Hàng trăm người dân Hà Nội tiếp tục tuần hành đòi minh bạch việc chặt cây

Hàng trăm người dân Hà Nội tiếp tục tuần hành đòi minh bạch việc chặt cây

– Tin nổi bật, Tin Việt Nam

VRNs (13.4.2015)– Hà Nội – Sáng Chúa nhật 12/4 vừa qua, hàng trăm người dân Hà Nội tiếp tục tuần hành yêu cầu chính quyền thủ đô minh bạch dự án chặt và thay thế 6.700 cây xanh trong 3 năm (2015-2017).

Đây là lần thứ 4 người dân Hà Nội xuống đường tuần hành, sau khi giới chức thủ đô cho chặt và thay thế cùng lúc hàng trăm cây xanh hồi tháng 3/2015.

Tuy nhiên số người tham gia sự kiện có sự giảm sút so với lần trước. Những người tham gia tuần hành nói hôm 12/4, có gần 200 người tham dự, trong khi cuộc tuần hành 29/3 có tới gần 1000 người tham dự.

Việc chặt hạ cây xanh vừa qua đã vấp phải nhiều ý kiến trái chiều từ nhiều nhà khoa học, trí thức với câu hỏi “Có nơi nào duy tu bảo trì cây xanh bằng cách chặt hàng loạt?.” Đồng thời, cũng có ý kiến cho rằng chính quyền không tham vấn ý kiến người dân và các nhà khoa học khiến vụ việc trở nên thiếu minh bạch.

Trong một diễn biến khác, một nhóm luật sư đã kêu gọi những người quan tâm tham gia ký tên vào một văn bản, để yêu cầu chính quyền giải trình về vụ việc.

Người dân tuần hành phản đối việc chính quyền Hà Nội chặt cây xanh tại bờ hồ Hoàn Kiếm, sáng 12.4. Ảnh JB Nguyễn Hữu Vinh

Người dân tuần hành phản đối việc chính quyền Hà Nội chặt cây xanh tại bờ hồ Hoàn Kiếm, sáng 12.4. Ảnh JB Nguyễn Hữu Vinh

Dựa trên hiến pháp VN năm 2013, nhóm 5 luật sư này cho biết, “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận, kiến nghị” về các vấn đề trong xã hội.

Với các biểu ngữ “Tôi yêu cây”, “Cây yêu tôi”, “Yêu cầu minh bạch” v.v… đoàn người tuần hành xung quanh hồ Hoàn Kiếm, và đi tiếp một vòng nữa đến trước trụ sở UBND thành phố Hà Nội. Cũng có các tình nguyện viên theo sau để nhặt rác trên đường tuần hành.

Chính quyền thay đổi thái độ với các cuộc tuần hành?

Blogger Phạm Đoan Trang, một người tham gia tuần hành, nhận xét trên facebook cá nhân: “Cuộc tuần hành diễn ra rất tốt đẹp, khi tất cả mọi người tham dự đều giữ tinh thần ôn hòa, văn minh, lịch sự. Lực lượng công an, cảnh sát, dân phòng cũng đã cư xử theo hướng tôn trọng quyền tụ tập và biểu tình của người dân.”

Blogger này cũng cáo buộc lực lượng công quyền đã “ngăn chặn một số người từ sáng sớm để họ không ra Bờ Hồ [tuần hành]. Họ cũng liên tục gọi loa giục mọi người giải tán ‘để đảm bảo an ninh trật tự’.”

Tuy nhiên, blogger Đoan Trang ghi nhận “cách đối xử của lực lượng công quyền đối với người biểu tình đã khác rất nhiều” so với những năm trước và cho rằng, đây là “một sự thay đổi tốt từ phía chính quyền”.

Thái độ “của nhân viên công quyền về cơ bản là tốt đẹp. Tôi tin như vậy, cũng như tin chắc là nếu họ muốn giải tán đám đông, ngăn chặn mọi cuộc tụ tập, thì họ hoàn toàn có thể làm điều đó.”

Trong khi đó, blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, một người tham gia tuần hành khác lại nhận xét, với cách hành xử của lực lượng công quyền kể trên vẫn chưa thể khẳng định là chính quyền thay đổi thái độ với các cuộc tuần hành.

Ông Vinh nói đó là chỉ là những thay đổi ở bờ Hồ Gươm, trong khi “Tôi biết một số người vẫn bị chặn ở cửa ngõ, vẫn bị theo dõi, vẫn bị rất nhiều người lạ mặt vây quanh nhà.”

“Ngay cả bản thân tôi cũng vậy, tôi bị 5-6 người vây trước ngõ từ sớm. Rồi nhiều cuộc điện thoại và hành động không bình thường trong ngày hôm đấy. Rất nhiều người bị công an, cảnh sát vào nhà đe dọa.

Ông Vinh nói tiếp: “Duy nhất có điều thay đổi là khi người ta lên tuần hành ở bờ thì không có lực lượng còi hụ [như những lần trước], không có hiện tượng công an đi hàng loạt rồi làm ầm ĩ.”

“Điều này cũng dể hiểu thôi bởi vì họ nhìn thấy hiệu quả của việc thay đổi [cách ứng xử] như thế… Trong lúc người ta căm phẫn như vậy mà việc cố tình đưa những hành động [] sẽ làm kích thích sự việc mà thôi.”

Blogger này cũng cho rằng “cách hành xử [của lực lượng công quyền] như vậy tốt cho cả hai bên, những người diễu hành cũng cảm thấy rất hài lòng.”

“[Cuộc tuần hành] rất là tốt đẹp, thể hiện ý chí và nguyện vọng của người dân đối với môi trường, cây xanh. Mọi người rất đoàn kết và rất là ôn hòa. Không có những hành động quá khích, không có sự xô xát nào.”

Nhóm vận động tuần hành cho biết thêm, mục đích của sự kiện còn nhằm thể hiện tình yêu môi trường, ‘góp tiếng nói bảo vệ cây xanh Hà Nội’, kêu gọi các bên liên quan đến việc chặt cây phải chịu trách nhiệm pháp luật và không để xảy ra những sự việc tương tự.

Đức Thiện, VRNs tổng hợp

Giám đốc bệnh viện lập hồ sơ ma, tham ô $1.35 triệu

Giám đốc bệnh viện lập hồ sơ ma, tham ô $1.35 triệu

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) – Một ông giám đốc Bệnh Viện Bưu Điện, cùng hai trưởng phòng bị cáo buộc lập khống hơn 13,000 hồ sơ bệnh án để tham ô gần 28 tỷ đồng (khoảng $1.35 triệu) chia chác và bỏ túi riêng.

Bệnh Viện Đa Khoa Bưu Điện nổi tiếng tham ô và không cứu người. (Hình: Tiền Phong)

Hôm 12 tháng 4, 2015, báo Tiền Phong dẫn tin cho biết, ngày 10 tháng 4, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An đã kết thúc điều tra vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại bệnh viện Đa Khoa Bưu Điện (Bệnh Viện Bưu Điện)”, thuộc Tập Đoàn Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam (VNPT), có trụ sở chính tại quận 10, thành phố Sài Gòn.

Theo đó, cơ quan Cảnh Sát Điều Tra, Bộ Công An đề nghị truy tố ông Trương Anh Kiệt (56 tuổi), nguyên giám đốc Bệnh viện Bưu điện, cùng bà Trương Bích Nguyệt (52 tuổi), nguyên trưởng phòng tổng hợp và ông Phạm Văn Sửu (50 tuổi), nguyên trưởng phòng kế toán về tội danh “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.”

Theo phúc trình điều tra, Bệnh Viện Bưu Điện là đơn vị tự chủ về tài chính, nguồn thu chủ yếu từ viện phí, bảo hiểm y tế và kinh phí cấp hỗ trợ của VNPT. Trong quá trình quản lý, điều hành bệnh viện, ông Kiệt, bà Nguyệt, ông Sửu đã lợi dụng các đoàn cán bộ của đơn vị thuộc VNPT đến khám rồi về trong ngày để lập khống hồ sơ, kê khống ngày điều dưỡng, điều trị nội trú.

Theo nguồn tin trên, trong năm 2009, ông Kiệt ra lệnh cho Phòng Tài Chính kê khai “khống” số giường điều dưỡng nội trú là 120 giường, tương đương hơn 4,300 lượt người và gần 15,000 ngày điều trị. Tiếp đó, trong năm 2010-2011, ba bị can tiếp tục tổ chức lập “khống” hồ sơ về người điều trị nội trú, nhằm rút 11 tỷ đồng của VNPT đưa vào quỹ lương chia cho cán bộ bệnh viện. Trong số này, ông Kiệt hưởng hơn 110 triệu đồng, bà Nguyệt nhận hơn 73 triệu và Sửu gần 73 triệu đồng.

Tin cho hay, ông Kiệt thừa nhận sai phạm khi lập khống tổng cộng hơn 13,000 hồ sơ bệnh án điều dưỡng, điều trị nội trú với mục đích rút tiền hỗ trợ của VNPT sử dụng vào các hoạt động chung của bệnh viện, chi lương, tăng thu nhập cho cán bộ và bỏ túi riêng, với toàn bộ số hồ sơ quyết toán khống gần 28 tỷ đồng, trình VNPT phê duyệt.

Bà Nguyệt và ông Sửu được xác định biết việc làm của giám đốc là sai nhưng vẫn giúp sức thực hiện và làm theo lệnh cấp trên và nhằm trục lợi cá nhân. (Tr.N)

Các dự án nghi ăn hối lộ của nhà thầu Hàn Quốc bị thanh tra

Các dự án nghi ăn hối lộ của nhà thầu Hàn Quốc bị thanh tra

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Bộ Giao Thông Vận Tải CSVN loan báo ra lệnh “thanh tra đột xuất” một số dự án xây dựng hạ tầng có sự tham dự của nhà thầu Hàn Quốc Posco, đang bị điều tra hối lộ.

Cao tốc Nội Bài – Lào Cai được POSCO E&C thi công gói thầu số A1, A2, A3. (Hình: VNExpress)

Chuyện thanh tra của Bộ GTVT, theo tin tức, gồm đại diện của 6 cơ quan của bộ này như thanh tra của Bộ, Vụ Tài chính, Vụ Khoa học công nghệ, Cục Quản lý xây dựng và chất lượng công trình giao thông do một ông Phó chánh Thanh tra Bộ GTVN tên Lê Văn Doãn làm trưởng đoàn.

Tất cả các bộ ngành, các tỉnh thị trên cả nước đều có cơ quan thanh tra nhưng những vụ án tham nhũng hối lộ lớn tại Việt Nam chỉ đếm trên đầu ngón tay, dù tham nhũng hối lộ được mô tả là tràn lan từ trên xuống dưới. Các vụ án tham nhũng tại Việt Nam thường do nội bộ đấu đá nhau và do dân tố cáo, không phải do các cơ quan thanh tra khui ra.

Riêng trong ngành xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu, đường, trường học, nhà thương v.v…chỉ thấy các nước cấp viện điều tra và truy tố nhà thầu của nước họ, rồi chế độ Hà Nội bị áp lực phải bỏ tù một vài viên chức. Hà Nội chưa hề tự “thanh tra” thấy một quan tham nào ăn bẩn suốt bao năm qua từ các dự án nhận viện trợ giúp Việt Nam xóa đói giảm nghèo thường biết dưới tên tắt là ODA.

Cuối Tháng Hai vừa qua, báo chí Hàn Quốc cho hay, cuộc kiểm toán nội bộ của tập đoàn POSCO đã thấy chi nhánh POSCO E&C tham gia thầu xây dựng tại Việt Nam đã lập quỹ đen số tiền khoảng 10 tỉ won, hay khoảng $8.9 triệu mà họ tình nghi số tiền dùng để “lại quả” hay hối lộ cho các quan chức Việt Nam trong giai đoạn từ 2009 đến 2012.

Ngày 3 tháng Tư, 2015 vừa qua, báo chí Hàn Quốc nói, chính phủ nước này đang điều tra một loạt lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn POSCO cùng công ty con – Công ty Xây dựng POSCO (POSCO E&C) để điều tra về những khoản quỹ đen bí ẩn trong hoạt động của công ty tại Việt Nam. Cái số tiền “quỹ đen” nói trên được một số viên chức bị kỷ luật khai là “lại quả cho một số nhà thầu”.

Rất có thể các số tiền “lại quả” đó khi đến tay “các nhà thầu phụ” ở Việt Nam thì lại được nộp cho các quan chức Bộ Giao Thông Vận tải CSVN. Chính phủ Hàn Quốc tình nghi giá trúng thầu đã bị đội lên để có tiền hối lộ.

Hai dự án ODA lớn mà POSCO E&C trúng thầu giai đoạn đó là đường cao tốc Long Thành – Dầu Giây và đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai. Cả hai dự án xây dựng vừa kẻ do “Tổng công ty đường cao tốc Việt Nam” của Bộ GTVT làm chủ đầu tư.

Ông Nguyễn Hồng Trường, Thứ trưởng GTVT họp báo khoe rằng các dự án vừa kể được tổ chức đấu thầu quốc tế “theo đúng những quy định đề ra”.

Ông Trường gần đây bị tai tiếng ăn hối lộ của một nhà thầu hàng trăm triệu đồng rồi lại không để cho người ta trúng thầu. Người chủ tốn tiền mà “hụt thầu” là một phụ nữ đã công bố trên internet các tin nhắn qua lại giữa ông Nguyễn Hồng Trường và bà ta đòi tiền. Dù vậy, vụ việc được Bộ GTVT cho chìm xuồng.

Hiện chính phủ Nhật đang đòi chế độ Hà Nội trả lại số tiền đã giải ngân tư vấn thiết kế cho dự án đường sắt trên cao tại Hà Nội. Chính phủ Nhật đã kết tội một số viên chức nhà thầu JTC hối lộ cho quan chức Cục Đường Sắt CSVN số tiền khoảng $800,000. Nhưng hiện mới chỉ có một số ông của Cục vừa kể đang “bị điều tra”, chưa thấy kết luận ra sao. (TN)

Lãnh đạo CSVN không phải là người Việt

Lãnh đạo CSVN không phải là người Việt

FB Trần Trung Đạo

09-04-2015

Tháng 5 năm ngoái, khi Trung Cộng đưa giàn khoan HD-981 đến sát bờ biển Việt Nam, lãnh đạo CSVN phản đối. Không chỉ phản đối riêng tại Việt Nam mà họ còn xúi giục du học sinh VN tại các nước mang cờ CS biểu tình chống Trung Cộng.

Nhiều người nghĩ rằng CSVN phản đối vì Trung Cộng xâm phạm lãnh hải Việt Nam.

Không phải. Trung Cộng xâm phạm lãnh hải Việt Nam hàng trăm lần trước đó nhưng CSVN im lặng. CSVN phản đối chỉ vì lãnh đạo Trung Cộng đã làm nhục lãnh đạo CSVN một cách công khai, lộ liễu trước dư luận Việt Nam và quốc tế, vượt qua giới hạn của những thỏa thuận ngầm giữa hai đảng. Trung Cộng rút giàn khoan và sóng gió tạm ngưng.

Trong bài “Để thắng được Trung Cộng” viết ngày 18 tháng 5, 2014, khi sự kiện HDD-981 còn nóng bỏng, tôi có viết:

“Rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981 này, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Dân tộc Việt Nam lại bị đảng dắt đi vòng vòng trong ngõ cụt tối tăm như đã và đang đi suốt 39 năm qua.”

Thực tế đang diễn ra đúng như vậy. Tuần này, TBT Nguyễn Phú Trọng dẫn một phái đoàn đông đảo sang triều cống Trung Cộng và lập lại lời thề trung thành với đảng mẹ.

Nhưng không phải hôm nay thôi, mà từ 1990 (Hội nghị Thành Đô), 1958 (Công hàm Phạm Văn Đồng), 1954 (Hội nghị Geneva), 1950 (Trung Cộng là nước đầu tiên công nhận VNDCCH), 1946 (Liên Xô và Trung Cộng tổ chức huấn luyện cán bộ CSVN), và nhục nhã nhất, vào ngày 30-1-1950, Hồ Chí Minh, sau khi đi bộ 17 ngày, đến chính thức triều cống Trung Cộng và tháng Tư năm đó y cũng đã dâng cho Trung Cộng bốn yêu cầu trong đó có yêu cầu Trung Cộng gởi cố vấn quân sự sang Việt Nam.

Từ phái đoàn cố vấn chính trị đầu tiên do La Quý Ba cầm đầu cho đến 1973 có đến 320 ngàn quân Trung Cộng tham chiến tại Việt Nam dưới nhiều hình thức.

Quan hệ giữa Trung Cộng và CSVN được Chu Ân Lai ví như “cùng chung máu thịt”.

Máu thịt đây dĩ nhiên không phải là máu thịt của 74 anh hùng Hải Quân VNCH bảo vệ Hoàng Sa, không phải là máu thịt của 64 thanh niên Việt Nam bị thảm sát ở Trường Sa, không phải là máu thịt của hàng ngàn ngư dân Việt Nam đã chết dưới tay hải quân Trung Cộng suốt mấy chục năm qua, không phải là máu thịt của ba ngàn thanh niên Việt Nam bị thiêu xác ở Lão Sơn, không phải là máu thịt của nhiều chục ngàn thanh niên Việt Nam đã chết trong chiến tranh biên giới 1979, và không phải là máu thịt của một phần mười dân tộc Việt khắp ba miền đã chết vì tham vọng CS hóa Việt Nam của đảng CSVN và CS Quốc Tế.

“Cáo chết ba năm quay đầu về núi” nhưng lãnh đạo CSVN thì không. Lãnh đạo CSVN sẽ quay đầu về Trung Nam Hải, Bắc Kinh, vì chúng không phải là người Việt.

‘Không nên gọi 30/4 là ngày giải phóng’

‘Không nên gọi 30/4 là ngày giải phóng’

Nam Phong Gửi tới BBC từ Huế

  • 11 tháng 4 2015

Tôi sinh ra và lớn lên sau ngày 30/04. Trong khi phần lớn đất nước chìm trong khó khăn, hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, trong khi phần lớn người dân thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ trong giai đoạn 1980-1990, thì tôi đã sống một cuộc sống đầy đủ và sung túc, vì ông bà tôi là những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông tôi là một người chân thành và có niềm tin sâu sắc với lý tưởng cộng sản. Ông có một người chị ở phía bên kia, và sau này di tản sang Mỹ. Ông không bao giờ liên lạc với bà, và đó là nỗi ân hận lớn nhất trong những ngày cuối đời của ông.

Là một ‘hạt giống đỏ” tôi lớn lên với niềm tin chân thành về những gì được dạy dỗ, về lý tưởng cộng sản với hình mẫu Pavel Korchagin – Hình mẫu chuẩn mực cho mọi thiếu niên lớn lên dưới mái trường XHCN khi đó.

40 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa…bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước..vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.

Vì vậy, sự kiện 30/04 đối với tôi và các bạn tôi khi đó là một cái gì đó rất đẹp, rất anh hùng, cũng rất vẻ vang. Với thế hệ chúng tôi, Việt Nam đã đánh bại siêu cường số 1 thế giới làm “chấn động năm châu. rung chuyển địa cầu”.

Nhưng sau sự kiện bức tường Berlin, mẹ tôi trở về Việt Nam (vì là con của cán bộ cao cấp, mẹ tôi và các bác, cậu của tôi đều lần lượt học ở Đông Đức, Liên Xô, Bungari…).

Với những gì đã được chứng kiến ở nước Đức và Đông Âu, mẹ tôi không tán đồng quan điểm với ông tôi. Mẹ tôi từng kể với tôi rằng, những người bạn Đức của bà nói rằng ”Mỹ là những người bạn tốt, cả thế giới muốn chơi với nó mà người Việt Nam mày lại đuổi nó đi.”

Bà kể cho tôi về những người Đức cộng sản và không cộng sản khi thống nhất đất nước đã ôm hôn nhau như thế nào. Bà kể về những người lính biên phòng Đông Đức đã tự sát chứ nhất định không bắn vào những người phía Đông muốn chạy sang phái Tây như thế nào.

Đó là bước ngoặt trong suy nghĩ của tôi! Mỹ mà tốt à? Tại sao người ở phía Đông lại chạy sang phía Tây chứ không phải ngược lại? Thế giới của tôi bắt đầu có nhiều màu sắc hơn, không còn chỉ có hai màu, cộng sản và phản động nữa.

Những ngày tháng cuối cùng của chiến tranh chỉ là giao tranh giữa những người Việt (Trong ảnh là lính VNCH trong trận Xuân Lộc)

Tôi bắt đầu tìm đọc những tác phẩm viết về ngày 30/04/1975. Đọc những tác phẩm bị coi là “phản động” ở Việt Nam. Các tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Độ, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Gia Kiểng…

Thông tin từ những tác phẩm này đã khiến tôi mở to mắt. Ngày 30/04 làm gì còn người lĩnh Mỹ nào ở Sài Gòn. Vậy sao còn gọi là kháng chiến chống Mỹ? Sao có thể gọi là “giải phóng”?

Và tôi khóc thương cho số phận dân tộc Việt. Khóc thương cho hàng triệu người Việt ở cả hai phía đã ngã xuống trong cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”. Khóc thương cho cả triệu người Việt vĩnh viễn nằm lại gữa biển khơi.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Và tôi khóc thương cho lòng yêu nước nhiệt tình nhưng ngây thơ của người Việt đã bị các cường quốc lợi dụng. Đất nước trở thành bãi chiến trường. Người Việt trở thành sỹ tốt xung phong. Việt Nam thành bàn cờ, nhưng người chơi là người Nga, người Trung Quốc và người Mỹ không phải là người Việt. Một bên chiến đấu để “giải phóng” và “nhuộm đỏ thế giới”. Một bên chiến đấu để bảo vệ “thế giới tự do”.

“Đại thắng mùa xuân” và “giải phóng miền Nam”. Đât nước thành một đống đổ nát, hoang tàn. Trường Sơn thành một nghĩa trang khổng lồ.

Những người mẹ mất con. Khăn trắng trên đầu trẻ thơ. Và một hết thương hằn sâu trong lòng dân tộc. 40 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa…bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước… vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Một tượng đài nhỏ thôi, giản dị thôi nhưng tinh xảo. Và một nghĩa trang của những người lính ở cả hai phía cho thế hệ trẻ có thể tỏ lòng thành kính cho những người đã ngã xuống vì dân tộc. Hy vọng là như thế!

Còn thống nhất lãnh thổ mà không thống nhất được lòng người thì có ích gì? Nhất là khi phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp đang trỗi dậy. Bài học mất nước của Hồ Quý Ly còn đó.

Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Trần Văn Hương

Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Trần Văn Hương

Huy Phương/Người Việt

Nhân cuộc phỏng vấn tác giả Trần Văn nhân cuốn sách viết về cựu Trung Tướng Ðặng Văn Quang trên đài SBTN, chúng tôi đã nhận được điện thoại của ông Trần Văn Ðính, thứ nam của Cựu Tổng Thống Trần văn Hương, nhờ chúng tôi viết lại nhiều thông tin trên báo chí chưa rõ hay nói sai, kể lại những ngày cuối cùng của Cụ Trần Văn Hương tại Saigon cũng như câu chuyện liên quan đến Tướng Ðặng Văn Quang. Ông Trần Văn Ðính năm nay đã 87 tuổi, hiện sống tại Nam California, đã là phụ tá đặc biệt cho thân phụ ông trong nhiều năm, từ 1965-1975.

Cụ Trần văn Hương và cháu nội Trần Thủy Vân (1967- 1997)
con gái ông bà Trần Văn Ðính. (Hình gia đình chụp năm 1968)

Hai người con, hai chí hướng

Theo sự trình bày của ông Trần Văn Ðính, ông bà Trần Văn Hương chỉ có hai người con trai.

1. Người con lớn là Trần Văn Dõi, sinh năm 1924 (nhiều người như các ông Hứa Hoành, Huỳnh Văn Lang đã ghi lầm là Trần văn Giỏi – vì Cụ Hương đã có một người em ruột tên Giỏi (1), và nhiều bài khảo cứu dựa theo tài liệu của Mỹ lại không bỏ dấu, mà chỉ ghi là Doi). Khi phong trào kháng chiến nổi lên, đang theo học tại trường “College de Can Tho.” ông Dõi bỏ học theo Việt Minh. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua Pháp dự Hội Nghị Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Dõi theo ra Bắc. Năm 1948, ông được gửi theo học trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn và đổi tên là Lưu Vĩnh Châu (lấy họ mẹ), sau này tham gia trận Ðiện Biên Phủ với cấp bậc đại úy Công Binh, là đảng viên cộng sản.

Theo tài liệu, ông Dõi sau khi biết thân phụ mình là phó tổng thống VNCH, đã trình sự việc lên ông Ung Văn Khiêm là tổng trưởng Nội Vụ miền Bắc thời đó. Về phần Cụ Hương cũng đã xác nhận với tình báo Hoa Kỳ về chuyện cụ có một đứa con trai bên kia giới tuyến.

Một thời gian lâu sau khi CS vào Saigon, ông mới được phép đem gia đình (vợ tập kết và hai con, một trai một gái) vào gặp cha, và ít lâu sau dọn về ở với Cụ Trần Văn Hương tại số nhà 216 Phan Thanh Giản (sau này đổi lại Ðiện Biên Phủ). Con trai ông Dõi hiện làm việc tại Saigon và cô con gái hiện sống ở Hungary.

Sau khi Cụ Trần Văn Hương qua đời năm 1982, ngôi nhà này được chính quyền “cho phép” bán, chia cho gia đình em gái út Cụ Hương và gia đình ông Dõi. Ông Trần Văn Dõi đã qua đời năm 2011 tại quận Tân Bình, Saigon.

2. Người con thứ nhì, là Trần Văn Ðính, sinh năm 1925, chính là người sống với Cụ Trần Văn Hương, làm phụ tá đặc biệt cho Cụ từ năm 1965 cho đến trước ngày bàn giao chức vụ tổng thống cho ông Dương Văn Minh vào ngày 28 tháng 4, 1975.

Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, năm 1955, trước khi Cụ Trần văn Hương theo lời mời của TT Ngô Ðình Diệm ra làm Ðô Trưởng Saigon-Chợ Lớn thì ông Trần Văn Ðính đã tự túc xuất ngoại sang Anh Quốc. Ông đã học và làm việc tại Londre 3 năm, Paris (Pháp) 2 năm và Francfurt (Tây Ðức) 5 năm. Cuối năm 1964, khi Cụ Trần Văn Hương lên làm thủ tướng lần thứ nhất, ông đã được gọi về, như một người thân tín, sống gần gũi, giúp thân phụ làm phụ tá đặc biệt. Ông lập gia đình tại Saigon với một người mà ông đã từng gặp tại Paris 6 năm về trước, ông bà có hai người con, trai là Trần Bảo Danh hiện sống tại Oregon và gái là Trần Thủy Vân trong tấm hình chụp với ông nội trên trang báo này.

Ngày 21 tháng 4, 1975, sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu bàn giao chức vụ tổng thống lại cho Cụ Trần Văn Hương, trước tình hình căng thẳng tại Saigon, Ông Trần Văn Ðính muốn thu xếp cho vợ con rời Việt Nam và ở lại bên cạnh cha, nhưng cuối cùng Cụ Hương không đồng ý đã hối thúc con trai rời Việt Nam cùng với gia đình.

Năm 2005, ông Trần Văn Ðính có về Việt Nam và có gặp anh là Trần Văn Dõi, nhưng ông cho biết anh em xa nhau đã lâu ngày, lại khác chí hướng, không mấy hứng thú để trò chuyện. Hiện nay ông bà Trần Văn Ðính đều đã già, đang sống cô đơn trong một khu mobil home thuộc thành phố Huntington Beach, vì con trai ở xa và cô con gái đã mất năm 1997 vì chứng ung thư máu.

Ông Trần Văn Ðính, 87 tuổi, thứ nam Cụ Trần văn Hương, chụp tại nhà riêng ở Huntington Beach, California. (Hình: Huy Phương)

Túng quẫn nhưng giữ trọn chí khí

Trong tiểu sử của Cựu Tổng Thống Trần văn Hương, không ai nghe nói đến cụ bà đệ nhất phu nhân cũng như trong suốt thời gian Cụ Hương làm việc trong chính phủ VNCH, không ai biết đến bà Trần Văn Hương làm gì ở đâu? Ông Trần Văn Ðính cho chúng tôi biết hai ông bà sống riêng đã nhiều năm một cách tự nhiên, vì không hợp tính, và phần Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không muốn có đàn bà xen vào việc nước. Chỉ trong thời gian cuối cùng ốm đau, bà Trần Văn Hương mới dọn về ở đường Công Lý và mất vào đầu năm 1975.

Chúng ta cũng đã biết trong những ngày cuối cùng của VNCH, trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản, Ðại Sứ Martin của Hoa Kỳ đã chính thức gặp Tổng Thống Trần Văn Hương và mời tổng thống rời khỏi nước, nhưng Tổng Thống Trần Văn Hương đã khẳng khái trả lời: “Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với dân chúng một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước.”

Cụ Trần Văn Hương đã lui về căn nhà 216 đường Phan Thanh Giản, tại đây cụ sống với vợ chồng người em gái út cho đến lúc qua đời. Theo ông Trần Văn Ðính, đây là căn nhà mà năm 1969, khi rời chức thủ tướng để trao chức vụ này cho ông Trần Thiện Khiêm, không có nhà ở, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã cấp cho ông. Tuy mang số 216, đây là một căn nhà nhỏ hẹp, nằm sâu trong hẻm, sau lưng nhà của ông Trần Ngọc Liễng, loại nhà cấp cho các bộ trưởng nhưng vì nhà đã lâu năm, cũ kỹ, xuống cấp, không ở mặt tiền, bị mọi người chê nên mới còn lại. Chính Cụ Hương đã từ chối lời đề nghị cho sửa sang lại vì sợ tốn công quỹ, do đó, ngôi nhà còn yên, sau 1975, không bị CS chiếm như nhưng căn khác, nhưng báo chí CS cho rằng vì lý do nhân đạo nên ngôi nhà này không bị tịch thu.

Theo nguồn tin của CS thì sau năm 1975, Cụ Trần Văn Hương được trợ cấp tem phiếu hạng E dành cho một “cựu tổng thống Ngụy,” nhưng theo lời ông Trần Văn Ðính thì Cụ Hương không có hộ khẩu vì không làm đơn xin “phục hồi” quyền công dân như cụ đã nói: “Chừng nào những người tập trung ‘cải tạo’ được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi!”

Chính vì thái độ này, mà Cụ bị CS quản chế, không hộ khẩu, làm sao có tem phiếu, ông Ðính nói. Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không bao giờ ra khỏi nhà, ốm đau, không những sống đạm bạc mà còn thiếu thốn. Người chăm sóc tận tình cho Cụ chính là người em rể sống với Cụ. Theo lời một người cháu Cụ kể chuyện với nhà văn Hứa Hoành, đã có lúc Cụ giao cho bà em ra chợ bán một củ sâm Ðại Hàn Cụ còn cất giữ và những bộ đồ vest để lấy tiền mua thức ăn cho cả gia đình. Cụ qua đời vào ngày 27 tháng 1, 1982 (nhằm ngày mồng Ba Tết), hưởng thọ 80 tuổi, hài cốt được hỏa thiêu.

Cụ Trần Văn Hương và một con người khí tiết, yêu nước đã hai lần làm Thủ tướng, phó tổng rồi tổng thống VNCH, đã mất đi trong một hoàn cảnh, gần như bị quên lãng.

*Kỳ Sau: Trần Văn Hương vs. Ðặng Văn Quang

Chú thích:

(1) Người em thứ sáu của Cụ Trần Văn Hương mang họ Lâm, là Lâm Văn Giỏi. Theo lời ông Trần Văn Ðính thì “ông chú này không có khai sinh, nên ông nội lấy khai sinh của người khác cho chú Giỏi đi học.”

Ủy viên BCT VN nghiên cứu cải cách ở Harvard

Ủy viên BCT VN nghiên cứu cải cách ở Harvard

Bà Nguyễn Thị Kim Ngân từng là Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội (ảnh năm 2006)

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân dẫn phái đoàn đến Đại học Harvard tìm hiểu cải cách thể chế.

Bà Kim Ngân dẫn đầu đoàn gồm 15 lãnh đạo cấp trung ương và địa phương, trải qua năm ngày ở Chương trình Lãnh đạo Quản lý cao cấp của Việt Nam (VELP) tại Đại học Harvard.

Chuyến thăm Mỹ của bà kéo dài từ 11 đến 21/4, ngay sau khi bà vừa tháp tùng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc.

Chương trình VELP được Bộ Ngoại giao Việt Nam, Chương trình Việt Nam ở Trường Harvard Kennedy và cơ quan Liên Hiệp Quốc UNDP đồng tổ chức.

Đây là diễn đàn để các lãnh đạo Việt Nam trao đổi với các học giả, doanh nhân quốc tế.

Đề cương chương trình năm nay của VELP nói trong lúc Việt Nam sắp tiến hành Đại hội Đảng, nước này đối diện nhiều thách thức gần và dài hạn.

“Các nhà hoạch định chính sách chịu sức ép thúc đẩy tăng trưởng và duy trì bình đẳng,” đề cương nói.

“Trong kinh tế, chính phủ xác định nhu cầu tăng tính cạnh tranh cho khu vực tư nhân và tái khẳng định sự cấp thiết cải cách doanh nghiệp nhà nước.”

“Cũng có nhận thức về tầm quan trọng của cải cách tư pháp đối với sự phát triển của Việt Nam.”

“Về chính trị, cả Đảng và Chính phủ đã khẳng định cơ quan lập pháp ở mọi cấp cần tăng cường tính đại diện. Ngoài ra, kinh nghiệm các nước cho thấy quốc hội đóng vai trò quan trọng để phân bổ nguồn lực hiệu quả.”

Bà Nguyễn Thị Kim Ngân từng là Bí thư tỉnh Hải Dương, Thứ trưởng Bộ Thương mại, Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội.

Theo tiểu sử chính thức, bà có bằng Thạc sĩ Kinh tế và Cử nhân Chính trị.

Tại khóa học năm ngày, bà cùng phái đoàn sẽ nghiên cứu các câu hỏi như làm thế nào có hệ thống quản trị hiện đại, làm sao chuyển đổi mà vẫn duy trì ổn định chính trị và xã hội.

Bộ Ngoại giao Việt Nam nói chuyến thăm Mỹ của phó chủ tịch Quốc hội nhằm thúc đẩy mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ trong bối cảnh hai nước đang kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1995-2015).

Mẹ Nấm được trao giải Người Bảo Vệ Quyền Dân Sự

Mẹ Nấm được trao giải Người Bảo Vệ Quyền Dân Sự

2015-04-10

menam-622.jpg

Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Photo: RFA

Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là nhân vật được tổ chức Civil Rights Defender trao giải Người Bảo vệ Quyền Dân sự năm nay.

Tổ chức này công bố như vừa nêu vào hôm qua 10/04/2015.

Theo Civil Rights Defenders Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một điều hợp viên của Mạng Lưới Blogger Việt Nam. Bản thân cô được nhiều người trong nước biết đến qua hoạt động sử dụng các công cụ mạng xã hội để tố cáo bất công, nhũng lạm cũng như tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.

Tôi không muốn con cái tôi phải tranh đấu và làm những điều mà tôi đang phải làm hiện nay.
Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh

Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được Civil Rights Defender đánh giá là bất chấp nguy hiểm cho bản thân, cô dấn thân ra ngay tuyến đầu hoạt động nhân quyền tại Việt Nam. Sự sáng tạo và cởi mở của bản thân cô khi khai sinh ra căn cứ mới cho quyền tự do bày tỏ và nói thay cho những người không thể lên tiếng đã tạo ra một nguồn động lực.

Câu nói được chú ý của cô là ‘tôi không muốn con cái tôi phải tranh đấu và làm những điều mà tôi đang phải làm hiện nay’.

Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hiện đang là một trong những bloggers của Đài Á Châu Tự Do.

Quên mình là ai

Quên mình là ai

GS Nguyễn Văn Tuấn

Không biết các bạn thì sao, chứ mỗi lần nghe tin một ông/bà “lãnh đạo” đi thăm Tàu là tôi thấy… sờ sợ. Cái xứ đó có quá nhiều cạm bẫy, và họ cũng có truyền thống lâu đời bày mưu tính kế để hãm hại người khác (và họ làm rất tốt). Nhớ lần trước, khi ông Nông đi thăm Tàu và kí kết mấy dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, mà bây giờ chúng ta biết là đã sập bẫy của Tàu. Nay đến ông Nguyễn sang đó. Sau màn tay bắt (có khi dùng cả hai tay!) mặt mừng với “bạn”, ôngtuyên bố một cách khẳng định rằng “Việt Nam hoan nghênh và mong muốn TQ tăng mạnh đầu tư vào Việt Nam, nhất là có những dự án đầu tư lớn, công nghệ hiện đại tiên tiến, ưu tiên trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, chế tạo, công nghiệp phụ trợ” (*). Nghe qua thì chẳng khác gì rước họ về làm tất cả cho chúng ta. Đã hơn 60 năm qua, VN đã ăn quá nhiều quả đắng của kẻ thù truyền kiếp này, vậy mà nay lại có người muốn rước họ vào để có thêm quả đắng! Không có một logic nào, không có một lương năng bình dân nào, và không có một lợi ích dân tộc nào có thể giải thích cho sự mời mọc đó.

Điều càng buồn cười hơn là ngài tổng Nguyễn hình như quên mình là ai. Bằng chứng là ông “Thay mặt Đảng và Nhà nước Việt Nam” mời cái tên họ Tập thăm VN. Tôi cứ tưởng ông là đảng trưởng, chứ đâu phải là thủ tướng hay chủ tịch Nước đâu mà thay mặt Nhà nước được. Tôi nghĩ sự việc nhỏ này nó một lần nữa nói lên sự lẫn lộn, nhập nhằng giữa độc đảng và Nhà nước, và sự nhập nhằng đó thậm chí làm cho người trong hệ thống cũng đôi khi quên mình là ai!

Nếu các bạn đã quên thì xin nhắc lại rằng chính cái tên họ Tập mà ông tổng Nguyễn mời này nó đã cho giàn khoang HD-981 xâm phạm lãnh hải Việt Nam. Cũng không nên quên rằng trong thời gian “dầu sôi lửa bỏng” HD-981, khi ông tổng Nguyễn xin phép gặp nó thì nó từ chối không cho gặp, thậm chí nó còn từ chối nói chuyện qua điện thoại. Vậy mà, đùng một cái khi ông Nguyễn sắp đi thăm Huê Kì thì Tập gọi ông sang để nói chuyện! Phải nói đó là một cách thể hiện tư cách bề trên rất tuyệt vời. Nó (tên Tập) chọn thời điểm, chọn người, và chọn nội dung để nói chuyện, chẳng khác gì thượng cấp gọi thuộc hạ đến hầu chuyện vậy.

Thật ra, chuyện tên Tập thể hiện tư cách “bề trên” là chuyện của Tàu, nhưng vấn đề đặt ra là tại sao Việt Nam lại ngoan ngoãn để cho nó thể hiện cái tư cách bề trên đó và sẵn sàng trở thành diễn viên phụ trong vở kịch bề trên đó mới là chuyện chúng ta đáng phải suy nghĩ. Có lẽ vài lãnh đạo Việt Nam đã quên mình là ai và làm việc vì lợi ích của ai chăng?

N. V. T.
(*) http://vietnamnet.vn/…/viet-trung-duy-tri-dai-cuc-quan-he.h…

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

Tại sao chúng ta vẫn lẳng lặng vui sống như không thấy gì bất thường xảy ra?*

Tại sao chúng ta vẫn lẳng lặng vui sống như không thấy gì bất thường xảy ra?*

Quốc dân tỉnh thức

Lê Doãn Cường

“Cuộc đời của chúng ta bắt đầu kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng” – Martin Luther King Jr.

Đêm nằm thao thức, nghĩ về sự vụ đình công, biểu tình của hàng chục ngàn công nhân [theo một số nguồn tin là 90.000] ở công ty PouYuen, quận Bình Tân mà tâm trạng bất an, không thể ngủ được. Hôm nay đã sang ngày thứ năm rồi! Họ đang phản đối Điều 60 phi lý – bất công Luật Bảo hiểm Xã hội, thông qua ngày 20/11/2014, mà tôi cũng chưa có thời gian để rà soát, liệu còn những điều luật nào kiểu vậy nữa không trong các luật mới được thay đổi này. Vì từ ngày sửa đổi Hiến pháp năm 2013, hàng loạt các bộ luật, luật đã được Quốc hội chuẩn y, thông qua.

Thật không thể hiểu được! Khi mà luật còn đang trong quá trình thảo luận ở nghị trường, quý vị đại biểu của nhân dân, đại diện cho quyền lợi giai cấp công nhân đang nghĩ gì, ở đâu? Còn các luật sư, các nhà nghiên cứu luật pháp – những con người am tường về luật lệ nước Nam, các vị đang làm gì?

Đúng là không thể tưởng tượng!

Sinh ra làm gì cái bọn “đầy bồ” chữ nghĩa, cử nhân – thạc sỹ – tiến sỹ, mà suốt ngày chỉ biết bo bo vào máng ăn, chỗ ngủ, quẩn quanh trong chuồng như những con lợn. Mang danh phận là những kẻ có học thức – tri thức, bằng này chức nọ, ăn ngon mặc đẹp, ở nhà lầu đi xe sang nhưng lại đang sống nhờ hơi thở của chính những người công nhân, những người lao động nhọc nhằn, những người được xem là ít học, lương “ba cọc ba đồng”, sống chui rúc trong những ổ tò vò, công việc bấp bênh, cuộc sống bất định.

Họ – chính họ chứ không ai khác đang tranh đấu cho xã hội này công bằng và dân chủ hơn.

Càng nghĩ lòng dạ càng rối bời…

Suốt từ Bắc chí Nam, những tháng ngày qua đã xảy ra không biết bao nhiêu sự vụ từ giặc Tàu xâm lấn biển đảo, bắt bớ ngư dân, đánh phá tàu thuyền Việt Nam đến tham nhũng, bất công – bất cập hiện diện đầy trên mọi lĩnh vực: giáo dục, y tế, xây dựng, giao thông vận tải, tài chính – ngân hàng, giải tỏa đất đai – đền bù, tư pháp và cả lực lượng vũ trang… Không phải chỉ giai đoạn bây giờ mà bao nhiêu năm rồi, những cái ung nhọt – u thối đang phát tán, triển nở rộng khắp trên mọi mặt đời sống xã hội. Những ngày gần đây là kế hoạch chặt đốn 6700 cây xanh tại Hà Nội, hàng trăm công dân Thủ đô xuống đường tuần hành phản đối [1]. Sập giàn giáo tại khu công nghiệp Formosa, khu Kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh làm 13 người chết, đây chính là đặc khu kinh tế mà nhà đầu tư Đài Loan – Trung Quốc đã thuê trong thời hạn 70 năm [2]. Rồi việc tập đoàn Sun Group thuê 200 hecta đất trên Bà Nà khai thác du lịch, ngăn cấm mọi người đi bằng con đường bộ. Muốn lên Bà Nà người dân chỉ còn cách mua vé của Bà Nà Hills với giá 500 ngàn đồng (350 ngàn với người Đà Nẵng) bao gồm phí cáp treo và phí dịch vụ du lịch. Trong lúc ấy, người ta không hề có ý định muốn tham quan hay sử dụng dịch vụ của “mấy bác” Sun Group mà chỉ muốn lên Bà Nà thưởng ngoạn, đi dã ngoại hay viếng chùa Linh Ứng [3]. Rồi mưa lũ trái mùa, xả lũ thủy điện làm hàng ngàn hecta hoa màu ngập úng, nông dân Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi mất trắng mà chưa thấy thống kê thất thoát là bao nhiêu. Trong khi đó, tỉnh Quảng Nam cho khánh thành tượng Mẹ Việt Nam anh hùng với tổng kinh phí khoảng 410 tỷ đồng, Đà Nẵng thì chi hơn 18 tỷ đồng mở tiệc toàn thành phố mừng 40 năm ngày “giải phóng”, nghe đâu người ta còn chuẩn bị xây dựng tháp truyền hình cao nhất thế giới ở Hà Nội…

Tiếp theo là dự án Bôxít Tây Nguyên, dự án gây ra nhiều tranh cãi từ bảy, tám năm nay. Theo dự tính của các chuyên gia, dự án này đã “sập bẫy giá rẻ” của nhà thầu Trung Quốc [có thể lỗ hàng ngàn tỷ đồng] trong khi VTV vẫn truyền tin lời Thủ tướng là “quốc kế dân sinh” còn Bộ Công Thương thì báo cáo – “lỗ theo kế hoạch” [4]. Lợi nhuận dân sinh đâu chưa thấy nhưng hiển nhiên, chỗ nào cũng thấy có mặt, góp công sức, cắm dùi rễ của ông “bạn vàng” Trung Quốc. Phải chăng chúng ta đang tạo công ăn – việc làm, chốn định cư cho chính sách di dân của chính phủ Bắc Kinh [chuyển dịch tầng lớp nghèo, nhận thức thấp ra nước ngoài]? Tiếp nữa là vụ việc nước giải khát của đại gia Tân Hiệp Phát có cặn bẩn, ruồi nhặng, gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Đã thế, đại gia này lại còn rất “fair play” khi bắn tin cho cơ quan an ninh, bắt quả tang người tiêu dùng đang chơi trò “tống tiền” nhà sản xuất. Rốt cuộc, nạn nhân bị truy tố với tội danh “cưỡng đoạt tài sản”, trường hợp anh Võ Văn Minh ở An Giang, anh Nguyễn Quốc Tuấn ở TP Hồ Chí Minh [5]. Đến Đồng Nai thì có dự án lấp sông “Rất kinh khủng” của đại gia Toàn Thịnh Phát. Độ kinh khủng của dự án này ở chỗ, việc triển khai có thể dẫn đến phá vỡ kết cấu dòng chảy, tác động xấu đến môi sinh tự nhiên, nguy cơ gây ra lũ lụt, biến đổi khí hậu là hiển hiện, vậy mà các nhà chuyên môn, người dân trong vùng lại không được thông qua và không hề biết tới [6]. Ngay cả trên phương diện pháp lý, việc cấp phép cho dự án của UBND tỉnh Đồng Nai cũng không căn cứ trên Luật Tài nguyên nước. Trong lĩnh vực tư pháp, thời gian qua, các án “nghi oan sai” bị phanh phui hàng loạt, tiêu biểu điển hình có vụ anh Hồ Duy Hải ở Long An, ông Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Phòng, ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang [7]. Rồi công an – an ninh bức cung, dùng nhục hình gây chết người, nghi can chết trong đồn công an chưa rõ lý do, tiêu biểu là vụ án năm công an tỉnh Phú Yên dùng nhục hình dẫn đến cái chết của anh Ngô Thanh Kiều. Luật sư Võ An Đôn, người bảo vệ gia đình nạn nhân, vì các kiến nghị đề nghị khởi tố, yêu cầu từ chức đối với mấy vị lãnh đạo công an tỉnh Phú Yên mà bị các cơ quan Nội chính tỉnh nhà gây áp lực, thanh tra văn phòng luật và kiến nghị “đòi” rút giấy phép hành nghề. Từ vụ việc này, luật sư Võ An Đôn đã nổi tiếng trong và ngoài nước, qua đó, mới thấy giá trị công lý ở nước Nam ta là “đãi cát tìm vàng”, tiếng nói của một người dân là “thấp cổ bé họng” chừng nào.

Thưa các bạn, tất cả mọi vấn đề đều ảnh hưởng, tác động đến quyền lợi của chúng ta, quyền tự do lựa chọn – quyết định các vấn đề xã hội, lợi ích xác đáng – hợp pháp của công dân. Thế nhưng, tại sao chúng ta vẫn lẳng lặng vui sống như không thấy gì bất thường xảy ra?

Liên quan đến vấn đề giao thông, cần nói trước tiên là sự nhũng nhiễu, vòi tiền của cảnh sát giao thông, vòi không được thì tìm cách “núp lùm” để bắt quả tang người dân sai phạm. Có lẽ, đây không phải là phương thức hành xử của những người muốn xây dựng xã hội văn minh, thượng tôn pháp luật; nó là cách thức để gặt hái chỉ tiêu hoặc muốn “kiếm tí” từ “ông chủ” của mình. Đã thế, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thuyên, Cục trưởng Cục CSGT Đường bộ – Đường sắt, còn phát biểu rất khẳng khái “nhận dăm ba chục, một vài trăm chưa thể gọi là tham nhũng”. Trong lúc đó, số người tử vong vì tai nạn giao thông năm 2014 là gần 9000 người, năm 2013 là 9369 người [8], vượt quá số tử vong vì chiến sự tại Ucraina – 6600 người [theo số liệu của chính quyền Kiev, còn số liệu của LHQ đến 11/2014 là 4317 người]. Rõ ràng, không thể nói cuộc sống ở Việt Nam là an toàn, là không bất ổn. Người dân đi ra đường không sợ tai nạn giao thông thì cũng lo trộm cắp, cướp giật. Trộm cắp, cướp, hiếp, chém giết thì thông tin nhan nhản, ngày nào cũng giăng đầy các mặt báo.

Nhìn đến kinh tế, giáo dục, là các lĩnh vực trọng yếu của xã hội, cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Từ lâu, trên thị trường, đã tràn ngập hàng hóa chứa hóa chất độc hại xuất xứ từ ông “bạn vàng” Trung Quốc, đủ các loại: rau, củ, quả, hàng tiêu dùng, may mặc, v.v. Chúng đa phần giá rẻ, phù hợp với lớp đối tượng thu nhập trung bình – thấp tại Việt Nam, và không ngoại lệ người giàu vẫn phải xài hàng Tàu độc hại. Nền kinh tế, một mặt, không chế tác được sản phẩm công nghiệp để bước ra sân chơi thế giới, mặt khác, cũng không sản xuất nổi sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho các doanh nghiệp FDI. Cuối năm rồi, nhân việc tập đoàn Samsung đưa ra danh mục 170 phụ kiện cung ứng mà không tìm được nhà cung cấp Việt Nam thỏa mãn yêu cầu, ông Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ Công Thương, đã khẳng định với bàn dân thiên hạ “chúng ta sản xuất được ốc vít rồi!”. Sản xuất được đấy, nhưng có đáp ứng được các tiêu chuẩn công nghiệp và chuỗi giá trị của Samsung hay không là chuyện khác. Chúng ta đang “đá cùng sân” với các bạn quốc tế, chúng ta không thể tự sống, tự sản xuất hay tự tiêu dùng theo kiểu tự mình, theo các chuẩn mực của riêng mình được, thưa các đồng chí! Giờ đây, bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu chính là gạo, cà phê, thủy sản, dệt may và nguyên liệu thô, đất nước ta còn có thế mạnh về xuất khẩu lao động phổ thông, trọng về cơ bắp. Phụ nữ thì sang các nước láng giềng làm ô-sin, kẻ nhẹ dạ cả tin thì bị lừa làm gái, nhiều người ở trong nước làm hàng hóa cho quý ngài từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan sang chọn vợ [9]. Theo số liệu từ Đồng hồ nợ công thế giới tháng 3/2015, nợ công hiện tại của Việt Nam chiếm 46,7% GDP và tính trên đầu người là 972,2 USD, tốc độ tăng nợ hằng năm là 10,1%. Trong khi GDP bình quân đầu người là gần 2000 USD/năm, trong khu vực ASEAN ta hơn Lào, Campuchia, Đông Timo và Myanmar nhưng đồng thời, nợ công gộp trên GDP chỉ đứng sau Singapore, Malaysia và Lào [10]. Việt Nam, rõ ràng, không thể so sánh với Singapore và Malaysia khi GDP bình quân đầu người của họ khoảng 58.000 USD và 12.000 USD.

Tôi tự hỏi mình, chúng ta lấy gì để chi trả?

Mỗi người chúng ta một năm làm ra 2000 USD, trả nợ gần 1000 USD còn hơn 1000 USD, liệu có đủ trang trải cho mọi nhu cầu thiết yếu của cuộc sống hay không? Đó là chưa kể, ngay từ lúc bạn sinh con ra, bản thân nó đã phải gánh trên mình món nợ 1000 USD mà người chi trả không ai khác chính là bạn. Người khác vay vì có năng lực tài chính, còn mình – năng lực gì mà đòi trả nợ? Nếu bạn là người ưu việt – xuất sắc, tôi không nói; bằng ngược lại, bạn cũng như tôi – những con người với trí tuệ và năng lực bình thường, một khi mà “rừng vàng biển bạc” không còn nữa, một khi mà môi trường dân sinh của chúng ta càng ngày càng tệ hại, khi đó bạn chỉ còn cách đem sức “trâu” ra để “cày cuốc” ngày đêm. Chưa trả được, món nợ này sẽ truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Từ năm 2011 lại đây, tốc độ nợ công tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ, mỗi năm bình quân 20% trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 5,8% [11]. Theo các chuyên gia kinh tế, cách tính nợ hiện tại là theo kiểu Việt Nam [theo định nghĩa của Luật Quản lý nợ công] còn theo định nghĩa quốc tế thì phải trên 100% GDP, vượt xa ngưỡng nợ công 65% GDP mà Chính phủ đưa ra [12]. Đó là các chỉ số vĩ mô còn trong thực tế, thuế phí vẫn tăng đều đều, vật giá liên tục leo thang…

Cách đây 6 tháng, Ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, đã có một phát khiến chúng ta không thể không suy nghĩ: “Cách đây bốn, năm mươi năm, Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam và Việt Nam cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại Việt Nam làm ông chủ, làm quản lý, còn người Việt Nam ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin”.

Thưa các bạn, vì đâu đất nước ta nên nỗi?

Cũng nhân vụ việc con “ốc vít” của tập đoàn Samsung, có người tếu táo rằng: “Việt Nam chỉ sản xuất được giáo sư, tiến sỹ chứ không giỏi làm sạc pin, ốc vít”. Thật vậy, theo thống kê năm 2013, Việt Nam có khoảng 9.000 GS và PGS, 24.300 TS, 101.000 thạc sỹ, trong đó có 5,6% GS/PGS công tác trong các trường đại học, hơn 9.000 TS là giảng viên các trường cao đẳng, đại học [13]. Vậy số GS/PGS, TS còn lại đi đâu? Câu trả lời chỉ có thể là ở các viện, các hiệp hội, doanh nghiệp và cơ quan chính quyền. Chưa có một số liệu thống kê cụ thể nào nhưng một điều chắc chắn rằng, người Việt ta vốn sính trọng bằng cấp, háo danh, sỹ hảo nên các vị chức vụ thấp bé chưa có hàm – vị thì mua điểm, chạy bằng, đi thầy. Khi có hàm – vị rồi thì không làm công tác giảng dạy, nghiên cứu [đương nhiên, vì làm gì có kiến thức] mà muốn trở thành nhà quản lý, lãnh đạo. Hàm – vị chỉ còn là cái mác để leo cao còn chức tước với họ mới là cái đích thật. Chức tước càng cao, oai quyền càng lớn, người ta càng hãnh tiến với đời.

Đây phải chăng là cái vòng luẩn quẩn của giáo dục Việt Nam, của trí thức xã hội Việt Nam?

Có người đã phải than, số lượng GS – TS chúng ta nhiều nhất Đông Nam Á, nhưng không có trường ĐH nào vào “Top 500” trường ĐH hàng đầu của thế giới. Mới gần đây, Học viện Chính trị Bộ quốc phòng vừa trao bằng tiến sỹ các chuyên ngành Lịch sử Đảng, Xây dựng Đảng, chủ nghĩa Mác – Lê cho 36 vị “ưu tú” nữa. Có lẽ người ta đang chạy đua đến thành tích 20.000 TS vào năm 2020 của Bộ Giáo dục để đủ sức chắp cánh cho nền giáo dục Việt Nam. Người ta đang hậm hực vì một đất nước hơn 90 triệu dân mà số lượng các bài báo công bố quốc tế hằng năm chỉ khoảng bằng một trường đại học ở Thái Lan. Theo nguồn dữ liệu từ viện Thông tin Quốc tế ISI, trong năm 2012, Việt Nam có 1731 bài báo công bố quốc tế, trong khi của Thái Lan là 5804 bài, Malaysia – 7828 bài và Singapore – 10125 bài [14]. Theo thống kê của Bộ KH-CN, trong 5 năm (2006 – 2010) Việt Nam có 5 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ, năm 2011 không có cái nào, so với các nước trong khu vực Đông Nam Á khác như Singapore – 647 bằng sáng chế, Malaysia – 161, Thái Lan – 53 và Philippines – 27 bằng sáng chế [15].

Trông lên rồi cũng phải trông xuống, trong nước, có người hai – ba bằng đại học, bằng cao học vẫn thất nghiệp dài. Cử nhân, thạc sỹ bươn chải đủ nghề để kiếm sống, làm bưng bê, bồi bàn, phụ bếp cũng không thiếu. Chất lượng đào tạo không đảm bảo, sinh viên ra trường thiếu kiến thức, kỹ năng, không đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Sách vở giáo dục trẻ em bị khui ra hàng loạt những sai sót vô tất trách, thiếu nhân bản, mang tính dung tục, kích động bạo lực. Học sinh, sinh viên thuộc sử Tàu hơn sử Việt, hâm mộ diễn viên, người mẫu hơn các vị anh hùng dân tộc. Tình trạng bạo lực học đường xảy ra liên miên, nam sinh cũng như nữ sinh, từ đánh nhau đến đánh ghen, lột đồ, v.v. Học trò thì đánh chửi thầy cô, mà thầy cô thì cũng không thua kém, thậm chí còn làm tiền, làm tình từ những học sinh, sinh viên. Sách vở giáo khoa, chương trình học tập thì cải cách, sửa đổi liên tục. Nền giáo dục quốc dân rơi vào khủng hoảng hệ thống, thiếu triết lý giáo dục căn bản, áp đặt định hướng chính trị, không phát huy được tư duy tự do, phản biện, sáng tạo nên luôn loay hoay ở nhóm chót, bảng xếp hạng khu vực ASEAN. Những ai còn quan tâm đến giáo dục, xin hãy tìm đọc các bản kiến nghị năm 2004, 2009 của GS Hoàng Tụy cùng những trí thức khác để hiểu rõ hơn về thực trạng giáo dục Việt Nam.

Hiện tại, nhắc đến Việt Nam người ta hay nhắc đến kỷ lục. Chúng ta có rất nhiều kỷ lục “Top nhất” trong khu vực và thế giới như tô hủ tiếu lớn nhất, cái bánh chưng – bánh dày – bánh xèo to nhất, cây cầu đẹp nhất, ngôi chùa lớn nhất, giá bất động sản cao nhất, giá thịt heo – thịt bò, giá sữa, giá thuốc Tây đắt nhất, lãi suất “khủng” nhất, tỷ lệ nạo phá thai cao nhất, tai nạn giao thông nhiều nhất, trộm cắp vặt nhiều nhất, tiêu thụ bia nhiều nhất, GS – TS nhiều nhất, tướng lĩnh nhiều nhất, năng suất lao động thấp nhất, v.v. Nhưng các chỉ số phát triển thuộc về thế giới văn minh thì luôn trong “Top bét” [các chỉ số về chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, sự thịnh vượng, phát triển con người].

Có thể nói, nhiều không kể xiết mà tôi chỉ có thể lược ra đây một số. Thực trạng xã hội Việt Nam rất cần đến sự quan tâm, sẻ chia thông tin và trao đổi nhận thức của mọi người, cần sự thức tỉnh của lương tri để gánh vác, xây dựng môi trường dân sinh [16].

Trong khi đó, chúng ta:

Nam thanh, nữ tú hâm mộ K-pop thì khóc lóc, sung sướng vì thần tượng xứ Hàn mà không biết những anh hùng “vị quốc vong thân” trong Hoàng Sa 1974, Biên giới Việt Nam 1979, Gạc Ma 1988. Nhớ đến những lễ tiệc đình đám, sự kiện rình rang của “hot girl”, “hot boy” showbiz mà quên đi những công lao to lớn của các bậc tiền liệt Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Thanh niên, sinh viên không lô đề, cá độ, bài bạc thì cũng nhậu nhẹt bù khú, chơi game thâu đêm suốt sáng, ngày nào cũng như ngày nào. Tiền của bố mẹ thì tiêu xài hoang phí, đua đòi theo những mốt thời thượng, quỹ thời gian không lo học hành tích lũy kiến thức mà thả hồn vào những thứ vô bổ, tụ tập ngắm gió, thưởng mây. Trong lúc đó, người là cha mẹ, là cô dì, chú bác, anh chị ngày này qua ngày khác chỉ biết đến tiền, nghĩ đến tiền, hùng hục kiếm tiền và chỉ cần tiền. Người ta lấy chữ “tiền” làm mục tiêu đeo đuổi, dùng chữ “tiền” làm phương tiện tiến thân, người ta xem nó như là một đức tin, cả xã hội tha hóa vì nó. Kẻ chức trách, cán bộ, Đảng viên thì tìm cách chạy chọt, đút lót, xây dựng ban bệ – ô dù, lo đường thăng quan tiến chức, miệng lưỡi phân bua, chối bỏ trách nhiệm, ganh ghét – đố kỵ lẫn nhau, lừa trên dối dưới, quỵ lụy với kẻ trên mà quan quyền với người dưới. Thân là công bộc của dân, hưởng lương từ nhân dân mà không đoái hoài đến cuộc sống quốc dân, âu lo việc nước, ưu tư xã hội. Lúc nào cũng chăm chăm tìm cách kiếm chác, vun vén tư lợi, “đục nước béo cò” rồi về vườn vui thú điền viên; kẻ giàu sang hơn thì xuất dương ra ngoại quốc, nhởn nhơ vui sống. Người làm đầu tư, kinh doanh thì “lót tay”, phong bì tạo mối quan hệ kiếm ăn, trục lợi, chân trong – chân ngoài cấu kết nhau, tranh chia phần trăm, đục khoét của công. Túm năm tụm bảy lại, nào là rượu bia, gái đẹp, chứng khoán, xe hơi, địa ốc; ngoài ra, chẳng còn đề tài gì hữu ích hơn để bàn. Đám được gọi học vấn, tri thức “đầy mình” – kẻ háo danh thì bon chen chốn quan trường thị phi, hưởng lộc dân mà tưởng nhờ ơn đảng, lúc nào cũng khư khư bảo vệ “sổ lương hưu”. Đứa bồi bút thì “khua môi múa mép”, đem chữ nghĩa lòe bịp thiên hạ, ức hiếp người trung chính. Kẻ hiểu biết thì tặc lưỡi “ốc không mang nổi mình ốc lại còn làm cọc cho rêu”, mặc kệ mớ đời, thân ta – ta cứ sống, không khi nào dám trườn mình ra khỏi vỏ. Lên mạng xã hội thì khoe ngực – khoe mông, khoe mẽ sự giàu sang sung túc, thú vui – tiêu khiển mà chẳng mảy may bận tâm gì đến thực tình quốc gia, thân phận con người. Bao nhiêu năm học hành, đèn sách mà chỉ chầu chực lương tháng – thưởng năm, tối về khuây khỏa vợ con, lấy “du sơn ngoạn thủy” làm niềm vui lẽ sống.

Thử hỏi các người có hổ thẹn với các bậc tiền nhân của dân tộc hay không? Có thấy vô trách nhiệm với con cháu mình mai sau hay không? Các người có biết thẹn với chính lương tri của mình không?

Thưa các bạn!

Ông Napoléon người Pháp quốc đã từng nói: Thế giới chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của kẻ xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”.

Chúng ta, thấy việc chướng tai gai mắt, bất công – bất cập mà nhắm mắt làm ngơ, bàng quan vô tâm, tưởng giữ mình lấy phận thanh cao – là đang làm điều phi nghĩa. Chứng kiến những sai trái, xấu xa, phi pháp, phi nhân – yếu hèn không dám lên tiếng trung lương lại còn thu vén lợi riêng, hòa mình, tiếp tay là mang tội đồng lõa – đó là kẻ bất nghĩa.

Xã hội tha hóa không phải vì cái xấu, cái ác nhởn nhơ mà vì chính chúng ta – những con người nhu nhược không dám đấu tranh với chúng, không đủ khí dũng nói lên hai tiếng “công lý”.

Thưa tất cả các bạn!

Mặc định trong não trạng chúng ta là sự sợ hãi cường quyền, cố thủ trong căn tính chúng ta là chủ nghĩa vị kỷ, chúng ta vô tâm vì thiếu nhận thức tinh thần trách nhiệm.

Kính thưa các bạn!

Một dân tộc không thể tự cường khi người dân không có tinh thần tự cường. Một quốc gia không thể tự cường khi các công dân không có ý thức tự cường. Mỗi một công dân tự cường chính là nền tảng để xây dựng quốc gia tự cường, đó là tiền đề để kiến thiết quốc gia thịnh vượng.

Công dân tự cường – là người có tinh thần quốc dân, đó phải là sự kết hợp cân bằng – hài hòa giữa quyền lợi cá nhân, trách nhiệm xã hội và tự trọng dân tộc.

Cuộc sống cá nhân của con người luôn bao gồm hai nhu yếu căn bản là vật chất và tinh thần, vật chất thì hữu hình mà tinh thần thì vô hình. Vật chất – đó chính là cái “lợi” [nghĩa là cái ích lợi, cần thiết] mà bất cứ ai trong chúng ta cũng cần, cũng muốn có, muốn sở hữu nó để tồn tại. Đó là nhu yếu về tiền bạc, nhà cửa, lương thực – thực phẩm, áo quần, vật dụng cá nhân và gia đình. Có những cái vật chất là sở hữu riêng bạn [lợi riêng, lợi cá nhân], do công sức lao động của bạn tạo ra nhưng đồng thời – có những cái vật chất do thiên nhiên ban tặng, do sự chung góp lại một cách đồng thuận của tất cả mọi người để sử dụng cho mục đích chung, cho lợi ích toàn thể xã hội [lợi chung]. Đó chính là sông núi, đất đai, biển đảo, khí hậu và cũng có thể là cầu cống, đường xá, văn phòng, phương tiện đi lại trang thiết bị của nhóm hội, tổ chức, cơ quan nhà nước. Còn tinh thần là gì? Xin thưa, nó xuất phát từ chữ “quyền” của bạn. Chúng ta sinh ra, ai cũng có “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [Tuyên ngôn Độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, 1776]. Tinh thần [tinh thần cá nhân] là nhu yếu thỏa mãn về cảm xúc cá nhân, an toàn cuộc sống, mong muốn tư hữu, được tôn trọng, được tự do thể hiện, tự do suy tưởng và mưu cầu hạnh phúc, lý tưởng cá nhân. Để đạt được tinh thần cá nhân chúng ta cần đến “quyền” [quyền cá nhân]. “Quyền” – là năng lực đòi hỏi, khát khao từ ý chí tự nhiên của con người. Đó là cái mặc nhiên ta có, không ai ban phát cho mà thành, không ai được phép tước đoạt nó trừ phi – bản thân mình tự hạn chế và chỉ mình – tự nguyện hạn chế nó để chung sống trong cộng đồng và xã hội. Và “quyền” là phổ quát, nghĩa là tất cả mọi người sinh ra đều có các quyền như nhau, đều cùng mong muốn, khát khao được tôn trọng, được tự do, được học tập, v.v. Không ai, không bất cứ một ai – được phép coi quyền cá nhân của mình tôn quý, giá trị hay uy quyền hơn của người khác [bình đẳng]. “Quyền” cũng chính là công cụ, là khí giới của mỗi người để tích lũy, duy trì và bảo vệ cái lợi cá nhân, cái “lợi” của cộng đồng và xã hội. Trên thực tế, hầu hết chúng ta chỉ lo nghĩ và vun vén lợi cá nhân chứ không phải quyền cá nhân. Thế nhưng, một khi miếng cơm manh áo [tức “lợi”] bị đụng chạm, xâm phạm trực tiếp – khi đó, người ta mới biết và sử dụng đến “quyền”. Trường hợp đình công ở công ty PouYuen, vụ anh Ngô Thanh Kiều và nước ngọt Tân Hiệp Phát là những ví dụ. “Lợi” có thể làm thõa mãn trước mắt nhưng “quyền” làm cho cuộc sống viên mãn lâu dài. Sở hữu “quyền”, bằng công sức lao động chính mình bạn sẽ thu được “lợi” một cách thỏa đáng. Ngược lại, không đủ “quyền” hoặc không có “quyền”, “lợi” – hoặc đã bị cắt xén mà chúng ta không hề hay biết hoặc chỉ còn là cái người ta ban phát cho mình. Như vậy, gốc rễ của quyền lợi cá nhân không phải nằm ở “lợi” mà nằm ở “quyền”, đấu tranh đạt được cái “quyền” là nền tảng để tích lũy cái “lợi”. Bởi vì, suy cho cùng, con người cần “lợi”, cần cái vật chất cũng chính để – đạt được tinh thần cá nhân. Trong xã hội, “quyền” và “lợi” cá nhân không thể tách bạch riêng rẽ mà phải phối hợp như một tổng thể điều hòa nhau để phát triển, cái này là bổ đề của cái kia và ngược lại. Quyền lợi cá nhân mỗi người nằm trong sự tương tác với toàn bộ xã hội.

Trước khi bàn về trách nhiệm xã hội và tự trọng dân tộc, tôi xin lưu ý ở đây,quyền lợi xã hội bao gồm “quyền xã hội”“lợi xã hội” [quyền lợi quốc gia quyền lợi dân tộc cũng theo nghĩa này]. Trong đó, “lợi xã hội” chính là lợi chung, đã được đề cập ở trên còn “quyền xã hội [tinh thần xã hội] – không gì khác, mà chính là quyền cá nhân [tinh thần cá nhân], trên cơ sở quyền cá nhân vì “quyền” là phổ quát. Xã hội là gì nếu không phải cấu thành từ những cá nhân? Quốc gia là gì nếu không phải hình thành từ những công dân? Không có dân tộc, quốc gia, xã hội nào mà không được hình thành từ những con người, những gia đình và những cộng đồng người. Không thể tồn tại bất kỳ kiểu “quyền lợi xã hội”, “quyền lợi quốc gia” nào mà đứng ngoài quyền lợi cá nhân vì mỗi một cá nhân đều là chủ thể của xã hội. Và với bất kỳ kiểu quyền lợi nào như vậy mà tồn tại trong thế giới này, điều đó, hẳn nhiên – là đi ngược quy luật tự nhiên của xã hội, nghĩa là không lấy con người làm trung tâm của xã hội. Xác tín vậy mới thấy rằng, quyền lợi xã hội, quyền lợi quốc gia phải xuất phát từ quyền lợi cá nhân, trong đó – lấy tinh thần cá nhân làm nền tảng kiến thiết xã hội, vì “quyền” là gốc rễ. Và như vậy, quyền xã hội phải là tổng hòa quyền cá nhân. Tổng hòa không phải là phép cộng số học thuần túy mà là sự hòa hợp các “quyền” có ý thức [một cách duy lý].

Thứ hai, trách nhiệm xã hội là gì? Đó là tinh thần cá nhân có ý thức [tinh thần trách nhiệm] về sự ràng buộc ý chí, tương hỗ lẫn nhau giữa các cá thể trong xã hội [17]. Nghĩa là “quyền” phải thực thi trách nhiệm của một hay nhiều cá nhân nhằm duy trì, bảo vệ “quyền” và “lợi” xã hội mà thực ra là quyền lợi của mỗi người. Bởi vì, “quyền” và “lợi” mỗi cá nhân luôn quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến “quyền” và “lợi” của các cá nhân khác [quyền phổ quát, lợi chung]. Nếu cái lợi chung, được sở hữu và sử dụng bởi mọi người, bị chiếm dụng, định đoạt [hợp pháp hay bất hợp pháp] mà hầu hết không ai dám lên tiếng [vô trách nhiệm], thì lợi chung đó – dần dần sẽ trở thành sở hữu của các nhóm quyền lực hơn hoặc lợi chung sẽ bị hao mòn, tàn phá. Đó là trường hợp 6700 cây xanh, lấp sông Đồng Nai hay Bà Nà Hills, Bôxit Tây Nguyên… Vì tính chất lan truyền của xã hội [tâm lý đám đông, hiệu ứng dây chuyền], ban đầu, có thể một thiểu số vô trách nhiệm [vì sợ hãi, yếm thế, tự ti], lâu ngày sẽ dần chiếm đa số. Nghĩa là, tinh thần trách nhiệm của mọi người trong xã hội đã bị xói mòn theo cả diện rộng và chiều sâu [vô trách nhiệm, sợ hãi trong chính nội quan mỗi người]. Khi đó, mất cái lợi chung này, ắt hẳn – nhiều cái lợi chung khác trước sau cũng sẽ bị chiếm dụng. Thay vì lợi chung được bảo tồn một cách hợp lý trong tinh thần trách nhiệm, lúc này, bạn và mọi người phải “cày bừa” cật lực để có tiền tu bổ hay mua lại quyền sử dụng nó [chủ sở hữu lúc này là nhóm thiểu số quyền lực nào đó]. Trong tình trạng xấu nhất, lợi chung đó mất đi hoặc bị chuyển đổi sang hình thức khác, con cháu bạn thậm chí chính bạn, các thế hệ nối tiếp nhau trả giá bằng chính sức lao động của mình nhằm tái tạo lợi chung vì “lợi” – luôn luôn là nhu yếu của chúng ta. Trường hợp “quyền” của một người bị xâm phạm [hợp pháp hay bất hợp pháp] mà đa số vô trách nhiệm, chắc chắn sẽ đến lượt người khác, quyền cá nhân cũng bị xâm phạm, bởi vì “quyền” là phổ quát. Một khi “quyền”của đa số hay tất cả mọi người trong xã hội đã bị cắt xén, xâm phạm thì lợi riêng, lợi chung cũng sẽ bị chiếm dụng, định đoạt bởi vì “quyền” là gốc rễ. Lúc đó, xã hội rơi vào trạng thái mất cân bằng về “quyền” và “lợi”, một hay một vài nhóm thiểu số sẽ nắm quyền lợi lớn hơn nhiều so với toàn thể xã hội [lũng đoạn về “quyền” và “lợi”]. Giữa các lớp đối tượng khác nhau trong xã hội cũng bị chênh lệch rất lớn về “quyền” và “lợi”. Đây chính là cội nguồn của bất bình đẳng xã hội, dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng kinh tế, bất bình đẳng giáo dục, mất cân bằng về nhận thức giữa các lớp dân cư, suy đồi về văn hóa – đạo đức. Một trạng thái mất cân bằng, bất bình đẳng đủ lớn sẽ đẩy xã hội vào tình trạng suy thoái toàn cục và vấn đề lệ thuộc ngoại bang về chính trị – kinh tế là điều khả dĩ [hình thái nô lệ hóa quốc gia kiểu mới]. Đó là sự sụp đổ của xã hội.

Sau cùng, tự trọng dân tộc là tinh thần cá nhân có ý thức [tinh thần tự trọng dân tộc] về sự ràng buộc ý chí, về cội nguồn xuất xứ trong tâm thức của mỗi người dân của cùng một dân tộc, mỗi công dân trong cùng một quốc gia [18]. Tinh thần cá nhân có ý thức ở đây chính là cảm thức về mối liên hệ trong tâm thức giữa những con người có cùng cội nguồn văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ, lãnh thổ và do đó mà họ có tinh thần cá nhân tương tự nhau một cách tương đối. Tinh thần tự trọng dân tộc không phải là tự tôn dân tộc thuần túy mà cũng không phải một hình thức của chủ nghĩa dân tộc. Tự trọng dân tộc là cảm giác đau lòng, xót xa khi Tổ quốc bị xâm lăng, khi quốc gia nghèo đói – lạc hậu, khi đồng bào gặp bất hạnh. Đó là niềm tự hào, kiêu hãnh khi xã hội phồn vinh, khi cá nhân thành đạt. Là hân hoan, vui sướng khi mọi người dân cùng chung sống trong tinh thần tương thân, tương ái, tương trợ lẫn nhau. Tự trọng dân tộc còn là tinh thần cầu thị, ham học hỏi, yêu lao động, tiếp thu tri thức, tinh hoa văn hóa thế giới để phụng sự cho Tổ quốc. Ở xã hội ta bây giờ, tự trọng bản thân và tự ái cá nhân [đều là các dạng thức của tinh thần cá nhân] thì đếm không hết, còn tự trọng dân tộc là một điều xa xỉ.

Bàn về tinh thần tự trọng dân tộc, tôi phân biệt hai cấp độ hành vi [hành vi tinh thần], tiêu cực và tích cực. Hành vi tiêu cực [trách nhiệm nhỏ] là những phản ứng mang tính chất thõa mãn cảm xúc bản thân nhất thời [cãi lý, biện hộ, đánh nhau] khi đối tượng ngoại bang [cá nhân, tổ chức, quốc gia] xúc phạm, xâm phạm [bằng lời nói, hành động, truyền thông] đến quốc dân, lãnh thổ, văn hóa, lịch sử và truyền thống dân tộc. Hành vi tích cực [trách nhiệm lớn] là đóng góp công sức lao động bằng chính năng lực của mình thông qua quyền lợi cá nhân, phát triển môi trường dân sinh vững bền. Tất nhiên, không thể phủ nhận ở một phương diện nào đó, hành vi tiêu cực cũng tác động dẫn đến hành vi tích cực cho chính mình hay người khác [phạm vi bài viết chỉ đề cập đến hành vi tích cực].

Trong trường hợp, đất nước nghèo đói về kinh tế, lạc hậu về giáo dục, dân trí thấp, bất công – bất cập hiện tồn, mọi sự bàng quan, vô tâm [thiếu ý thức tinh thần tự trọng dân tộc] đều là nguy cơ dẫn đến bất bình đẳng xã hội, băng hoại về đạo đức – văn hóa, tất yếu dẫn đến sụp đổ xã hội [đã phân tích trong tinh thần trách nhiệm xã hội]. Còn khi ngoại bang xâm lấn, đã bị hoặc có xu hướng bị nô lệ hóa về kinh tế – chính trị hay nô dịch về văn hóa, khi đó, toàn thể quốc dân sẽ bị bóc lột sức lao động [lợi cá nhân], áp đặt về tư tưởng và thống trị về ý chí [quyền quốc gia]. Nếu không thức tỉnh kịp thời, cởi trói tư tưởng, khôi phục và phát huy văn hóa [quyền quốc gia] thì quốc gia tiêu vong là nhãn tiền. Khi này, mọi hành vi đều phải hướng đến tinh thần cá nhân [quyền cá nhân], vì quyền quốc gia là xuất phát từ quyền cá nhân. Khi đó, tinh thần tự trọng dân tộc chính là động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm xã hội, là “quyền” thực thi hành động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lợi quốc gia mà chính là bảo vệ quyền lợi cá nhân mỗi người.

Như vậy, thông qua tinh thần quốc dân, tôi muốn gửi đến các bạn bốn điều. Đừng nghĩ gom góp cái “lợi” cá nhân thật nhiều thì cuộc sống của bạn, con cháu bạn sẽ sung sướng, hạnh phúc. Bởi như phân tích ở trên, “lợi” là xuất phát từ “quyền”, “quyền” là gốc rễ – đó là điều thứ nhất. Khước từ quyền là điều trái lẽ tự nhiên, là chấp nhận thân phận nô lệ suốt đời. Thứ hai, vì “quyền” và “lợi” cá nhân mỗi người luôn tác động điều hòa nhau và nằm trong sự tương hỗ với “quyền” và “lợi” của các cá nhân khác, do đó, góp phần xây dựng môi trường dân sinh bằng cách thực thi tinh thần trách nhiệm xã hội, tinh thần tự trọng dân tộc là tích lũy và duy trì quyền lợi cá nhân vững bền nhất. Toàn bộ các hệ thống của môi trường dân sinh, “quyền” của bạn và mọi người đều là công cụ và phương tiện hữu ích cho cuộc sống cá nhân. Vì thế, công sức lao động [lợi cá nhân] của mọi người gặt hái được sẽ là công bằng và thỏa đáng [giá trị bền vững]. Di sản để lại cho con cháu không chỉ là quyền lợi cá nhân trực tiếp từ bạn mà còn thông qua mọi kênh khác của xã hội. Thứ ba, chắc chắn thế hệ con cháu sẽ có những suy nghĩ tiến bộ hơn bạn. Bộ não con người có hơn 100 tỉ nơron thần kinh và một khi mà tiến trình xã hội hóa thông tin ngày càng trở nên mạnh mẽ – rộng khắp, cùng lúc đó là sự tiến triển trong nhận thức con người thì sự khát khao tinh thần cá nhân sẽ càng trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Các thế hệ mai sau thừa nhận thức để hiểu cái – thuộc về phần người [tinh thần cá nhân] là cần thiết như thế nào, khi đó, tài sản để lại – phỏng đâu có nhiều ý nghĩa. Thứ tư, không nên nghĩ “lực bất tòng tâm” hay “thân phận con người nhỏ bé” mà hãy xác tín rằng, tiến trình xã hội muốn liên tục vững bền cần phải có – tính kế thừa. Ở đó, những đóng góp nhỏ bé một cách chính đáng của mỗi cá nhân thông qua môi trường dân sinh sẽ là di sản quý báu cho mọi thế hệ con người. Hãy nhớ, lệ thuộc vật chất là mất tự do một phần, lệ thuộc tinh thần là mất tất cả.

Tóm lại, sự phối hợp cân bằng – hài hòa giữa quyền lợi cá nhân, trách nhiệm xã hội tự trọng dân tộc đó là tinh thần quốc dân. Tinh thần quốc dân của mỗi công dân tự cường chính là năng lượng cá nhân kết nối và hình thành năng lượng xã hội, năng lượng quốc gia – làm động lực chính yếu cho công cuộc cách tân và phát triển đất nước. Khiếm khuyết một trong ba yếu tố, tiến trình xã hội sẽ mất cân bằng. Trong tinh thần quốc dân, trách nhiệm xã hội và tự trọng dân tộc đều tương hỗ với quyền lợi cá nhân, trên nền tảng quyền lợi cá nhân. Trong quyền lợi cá nhân thì quyền – tinh thần cá nhân là gốc rễ.

Vậy, khởi thủy là quyền!

Kính thưa các bạn!

Dân số Việt Nam chúng ta hiện nay có hơn 90 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới. Trong đó, nông dân chiếm khoảng 73%, công nhân khoảng 11%, gần 55 triệu người trong độ tuổi lao động (15 – 60 tuổi) và hơn 5 triệu lao động có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên [Báo cáo Lao động và Việc làm quý IV – 2014, Tổng Cục Thống kê].

Nghĩa là, một người có học vấn với ý thức tinh thần quốc dân cần phải chia sẽ thông tin, trao đổi nhận thức xã hội cùng 17 người khác. Nếu chỉ tính trong độ tuổi lao động, con số đó chỉ còn 10. Điều này là hoàn toàn có thể phải không các bạn?

Thực tâm, tôi vẫn nghĩ, còn đâu đó trong tiềm thức của dân ta vẫn là lòng trắc ẩn, vẫn là sự đồng cảm về thân phận con người. Trong tâm thức của mỗi quốc dân vẫn chảy dòng máu Việt, vẫn một tình yêu con cháu Lạc Hồng, vẫn một khát khao được đóng góp cho quê hương, xứ sở dẫu rằng – tinh thần đó đã nguội lạnh, đã lạc vào thế giới u minh bao năm rồi.

Mục sư Martin Luther King Jr., con người vĩ đại của nước Mỹ và nhân loại, người đấu tranh cho dân quyền và nhân quyền, trong một bài giảng về Tinh thần dũng cảm tại Selma, Alabama – ngày 8/3/1965, có nói “Cuộc đời của chúng ta bắt đầu kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng” [19].

Hãy xác quyết rằng, cuộc đời của bạn, của tôi, của tất cả chúng ta – Chưa từng khi nào kết thúc!

Vì quyền lợi của bạn, vì quyền lợi của tôi, vì quyền lợi của tất cả chúng ta – Mỗi người dân hãy tự cường cho đất nước tự cường!

Chia sẻ thông tin, trao đổi nhận thức, thức tỉnh lương tri, vượt thắng sợ hãi – Chung tay, góp sức, gánh vác việc hôm nay để Tổ quốc tự cường ngày mai.

Đà Nẵng, ngày 5/4/2015

L.D.C.

Tác giả gửi BVN

Chú dẫn:

[1].http://video.vnexpress.net/xa-hoi/hang-tram-nguoi-ca-hat-ve-tranh-keu-goi-bao-ve-cay-xanh-o-ha-noi-3160792.html

[2].http://infonet.vn/thanh-tra-chinh-phu-dong-y-de-ha-tinh-cho-nuoc-ngoai-thue-dat-70-nam-post160815.info

[3].http://www.thesaigontimes.vn/128044/Sun-Group-Moi-nguoi-dan-deu-co-quyen-len-nui-Ba-Na.html

[4].http://tamnhin.net/bo-xit-tay-nguyen-du-kien-lo-hang-nghin-ty-dong.html

http://petrotimes.vn/news/vn/kinh-te/dien-dan-kinh-te/bo-cong-thuong-cac-khoan-lo-o-du- an-boxit-tay-nguyen-mang-tinh-chat-ke-hoach.html

[5].http://www.doisongphapluat.com/phap-luat/ho-so-vu-an/them-nguoi-tieu-dung-phai-ngoi-tu-vi-doi-tien-tan-hiep-phat-a83780.html

[6].http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/229033/lap-song-dong-nai–vi-sao-chuyen-thanh–nhay-cam–.html

http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/du-an-lap-song-dong-nai-lac-lu-tu-goc-20150329215338594.htm

[7].http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/truy-5-dai-an-nghi-oan-sai-2015031323155015.htm

http://nld.com.vn/cong-an-dung-nhuc-hinh.html

[8].http://www.vietnamplus.vn/nam-2014-gan-9000-nguoi-tu-vong-vi-tai-nan-giao-thong/298693.vnp

[9].http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/nguoi-viet-5-chau/malaysia-giai-cuu-136-phu-nu-viet-trong-hop-dem-3129309.html

[10]. Tương lai nợ công Việt Nam: Xu hướng và thử thách, Đỗ Thiên Tuấn Anh, FETP 04/2013

[11].http://www.doisongphapluat.com/kinh-doanh/thi-truong/no-cong-tang-nhanh-ca-ve-quy-mo-va-toc-do-a62783.html

[12].http://vneconomy.vn/tai-chinh/chenh-venh-nhu-no-cong-viet-nam-20140727083659394.htm

[13].http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/164238/24-000-tien-si-viet-nam-dang-lam-gi-.html

http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/220705/viet-nam-co-lam-phat-giao-su–pho-giao-su-.html

[14].http://www.hdcdgsnn.gov.vn/news/detail/tabid/77/newsid/331/seo/So-sanh-so-luong-bai-bao-dang-tren-tap-chi-khoa-hoc-quoc-te-cua-Viet-Nam-va-cac-nuoc-trong-khu-vuc-trong-5-nam-gan-day-2008-2012-/language/vi-VN/Default.aspx

[15].http://www.thanhnien.com.vn/giao-duc/vat-vo-nghien-cuu-khoa-hoc-ky-2-nhieu-tien-si-it-phat-minh-47145.html

[16]. “Môi trường dân sinh” là tổng thể các hệ thống, các lĩnh vực trong xã hội mà tác động đến cuộc sống của người dân: chính trị, văn hóa, kinh tế, pháp luật, giáo dục, y tế, môi trường…

[17]. “Tinh thần trách nhiệm xã hội” khác với “tinh thần trách nhiệm cá nhân” mà ta hay gọi là tính ích kỷ, tức là chỉ có trách nhiệm với những gì liên quan đến cuộc sống cá nhân của chính mình, mặc dù tinh thần trách nhiệm cá nhân cũng là một dạng thức của tinh thần cá nhân.

[18]. “Tinh thần tự trọng dân tộc” khác với lòng tự trọng mà ta hay nói đến, mặc dù lòng tự trọng cũng là một dạng thức của tinh thần cá nhân, tôi gọi đó là “tinh thần tự trọng cá nhân”.

[19]. Nguyên văn trích dẫn “A man dies when he refuses to stand up for that which is right. A man dies when he refuses to stand up for justice. A man dies when he refuses to take a stand for that which is true” được súc tích lại “Our lives begin to end the day we become silent about things that matter.”

http://www.etsu.edu/cas/history/documents/mlkselma.htm

(*) Tiêu đề BVN đặt thêm trích từ bài viết

Việt Nam và trò chơi địa chính trị

Việt Nam và trò chơi địa chính trị

Nguyễn Hùng BBC Tiếng Việt

Ông Trọng tiếp thủ tướng Nga ngay trước khi thăm Trung Quốc và có thể sẽ thăm Hoa Kỳ trong tháng Năm

Cụ Nguyễn Khuyến, người sống hầu hết cuộc đời trong thế kỷ 19, nổi tiếng với bài thơ trào phúng ‘ Hội Tây‘ trong đó có câu ‘Tham tiền cột mỡ lắm anh leo’.

Sang thế kỷ 21 với thái độ nghiêm túc hơn, Truyền hình Việt Nam vừa quyết định mở lại chương trình ‘ Hội nhập‘ sau nhiều năm gián đoạn vì theo họ “năm 2015 sẽ là năm của hội nhập vì trong năm nay Việt Nam dự định sẽ ký kết hiệp định thương mại tự do với EU, với Hàn Quốc, với liên minh hải quan Nga, Kazakhstan, Belarus và đặc biệt là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP.”

Ở tuổi 85, Đảng Cộng sản với người đứng đầu chuẩn bị bước sang tuổi 71 cũng đang đứng trước nhiều cột mỡ trong các mối quan hệ ngoại giao phức tạp và tiềm ẩn những rủi ro.

‘Trò chơi địa chính trị’

Điểm qua các hoạt động ngoại giao của Việt Nam riêng trong tháng Tư người ta có thể thấy Hà Nội dường như đang có vị thế ngày càng tăng trong con mắt các cường quốc đang ve vãn.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc hôm 7/4 giữa lúc hai tàu chiến Mỹ do một Đại tá người Mỹ gốc Việt chỉ huy đang ở Đà Nẵng còn Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev tới Hà Nội cũng trong đúng ngày chiến hạm Hoa Kỳ cập cảng Tiên Sa hôm 6/4.

Cùng ngày 6/4, báo chí Việt Nam và quốc tế đưa tin lãnh đạo cơ quan an ninh quốc gia Ấn Độ, một đồng minh của Hoa Kỳ, nói Delhi sẵn sàng đào tạo các sỹ quan tình báo, hải quân và không quân cho Việt Nam khi gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm 3/4.

Trong bối cảnh quan hệ Nga – Mỹ căng thẳng và Washington đang xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam có lợi thế với tư cách là một quốc gia nằm ở vị trí quan trọng và có ảnh hưởng trong khu vực.

Ngay trong ngày đầu tháng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã điện đàm với Thủ tướng Tony Abbott, một đồng minh khác của Mỹ mà ông Dũng vừa tới thăm trong tháng Ba.

Trước đó một ngày Chủ tịch Trương Tấn Sang tiếp lãnh đạo phe thiểu số Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi sang thăm Việt Nam trong khuôn khổ Đại hội đồng Liên minh Nghị viên thế giới mà Việt Nam có vẻ tổ chức đầy tốn kém với xe đưa rước và tiệc tùng khoản đãi hiếm thấy.

Ông Trương Tấn Sang cũng còn có chuyến thăm đã lên lịch tới Nga trong tháng Năm, tháng mà lãnh đạo Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng dự kiến sẽ tới Hoa Kỳ.

Trong bối cảnh quan hệ Nga – Mỹ căng thẳng và Washington đang xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam có lợi thế với tư cách là một quốc gia nằm ở vị trí quan trọng và có ảnh hưởng trong khu vực.

Nhưng một nhà quan sát người Nga, Giáo sư Vladimir Kolotov, cũng vừa cảnh báo hôm 6/4 rằng Hà Nội chỉ là “con tốt” trong “trò chơi địa chính trị” giữa Mỹ và Trung Quốc, hai cựu thù của Việt Nam.

Và Nga cũng không chỉ đứng nhìn trò chơi này của hai nước đứng hàng thứ nhất và thứ ba về xuất khẩu vũ khí, lĩnh vực Nga cũng đứng hàng thứ nhì.

Hà Nội đã nhận ba trong số sáu tàu ngầm kilo trong hợp đồng vũ khí trị giá khoảng hai tỷ đô la mà ông Nguyễn Tấn Dũng ký khi thăm Nga hồi năm 2009.

Cũng phải nói thêm Việt Nam còn mua hai chiếm hạm lớp Sigma từ Hà Lan với giá được cho là chừng 600 triệu đô la sau khi vẫn thủ tướng Việt Nam đặt vấn đề về chuyện này từ năm 2010.

Quan hệ tay tư

Điều có thể dễ dàng thấy từ chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng tới Bắc Kinh là sự hiện diện đông đảo các nhân vật cao cấp của Việt Nam trong đoàn tháp tùng.

Kể cả ông Trọng, đoàn có năm ủy viên Bộ Chính trị trong đó bốn người gần như chắc chắn sẽ có mặt trong dàn lãnh đạo hậu Đại hội Đảng trong năm sau.

Người Mỹ hẳn sẽ nhìn vào phái đoàn thăm Trung Quốc để xem có bao nhiêu người sẽ cùng ông Trọng tới Hoa Kỳ trong chuyến đi có thể diễn ra trong thời gian tới.

Ông Trọng sang Trung Quốc với phái đoàn hùng hậu

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng thăm Hoa Kỳ và nhiều nước đồng minh nhưng chưa thăm chính thức Trung Quốc

Một điều khác cũng đáng chú ý trong bối cảnh chuyến thăm Trung Quốc của ông Trọng là đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người được cho là muốn ngồi vào ghế tổng bí thư trong năm sau, chưa từng thăm chính thức Trung Quốc dù đã thăm cả Hoa Kỳ và Nga trong hai nhiệm kỳ thủ tướng.

Mối quan hệ giữa Hà Nội với Bắc Kinh, Moscow và Washington luôn tiềm ẩn những thách thức ở các góc độ khác nhau.

Căng thẳng trên Biển Đông nơi hiện Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một góc của đảo Trường Sa sẽ luôn là cái gai trong quan hệ Việt – Trung.

Những văn bản được hai bên ký kết trong chuyến đi của ông Trọng tới Trung Quốc không có văn bản nào nói cụ thể về giải pháp tháo gỡ căng thẳng trên biển và lòng tin giữa hai bên vào những gì ký kết cũng không phải khi nào cũng cao.

Những văn bản được hai bên ký kết công khai trong chuyến đi của ông Trọng tới Trung Quốc không có văn bản nào nói cụ thể về giải pháp tháo gỡ căng thẳng trên biển và lòng tin giữa hai bên vào những gì ký kết cũng không phải khi nào cũng cao.

Ngay khi ông Trọng còn ở Trung Quốc, tờ New York Times nói Bắc Kinh vẫn tiếp tục mở rộng sự hiện diện của họ trên đảo Trường Sa sau khi chiếm một đảo từ tay Việt Nam hồi năm 1988.

Hoa Kỳ ở các mức độ khác nhau thường đặt ra vấn đề nhân quyền thậm chí với danh sách cụ thể các ‘tù nhân lương tâm’ mà họ muốn chính quyền trả tự do.

Trong năm 2014 hai nhân vật có trong danh sách, Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ và blogger Điếu Cày, tức Nguyễn Văn Hải, đã được trả tự do nhưng mới đây một dân biểu Mỹ đã lại trao một danh sách khác cho Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Các lãnh đạo Việt Nam có vẻ vồn vã với Nga hơn cả do họ không bị ép về dân chủ, nhân quyền và cũng không có tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải.

Nhưng Nga cũng là nhà cung cấp vũ khí hàng đầu cho Trung Quốc, nước trong thập niên 80 còn được chính quyền Hà Nội công khai coi là kẻ thù nguy hiểm nhất của Việt Nam.

Và quan hệ chặt chẽ chưa từng có trong lịch sử giữa Nga, nước đang bị phương Tây cấm vận, và Trung Quốc sẽ khiến Moscow khó có phản ứng mạnh mỗi khi Hà Nội và Bắc Kinh xung khắc.

Việt Nam đã ý thức được điều này và tăng cường quan hệ với nhiều đồng minh thân cận của Hoa Kỳ trong đó có Hàn Quốc, Nhật Bản và cả Anh.

‘Ăn xin đến bao giờ’

Nhưng điều quan trọng hơn cả vẫn là nội lực của chính Việt Nam trong các mối quan hệ với bên ngoài.

Mới đây một quan chức Nhật Bản đã đặt câu hỏi đến bao giờ Việt Nam sẽ không cần đến viện trợ phát triển ODA của họ nữa sau khi đã nhận chừng 20 tỷ đô la trong 20 năm qua theo blogger Nguyễn Văn Tuấn.

Blogger này còn dẫn lời ông Lê Đăng Doanh thuật lại lời của một nhà tài trợ giấu tên hỏi rằng Việt Nam “định ngửa tay ăn xin đến bao giờ” trong khi tự hào là “người thông minh, có học”, có “truyền thống” cũng như “trí tuệ”.

Tháng Tư này cũng đánh dấu 40 năm kết thúc Cuộc chiến Việt Nam vốn đã khiến cả triệu người bỏ nước ra đi sau đó.

Tháng Tư này đánh dấu 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam

Nhưng chính những người mà đối với họ tháng này là “tháng Tư đen” và ngày 30/4 là “ngày quốc hận” cũng đóng góp vào số 80 tỷ đô la kiều hối mà Việt Nam nhận được chỉ trong 12 năm từ 1991-2013 theo các chuyên gia trong nước.

Những Việt kiều mà đa số sống ở Hoa Kỳ và nhiều con em của họ phục vụ trong quân đội nước này sẽ tiếp tục có ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.

Người chỉ huy hai chiến hạm tối tân của Hoa Kỳ đang cập cảng Đà Nẵng là Đại tá người Mỹ gốc Việt Lê Bá Hùng.

Và điều có thể khẳng định là Việt Nam sẽ chỉ thực sự được nể trọng trong con mắt các cường quốc khi người dân Việt Nam, chứ không chỉ các quan chức, giàu có và có quyền đưa ra các quyết định quan trọng về hướng đi của đất nước trong đó có hướng đi của các mối quan hệ đa phương.

Và cũng chỉ như vậy sự hội nhập mới không như sự mô tả ‘Hội Tây’ của cụ Nguyễn Khuyến:

“Khen ai khéo vẽ trò vui thế, Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước

Đỗ Kim Thêm

Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta có các lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.

Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.

Mọi vấn đề hiện nay của Việt Nam có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.

***

Ký ức thay ngụy sử?

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày quan trọng trong lịch sử của Việt Nam, vì là ngày kỷ niệm 40 năm chiến tranh kết thúc. Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như đã lần lượt ra đi hay đang quên đi những hậu quả của chiến cuộc. Thời gian dài này cũng đủ để làm một thế hệ hậu chiến trưởng thành mà không vướng bận với ký ức thuộc về lịch sử.

Tuy thế, có một sự khác biệt giữa ký ức và lịch sử. Ký ức là một điều kiện thiết yếu tự tại và có một giá trị đặc biệt cho lịch sử. Ký ức riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và ký ức tập thể tạo nên bản sắc xã hội. Cả hai đặc thù văn hoá này nếu kết hợp nhau được sẽ làm thành một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác thảo lịch sử, sử gia cần có ký ức văn hoá, một sự thật của lịch sử và đây là một trong những điều kiện khách quan làm khởi điểm cho chính sử.

Nhưng trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch sử ít được quan tâm, bởi vì chúng ta đang có những nhu cầu bức thiết, đó là hiểm hoạ Bắc thuộc và bất lực của chính quyền trước những khát vọng của toàn dân về toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, nâng cao công bình và tôn trọng nhân quyền.

Nhìn lại sau 40 năm dài thì thực tế cho thấy dù là ký ức của các chứng nhân lịch sử đang nhạt nhoà và bản sắc của đất nước đang tàn phai, nhưng người Việt vẫn còn bị ám ảnh bởi những chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành quả chiến thắng mãi làm cho việc hoà giải giữa người Việt còn khó khăn và những giá trị phổ quát trong xu thế thời đại như tự do, dân chủ, nhân quyền và trọng pháp lại chưa áp dụng. Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại.

Nếu chúng ta muốn xây dựng một chính sử Việt Nam cho hôm nay và mai sau, thì giải ảo ngụy sử là một nhu cầu tất yếu. Vậy vấn đề là liệu có nên khơi động lại ký ức cá nhân hay tập thể hoàn toàn độc lập với mọi dị biệt và đối kháng với ngụy sử để làm cơ sở được không?

Thế hệ tham chiến và quá khứ

Thế hệ tham chiến nghĩ gì về quá khứ và để làm gì trong hiện tình? Chiến tranh Việt Nam nằm trong bối cảnh quốc tế của Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ điển hình trong khu vực về Chiến tranh Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như nhiều quốc gia đều hình thành bằng bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài, tranh đấu bằng bạo lực là một phương tiện hiển nhiên, nó tạo nên một loại văn hoá chung và trở thành một sự thực khách quan của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước và là một sản phẩm của lịch sử.

Công việc chọn lọc quá khứ để giải ảo lịch sử cũng có nghĩa là làm sống lại quá khứ, một phần hay toàn bộ ký ức của cá nhân hay tập thể. Phủ nhận hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực này là bất khả. Không ai muốn quên lãng quá khứ oai hùng, vì mục đích kéo dài hạnh phúc đã hết là để làm quên đi thực tế bất hạnh. Quên lãng quá khứ thương đau thì không thể dễ dàng vì là một ám ảnh còn vang động trong hồn như một loại bịnh tâm thần kinh niên không trị được. Khép lại quá khứ và cảm nhận nó trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai, cả hai việc đòi hỏi chúng ta có một ý thức phản tỉnh mà không bị dồn ép cực đoan bằng một ý thức hệ đã lỗi thời hay xí xoá dễ dãi bằng những thành tựu kinh tế nay đang sa sút.

Để trả lời các vấn đề này, thế hệ tham chiến lập luận là ký ức của các chứng nhân lịch sử sẽ mai một và ký ức của tập thể chỉ có tính địa phương. Đoàn kết dân tộc là một vấn đề trọng đại của lịch sử đất nước, chúng ta hãy để cho sử gia làm việc, vì họ có khả năng gạn đục khơi trong các tồn đọng cuả quá khứ để trình bày khách quan hơn và có tác động hữu hiệu hơn. Bất hạnh cho chúng ta là sử Việt bị ngụy tạo quá nhiều, nên không thể lý giải và thuyết phục các sự thật lịch sử cận đại.

Ngụy tạo chính sử

Có một sự khác biệt giữa quan điểm về lịch sử của người phương Tây và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là chuyện lịch sử, mọi người cùng yên tâm nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra được ghi chép cẩn thận và nghiên cứu nghiêm túc (That is history; it is totally a record). Khi người Việt nói đó là chuyện lịch sử, chúng ta phải dè dặt hơn, vì đó là một biến cố quan trọng đã xảy ra (It is a most importat thing); sự kiện còn ngờ vực, đúng sai hay hay dở còn cần xét lạ, vì tùy theo thời điểm và quan điểm chính trị. Đây không phải là một khám phá mới lạ, vì đã có vô số các bằng chứng về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví dụ chính cho thấy các tầm mức tác hại nghiêm trọng của vấn đề ngụy tạo.

Thứ nhất, theo sử thì Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thc tế thì Đảng tiếp tục hoạt động trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính sự kiện này của ĐCSVN và Đảng Lao Động, dù là hình thức.

Thứ hai, vai trò của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn, vì Đảng không cướp được chính quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 và về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám.

Việt Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3 năm 1949 theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt của Hiệp định là Việt Nam thống nhất và độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 về ngoại giao và chính trị.

Không ai bỏ công phân biệt ý nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do ngoại xâm và phương cách bất chánh để cướp chính quyền trong nội chính. Xác minh thời điểm chính xác cho sự độc lập cũng bị quên lãng.

Thứ ba, cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuyện dài không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau viết về xuất xứ, hành tung, khả năng, quá trình hoạt động và tư cách đạo đức của ông. Mỗi lúc lại có một khám phá mới làm cho sự thật về cuộc đời của ông càng huyền bí hơn.

Nhu cầu tuyên truyền chính trị nhất thời là lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu đã (phải) suy tôn ông lên làm thần thánh, rồi một thời gian sau, vì lý do chính trị khác, lại hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử. Vì ông là một nạn nhân của lịch sử quái ác nên các vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời tư của ông còn cần phải tiếp tục soi sáng.

Thứ tư, đấu tranh quân sự có phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay kết hợp với các giải pháp nghị trường và ngoại giao cũng là điều kiện khả thi?

Trước trào lưu đấu tranh giành độc lập tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp đã ý thức vấn đề này. Từ năm 1947 Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa và tôn trọng nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam bằng cách đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là một thắng lợi ngoại giao và pháp lý mà Đảng Cộng Sản đã phủ nhận và về sau giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa.

Do đó, khi nhân danh giành lại độc lập dân tộc, họ chiến đấu vũ trang chống Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Trái lại, các nước châu Á khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Cộng sản Quốc tế, mà thành công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ, dù bối cảnh phức tạp hơn Việt Nam nhiều.

Thứ năm, ĐCSVN sử dụng chiêu bài đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ như một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ đã chống đối bất cứ giải pháp chính trị và ngoại giao nào không cho họ độc quyền đấu tranh và lãnh đạo quốc gia, mà Hiệp định Genève và Paris là hai cơ hội lịch sử.

Dù Hiệp định Genève chỉ là để định ranh giới ngưng bắn và không áp đặt những giải pháp chính trị, nhưng thống nhất Nam Bắc thuộc quyền dân tộc tự quyết, một cơ hội mới về tổng tuyển cử mở ra và sẽ do hai miền ấn định. Lãnh đạo cả hai miền đã không đủ nỗ lực để thực thi biện pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không tốn xương máu. Đó là một quan điểm sai lầm của cả hai và trở thành một bất hạnh cho dân tộc hiếu hoà.

Hiệp định Paris là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ hội khác mở ra nếu các bên đồng ý “thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào.” (Điều 15).

Phát động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn tính miền Nam không phải là phương pháp hòa bình như đã ký kết. Vi phạm Hiệp định Paris lại là một thành tích tự hào về sự phản bội của chính mình và chấp nhận hy sinh xương máu của thế hệ thanh niên cuối cùng của miền Bắc.

Thứ sáu, Đại Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang sử đấu tranh của ĐCSVN, nhưng Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt Nam không hề kiểm chứng nguồn tin này.

Tóm lại, các vấn đề quan trọng trong chính sử cận đại như ý nghiã đích thực của chiến tranh, kết hợp các phương tiện khả thi để giải quyết xung đột, những hy sinh và thành tích cần được giải ảo trong một phương cách mới hơn, khi mà có vô số các nguồn tài liệu được liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng ta phải có can đảm nhìn vào sư thật của lịch sử trong một nhãn quan mới.

Cho dù ngày nay ngụy sử đã không thể phản ảnh được toàn bộ quá khứ và chính sử cũng không hẳn là mất đi hết trong những gì còn sót lại nơi lòng người, nhưng điều may mắn hơn cho chúng ta là lịch sử vẫn còn được truyền tụng, mà ký ức cá nhân và tập thể cần hồi tưởng là thí dụ điển hình.

Những người Việt đang ở vào lớp tuổi bốn mươi hay trẻ hơn không có ký ức về chiến cuộc, vì họ chưa sinh ra. Dĩ nhiên, họ có quyền đặt câu hỏi vì sao Việt Nam chưa thể canh tân đất nước và hưởng độc lập dân tộc và họ phải gánh chịu một di sản tồi tệ như ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục được họ, thì ký ức của các bậc cha ông còn sống sót sẽ đóng vai trò gì?

Ký ức chiến cuộc nhạt nhoà

Tình yêu về dĩ vãng vốn bẩm sinh trong tâm hồn người Việt; họ thích ôm ấp kỷ niệm trong mơ hồ và không muốn dùng ngôn ngữ để diễn đạt những cảm xúc trân qúy. Ký ức là nhớ lại; một người không có trí nhớ là một người không còn bản sắc riêng. Nhưng ngược lại với ký ức là quên lãng; ai phải dồn ép quá khứ, thường là người không bình thường và hoặc sẽ mang bịnh ức chế. Một người trưởng thành không có ký ức sẽ mãi là một trẻ con.

Ký ức tập thể theo Maurice Halbwach quan trọng hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm sống của một cá nhân, hằn sâu, tiêm nhiễm vào một tầng lớp xã hội, một thế hệ trong một giai đoạn của dân tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân tộc không có ký ức lịch sử cũng là một dân tộc chưa trưởng thành.

Khi xưa, Tản Đà có than thở “Dân hai lăm triệu, ai người lớn?, Nước bốn nghìn măm vẫn trẻ con.” Lời thơ ai oán được truyền tụng như một lời cảnh tỉnh về tình trạng dân trí trong thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công Sơn cũng đã nhắc nhiều đến thân phận đất nước, nhưng thê thiết nhất là “Ôi, đất nước u mê ngàn năm“. Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài này sống trong hai thế hệ cách biệt nhau, nhưng lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm đến chính sử và ký ức.

Nhưng làm sống lại ký ức không dễ, vì có một cái gì đó thiếu bình thường mà có quá nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc nhiên.

Thứ nhất, nhân ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng và biểu ngữ với nội dung “Hân Hoan Chào Mừng Ngày Giải Phóng Thủ Đô”. Vô ý hay là trớ trêu trong một ký ức nhạt nhoà? Không ai biết.

Thứ hai, ngược lại, nhân ngày này mà một số người Việt hải ngoại cũng có tổ chức “Ngày Diễn Hành Cho Tự Do”. Vì là buổi diễn hành nên ít có thuyết trình về ý nghĩa trọng đại về một ngày lịch sử của đất nước để người tham dự cảm thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này. Vì tự do hoài niệm mà đôi khi cũng có nhiều nơi còn có kết hợp với lễ Lao Động với dạ tiệc và khiêu vũ thâu đêm là chính. Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài trong hoàn cảnh mới, nên không đem lại một âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn, nhớ những nguời nằm xuống và người trốn chạy.

Thứ ba là chuyện không có quyền công khai tưởng niệm những người nằm xuống trong chiến tranh biên giới Trung – Việt. Khơi động ký ức lại cần có ý kiến chỉ đạo? Hồi sinh ký ức càng thêm chua chát khi lãnh đạo hân hoan đón tiếp lãnh đạo bạn để cùng “Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ Trung Quốc Hy Sinh Vì Chính Nghĩa” trong Tiết Thanh Minh, một việc làm đúng theo chính sách đề ra.

Còn nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại càng khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát Gạc Ma. Trước đây binh sĩ không được phép chống trả với Trung Quốc nên đem lại một cái chết tập thể; chính quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không cho phép tưởng niệm và ghi công và không nêu tên kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ ký ức có định hướng.

Những người chiến đấu còn sống không được tri ân, đãi ngộ và chỉ còn âm thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng bất hạnh giống như các cựu chiến binh Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu của lịch sử mà đó lại là định mệnh của mình.

Thứ tư là chuyện những người di tản buồn lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới những thuyền nhân qua cơn phong ba bảo táp, chưa hưởng được tự do và cuối cùng phải yên nghỉ nơi đảo vắng xứ người. Trùng tu mộ phần đã khó, sơn tặng cho họ một lá cờ trên mộ phần và lập đài tưởng niệm trên các đảo cũng bị nhà nước CSVN tìm cách áp lực ngoại giao nên không được phép. Thân nhân cũng đành khép lại quá khứ theo chính sách.

Thứ năm là vấn đề gọi tên ký ức. Thảm sát hay chiến thắng Mậu Thân? Định danh ký ức cũng cần thảo luận như gọi tên cho cuộc chiến. “Chống Mỹ xâm lược“ mà hơn 5000 ngàn thường dân Việt và vài ân nhân người Đức phải chết oan uổng, thì không thể nào gọi là thắng lợi huy hoàng và có thể giải thích thuần lý.

Những hung thủ còn sống sót cũng không đủ can đảm đính chánh về cáo giác của các nhân chứng trong “Giải Khăn Sô Cho Huế“. Dù tai họ còn nghe và mắt họ còn thấy phản ứng của nạn nhân khác còn sống, nhưng khác với Hitler đã tự xử, hung thủ yên tâm hơn để nghiên cứu về Huế học, mà họ quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn thiết nhất của Huế học là làm sáng tỏ việc tàn sát. Tên tuổi và hành vi của họ vẫn bị ràng buộc với lương tâm và lịch sử.

Chúng ta là có vô số ký ức cá nhân có giá trị lịch sử: Giải Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn Chiến TranhĐèn Cù là những thi dụ chính. Vì là tự truyện cá nhân nên có sự đãi lọc nhất định theo ý nghĩ cảm nhận và tùy theo cái gọi là lieux de mémoire của tác giả (các địa điểm liên hệ tới biến cố xãy ra để trở thành ký ức, một khái niệm của Pierre Nora). Thực ra, nhân chứng lưu giữ ký ức, họ chỉ là một người sống trong những biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không hiểu tại sao, không lường đoán được hậu quả và giải thích các tầm mức phức tạp của diễn biến.

Do đó, chúng ta cần có sử gia, vì ký ức cần khách quan hoá theo phương pháp sử học, một tiến trình đến sau và có chọn lọc. Sử gia đối thoại với nhân chứng, vì nhân chứng biết rõ hơn các biến cố. Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập theo một hệ thống nhất định thành một loại đề tài chung.

Dù ký ức về chiến cuộc nhạt nhoà, nhân chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân chính, nhưng lịch sử không thể nguy tạo ký ức. Chính ký ức làm nên lịch sử. Ký ức không phải là vấn đề riêng của sử gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho tất cả những người có liên quan và có tinh thần trách nhiệm. Những người đứng ra tổ chức các lễ tưởng niệm với các phương tiện truyền thông hiện đại cũng là một thí dụ.

Các buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở sẽ làm sống lại các ký ức tập thể. Những hình thức nghi lễ “hoành tráng“ của phe thắng cuộc không mang nhiều ý nghĩa đích thực để tìm ra bản chất của tưởng niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm chỉnh về ý nghĩa của tưởng niệm là quan trọng hơn.

Nhờ thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng cách khám phá những sự dị biệt trong ký ức với tinh thần trách nhiệm. Ký ức dị biệt của cá nhân là một phương tiện thông đạt dùng trong sinh hoạt hằng ngày khi thảo luận về những biến cố lịch sử. Ngược lại, ký ức tập thể là một sản phẩm xã hội, đẩy mạnh cho việc hình thành một bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng biết tìm đâu bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Việt?

Bản sắc dân tộc tàn phai

Dù là gọi là đất nước hay dân tộc cũng chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung chứa đựng một linh hồn chung. Hồn thiêng này có hai phần: phần một nằm trong quá khứ, là một di sản thuộc toàn dân và ký ức lịch sử là một thành phần. Phần hai nằm trong hiện tại. Đó là tinh thần đồng thuận, cùng ước mơ chung sống để phát triển và lưu truyền giá trị của một di sản không thể phân chia. Khái niệm dân tộc này của Ernest Renan không phải là chủ nghiã dân tộc đã bị lạm dụng quá nhiều trong quá khứ.

Bản sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính được duy trì trong quá trình của lịch sử và được kết tinh thành những biểu tượng để phân biệt với các dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn mực giá trị cho xã hội và thể hiện tâm lý dân tộc mà các ký ức văn hoá là thí dụ.

Ký ức văn hoá theo Jan Assman gồm có việc sử dụng chính sử, tự truyện, hình ảnh và nghi lễ đặc biệt cho một xã hội trong một thời kỳ; mọi sự vun bồi này sẽ tạo nên một hình ảnh chung cho bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có thể hiểu được giá trị truyền thống.

Chúng ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân tộc và đơn giản hoá vấn đề, nhưng kỳ thực, bản sắc cá nhân phức tạp, vì dựa vào hoàn cảnh và điều kiện xã hội địa phương, thuộc về một thế hệ nhất định, một tôn giáo, một đoàn thể nghề nghiệp và trình độ giáo dục nào đó. Bản sắc thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời qua những biến cố của riêng mình.

Mô tả về bản sắc đất nước càng khó hơn vì theo dòng lịch sử, có quá nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các ký ức cũ phai mờ, tạo thành những bản sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa điểm mà bản sắc đất nước có thể tiến hay thoái hoá. Các thay đổi về giá trị qua từng thế hệ kết hợp nhau trong liên tục và tái tạo.

Trong một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng đã bao nhiêu lần nói là “thống nhất đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn lần tươi đẹp hơn”. Nhưng chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lý do tự phong một bản sắc mới là “trung tâm phẩm giá của loài người và lương tâm của thời đại”. Bản sắc cường điệu này không thuộc truyền thống chân thành của dân tộc. Đảng đã không thể trau dồi bản sắc, và chiến thắng không đem lại tự do và cơm áo cho toàn thể dân chúng trong thời bình.

Dù thành tựu đổi mới kinh tế có đem lại cho sung túc cho một thiểu số, nhưng Đảng không thể nâng cao bản sắc văn hoá vì giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, thờ ơ của dân chúng và gương xấu của chính quyền là trở lực. Tìm lại bản sắc dân tộc đã đánh mất là điều không thể thực hiện được trước mắt, vì thành tựu của các biện pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo đức không thể là kết quả dễ được tìm thấy trong một sớm một chiều.

Đã đến lúc đất nước cần có bản sắc mới như là một vai trò kết nối, một khái niệm và một thành tố để xây dựng lịch sử. Nhưng làm sao nối kết những ký ức văn hoá dị biệt trong bối cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ viễn kiến để tiên đoán chuyện lý thuyết.

Nhưng sử gia không còn đi tìm những giá trị biểu tượng xa xưa, vì các biến động mới có những giá trị làm cho lịch sử độc đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm một phương tiện nhằm tạo ra huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi điểm mới về ký ức lịch sử cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian lắng đọng để họ cùng tìm hiểu về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do đó, giải ảo về nội dung ngày này cần được đặt ra.

Phản tỉnh về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc đã sống trong 40 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ, với các sử liệu mới, lý trí khách quan và tự do phê phán giúp cho chúng ta nhận ra sự thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp. Giá trị biểu tượng của ngày này là một nghịch lý bi đát. Chiến tranh kết thúc giải phóng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là vinh quang mà còn là tủi nhục; ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là giải phóng và hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước vừa được giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là thiệt hại vật chất mà còn là tinh thần, một vấn đề bản sắc.

Dĩ nhiên, chúng ta phải chấp nhận những gì đã xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thể thay đổi được, dù còn bị ảnh hưởng hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không thể tách rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày 3 tháng 2 năm 1930, ngày thành lập ĐCSVN, đó là một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi trong các trang sử Việt.

Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt. Vì sao?

Vì nhìn lại quá khứ của công cuộc tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng tối kinh hoàng. Đó là các biện pháp truất hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, bài trừ văn hoá đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế mới và học tập cải tạo. Theo sau là thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam và phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ để rồi ĐCSVN phải chịu có biện pháp xé rào và đối mới để nuôi dưỡng chế độ.

Với một cơ hội mới và tiềm năng cao để tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng đến năm 2015 mà Việt Nam còn tụt hậu thua Lào về canh tân công nghiệp, trình độ phát triển dân chủ kém hơn Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu hơn Hàn quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng lực lao động thấp nhất trong khu vực, nhưng tình trạng vi phạm nhân quyền và bất công xã hội lại là trầm trọng nhất.

Vì nhìn về tương lai chúng ta càng lo sợ hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư bản thân tộc tạo ra một xã hội thị trường hỗn loạn trong một nhà nước sơ khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng đỉnh, đạo đức suy sụp tận đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn kiệt là hậu qủa. Trong khi hiểm hoạ Bắc thuộc là hiện thực, thì bất ổn cá nhân, bất trắc kinh tế và bất công xã hội vẫn còn kéo dài.

Tóm lại, chúng ta có các lý do chính đáng để không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này trong tương lai.

Ngày tưởng niệm

Hồi tưởng thuộc về một phần trong đời sống tâm linh của chúng ta. Ai đã sống trong ngày 30 tháng 4 với đầy đủ ý thức và nhận xét, thì cũng tự hỏi là ngày này mình làm gì và ở đâu và sự ràng buộc của mình trong biến cố này.

Ngày 30 tháng 4 là một ngày để chúng ta tưởng niệm về tất cả những người quá cố của hai miền, những người đã tin là mình chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước. Chúng ta không thể quên họ và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn nhất là các chiến sĩ giải phóng quân; bây giờ họ không còn cơ hội để nhận ra rằng họ đã bị phản bội; tất cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa; cái chết của họ chỉ là phục vụ cho các mục tiêu cướp chính quyền của giới lãnh đạo vô nhân đạo.

Chúng ta sống trong gọng kềm của lịch sử dân tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền lợi của giới lãnh đạo. Cả một dân tộc không ai có tội cá nhân; không ai có tội với lịch sử. Có tội ít hay nhiều chỉ có thể quy kết cho tập thể lãnh đạo, vì họ thiếu trí tuệ và thiếu bản lãnh; họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa phi dân tộc và không tìm cách tiết kiệm máu xương.

Chúng ta cũng hoài niệm về những nổi đau khổ của thân nhân còn sống; đặc biệt là nữ giới, đau khổ vì sự mất mát về tất cả những gì không thể giữ được từ vật chất cho đến tinh thần. Đó là đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc phải chịu mất tài sàn, mất người thân yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương, cưỡng bức lao động, bất công nghiêm trọng và tra tấn dã man, đói khổ, giam cầm và trốn chạy.

Ngày hoà giải

Ngày 30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không những tưởng niệm cho những người nằm xuống mà còn muốn hòa giải giữa người Việt còn sống với nhau. Chúng ta tìm kiếm hòa giải, nhưng không thể hòa giải với những người đã nằm xuống và những người không còn ký ức. Số phận chung của dân tộc liên kết chúng ta với nhau thành một định mệnh chung trong ước muốn chung sống trong hòa bình và thịnh vượng.

Trong đời sống hằng ngày, người Việt chỉ muốn sống an vui trong hiện tại và không muốn nhớ những chuyện vô nhân đạo trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu đựng sự khắc nghiệt do số phận an bài, đó là chuyện tinh thần được đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ khác.

Nhưng ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn sâu trong lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lý xảy ra, người Việt có tinh thần hồi tưởng và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Chúng ta cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà chúng ta vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.

Làm sao chúng ta có thể xoá bỏ vết hằn khôn nguôi nếu không có hoà giải? Thực ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hoà giải không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà còn là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng là một thay đổi thái độ của phe thua cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết định hợp lý của lý trí của phe thua cuộc và cần được thể chế chính trị của phe thắng cuộc bảo vệ. Vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết để bảo vệ họ. Khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự đồng tình của cả hai phe sẽ đem lại ý nghiã chung sống. Đó là một khuôn khổ xây dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho xã hội và tạo lập một cộng đồng cho tương lai.

Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador, Guatemala và Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hoà giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Vì say men chiến thắng mà kinh nghiệm hoà giải chính trị hậu xung đột không là vấn đề quan trọng để Việt Nam quan tâm học tập, cải tạo tập trung là trường hợp minh chứng ngược lại.

Sau ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu tiến trình hoà giải chính trị bằng Nghị Quyết để nhằm thu hút tài năng trí tuệ và đóng góp tài chánh. Nghị Quyết không đề ra sư tương thuận của phe thua cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và tinh thần đạo đức dân tộc làm nội dung cho hoà giải cũng không có. Việt Nam chỉ đo thành tựu Nghị Quyết bằng lượng kiều hối, du lịch và giao lưu văn nghệ trong ngoài. Hoà giải loại này không đem lại một niềm tin chung hướng về tương lai.

Trong nỗ lực hoà giải có một thử thách chung cho hai phía. Sẵn lòng hòa giải phải phát sinh từ trong nội tâm và do ngoại cảnh, không phải là vấn đề mà phe thắng cuộc đòi hỏi nơi phe thua cuộc theo tinh thần Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của mỗi phe đòi hỏi nơi chính mình, đó là khởi điểm quan trọng nhất.

Cụ thể là liệu phe thắng cuộc có thể thực sự tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc đựợc không hay phe thua cuộc có tin tưởng vào thành tâm hoà giải của phe thắng cuộc được không? Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là một cơ sở ràng buộc nhau không? Cả hai phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem có chịu đựng nhau không và có quên quá khứ được không?

Cả hai phe làm gì trong tiến trình này? Chủ yếu là phe thắng cuộc cần có ý thức hơn để tìm lại nguyện vọng trung thực của phe thua cuộc; thay vì diễn binh mừng chiến thắng chỉ khơi động lại lòng thù nghịch, phe thắng cuộc nên can đảm hơn là đem tàu ngầm hiện đại ra biển Đông để bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương này sẽ gây tác động hoà giải dân tộc cao hơn. Thay vì ngăn cản tưởng niệm, nên thành tâm bày tỏ thương tiếc những người của hai phiá đã hy sinh bằng cách xây một tượng đài chung, một hình thức tỉnh ngộ về sự lầm lạc chung của cả dân tộc trong cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên đãi ngộ người đóng góp còn sống, một hình thức xoa dịu thương đau xã hội; nỗ lực hoà giải với người đối kháng và trực tiếp đối thoại trong tinh thần dân chủ là thực tế hơn, vì không phải ai có quan điểm đối lập chính trị với chính quyền cũng đều là những phần tử suy thoái đạo đức và phản động.

Phe thua cuộc cũng cần có nhận định nghiêm chỉnh hơn về ý nghĩa cao cả của tha thứ. Tha thứ là tìm hiểu và mến yêu người sai phạm. Hiểu nhau là vì đã tìm thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Yêu mến nhau là vì cùng có một số phận và ý chí chung sống để xây dựng tương lai đất nước.Thực tế ngược lại. Một số không nhỏ của phe thua cuộc tự nguyện tìm đến phe thắng cuộc vì những bả lợi danh cuối đời, những lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê nhà, ngay cả những hạnh phúc thoáng qua như tiếng còi hụ đưa đón. Đó là một sự sĩ nhục mà một số trong phe thua cuộc tự tạo ra, vì trong khi cho đến ngày hôm nay, vẫn còn có rất nhiều người khả kính, can trường và liêm chính trong chiến bại.

Tương lai của hoà giải không ai biết được, nhưng khởi động một trào lưu nhận thức mới về tinh thần hoả giải là khẩn thiết, vì các thế hệ tham chiến sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để giải quyết.

Ngày tỉnh thức

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một chương mới trong lịch sử Việt Nam và một thế hệ mới đang trưởng thành. Giới trẻ không có các ký ức dị biệt và không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách nhiệm đối với những gì sẽ trở thành lịch sử. Họ sẽ đóng một vai trò chính về số phận của con người, đất nước và dân tộc trong khoảng thời gian bốn mươi năm tới. Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại có ý nghĩa tỉnh thức vì ký ức cá nhân kéo dài chỉ trong bốn mươi năm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì quan trọng khác còn lại cũng không còn ý nghĩa. Thế hệ tham chiến cần giúp cho giới trẻ hậu chiến tìm hiểu về sự thật của lịch sử, không thiên vị theo ý thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân danh đạo đức. Đâu là giá trị tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4?

Chúng ta cần can đảm để nói cho thế hệ hôm nay biết là hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính; nay lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái thương dân Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ không có phép lạ nào để biến đổi nội tình Việt Nam hôm nay và sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc cho đến xương máu của người Mỹ cuối cùng thay cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam đã hãnh diện chống Mỹ thay cho Trung Quốc trong quá khứ.

Do đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do khuấy động các ý thức hệ đối nghịch, hận thù lầm lạc và gian dối lẫn nhau mà Việt Nam đã có chiến tranh. Do bất tài, bất xứng và bội tình mà thế hệ cha ông đã không để lại được một non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng; “Gia tài của mẹ, một nuớc Việt buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công Sơn.

Từ tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu truyền các ký ức lịch sử và không để bị lôi cuốn vào những hận thù và chống đối nhau, mà cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với nhau trong tình hiếu hoà và nhất là sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn cho tương lai đất nước.

Thế hệ hậu chiến và tương lai

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng thành. Họ có trách nhiệm chính trị cho đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ phải nghĩ gì và làm gì để canh tân đất nước và tìm lại độc lập cho dân tộc?

Nghĩ gì? Thách thức vô cùng to lớn khi thế hệ hậu chiến cần có nhiều ý thức và kinh nghiệm hơn để đảm nhiệm trọng trách này. Đó là vấn đề còn mở rộng để tranh luận, nhưng họ có bốn khó khăn chính.

Một là, họ không kế thừa một phương sách khả thi nào. Đảng đã không thể lý giải được cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà nước Pháp quyền theo định hướng XHCH là gì. Đảng cũng tự nhận là đã theo một đường lối không có cho đất nước. Vì nhận hư thành thực cho nên Đảng cũng không thể hoàn thiện đường lối này cho đến cuối thế kỷ XXI. Nhưng Đảng sẽ vượt qua các chống đối bằng cách dùng bạo lực đàn áp để duy trì chế độ, một bất hạnh cho toàn dân.

Hai là, họ không thể phát huy các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám và Đại Thắng Mùa Xuân không còn phù hợp với trào lưu đấu tranh bất bạo động cho Việt Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng khả thi. Thành quả cuả Cách Mạng Đông Âu, Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á Rập là những bài học mới thích hợp hơn, nhưng họ chưa thể huy động được dân chúng vì thái độ vô cảm chính trị của đa số.

Ba là, họ không thể hy vọng là được Đảng chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng và tâm huyết, vì thân tộc của lãnh đạo còn vây quanh. Trong một xã hội thị trường đang thay đổi hỗn loạn, họ không thể tiên đoán được là đổi mới chính trị sẽ hình thành như thế nào. Tất cả đều tuỳ thuộc vào một số quan niệm về tương lai, những cách đánh giá khác nhau về ý nghĩa của xu hướng hiện nay và về các chuẩn mực để giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi phạm nhân quyền và tự do báo chí.

Bốn là điều kiện ý thức về truyền thống lịch sử và chuyển hoá chính trị. Từ thắng lợi của việc cướp chính quyền mà Đảng tự hào về thành tích làm nên “Ý nghĩa Lịch sử” cho dân tộc. Nhưng ý nghĩa lịch sử này không phải là những gì đã được Đảng tuyên bố, mà giới trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải ảo ngụy sử và niềm tin về tương lai dân chủ cần đến các điều kiện trí thức. Đó là kiến thức và ý thức về chính sử và dân chủ, để từ đó làm cơ sở cho tinh thần xây dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ý thức và có kiến thức thì mới có ý thức để xây dựng một ý chí chung sống.

Tuy nhiên, thực tế bi quan hơn, vì sử học và kinh tế chính trị học không còn thu hút giới trẻ, một môn mà người học không muốn học và người dạy không muốn dạy. Sự tụt hậu là do một hệ thống giáo dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm tin về giá trị cuả toàn xã hội qua nhiều thế hệ.

Ý thức về lịch sử và dân chủ do đào tạo mà ra, có tính thuần lý vì do lý trí hướng dẫn và được đãi lọc qua thời gian. Học chính sử giúp giới trẻ lý luận và phán đoán về sự thật của lịch sử. Ý thức về lịch sử sẽ tạo nên một thái độ chung đối với lịch sử, một khả năng để giải ảo, một loại trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và có tình cảm dân tộc.

Do đó, hy vọng còn lại là giới trẻ sẽ phát huy tinh thần tìm hiểu và mến yêu lịch sử và giá trị của dân chủ. Sự thật lịch sử sẽ là bước khởi đầu và giới trẻ phải tìm kiếm sự thật giữa dòng lịch sử. Giới trẻ có thể so sánh lịch sử tương lai như một dòng sông, nhưng các dòng nước sẽ luôn biến đổi mà họ đang khởi đầu bơi lội và cũng không biết đi về đâu, như một câu nói quen thuộc là “Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông“. Nhưng có ý thức lịch sử và dám dấn thân làm lại lịch sử cho dân tộc là một hy vọng khởi đầu.

Làm gì? Giới trẻ cần thảo luận để nhận ra điều kiện đem lại hoà bình và thịnh vượng cho đất nước. Mọi vấn đề hiện nay có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên. Nhưng sự hợp tác về một chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn định và tương kính là khả thi, khi Việt Nam đủ khả năng chứng tỏ là một người bạn đối tác đích thực bình đẳng và không phải chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy như hiện nay. Với nỗ lực của nhiều thế hệ, chúng ta hy vọng là Việt Nam sẽ đạt được một phần nào những mục tiêu này.

Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rõ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, thì Đảng cũng sẽ không còn phép lạ khi Đảng không tự chuyển hoá. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.

Đ.K.T.

Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2015/04/07/3675-hoai-niem-va-phan-tinh-ve-ngay-30-thang-4-nam-1975-de-giai-ao-nguy-su-hoa-giai-dan-toc-va-xay-dung-dat-nuoc/