Cựu binh Nga kể chuyện bắn máy bay Mỹ

Cựu binh Nga kể chuyện bắn máy bay Mỹ

Georgy Yefremov

Ông Georgy Yefremov nói chuyện với BBC tiếng Nga

Các chuyên gia quân sự Nga đóng góp vai trò đáng kể giúp tăng cường sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến Việt Nam.

Theo một thống kê của Liên Xô, từ 1965 đến 1974 đã có “6.359 sĩ quan, tướng lĩnh và hơn 4.500 binh sĩ, hạ sĩ quan các lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia chiến đấu tại Việt Nam”.

Đánh dấu 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam (1975-2015), ban tiếng Nga của BBC đã phỏng vấn một người Nga phục vụ tại Việt Nam từ 1966 đến 1967.

Theo đại tá về hưu Georgy Yefremov, sứ vụ của đoàn Liên Xô đến Việt Nam là bí mật. Vì vậy ngày nay ông không được chính quyền Nga cấp cho chứng nhận “cựu chiến binh tham gia chiến tranh”, vốn dành cho những người trở về từ chiến trận.

Georgy Yefremov, có mặt tại Việt Nam từ 1966 đến 1967:

Tháng 12 năm 1965, tôi được cử đi Việt Nam cùng 200 chuyên gia.

Khi đến nơi, chúng tôi ở trong rừng, đào tạo bộ đội Việt Nam trong ba tháng để điều khiển hệ thống hỏa tiễn đối không S-75.

Sau đó chúng tôi chuyển ra vị trí phòng không, cách Hà Nội 30 cây số. Vào tháng Sáu 1966, mưa nhiều lắm, không làm gì được, nên phải 10 ngày sau chúng tôi mới bắt đầu chiến đấu.

Chúng tôi có mặt ở đoàn Cao xạ Tam Đảo. Máy bay Mỹ bắt đầu xuất hiện và đánh bom Hà Nội.

Sư đoàn S-75 của chúng tôi có 32 tên lửa đối không. Khi chúng tôi vào vị trí, ba máy bay Mỹ quần thảo trên đầu. Chúng tôi bắn rơi một máy bay, nó phát nổ cách chúng tôi 400 mét.

Tay phi công Mỹ đi ra, làm bị thương hai chiến sĩ Việt Nam. Họ đánh gục hắn, và cho vào trại giam ở Hà Nội.

Sau mỗi phiên chiến đấu, chúng tôi phải thay đổi vị trí vì vào hôm sau, người Mỹ sẽ bay đến và đánh bom chỗ cũ.

Ông Georgy Yefremov và một sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1966

Không lâu sau, chúng tôi chuyển vào vùng núi gần Thái Lan. Tại đó, chúng tôi bắn rơi hai máy bay “Con ma” F-4 của Mỹ.

Chúng tôi trông thấy bốn phi công Mỹ bị bắn rơi, và định đánh chúng. Nhưng chúng tôi không được phép tiếp xúc với người Mỹ. Chỉ có người Việt được phép thôi.

Chúng tôi có nguyên tắc: nếu các học viên người Việt chiến đấu thành công ba lần, thì chúng tôi tin tưởng cho họ điều khiển thiết bị.

Sau khi bộ đội Việt Nam hoàn tất kỳ thi, chúng tôi điều khiển tên lửa chiến đấu trong ba lần để họ xem, rồi đổi cho họ. Khi họ đã bắn được máy bay, chúng tôi chuyển sang vai trò chuyên gia mà thôi.

Chúng tôi đóng vai trò quan trọng. Đằng sau hậu trường, người ta bảo các đơn vị tên lửa của chúng tôi đã bắn rơi khoảng 6000 máy bay, mặc dù chính thức thì họ chỉ nói là 1.500 thôi.

Người ta chỉ gọi đây là hỗ trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở Liên Xô thời đó, và cả Nga bây giờ, người ta không gọi là chiến tranh.

Tôi đã tới kho lưu trữ của Bộ Quốc phòng vì tôi muốn có chứng nhận “Cựu chiến binh tham gia chiến tranh”. Nhưng họ bảo, “Ông đâu có tham gia đánh nhau.” Chính thức thì chả có ghi chép ở đâu cả. Chỉ là “hỗ trợ” thôi.

Khi đi Việt Nam, chúng tôi được trả tiền khá lắm. Vợ tôi sống ở thành phố Bryansk vì tôi thuộc trung đoàn Bryansk. Bà ấy được nhận 220 rúp, còn khi ở Việt Nam, tôi nhận 470 rúp.

Khi đi Việt Nam, tôi mới là đại úy. Khi về, tôi được đưa về trụ sở đơn vị phòng không của Moscow.

Khi Sài Gòn sụp đổ, tôi đọc tin trên báo chí Liên Xô. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là tôi đã giúp cho việc thống nhất Việt Nam, có đóng góp của tôi.

Việt Nam vẫn là đất nước thân thiện. Từ ngày đó, tôi đã đến sứ quán Việt Nam 48 lần cho dịp chiêu đãi, nơi tôi gặp lại một số đồng chí.

Nhờ chúng tôi giúp đỡ, Sài Gòn đã thống nhất với Hà Nội, miền Nam thống nhất với miền Bắc. Liên Xô đã cứu Việt Nam, và ngày nay, Việt Nam đang phát triển, thậm chí còn hơn cả Nga.

Luật sư Lê Công Định nói về ngày 30 tháng 4

Luật sư Lê Công Định nói về ngày 30 tháng 4

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-04-29

Luật sư Lê Công Định nói về ngày 30 tháng 4 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg10174163.jpg

Luật sư Lê Công Định phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với AFP tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 10/4/2015.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Trong chuyên đề Ký ức 40 năm hôm nay Mặc Lâm có cuộc trao đổi với Luật sư Lê Công Định, nguyên Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư Sài Gòn, một trí thức từng có nhiều bài viết cổ súy cho dân chủ tại Việt Nam. Ông là con của một gia đình cách mạng sinh trưởng và lớn lên tại Sài Gòn nhưng có cái nhìn khác về ngày 30 tháng 4 năm 75. Luật sư Lê Công Định từng bị tù hơn 4 năm về tội tuyên truyền chống phá cách mạng và đây là lần phỏng vấn đầu tiên ông dành cho RFA sau khi ra khỏi trại giam vào ngày 06 tháng 2 năm 2013. Trước nhất LS Định nói về ký ức ngày 30 tháng 4 của mình khi ấy ông vừa 7 tuổi:

Tôi còn đọng lại trong ký ức của mình hình ảnh ngày 30 tháng 4 năm 75. Thực ra lúc đó tôi mới 7 tuổi thôi, trước ngày đó thì chúng tôi vẫn đến trường đều đặn. Những cuộc di tản trên đường phố cũng như tại Tòa đại sứ Mỹ lúc đó bắt đầu có những người chạy vào leo lên trực thăng, tôi thấy những hình ảnh đó khi đi ngang qua và nó vẫn còn đọng lại trong ký ức của tôi về cuộc chiến tranh.

Cái ngày 30 tháng 4 đó tôi và những trẻ con trong khu phố mình ở đã ra đường để xem mặt đoàn quân giải phóng như thế nào và sau dó thì xem TV thì thấy Ủy ban Quân quản họ tổ chức những buổi meeting đưa hình ảnh ông Hồ Chí Minh cũng như đưa những lá cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lúc đó tôi rất ngạc nhiên và hỏi ba tôi ông đó là ai, ba tôi trả lời đó là ông Hồ.

Sau đó khi lớn lên thì tôi bắt đầu hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh, tất nhiên đã bị giảng dạy một cách lệch lạc theo cái nhìn của chính quyền chứ không phải theo đúng sự thật lịch sử của nó. Do đó tôi cũng như bao thế hệ trẻ lớn lên trong lòng của chế độ mới này khi học hành chúng tôi bị tiêm nhiễm bởi cái lối truyền đạt có tính cách tuyên truyền nhiều hơn là dạy cho học sinh, sinh viên hiểu được thế nào là lịch sử trong quá khứ.

Ông hối hận tại sao mình lại tham gia xây dựng nên một chính quyền để rồi cuối cùng người dân bình thường lại bị tước đoạt như thế này?
– Luật sư Lê Công Định

Khi vào đại học tôi nhận ra điều đó qua nói chuyện với người thân trong gia đình cũng như bạn bè của tôi, tôi mới bắt đầu tìm hiểu, đọc lại sách. Nhưng sách lúc đó hầu hết do nhà nước xuất bản làm sao mình có thể hiểu được? Vì vậy buộc lòng tôi phải đọc lại những cuốn sách in trước năm 75 của gia đình tôi và đặc biệt của người anh trai tôi. Những cuốn sách đó đã thực sự thay đổi suy nghĩ của tôi, tôi bắt đầu định hình một suy nghĩ mới, nhận thức mới của lịch sử Việt Nam từ những năm 17-18 tuổi. Tôi chỉ muốn nhìn một cách tổng quát đa chiều về lịch sử của đất nước mình.

Mặc Lâm: Thưa LS sau khi ông bị bắt thì báo chí chính thống rộ lên nhận định cho rằng gia đình ông là một gia đình cách mạng và đã được ưu đãi. Trong thời gian sau 30 tháng 4 thì gia đình ông có được ưu đãi như họ nói hay không thưa luật sư?

Luật sư Lê Công Định: Về việc đó thì nó như thế này: Ông nội tôi, bác tôi, ba tôi và thậm chí cô tôi đều đi theo phong trào cộng sản. Giống như những trí thức miền Nam lúc đó họ không thích sự có mặt của quân đội nước ngoài. Sau cuộc chiến tranh chống Pháp kéo dài không ai còn muốn thấy quân đội nước ngoài ở Việt Nam. Gia đình tôi cũng như bao nhiêu người trí thức khác đều lựa chọn cho mình thái độ trung lập đối với chính quyền lúc đó.

Gia đình tôi không may được tiếp cận với những người hoạt động cho phong trào cộng sản cho nên họ bị ảnh hưởng và họ tham gia vào phong trào cộng sản gọi là “cuộc kháng chiến chống Mỹ”.

Gia đình tôi bị ảnh hưởng rất nhiều và ba tôi thậm chí đi tù vì những hoạt động chống lại chính quyền Sài Gòn vào năm 1960 và ông nhận cái án tương đối nặng nề là 5 năm tù. Sau đó khi ra tù ông tiếp tục cuộc sống bình thường của mình nhưng vẫn âm thầm cổ vũ cho phong trào cộng sản. Năm 75 xảy ra sự kiện thống nhất thì ba tôi nghiễm nhiên trở thành một thành viên trong chế độ mới nhưng có nhiều điều sau đó khiến ông bắt đầu nhận thức ra mình đã bị lừa dối như thế nào qua các chính sách mà họ áp dụng cho người miền Nam lúc đó. Thí dụ như là giam cầm những quân nhân và công chức của chế độ Sài Gòn, cải tạo tư sản. Ba tôi đã từng tham gia vào những cuộc gọi là cải tạo tư sản đó và ông nhận ra được bản chất phi nhân của những chính sách như vậy.

Người dân trước năm 75 họ ky cóp tài sản của mình và làm ăn một cách chân chính để sống đời sống giản dị như giới trung lưu thì họ bị chụp cái mũ là tư sản mại bản, bị tước đoạt toàn bộ tài sản và đẩy cả gia đình vào vùng kinh tế mới.

Ba tôi có kể với tôi một sự kiện mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ hoài. Ba tôi kể khi đoàn làm việc của ông đến nhà một bà bán tạp hóa người Hoa để kiểm kê và tịch thu tài sản của bà thì buổi sáng bà đó vẫn còn đầu óc minh mẫn, tóc vẫn đen và nói chuyện vẫn đâu ra đó. Bà năn nỉ van xin mong người ta để lại tài sản dù là một phần, nhưng đoàn làm việc theo lệnh trên vẫn lấy toàn bộ tài sản của bà. Bà đã khóc lóc van xin suốt từ sáng đến chiều…ba tôi nói rằng khi nhìn toàn bộ tài sản của mình bị lấy đi hết thì bà đã hóa điên hóa dại, nói năng không còn bình thường nữa và tóc bà trở nên bạc trắng! Ba tôi nhìn hình ảnh đó và ray rứt cả cuộc đời. Ông hối hận tại sao mình lại tham gia xây dựng nên một chính quyền để rồi cuối cùng người dân bình thường lại bị tước đoạt như thế này? Điều đó ba tôi kể cho tất cả các con nghe.

 

Người dân Sài Gòn di tản hôm 30/4/1975. AFP photo

Riêng tôi hình ảnh bà bán tạp hóa người Hoa hóa điên, tóc trở nên bạc trắng ám ảnh và ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi từ nhỏ cho đến tận bây giờ. Gần như trong gia đình tôi có một sự phản tỉnh từ ba tôi cho tới các con.

Nói về mặt lý lịch thì tất nhiên gia đình tôi là một “gia đình cách mạng” lẽ ra cũng nhận những ưu đãi giống như bao nhiêu cán bộ trong hệ thống này, tuy nhiên có một điều xảy ra vào năm 1980 khi mâu thuẫn nội bộ bên trong hàng ngũ cán bộ giữa miền Bắc và miền Nam lúc đó. Ba tôi bị chụp cái mũ làm sai nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa và ông bị chính đồng đội của mình bắt giam trong 6 tháng trời không qua xét xử và có bất kỳ một bằng chứng nào nên cuối cùng phải thả ba tôi ra và yêu cầu ba tôi làm bản kiểm điểm để quay trở về làm việc.

Ba tôi từ chối, ông nói với họ rằng sự tham gia vào phong trào cộng sản của ông là một bản kiểm điểm quá vĩ đại của cuộc đời ông rồi. Sáu tháng tù mà những người đồng đội bắt giam ông nó cũng là một bản kiểm điểm quá vĩ đại để ông có thể tiếp tục làm một bản kiểm điểm nữa. Ông trở về đời sống dân sự bình thường.

Kể từ đó gia đình tôi đoạn tuyệt với hệ thống chính quyền này và không nhận bất kỳ một sự ưu đãi nào. Tất nhiên khi xét lý lịch bắt giam tôi thì họ vẫn xem gia đình tôi là gia đình có công với cách mạng do vậy khi xuất hiện ở Tòa sơ thẩm tôi có nói một điều như thế này: “ Tôi nghĩ rằng gia đình tôi từ ông tôi cho tới bác, cha, cô tôi đều đi theo cách mạng, tuy nhiên tôi đã đi ngược hoàn toàn với con đường đó” Tôi nói rất rõ ràng nhưng sau đó coi lại trên Youtube thì họ cắt thêm một phần ở một câu khác nhét vào ngay sau cái câu mà tôi vừa nói. Họ bảo tôi đi ngược lại đường lối gia đình, những công lao của gia đình cho nên tôi thấy ân hận.

Tôi nghĩ rằng hòa giải lẽ ra là một vấn đề đương nhiên áp dụng sau khi hết chiến tranh bởi vì cả bên thắng cũng như bên thua cuộc đều là đồng bào trong nước.
– Luật sư Lê Công Định

Tôi thấy buồn cười bởi vì khi nói ra câu đó tôi muốn gửi một thông điệp rất rõ ràng rằng: tuy gia đình tôi đi theo con đường cộng sản góp phần xây dựng nên chế độ này nhưng tôi lớn lên và ý thức rõ việc tôi làm và quyết định đi ngược lại con đường đó.

Mặc Lâm: Quay trở lại câu chuyện 40 năm thì tù nhân côn đảo, tù nhân cải tạo đã trở về nhà nhưng xuất hiện một loạt tù nhân lương tâm mới vẫn còn trong tù, điều này cho quốc tế thấy gì?

Luật sư Lê Công Định: Đối với những tù nhân cải tạo quân nhân của chế độ Sài Gòn ngày xưa chúng ta thấy nó thể hiện rõ một chính sách của chính quyền là trả thù những người từng là đối thủ của mình. Họ không có một sự khoan dung, không có sự hòa giải thật sự cho nên mới thực hiện việc đó.

Còn đối với tù nhân lương tâm bây giờ thì tất cả mọi người đểu đã thấy rằng đây là một chế độ độc tài cho nên người ta chỉ thích nghe những lời êm tai, xuôi theo cách họ nói chứ họ không nghe những ý kiến trái ngược thập chí là đối lập, do đó mới có việc bắt giam tù chính trị và tù nhân lương tâm như tôi chẳng hạn. Bởi vì tôi chỉ đơn giản nói lên tiếng nói của mình nhưng họ lại xem đó là mối đe dọa của thế lực thù địch qua đó quốc tế đã nhận rõ chính sách nhất quán của mọi chế độ cộng sản. Từ Châu Âu, Châu Á và đặc biệt là Hoa Kỳ thấy họ không thay đổi chủ nghĩa độc tài của mình.

Càng ngày chúng ta thấy càng nhiều hơn tù nhân lương tâm bị bắt nó thể hiện mối sợ hãi ám ảnh đầu óc của người lãnh đạo. Họ luôn luôn sợ quyền lực của họ bị mất do sự ảnh hưởng của người trí thức, bất đồng chính kiến hôm nay và cách duy nhất là họ đàn áp, tù đày. Cách tốt nhất dập tắt tiếng nói đối lập.

Mặc Lâm: Ngày 30 tháng 4 là ngày thống nhất đất nước nhưng 40 năm sau hai chữ “thống nhất” vẫn còn khá mơ hồ về sự hòa giải. Theo luật sư ai là người phải tỏ thiện chí một cách nghiêm túc trước? Bên thắng hay bên thua cuộc?

Luật sư Lê Công Định: Tôi nghĩ rằng hòa giải lẽ ra là một vấn đề đương nhiên áp dụng sau khi hết chiến tranh bởi vì cả bên thắng cũng như bên thua cuộc đều là đồng bào trong nước. Họ đâu phải là hai chủng tộc khác nhau, hai kẻ thù một bên là ngoại xâm còn một bên là người bị xâm lược vậy thì việc gì phải tiếp tục hận thù và chia rẽ?

Chưa bao giờ muộn cho vấn đề hòa giải cả kể cả bây giờ 40 năm sau, không ai còn tin vào chính sách hòa giải của nhà cầm quyền nữa. Nhưng nếu bây giờ nhà nước Việt Nam thật tâm muốn thực hiện chính sách hòa giải thì họ nên làm bằng thực chất chứ không phải làm qua lời nói.

Ở đây không phải là sự hòa giải giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc vì 40 năm đã qua nên gác lại chuyện đó đi. Bây giờ điều quan trọng hơn là hòa giải giữa người cộng sản và người không cộng sản. Ngay những người như tôi lớn lên trong chế độ mới, học hành mưu sinh trong chế độ này. Bản thân tôi, cuộc đời tôi chả liên quan gì tới chế độ Việt nam Cộng hòa cả vậy thì tôi không cần sự hòa giải của bên thua cuộc và bên thắng cuộc. Cái tôi cần là sự hòa giải giữa người cộng sản và người không cộng sản.

Mặc Lâm: Xin cám ơn luật sư Lê Công Định.

Nỗi ám ảnh lý lịch

Nỗi ám ảnh lý lịch

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-04-29

Nỗi ám ảnh lý lịch

h1133-600.jpg

Panô tuyên truyền cho ngày 30 tháng 4 tại Sài Gòn hôm 11/4/2015

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Dựa trên nguyên tắc đấu tranh giai cấp, các chế độ cộng sản triệt để áp dụng nguyên tắc đào tạo và tuyển dụng một người dựa trên lý lịch của người đó.

Điều này cũng được triệt để áp dụng tại miền Nam Việt Nam sau năm 1975, ít nhất cho đến giai đoạn Việt Nam cải cách kinh tế vào năm 1986. Sau đây là một vài ghi nhận về chính sách này của nhà cầm quyền Việt Nam trong việc tuyển sinh đại học sau khi chiến tranh kết thúc, cũng như câu chuyện của một số nhân chứng. Bài do Kính Hòa trình bày.

Mười bốn loại lý lịch

Ông Nguyễn Đình Nguyên hiện là một chuyên gia về bệnh loãng xương tại Australia, đã từng học đại học tại Việt Nam vào những năm 1980 nhớ lại:

Trước khi bước vào kỳ thi đại học thì chúng tôi phải bước qua một kỳ khai lý lịch. Nếu tôi nhớ không lầm thì lý lịch của chúng tôi được xếp từ 1 cho đến 13. Chúng tôi cũng có nghe tới 14 nhưng tôi chưa thấy bạn nào bị như vậy. Tôi được xếp hạng thứ thứ 11 tức là gia đình (mà họ gọi là) ngụy quân, ngụy quyền ở cấp bậc nhỏ. Loại 12 thì họ gọi là có nợ máu với nhân dân, tức là đi quân đội và dường như là xếp từ thiếu úy trở lên. Loại 13 là những sĩ quan cao cấp, hay là sĩ quan công giáo, tôi cũng không biết tại sao.”

Không phải ai cũng biết là mình bị xếp loại lý lịch như thế nào như ông Nguyễn Đình Nguyên. Ông Nguyễn Thanh Liêm thi đại học vào năm 1978 nói:

Thưa anh bản thân tôi không biết họ sắp xếp như thế nào, bởi vì tất cả đều diễn ra ngầm, không có một chủ trương, một chính sách nào đưa ra rằng con cái của những người thuộc chế độ cũ bị đối xử không giống như những người khác.”

” …tôi không biết họ sắp xếp như thế nào, bởi vì tất cả đều diễn ra ngầm, không có một chủ trương, một chính sách nào đưa ra rằng con cái của những người thuộc chế độ cũ bị đối xử không giống như những người khác.
– Ông Nguyễn Thanh Liêm”

Trong thời gian từ năm 1975 cho đến khi Việt Nam thực hiện việc cải cách kinh tế vào năm 1986, hồ sơ dự thi đại học của tất cả học sinh được nộp lên một cơ quan gọi là Ban tuyển sinh tỉnh hay thành phố. Nhưng theo một chuyên viên xin được gấu tên hiện làm trong ngành giáo dục tại Việt Nam, thì cơ quan này chỉ là nơi làm công việc hành chánh của Bộ giáo dục. Theo chuyên gia này thì nơi quyết định số phận của các thí sinh là chính quyền địa phương. Ông nói về những người có lý lịch được xếp vào loại xấu

Người ta đã xếp loại trước và người ta đã chuyển cái loại lý lịch đó cho các Ủy ban quân quản, hay ủy ban nhân dân từ cấp phường trở lên. Nghĩa là đối với số đó thì anh có thi, có đậu đại học, thì cái giấy đậu đại học cũng không tới được gia đình anh. Như vậy người dân bình thường người ta không biết đâu. Hay bên ngành giáo dục, người ta chỉ chấm thi thôi, còn chuyện em đó tại sao đậu mà không đi học thì theo kinh nghiệm 40 năm làm trong ngành giáo dục thì tôi biết là bên ngành giáo dục không có quyền biết cái đấy.”

Với hệ thống phân loại đến 14 cấp lý lịch như vậy, trình độ của các sinh viên trúng tuyển rất chênh lệch nhau. Ông Nguyễn Đình Nguyên cho biết là vào năm 1984, điểm của cấp lý lịch thứ 11 như ông vào Đại học Tây Nguyên là 15/30, nhưng trong lớp có cả những bạn học chỉ đạt có 3 điểm.

Không những bị hạn chế ở cánh cửa bước vào đại học, các sinh viên có lý lịch gọi là xấu cũng sẽ không được đi nước ngoài để du học. Ông Nguyễn Đình Nguyên nói:

Chúng tôi không có cơ hội nào để đi du học nước ngoài ở loại lý lịch 11, chúng tôi chỉ có đậu và trượt, dù ở số điểm rất cao chứ không có cơ hội nào xuất ngoại để du học cả.”

Tương lai không ở Việt  Nam

Con cái của những người có quan hệ với chế độ Việt  Nam cộng hòa phải đạt được điểm số rất cao để vào đại học, hơn nữa họ còn phải tránh những trường được coi là có giá vào những năm ấy, ví dụ như các trường Y khoa, Dược khoa, Bách khoa.

Cha ông Nguyễn Thanh Liêm là cựu Thiếu tá quân đội Việt Nam cộng hòa bị đi tù 15 năm sau năm 1975. Ông Liêm vẫn cố gắng vào được đại học, nhưng bỏ dở giữa chừng để vượt biên ra nước ngoài. Ông giải thích lý do của quyết định đó:

Gia đình thấy rằng không có một tương lai nào để đi lên. Sống thì lúc nào cũng sợ bị bắt bớ, bị đưa đi kinh tế mới. Gia đình quyết định là chỉ có con đường vượt biên đi ra nước ngoài thì mới có tương lai hơn. Gia đình sắp xếp đi vì không tin là có thể sống trong một chế độ như vậy.”

Người chuyên viên giấu tên trong ngành giáo dục mà chúng tôi tiếp chuyện cũng đồng ý điều đó. Ông cho biết thêm:

Vượt biên là cái lối thoát của những người không đậu đại học mặt dầu họ đủ điểm hay là thừa điểm để vào đại học. Về mặt công bằng tôi cho là một chuyện oan trái, tôi dùng chữ oan trái này là đúng đó vì anh em tụi tôi cũng buồn là vì nếu những người đó cũng được vào đại học, thì về mặt khoa học, về mặt cống hiến có khi họ tốt hơn những người như bọn tôi, vì đầu óc họ rất tốt.”

” Mình thấy đơn giản là cái quyền của con người, quyền được đi học, được làm việc, nó bị xâm phạm một cách ngu xuẫn và tàn nhẫn quá. Tôi không muốn cho con tôi ở vào trường hợp đó nữa.
– Ông Lê Dũng “

Ông Nguyễn Thanh Liêm và gia đình sang được đến Mỹ. Ông Liêm hiện là kỹ sư điện làm việc trong nhà máy bảo trì các loại máy bay chiến lược của Mỹ tại tiểu bang Oklahoma.

Đối với những người được chấp nhận vào đại học trong những năm 1970, 1980, con đường tương lai khó khăn của họ chưa chấm dứt, vì họ vẫn phải mang một lý lịch gọi là xấu sau khi ra trường. Ông Lê Dũng hiện sống tại Austin, Texas kể lại:

Sau 30/4 thì tôi vào lớp bảy. Thật sự thì từ lớp bảy đến lớp 12 tôi không thấy áp lực lắm. Cái thứ hai nữa là mình bị tẩy não rằng nhà mình là có tội với nhân dân, thành ra cho sống là may lắm rồi, không cảm thấy phàn nàn gì cả. Được đi học là mừng lắm. Áp lực sau khi được đi học nó qua đi. Đến khi ra trường thì nó quay trở lại. Khi lang thang thì mấy người bạn trước khóa, bên đại học bách khoa hay kinh tế, người ta biết mình người ta kéo qua, nhưng ai cũng ngại khi thấy cái lý lịch của mình.”

Cha ông Lê Dũng là một Thiếu Úy Tâm lý chiến trong binh chủng nhảy dù của quân lực Việt  Nam cộng hòa. Ông bị đi tù năm 1975 và mất trong tù 3 năm sau đó trong một cái chết mà nhiều người trong gia đình cho là khuất tất.

Ông Lê Dũng cũng là thí sinh đạt điểm cao thứ nhì trong kỳ thi tuyển vào Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1981. Sau khi ra trường ông làm nghề dạy kèm trong hai năm, rồi sau đó được một nhóm đầu tư người Việt tại Đức tuyển vào làm việc trong một nhà máy in hiện đại vào năm 1988, là thời điểm mà Việt  Nam bắt đầu mở cửa cải cách kinh tế. Nhưng ngay trong cả thời kỳ đó, người có lý lịch như ông Dũng nếu muốn đi nước ngoài phải được sự chấp thuận của Ban tổ chức thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.

Trong một lần dự hội nghị về Toán và Vật lý lý thuyết tại thành phố Trieste ở Ý, ông được một Giáo sư thu xếp cho một học bổng tại Mỹ. Sau khi hoàn tất việc học tại Mỹ, ông quyết định ở lại. Ông giải thích quyết định này.

Tôi nghĩ rằng bố tôi chiến đấu cho một cái mà ông tin vào đó thì ông không có tội. Người ta tin vào những điều khác nhau, cho nên ông không có tội. Giả sử bố tôi có tội đi nữa thì mắc mớ gì đến tôi. Mình thấy đơn giản là cái quyền của con người, quyền được đi học, được làm việc, nó bị xâm phạm một cách ngu xuẩn và tàn nhẫn quá. Tôi không muốn cho con tôi ở vào trường hợp đó nữa.”

Ông Lê Dũng hiện là Tiến sĩ Toán và dạy tại Đại học Texas ở Austin. Kết thúc buổi nói chuyện với chúng tôi ông nói rằng việc phân biệt lý lịch của những người cộng sản đã làm cho họ không thể có được những nguồn lực mới, và sẽ dẫn đến kết quả giống như một sự suy thoái về di truyền.

Ông Nguyễn Thanh Liêm nhắc lại chuyện lúc cha ông đi tù vì là sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hòa nhưng ông vẫn được chính quyền địa phương tại Sài gòn cho đi học, từ đó ông nói rằng ông vẫn hy vọng là trong hàng ngũ cán bộ cộng sản vẫn còn có những người mà ông gọi là tốt.

Nghệ An: Xây đập tốn 17 tỷ đồng, chưa bàn giao đã hỏng

Nghệ An: Xây đập tốn 17 tỷ đồng, chưa bàn giao đã hỏng

Nguoi-viet.com

NGHỆ AN (NV) Dự án sửa chữa đập Kí Rượu vừa hoàn thành. Song, điều đáng nói là chưa nhận bàn giao thì đã xuất hiện nhiều hư hỏng, do xây không đúng thiết kế, thiếu hạng mục.

Theo dân Trí, dự án sửa chữa, nâng cấp đập Kí Rượu tại xã Lăng Thành, huyện Yên Thành, có tổng vốn hơn 17 tỷ đồng, do huyện Yên Thành làm chủ đầu tư, khởi công từ tháng 10, 2012, do công ty xây dựng Tây An, thành phố Vinh thi công. Sau khi hoàn thành, đập Kí Rượu sẽ cung cấp nước tưới cho khoảng 950 hecta đất trồng lúa ở xã Lăng Thành và các vùng phụ cận.


Tràn xả lũ bị thi công thiếu 5m so với thiết kế ban đầu. (Hình: Dân Trí)

Dự án sửa chữa đập Kí Rượu vừa hoàn thành. Song, điều đáng nói là chưa nhận bàn giao thì đã xuất hiện nhiều hư hỏng, do xây không đúng thiết kế, thiếu hạng mục.

Tuy nhiên, ngay sau khi đập hoàn thành, tại nhiều vị trí trên công trình đã xuất hiện tình trạng hư hỏng nghiêm trọng.

“Ðập chưa tích nước mà đã hư hỏng như vậy, không biết đến mùa mưa bão sẽ ra sao nữa. Chúng tôi là những hộ dân sống ngay dưới khu vực hạ lưu của con đập vô cùng lo lắng cho chính tính mạng của mình,” ông Hưng, một người dân sống dưới con đập tỏ ra lo lắng.

Trao đổi với Dân Trí, ông Lê Văn Tuấn, giám đốc ban quản lý các dự án xây dựng huyện Yên Thành cho biết: “Sau khi nhà thầu làm xong, trong lúc nghiệm thu chúng tôi đã phát hiện chất lượng công trình không ổn, một số hạng mục bị thiếu như phần mái thượng lưu và hạ lưu tích nước, chất lượng dầm khung, bê tông không đạt tiêu chuẩn… Phần tràn xả lũ cũng bị thiếu đi 5m so với thiết kế ban đầu…,” ông Tuấn nói.

Tin cho biết, điều đáng nói trong quá trình nhà thầu thi công suốt hơn 2 năm, công trình chậm tiến độ 15 tháng so với dự kiến ban đầu, nhưng đơn vị giám sát, chủ đầu tư không phát hiện ra những sai sót trên khiến chất lượng công trình bị ảnh hưởng.

Dư luận chung cho rằng,việc nhà thầu tự thay đổi thiết kế, tự tung tự tác trong suốt quá trình thi công bớt xén một số hạng mục để trục lợi đã “qua mặt” được đơn vị quản lý. Hay chính sự lỏng lẻo, thiếu quan tâm của chủ đầu tư, huyện Yên Thành nên mới dẫn đến sự việc trên? (Tr.N)

Voi Bà Trưng cưỡi đi ‘diễu binh’ thời XHCN là ‘thùng rác’

Voi Bà Trưng cưỡi đi ‘diễu binh’ thời XHCN là ‘thùng rác’

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) .- Hai con voi giả để chị em Hai Bà Trưng cưỡi trong dịp nhà cầm quyền Việt Nam tổ chức “diễu binh mừng chiến thắng 30-4” tại Sài Gòn đang làm giới sử dụng mạng xã hội bình luận rôm rả.

Voi Bà Trưng cưỡi trong cuộc tập dượt “diễu binh” 30-4 “mừng chiến thắng” của CSVN là “thùng rác” có 4 bánh xe. (Hình: Facebook).

Tấm hình được phổ biến khá rộng rãi trên các mạng xã hội và Facebook mấy ngày nay trong số các hình chụp cảnh diễn tập. Không rõ là bà Trưng Trắc hay bà Trưng Nhị cưỡi trên con voi giả trong tấm hình này. Chỉ thấy cái đầu và cái vòi là giống đầu và ngà voi nhưng nhiều phần là giấy bồi hay giấy nhựa phết trên một cái khung gì đó. Phần còn lại, bốn chân voi không thấy, đúng ra 4 chân voi là 4 bánh xe. Thân voi thì cũng không thấy còn Bà Trưng ngồi trên cái ghế gần phía đuôi.

Nói tóm lại, voi bà Trưng cưỡi tham dự “diễu binh mừng chiến thắng 30-4” là con voi giả từ đầu tới chân. Có người tố cáo rằng con voi giả đưa Bà Trưng đi “diễu binh” là cái thùng rác của đội quân thu gom rác trong thành phố.

“Cái thùng rác này chắc made in China!”, một người bình luận.

“Bánh xe made in China chắc luôn”. Một người khác tên Tuan Phung viết.

“Phá hết rừng, thì về chặt cây ở Hà Nội. Voi giết hết rồi, giờ dùng voi bằng thùng rác. Bôi bác hết chỗ nói. Chẳng biết đây là sáng kiến của thằng mẹ rượt nào.” Một người bình luận trên Facebook.

“Kỷ lục thế giới”. Facebooker tên Vũ Xuân Phong viết.

“Là con người phải biết đúng sai, chẳng hiểu bọn công an có óc không hay trong hộp sọ toàn bã đậu? Chúng làm theo lệnh một cách ngu xuẩn và bất nhân.” Facebooker tên Van Son viết.

“Hồi trước 2 Bà dùng voi thật đâu có thắng được Mã Viện. Nếu 2 Bà dùng voi giả như bây giờ thì may ra Mã Viện lăn ra chết vì cười.” Một người bút danh Nam-Ky Nguyen bình luận.

“Cỡi voi thế nầy thì làm sao quýnh giặc …đúng là con cháu trọng Lú”. Giac Huynh viết.

Người ta không rõ cuộc “diễu binh” nói trên tốn kém bao nhiêu ngàn tỉ đồng vì không thấy nêu ra con số khi “Ban tổ chức cấp quốc gia kỷ niệm các ngày lễ lớn” mở “họp báo quốc tế” ở Sài Gòn ngày 13 tháng 4, 2015 loan báo về “hoạt động kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước”.

Theo sự loan báo, khoảng 6,000 người gồm đủ mọi thành phần được huy động tập dượt cho buổi “mít-tinh, diễu binh, diễn hành” ngày 30 tháng 4 từ quân đội cho đến công an, sinh viên học sinh và các đoàn thể ngoại vi của đảng CSVN. Địa điểm là trục đường Lê Duẩn, tức đường Thống Nhất cũ, phía trước dinh Độc lập và Nhà Thờ Đức Bà tại Sài Gòn.

Những ngày qua, có rất nhiều lời kêu ca vì nạn cấm đường kẹt xe gây ra bởi các cuộc tập dượt diễn hành liên tục rất nhiều tuyến đường quanh địa điểm tổ chức lễ.

Cứ mỗi năm đến dịp 30-4, nhà cầm quyền CSVN cho guồng máy tuyên truyền đăng tải những bài viết ca ngợi chiến thắng, bôi bác quân dân miền Nam, tiếp tục khoét sâu thêm mãi hố chia rẽ lòng người. Luật hình sự CSVN điều 87 trừng phạt kẻ nào “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc…” thì bị phạt tù nhẹ từ 2 năm, nặng đến 15 năm tù.

Ngồi trong cuộc họp báo với một số quan chức khác, ông Huỳnh Vĩnh Ái, Thứ trưởng Bộ Văn Hóa- Thế Thao- Du Lịch CSVN nói rằng “Tinh thần của chính phủ là tổ chức trang trọng nhưng tiết kiệm”. Có thể vì chủ trương như thế nên Bà Trưng ngồi trên thùng rác tham dự “diễu binh, diễn hành” mừng chiến thắng.

Tin cập nhật: Trong cuộc ‘diễu binh mừng chiến thắng’ vào sáng 30 tháng Tư hai con voi giả này đã không xuất hiện, mà theo dư luận là bởi bị dân tình ‘chửi’ trong suốt mấy ngày qua. (TN)

Cái gọi là ‘giải phóng’ khoét sâu thêm sự tổn thương

Cái gọi là ‘giải phóng’ khoét sâu thêm sự tổn thương

Nguoi-viet.com

Bùi Nhật/Người Việt

SÀI GÒN (NV) Những ngày đầu của năm 2015, người Sài Gòn, sau hơn ba mươi năm mới thấy lại cái gọi là màu cờ xanh đỏ sao vàng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (GPMNVN) trên một số phố trung tâm Sài Gòn. Cái cờ từng một thời ám ảnh người dân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), nay được lộ diện dưới dạng cờ đèn, loại đèn màu chớp nhái rẻ tiền sản xuất từ Trung Quốc.

Góc đường Lê Lợi-Pasteur bị đóng khiến nhiều người không biết đi đường nào. (Hình: Bùi Nhật/Người Việt)
Người Sài Gòn lúc đó ngờ ngợ tự hỏi. Phải chăng để chuẩn bị cái gọi là lễ 40 năm ngày “giải phóng” miền Nam, những người Cộng Sản muốn cho sống lại cái xác Mặt Trận Giải Phóng để thực hiện mưu đồ chính trị cấp tiến nào đó trước nguy cơ mất nước vào tay Trung Quốc.

Người am tường lịch sử chế độ thì cười mỉa mai cho rằng: Chớ có ngây thơ, đến cỡ tướng Việt Cộng như Trần Văn Trà, Trần Độ hay ông cán bộ cấp cao Nguyễn Hộ còn bị Cộng Sản Bắc Việt thanh trừng thẳng tay nữa là.

Không khác với mọi năm, những này cuối tháng tư thời tiết Sài Gòn đang là đình điểm của nóng bức. Giữa lúc nắng cháy da, khó thở thì chế độ lại phủ một rừng cờ đỏ, khẩu hiệu đỏ lên thành phố.

Khi nói về “nét mới” trong việc phủ cờ đỏ này thì nhiều gia đình lại rủa thầm khi bị bắt đóng tiền để làm cái thứ cột cờ đồng phục treo ngay trước cửa nhà mình và kéo dài trên các phố.

Một người bán thức ăn cho cá ở quận Tân Bình nói. “Họ vét tiền thuế làm đại lễ còn chưa đủ sao mà còn bắt dân đóng tiền cắm cái que sắt làm cột cờ, đến mấy con cá kiểng trong hồ nhà tôi cũng chói mắt.”

Nhưng tin tức từ việc lương dân Long An, Bình Thuận nổi dậy tràn ngập trên các trang mạng đã làm người Sài Gòn phần nào vơi bức bối.

Hỏi chuyện một ông bán cháo lòng trên vỉa hè, ông khoảng 60 tuổi, nói. “Tôi có coi trên ‘dô tút,’ ban đầu thấy cảnh dân rượt công an trang bị súng đạn đầy mình ai cũng sướng hả hê, nhưng rồi nghĩ mà thương vì mình biết tụi nó sẽ bắt nguội không sót một ai.”

“Hồi trước tôi có đi lính VNCH, ở sư đoàn 7, khi Việt cộng vô mình lủi thủi về nhà, buồn cũng không dám nói ra chỉ nghĩ về hai tiếng hòa bình để an ủi, bây giờ thấy tụi nó tàn ác với dân nghèo quá mà thêm hận.”

“Chết đứng” vì đóng đường

Sáng ngày Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015, cả khu trung tâm Sài Gòn đều bị phong tỏa để phục vụ cho cái gọi là tổng duyệt cho “ đại lễ kỷ niệm 40 năm mừng giải phóng.”

Toàn khu vực quanh Dinh Độc Lập bị đóng đường khiến hàng ngàn người dân
khổ sở trong dịp nhà cầm quyền kỷ niệm 40 năm “giải phóng.” (Hình: Bùi Nhật/Người Việt)

Ai cũng biết suốt từ tháng cuối năm 2014, các tuyến đường như Nguyễn Huệ, Lê Lợi… đã đốn hạ cây xanh, đào hầm xe điện ngầm, xây mới tượng đài ông Hồ… đã khiến các phố mặt tiền đẹp nhất, kinh doanh sầm uất nhất của Sài Gòn tê liệt, nay lại thêm thảm trạng bao vây, cấm đường suốt những tuyến phố chính như Lê Thánh Tôn, Paster, Đồng Khởi, Nguyễn Du, Xô Viết Nghệ Tĩnh…

“Chết đứng.” Đó là cụ từ mà giới kinh doanh lớn, các công ty cả ngoại lẫn nội cũng như những người bám vỉa hè mua bán kiếm sống qua ngày đã thốt lên.

Không ai biết Vương Cung Thánh Đường có phải hủy bỏ các khóa lễ ngày Chủ Nhật hay không, nhưng người ta biết chắc là sẽ không có mấy người dân chịu đưa con vượt các chốt đầy các binh chủng cảnh sát, các lực lượng quân sự và bán quân sự để đến vui chơi ở công viên Tao Đàn, Sở Thú…

Trò chuyện qua điện thoại với chủ quán cà phê ở đường Điện Biên Phủ, anh này nói. “Họ không cấm đường chỗ tôi, nhà nước cho cán bộ công nhân viên nghỉ năm ngày nhưng tôi tình nguyện nghỉ thêm đủ chục ngày, chớ kiểu ăn mừng rậm rật súng đạn này thì ai cũng muốn pha cà phê ở nhà để uống, ra đường ra quán vừa ớn lại vừa chán.”

Dù tiền thuế thu không thiếu ngày nào nhưng chính quyền độc tài của thành phố này không một lời xin lỗi về chuyện gây phiền toái và làm ảnh hưởng đến sự kiếm sống lương thiện của họ. Nhưng lớn hơn, chính sự khinh dân và đẩy lên tới đỉnh hoành tráng cái gọi là “đại lễ mừng 40 năm giải phóng…” đã trùm lại bầu không khí sợ hãi, chán ghét chế độ sau biến cố 1975 lên từng người Sài Gòn và cả miền Nam.

Sự lố bịch kéo dài

Thế thì người miền Bắc nhập cư sau 1975 và những thế hệ sinh sau năm 1975 nghĩ gì. Một nhà thơ có tiếng ở Hà Nội, một cựu binh VC, đang có mặt ở Sài Gòn để làm chương trình truyền hình đã nói riêng với bạn bè rằng, “Tôi là người lính sống sót ở cổ thành Quảng Trị, nói thật, với mọi người lính của hai phía ngày này là ngày sống sót, chớ năm nào cũng ca ngợi là ngày ‘chiến thắng, giải phóng’ ngay từ đầu đã lố bịch, mà sao cứ kéo dài mãi sự lố bịch đó nhỉ?”

Khác với những năm đầu sau biến cố 1975, việc chế độ độc tài sau 40 năm cứ ngang nhiên, bất chấp sự tổn thương vì chiến tranh của cả dân tộc để làm đại lễ “chiến thắng” mừng “ngày giải phóng Sài Gòn, miền Nam” đã phần nào cho thấy bản chất kiêu binh và dối trá.

Một nhà nhiếp ảnh, thuộc thế hệ 8x đã nói. “Hồi đi học phổ thông, cứ phải hát, ‘Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng’ ban đầu thì có chút cảm xúc sau thì tụi cháu hát như cái máy, mấy năm gần đây nhờ có Facebook nên biết nhiều sự thật, cái đáng biết nhất là cha ông của cháu không phải là lính ngụy như họ tuyên truyền và biết mình đâu có liên hệ gì đến ngày ‘chiến thắng’ này, đám con cháu các cán bộ tham nhũng giàu có ăn mừng là đúng còn tụi cháu được mấy ngày nghỉ là biến khỏi Sài Gòn.”

Các cuộc biểu tình của lương dân chống đốn hạ cây xanh ở Hà Nội, chống nhà máy điện gây ô nhiễm ở Bình Thuận… ngay trong những ngày tháng tư đen, được nhiều người Sài Gòn đón nhận như một tin lành và chính tin tức đó đã mở ra ý thức về những cuộc đấu tranh để quyền con người được tồn tại và vạch ra một giới tuyến xác định: Một đằng là những người Cộng Sản đang không ngừng tô son trét phấn cho việc chiến thắng chính dân tộc mình, cũng như đang ra sức đàn áp để có thêm ”vinh quang” khi tấn công các tầng lớp người dân đòi quyền sống ; một phía là các lương dân khắp đất nước đang thắp lửa đấu tranh để tìm con đường sống trước chế độ độc tài.

Thật hy vọng khi nghe người Hà Nội nói. “Đừng đùa, Chúng tôi bảo vệ cây xanh là làm cách mạng đấy.” Trong khi người Bình Thuận nói, “Chúng tôi sẽ liều chết với cái nhà máy nhiệt điện khốn nạn này.” Nội dung đấu tranh từ các cộng đồng các dân oan bị áp bức cưỡng đoạt đất đai, nhà cửa đã chuyển sang giới trung lưu đấu tranh vì môi sinh môi trường sống đang bị chế độ tham nhũng hủy hoại là một bước tiến dài khiến người bi quan nhất cũng cảm thấy vui mừng.

Một trí thức cao tuổi, lớp người Bắc di cư 1954 nói. “Đến những năm gần đây, ngày càng rõ cái mốc ngày 30 tháng 4, 1975 chính là ngày mất nước vào tay Trung Quốc.”

Bốn mươi năm của một chế độ độc tài, thời gian đủ dài để trôi tróc dần son phấn dối trá và phơi trần bản chất tham nhũng, bán nước. Dù cái gọi là đại lễ mừng chiến thắng này có rùm beng bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không dấu được sự trơ trẽn, thế tự cô lập và bị cô lập của đảng đã hết sạch những chiêu trò chính trị và đang phơi ra trước mắt dân tộc bộ mặt tập đoàn bạo quyền và tham nhũng.

Giới trẻ nghĩ gì về hoạt động kỷ niệm ngày 30/4

Giới trẻ nghĩ gì về hoạt động kỷ niệm ngày 30/4

Hải Ninh, phóng viên RFA
2015-04-28

04282015-30-4-n-young-people.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Tình trạng ùn tắc giao thông diễn ra bạo hơn vào dịp cận 30 tháng 4.

Tình trạng ùn tắc giao thông diễn ra bạo hơn vào dịp cận 30 tháng 4.

Nhóm TT từ VN/RFA

Sáng 26/4, hàng nghìn người tham gia lễ diễu binh tổng duyệt chào mừng ngày 30/4 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Biến cố của cuộc chiến tranh xảy ra 40 năm trước đã đưa Đảng Cộng sản lên nắm quyền tại Việt Nam và một bộ phận người Việt phải đi di tản. Giới trẻ nghĩ gì về những hoạt động kỷ niệm 40 năm ngày 30/4 này.

Dự kiến, có khoảng 10.000 người sẽ tham dự lễ mít tinh kỷ niệm ngày 30/4 tại Sài Gòn trong tuần này. Trong buổi lễ tổng duyệt sáng chủ nhật ngày 26/4, người ta thấy từng đoàn quân diễu hành qua khu vực trung tâm ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Một nhóm diễu hành còn tái hiện hình ảnh Bà Trưng cưỡi voi, trong đó, voi được làm bằng một giá sắt có bốn bánh xe. Một số người trên mạng xã hội Facebook đùa rằng việc thay voi thật bằng voi “dởm” là một sáng kiến rất tuyệt vời trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn.

Những hoạt động rầm rộ chuẩn bị cho ngày 40 năm kỷ niệm chấm dứt chiến tranh đã gây xáo trộn đời sống của người dân thành phố do nhà tổ chức cấm xe lưu thông trong khu vực trung tâm. Blogger Mẹ Nấm cho biết:

“Mọi người đều cảm thấy mệt mỏi vì việc chặn đường để kỷ niệm lễ 30/4 làm ảnh hưởng và xáo trộn. Một anh bạn nhà văn của mình rất hiền, rất vui vẻ mà còn phải chửi thề khi đứng trong đám đông và chứng kiến một gia đình có con đi cấp cứu ở bệnh viện nhi đồng mà không thể băng qua dòng cấm xe để tới bệnh viện nhi đồng.

Cái việc chặn xe đặc biệt ở khu vực quận nhất ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của người dân. Cho nên hầu như mọi người, cả những người chưa bao giờ thấy bày tỏ thái độ về chính trị, cũng thấy rất phiền toái. Một số lại nói rất thẳng thắn rằng sao bọn họ không tự tổ chức lễ kỷ niệm với nhau lại làm ảnh hưởng tới đời sống người dân như thế.”

“ Một gia đình có con đi cấp cứu ở bệnh viện nhi đồng mà không thể băng qua dòng cấm xe để tới bệnh viện nhi đồng. Cái việc chặn xe đặc biệt ở khu vực quận nhất ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của người dân. Cho nên hầu như mọi người, cả những người chưa bao giờ thấy bày tỏ thái độ về chính trị, cũng thấy rất phiền toái

Blogger Mẹ Nấm”

“Tôi không kỷ niệm ngày 30/4”

Một bạn trẻ tên là Phan Long ở Tây Nguyên nói với chúng tôi qua Facebook, rằng những hoạt động trên là “lố bịch”.

Long cho rằng đó là ngày khởi đầu của việc niềm nam rơi vào tăm tối, vì sau đó theo bạn Long, mới thực khủng khiếp. Bạn lấy ví dụ chẳng hạn như việc chính quyền mới đánh tư sản mại bản, hay việc hàng trăm người Việt Nam buộc phải di tản, trở thành thuyền nhân, có người thì làm mồi cho cá mập.

Blogger Mẹ Nấm cũng gọi đây là một hoạt động kỷ niệm rầm rộn ở Sài Gòn là một “trò lố”.

“Những người biết suy nghĩ và tiếp nhận đủ thông tin, không ai coi đây là dịp ăn mừng hay coi đây là dịp chiến thắng hết. Vì dân tộc Việt Nam đã quá đủ đau khổ rồi và dân tộc này đang tụt hậu so với các nước ASEAN chứ không nói gì đến thế giới.”

Trên mạng xã hội Facebook, một số các bạn trẻ đã thay đổi hình đại diện thành một hình ảnh có dòng chữ: Tôi không kỷ niệm ngày 30/4. Đi kèm theo đó là hình vẽ một chiếc xe tăng.

Blogger Mẹ Nấm cho biết ý tưởng này xuất phát từ một nhóm nhỏ trên Facebook và dần lan ra cộng đồng mạng:

Đường Cách Mạng Tháng Tám kẹt xe cả cây số vào hôm 26.4.2015 (TTVN/RFA)

Đường Cách Mạng Tháng Tám kẹt xe cả cây số vào hôm 26.4.2015 (TTVN/RFA)

“Bọn mình đọc và chứng kiến khá nhiều bài viết và lời kêu gọi về lễ kỷ niệm 30/4. Thực sự ở ngoài nó làm rất rầm rộ, treo cờ và giăng đèn ở khắp nơi, cũng như các chương trình nghỉ khá dài và cộng thêm các chương trình ca nhạc và lễ hội khá lớn trong dịp 30/4.

Một nhóm anh em nói rằng đã đến lúc mình có thái độ rằng tôi không muốn tổ chức lễ này, tôi không muốn ăn mừng lễ này. Mặc dù mình không là người nắm cái quyền chủ động kỷ niệm lễ chỉ có thể thể hiện bằng cách là tôi không kỷ niệm 30/4 theo cái cách mà những người lãnh đạo đang làm.”

Bạn Phạm Nam Hưng, ở Sài Gòn, cho biết bạn cũng thay đổi hình đại diện theo nhóm bạn của mình. Hưng nói:

“Ngày trước em nằm trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hồi còn là sinh viên. Sau đó, em tìm hiểu lịch sử thì ngày này không đáng để kỷ niệm. Ngày 30/4 là ngày chúng ta đã mất một chế độ tự do, ngày đó đồng bào ta đổ máu và nhiều người phải đi tị nạn.”

Năm nào, Việt Nam cũng kỷ niệm ngày 30/4, được gọi là ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Năm nay có lẽ được cho là năm kỷ niệm hoành tráng nhất và Sài Gòn là nơi ăn mừng rầm rộ nhất. Ở các thành phố khác, dù lễ kỷ niệm vẫn diễn ra nhưng không lớn như Sài Gòn.

“ Ngày trước em nằm trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hồi còn là sinh viên. Sau đó, em tìm hiểu lịch sử thì ngày này không đáng để kỷ niệm. Ngày 30/4 là ngày chúng ta đã mất một chế độ tự do, ngày đó đồng bào ta đổ máu và nhiều người phải đi tị nạn

Phạm Nam Hưng”

Trong dịp 30/4 này, chính phủ cho phép các cơ quan nhà nước nghỉ lễ dài 6 ngày. Đối với một bộ phận giới trẻ không quan tâm nhiều tới chính trị, đây chỉ là dịp lễ ăn chơi.

Thanh, 24 tuổi, làm việc cho một công ty về hình ảnh, cho biết thường thì dịp 30/4 là dịp cả công ty của bạn cùng nhau đi nghỉ. Năm nay, bạn cùng công ty đi biển ở thành phố Nam Định.

Thanh cũng chỉ nghe nói đến những hoạt động kỷ niệm ở Sài Gòn và cho rằng đây là một dịp quan trọng vì nó giúp thống nhất hai miền nam bắc.

Bạn Hải Long, ở Phú Yên, không tham gia phong trào thay đổi ảnh đại diện trên Facebook, tuy nhiên, cũng có chung quan điểm về việc không nên có kỷ niệm ngày 30/4.

Ở thành phố Phú Yên, bạn Hải Long cho biết, chính quyền đã kỷ niệm ngày theo bạn nói là ngày giải phóng vào hôm 1/4.

Bạn Long cho rằng hoạt động này quá tốn kém tiền thuế của người dân và không cần thiết. Hơn nữa, nó lại đi ngược lại với quan điểm của chính phủ về hoà hợp, hoà giải dân tộc. Long cho biết:

“Trên phương diện ngoại giao, người ta luôn nói rằng họ muốn hoà giải và kêu gọi kiều bào về nước về làm ăn, rồi với những người thuyền nhân xưa, chính quyền kêu gọi người ta quay về, quên đi chuyện cũ. Tuy nhiên, họ luôn luôn nói về chiến thắng thì không thể nào thực tâm muốn hoà giải được.”

Theo kế hoạch, lễ mít tinh kỷ niệm ngày 30/4 sẽ bắt đầu vào lúc 7 giờ sáng.

Hà Nội hãy biết yêu những gì mình có

Hà Nội hãy biết yêu những gì mình có

Đoan Trang

Tôi yêu màu lá xanh mướt của mùa xuân. Nổi trong đám lá xà cừ xanh thẫm, đôi khi lại có màu xanh nõn nà của lá bồ đề, lá sấu. Và khi xuân sang, buổi sáng sớm bước ra đường, lẫn trong khói bụi ô nhiễm, vẫn thấy một mùi thơm mát mà tôi gọi là mùi “hoa cỏ mùa xuân”.

Tôi yêu sắc đỏ rực trời của hoa phượng. Đôi khi tình cờ nhớ đến những ngày ở nước Mỹ, tôi nhớ xứ Cali cũng có hoa phượng, nhưng là phượng tím, jacaranda. Có những đoạn đường, hai bên một màu tím ngát, hoa nhiều hơn lá. Phượng tím cũng đẹp lắm. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn yêu cái màu cháy đỏ nao lòng của phượng hồng Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… những thành phố của Việt Nam mà tôi đã đi qua. Nhớ đến phượng là nhớ đến những câu hát xao xuyến: “Phượng hay bâng khuâng, tưởng chừng như cô đơn”, “xuân qua hè tới ta nhớ nhau luôn, phượng ơi”.

Tôi yêu tiếng ve ngập tràn những con đường lớn, phố nhỏ, những ngõ vắng xôn xao ở Hà Nội. Tôi nhớ những ngày đầu hè rực nắng, tháng 4-5, của một năm nào đó xa xưa lắm rồi, tôi đi lang thang trong một vườn cây đầy nắng ở khu Quảng Bá, Hồ Tây, chìm trong tiếng ve và mơ màng câu hát “rừng chiều nghe lao xao, tiếng lá non gọi gió”.

Hà Nội, trong tim tôi, luôn gắn với cây cỏ, trời mây và thời tiết. Dù có đi đến nơi nào trên thế giới này – Los Angeles rực nắng, Stockholms cổ kính với những mái nhà tròn màu hồng, Budapest và những bức tượng đồng xanh thẫm, v.v. – tôi vẫn luôn nhớ đến Hà Nội và vô vàn hình ảnh thời thơ ấu: những nhà cửa xam xám với cửa sổ xanh xanh, cũ kỹ, bờ tường sứt sẹo, những cây bàng đỏ ối, những ô vườn rập rờn hoa bướm tím hồng, hoa mào gà tía… Tôi nhớ những cây xà cừ râm ran tiếng ve mỗi độ tháng 4, tháng 5 về, và đặc biệt, cứ vào mùa cuối xuân, xà cừ lại rụng lá. Lá xà cừ vàng thắm, bay rợp trời, đẹp như mùa thu Tây phương vậy, dù chẳng có rừng phong…

Chẳng bao giờ tôi chịu nổi cái ý nghĩ một mai đây, Hà Nội sẽ “hiện đại hóa” thành một đô thị như Bangkok hay Manila, toàn màu bê tông và xi măng trắng, nằm trần trùng trục dưới cái nắng nhiệt đới oi ả của Đông Nam Á. Không. Không có bất kỳ một đại dự án, một chủ trương, chính sách, một công trình nào, của bất kỳ kẻ nào, có thể biện hộ cho việc chặt hạ cây xanh ở Hà Nội được. Năm 2009, Giáo sư Mike Douglas (ĐH Hawaii, Mỹ), tại một hội thảo quốc tế ở Hà Nội về “thành phố đáng sống”, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của những không gian có giá trị trong đời sống xã hội đô thị như quảng trường, công viên, chợ họp ngoài trời/chợ truyền thống, đường phố và vỉa hè, v.v. những không gian mà ở đó con người gặp gỡ nhau không phải chỉ để mua bán mà để chào hỏi và chuyện trò với nhau.

Ông cho rằng: “Các thành phố hiện nay đang mất đi những không gian công cộng và không gian dân sự, nơi người dân có thể đến và sử dụng mà không cần dành toàn bộ thời gian của mình cho các quan hệ thương mại hay trao đổi hàng hóa, và cũng không gặp trở ngại về những điều họ nói với nhau”.

Và Hà Nội, trong đánh giá của ông Mike Douglas, là một thành phố may mắn còn giữ được những không gian ấy. Chỉ ở Hà Nội, ta mới thấy có chợ cóc, có những hiệu cắt tóc vỉa hè, những quán café dưới bóng cây xanh, nơi người ta ngồi chen chúc, xúm xít, vai kề vai lưng kề lưng, để trò chuyện và “chém gió”. Nghĩa là vẫn còn những không gian công cộng rất đặc thù. Chúng ta không bắt gặp những nơi như thế ở các đô thị “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” như Bangkok hay Manila, thậm chí Los Angeles, Washington DC. Ở đó, chỉ có các quán café máy lạnh, kiểu như Starbucks, McDonalds’, người ta mua mang theo hoặc ghé vào uống một lát rồi đi, chẳng thể nào có thứ văn hóa “trà đá café vỉa hè” như Việt Nam.

Không, không thể để Hà Nội, Sài Gòn, hay bất cứ một thành phố nào ở Việt Nam trở thành thành phố bê tông được, nhất là khi những chính sách phá hoại ấy chỉ do một thiểu số dấm dúi làm ra với nhau, sau đó, khi bị công luận lên tiếng, lại tìm cách câu giờ để bao che cho nhau, đợi đến lúc công luận dần lắng xuống rồi mọi chuyện sẽ “cứt trâu hóa bùn”, như truyền thống lâu nay của lãnh đạo Việt Nam. Truyền thống ấy tạo thành những công thức: “Cần một giải pháp đồng bộ”, dịch sang tiếng Việt nghĩa là “không làm gì cả”. “Sẽ xử lý quyết liệt”, nghĩa là “chẳng ai làm sao cả”, cùng lắm thì một thằng đánh máy nào đó bị xử lý, một đồng chí trưởng/phó phòng nào đó bị kỷ luật Đảng mà thôi.

Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng… rất có thể sẽ chẳng bao giờ trở thành những thành phố hoa lệ hàng đầu thế giới. Nhưng không được như thế thì càng phải biết quý, biết giữ lấy cái gì mình có: hoa cỏ, cây xanh, hồ nước, không gian công cộng… Cũng như chính quyền Hà Nội phải biết yêu và giữ lấy những người dân đã có ý thức cộng đồng, đã xót xa từng cây xà cừ bị chặt bỏ, đã xuống đường giơ cao khẩu hiệu bảo vệ cây xanh, yêu cầu minh bạch, phản đối bạo lực… mà vẫn cố gắng ôn hòa, đi trên vỉa hè, nhặt rác, chịu đựng công an, và không giẫm lên cỏ. Không dễ có những người dân như thế trong một xã hội như Việt Nam đâu.

Và, có lẽ nào chúng ta cứ để một thiểu số bất tài vô hạnh ra những quyết định mang tính chất phá hoại – mà không chỉ phá chúng ta, còn gây hại cho nhiều thế hệ sau này nữa? Điều đáng sợ nhất là, khi lầm lỗi, khi làm sai, khi phạm tội ác mà không phải chịu trách nhiệm gì, kẻ sai, kẻ ác sẽ không có lý do gì để dừng lại.

clip_image002

Một đường phố ở thủ đô Washington D.C.

Đ.T.

Nguồn: http://www.phamdoantrang.com/2015/04/ha-noi-hay-biet-yeu-nhung-gi-minh-co.html

Lãnh đạo Hà Nội chính thức tỏ thái độ đối với việc bảo vệ cây xanh

Lãnh đạo Hà Nội chính thức tỏ thái độ đối với việc bảo vệ cây xanh

nguyentuongthuy

Sau khi việc chặt bừa bãi mang tính tàn sát cây xanh ở Hà Nội bị phát lộ, đã có 4 cuộc tuần hành bảo vệ cây xanh vào các ngày 22/3 và 29/3, 12/4 và 19/4/2015. Bốn cuộc tuần hành này về cơ bản diễn ra khá suôn sẻ, trừ vụ bắt Trịnh Việt Dũng và 4 người khác ngay sau buổi tuần hành ngày 12/4. Ngoài ra, còn có cuộc đạp xe vì cây xanh ngày 5/4/2015. Tuy nhiên việc tuần hành bảo vệ cây xanh có những dấu hiệu sẽ bị đàn áp ở việc cuộc đạp xe ngày 5/4 bị chia cắt từ Hồ Tây không thể về Hồ Hoàn Kiếm và việc Trịnh Anh Tuấn bị đánh dã man ngày 22/4.

Đến cuộc tuần hành bảo vệ cây xanh ngày hôm qua 26/4 thì nhà cầm quyền Hà Nội đã ra tay đàn áp quyết liệt. Điều này cho thấy giới lãnh đạo Hà Nội đã chính thức tỏ thái độ về việc bảo vệ cây xanh Hà Nội

Đó là kiểu thi hành pháp luật quái gở ở Việt Nam, đến lúc thấy cần đàn áp thì đàn áp, chẳng có một cơ sở pháp luật nào. Vẫn là bài cổ điển: xe loa ra rả yêu cầu giải tán, cảnh sát, trật tự đô thị, an ninh ngăn chặn, chia cắt, bắt người còn xe bus được điều đến chở người bị bắt để giải tán.

Cẩm nang đàn áp tụ tập đông người: vẫn là Nghị định 38

Nghị định 38/2005/CP ngày 18-3-2005 cấm tụ tập từ 5 người trở lên. Đây là qui định bất khả thi nếu chưa nói đó là văn bản vi hiến. Nghị định này lần đầu tiên được mang ra áp dụng từ cuộc biểu tình ngày 24/7/2011 để cấm các cuộc biểu tình chống Trung Cộng. Và lần này, cái cớ để giải tán cuộc tuần hành cũng không có điều gì khác ngoài qui định cấm tụ tập đông người.

Vấn đề đặt ra là ở Hà Nội cũng như là các tỉnh, những cuộc tụ tập trên 5 người diễn ra hàng triệu mỗi ngày, liệu có giải tán được tất cả không. Buổi sáng dân ven hồ ra tập thể dục có cấm được không? Một gia đình từ 5 người trở lên đi với nhau cũng phải xin phép chăng?

Nhiều người bảo: Tôi ra đây một mình, chỗ nào thích thì đứng, thích đi thì đi, chẳng tụ tập với ai cả nên chẳng biết giải tán như thế nào và giải tán với ai.

Những câu hỏi ấy thắc mắc với công an nhưng đều không có câu câu trả lời. Họ không trả lời nổi nên việc cấm tụ tập từ 5 người trở lên rõ ràng là bất khả thi. Tuy nhiên, nhà cầm quyền muốn giải tán chẳng còn vin được vào văn bản qui phạm pháp luật nào khác.

Tôi bảo mấy cậu công an: “Này, ở Vườn hoa Lý Thái Tổ hôm nay tụ tập đông người lắm, gấp mấy chục lần ở đây, đến đó mà dẹp”. Có cậu im, cũng có cậu nói cùn: cứ biết gặp đâu là dẹp đó. Mọi người lại mách thêm mấy cán bộ công an khác, có tay bí quá nổi khùng lên.

Đi xuôi không được, đi ngược không được nhưng lại yêu cầu … giải tán:

Ở Vườn Hoa Lý Thái Tổ hôm nay diễn ra một cuộc tập nào đó, có tới gần 1 nghìn người, nghe nói giải việt dã gì đó. Nhưng mọi người đều có mặt ở Đài phun nước (Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục).

Nòng cốt của cuộc tuần hành hôm nay là dàn 10 chị em phụ nữ mặc áo dài thật đẹp.

Ảnh facebook Tuyen Chi Nguyen

Lần này chỉ khoảng 40, 50 người tham gia tuần hành nhưng đám nhân viên cộng lực chủ yếu để mắt vào số chị em phụ nữ này. Như những lần đàn áp biểu tình chống Trung Cộng trước đây, chính quyền, công an chẳng có lý lẽ gì, chỉ biết huy động cơ bắp, làm náo loạn cả Bờ Hồ đang yên lành của người dân thủ đô..

Những tiếng quát tháo, ra lệnh, tiếng rít lên của còi, của loa điện, tiếng cự lại của người tuần hành inh ỏi cả Bờ Hồ. Người tuần hành phớt lờ những lệnh vô lý của công an.

Một người hỏi cậu công an:

– Thế nào là tuần hành trái phép?

Cậu ta bảo: “Cứ tụ tập trên 5 người là trái pháp luật.

Tôi hỏi:

– Thế khi đảng csvn tụ tập mấy triệu quân để chiếm miền Nam thì có trái pháp luật không?

Khi JB Nguyễn Hữu Vinh bị chõ loa điện vào mặt yêu cầu giải tán. Anh bảo: “Mồm ông thối hoắc mà cứ chõ vào mặt người ta mà nói, ai mà ngửi được. Ông về đánh răng đi”

Muốn quát tháo gì thì quát, doàn người cứ đi trong trật tự. Đi đến đâu, công an tất tả vượt lên chặn trước, bắt quay lại. Đoàn người quay lại, họ lại vượt lên chặn, lại bắt quay lại. Thật không hiểu nổi bọn này thế nào nữa. Hỏi, vậy thì đi đâu? Chẳng đứa nào trả lời, chỉ thấy hô hét, giải tán, giải tán. Giải tán mà đi xuôi không được, đi ngược không được thì giải tán thế nào?

Mỗi khi bị chặn, đoàn tuần hành dồn vào một chỗ, hát to những bài hát. Bài hát được sử dụng nhiều nhất là “Dậy mà đi”

httpv://www.youtube.com/watch?v=AydrBDAg-IQ

Dậy mà đi (clip NTT)

Đàn áp

Giằng co được khoảng 30 phút thì một chiếc xe bus trờ tới, cho thấy sắp bắt người. Khoảng vài phút sau, màn bắt bớ diễn ra. Tất cả áo dài nằm hết ra vỉa hè, tất nhiên, với những cái đầu rỗng nhưng khỏe về cơ bắp, chúng vẫn cưỡng bức được chị em lên xe. Chúng bắt đi 16 người tất cả, kể cả một em bé 4 tuổi. Lần này, chúng không đưa lên trại Lộc Hà nữa mà đưa sang quận Long Biên. Rất nhiều anh em đã sang Long Biên đòi người. Những lần trước bắt chúng tôi sang trại Lộc Hà, thường là đến chiều tối, chúng mới thả ra hết nhưng lần này chúng thả sớm hơn, vào khoảng 3 giờ chiều.

Đàn áp tuần hành. Ảnh fb Hoang Bui

httpv://www.youtube.com/watch?v=k8bs8IMJO98

Công an bắt người (clip NTT)

Cản trở không cho về:

Sau khi bắt người, còn lại vài chục người ngồi, người đứng nói chuyện với nhau, chụp ảnh. Họ lại đến bắt giải tán. Chẳng có lý do gì giải tán chúng tôi. Chúng tôi vừa cãi cự, vừa ngồi ỳ ra đấy. Không làm gì được, họ bỏ đi. Nhưng đến khi chúng tôi di chuyển về hướng Vườn hoa Lý Thái Tổ thì mấy tay, vẻ là sếp, hốt hoảng gọi quân chạy theo. Có lẽ trong số nhận viên làm nhiệm vụ ở đấy, cũng có người chẳng thiết gì cái trò làm dụng công vụ mà họ phải thường xuyên chứng kiến. Tay chỉ huy gọi lạc giọng:

-Các “đồng chí” đâu cả rồi, nhanh lên chứ, để thế này à?

Chúng tôi có làm gì đâu. Chúng tôi đang đi về phía gửi xe.

Thế nhưng họ cứ dàn hàng ngang chặn đầu không cho đi, bắt quay lại. Chắc là sợ chúng tôi tuần hành tiếp. Mà quay lại thì chúng tôi vẫn đi như thế. Mọi người nhau nhao phản đối còn bọn mấy cậu công an chỉ biết kiên quyết chặn lại, chịu cho mọi người mắng mỏ vì biết trả lời sao. Mặc cho họ dàn hàng chặn, chúng tôi cứ vượt lên. Qua 4, 5 lần như thế thì họ chặn được, vì lúc này họ đã tăng cường thêm quân.

Tôi chỉ vào phố Lê Lai đã gần ngay đó, bảo:

-Tôi gửi xe ở Lê Lai. Bây giờ tôi đến lấy xe để về. Các cậu bảo quay lại thì lấy xe thế nào? Ấy vậy mà chúng cứ khăng khăng bắt quay lại. Thật là quái dị. Tôi bực mình kéo bà xã xuống lòng đường băng sang bên kia. Mấy đứa còn chạy theo định bắt tôi lại không cho về nữa cơ chứ.

Qua cách làm việc của công an nhằm giải tán tuần hành cho thấy, chính quyền và công an Hà Nội đã rất lúng túng khi thực hiện ý đồ của họ

Chắc chắn nếu không có sự gây rối của công an thì Bờ Hồ hôm nay sẽ đẹp hơn bởi các tà áo dài bày tỏ tình yêu đối với cây xanh Hà Nội một cách ôn hòa và trật tự

httpv://www.youtube.com/watch?v=14G0o_KvRVE

Công an cản trở quyền đi lại của công dân (clip fb Rita Nguyen)

Không thể cấm được tình yêu cây xanh của người Hà Nội.

Bị bắt vào đồn. Ảnh fb Tuyen Chi Nguyen

Đòi người trước đồn CA Long Biên. Ảnh fb Nguyễn Lân Thắng

Vin vào việc cấm tụ tập đông người, vu cáo cho những người tuần hành ôn hòa gây rối trật tự công cộng, mục đích của nhà cầm quyền Hà Nội là nhằm giải tán cuộc tuần hành bảo vệ cây xanh. Bằng chứng cho thấy hàng ngày, rất đông người có mặt từng cụm, từng đoàn ở khu vực Hồ Hoàn Kiếm mà họ không cho là tụ tập đông người. Thái độ của lãnh đạo Hà Nội đã rõ. Họ còn nợ dân, nợ các nhà báo rất nhiều câu hỏi xung quanh việc hạ sát cây xanh. Còn quá nhiều điều vẫn nằm trong vòng bí mật mà dân thì đòi minh bạch.

Ngược lại, với những người bảo vệ cây xanh hà Nội thì chỉ khi nào, nhà cầm quyền Hà Nội đình chỉ việc chặt cây chứ không phải chỉ là tạm dừng và phải minh bạch vụ chặt 6700 cây thì mới thôi phản đối.

Hà Nội 26/4/2015

NTT

P/s: Một số hình ảnh ghi chú chung chung do chưa rõ. Thành thật xin lỗi tác giả.

Phụ lục: .Danh sách bị bắt về đồn công an:

1. Nguyễn Thúy Hạnh (FB Hạnh Liberty)

2. Trần Thị Nga (FB Thuy Nga)

3. Phạm Đoan Trang (FB Doan Trang)

4. Nguyễn Lê Hùng (FB Le Hung)

5. Trương Văn Dũng (FB Truong van Dung)

6. Một người tên Trang

7. Tuyet Anh Jethwa

8. Trần Thị Hài

9. Maria Thuý Nguyễn và 3 con gái

10. Hoàng Trương Phước

11. Nguyễn Thị Gam

12. Nguyễn Thị Hướng

13. FB Thảo Gạo

14. Lê Thị Thanh Hương

15. Nguyễn Thị Phương Anh

16. Bé Đoàn Vĩnh Phúc 4 tuổi

Thượng tá và lính trơn quân lực VNCH

Thượng tá và lính trơn quân lực VNCH

Người Buôn Gió

Thực ra ông là trung tá thì phải, nhưng khi người ta cho ông đi học tập cải tạo họ phong cho thêm một chức để tù cho lâu. Lý do họ muốn ông tù lâu vì ông là sĩ quan giảng dạy môn lịch sử trong trường võ bị.

Ông bị tù gần 10 năm, mặc dù xét ra thì ông chẳng hề cầm súng ngày nào. Ông cũng chẳng dạy cách bắn giết , hành quân, tác chiến gì. Nhưng với những người cộng sản thì một sĩ quan có văn hoá lịch sử nguy hại hơn nhiều một sĩ quan biết tác chiến.

Lúc tôi gặp, ông đã ngoài 70. Tôi chỉ gặp ông một chút buổi tối, ban ngày ông đi làm sớm. Khi tôi đến, ông dẫn tôi đến căn phòng dành cho khách, khăn mặt, bàn chải, nước mọi thứ tươm tất như trong một khách sạn nhỏ.

Ông có mấy người con, họ đều có công việc tươm tất và có gia đình và ở riêng. Hai ông bà già ở với nhau trong một căn nhà gỗ rất đẹp. Cả hai ông bà đều đi làm. Sáng thức dậy tôi thấy tờ giấy trên bàn bà ghi lại những món ăn, cách sử dụng đồ đạc trong nhà. Cách khoá cửa khi đi, chìa khoá để chỗ nào.

Tối hôm thứ nhất, chúng tôi ngồi trò chuyện. Tôi hỏi ông trước kia sao không chạy luôn vào những ngày tháng 4. Ông trả lời nhẹ như không.

– Ừ thì mình nghĩ đất nước thống nhất rồi, cùng là người Việt cả. Việc gì phải chạy đi đâu, đất nước của mình mà. Cùng là anh em dân tộc sao phải bỏ đi đâu.

Tôi bật cười thành tiếng, ít khi tôi thái độ bất nhã thế. Nhưng quả thật câu trả lời của ông thành thật đến mức tôi bất ngờ.

Bà vợ ông lắc đầu ngao ngán nhìn tôi và đưa mắt nhìn ông như có vẻ trách thầm cái ý nghĩ ông lúc đó. Tôi hiểu vì sao bà vây, cái lắc đầu đó là 9 năm ròng rã nuôi con, 9 năm tần tảo đi tiếp tế cho chồng. 9 năm là vợ của một tên sĩ quan nguỵ giữa một xã hội luôn sục sôi sự dè bỉu, nhòm ngó áp chế.

Tôi hỏi sau này sao ông lại đi.

Ông nói.

Khi tù về, vợ con nheo nhóc. Không thể kiếm việc gì để sống, nay trình diện, mai lại kiểm điểm. Muốn xin việc gì cũng chả có nơi nhận. Người ta không nhận mình vì lý lịch đã đành, nhưng còn ác chỗ là xã hội ngày ấy còn chả có việc để mà nhận người.

Vậy là ông xuống thuyền đi một mình, bỏ lại vợ con sau gần 10 năm xa cách, may mắn ra khỏi nhà tù rừng thiêng, nước độc. Nơi mà bao bạn tù của ông đã ngã chết, ông lại dấn mình vào biển cả mông mênh chứa đầy bất trắc. Nhờ may mắn ông được tàu nước ngoài vớt, được định cư tại Bắc Âu rồi miệt mài làm việc đưa vợ con sang đoàn tụ.

Lẽ ra người từng trải như vậy, cá tính phải dữ dội hay chí ít cũng manh mẽ. Đằng này nhìn ông vẫn cứ nhẹ nhàng đến mức nhu mì, đúng ông là một nhà giáo dạy văn hóa chứ chả phải sĩ quan quân đội gì cả.

Tôi ở nhà ông bà hai hôm, tối hôm chia tay, ông sắp cho tôi một lô đồ ăn, áo và ông đưa 200 usd.

Tôi không muốn nhận tiền của ông bà, nghĩ hai ông bà già dậy từ sớm tinh mơ khi tôi còn chưa dậy , chuẩn bị đồ ăn gói gém mang đi làm. Tối mịt mới về, cầm tiền không nỡ mặc dù tiền thì bao giờ cũng cần cả. Ông ” thượng tá ” nói nhỏ chân thành.

– Anh cứ cầm đi, giữ lấy nếu thấy người nào trong nước khổ thì anh cho họ giúp tôi. Tôi già rồi, chẳng làm được gì, nghe tin tức thấy nhiều người bị tù tội, đánh đập thương quá mà không biết làm gì. Anh cầm giúp cho tôi được thấy mình còn có chút ích với đời.

Tôi nắm chặt 200 usd trong lòng bàn tay, quay đi nhìn tivi đang chiếu gì đó với thứ ngôn ngữ lạ hoắc với tôi, cốt để không trào lệ.

Tôi đã từng cố tìm một tên nguỵ ác ôn nào đó trong những cuốn sách mà tôi từng học. Nhưng chưa được. Hầu hết quân nguỵ tôi gặp cứ hiền lành, cả tin, thậm chí là ngây thơ đến mức không nhịn được cười. Năm 2001 tôi đi xe máy qua Phan Thiết, một chuyến đi dọc đất nước bằng xe máy một mình. Khi đến Phan Thiết có một quán lá bên đường quốc lộ, chỗ thưa thớt dân cư. Cái quán lá, vách gỗ xung quanh có vài cây xoài, dưới cây xoài to có một cái phản. Tôi dựng xe, nhảy lên phản nằm ngủ một giấc, cũng chả hỏi han chủ quán câu nào.

Lát sau tỉnh dậy, thấy mấy người đàn ông ngồi ở bàn ghế kế bên nhìn tôi. Một người có vẻ chủ quán gọi tôi ra bàn, rót cho cốc nước đặt trước mặt tôi, ông ta nhìn tôi nói.

Tôi thấy anh đi xe biển 29, biết anh là người Hà Nội. Anh nói xem không nào.?

Tôi trả lời vâng đúng, ông hỏi tôi đi công tác gì vậy.

Tôi trả lời trả công tác gì, tôi đi lang thang. Tôi hỏi ông có chỗ tắm không, ông chỉ cho tôi vòng đằng sau có một chỗ quây liếp, có vại nước Tôi tháo túi buộc sau xe, lấy đồ đi tắm. Nghe loáng thoáng đằng sau tiếng mầy người nói.

– Cha này nhìn tướng dữ, chắc dân giang hồ chi đây.

Tắm xong , tôi ăn bát mỳ và hai quả trứng vịt, quán đơn sơ chỉ có thế. Tôi hỏi ông trước năm 75 làm gì. Ông bảo là lính dù. Hỏi ông có phải đi học tập cải tạo không. Ông bảo đi một năm rưỡi thôi, vì là lính lên đảng và nhà nước khoan hồng cho học ngắn hơn sĩ quan. Khi trả tiền, bất chợt ông hỏi tôi.

– Anh có biết tôi ước mơ gì nhất không.?

Tôi nhìn ông, lắc đầu.

Ông nói vẻ mặt đầy xúc cảm thiết tha.

– Tôi chỉ ước một điều, là tôi có tiền để ra Hà Nội thăm lăng bác được một lần. Tôi là người Việt Nam mà từng này tuổi tôi chưa bao giờ được đi thăm lăng bác. Anh ở ngoài dấy có hay vào thăm bác không.?

Lúc ông nói câu từng này tuổi, ông đập ngực mình thình thịch như rất xót xa.

Tôi bật cười, tôi bảo ông.

– Nếu như ngày ấy, các chú mà cố đánh ra Bắc, có phải bây giờ tha hồ mà thăm lúc nào cũng được không. Cháu chỉ đi thăm một lần, đó là hồi cháu đi bộ đội, đơn vị bắt phải vào thăm. Vì đợt đó trung đội cháu được chọn vào hội trường Ba Đình làm đại diện cho lực lượng quân đội nhân ngày kỷ niệm 15 năm giải phóng đất nước, ngày 30- 4 đấy. Lúc ấy cháu chỉ muốn tranh thủ tạt vào nhà chị cháu ở Ngọc Hà để xin tiền đi xích lô về nhà chơi, nhưng chỉ huy không cho vì bảo thời gian không có.

Ông cựu lính dù lắc đầu chê trách.

Tại sao anh ở ngoài đó mà chỉ đi thăm bác có một lần, tôi ước mơ năm nào tôi cũng đi thăm bác một lần.

Tôi ngạc nhiên trước tấm lòng yêu bác của ông, tôi nhìn kỹ các cơ mặt, ánh mắt của ông đến khi biết chắc rằng ông nói thật lòng. Tôi mới đi.

Cuối cùng tôi cũng gặp được một lính VNCH tay dính đầy máu ở Nam Ca Li. Nguyên nhân tôi lọ mọ tìm nơi bán quần áo lính Mỹ, người ta giới thiệu anh ta cho tôi. Anh ta sành và sưu tầm đồ lính nhiều đến nỗi thỉnh thoảng trung tâm Asia làm chương trình ca nhạc còn mượn đồ anh. Ngoài 60 tuổi, nhưng tóc anh ta dày và đen hơn tôi, cao ráo, nhanh nhẹn, lưng thẳng. Nếu không có tí nếp nhăn trên mặt thì nhìn bề ngoài anh ta chả già hơn được tôi. Nhìn tướng anh ta đi lại, đứng ngồi tôi hỏi anh có phải lính dạng đặc công không, vì dáng của anh là dáng của người có võ thuật.

Anh gật đầu, thì ra anh là lính biệt kích đặc nhiệm, anh chiến đấu cùng luôn với lính Mỹ chứ không phải ở những đơn vị quân VNCH khác. Tôi hỏi anh lúc trước đánh nhau giết nhiều người không. Anh bảo nhiều lắm không nhớ hết. Người ta cứ xông ào ào, mình cứ bắn ào ào, chỉ nhác thấy người gục xuống liên tục, lúc đó ai mà còn đếm được, nhất là ban đêm nữa.

Tôi hỏi anh có áy náy không khi giết nhiều người thế.

Người biệt kích đặc nhiệm mặt thiểu não, nét mặt anh thê thảm, buồn bã, anh lắc đầu như muốn xua đi những hình ảnh cũ trong đầu. Anh nói.

Buồn, đau chứ, họ là con người mà. Sao họ cứ xông thẳng vào súng đang bắn liên thanh thế chứ.

Tôi không hỏi, ngồi hút thuốc nhìn anh đang tự ngắm đôi bàn tay anh, bàn tay có những ngón tay mảnh dẻ. Anh kể tiếp.

– Sáng hôm sau chúng tôi bắt sống được hết, toàn trẻ con mười lăm, mười sáu thôi. Tôi hỏi chúng sao đạn bắn nhiều thế mà cứ lao vào làm gì. Họ bảo tại vì chỉ huy họ nói bọn Mỹ mắt xanh, ban đêm không nhìn thấy gì mà bắn đâu. Mà lúc đó chỉ huy đi đằng sau, quay lại cũng bị chỉ huy bắn chết.

Anh gục đầu một lát, ngẩng lên mắt đỏ hoe.

– Tôi giết toàn trẻ con anh ạ, ngày hôm sau xong rồi đi xem lại, mới biết mình giết toàn trẻ con, có đứa có khi chỉ 14 tuổi thôi, có đứa đã mang AK, dắt lưụ đạn quanh mình, thêm mấy băng đạn lại còn đeo cả mã tấu ở lưng làm gì cơ chứ, người bé tí thế chạy sao nổi mà vác cả đống đồ đi đánh nhau. Nhìn thương lắm, lau nước mắt mà chôn chúng . Toàn trẻ con cũng người Việt, người dân tộc mình cả.

Mấy người lính VNCH tôi gặp làm tôi thấy quân lính VNCH thật kỳ lạ. Ông sĩ quan thì tin là thống nhất đất nước rồi, tất cả đều là anh em, kết cục tù 9 năm cải tạo. Ông lính trơn đi tù về thì ước mơ được ra Hà Nội một lần thăm lăng bác. Còn ông tay đẫm máu nhất té được sang Hoa Kỳ, lẽ ra phải kể lể chiến công của mình thật oai hùng, giết được nhiều tên địch tinh nhuệ thì ông ta lại khóc, thú nhận đau đớn về những người bị mình giết, xót thương cho họ và cho cả ông vì buộc phải xả đạn.

Tôi nhờ người tìm Nguyễn Ngọc Lập, Nguyễn Phương Hùng. Nhờ mãi chả ai tìm được, người ta bảo mấy ông đó vợ bỏ, thất nghiệp, không nhà cứ ở lang thang nay chỗ này, mai chỗ khác. Chả biết đâu mà tìm. Muốn gặp mấy vị ấy xem chừng lại khó.

Sai lầm khi “coi thường” thành quả VNCH

Sai lầm khi “coi thường” thành quả VNCH

Việt Nam đã để lỡ mất cơ hội phát huy những thành quả của miền Nam để lại do chìm đắm trong tư tưởng của bên thắng cuộc, theo Tiến sỹ Vũ Minh Khương

Việt Nam đã để mất cơ hội trở thành một cường quốc sau năm 1975 do coi thường các thành quả trong chính sách của Việt Nam Cộng hòa.

Nhận định trên được Tiến sỹ Vũ Minh Khương, từ Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore, đưa ra trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 25/4.

Cũng theo ông Khương, chính thái độ này đã khiến cho Việt Nam “tổn thất một nguồn lực rất lớn”, không khai thác được ý chí dân tộc và “tình cảm giữa người dân hai miền”.

BBC: Ông đánh giá thế nào về các chính sách kinh tế của miền Nam trước năm 1975?

Ông Vũ Minh Khương: Tôi nghĩ chính quyền miền Nam trước đây đã có những nỗ lực rất lớn trong phát triển kinh tế, dù trong hoàn cảnh chiến tranh rất ác liệt và tâm trí của họ không dành được nhiều cho vấn đề này.

Việc hỗ trợ cho kinh tế tư nhân, hội nhập quốc tế và hỗ trợ kinh tế nội địa, theo tôi là những điểm sáng.

Tôi thì không được chứng kiến trực tiếp việc họ thực thi chính sách như thế nào, nhưng sau năm 75, tôi vào làm việc ở TP.HCM thì thấy trình độ quản lý của các cơ sở tiếp quản từ doanh nghiệp miền Nam rất tốt, kể cả từ mặt thiết bị, tính chuyên nghiệp, sổ sách, tính quy hoạch.

Rõ ràng là có dấu ấn của nỗ lực khá tốt trong việc xây dựng một nền kinh tế thị trường có hiệu quả.

BBC: Sau năm 1975 thì thái độ học hỏi những chính sách, thành quả kinh tế của miền Nam thời bấy giờ từ phía ‘thắng cuộc’ là thế nào, thưa ông?

Ông Vũ Minh Khương: Tôi thấy trong bối cảnh của miền Nam mới giải phóng thì ý thức học hỏi của Việt Nam rất hạn chế vì tâm lý là người chiến thắng. Khi đó miền Bắc nhìn nhận mọi vấn đề ở miền Nam một cách rất coi thường, đánh giá thấp, không trân trọng những gì họ đã làm được.

Đó là một não trạng mà đến nay chúng ta phải rút kinh nghiệm rất là nhiều.

Cái thứ hai là lòng thôi thúc để xây dựng một đất nước hùng cường chưa rõ, vẫn còn bị ảnh hưởng vì chiến thắng.

Bên cạnh đó, chúng ta còn nghĩ rằng vì mình là đồng minh của Liên Xô, cứ học hỏi Liên Xô, là có thể trở thành một quốc gia XHCN thành công rồi. Nỗ lực học hỏi tinh hoa của thế giới còn rất hạn chế.

BBC: Nếu như những người tiếp quản miền Nam nghiêm túc nghiên cứu về những chính sách cũ để từ đó chắt lọc và tiếp tục áp dụng thì theo ông điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt gì?

” Tôi thấy chúng ta rõ ràng đã làm tổn thất một nguồn lực rất lớn, từ ý chí dân tộc đến tính chuyên nghiệp đã được đào tạo ở chế độ cũ, cũng như tình cảm gắn bó giữa người dân hai miền.

Tiến sỹ Vũ Minh Khương”

Ông Vũ Minh Khương: Tôi cho rằng điều đó sẽ tạo nên sự thần kỳ. Tất cả chúng ta phải thấy xót xa, khắc khoải vì mất đi một thời cơ quý giá vô cùng như thế.

Giá như với ý thức cao, chúng ta có thể tiếp thu những gì ở miền Nam, cái gì dở thì sửa chữa, cái gì tốt thì học hỏi và đặt câu hỏi vì sao họ làm được như thế.

Tôi từng làm việc ở một trung tâm tính toán và thấy tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ ở đó rất cao. Họ tận tình chỉ bảo nhau rất kĩ càng mà tôi là người mới vào, được chỉ dẫn rất rõ.

Hệ thống IBM hiện đại lúc đó còn để lại, duy trì hàng chục năm mà vẫn còn giúp cho miền Bắc rất nhiều, từ xây dựng Thủy điện Sông Đà, tới tuyển sinh và quản lý hoàn toàn hệ thống điện lực ở miền Nam, rất hiệu quả.

Cũng không hề có tham nhũng tiêu cực ở đó, tính chuyên nghiệp rất cao. Đồng lương thì khiêm nhường thôi, nhưng anh em làm việc ở đó gắn bó tình cảm lắm. Sau này thì mọi người ly tán, mỗi người đi một nơi, xuất cảnh ra nước ngoài.

Sau này nghĩ lại tôi thấy chúng ta rõ ràng đã làm tổn thất một nguồn lực rất lớn, từ ý chí dân tộc đến tính chuyên nghiệp đã được đào tạo ở chế độ cũ, cũng như tình cảm gắn bó giữa người dân hai miền.

BBC: Từ góc độ của một nhà quan sát, ông có cho rằng đã có sự thay đổi từ phía các nhà làm chính sách trong cách nhìn nhận, nghiên cứu những kinh nghiệm của miền Nam ngày trước chưa?

Ông Vũ Minh Khương: Khi nói về năng lực học hỏi thì thường người ta nhìn ở ba khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là khả năng tiếp thu có tốt hay không, thứ hai là sự khát khao để học hỏi cái mới, và thứ ba là cơ chế khuyến khích, tức là người chịu khó học hỏi vươn lên có được tưởng thưởng hay không.

Ở Việt Nam thì tôi thấy hạn chế nhất là lòng thôi thúc chưa được cao. Thứ hai là cơ chế tưởng thưởng người khát khao học hỏi cũng hạn chế.

Học ở chế độ cũ là một việc, học từ toàn thế giới lại càng quan trọng hơn.

Cán bộ của mình khả năng tiếp thu không yếu. Những anh em cán bộ từ Bắc chuyển vào Nam làm quản lý sau 75 thì cũng cố gắng tiếp thu những cái cũ khá nhiều.

Nếu có cơ chế khuyến khích họ mạnh mẽ khai thác những cái hay của chế độ cũ, bên cạnh đó có những nỗ lực vươn lên, thì tôi cho rằng Việt Nam có thể đạt dược những thành quả lớn hơn nhiều.

Viết cho ngày 30/4: nỗi đau nào lớn hơn?

Viết cho ngày 30/4: nỗi đau nào lớn hơn?

RFA

Nguyễn Vũ Bình, viết từ Hà Nội

Hàng năm, cứ đến ngày 30/4 là nhà cầm quyền Việt Nam lại tổ chức kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng các lễ mít tinh, diễu hành, diễu binh, duyệt binh. Đối với đồng bào người Việt hải ngoại, và rất nhiều đồng bào miền Nam ở trong nước, đây là ngày quốc hận, là nỗi đau chưa hề nguôi ngoai.

Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu…đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.

Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản

Nhưng ngày 30/4 cũng chính là bước ngoặt và đưa tới một nỗi đau tột cùng cho bên thắng cuộc, cho những người được mệnh danh giải phóng người khác. Rất ít người nhận ra nỗi đau âm ỉ, dồn nén và không nói lên được của hầu hết những người thắng trận năm xưa, của những thế hệ dấn thân cho đất nước, cho dân tộc luôn nghĩ mình có chính nghĩa và lý tưởng nhưng cuối cùng lại không phải như vậy.

Nỗi đau của bên thắng cuộc là nỗi đau từ từ, âm ỉ. Nó lớn lên cùng với nhận thức của chính những người trong cuộc, từ sự so sánh giữa lý tưởng và hiện thực, giữa lời nói và việc làm. Sau 30/4/75, đất nước sạch bóng quân thù, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội….một sự vỡ mộng, bẽ bàng khủng khiếp từ từ xâm lấn tâm hồn bên thắng cuộc. Với độ lùi 40 năm sau ngày 30/4 đó, tất cả đã hiển hiện, bức tranh toàn cảnh của Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng cộng sản: Sự toàn vẹn lãnh thổ không còn, đất đai, hải đảo, lãnh hải bị mất và xâm phạm nghiêm trọng; nợ gấp đôi GDP và không có khả năng thanh toán; đạo đức, nền tảng xã hội bị băng hoại và phá hủy hoàn toàn; sự dồn nén cùng cực của tất cả mọi tầng lớp nhân dân…đây phải chăng là kết quả của niềm vui chiến thắng?

Chưa hết, nỗi đau còn nhân lên gấp bội khi sự rộng mở của hệ thống Internet toàn cầu đưa tới những sự thật kinh khủng: Hồ Chí Minh bán Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 10 vạn quan tiền; kế hoạch sửa sai có trước khi Cải cách ruộng đất diễn ra (sách Từ Thực dân tới Cộng sản – tác giả Hoàng Văn Chí)…tất cả những sự thật khủng khiếp đó được hé lộ đã khẳng định một điều.

Hóa ra, có một sự thật có hệ thống từ khi đảng cộng sản xuất hiện đã chi phối và không chế hoàn toàn dòng chảy của lịch sử Việt Nam. Sự thật này khởi nguồn từ việc cướp chính quyền, tiêu diệt toàn bộ các đảng phái không phải cộng sản; tạo ra cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất; cải tạo công thương nghiệp miền Bắc; Nhân văn Giai phẩm; cưỡng chiếm miền Nam; đày đọa hàng triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa; cải tạo công thương nghiệp miền Nam; hai lần đổi tiền để cướp của người dân; cướp đất đai của người dân tạo ra hàng triệu dân oan trên cả nước (thời kỳ đổi mới); đàn áp mọi tôn giáo, sắc tộc….một sự liệt kê chưa đầy đủ này đã làm câm họng tất cả những kẻ nói rằng chủ trương đường lối là đúng, thực hiện sai; bản chất là đúng, là tốt nhưng quá trình thực hiện có sai lầm; thế hệ trước là đúng, là tốt, sau này mới tha hóa, xấu xa…

Những sự thật này đã đẩy bên thắng cuộc tới tận cùng của nỗi đau: cả cuộc đời, cả sự nghiệp của họ là vứt đi, thậm chí có tội với dân tộc, với đất nước. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng…khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.

Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?