Đám tang tù chính trị qua đời vì Aids

Đám tang tù chính trị qua đời vì Aids

Thứ hai, 7 tháng 7, 2014

Ông Huỳnh Anh Trí sau khi ra tù và biết mình bị nhiễm HIV

Đám tang ông Huỳnh Anh Trí, tù nhân chính trị từng bị giam 14 năm vừa qua đời vì bệnh Aids, được tổ chức tại TP HCM.

Ông Trí qua đời vào trưa hôm thứ Bảy ngày 5/7.

Hiện đang có cáo buộc ông Trí bị nhiễm HIV khi đang thụ án trong tù và đây là một ‘hành động cố ý’ đối với ông. Tuy nhiên, BBC không có điều kiện kiểm chứng cáo buộc này.

Ông bị chính quyền bắt vào năm 1999 cùng với người anh ruột với cáo buộc ‘Khủng bố chống chính quyền nhân dân’. Ông ra tù vào cuối năm 2013.

Kết quả xét nghiệm sau khi ra tù cho thấy ông đã bị nhiễm HIV.

Ông Trí qua đời khi mới 42 tuổi.

Cố tình gây nhiễm?

Trao đổi với BBC, linh mục Lê Ngọc Thanh, người đã gần gũi bên cạnh ông Trí vào những lúc cuối đời của ông, nói rằng ông Trí nghi ngờ mình đã bị nhà tù ‘cố tình làm cho nhiễm HIV’.

Linh mục Thanh cho biết ông Trí có đề cập đến ‘hai bằng chứng’ để chứng minh cho nghi ngờ này là “các tù nhân chính trị đều dùng chung một lưỡi lam để cạo râu cắt tóc” và “cùm chân cùng chiếc với những tù nhân bị chảy máu khi bị cùm”.

“Theo anh Trí thì không có sự chăm sóc y tế đặc biệt nào đối với những tù nhân bị nhiễm HIV’.

“Họ không bao giờ được tạo cơ hội để xét nghiệm.”

Ông Thanh cho biết trong những ngày cuối đời ông Trí ‘bình an, không sợ chết’.

“Điều anh Trí lo lắng nhất là làm sao cho những người bạn tù của mình, nhất là tù chính trị, tù tôn giáo, không bị vô tình hay cố ý làm lây nhiễm HIV,” ông nói.

Theo ông Thanh thì ông Trí ‘không hối tiếc việc mình đã làm’.

 

Ánh sáng xuyên màn đêm

Ánh sáng xuyên màn đêm

Chuacuuthe.com

tri0

VRNs (06.07.2014) – Sài Gòn – “Con thì đã xong rồi, nhưng còn các anh em trong tù thì sao?” Đó là câu hỏi của Huỳnh Anh Trí đặt ra với chúng tôi sau khi anh biết mình đã bị nhiễm HIV. Cái ngày mà tôi không thể quên : 28.05.2014.

Huỳnh Anh Trí sinh năm 1971 tại Sài Gòn. Đầu thập niên 90, anh Trí theo gia đình di cư sang Thái Lan. Năm 1999, anh tham gia vào tổ chức Việt Nam Tự Do tại Bangkok, một tổ chức có đường lối đấu tranh chống lại sự độc tài của đảng cộng sản Việt Nam.

Tháng 12.1999, Huỳnh Anh Trí bị bắt cùng với người anh ruột là Huỳnh Anh Tú (sinh năm 1968) tại Sài Gòn. Anh Trí và người anh cùng bị kết án 14 năm tù giam với tội danh “khủng bố” theo điều 79 của Bộ Luật Hình Sự .

Năm 2001, Huỳnh Anh Trí bị chuyển đến giam tại nhà tù Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai). Trong thời gian bị giam giữ tại đây, anh Trí đã đấu tranh với các quản giáo và giám thị trại giam để phản đối tình trạng giam giữ vô nhân đạo đối với tù nhân, đặc biệt là các tù nhân chính trị.

Năm 2005 và 2006, Huỳnh Anh Trí cùng với các tù nhân chính trị đã gởi đơn đến bộ trưởng bộ Công an lúc đó là ông Lê Hồng Anh, Ban giám thị nhà tù để phản đối quy định chỉ cho sử dụng một dao lam cạo râu, hớt tóc cho rất nhiều rất tù nhân (cả thường phạm và chính trị), điều này dẫn đến lây nhiễm HIV và các bệnh truyền nhiễm khác cho nhiều tù nhân bị giam giữ chung. Nhất là việc sử dụng cùm không sạch, sau khi người nhiễm HIV/AIDS đã cùm bị chảy máu, cho các tù nhân chính trị và Huỳnh Anh Trí đã bị lây nhiễm.

Anh Trí kể, khi bị cùm, người tù rất sợ cùm dơ. Cùm dơ là cùm đã khóa chân người nhiễn HIV/AIDS dính đầy máu, thậm chí có cả da và ít thịt, nhưng không bao giờ được tẩy sạch. Anh Trí nói: “Tôi đã hỏi bác sĩ tuyên truyền về HIV/AIDS của Tổng cục VIII rằng khi cùm dính máu người nhiễm, rồi cùm cho tôi thì tôi có bị nhiễm không? Ông bác sĩ đó trả lời : “ tôi không biết!”

Người tù muốn thoát cùm dơ thì phải biết điều, phải cắt phần tiền trong sổ cantin trại giam, có khi phải tới một triệu, cho người quản cùm thì mới được cùm sạch. Anh Trí bị cùm dơ trong cả một thời gian dài.

Chúng tôi hỏi, tại sao anh muốn kể lại chuyện anh bị nhiễm HIV/AIDS? Anh Trí cho biết là phải tố cáo những độc ác của nhà tù để bảo vệ những tù nhân chính trị. Ông Nguyễn Hữu Cầu cũng có mặt trong buổi nói chuyện đã bổ sung. “Tôi thấy một anh chuẩn bị cùm vào cùm dơ đã quỳ và bái lạy nhiều lần trung úy Giang để khỏi phải bị đưa chân vào đó”.

Kết quả xét nghiệm làm tại một Trung tâm y khoa ở Sài Gòn, ngày 28.05.2014 cho biết “Test HIV (test nhanh), kết quả phát hiện kháng thể HIV, đề nghị làm thêm Elisa HIV”. Kết quả xét nghiệm Elisa tại Viện Pasteur TP.HCM, ngày 29.05.2014, do thạc sĩ Lê Chí Thanh ký cho biết: Tỉ lệ tế bào TCD4 là 5.89%, trong khi bình thường phải là từ 29.5 – 41.9%. Số lượng tế bào TCD4 là 44.00/mm3, trong khi đó ngưỡng phải đạt từ 576 – 1254/mm3. Cơ thể của anh Huỳnh Anh Trí đã có nhiều bệnh cơ hội phát triển ngoài da và lao. Anh đã vào giai đoạn cuối của AIDS.

Một người em kết nghĩa đã đưa anh Trí đi làm các xét nghiệm kể: “Khi có kết quả, bác sĩ nói chuyện riêng với anh Trí. Anh Trí nói mình đã đoán biết và sẵn sàng đón nhận kết quả hôm nay. Bác sĩ ôm chầm lấy anh Trí và khóc. Ông nói họ đã dùng cách này để giết hại bao nhiêu người yêu nước”. Anh Trí kể, “bác sĩ cho tôi tiền và bảo ông sẽ cố gắng hết sức để cứu tôi. Tôi nói không sao đâu bác sĩ. Tôi chỉ lo cho các chiến hữu còn trong tù của tôi, vì khi ở trong tù, tôi đã chứng kiến 14 trường hợp tù chính trị bị nhiễm SIDA và chết”.

Anh Huỳnh Anh Tú, người anh trai cùng tội danh và bản án nói : “Những người tù chính trị chúng tôi phải giữ tư cách, không có chuyện xâm mình như các tù hình sự, nên không thể nói lây bệnh AIDS qua đó được”.

Khi được hỏi những ngày cuối cùng, anh Trí có ước mơ gì không? Cô Võ Thị Ánh Tuyết, sinh năm 1986, người yêu của anh Trí mới sáu tháng qua và cũng là người chăm sóc anh tận tình kể từ khi anh biết mình bị nhiễm AIDS. Cô nói: “Anh Trí muốn hai chúng tôi về quê chung sống, tôi hỏi ảnh, bây giờ mình làm đám cưới nha anh. Ảnh nói để anh khỏe rồi tính, chứ giờ lỡ có gì thì thiệt thòi cho em lắm”.

“Khi hay tin anh Trí bệnh, ba má chị Tuyết định lên thăm, thì anh Trí nói mình trẻ không đi thăm ông bà, để ông bà đi lên là không được. Anh dậy đi về An Giang thăm ba má vợ tương lai’- Người em kết nghĩa của Trí kể.

Ông bà rất muốn con gái mình chăm sóc cho anh Trí, vì xem đây là cái phước cũng như cái nghiệp của con gái mình.

Chúng tôi hỏi, tại sao cô Tuyết là đi yêu một cựu tù nhân? Cô Tuyết lắng lại một lúc lâu rồi nói: “Anh Trí là người rất tình nghĩa”.

Khi nghe anh Trí lâm trọng bệnh, nhiều người đã quen từ lâu, và nhiều người hơn chưa hề quen biết đã hỏi thăm, cầu nguyện và giúp đỡ.

Khoảng hơn 22:00g, ngày 04.07, anh Tú và cô Tuyết thấy tình trạng sức khỏe của anh đã nguy kịch, nên đã đưa anh đến Bệnh viện Nhiệt Đới, nhưng ở đây không tiếp nhận mà chỉ qua bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Những người thân đưa anh đến Phạm Ngọc Thạch thì ở đây không nhận với lý do không có hộ khẩu. Cấp cứu mà cũng cần có hộ khẩu nữa sao? Sau đó anh Trí bị ngất, không biết gì nữa. Các bác sĩ và nhân viên ý tế bệnh viện này đuổi anh và người nhà ra. Nhưng có một bác sĩ đến lay lay làm anh Trí tĩnh lại, nên họ chấp nhận đưa anh vào phòng hồi sức.

13:30g, ngày 05.07.2014, anh Huỳnh Anh Trí từ trần tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.
Anh đã ra đi, gia đình xin mang xác về để lo an táng. Đến đây thì bệnh viện không cho với lý do không có ai chứng thực được là thân nhân. Tiêu chuẩn phải để xác định thân nhân là có chung hộ khẩu. Lại hộ khẩu! Anh Tú và anh Trí khi ra tù đến nhà người chị là chị Đào xin nhập hộ khẩu thì công an gây khó khăn, suốt từ cuối năm 2013 đến nay vẫn chưa có hộ khẩu thì lấy đâu ra cùng tên trong hộ khẩu để xác nhận thân nhân.

Cách thứ hai là về công an địa phương xác nhận anh Trí là thân nhân chị Đào. Chiều thứ bảy không tìm được công an, mà gia đình cũng cho rằng công an đã tìm cớ không làm hổ khẩu thì họ cũng tìm cớ không xác nhận. Thế là không còn cách nào để xác nhận người ruột thịt với anh Huỳnh Anh Trí để lãnh xác về.

Người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu có mặt ngay sau khi anh Trí mất cho biết, “có mấy người cò mồi cứ đi theo hỏi hoài rằng có muốn lo không, họ sẽ lo từ A tới Z cho”. Theo ông Cầu đây là việc làm có phân công tổ chức, chứ không chỉ là một việc làm kiếm tiền của những người ăn bám vào xác chết. Ông kể, “một người đang nói thì có một bà mặc quần lửng bước tới nói, hôm nay thứ bảy là ngày lẽ, đâu phải của tụi bay đâu mà nói. Tức thì người kia bỏ đi”.

Chúng tôi vào cùng với anh Tú để thuyết phục cô điều dưỡng trưởng tên Hương rằng anh Tú và anh Trí cùng ra tù, và trên giấy quyết định ra tù có ghi rõ tên cha mẹ của hai người giống nhau, nên chắc chắn hai người này là ruột thịt, nên xin ch anh Tú lãnh xác. Cô Hương trả lời, “anh này cũng không có hộ khẩu thì làm sao, chúng tôi phải nắm người có tóc”. Giải thích và thuyết phục khá lâu, nhưng cô điều dưỡng trưởng tên Hương vẫn cứ nói rằng “chúng tôi không thể làm sai nguyên tắc”.

Sau đó chúng tôi yêu cầu gặp trực lãnh đạo của bệnh viện, cô gọi một bác sĩ xuống, có lẽ là bác sĩ phó khoa, ông này cũng xuôi theo cô điều dưỡng. Khi chị Đào mang giấy khai sanh của chị và anh Trí ra, thì ông bác sĩ này mới gọi điện thoại xin ý kiến lãnh đạo, và cuối cùng đã đồng ý cho nhận xác về.

Các linh mục DCCT, các nhân viên truyền thông VRNs, cộng tác viên phòng Công lý Hòa bình, và anh em Con đường Việt Nam cùng vài tù nhân lương tâm có mặt để tẩn liệm cho anh ngay tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch lúc 18:00. Sau đó thi hài anh Trí được đưa về quàn tại nhà nguyện xóm 2 thuộc giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, trên đường Hoàng Sa, gần ngã tư Rành Bùng Binh.

Bóng tối không che được ánh sáng, cũng chẳng làm mờ mắt người có ánh sáng trong con tim và cộng đồng như anh Huỳnh Anh Trí.

Antôn Lê Ngọc Thanh, CSsR

 

Cựu tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí qua đời do nhiễm HIV trong tù ?

Cựu tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí qua đời do nhiễm HIV trong tù ?

Trọng Thành

Cựu tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí, người vừa mãn hạn tù được sáu tháng, sau 14 năm bị giam cầm, vừa qua đời hôm nay, 05/07/2014, ở tuổi 43, tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ở Sài Gòn. Ít ngày nay, có nhiều thông tin được lưu truyền về các xét nghiệm y tế cho thấy ông Huỳnh Anh Trí có thể đã bị nhiễm HIV trong thời gian ở tù, và trước khi mất, sức khỏe ông suy yếu trầm trọng do bệnh đã chuyển sang giai đoạn AIDS.

Sau sự ra đi của nhà giáo Đinh Đăng Định, ông Huỳnh Anh Trí là cựu tù nhân lương tâm thứ hai từ trần ít lâu sau khi ra tù trong năm 2014. Dư luận đặt nhiều câu hỏi về những nguyên nhân khiến ông Huỳnh Anh Trí bị mắc căn bệnh hiểm nghèo trong tù.

Về cái chết của ông Huỳnh Anh Trí và phản ứng từ phía chính quyền Việt Nam, RFI đặt câu hỏi với ông Nguyễn Bắc Truyển, thành viên Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo, người đã có thời gian cùng sống trong một trại giam với người tù lương tâm vừa qua đời.

Nguyễn Bắc Truyển, thành viên Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo

 

05/07/2014

 

Nghe (07:32)

 

 

 

Phụ thuộc Trung Quốc vì kinh tế bị các nhóm lợi ích chi phối

Phụ thuộc Trung Quốc vì kinh tế bị các nhóm lợi ích chi phối
July 04, 2014

Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Thảo luận về tự chủ kinh tế, nhiều chuyên gia tin rằng sự phụ thuộc Trung Quốc về kinh tế là do kinh tế Việt Nam bị các “nhóm lợi ích” chi phối.


Dự án xây dựng cảng Vĩnh Tân ở Bình Thuận do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận có rất nhiều tai tiếng. (Hình: Thanh Niên)

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã trao gần như toàn bộ các hợp đồng EPC (NV: Engineering, Procurement and Construction contract – hợp đồng tổng thầu, loại hợp đồng mà nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công, cung ứng vật tư, thiết bị đến thi công và chạy thử rồi mới bàn giao cho chủ đầu tư) cho nhà thầu Trung Quốc: 23/24 dự án xi măng, 15/20 dự án nhiệt điện đốt than, 5/6 dự án hóa chất, 2/2 dự án chế biến khoảng sản, chưa kể các dự án giao thông, chưa kể ưu tiên cho thuê rừng và đất rừng ở biên giới.

Khi bàn về tự chủ kinh tế, ông Lê Ðăng Doanh, một chuyên gia kinh tế, tiếp tục thắc mắc tại sao lại xảy ra điều đó. Thực tế vừa kể đem lại bao nhiêu lợi ích quốc gia, bao nhiêu lợi ích cho các nhòm, các cá nhân?

Ông Doanh nhấn mạnh, Trung Quốc là “thầy” về mua chuộc, đút lót. Tình trạng kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc phải chăng là do bị các nhóm lợi ích chi phối quá mạnh.

Không chỉ giành được phần lớn các hợp đồng thông qua đấu thầu, các doanh nghiệp Trung Quốc còn đang dốc tiền mua lại các doanh nghiệp khác ở Việt Nam, chẳng hạn mua lại Công Ty CP của Thái Lan để nắm quyền chi phối toàn bộ thị trường thức ăn gia súc, gia cầm ở Việt Nam.

Theo thống kê của Hải Quan CSVN, năm 2012, Việt Nam nhập cảng các loại hàng hóa, nguyên liệu từ Trung Quốc có giá trị 28.8 tỉ Mỹ kim, trong khi Trung Quốc cho biết, năm 2012, lượng hàng hóa, nguyên liệu mà Trung Quốc xuất cảng sang Việt Nam trị giá 34 tỉ Mỹ kim. Chênh lệch giữa thống kê nhập cảng và xuất cảng giữa hai bên là 5,2 tỉ Mỹ kim và ông Doanh nhận xét, khoản chênh lệch lớn bất thường đó phải chăng là qua đường tiểu ngạch.

Ông Nguyễn Văn Thụ, chủ tịch Hiệp Hội Doanh Nghiệp Cơ Khí Việt Nam, lặp lại điều mà nhiều người từng thắc mắc, vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không thực hiện đúng hợp đồng, chất lượng công trình và thiết bị kém, già thành công trình thường xuyên cao hơn giá dự kiến… nhưng hầu hết các dự án vẫn tiếp tục được giao cho các nhà thầu Trung Quốc và chẳng ai ngăn chặn các nhà thầu này đưa từ Trung Quốc sang những loại vật tư, phụ tùng vốn có sẵn tại Việt Nam, cũng như đưa cả lao động phổ thông sang làm việc tại các công trình mà họ là tổng thầu?

Theo ông Thụ, bởi Trung Quốc thắng thầu hầu hết các dự án ở Việt Nam nên nay, khi tổ chức đấu thầu quốc tế chỉ có các nhà thầu Trung Quốc tham gia, nhà thầu của các nước khác không muốn tham gia nữa.

Ông Thụ khẳng định, thực trạng vừa kể là do các chủ đầu tư không có lương tâm.

Ông Thụ cho biết, Hiệp Hội Doanh Nghiệp Cơ Khí Việt Nam đã gửi văn bản cho thủ tướng và chủ tịch nhà nước, đề nghị kiểm tra lại toàn bộ các dự án do Trung Quốc đang thi công dở dang để huy động doanh nghiệp Việt Nam và các nhà thầu ngoại quốc khác hoàn tất những dự án này.

Ông Doanh cho rằng, vì các nhóm lợi ích chi phối các dự án đầu tư nên đã phát sinh nhiều “sơ hở không đáng có” khiến kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc. Ông Doanh đề nghị phải minh bạch và làm rõ trách nhiệm cá nhân.

Hồi hạ tuần tháng trước, sau khi các chuyên gia kinh tế, báo giới liên tục cảnh báo kinh tế Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc. Nếu Trung Quốc gây áp lực bằng cách cắt đứt quan hệ kinh tế – thương mại, kinh tế Việt Nam sẽ suy sụp, thông tấn xã Việt Nam đã thực hiện cuộc phỏng vấn ông ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nhà nước Việt Nam. Trong cuộc phỏng vấn đó, ông Sang tuyên bố, không để kinh tế Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc.

Nhân vật là chủ tịch nhà nước Việt Nam cho biết, Việt Nam theo đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ” để “bảo đảm cùng có lợi và dứt khoát không để phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào trong cả kinh tế lẫn chính trị” song nhìn nhận, “một số lĩnh vực thực hiện không đúng chủ trương này, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế” và thừa nhận nhập siêu từ Trung Quốc “càng ngày càng lớn, liên tục” và trong đó có “các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất.” (G.Ð)

 

VN lên án TQ tại LHQ

VN lên án TQ tại LHQ

Thứ sáu, 4 tháng 7, 2014

Tàu hai nước tiếp tục va chạm hàng ngày tại vùng biển đặt giàn khoan

Việt Nam đề nghị Liên Hiệp Quốc (LHQ) lưu hành hai văn bản về lập trường của Việt Nam về vụ giàn khoan Hải Dương – 981 và chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa.

Diễn biến mới nhất xảy ra hôm 3/7, khi Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại LHQ, một lần nữa gửi thư cho Tổng thư ký Ban Ki-moon.

Đại sứ Trung đề nghị lưu hành hai văn bản “như là những tài liệu chính thức của Đại hội đồng LHQ”, theo thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam.

Văn bản thứ nhất “bác bỏ toàn bộ, cả trên thực tế cũng như pháp lý” hai văn bản của Trung Quốc gửi cho Tổng thư ký Ban Ki-moon ngày 22/5 và 9/6.

Theo thông cáo của Việt Nam, văn bản gửi LHQ nói Trung Quốc “làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông bằng các hành động vi phạm luật pháp quốc tế”.

“Tình hình căng thẳng hiện nay xuất phát từ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam,” Việt Nam nói.

Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đã tấn công cả tàu thực thi pháp luật và tàu của ngư dân.

Hành động của Trung Quốc “không chỉ vi phạm quy định cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong luật pháp quốc tế mà còn là hành động vô nhân đạo đối với những người đi biển”.

Việt Nam cũng nói với LHQ rằng Trung Quốc “khước từ” các “nỗ lực và thiện chí của Việt Nam để giải quyết tình hình căng thẳng”.

Theo phía Việt Nam, từ ngày 2/5, Việt Nam đã “gửi công hàm, giao thiệp trên 30 lần ở nhiều cấp khác nhau” để phản đối Trung Quốc.

Chủ quyền Hoàng Sa

Văn bản thứ hai của Việt Nam nói Việt Nam “hoàn toàn bác bỏ” yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.

Việt Nam cho biết trong các trao đổi gần đây, Trung Quốc dẫn ra một số “bằng chứng lịch sử”, nhưng Việt Nam nói chúng “không có nguồn gốc rõ ràng, không chính xác và được Trung Quốc diễn giải một cách tùy tiện”.

“Các ghi chép lịch sử cho thấy Trung Quốc hiểu rằng chủ quyền của họ chưa bao giờ có quần đảo Hoàng Sa,” phía Việt Nam nhấn mạnh.

“Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không nhắc gì đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa”

Văn bản của Việt Nam cũng bác bỏ những tư liệu gần đây được Trung Quốc dẫn ra để nói Việt Nam từng công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.

Việt Nam nói Trung Quốc “cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện dẫn Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và một số tài liệu, ấn phẩm được xuất bản ở Việt Nam trước năm 1975”.

“Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không nhắc gì đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa,” văn bản nói.

Việt Nam cũng nhấn mạnh vào tháng 9 năm 1975, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nói với lãnh đạo Việt Nam Lê Duẩn tại Bắc Kinh rằng “với nguyên tắc thông qua Hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng, sau này hai nước sẽ bàn bạc giải quyết”.

Việt Nam cho rằng đây là bằng chứng Trung Quốc nhận thức được “vấn đề chủ quyền không được dàn xếp có lợi cho phía Trung Quốc qua các phát biểu hay thỏa thuận trước đây”.

Gần đây các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, từ Tổng Bí thư đến Thủ tướng, đều đề cập khả năng kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế vì vụ giàn khoan.

Nhà đấu tranh Lư Văn Bảy vừa mãn hạn tù

Nhà đấu tranh Lư Văn Bảy vừa mãn hạn tù

Tường An, thông tín viên RFA
2014-07-03

tuongan07032014.mp3

2681287-305.jpg

Ông Lư Văn Bảy tại phiên tòa ngày 22/8/2011 ở Kiên Giang.

Courtesy toaan.gov.vn

Ngày 26 tháng 6 vừa qua, lại có thêm một nhà hoạt động nữa vừa được trả tự do sau 4 năm tù. Đó là ông Lư Văn Bảy, Thông tín viên Tường An gửi những thông tin về nhà hoạt động này như sau:

Chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận

Cùng một ngày ra khỏi tù với nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh là một nhà đấu tranh thầm lặng ít được biết đến hơn, đó là ông Lư Văn Bảy. Ông được giảm án 2 lần = 9 tháng và ra tù ngày 26/6 vừa qua.

Sinh năm 1952, quê tại Kiên Giang, ông Lư Văn Bảy nguyên là chuyên viên kỹ thuật không quân trước năm 1975. Sau thời gian tù cải tạo, ông về quê làm ruộng. Tháng 9 năm 1977, ông tham gia “Mặt Trận Liên Tôn” bị bắt vào tháng 12 cùng năm đó, bị kết án 6 năm tù. Mãn hạn tù giam, ông trở về nhà vào tháng 9 năm 1983.

Những tưởng sẽ an bình với cuộc đời làm ruộng, nhưng rồi, bức xúc trước sự xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc trên lãnh hải Việt Nam, từ năm 2006 ông đã bắt đầu viết những bài viết dưới những bút hiệu khác nhau như: Chánh Trung, Nguyền Hoàng, Hoàng Trung Việt, Hoàng Trung Chánh… gửi đến các mạng truyền thông nước ngoài, có những bài ông gửi thẳng cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Lê Công Phụng, cho Quân đội Nhân dân Việt Nam hoặc cho ông Nguyễn Cao Kỳ. Ông cho biết lý do thôi thúc ông, từ một người nông dân chỉ quen với ruộng vườn trở thành tác giả của những bài viết với chủ đề nhạy cảm như: dân chủ đa nguyên, chủ quyền lãnh hải…v.v

Tôi viết những bài, trước nhất là để lên án Trung Quốc đồng thời phản đối chính quyền Việt Nam quá mềm yếu đối với Trung Quốc.
-Lư Văn Bảy

“Tình cờ tôi đọc được trong một cuốn sách “Sự thật về chiến tranh biên giới năm 1979” do đó tôi được biết được những cảnh tàn ác của Trung Quốc, do đó lòng yêu nước của tôi, lòng thương dân tộc của tôi trỗi dậy. Tiếp theo đó là tôi coi được đoạn phim về đảo Gạc Ma, nó ngang nhiên chiếm năm 1988 và tôi cũng đã nhìn thấy cảnh 64 chiến sĩ hải quân ở đó, nó dàn hàng ngang nó bắn từng người. Còn trong nước thì hàng hoá của Trung Quốc là chất độc mà biểu tình thì không được, lên tiếng nói Trung Quốc cũng không được. Do tự do ngôn luận của tôi, tôi mới viết những bài, trước nhất là để lên án Trung Quốc đồng thời phản đối chính quyền Việt Nam quá mềm yếu đối với Trung Quốc.”

Tháng 1 năm 2008, ông bị công an tịch thu máy tính với nhiều bài vở. Sau đó ông được thả với lời hứa sẽ không viết nữa. Tuy nhiên, một thời gian sau, bức xúc trước sự xâm lấn của Trung quốc và chính sách mềm yếu của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, ông lại tiếp tục viết dưới bút hiệu khác là Trần Bảo Việt với nội dung kêu gọi một nền Dân chủ đa nguyên, lên án Trung Quốc xâm lược, xin chút tình thương cho Người tù xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, người tù Trương Văn Sương… Về nội dung của những bài viết này, ông khẳng định:

“Tôi chỉ viết ra những bài về nền Dân chủ Đa nguyên thôi chứ tôi không chủ trương lật đổ chính quyền, tôi cũng không chủ trương chống đối chính quyền gì hết mà tôi chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận theo điều 69 của tôi là thực hiện một chế độ đa nguyên để đất nước có một sự đoàn kết toàn dân, nhưng mà chuyện thực hiện đa nguyên bây giờ ở Việt Nam lại rơi vào điều 88 là tuyên truyền chống nhà nước.”

Không muốn đất nước bị lệ thuộc

Lu-van-Bay-tranh-cua-hoa-si-Tran-Thuc-Lan-250.jpg

Chân dung tù nhân lương tâm Lư Văn Bảy qua nét vẽ của hoạ sĩ Trần Lân – Paris. Courtesy Hoạ sĩ Trần Lân.

Ngày 26/3/2011 ông lại bị bắt và trong phiên tòa kéo dài nửa ngày tại tỉnh Kiên Giang ngày 22/8/2011, ông bị kết án 4 năm tù và 3 năm quản chế với tội danh “Truyền truyền chống nhà nước XHCNVN” theo điều 88 bộ luật hình sự Việt Nam. Ông bị Thẩm phán tòa án Kiên Giang buộc tội đã viết trên 10 bài kêu gọi đa nguyên đa đảng đăng trên các mạng truyền thông hải ngoại từ năm 2007 đến 2011. Mặc dù trước áp lực của tòa án, ông Bảy đã nhận việc mình làm là không đúng với luật pháp Việt Nam nhưng ông vẫn tin rằng việc lên tiếng cho một xã hội đa nguyên là phù hợp với điều 69 về Tự do Ngôn luận của pháp luật Việt Nam. Ông bày tỏ:

“Trước phiên tòa tôi cũng nói là tôi không quen biết bất cứ một ai, tôi cũng không tham gia bất cứ một tổ chức nào mà tôi chỉ thực hiện cái quyền tự do, cái quyền của một người công dân của tôi thôi. Trong phiên tòa đó thì họ nói là tôi “Truyền truyền chống nhà nước XHCNVN”, điều 88. Họ nói tôi viết những bài lên án như vậy tức là không đi đúng theo đường lối của nhà nước, nói xấu nhà nước. Trong lúc làm việc với công an điều tra, tôi nói rằng tôi chỉ thực hiện quyền 69, trong đó có quyền tự do ngôn luận, quyền tự do chính trị. Nhưng bây giờ bắt tôi vi phạm điều 88 thì tôi cũng chịu thôi tại vì tôi quá cô đơn, tôi không có ai bênh vực, tôi chỉ bộc phát cá nhân của mình thôi. Nhưng nói đúng ra, họ đối xử với tôi cũng đàng hoàng, có sao tôi nói vậy, tôi là một phật tử. Cái quan trọng của tôi, là một con người, tôi không muốn đất nước của mình phải bị lệ thuộc, nhất là lệ thuộc một bọn bá quyền Trung Quốc.”

Qua những bài viết của ông, người ta nhận thấy ở đó một con người luôn luôn đau đáu trước vận mệnh đất nước, một người yêu nước thầm lặng và chấp nhận trả giá cho lòng yêu nước đó bằng những ngày tù tội. Thân sinh ông chết trước ngày ông ra tù 3 tháng, hậu quả của 4 năm tù là một người vợ bệnh hoạn vì tần tảo nuôi ông trong những năm tháng bị giam cầm. Vẫn không ân hận về những việc đã làm, ông nói:

Trước phiên tòa tôi cũng nói là tôi không quen biết bất cứ một ai, tôi cũng không tham gia bất cứ một tổ chức nào mà tôi chỉ thực hiện cái quyền tự do, cái quyền của một người công dân.
-Lư Văn Bảy

“Hối hận thì tôi không hối hận đâu, nhưng mà bản án quá nặng, tại vì tôi không biết bất cứ một tổ chức nào hết mà tôi cũng không tham gia một tổ chức nào hết, cũng không ai xúi dục tôi hết mà tôi chỉ bộc phát cá nhân của tôi thôi, nhưng mà cái bộc phát cá nhân của tôi mà cái bản án này thì nó quá nặng. Đối với đất nước, đối với tổ quốc, đối với nhân dân thì tội không thẹn với lương tâm của mình. Bản án 4 năm tù, tôi thấy quá nặng đối với tôi, nhưng mà tôi cũng không ân hận vì tôi đã nói lên được tiếng nói của mình mặc dầu tiếng nói của tôi quá bé nhỏ, nó không đủ sức để cảm hoá ai hết, nhưng mà đối với đất nước tôi cũng chỉ làm được thế thôi, biết sao bây giờ !”

Sau 4 năm, tình thế hình như có nhiều thay đổi, đã có những lên tiếng mạnh mẽ hơn từ phía nhà cầm quyền, mặc dù vẫn còn những ngần ngại đâu đó. Những thông tin từ báo chí nhà nước đã cho ông một chút hy vọng:

“Khi tôi ra tù, tôi nói với mấy anh công an như thế này: Trước đây khi Trung Quốc lấn lướt chúng ta mà chính phủ có những hành động như bây giờ thì tôi không ở từ. Và bây giờ tôi hy vọng rằng tất cả những lời nói của ông Nguyễn Tấn Dũng, của chủ tịch nước Trương Tấn Sang và của tất cả những nhà lãnh đạo Việt Nam là đúng sự thật. Tôi rất mong rằng những lời nói của mấy ông này không phải là lời nói suông. Tôi hy vọng rằng những lời nói này sẽ biến thành sự thật, tôi rất mừng. Nhưng nếu những lời nói đó chỉ là những lời nói suông thì nói thật, tôi không biết những gì sẽ xảy ra…”

Khi mà mọi quyền uy chỉ tập trung vào một cá nhân, khi mà một nhóm độc tài lăm le đem quê hương ra làm miếng mồi để thủ lợi. Để được an toàn, người dân chỉ còn biết thể hiện lòng yêu nước trong những giấc mơ. Từ Kiên Giang, người chiến sĩ thầm lặng gửi đến quý thính giả đài Á châu Tự do một niềm ước vọng:

“Tôi xin cám ơn tất cả những người đã quan tâm đến tôi trong thời gian tôi ở tù, và tôi gửi đến tất cả quý khán thính giả của Đài Á Châu Tư Do những lời chúc tốt đẹp và tôi mong rằng đất nước Việt Nam của chúng ta thoát khoải sự xâm lăng của Trung Quốc.”

 

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2014-07-03

giaminh07042014.mp3

hnbdl0703.jpg

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.

Courtesy HNBĐLVN

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam là một tổ chức mới được hình thành và chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.

Một tiếng nói độc lập

Tiến sĩ Phạm  Chí Dũng, một trong những thành viên sáng lập, có cuộc nói chuyện với Đài Á Châu Tự Do về những thông tin liên quan hội này trong ngày chính thức ra đời. Trước hết ông cho biết:

TS Phạm Chí Dũng: Ngày hôm nay là một ngày vui và theo một số anh em thì đó là ngày lịch sử của Việt Nam vì lần đầu tiên Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam ra đời.

Có thể nói đây là một tiếng nói độc lập với công luận, độc lập với các hội đoàn dân sự. Có một sự thú vị, một sự ngạc nhiên thú vị, như anh Bùi Minh Quốc nói, là ngày thành lập Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam lại rơi đúng vào ngày 4 tháng 7- ngày của Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776, và điều đó quá xứng đáng cho tính chất độc lập của Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh chủ quyền quốc gia bị xâm phạm nghiêm trọng như thế này.

Gia Minh: Vừa qua đã có Hội Nhà Văn Độc Lập ra đời, nay có Hội Nhà Báo Độc Lập ra đời thì sẽ có những hoạt động khác với Hội Nhà Văn Độc Lập cũng như các tổ chức xã hội dân sự ra đời trong thời gian vừa qua như thế nào?

” Chúng tôi là một hội nghề nghiệp, và phục vụ cho các nhà báo, cũng như các cộng tác viên báo chí độc lập, và kể cả những nhà báo quốc doanh.
-TS Phạm Chí Dũng”

TS Phạm Chí Dũng: Chắc cũng có một số khác biệt nhất định. Trước hết chúng tôi là một hội nghề nghiệp, và phục vụ cho các nhà báo, cũng như các cộng tác viên báo chí độc lập, và kể cả những nhà báo quốc doanh muốn tham gia vào trong hội của chúng tôi.

Thứ hai chúng tôi hướng đến những hoạt động thực chất thay cho tính chất hình thức của những hội đoàn dân sự mà vẫn bị dư luận phàn nàn trong thời gian gần đây. Thực chất có nghĩa là chúng tôi sẽ hướng đến những hoạt động cụ thể như tạo ra diễn đàn tự do ngôn luận cho các hội viên. Diễn đàn này sẽ được thể hiện bằng các cuộc tọa đàm, hội thảo, hội nghị liên quan đến một số chủ đề và vấn đề nóng bỏng của đất nước như luật lập hội, luật biểu tình, luật trưng cầu dân ý, và một số vấn đề khác liên quan đến vấn đề thời sự rất nóng bỏng trong tình hình hiện nay là vấn đề truyền thông và vấn đề thoát Trung.

Hoạt động thứ hai là chúng tôi phải có ngay một trang báo để phục vụ cho nhu cầu của độc giả; và chúng tôi kỳ vọng trong 10 năm, nó phải trở thành một tờ báo có đẳng cấp quốc tế trong khu vực Đông Nam Á và ít nhất có thể sánh ngang với tờ Bangkok Post và có thể tiến lên so sánh với tờ  Strait Times của Singapore.

Đồng thời chúng tôi cũng tổ chức đào tạo cho các phóng viên trẻ vốn xuất thân từ giới blogger hiện nay. Đó là một hoạt động hết sức quan trọng vì đó là lớp kế thừa, kế cận cho lớp nhà báo lớn tuổi hiện nay.

pham-chi-dung-250.jpg

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, một trong những thành viên sáng lập trả lời phỏng vấn VRNs, tháng 7 năm 2014. Screen Capture.

Gia Minh: Để có thể trở thành tờ báo có thể so sánh với những tờ như Bangkok Post và Strait Times mà ông vừa mới nói, thì ai là người viết đóng góp cho tờ báo (của Hội Nhà báo Độc Lập)?

TS Phạm Chí Dũng: Hiện nay chúng tôi bắt đầu từ con số không tròn trĩnh, nhưng như anh biết để có thể tạo ra một tờ báo chuyên nghiệp và có đẳng cấp quốc tế thì phải có những cây viết và những nhà làm báo chuyên nghiệp. Mà muốn có những cây viết và những nhà làm báo chuyên nghiệp thì phải đào tạo. Có hai nguồn có thể tiếp sức cho Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam và trang báo độc lập này, chúng tôi hy vọng nhất là nguồn các tay viết có kinh nghiệm từ giới báo chí quốc doanh. Đó là những người viết mà theo chúng tôi là những người có trình độ, có năng lực, có nhu cầu để thể hiện nhưng chưa có nhu cầu để thể hiện. Và chúng tôi hy vọng trong thời gian tới họ có điều kiện để tham gia và để thể hiện trên trang báo độc lập này.

Thứ hai là nguồn đào tạo từ lớp trẻ. Đây là nguồn mà báo chí Việt Nam từ lề phải lẫn lề trái đều đang thiếu hụt trầm trọng và thậm chí đang bị khủng hoảng. Chúng tôi sẽ cố gắng đào tạo.

Thứ ba, chúng tôi cố gắng gửi những người trẻ được đào tạo đi nước ngoài để học hỏi dựa vào một số tổ chức phi chính phủ quốc tế về báo chí như Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, hay Tổ chức Bảo vệ Ký giả Quốc tế, hay Văn bút Quốc tế, hoặc Freedom House…

Chúng tôi hy vọng với tất cả những biện pháp, giải pháp như vậy, chúng tôi có thể làm cho tờ báo có tiếng nói không chỉ là tự do và độc lập mà còn nâng cao về mặt chuyên môn của nó và dần dần có thể vượt ra ngoài biên giới Việt Nam.

Không phân biệt thành phần hội viên

Gia Minh: Đó là những cây bút, như ông nói, ở trong nước. Hiện trên khắp thế giới có những người Việt Nam sinh sống, lâu nay có những người đã viết và có đưa bài lên mạng, vậy lực lượng đó có được sử dụng cho tờ báo của Hội Nhà Báo Độc Lập không?

” Theo điều lệ của hội không phân biệt người trong nước và người ngoài nước. Tất có thể trở thành hội viên, và chúng tôi dự kiến có thể xây dựng một vài chi hội của Hội Nhà báo Độc Lập VN ở nước ngoài.
-TS Phạm Chí Dũng”

TS Phạm Chí Dũng: Đó là những cây viết đáng giá nhưng chúng tôi không dám hy vọng họ tham gia vào hội một cách toàn phần. Có lẽ họ còn chờ chúng tôi hoạt động và chứng tỏ hiệu quả như thế nào. Tuy nhiên theo điều lệ của hội không phân biệt người trong nước và người ngoài nước. Tất có thể trở thành hội viên, và chúng tôi dự kiến có thể xây dựng một vài chi hội của Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam ở nước ngoài nếu có điều kiện. Cho tới nay đã có vài ba anh chị là nhà báo ở nước ngoài tham gia Hội Nhà báo Độc Lập. Chúng tôi hy vọng từ những người đó sẽ lan tỏa ra và sẽ thu hút một lực lượng cây viết hải ngoại đóng góp cho trang báo và cho Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam.

Gia Minh: Qua kinh nghiệm lâu nay, bao giờ có những trang web và đặc biệt bây giờ tờ báo tên Việt Nam Thời báo của Hội Nhà báo Độc lập ( Việt Nam) ra đời, đều bị sự đánh phá từ phía chính quyền; vậy hội có những biện pháp gì để có thể đưa tờ báo đến độc giả thường xuyên, không bị gián đoạn do những hoạt động đánh phá như thế?

TS Phạm Chí Dũng: Trong Ban lãnh đạo Hội đã giao cho nhà báo độc lập, linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh, Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn phụ trách về trang báo và cùng với anh Ngô Nhật Đăng, cũng là một nhà báo độc lập trị sự trang báo này.

Chúng tôi cũng đã tính tới những phương án kỹ thuật chặt chẽ và có mối quan hệ, liên hệ chặt chẽ với hệ thống Facebook. Và vấn đề kỹ thuật, nếu cần thiết thì anh có thể hỏi thêm linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh vì đây là người nắm chắc vấn đề kỹ thuật và làm sao bảo đảm trang báo không bị xâm nhập, không bị hack trong quá trình hoạt động và vẫn chó thể phục vụ được cho độc giả.

Gia Minh: Là một trong những thành viên của ban biên tập và thành viên của ban sáng lập Hội Nhà báo Độc lập, trong ngày ra mắt ông muốn nhắn gửi gi đến người đọc và người xem tại Việt Nam và trên thế giới?

TS Phạm Chí Dũng: Tôi chỉ xin nói ngắn gọn là chúng tôi sẽ cố gắng làm thế nào để Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam hoạt động một cách có thực chất và đại diện cho tiếng nói độc lập của báo giới Việt Nam, không chỉ trong nước mà còn quốc tế. Và làm thế nào để những hội viên của Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam trong tương lai không xa có thể và hoàn toàn có quyền tự hào rằng họ là những nhà báo độc lập đầu tiên của Việt Nam và có tiếng nói quốc tế, được quốc tế nể trọng.

Gia Minh: Cám ơn Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, một trong những thành viên khởi xướng Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam, trong ngày ra mắt có những chia sẻ với khán thính giả của Đài chúng tôi.

Việt Nam – Trung Quốc: Ai nợ ai?

Việt Nam – Trung Quốc: Ai nợ ai?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-07-02

07022014-vn-cn-who-own-oth.mp3

Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã phát biểu cho rằng“ mang ơn thì có cách trả ơn chứ không thể áp đặt”

Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã phát biểu cho rằng“ mang ơn thì có cách trả ơn chứ không thể áp đặt”

AFP

Một số người cho rằng VN mang ơn và nợ TQ. Tại cuộc gặp với cử tri ngày 26-6-2014, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã phát biểu cho rằng“ mang ơn thì có cách trả ơn chứ không thể áp đặt”. Nhận thức như thế có đúng hay không và thực chất của vấn đề này là gì? Anh Vũ cho biết thêm chi tiết.

Láng giềng thì có mang ơn thì không

Là hai nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có một quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm cho quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm.

Quan hệ VN-TQ luôn là chủ đề nóng bỏng trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam, cho dù thời đại nào cũng đều mang tính thời sự. Đặc biệt trong lịch sử cận đại, từ năm 1945 đến nay thì mối quan hệ giữa 2 quốc gia cộng sản cũng để lại không ít các vấn đề thăng trầm.

” Chúng ta không quên sự giúp đỡ của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến, nhưng mang ơn không có nghĩa là muốn áp đặt cái gì thì áp đặt

Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang”

Hiện nay, quan hệ Việt – Trung đang xấu đi một cách nhanh chóng, đặc biệt sau việc TQ đưa giàn khoan HD-981 vào sâu trong lãnh hải của VN. Nhất là khi phía TQ bạch hóa các tư liệu về quan hệ giữa hai nước liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và vu cáo rằng VN vong ơn bội nghĩa.

Tại cuộc gặp với cử tri ngày 26-6-2014, khi nói về quan hệ VN-TQ, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu cho rằng “Chúng ta không quên sự giúp đỡ của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến, nhưng mang ơn không có nghĩa là muốn áp đặt cái gì thì áp đặt”.

Bình luận về phát biểu của Chủ tịch Trương Tấn Sang, ông Khuất Duy Chiến một sĩ quan quân đội thuộc Binh đoàn 559 trong chiến tranh chống Mỹ, đã nghỉ hưu cho biết: ông hoàn toàn không tán đồng ý kiến của Chủ tịch Nước. Theo ông các nhà lãnh đạo Việt nam trong quá khứ đã mắc phải sai lầm khi biến VN thành nơi thử nghiệm và đối đầu giữa các thế lực quân sự quốc tế hàng đầu. Đây là cuộc chiến giữa ý thức hệ CS và ý thức hệ tự do dân chủ. Việc TQ ủng hộ và giúp đỡ VN không ngoài mục đích cổ vũ tình đoàn kết cộng sản quốc tế để chống kẻ thù chung.

” Trong chiến lược bành trướng xuống phía Nam của Chủ nghĩa CS, VN đã lĩnh vai trò tiền đồn của phe XHCN, do đó đối với nhân dân Việt Nam thì chính Trung Quốc nợ xương máu, nợ cả việc chia cắt đất nước

ông Khuất Duy Chiến”

Từ Ninh bình, ông Khuất Duy Chiến nói với chúng tôi:

“Trong chiến lược bành trướng xuống phía Nam của Chủ nghĩa CS, Việt nam đã lĩnh vai trò tiền đồn của phe XHCN, do đó đối với nhân dân Việt Nam thì chính Trung Quốc nợ xương máu, nợ cả việc chia cắt đất nước. Tất cả nằm trong phương châm “Đánh Mỹ tới người Việt nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Nên nhớ như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho phe XHCN, đánh cho cả Liên xô, Trung quốc”.”

Nói về sự giúp đỡ của TQ đối với cách mạng VN từ năm 1945 đến nay, ông Nguyễn Tường Thụy một cựu chiến binh ở Hà nội thấy rằng cuộc chiến tranh Việt nam (1955-1975) về bản chất là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, vì lúc đó VN tự xác định mình là tiền đồn XHCN. Do vậy chính quyền CS đã nhận được sự ủng hộ của các nước XHCN, nếu không có sự ủng hộ này thì VN không thể chiến thắng được.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến ý thức hệ của Chủ nghĩa Cộng sản, Trung quốc chỉ bỏ ra súng đạn đảng cộng sản Việt Nam bỏ người (1,2 triệu bộ đội hy sinh trong cuộc chiến ý thức hệ này)

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến ý thức hệ của Chủ nghĩa Cộng sản, Trung quốc chỉ bỏ ra súng đạn đảng cộng sản Việt Nam bỏ người (1,2 triệu bộ đội hy sinh trong cuộc chiến ý thức hệ này)

Ông Nguyễn Tường Thụy nói với chúng tôi:

“Tất cả những người lính Miền Bắc đi vào miền Nam lúc ấy thì tất cả trang bị từ đầu đến chân, quân trang quân dụng đều của TQ cả, còn Liên xô thì viện trợ các vũ khí hạng nặng. Tôi nghĩ rằng nếu như nợ TQ thì là Ban lãnh đạo Đảng CSVN nợ TQ chứ nhân dân VN thì không nợ TQ.”

Trong bài viết “Việt nam không mang ơn Trung quốc” của tác giả Vương Trí Dũng trên trang Bauxite gần đây, tác giả đã viết rằng “Ngay từ ban đầu lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam là vì lợi ích của chính Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không có lợi, lãnh đạo Trung quốc đã không giúp Việt Nam. Không phải tự nguyện hay do Việt Nam đề nghị, mà lãnh đạo Trung Quốc buộc phải giúp Việt Nam vì lợi ích sát sườn trực tiếp của chính Trung Quốc. Lãnh đạo Trung Quốc không phải tình cờ hay chỉ thông thường mà có chủ mưu sâu xa thâm độc trong lá bài giúp đỡ Việt Nam. Lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam chống Pháp và Mỹ không chỉ bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trước sự đe dọa của Pháp và Mỹ mà còn có mục đích chiếm đoạt thống trị Việt Nam.”

Trung Quốc nợ Việt Nam thì có…

Trả lời câu hỏi trong cuộc chiến tranh VN với sự chi viện rất lớn của TQ và các nước XHCN thì VN có nợ TQ hay không? Ông Khuất Duy Chiến thấy rằng sự giúp đỡ của TQ trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ là sự giúp đỡ dưới trách nhiệm của tình đoàn kết quốc tế vô sản. Mà thực chất là các bên với cùng mục đích chung để bành trướng ý thức hệ cộng sản trên toàn cầu, trên cơ sở sử dụng xương máu của người Việt để thực hiện ý đồ đó.

” Cái nợ của TQ đối với nhân dân VN là nợ máu và nợ lãnh thổ, nên không thể nói VN mang ơn TQ được. Nếu như ban lãnh đạo Đảng CSVN mang ơn thì đấy là chuyện của họ. Còn quan điểm của tôi là một công dân VN, là một người VN tôi không chấp nhận được điều này

Ông Nguyễn Tường Thụy”

Ông Khuất Duy Chiến nói với chúng tôi:

“Nói về nợ, thì Trung Quốc đã từng giúp Việt Nam lương thực, quân trang, quân dụng, vũ khí… trong chiến tranh chống Mỹ . Nhưng đó là họ làm nghĩa vụ quốc tế, dựa trên chiến lược của ý thức hệ của Chủ nghĩa Cộng sản, với mong muốn nhuộm đỏ toàn thế giới. Chẳng qua là một bên bỏ sức người, một bên bỏ sức của thôi. Thử hỏi rằng nếu xét về người và của thì cái gì quý hơn?”

Ông Nguyễn Tường Thụy thấy rằng trong các cuộc chiến tranh kéo dài đã có khoảng 4-5 triệu người VN của cả hai bên đã chết trong các cuộc chiến này mà không thể tiền bạc nào trả nổi. Đúng ra TQ phải mang ơn VN đã dùng xương máu của từng ấy triệu người chiến đấu cho việc lan tỏa của Chủ nghĩa CS. Cái nợ đó là nợ bằng máu của người VN, mà theo ông VN chằng có gì phải mang ơn TQ. Đó là chưa kể đến việc TQ đã lợi dụng để bành trướng về lãnh thổ, lãnh hải cụ thể là Bãi Tục lãm và Quần đảo Hoàng sa, đảo Gạc ma… của VN.

Ông Nguyễn Tường Thụy nói với chúng tôi:

“Cái nợ của TQ đối với nhân dân VN là nợ máu và nợ lãnh thổ, nên không thể nói VN mang ơn TQ được. Nếu như ban lãnh đạo Đảng CSVN mang ơn thì đấy là chuyện của họ. Còn quan điểm của tôi là một công dân VN, là một người VN tôi không chấp nhận được điều này”.

Tư duy cùng chung ý thức hệ cộng sản và chuyện ‘ơn nghĩa’ giữa hai đảng đang khiến cho chính quyền Hà Nội chưa thể đưa ra biện pháp dứt khoát, rõ ràng trong việc giải quyết căng thẳng Trung Quốc xâm chiếm Biển Đông như hiện nay.

Trại giam giết tù nhân bằng HIV?

Trại giam giết tù nhân bằng HIV?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
02-July-2014

maclam07022014.mp3

tri-tu-305.jpg

Hai anh Huỳnh Anh Tú (trái) và Huỳnh Anh Trí.

File photo

Anh Huỳnh Anh Trí, người tù nhân lương tâm bị cáo buộc âm mưu lật đổ chính quyền bị giam trong suốt 14 năm sau khi ra tù được bệnh viện xác nhận là đã nhiễm HIV và đang trong giai đoạn chuyển sang AIDS. Mặc Lâm tìm hiểu câu chuyện qua người anh ruột của anh Trí là Huỳnh Anh Tú, cũng bị bắt giam chung với em mình trong suốt 14 năm qua, chứng kiến và tường thuật lại kinh nghiệm của hai anh em.

Luật bất thành văn

Tù nhân tại Việt Nam bất kể phạm tội hình sự hay chính trị đều biết rằng tình trạng y tế của họ luôn là vấn đề lo lắng đầu tiên khi bị bắt giam. Thiếu phương tiện y tế trong trại giam và việc người bệnh được chuyển tới những bệnh viện gần nhất luôn gặp khó khăn không phải do thiếu phương tiện nhưng lý do chính là quản giáo luôn tỏ ra khắc khe với những gì mà người tù cần tới.

Người tù bị vô số luật lệ thành văn như Nội quy trại giam và luật bất thành văn do quản giáo và trật tự trại giam bắt người tù phải tự hiểu và thi hành.

” Từ năm 2002 tới năm 2004 họ bắt buộc chúng tôi cạo chung một con dao cạo, khoảng 100 người trong suốt hai năm trời thì khả năng lây nhiễm rất là cao.
-Huỳnh Anh Tú “

Những luật bất thành văn ấy đôi khi khó biết là bị lạm dụng để áp đảo người tù do quản giáo đưa ra, chẳng hạn như dựa vào nội quy trại giam cấm mang các vật bén nhọn vào buồng giam để buộc hàng trăm phạm nhân dùng chung một lưỡi dao cạo là điều đã và đang xảy ra trên hầu hết các trại giam khắp nước.

Hậu quả khôn lường của việc này là những cái chết oan ức của không biết bao nhiêu phạm nhân từ trước tới nay. Họ âm thầm chết và âm thầm được chôn cất mà thân nhân không bao giờ biết tới lý do.

Câu chuyện về sự vô trách nhiệm này đang xảy ra cụ thể cho tù nhân Huỳnh Anh Trí, người tù nhân vừa ra trại sau 14 năm giam giữ đã bàng hoàng khi cầm giấy xét nghiệm máu do viện Pasteur cấp cho biết mình bị nhiễm HIV. Khi nghe chúng tôi gọi hỏi thăm, mặc dù nghe được điện thoại nhưng do sức khỏe quá suy kiệt anh chỉ thều thào được vài chữ:

truoc-cua-nha-250.jpg

Chị Bùi Hằng cùng anh Huỳnh Anh Tú (trái) và Huỳnh Anh Trí chụp trước cửa nhà chị Hằng. Hình do chị Bùi Hằng gửi RFA.

“Bị cùm. Cùm… cùm… anh nói chuyện với anh Huỳnh Anh Tú đi tôi mệt quá nói không nổi.”

Trước đây ít lâu chúng tôi có dịp phỏng vấn anh Huỳnh Anh Trí nhiều lần và được biết anh rất khỏe mạnh mặc dù hàng ngày đều phải đối phó với những vấn đề nan giải sau khi ra tù.

HIV được lây qua đường tình dục và đường máu. Khả năng lây qua đường tình dục không thể tính tới vì trong vòng 14 năm ấy không có một sự liên hệ nào với phụ nữ khi anh Trí bị giam chung với hàng trăm phạm nhân khác. Vấn đề còn lại chỉ có thể xem xét là lây nhiễm qua máu, khả năng thông thường cho bệnh nhân HIV nếu họ dùng chung kim tiêm hay sơ suất khi để dính máu người mang bệnh.

Cố ý giết người?

Khi biết anh Trí đã có kết quả xét nghiệm chúng tôi hỏi người anh của Trí là anh Huỳnh Anh Tú và được cho biết:

“Bệnh viện Pasteur cũng đã xét nghiệm rồi là Anh Trí đã nhiễm HIV và đang trong thời kỷ chuyển sang AIDS. Chúng tôi có hai giả thiết là từ năm 2002 tới năm 2004 họ bắt buộc chúng tôi cạo chung một con dao cạo, khoảng 100 người trong suốt hai năm trời thì khả năng lây nhiễm rất là cao. Một nguyên nhân nữa có thể do bị cùm. Lúc đó nó có hai loại cùm một loại cùm sạch và một loại cùm dơ.

” Trong suốt hai năm đó hàng loạt người đã bị nhiễm HIV và đã chết, tính ra đã 13-14 người. Có người thụ án đã hơn 10 năm mà vẫn bị nhiễm HIV chết trong tù.
-Huỳnh Anh Tú “

Cùm dơ là những anh em thường phạm họ bị cùm, bị lở loét và dính máu trong đó. Nói chung nếu anh không biết đút lót thì anh sẽ bị lây nhiễm vì sau một hai tuần anh sẽ lở loét như những người trước.”

Lời kể của Huỳnh Anh Tú cho thấy lý do nhiều tù nhân nhiễm bệnh là có thể hiểu được. Để rõ ràng và chi tiết hơn anh Tú cho biết:

“Năm 2002 thì ông giám thị trưởng ở trại giam K3 Xuân Lộc tên là Lại Xuân Hùng ổng lấy cớ nội quy đã cấm không cho phạm nhân không được đem đồ sắc bén, nhọn vào buồng giam luôn cả lưỡi lam cũng không. Ông ta bắt buộc mọi người hớt tóc cạo râu chung bằng một lưỡi dao cạo. Trong suốt hai năm anh em chúng tôi cạo chung nhưng cũng có người chống đối như tôi chẳng hạn. Tôi lén lút giấu nhưng thỉnh thoảng cũng bị lập biên bản kỷ luật

Trong suốt hai năm đó hàng loạt người đã bị nhiễm HIV và đã chết, tính ra đã 13-14 người. Có người thụ án đã hơn 10 năm mà vẫn bị nhiễm HIV chết trong tù. Theo tôi biết đây là một âm mưu nhằm tiêu diệt những người bất đồng chính kiến bằng cách cho lây nhiễm HIV.

Riêng về cùm sạch hay cùm dơ thì nhiều người phải ngã giá để được mang cùm sạch tức là cùm không dính máu của tù nhân và sau đó phải trả tiền cho cai tù. Nếu anh em nào cứng đầu thì chắc chắn sẽ bị dính cùm dơ.”

Hai anh em Huỳnh Anh Tú sanh năm 1968 và Huỳnh Anh Trí sanh năm 1971 bị bắt giam từ năm 1999 cho tới năm 2013. Sau khi được trả tự do cả hai người đều không có nơi để tạm trú cuối cùng nhờ nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn giúp đỡ và hiện đang rất khó khăn nhất là anh Huỳnh Anh Trí nhận thêm căn bệnh thế kỷ mà chính anh không hề hay biết.

Ân xá Quốc tế yêu cầu VN phóng thích tù nhân lương tâm

Ân xá Quốc tế yêu cầu VN phóng thích tù nhân lương tâm

Nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh.

Nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh.

01.07.2014

Hội Ân xá Quốc tế cho biết việc tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh được thả khỏi nhà tù trước thời hạn là một bước tích cực, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây cần phải thực hiện những bước tiếp theo để thả mấy mươi nhân vật tranh đấu ôn hòa vẫn còn bị giam cầm.

Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, 28 tuổi, đã được thả hôm 26 tháng 6, sau khi bị tuyên án 7 năm tù vào năm 2010 về tội gọi là “tuyên truyền chống nhà nước.” Cô đã bị bắt sau khi phát truyền đơn để bày tỏ ủng hộ cho việc công nhân đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc.

Trong thông cáo phổ biến hôm thứ hai, 30 tháng 6, tổ chức nhân quyền quốc tế này trích lời ông Rupert Abbott, Phó Giám đốc bộ phận Á châu Thái bình dương, nói rằng “Dĩ nhiên là chúng tôi vui mừng trước việc cô Đỗ Thị Minh Hạnh được thả, nhưng lẽ ra chính quyền không nên giam cầm cô ấy ngay từ lúc đầu. Tuyên án 7 năm tù cho một người phân phát truyền đơn là một việc hết sức vô lý và là một chứng cớ đáng buồn của sự đàn áp của nhà cầm quyền đối với những người bất đồng chính kiến.”

Ông Abbott nói thêm rằng giới hữu trách Việt Nam giờ đây cần phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho tất cả những người còn bị giam cầm vì hành sử một cách ôn hòa các quyền con người của mình.

Một số tù nhân lương tâm khác ở Việt Nam đã được thả trong vài tháng qua, trong đó có Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, nhà tranh đấu dân chủ Nguyễn Tiến Trung, nhà văn Vi Đức Hồi và nhà giáo Đinh Đăng Định. Ông Định đã qua đời không lâu sau khi ra khỏi tù.

Theo thông cáo của Hội Ân xá Quốc tế, ngoài cô Đỗ Thị Minh Hạnh, còn có ít nhất 4 phụ nữ khác –là Hồ Thị Bích Khương, Tạ Phong Tần, Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Trần Thị Thúy, đang bị cầm tù về tội gọi là tuyên truyền chống nhà nước, một tội danh mơ hồ mà Hà Nội lâu nay vẫn thường dùng để đàn áp những nhân vật tranh đấu ôn hòa.

Nguồn: Amnesty International’s PR/Nguoi Viet Online

 

‘Tôi sẽ tiếp tục con đường mình đã chọn’

‘Tôi sẽ tiếp tục con đường mình đã chọn’

Thứ ba, 1 tháng 7, 2014

BBC


 

Bà Hạnh được trả tự do hôm 26/6

Nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh khẳng định sẽ tiếp tục con đường đấu tranh của mình, trong lúc Ân xá Quốc tế gọi quyết định trả tự do cho bà là một ‘bước đi tích cực’.

Bà Hạnh bị tuyên án 7 năm tù hồi năm 2010 vì hành vi “xúi giục” công nhân một nhà máy giày ở Trà Vinh đình công.

Bà được trả tự do hôm 26/6 sau khi nhận quyết định ‘đặc xá’.

Trả lời BBC ngày 1/7, bà Hạnh khẳng định đã được phóng thích ‘vô điều kiện’.

“Giấy xác nhận đặc xá không nêu lý do vì sao tôi được trả tự do,” bà cho biết.

“Họ nói là không hề có điều kiện nào cả”.

Khi được hỏi về điều kiện giam giữ, bà cho biết những năm qua đã bị một số trại giam “đánh đập, sử dụng bạo lực”.

“Nhà tù cộng sản Việt Nam vô cùng mất nhân đạo, đặc biệt là đối với những tù nhân chính trị, và tôi chỉ là một trong những người bị đối xử tàn bạo như vậy,” bà nói.

‘Không dừng lại’

Bà Hạnh, sinh năm 1985, bị bắt giữ hồi đầu năm 2010 cùng với hai người khác là các ông Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương.

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Cả ba bị cáo buộc “xúi giục” công nhân của một công ty giày da tỉnh Trà Vinh tổ chức đình công.

Tòa sơ thẩm ngày 26/10/2010 tuyên án ông Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù giam, bà Đỗ Thị Minh Hạnh và ông Đoàn Huy Chương 7 năm tù giam vì tội ‘Phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân’ theo Điều 89 Bộ Luật Hình sự.

Tòa phúc thẩm tỉnh Trà Vinh sau đó quyết định y án đối với cả ba nhà hoạt động trong phiên tòa ngày 18/03.

“Thực sự tôi cảm thấy rất lo lắng cho cả hai anh”, bà Hạnh nói.

“Tuy nhiên, việc được trả tự do cũng nhóm lên cho tôi hy vọng rằng các anh sẽ sớm được chính phủ xem xét để trao trả tự do. Không những hai anh mà còn các tù nhân chính trị khác nữa.”

Bà cũng khẳng định những năm ở trong tù không làm bà thay đổi con đường mình đã chọn.

“Trước khi tôi được biết mình đặc xá, có hai người giấu tên của Bộ Công an xuống trại giam gặp tôi và đe dọa ‘nếu tiếp tục con đường này thì biết hậu quả xảy ra sẽ thế nào rồi đấy’.”

“Những tôi không bao giờ dừng lại trên con đường mình đã chọn. Vì nó đã ăn sâu vào trong máu, trong tim tôi.”

“Tuy nhiên, tôi cần có thời gian để thu thập, học hỏi những thông tin đã bỏ lỡ trong thời gian bị cầm tù để có định hướng chính xác nhất cho con đường của mình, nhằm góp phần xây dựng quê hương đất nước.”

‘Bước đi tích cực’

Nhiều nhà hoạt động vẫn đang bị giam giữ tại Việt Nam

Trong một tuyên bố ngày 30/6, tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế gọi quyết định trả tự do cho bà Hạnh là một ‘bước đi tích cực’.

Tuy nhiên, tổ chức này cũng nhấn mạnh nhà cầm quyền Việt Nam cần “tiếp tục trả tự do cho nhiều nhà hoạt động ôn hòa khác đang bi giam giữ”.

“Chúng tôi tất nhiên là phấn khởi trước việc trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh. Tuy nhiên việc bắt giữ bà lẽ ra không nên có ngay từ đầu,” ông Rupert Abbott, Phó giám đốc của Ân xá Quốc tế tại châu Á Thái Bình Dương nói.

“Thật quái gở khi một người bị tuyên án 7 năm tù vì rải truyền tờ rơi. Đó là một minh chứng đáng buồn về hành động đàn áp tiếng nói bất đồng đã có từ lâu nay của chính quyền Việt Nam.”

“Nhà cầm quyền cần tiếp tục trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho tất cả những người bị giam giữ chỉ vì đã thực thi quyền con người của mình một cách ôn hòa.”

Ông Abbott cũng kêu gọi Hà Nội “hủy bỏ những đạo luật hà khắc mà họ đang sử dụng để trừng phạt những tiếng nói bất đồng ôn hòa”.

“Chỉ sau khi chính quyền trả tự do cho những người mà họ đã cầm tù chỉ vì cất lên tiếng nói riêng, đất nước này mới có thể bắt đầu gỡ bỏ những tai tiếng của một trong những quốc gia đàn áp quyền tự do biểu đạt tồi tệ nhất Đông Nam Á,” tuyên bố của Ân xá Quốc tế nói.

 

Mệnh lệnh từ Quảng Đông?

Mệnh lệnh từ Quảng Đông?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-30

06302014-quangdong-kh.mp3

truongtansang-305.jpg

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp ông Hồ Xuân Hoa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông, Trung Quốc tại Phủ Chủ Tịch hôm 14/4/2014

Courtesy of truongtansang.net

Giữa lúc tình hình biển Đông đang căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc xung quanh việc giàn khoan dầu của Trung Quốc được hạ đặt trong thềm lục địa Việt Nam, một công văn đến từ bộ ngoại giao Việt Nam đề ngày 3/6/2014 gửi cho một số cơ quan, bộ, tỉnh và thành phố trong nước được tiết lộ.

Nội dung của công văn này đề cập đến chuyến làm việc tại Việt Nam của ông Hồ Xuân Hoa, bí thư đảng cộng sản Trung Quốc tỉnh Quảng Đông vào tháng tư năm 2014. Theo công văn này thì sau chuyến làm việc ở Việt Nam ông Hồ Xuân Hoa có gửi cho Bộ ngoại giao Việt Nam một công văn đề ngày 25/4/2014, tức là 3 tuần sau khi giàn khoan Trung Quốc được kéo vào thềm lục địa Việt Nam.

Nguyên văn đọc được trong công văn của Bộ ngoại giao Việt Nam như sau:

Ngày 20/5/2014, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc gửi Bộ Ngoại giao bản Danh mục các công việc cần làm sau chuyến thăm Việt Nam của Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (13 -17/4/2014).

Hai mục đầu tiên trong danh sách những việc cần làm này là thúc đẩy những người đứng đầu đảng cộng sản tại Hà nội và TP HCM sang thăm Quảng Đông, và xúc tiến đào tạo cán bộ cộng sản cho đảng cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc.

Theo những lời bình phẩm từ các trang mạng có đăng tờ công văn này thì lời lẽ được dùng ở đây không mang tính chất ngoại giao mà mang tính chất một chỉ thị của cấp trên, và trong trường hợp này là chỉ thị của bí thư đảng tỉnh Quảng Đông cho Bộ ngoại giao nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Anh Văn, một cựu đảng viên đảng cộng sản, hiện sống ở Nha Trang cho biết ý kiến của anh:

“ Nếu đó là sự thật thì quan điểm của tôi là không đồng tình. Rõ ràng mang tính chất bắt tay quá trong tình hình nóng như thế này.”

Anh cho biết thêm là chuyện quan hệ giữa hai đảng cộng sản từ trước tới nay là chuyện bình thường.

“…cười…tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam từ trước đến nay rất mật thiết, họ giúp đỡ nhau trong việc xây dựng lực lượng, đào tạo cán bộ.”

Một cựu đảng viên khác, dạy học tại TP HCM nói:

Lúc này họ phải công khai công văn này với những cán bộ công chức ở TP HCM. Khi thấy công văn đó, tôi có cảm giác về những ngày cuối của chính quyền này.”

Không phải ai ở Việt Nam cũng quan tâm đến những vấn đề có liên quan về chính trị. Một nữ họa sĩ trẻ tại Hà nội nói rằng chị chưa nghe đến việc này, và cũng có nhiều nguwofi như chị không quan tâm đến chính trị, sở dĩ có việc đó là vì người ta thấy rằng chuyện quan tâm không đem lại thay đổi gì.

Trước nay họ vẫn được tập luyện là không nên quan tâm, còn bây giờ tới mức này rồi thì họ cũng chỉ quan tâm đến mức độ ở quán bia thôi. Rất đáng buồn là như thế.”

Chị cho rằng sự quan tâm đến thời sự của cư dân Việt Nam hiện nay là ở thành phố lớn, còn ở nông thôn thì người dân không quan tâm gì.

Một người đàn ông tuổi trung niên ở TP HCM cho biết:

Tình hình hai nước căng thẳng mấy tháng vừa qua thực ra là căng thẳng lâu lắm rồi. Tình trạng bắn giết ngư dân đã từ lâu rồi. Nay lại thêm cái giàn khoan. Thực sự cái giàn khoan đó là cái bung xung thế thôi. Hai bên chính phủ chắc nói với nhau hết rồi, không có gì lạ. Còn bây giờ cái chuyện đi qua Quảng Đông thì đi để làm gì? Để làm phiên thuộc hay là nghe chỉ thị? Hay thực sự làm đối tác, hay đối tác kiểu gì?”

Sự tiết lộ công văn trên đây của Bộ ngoai giao lại cũng làm nhiều người liên tưởng đến công hàm Phạm Văn Đồng hồi năm 1958, rằng có quá nhiều vấn đề trong quan hệ giữa hai Quốc gia cộng sản bị giấu diếm.

Người hoạ sĩ trẻ ở Hà nội nói tiếp:

Có quá nhiều sự bị bưng bít. Những lợi ích giữa những nhóm giữa hai đảng thì người ta không cho người dân biết. Ví dụ như cái công hàm Phạm Văn Đồng thì cho đến gần đây người dân mới được biết nhiều hơn.”

Trao đổi với chúng tôi cách đây không lâu Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, một nhà bất đồng chính kiến trong nước có nói rằng quan hệ giữa hai Quốc gia cộng sản thực ra chỉ là quan hệ giữa hai đảng cộng sản mà thôi.

Và người đàn ông trung trung niên ở thành phố Hồ Chí Minh nói rằng những việc xảy ra gần đây cho thấy rằng đảng cộng sản Việt Nam không phải đi đồng hành cùng dân tộc.

Mới đây, chủ tịch nước Trương Tấn Sang có nói rằng việc Việt Nam được Trung Quốc giúp đỡ trước đây thì Việt Nam sẽ mang ơn nhưng Trung Quốc đừng áp đạt. Không rõ chủ tịch nước sẽ nói gì nếu như được hỏi về nội dung của công văn Bộ ngoại giao về những việc mà các cơ quan tỉnh thành Việt Nam phải làm này.