm cũng ký được thì nhằm nhò gì mấy trang sách giáo khoa.

Dân Luận
Ngày 8/6/2014, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc ra bản tin với tựa đề “Hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc“. Trong bản tin ngoài công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, bản tin còn dẫn sách Địa Lý lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo Dục phát hành năm 1974 nói Tây Sa và Nam Sa, tức là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là một phần của Trung Quốc:

Chương về Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
… Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn… làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung quốc…
Trích Sách địa lý lớp 9 (1974)

Đây là một phần tài liệu mà Trung Quốc chuyển tới Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông Ban Ki-moon, và yêu cầu ông này chuyển tới tay các quốc gia thành viên vào hôm thứ Hai 9/6/2014. Đây là lần thứ hai Trung Quốc đệ trình tài liệu lên Liên Hiệp Quốc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, lần thứ nhất là vào tháng 5/2014.

annex5-5-2.jpg

annex5-5-3.jpg

annex5-5-4.jpg

Trung Quốc – Việt Nam: Lạm phát in tiền và độ trễ suy thoái

Lạm phát in tiền và độ trễ suy thoái

Nguoi-viet.com

Trung Quốc – Việt Nam: Lạm phát in tiền và độ trễ suy thoái

Phạm Chí Dũng

Nghịch lý gấp đôi

Với giới phân tích thường quan tâm đến những quốc gia khép kín, một điểm khá tương đồng không thể bỏ qua giữa hai nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam là lượng dự trữ ngoại tệ mạnh của hai nước này đã đại nhảy vọt trong mấy năm qua.

Về phần Ngân hàng trung ương Trung Quốc, thành tích này thậm chí còn không thèm che giấu. Chưa bàn tới tính trung thực của báo cáo, tính tới nay chủ thuyết “Trung Quốc trỗi dậy” đã phóng dự trữ ngoại tệ lên gần $4,000 tỷ, theo một công bố mới nhất của cơ quan này. Như vậy, cùng với tốc độ tăng tiến gấp đôi số nợ của các chính quyền địa phương từ $1,500 tỷ lên $3,000 tỷ chỉ từ năm 2011 đến cuối năm 2013, dự trữ ngoại tệ cũng tăng gấp hai lần. Đó chính là một trong những nghịch lý lớn nhất của nền kinh tế mà một chuyên gia phương Tây đã vẽ nên ảnh “Voi cưỡi xe đạp”.

Tuy nhiên, hiện giờ kinh tế Trung Quốc chỉ mới có biểu hiện tăng trưởng chậm lại và cách nào đó gây lo ngại cho Bộ chính trị Bắc Kinh cũng như với các đối tác lớn của Trung Quốc trên thế giới như Mỹ và Australia, chứ chưa lâm vào tình trạng chịu quá nhiều điều tiếng như Việt Nam trong suốt gần bảy năm qua. Còn với “tổ quốc ngàn năm Bắc thuộc”, tình cảnh tồi tệ hơn nhiều sau cú khủng hoảng kinh tế thế giới từ đầu năm 2008.  Vào giữa năm 2011, sau khi con sóng đầu cơ bất động sản ở Hà Nội đã đi hết chiều dài của nó, thị trường nhà đất Việt Nam ngay lập tức rơi vào cảnh hoàng hôn. Cũng từ đó bắt đầu xuất hiện một từ ngữ mà giới ngân hàng ghét cay ghét đắng: “nợ xấu”.

Trong cảnh chợ chiều Việt Nam, nợ xấu là nguồn cơn của mọi nguồn cơn, khiến sinh ra mọi chuyện không thể gọi là tốt đẹp. Từ năm 2011 đến nay, bất chấp thái độ cố tình bưng bít của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, con số về tỷ lệ nợ xấu mới nhất do hãng tư vấn xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố vào đầu năm 2014 vẫn là 13%, tương đương với khoảng 500,000 tỷ đồng trên tổng số 3,400,000 tỷ đồng tổng nợ trong hệ thống ngân hàng. Có lẽ không quá khó để lý giải là con số nợ xấu hoặc nợ không thể đòi như thế đã khiến cho khối ngân hàng thương mại mất ngủ đến mức nào. Nhưng chính thế vong thân lãi suất cho vay đến hơn 20%/năm của các ngân hàng này lại làm cho ít nhất 200,000 doanh nghiệp phải vong mạng, và trên thực tế cũng chừng đó số doanh nghiệp không có khả năng đóng thuế cho ngân sách nhà nước. Con số này chiếm đến 35% tổng số doanh nghiệp còn nằm trên danh mục đăng ký hoạt động ở Việt Nam tính đến thời điểm này.

Thế nhưng bất chấp tất cả, dường như chưa bao giờ Hà Nội quên đi niềm tự hào anh em môi răng với Bắc Kinh, kể cả trong tận cùng của những nghịch lý bị coi là tật xấu khủng khiếp. Trong bối cảnh nền kinh tế đã rơi vào suy thoái trầm trọng và khiến hiệu ứng tiêu dùng tương đương với tình trạng giảm phát, lượng dự trữ ngoại tệ do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố vẫn gia tốc một cách đáng sợ. Nếu từ năm 2011 trở về trước, dự trữ ngoại tệ là chủ đề được coi là tuyệt mật và hầu như không thể công bố, thì nghịch lý ngơ ngác là trong lúc nền kinh tế ngày càng hội ngộ đầy đủ các thành tố khủng hoảng từ năm 2012 đến nay, Ngân hàng nhà nước lại càng lúc càng trở nên dạn dĩ hơn để “giải mật”. Lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam cũng theo đó mà xuất thần: từ khoảng $15 tỷ vào năm 2011, bầu sữa này đã lên đến hơn $30 tỷ vào đầu năm 2014. Thậm chí có ước đoán hiện thời dự trữ ngoại tệ của Việt Nam còn lên đến gần $40 tỷ, tức tương đương 1% của cái giá trị nhất thời chưa được kiểm chứng như vậy ở Trung Quốc.

Tất nhiên, một câu hỏi phải đặt ra: vì sao trong bối cảnh nền kinh tế cực kỳ què quặt mà dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vẫn quá đầy đặn?

Vong thân kinh tế

Một giả thiết nhẹ nhàng có thể phác ra là Ngân hàng nhà nước Việt Nam – cơ quan vẫn ham muốn được nâng cấp lên mức “trung ương” theo cơ chế Trung Quốc – đã in tiền quá mức cần thiết để làm công tác “huy động ngoại tệ trôi nổi” nhằm phòng lúc khốn khó.

Một kinh nghiệm quý báu mà Hà Nội có lẽ đã luôn tham khảo từ “người láng giềng anh em”: Trung Quốc luôn bị xem là kẻ tạo ra lạm phát với tốc độ in tiền gấp đôi nước Mỹ.  “Trong vòng 30 năm qua, Trung Quốc đã dùng quá nhiều tiền để bơm vào nền kinh tế nhằm kích thích tăng trưởng” – một chuyên gia kinh tế có tên là Wu Xiaoling của chính phủ Trung Quốc nhún vai.

Chỉ tính đến cuối năm 2013, lượng cung tiền bơm vào nền kinh tế của Trung Quốc đã lên tới 110,650 tỷ Nhân dân tệ (tương đương $17,770 tỷ), gấp 4 lần so với 10 năm trước đây. Đây là dấu hiệu sống động nhất và cũng là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy chính phủ Trung Quốc đang in tiền nhanh hơn khá nhiều tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

Song cơ chế lạm phát in tiền cũng tất yếu gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của đồng Nhân dân tệ. Kể từ khi Trung Quốc bỏ chế độ neo tỷ giá vào năm 2005, đồng Nhân dân tệ đã tăng giá so với đồng USD do nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, nghịch lý xảy ra là trong khi Nhân dân tệ có vẻ giữ giá trị so với đồng tiền của các quốc gia khác, thì nó lại nhanh chóng mất giá ngay trong nước; đồng thời xu thế này cũng không kéo dài khi thời gian gần đây đồng Nhân dân tệ liên tục mất giá so với các đồng tiền khác. Nếu trong 4 tháng đầu năm 2014, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc liên tục giảm giá với biên độ lớn nhất từ khi quốc gia này bắt đầu thực hiện cải cách đến nay, thì vào đầu tháng 5/2014, tỷ giá Nhân dân tệ đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối năm 2012, chỉ còn $1 đổi 6,23 NDT.

Hệ quả đương nhiên mà một kẻ sắp vong thân kinh tế phải tính đến là gom góp những tài sản quý giá nhất để phòng thân. Rất có thể cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, một khi vẫn lang thang trên con đường “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, hẳn phải dựa vào đồng đô la Mỹ như một phao cứu sinh để phòng hờ tương lai đồng nội tệ mất giá và nền kinh tế rơi vào lạm phát trầm trọng hoặc bị bão lạm phát.

Với Việt Nam, tương lai này đã hầu như chắc chắn. Còn với Trung Quốc, cả thế giới vẫn đang chờ xem quốc gia 1,3 tỷ dân này phải vật lộn với mầm mống của cơn khủng hoảng sắp tới như thế nào.

Những mầm mống như thế đang có vẻ khá căng cứng. Khi Tết nguyên đán 2014 mới trôi qua được một tháng, những tin tức về một đợt suy thoái kinh tế ở Trung Quốc bất chợt dồn dập. Từ sâu thẳm của những tháng năm chật chội, những nguồn tin bắt đầu lộ diện. Nhưng rõ ràng nhất là việc hãng nghiên cứu có uy tín Business Wisdom đưa ra dự báo sắp có làn sóng vỡ nợ ở 10 ngành công nghiệp Trung Quốc, bao gồm: (1) đóng tàu; (2) sắt thép; (3) đèn LED; (4) nội thất; (5) bất động sản; (6) vận tải biển; (7) tín chấp và các định chế tài chính; (8) quản lý tài chính; (9) vốn tư nhân và (10) mua theo nhóm.

Nợ công cũng biến thành một vấn nạn không thể chối từ. Không khác mấy điều được coi là “minh bạch số liệu” ở Việt Nam, con số báo cáo của Trung Quốc cho thấy loại nợ này chỉ chiếm khoảng 45% GDP. Nhưng theo cách tính toán khách quan và thành thực hơn rất nhiều của các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế, tỷ lệ nợ công quốc gia thực tế của Trung Quốc phải lên đến 150% GDP. Thậm chí, một phân tích của Business Wisdom còn cho rằng Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ tương đương 265% GDP, vượt hơn nhiều so với tỷ lệ nợ công quốc gia 200% GDP của Nhật Bản khi đất nước này lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ bắt đầu từ năm 1997, để sau đó phải chấp nhận một “thập kỷ mất mát” không thể khác hơn.

Điều đáng sợ nhất

“Thập kỷ mất mát” hoặc ám ảnh ghê gớm hơn thế chính là hệ lụy mà giới lãnh đạo và các nhóm tài phiệt Trung Quốc lo sợ nhất. Đơn giản là nếu tương lai đó xảy đến, sẽ chẳng bao giờ một tương lai chính trị cùng tài sản cá nhân của họ được bảo đảm.

Cứ cho là đang nắm giữ một lượng ngoại tệ mạnh chiếm gần 50% tổng lượng GDP hàng năm, nhưng không vì thế mà nền kinh tế Trung Quốc thoát khỏi hình bóng “hổ giấy”. Sẽ ra sao nếu một tương lai trơn trượt có thể xảy ra để quốc gia này lâm vào “thập kỷ mất mát” như Nhật Bản và sẽ tiêu tốn đến những đồng đô la cuối cùng để xử lý tình trạng suy trầm kinh tế?

Việt Nam đã có quá đủ bài học từ ảo tưởng đến suy trầm như thế. Vào đầu năm 2011, Bộ chính trị và Chính phủ quốc gia này vẫn còn phơi phới quyết tâm duy trì mức tăng trưởng GDP lên đến 9-9,5%. Thế nhưng chẳng bao lâu sau đó, giới chính khách không mấy chuyên nghiệp ấy phải nhận ra rằng đúng như bài bản lý thuyết Mác – Lê, kinh tế đã quyết định chính trị. Không bao lâu sau, “những người thích đùa” này đã bắt buộc phải rút dần chỉ tiêu tăng trưởng xuống còn 7%, và hiện nay chỉ còn khoảng 5%, cho dù tất cả những con số này thật ra chẳng có ý nghĩa gì lắm nếu xét trên thực tế nền kinh tế đã rất có thể rơi vào tình trạng giảm phát, và do vậy GDP thậm chí còn có thể âm cục bộ vào một số thời điểm.

Nhìn sang “nước bạn”, một giả thiết có thể đặt ra là nền kinh tế Trung Quốc đi sau Việt Nam khoảng 3 năm, tình thế khó khăn của Trung Quốc hiện thời đang khá giống với Việt Nam vào năm 2011. Còn nếu xét về hiện trạng GDP, Trung Quốc hiện nay đang ứng với Việt Nam năm 2012.

Một giả thiết tiếp nối: với đà này, chỉ sau 2-3 năm nữa, tức vào giai đoạn 2016-2017, nền kinh tế Trung quốc sẽ sa vào bẫy chuột của chính nó như Việt Nam đã từng.

Kinh tế quyết định chính trị. Nếu những gì đã và đang xảy ra trong thể chế độc tôn kinh tế và độc tài chính trị ở Việt Nam tái hiện ở Trung Quốc, không hiểu Tập Cận Bình và giàn giáo tướng lĩnh của ông ta còn đủ tĩnh tâm triệt hạ dần vùng lãnh hải Việt Nam ở biển Đông bằng các giàn khoan dầu hay không?

Những dấu hiệu chao đảo của nền kinh tế Trung Quốc từ đầu năm 2014 đến nay cũng phác ra một viễn cảnh không mấy nồng cảm cho mối quan hệ “sông liền sông núi lền núi”: nồng độ can thiệp của Bắc Kinh đối với Hà Nội sẽ khó mà giữ nguyên trong những lời hứa hẹn về “làm mọi cách để bảo vệ nền chuyên chính vô sản” từ Hội nghị Thành đô năm 1990. Ngược lại, đó là một cơ hội để biểu tả thánh thiện cho xu thế “Thoát Trung” đang ngày càng mở rộng và ăn sâu vào lòng ít nhất 70% dân chúng Việt Nam – những người túng thiếu tiền bạc nhưng thừa lòng tự trọng non sông.

 

Lao Động Việt hoạt động bán công khai tại Việt Nam

Lao Động Việt hoạt động bán công khai tại Việt Nam

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-06-11

050_ONLY_0179449-600.jpg

Công nhân đánh bài trong giờ nghỉ trưa tại Cần Thơ hôm 10/8/2013.

AFP photo

Liên đoàn Lao động Việt Tự do Là kết hợp của ba tổ chức Công đoàn độc lập Việt Nam, Hiệp hội đòan kết công nông Việt Nam và Phong trào lao động Việt đã ra tuyên cáo chính thức hoạt động tại Việt Nam như một tổ chức xã hội dân sự góp phần bảo vệ quyền lợi người lao động Việt.

Ngày 17 tháng 1 năm 2014 Liên đoàn Lao động Việt Tự do viết tắt là Lao Động Việt đã chính thức được thành lập tại Bangkok, Thái Lan. Tổ chức này nhằm giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam trong nước cũng như khi họ xuất khẩu lao động tại nước ngoài. Lao Động Việt dựa vào những điều khoản trong Hiến Pháp CHXHCN Việt Nam cũng như những chuẩn mực mà các tổ chức lao động quốc tế đưa ra để hoạt động do đó xét về tiêu chí tổ chức này hoàn toàn hợp pháp.

Tuy nhiên thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam không những không hoan nghênh những thiện chí này mà còn thẳng tay đàn áp, bắt bớ bất cứ ai có ý định can thiệp vào những khoảng trống mà người công nhân không được bù đắp.

Những trường hợp nổi tiếng nhất vẫn được các tổ chức nhân quyền nhắc nhở là ba tù nhân lương tâm Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh vẫn đang bị giam giữ trong tù vì đã tranh đấu giành quyền lợi cho công nhân Việt Nam.

Trong bối cảnh đó Lao Động Việt tuyên bố hoạt động bán công khai tại Việt Nam là một thử thách cho chính tổ chức này nhưng cũng là một gánh nặng phải đối phó của nhà nước Việt

Nam khi vẫn còn giữ lập trường cứng rắn không cho phép người dân đứng ra tự bảo vệ quyền lợi lao động của mình đối với giới chủ.

Ông Trần Ngọc Thành, chủ tịch Lao Động Việt nói với chúng tôi lý do tổ chức quyết định hoạt động bán công khai vào lúc này, từ Áo quốc ông cho biết:

“Đã đến lúc chúng ta phải công khai hoạt động tại Việt Nam. Trong suốt 8 năm vừa qua từ trong nước cũng như bên ngoài cố gắng làm sao cho giai cấp công nhân Việt Nam có một nghiệp đoàn của mình đúng nghĩa để lãnh đạo người lao động nhưng trong thời gian qua nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã ra tay đàn áp. Khi công nhân Bình Dương hàng ngàn người xuống đường thể hiện lòng yêu nước trong đó có một số bị lạm dụng để kích động công nhân, đánh phá các công xưởng.

Từ năm 2006 đến nay đã có hàng ngàn cuộc đình công và thời điểm này đã có 5 ngàn cuộc đình công nhưng lúc nào người công nhân cũng đình công trong ôn hòa để yêu cầu giới chủ tạo điều kiện làm việc tốt hơn. Chúng tôi nghĩ cần phải công khai cùng với các tổ chức xã hội dân sự khác để hướng dẫn người
công nhân tranh đấu một cách hiệu quả hơn.”

Luật sư Lê Thị Công Nhân, phó chủ tịch Lao Động Việt, một trong hai thành viên ban chấp hành trong nước cho biết:

“Chúng tôi luôn luôn lo lắng và phải suy nghĩ. Có hai khó khăn lớn đối với Liên đoàn Lao động Việt Tự do thứ nhất là nội bộ của chúng tôi cần phải thu hút thêm nhiều thành viên. Vấn đề liên lạc với nhau để cùng làm việc thì cũng là một trở ngại rất lớn với bản thân chúng tôi. Lao Động Việt được gom từ ba tổ chức khác nhau là Công đoàn độc lập Việt Nam, Hiệp hội đoàn kết công nông Việt Nam và Ủy ban Ủng hộ lao động Việt Nam vì vậy việc chúng tôi liên lạc, liên kết được với nhau là một điều khó khăn.

Thứ hai về phía chính quyền chúng tôi bị họ đàn áp và gây nên những tổn thất có thể nói rất là lớn. Cho đến nay những thành viên chủ chốt trong tổ chức của chúng tôi vẫn đang bị tù đày. Những khó khăn này tuy lớn nhưng chúng tôi đã dự liệu từ trước và chủ động chấp nhận đương đầu bởi vì chúng tôi không còn cách nào khác.”

000_Hkg9809420-250.jpg

Một công nhân biểu tình chống Trung Quốc tại Bình Dương hôm 14/5/2014. AFP photo

Lao Động Việt có lẽ là một tổ chức xã hội dân sự bị nhà nước nhìn dưới cặp mắt nghi ngờ và đầy ác cảm nhất vì vậy khi hoạt động mặc dù bán công khai nhưng sự nguy hiểm không hề giảm cho các thành viên của nó. LS Lê Thị Công Nhân trong vai trò chịu mọi áp lực từ chính quyền chia sẻ vấn đề này như sau:

“Tổ chức Lao Động Việt nói về công khai thì hiện nay nó không thể công khai 100%. Chúng tôi công khai những người dám đương đầu với khó khăn cũng như nội dung công việc là nên công khai để cho dư luận trong nước và quốc tế biết đến tổ chức của chúng tôi và cần sự quan tâm và lên tiếng của họ khi những thành viên của chúng tôi bị đàn áp.

Mảng còn lại chúng tôi gọi nôm na là bí mật, tất nhiên nó không có gì quá bí hiểm, chỉ đơn giản gọi là bí mật là để tránh những sự đàn áp và bắt bớ của chính quyền trong khi chúng tôi chưa hình thành được một tổ chức đủ mạnh và chặt chẽ.”

Những áp lực của nhà nước đến từ rất nhiều hình thức mà trong đó nặng nề nhất là các bản án mang các cáo buộc không dính gì tới việc bảo vệ quyền lợi người công nhân. Để tránh tình trạng này Lao Động Việt cho rằng sự can thiệp từ các tổ chức lao động quốc tế là đáng dựa vào nhất, đặc biệt là Tổng liên đoàn Lao động Thế giới nếu Lao Động Việt được  tổ chức này công nhận. Ông Trần Ngọc Thành chia sẻ:

“Khi mà trở thành chính thức thì cộng sản Việt Nam không dám đàn áp. Thứ hai nữa trong thời gian ngắn vừa qua 153 nghị sĩ của đảng Dân chủ Mỹ đã lên tiếng đòi hỏi cho công đoàn hoạt động. Tôi nghĩ thời gian này chính quyền không thể đàn áp khát máu như trước đây. Anh em trong nước cũng như bên ngoài mặc dù đã lường trước được khó khăn sắp tới nhưng vẫn quyết tâm hỗ trợ anh em hoạt động công khai hay bán công khai trong nước.”

LS Lê Thị Công Nhân cho biết khi chấp nhận đấu tranh thì bản thân bà và những thành viên của Lao Động Việt sẽ tiếp cận công nhân dưới nhiều cách để giúp đỡ và bảo vệ họ bất kể những trả giá mà bà đã biết trước:

“Những người trong nước thì chúng tôi đã xác định về tinh thần là sẽ đối mặt với sự đàn áp của nhà cầm quyền. Tôi tin chắc rằng nhà cầm quyền không hề có sự chuyển biến nào trong tư tưởng cai trị độc đoán đối với đất nước nói chung cũng như với lao động nói riêng, nhưng những hình thức đàn áp của họ đối với chúng tôi trong từng thời điểm sẽ có sự khác biệt, tức nhiên không loại trừ khả năng là nó sẽ tồi tệ hơn trước đây.”

Cho đến hôm nay đã có gần hai mươi tổ chức xã hội dân sự công khai hoạt động trong nước vì những lý do khác nhau nhưng nhìn chung mục đích của các nhóm này không ra ngoài ý hướng tự bảo vệ mình trước những bất công, chén ép mà họ buộc phải đối diện. Lao Động Việt ra đời trong hoàn cảnh này đã tăng thêm niềm tin cho người cô thế mà tiếng nói của họ không tới được những nơi cần phải nghe và giải quyết.

“Pháp luật Việt Nam phức tạp nhất thế giới”

“Pháp luật Việt Nam phức tạp nhất thế giới”

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .-“Hệ thống pháp luật nước ta phức tạp nhất thế giới.” Bộ trưởng Bộ Tư pháp CSVN, ông Hà Hùng Cường thú nhận như vậy tại phiên trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội hôm Thứ Tư 11 tháng 6 năm 2014.

Dân oan xã Dương Nội huyện Thanh Trì biểu tình ở trung tâm thành phố Hà Nội đòi trả tự do cho vợ chồng bà Cấn Thị Thêu bị bắt khi chống cưỡng chế bất công ngày 25/4/2014 vừa qua (Hình: Thanh Niên Công Giáo)

Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam chồng chéo ngang dọc, phức tạp như một khu rừng từng được giới đầu tư ngoại quốc phàn nàn suốt nhiều năm qua. Các định chế tài trợ quốc tế cũng từng khuyến cáo rất nhiều lần, kể cả viện trợ ngân khoản để chế độ Hà Nội cải tổ hệ thống luật pháp cho minh bạch và tương ứng với luật lệ quốc tế, nhưng không bao nhiêu tác dụng.

Nay thì chính ông Bộ trưởng Tư pháp phải nhìn nhận sự thật như thế. Và không thấy các tờ báo tường thuật phiên chất vấn ở Quốc hội cho biết ông hay bộ tư pháp của ông có làm gì để làm cho luật pháp của chế độ bớt “phức tạp nhất thế giới” hay không. Hoặc cái rừng luật ở Việt Nam tiếp tục rậm rạp, chồng chéo hơn theo nhu cầu cai trị của chế độ.

“Từ khi thực hiện công việc đổi mới thì chúng ta mới quan tâm đến công tác xây dựng văn bản pháp luật và thấy là còn nhiều chồng chéo. Chẳng có quốc gia nào hệ thống pháp luật lại phức tạp như hiện nay. Nhiều luật mẹ chưa có nhưng đã có luật con”. Ông Hà Hùng Cường nhìn nhận trong buổi chất vấn.

Bà đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy của thành phố Đà Nẵng nêu nghi vấn, qua “dư luận người dân, báo chí”, các văn bản quy phạm pháp luật, trên thực tế, chỉ là “cài đặt lợi ích nhóm, lợi ích riêng của bộ ngành trong một số văn bản quy phạm pháp luật hoặc có nhiều quy định theo hướng tạo thuận lợi cho việc quản lý của các cơ quan công quyền, đẩy khó khăn về phía người dân”.

Ông Hà Hùng Cường, cho hay cái Bộ của ông chỉ chịu trách nhiệm “thẩm định, phát biểu ý kiến” với các dự thảo luật “từ quyết định của Thủ tướng Chính phủ trở lên, còn lại thông tư, thông tư liên tịch của các Bộ thì giao cho bộ phận pháp chế của các bộ.”

Ông giải thích thêm rằng nhiệm vụ của cái bộ của ông xem xét những dự thảo đó “có phù hợp với đường lối chính sách của Đảng hay không”. Nói khác, bộ tư pháp không đặt quyền lợi của công dân, của đất nước lên trên quyền hành thống trị của Đảng.

Hiến pháp thì nói công dân có quyền tự do cư trú tại bất cứ đâu trên cả nước. Nhưng từng có những dự luật dù trái hiến pháp vẫn được thông qua như “Luật Cư Trú” trong đó đòi hỏi người dân phải có sổ hộ khẩu, đăng ký tạm trú, tạm vắng. Nhà cầm quyền các địa phương thường sách nhiễu, vòi vĩnh hối lộ là chuyện “thường ngày ở huyện” với cái luật như thế.

Những năm gần đây, người ta thấy thỉnh thoảng Cục Kiểm Tra Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật của Bộ Tư Pháp loan báo hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật bị thu hồi hay cấm ban hành vì trái luật. Tình trạng vẫn không có bao nhiêu cải thiện. Trong cuộc chất vấn nói trên, ông chủ tịch Quốc hội CSVN nêu ra con số “312 văn bản sai pháp luật rất nghiêm trọng”.

Ông Hà Hùng Cường giải thích rằng bất cứ cấp nào từ trung ương xuống tới ông chủ tịch xã ở địa phương cũng là “chủ thể” ban hành nhiều loại văn bản khác nhau có tính ràng buộc pháp luật, cho nên… “pháp luật của chúng ta rất khó tuân thủ”.

Bởi vậy mới có cái thông tư của Bộ Y tế cấm người phụ nữ “ngực lép lái xe”, người có bàn tay, bàn chân 6 ngón không được thi lấy bằng lái xe; bộ công an đòi ký giả phải xin phép trước mới được chụp hình, phỏng vấn khi cảnh sát giao thông đánh dân hay đang nhận tiền “chung chi” trên phố.

Mới đây, ngày 10/6/2014, luật sư Trần Vũ Hải gửi một kiến nghị thư tới Quốc hội CSVN yêu cầu giải thích điều luật 258 của Bộ Luật Hình Sự. Điều luật này kết án từ 6 tháng đến 7 năm tù cho những ai bị vu cho tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

Theo Luật sư Hải, điều luật hình sự 258 trái ngược với Hiến Pháp (thông qua bản sửa đổi năm ngoái) ở các điều 12, 14, 15 và 25 cũng như trái với điều 19 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam công nhận từ thập niên 1980. Luật sư Trần Vũ Hải đã gửi nhiều kiến nghị thư chất vấn quốc hội, thủ tướng nhiều vụ nhưng ông không hề được phúc đáp thỏa đáng. (TN)

 

VN nói TQ điều tàu chiến, TQ bác bỏ

VN nói TQ điều tàu chiến, TQ bác bỏ

BBC

 

Việt Nam cáo buộc Trung Quốc hung hăng

Việt Nam cho biết giàn khoan của Trung Quốc trên Biển Đông dường như đang dịch chuyển một lần nữa trong khi Trung Quốc bác cáo buộc của Việt Nam rằng họ triển khai tàu chiến đến khu vực.

Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa xác nhận thông tin này.

Hàng chục tàu Việt Nam và Trung Quốc, bao gồm các tàu tuần duyên, đã đối đầu nhau xung quanh một giàn khoan tại vùng biển có tranh chấp gần quần đảo Hoàng Sa sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 ra đây hồi đầu tháng Năm.

Cáo buộc qua lại

Hội nghề cá Việt Nam ra thông cáo báo chí cho biết giàn khoan này ‘có dấu hiệu di chuyển về phía đông và đông nam’, hãng tin Anh Reuters cho biết.

Cũng theo cơ quan này thì Trung Quốc đang duy trì 119 tàu trong khu vực, trong đó có sáu tàu chiến cùng bốn máy bay quân sự quần thảo trên bầu trời.

Tuy nhiên, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng thông tin về tàu chiến là ‘hoàn toàn sai sự thật’ và bản chất hoạt động của giàn khoan Trung Quốc chỉ là ‘thương mại’.

“Bởi vì Việt Nam vẫn cứ cố can thiệp một cách phi pháp, chúng tôi đã điều tàu chính phủ ra để đảm bảo an ninh tại chỗ nhưng chúng tôi không điều tàu chiến,” bà Hoa nói trong một cuộc họp báo.

“Bởi vì Việt Nam vẫn cứ cố can thiệp một cách phi pháp, chúng tôi đã điều tàu chính phủ ra để đảm bảo an ninh tại chỗ nhưng chúng tôi không điều tàu chiến.”

Hoa Xuân Oánh, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc

Bà Hoa còn cáo buộc ngược lại Việt Nam ‘đã đưa tàu vũ trang ra để quấy nhiễu hoạt động của giàn khoan’.

Tuy nhiên bà không xác nhận việc giàn khoan có di chuyển hay không.

Bà nói rằng giàn khoan này sẽ tiếp tục hoạt động cho đến giữa tháng Tám.

“Chúng tôi hy vọng rằng giàn khoan sẽ hoàn thành công việc một cách suôn sẻ và an toàn.”

Nữ phát ngôn nhân này còn nhắc lại vụ bạo động hồi tháng trước ở Việt Nam và cáo buộc chính phủ Việt Nam ‘đã kích động một số phần tử phạm pháp trong nước đập phá và đốt cháy các công ty nước ngoài trong đó có công ty Trung Quốc’ và cho đến nay ‘Việt Nam vẫn chưa bồi thường’.

Trong một thông cáo riêng rẽ, Bộ Quốc phòng Trung Quốc cáo buộc Hoa Kỳ kích động căng thẳng trong khu vực nhất là với việc tập trận chung và gửi ‘thông điệp sai’ về các tranh chấp lãnh thổ.

“Điều này đã làm cho hòa bình và ổn định khu vực thêm hỗn loạn,” thông cáo viết khi đề cập đến bản báo cáo của Lầu Năm Góc về chi tiêu quân sự và tham vọng của Trung Quốc hồi tuần trước.

Theo Bộ Quốc phòng Trung Quốc thì Hoa Kỳ mới là ‘mối đe dọa thật sự’ với các dẫn chứng như chiến tranh mạng của Mỹ, việc nước này phòng thủ tên lửa và việc ngân sách quốc phòng của Mỹ vượt xa Trung Quốc.

TQ đưa vụ tranh chấp lên Tổng thư ký LHQ, Việt Nam phản bác

TQ đưa vụ tranh chấp lên Tổng thư ký LHQ, Việt Nam phản bác

VOA

Tàu Trung Quốc dùng vòi ròng tấn công tàu Việt Nam, ngày 7/5/2014.

Tàu Trung Quốc dùng vòi ròng tấn công tàu Việt Nam, ngày 7/5/2014.

10.06.2014

Trung Quốc hôm qua đã gửi một bản tuyên cáo lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon, trong đó cáo buộc Việt Nam vi phạm chủ quyền của nước này, cũng như cản trở hoạt động của công ty dầu khí của Trung Quốc.

Ông Vương Dân, Phó trưởng phái đoàn ngoại giao Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, đã lên tiếng kêu gọi ông Ban chuyển văn bản trình bày quan điểm của Bắc Kinh tới tất cả 193 thành viên của Đại hội đồng LHQ về giàn khoan dầu nằm cách quần đảo Hoàng Sa 32 km và cách bờ biển Việt Nam hơn 270 km.

Theo bản tuyên cáo này, Tổng công ty dầu khí hải dương của Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động thăm dò địa chất tại khu vực này trong vòng 10 năm qua và giàn khoan vừa kể ‘thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc’.

Trung Quốc cũng cáo buộc Việt Nam ‘đưa người nhái cũng như các vật cản’ tới khu vực gần giàn khoan, đồng thời coi đây là ‘các mối đe dọa nghiêm trọng’ đối với các nhân viên trên giàn khoan cũng như vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển.

Sau khi Trung Quốc công bố bản tuyên cáo, phái đoàn ngoại giao Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc cũng gửi cho báo giới các bức thư đề ngày 7/5 và 28/5 mà đại diện thường trực của Việt Nam gửi cho Tổng thư ký Ban Ki-moon, trong đó có đề cập tới các diễn biến ban đầu liên quan tới giàn khoan cũng như khẳng định chủ quyền của Việt Nam.

Đại sứ Lê Hoài Trung ‘phản đối hành động của Trung Quốc cũng như việc Bắc Kinh tiếp tục đưa nhiều tàu hộ tống, trong đó có tàu quân sự, và máy bay đến hoạt động tại vị trí đặt giàn khoan’.

Đại sứ Lê Hoài Trung ‘phản đối hành động của Trung Quốc cũng như việc Bắc Kinh tiếp tục đưa nhiều tàu hộ tống, trong đó có tàu quân sự, và máy bay đến hoạt động tại vị trí đặt giàn khoan’.
Theo báo chí trong nước, mới đây nhất, hôm 2/6, tại trụ sở chính của Liên hợp quốc, Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại LHQ đã gặp Phó Tổng Thư ký LHQ phụ trách các vấn đề chính trị, để tiếp tục thông báo với LHQ về những diễn biến mới liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng mà Việt Nam nói là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.

Tại cuộc gặp, ông Trung đã ‘phản đối hành động của Trung Quốc cũng như việc Bắc Kinh tiếp tục đưa nhiều tàu hộ tống, trong đó có tàu quân sự, và máy bay đến hoạt động tại vị trí đặt giàn khoan’.

Trong cuộc họp báo ngày hôm nay, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng Trung Quốc có quyền giải thích cho cộng đồng quốc tế về điều bà nói là sự thật đằng sau các diễn biến ở biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông) đồng thời cáo buộc Việt Nam ‘vu khống’ Trung Quốc bằng những chỉ trích ‘vô lý’.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao TQ cáo buộc Việt Nam ‘vu khống’ Trung Quốc bằng những chỉ trích ‘vô lý’.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao TQ cáo buộc Việt Nam ‘vu khống’ Trung Quốc bằng những chỉ trích ‘vô lý’.
Bà Hoa nói rằng Việt Nam đã không cho thấy bất kỳ sự kiềm chế nào, và đã gia tăng sự can thiệp với những hành động phá hoại trên thực địa. Bà cũng nói rằng Trung Quốc cần phải giải thích cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ các thực tế.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng trước những cáo buộc mới nhất từ phía Trung Quốc.

Nhưng trước đây, Hà Nội cũng đã lên tiếng ‘kiên quyết bác bỏ những phát biểu sai sự thật của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc’ sau khi bị Bắc Kinh cáo buộc ‘xuyên tạc lịch sử, bác bỏ thực tế và nuốt lời’ liên quan tới quần đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, còn Việt Nam gọi là Hoàng Sa.

Sau việc Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố là thềm lục địa của mình, đẩy hai nước láng giềng vào thế đối đầu, giới lãnh đạo Việt Nam đã có các tuyên bố được một số nhà quan sát cho là ‘không kiêng nể’ khi nói về mối quan hệ với Bắc Kinh.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng tuyên bố ‘không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông’ cũng như cho báo giới biết rằng Hà Nội có thể xem xét hành động pháp lý chống lại các hành động của Trung Quốc ở biển Đông.

 

Vụ giàn khoan: TQ tố cáo VN ra LHQ

Vụ giàn khoan: TQ tố cáo VN ra LHQ

Thứ ba, 10 tháng 6, 2014

Tàu hai nước tiếp tục va chạm hàng ngày tại vùng biển đặt giàn khoan

Trung Quốc đã đưa tranh cãi với Việt Nam xung quanh việc họ đặt giàn khoan trên Biển Đông ra Liên Hiệp Quốc hôm thứ Hai ngày 9/6, hãng tin Mỹ AP tường thuật từ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York.

Theo đó, Bắc Kinh cáo buộc Hà Nội ‘xâm phạm chủ quyền’ của họ và ‘cản trở một cách phi pháp’ hoạt động thăm dò của công ty dầu khí Trung Quốc.

Trung Quốc nói văn kiện lập trường kèm theo bản đồ vị trí tác nghiệp của doanh nghiệp Trung Quốc “cũng như tài liệu liên quan mà Việt Nam lâu nay công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa”.

Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc Vương Minh đã gửi ‘thư bày tỏ lập trường’ của họ về hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 trên Biển Đông đến Tổng thư ký Ban Ki-moon hôm 9/6 và yêu cầu người đứng đầu tổ chức này cho lưu hành đến tất cả 193 quốc gia thành viên của Đại hội đồng.

Trong văn bản này, Trung Quốc nói đã có bốn công dân Trung Quốc ‘bị giết hại dã man’ và hơn 300 người bị thương trong các cuộc bạo loạn ở Việt Nam.

Lá thư cho biết Công ty dầu khí Hải dương quốc gia Trung Quốc đã có các hoạt động thăm dò địa chất ở khu vực này trong vòng 10 năm qua và việc đưa giàn khoan ra đây chỉ là ‘sự tiếp tục công việc thăm dò thường xuyên’ và giàn khoan này ‘nằm hoàn toàn trong phạm vi chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc’.

Bắc Kinh nói Hà Nội đã cản trở hoạt động của giàn khoan ‘một cách phi pháp và cưỡng ép’ với việc điều tàu có vũ trang ra khu vực và đâm tàu Trung Quốc.

“Việt Nam cũng triển khai người nhái và các thiết bị hoạt động dưới nước ra vùng biển này và thả xuống biển rất nhiều chướng ngại vật bao gồm lưới cá và các vật trôi nổi,” lá thư viết.

Văn bản lên án các hành động của Việt Nam ‘đã xâm phạm chủ quyền Trung Quốc’, ‘đe dọa nghiêm trọng đến các công dân Trung Quốc đang làm việc trên giàn khoan và vi phạm luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển’.

Trung Quốc cũng đưa ra nhiều dẫn chứng chứng minh quần đảo Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa ‘là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc mà không có bất kỳ tranh chấp nào’.

AP đã tìm cách gọi cho phái bộ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc và phát ngôn nhân của nước này để hỏi về phản ứng nhưng không có ai trả lời.

Trước đó, phái bộ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã gửi thư cùng công hàm lên Tổng Thư ký Ban Ki-moon để phản đối giàn khoan và các tàu hộ tống của Trung Quốc ‘trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam’.

Hội thảo làm thế nào để “Thoát Trung”?

Hội thảo làm thế nào để “Thoát Trung”?

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2014-06-07

thanhtruc06072014.mp3

photo5-305.jpg

Các vị học giả và người dân tham dự Buổi hội thảo “Thoát Trung” hôm thứ năm ngày 5 tháng 6 tại 53 đường Nguyễn Du thành phố Hà Nội.

Courtesy Nguyễn Xuân Diện Blog

Buổi hội thảo “Thoát Trung” hôm thứ năm ngày 5 tháng 6 vừa qua do Quĩ Văn Hóa Phan Chu Trinh và Nhà Xuất Bản Trí Thức tổ chức, đã qui tụ một số đông học giả, trí thức và đặc biệt nhiều người trẻ đến với vấn đề làm thế nào để thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của Trung Quốc, đất nước đang gây khó khăn cho Việt Nam về nhiều mặt mà nhất là vụ hạ đặt giàn khoan HD 981 từ tháng trước.

Nhiều người hưởng ứng

Buổi hội thảo ngày 5 tháng 6 diễn ra tại 53 đường Nguyễn Du thành phố Hà Nội, được coi là diễn đàn của giáo sư Chu Hảo và Quĩ Văn Hóa Phan Chu Trinh.

Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ Việt Nam tại Hòa Lan, nguyên trưởng nhóm Tư Vấn Lãnh Đạo Bộ Ngoại Giao, nói rằng buổi hội thảo “Thoát Trung” này là một sự kiện đặc biệt:

“Sở dĩ nó đặc biệt vì ngày cả cái đề tài đã gây tranh luận, chưa bao giờ có chuyện là có người đứng cả dưới sân, chúng tôi đã phải chuyển từ tầng ba lên tầng bốn. Người đến rất đa dạng, những vị trí thức hàng đầu, đặc biệt lần này rất đông đảo các sinh viên học sinh. Sự hưởng ứng của mọi người nói lên cái bức xúc, cái khát vọng của mọi người Việt Nam muốn được có thông tin, muốn được biết thông tin trong những ngày nước sôi lửa bỏng này.

Tiến sĩ Giáp Văn Dương là diễn giả chính, giáo sư Trần Ngọc Vương, tiến sĩ Minh và tôi là người phản biện.”

“ Sự hưởng ứng của mọi người nói lên cái bức xúc, cái khát vọng của mọi người VN muốn được có thông tin, muốn được biết thông tin trong những ngày nước sôi lửa bỏng này.
-TS Đinh Hoàng Thắng”

Thoát Trung, theo tiến sĩ Giáp Văn Dương, là một đề tài rộng lớn, sâu sắc, liên quan đến nhiều lãnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội, triết học, tư tưởng… mà nếu chỉ bàn có một buổi thì không thể nói hết được.

Nhìn vấn đề từ góc độ là thoát những ảnh hưởng tiêu cực từ Trung Quốc, diễn giả Giáp Văn Dương cho rằng thoát Trung ở đây không phải là bài Trung, càng không phải là chống Trung. Ông nói một đất nước như Việt Nam với lịch sử với tiền nhân như đã biết thì Việt Nam đã quá gắn bó với văn minh Trung Hoa, quá gắn bó với tư tưởng Trung Hoa mà trên thức tế nền văn minh đó có rất nhiều điều hay đẹp cần nghiên cứu cần học hỏi.

Còn cái mà Việt Nam cần thoát ra ở đây, cần bài ở đây, tiến sĩ Giáp Văn Dương khẳng định, chính là bài cái tư tưởng bành trướng, bá quyền, nước lớn của ban lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc. Nói một cách khác, buổi hội thảo không bàn đến tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, không bàn đến những giá trị tư tưởng hay giá trị văn minh của nền học thuật Trung Hoa.

Về quan điểm của diễn giả Giáp Văn Dương, tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nhận xét:

“Tiến sĩ Giáp Văn Dương là một PhD candidate còn rất trẻ, tôi cho rằng Giáp Văn Dương có một bước rất trưởng thành, bởi vì cách đây năm 2011 thì lúc bấy giờ anh đã nhấn mạnh những vấn đề cấp bách của nhu cầu phải thoát Trung. Từ 2011 đến giờ, nghĩa là sau 4 năm, với 3 tiên đề và 7 trụ cột mà anh nêu lên như là bảy biện pháp để thoát Trung thì tiến sĩ Giáp Văn Dương đã xây dựng được một luận án để thoát Trung. Tóm lại, kết luận của diễn giả chính là nêu lên được một luận án để thoát Trung.”

photo7-250.jpg

TS Phạm Gia Minh (trái) và Tiến sĩ Giáp Văn Dương tại Buổi hội thảo “Thoát Trung” hôm thứ năm ngày 5 tháng 6 ở Hà Nội. Courtesy Nguyễn Xuân Diện Blog.

Trong tư cách người phản biện, tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng khẳng định khát vọng thoát Trung và quyết tâm thoát Trung đặt ra lúc này là đúng lúc:

“Nhưng với bối cảnh hiện nay thì nó vẫn là một nhiệm vụ phải nói là đội đá vá trời. Tôi cho rằng những người đang thúc đẩy chuyện này chính là người đang đội đá vá trời. Bảy cái trụ cột mà tiến sĩ Giáp Văn Dương nêu ra thì hôm nay cũng đã có nhiều người nêu lên trong hội thảo, là chỉ cần một trong hai hay ba trụ cột trong đấy: kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân… chưa chắc đã được nhà nước hoan nghênh. Ba cái trụ cột đấy nếu mà làm được thì Việt Nam có thể bước lên trên con đường phát triển, và ý của tiến sĩ Giáp Văn Dương là muốn thoát Trung thì phải phát triển, muốn thoát Trung là Việt Nam phải tiếp cận đến ngưỡng của các nước phát triển. Còn nếu chúng ta lạc hậu nghèo nàn nghèo đói thì mãi mãi thoát Trung chỉ là một giấc mơ.”

Sau khi trình bày ý nghĩa tiêu cực trong phần phản biện của mình, ông Đinh Hoàng Thắng chuyển sang mặt tích cực liên quan thời điểm mà Trung Quốc đặt giàn khoan HD 981:

“Ngay như chiều qua là Trung Quốc đe dọa sẽ đặt HD 982 hiện nay đang ở cảng Đại Liên mà sắp tới đây sẽ đặt tiếp. Thế thì tôi nói rằng động cơ nào đằng sau việc Trung Quốc đặt giàn khoan và tôi gợi một ý để có thể suy nghĩ tích cực về vấn đề thoát Trung. Đó là hãy xem trả lời phỏng vấn ở trên báo Tuổi Trẻ của Phùng đại tướng nói về cảng Cam Ranh, hãy xem những tin cũng trên báo chí lề phải khi nói về dự án Phú Quốc. Đây là những sự kiện riêng lẻ nhưng mà đối lại đây chính là hướng thoát Trung rất tích cực, rất thực tiễn.”

Có thể thay đổi?

Lên tiếng tại buổi hội thảo, giáo sư Trần Ngọc Vương, Đại Học Quốc Gia Hà Nội, nhấn mạnh rằng sự lệ thuộc, sự ràng buộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc của cộng đồng Việt:

“Nghĩa là điều đó có thể thay đổi được, bằng chứng là trong các nước gọi là đồng văn truyền thống như Nhật Bản như Hàn Quốc thì người ta đã thoát khỏi cái sự ràng buộc ấy một cách ngoạn mục để trở thành những nước công nghiệp phát triển hoặc là những nước có trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa rất cao. Cho nên chuyện bị lệ thuộc vào Trung Quốc quyết không phải là đinh mệnh của Việt Nam.

“ Thoát đầu tiên là thoát khỏi cái dã tâm của giới cầm quyền Trung Hoa chứ không phải tình hữu nghị hoặc là quan hệ giữa hai cộng đồng láng giềng, hai chuyện đó khác nhau.
-GS Trần Ngọc Vương”

Đấy là ý thứ nhất. Ý thứ hai, thoát Trung là thoát cái gì? Văn minh Trung Quốc là một nền văn minh có sức sống dẻo dai nhất trong lịch sử nhân loại cùng với nền văn minh Ấn Độ, có những thành tựu rất là kỳ vĩ. Chúng ta cũng không đặt vấn đề thoát khỏi cái đó, không quay lưng lại với nó. Đây không phải là bài Trung nhưng cái cần thoát ra thì đầu tiên tôi khẳng định thoát ra khỏi cái dã tâm của giới cầm quyền Trung Quốc trong toàn bộ lịch sử. Cái xứ sở ngày nay là Việt Nam, cho đến tận ngày nay chưa bao giờ giới cầm quyền trên đất Trung Hoa, kể cả giới cầm quyền cộng sản, muốn có bên cạnh mình một quốc gia phát triển bình đẳng ngang tầm chứ chưa nói là vượt trội với Trung Quốc.

Tôi cho rằng cái thoát đầu tiên là thoát khỏi cái dã tâm của giới cầm quyền Trung Hoa chứ không phải tình hữu nghị hoặc là quan hệ giữa hai cộng đồng láng giềng, hai chuyện đó khác nhau.”

Mỗi một người Việt Nam, giáo sư Trần Ngọc Vương cả quyết, phải chống chọi lại âm mưu đồng hóa của giới cầm quyền Trung Quốc.

“Cho nên ý thứ ba mà tôi nói đến thoát Trung là thoát khỏi cái chất Trung Hoa ở trong mỗi người Việt Nam, thí dụ cái tâm lý “Nam Nhân Bắc Hướng”, ở phương Nam nhưng bị tuyên truyền rằng cội nguồn của anh giá trị của anh ở phương Bắc.”

Với câu hỏi liệu điều ông đang trình bày có dễ thay đổi không, giáo sư Trần Ngọc Vương phân tích rằng tất cả nằm trong ý chí khẳng định cái nguồn gốc thực sự của mình:

“Những thiết kế tư tưởng, những thiết kế quyền lực trong đó có những cái hướng theo Trung Hoa nhiều quá thì đánh mất bản tính và điều kiện kiến tạo nhân dạng hay căn cước của mình.

Tham dự buổi hội thảo thoát Trung do Quĩ Văn Hoa Phân Chu Trinh và Nhà Xuất Bản Trí Thức tổ chức, tiến sĩ Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn Đàn Các Xã Hội Dân Sự, phát biểu ông tâm đắc với việc làm của hai tổ chức xã hội dân sự này:

“Có nhiều ý kiến khác nhau nhưng điểm mấu chốt có cùng với nhau là không một cách nào khác để thoát khỏi ảnh hưởng tiêu cực của Trung Quốc từ xa xưa cho đến bây giờ bằng cách phải tự thoát được khỏi sự suy nghĩ của chính mình.”

Điều quan trọng nhất rút ra được từ buổi hội thảo này, tiến sĩ Nguyển Quang A kết luận, một chính thể dân chủ và đa nguyên thì mới mong thoát được tầm ảnh hưởng xấu của Trung Quốc.

Trung Quốc tố cáo bị tàu Việt Nam đâm hơn 1.400 lần

Trung Quốc tố cáo bị tàu Việt Nam đâm hơn 1.400 lần

Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc và tàu của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ở Biển Đông, khoảng 210 km (130 dặm) ngoài khơi Việt Nam.

Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc và tàu của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ở Biển Đông, khoảng 210 km (130 dặm) ngoài khơi Việt Nam.

Trà Mi-VOA

09.06.2014

Trung Quốc tố cáo tàu Việt Nam đâm tàu Trung Quốc hơn 1.416 lần gần khu vực Bắc Kinh đặt giàn khoan 981 trong vùng biển Hà Nội có tuyên bố chủ quyền.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 8/6 đăng bài viết cáo buộc Việt Nam ‘gây hấn’ và khẳng định lập trường không thay đổi của Bắc Kinh trong việc bảo vệ giàn khoan và chủ quyền tại đây.

Bắc Kinh cáo buộc Việt Nam đã đưa nhiều tàu kể cả tàu quân sự vào khu vực, quấy nhiễu, tấn công tàu Trung Quốc và rằng lúc cao điểm có tới 63 tàu Việt tới gần địa điểm giàn khoan và đâm vào tàu của chính phủ Trung Quốc hơn 1.400 lần.

Giới hữu trách Việt Nam khẳng định chỉ có hơn 30 tàu của cả lực lượng Kiểm ngư và Cảnh sát biển tại thực địa, làm nhiệm vụ tuyên truyền thuyết phục Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

” Tôi không thể tin vào con số Trung Quốc đưa ra là tàu Việt Nam đâm tàu Trung Quốc trên 1.400 lần. Thứ nhì, tàu cá lẫn tàu chấp pháp của Trung Quốc lớn gấp nhiều lần so với các tàu của Việt Nam. Cho tới nay, tôi chưa từng thấy bất kỳ bằng chứng thuyết phục nào bằng hình ảnh video cho thấy tàu của phía Việt Nam tìm cách đâm húc tấn công tàu Trung Quốc.

Giáo sư Carl Thayer, cuyên gia quốc tế về Biển Đông.”

Cục trưởng Cục Kiểm ngư Việt Nam, ông Nguyễn Ngọc Oai, nói với VOA Việt ngữ  các tố cáo của Việt Nam đều dựa trên bằng chứng thực tế:

“Việt Nam nhấn mạnh theo đuổi phương pháp đấu tranh ôn hòa, không đáp trả các hành động khiêu khích từ phía Trung Quốc. Giới chức Việt Nam nói các tàu chấp pháp của Việt Nam lùi bước chạy đi chỗ khác mỗi khi bị Trung Quốc xua đuổi, tấn công để tránh va chạm, xung đột.”

Tuy nhiên, theo Cục trưởng Cục Kiểm ngư, hầu hết lực lượng tàu chấp pháp của Việt Nam tại thực địa đều bị tàu Trung Quốc đâm hỏng.

Cáo buộc ngược lại của phía Trung Quốc được đưa ra sau khi phía Việt Nam hôm 5/6  trưng bằng chứng bằng hình ảnh video tố cáo tàu Trung Quốc húc chìm một tàu cá Việt.

Trước đó, Việt Nam đã từng đưa các bằng chứng hình ảnh tố cáo tàu Trung Quốc tấn công đe dọa tài sản và tính mạng của các tàu Việt kể cả tàu đánh cá lẫn tàu chấp pháp của nhà nước.

Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia quốc tế được biết tiếng về vấn đề Biển Đông, nhận xét cáo giác của Trung Quốc không có cơ sở thuyết phục so với  tố cáo của phía Việt Nam:

“Trước tiên, tôi không thể tin vào con số Trung Quốc đưa ra là tàu Việt Nam đâm tàu Trung Quốc trên 1400 lần. Thứ nhì, tàu cá lẫn tàu chấp pháp của Trung Quốc lớn gấp nhiều lần so với các tàu của Việt Nam. Cho tới nay, tôi chưa từng thấy bất kỳ bằng chứng thuyết phục nào bằng hình ảnh video cho thấy tàu của phía Việt Nam tìm cách đâm húc tấn công tàu của Trung Quốc. Theo tôi, đây là cách điển hình mà Trung Quốc sử dụng cuộc chiến thông tin để hoàn toàn lật ngược mọi chuyện. Số lượng tàu của Trung Quốc tại thực địa cũng nhiều hơn lực lượng tàu Việt Nam gấp nhiều lần. Tôi không thấy Việt Nam được lợi gì khi đâm đầu vào tàu Trung Quốc. Việt Nam không thể hy vọng đẩy lùi phía Trung Quốc bằng cách gây thương tích cho phía Trung Quốc. Thực tế cho thấy phía Việt Nam, để duy trì sự hiện diện của tàu họ ở đây, đã gặp nhiều khó khăn. Nhìn vào bài viết của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm qua chúng ta thấy rõ sự mâu thuẫn của họ khi họ nêu lên các giải pháp có thể giải quyết vấn đề theo luật quốc tế nhưng rốt cuộc lại nói rằng không điều nào sẽ được áp dụng vào trường hợp này vì Bắc Kinh sẽ không hề lùi bước.”

Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói dù các vùng đặc quyền kinh tế trong khu vực chưa được vạch rõ nhưng các vùng biển này không bao giờ trở thành vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Giáo sư Thayer cho rằng mọi chuyện hiện nay chỉ là bước đầu trong chính sách không khoan nhượng của Trung Quốc trong vấn đề khẳng định chủ quyền tại khu vực.

Xe tải cán bể nắp mương, lòi cốt tre

Xe tải cán bể nắp mương, lòi cốt tre

June 08, 2014


ĐỒNG NAI 8-6 (NV) .-
Khi bị một xe tải cán qua, nắp mương thoát nước bị vỡ mới lộ ra cốt tre nhỏ bé bên trong đã khô mục chứ không phải là bê tông cốt sắt một cách bình thường.

Nắp mương thoát nước bị xe tải cán qua nên vỡ và lòi cốt tre bên trong, không phải sắt. (Hình: Tuổi Trẻ)

Đây là chuyện mới xảy ra ở khu vực tổ 25B, ấp Trần Cao Vân, xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai mà người dân mới tình cờ khám phá ra sự gian dối trong công trình xây dựng công cộng ở địa phương. Cái đau cho người dân ở đây là cái công trình “bê tông cốt tre” này được thực hiện với tiền mà nhà cầm quyền xã bắt dân đóng góp, các quan thuê người thực hiện.

Theo tờ Tuổi Trẻ hôm Chủ Nhật thì buổi sáng ngày 6/6/2014, “một chiếc xe tải 5 tấn khi đi vào khu tái định cư cùng ấp thì làm vỡ hai tấm đan mương thoát nước được làm bằng bêtông. Trong đó có một tấm đan dày khoảng 7cm bị vỡ ở giữa một lỗ lớn, bên trong lõi bêtông thấy nhiều thanh tre đã khô, mục.”

Vì sợ nguy hiểm cho mọi người dân khi đi qua lại khu vực này nên “một số người đã lấy cây xanh làm tín hiệu để kịp phòng tránh”, báo Tuổi Trẻ nói. Ghi nhận tại hiện trường cho thấy hệ thống mương thoát nước trên dài khoảng 100m, ngoài tấm đan bị vỡ lòi thanh tre ra còn nhiều tấm đan mương thoát nước có dấu hiệu nứt nẻ. Và cũng không biết chúng đều có “cốt tre” bên trong hay cái cốt gì khác.

Nói chuyện với ký giả báo Tuổi Trẻ qua điện thoại chiều 7-6, một cán bộ phụ trách giao thông thủy lợi xã Bàu Hàm 2 xác nhận “đây là công trình do nhân dân đóng góp tiền làm, UBND xã chỉ chịu trách nhiệm kêu người đến xây dựng. Sau khi nhận được thông tin, UBND xã đã đến hiện trường quan sát và có biện pháp khắc phục trong thời gian tới.”

Nguồn tin nói rằng khi hỏi thông tin thêm về chất lượng và giám sát công trình này thì “vị cán bộ trên từ chối, và cho biết UBND xã sẽ làm việc với báo về vụ việc trên vào ngày 9-6-2014”

Nhiều công trình xây dựng lớn như sử dụng vốn vay ngoại quốc ODA cho đến các công trình nhỏ bé của các địa phương đều đầy những gian dối để đám quan chức các bộ các cấp rút ruột hay ăn hối lộ. “Bê tông cốt tre” từng thấy tại nhiều dự án từ bắc chí nam suốt nhiều năm qua.

Ngày 15/5/2013, người dân khu vực 10, phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ liên tục chứng kiến đơn vị thi công công trình xây dựng hệ thống cống thoát nước thải lớn nhất Cần Thơ làm rớt bể tấm đan. Người ta ngạc nhiên thấy, khi bị rớt xuống vỡ thì bên trong các tấm đan này là hai miếng cốt tre mỏng manh.

Theo sự tường thuật của tờ Tuổi Trẻ ngày 17/5/2013, hàng chục tấm đan như vậy đã được hối hả chở đi nhưng khi khiêng lên khiêng xuống thì đều nứt vỡ, lòi cốt tre bên trong.

Công trình xây dựng hệ thống cống trên thuộc dự án gom và xử lý nước thải sinh hoạt thành phố Cần Thơ có công suất xử lý 30,000 m³/ngày đêm, xử lý nước thải cho quận Ninh Kiều. Đây là dự án do Công ty TNHH một thành viên Cấp thoát nước của nhà cầm quyền Cần Thơ làm chủ đầu tư, ký hiệp định vay vốn từ Ngân hàng Tái thiết của CHLB Đức.

Theo hiệp định vay vốn, dự án có vốn đầu tư 14.3 triệu euro (220 tỉ đồng), trong đó vốn đối ứng của thành phố chiếm 30%. Tuy nhiên do thi công chậm chạp, đến năm 2006 dự án được điều chỉnh tăng vốn lên 363 tỉ đồng, tăng hơn 140 tỉ đồng so với mức phê duyệt ban đầu.

Ngày 19/3/2010, báo Tuổi Trẻ cho biết Cầu Khe Dầu được xây dựng với số tiền 1.45 tỉ đồng từ nguồn vốn ADB của Dự án giảm nghèo khu vực Miền Trung tỉnh Quảng Bình. Dù mới đưa vào sử dụng từ tháng 8-2008 nhưng hiện nay cầu này đã bị hư hỏng nặng nề.

Tờ Tuổi Trẻ kể: “Từ đầu tháng 3-2010, người dân địa phương lại cho biết ở phía dưới gầm cầu, đặc biệt là dầm cầu có nhiều chỗ bê tông bị bong tróc, nứt ra làm lộ cả cốt thép. Nhiều chỗ bê tông không có độ kết dính cao nên chỉ cần dùng tay bẻ vào là bê tông đã rã ra khỏi khối. Nhiều chỗ mặt bê tông bị nứt tạo ra khoảng rỗng với độ sâu 30-40cm. Tại một vài chỗ rỗng như vậy, chúng tôi đã quan sát và thấy phía bên trong khối bê tông có những thanh tre và cót ép…”

Không thấy có ông bà quan chức lớn nhỏ nào liên quan đến các vụ việc bị mất chức hay bị truy tố. (TN)