Hồi ức Tị Nạn

Trong dịp cuối năm, cũng là 41 năm kể từ 1975, xin chia sẻ với quý anh chị em một chút tâm tình:

Hồi ức Tị Nạn

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Tôi không có thói quen viết nhật ký. Hồi bé tôi cũng ráng bắt chước các chị trong nhà, nắn nót viết vì được tặng một cuốn sổ có chìa khóa bé xíu rất xinh, nhưng chỉ viết được vài dòng thì chán – chơi búp-bê, chạy nhảy ngoài sân với bạn vui hơn.

Lớn lên, khi buồn chuyện này người kia, tôi cũng có ý định trang trải tấm lòng trên trang giấy, nhưng vốn biếng lười rồi sợ có người đọc được nên thôi. Thế nhưng hôm nay tôi lại chạnh lòng, muốn viết một chút gì đó để hồi tưởng lại 40 năm tị nạn, nhớ lại chặng đường dài mà người dân Việt đã đi qua. Nếu như tôi đã viết nhật ký, việc ghi nhớ chuyện cũ có lẽ sẽ dễ dàng hơn nhiều, vì bây giờ những kỷ niệm xưa, các suy tư đã phôi pha theo ngày tháng, tuổi tác  … Nhưng hôm nay tôi nhủ lòng sẽ cố gắng ghi lại một chút tâm tình – Tâm tình của người tị nạn, của một thuyền nhân nhỏ bé tầm thường – viết lại tâm trạng khắc khoải của người di tản buồn phải lưu vong trên xứ người. Tôi vẫn thích hát “Hãy cố quên đi mà sống…”, nhưng ngược lại có những điều tôi không cho phép mình được quên để biết mình là ai và trách nhiệm như thế nào… “Mời người lên xe, về miền quá khứ”….

Ngày… tháng…

30 tháng 4, 1975, tôi chưa tròn 15 tuổi. Những tháng trước đó gia đình tôi không được ở nhà mình tại khu nhà thờ Tây Ninh nữa, mà phải xin tạm trú với người bà con ở xa khu vực tỉnh lỵ để tránh pháo kích. Sợ lắm, nửa đêm đang ngủ ngon bỗng nghe tiếng đạn nổ thật to, thật gần. Ba má và mấy chị em chúng tôi phải chạy trốn xuống hầm tránh đạn, ngồi co ro lo lắng. Tôi hay hỏi: Hết pháo kích chưa để được lên nhà nằm ngủ, ba má biết đường nào mà trả lời! Tôi đã thấy những miểng đạn thật to bay vào sân nhà, tôi đã đi đám tang của bà bán chè trong xóm chết tại chỗ, thịt da và máu lẫn trong nồi chè lênh láng. Tôi đã nghe radio loan tin về các em học sinh bị pháo kích ở Cai Lậy, và rơi nước mắt với nhiều gia đình vì người thân đi lính đã tử trận. Ôi chiến tranh, ôi thời kỳ đau thương khốn khó.

Xưa kia em có mẹ cha

Xưa kia em có ông bà

Trong một ngày em mất cả ba….

Anh tôi hiểu tình hình thời sự, nên khuyên ba má và mấy đứa em chúng tôi bỏ Tây Ninh lên thành phố sinh sống, vì Saigon dù sao cũng có tai mắt quốc tế, ít sợ bị trả thù, bị gò bó như ở tỉnh nhỏ. Rời Tây Ninh tôi buồn lắm, xa trường mất bạn nhưng biết làm sao hơn.

Nhưng buồn hơn cả là biết được 30 tháng 4 là ngày mất nước, Việt Cộng đã tràn vào tới Saigon, trên đài phát thanh ông Dương Văn Minh đã chính thức đầu hàng. Chị tôi bảo phải lo cắt móng tay cho thật ngắn, vì Việt Cộng không thích những đứa xí xọn để móng tay dài. Má tôi có vài lượng vàng, vài cái nhẫn, bắt chúng tôi giấu kín trong người, tưởng rằng như thế là qua mắt được “họ”! Chúng tôi còn ngây thơ quá, ít kinh nghiệm với Cộng Sản quá, bằng chứng là sau đó hai ông anh của tôi đã nghe lời ra trình diện học tập cải tạo 10 ngày, để rồi đi “mút mùa” bao nhiêu năm.

Mấy tháng sau ngày 30 tháng 4, tôi được đi học lại, nhưng ngày đầu tiên là học hát nhạc đỏ, nhạc “cách mạng”, nghe giảng chính trị dài dòng vô nghĩa. Dù sao tôi cũng còn may mắn có sự bảo bọc của gia đình, không phải đi kinh tế mới, không phải đi bán vé số, lượm rác…

hoi-uc-ti-nan-1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

​Ngày… tháng…

Tôi học trung học cấp Ba, tuổi học trò nên còn vô tư, còn vui với bạn bè, dù cuộc sống đã bắt đầu thay đổi. Vì lao động là vinh quang, học sinh phải làm công tác sản xuất ngoài giờ học chữ, nên chúng tôi quay quần bên nhau đan lá mây tre, tức là ngồi đan những cái rổ, cái giỏ để xuất khẩu cho nhà trường kiếm tiền. Chúng tôi thủ thỉ chuyện thơ văn, chuyện bất công đói rách đang xảy ra trên quê hương, tình bạn thật thắm thiết dù thầy cô “quốc doanh” dạy chúng tôi phải có tinh thần tập thể, cái gì cũng phải mang ơn Bác và Đảng, như ngắm trăng cũng phải cùng ngắm chung, ngồi một mình tư lự với trăng là tư duy sai lầm, là cá nhân chủ nghĩa!

Hôm nay N. đến trường nhưng không ở hết buổi học, anh tới giã biệt tôi vì phải cùng mẹ đi xa kiếm cách sinh sống. Ba của N. đã trốn vào bưng tìm cách đấu tranh giành lại chính quyền, kinh tế gia đình gặp khó khăn, công an có thể tới nhà N điều tra khó dễ. Tôi buồn lắm, một phần vì cũng có cảm tình đặc biệt với N, lũ bạn hay “cáp đôi” chúng tôi với nhau, một phần vì lo sợ cho chính gia đình tôi. Trước vận mệnh đất nước, nhiều chia ly, đau khổ sẽ diễn ra. Thầy T. đang dạy chúng tôi môn Toán cũng bị công an tới tận lớp bắt đem đi mất, nói là có tội với Cách mạng, cô T. và gia đình thầy khổ sở biết bao nhiêu. Tôi nhớ câu chuyện Bầy Phượng Vỹ Khác Thường của Nhã Ca, chúng tôi cũng đang trong tâm trạng thấp thỏm lo âu, không an tâm học hành, không biết ngày mai chuyện gì sẽ xảy ra…

Ngày… tháng…

Sáng nay tôi giật mình dậy sớm vì nghe tiếng khóc nỉ non, tiếng kể lể từ nhà hàng xóm bên cạnh vọng lại. Trời ơi! bạn K. bị bắt đi nghĩa vụ quân sự mấy tháng trước đã bỏ mình nơi chiến trường Campuchea. Xót xa nào hơn khi cha mẹ tóc bạc phải khóc con đầu xanh, mà lại không được thấy xác con để nhìn mặt lần cuối hoặc chôn cất. Hèn chi người anh bà con của tôi nhất định không chịu trình diện làm lính thế thân cho Cộng Sản. Anh trốn chui trốn nhũi đói khát thật đáng thương. Anh không được đi học đi làm, cũng không thể ở nhà vì lệnh bắt trốn nghĩa vụ quân sự ai cũng biết, không ai dám chứa chấp. Chị tôi bị ép phải “phấn đấu” để có thể trở thành cảm tình viên của Đoàn Thanh niên Cộng Sản. Chị đâu có muốn thành đoàn viên. Gia đình tôi lý lịch xấu, cha làm công chức cho chế độ cũ, anh làm “Lính Ngụy”, phấn đấu 10 đời cũng không tới đâu, nhưng họ vẫn bắt chị đi họp hành ca hát, công tác liên tục. Mấy đứa cháu phải tham gia Thiếu Nhi Khăn Quàng Đỏ, bị nhồi sọ những chuyện sai lầm, sắt máu. Còn các bà mẹ, các người chị phải ra ngoài buôn thúng bán bưng, đầu tiên là bán các thứ trong nhà để sống cầm hơi, vì người đàn ông trụ cột trong gia đình đã đi tù cải tạo. Mọi người có thêm gánh nặng nhịn ăn nhịn mặc để lo thăm nuôi người nhà trong trại tù. Tôi có cùng chị dâu đi thăm anh tôi ở trại cải tạo một lần, thật là thương cho các chiến sĩ, nhân viên chế độ Cộng Hòa bị sa cơ thất thế. Đói rét đã đành, nhiều người bệnh nặng, bị biệt giam gông cùm thật khổ. Trong cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện có ghi lại kinh nghiệm tù mà tôi còn nhớ. Khi bị cùm lâu ngày một chân sẽ bị teo nhỏ lại không đi vững được, nhưng người tù vẫn không dám xin cán bộ đổi cùm sang chân kia. Lý do không phải vì sợ cán bộ từ chối, nhưng chân teo nhỏ lại sẽ ít bị cái cùm siết chặt, ít đau đớn hơn. Nhiều người bị nhốt trong phòng tối mười mấy năm, mắt trở nên mù lòa thật khổ. Tôi hồi ấy cũng còn ngây thơ, nên thắc mắc cán bộ không cho tù cải tạo ăn đường là phải, vì mua đường tốn tiền, nhưng muối rất rẻ mà sao họ cũng không cho ăn để cải tạo bị phù thủng? Thì ra Cộng Sản muốn làm khổ, muốn hành hạ cho phá bệnh tật để không còn sức lực tranh đấu, chứ không phải vì thiếu muối. Thật vậy, tình thương yêu thông cảm đâu tốn xu nào để mua, mà con người vẫn dè sẻn đâu đã cho nhau hết lòng, nói chi đến Đảng Cộng Sản sắt máu.

Nhiều em bé không được tới trường, phải lang thang đầu đường xó chợ đói rách kiếm ăn. Do thiếu giáo dục các em hỗn láo ma lanh, dối gian… Nhà cầm quyền lại đánh phá “Tư sản mại bản” bằng nhiều hình thức, một trong những cách là đổi tiền hai ba lần. Tôi nhớ lần đầu mỗi gia đình chỉ được đổi 200 đồng tiền Hồ, còn lại mất hết, ba má và người thân tiếc tiền phát bệnh, có người còn tự tử. Ôi, thân phận con người thế hệ chúng tôi.

hoi-uc-ti-nan-2

Ngày… tháng…

Đến thời gian này phong trào “Đi” được bắt đầu, vì cái cột đèn nếu có chân cũng sẽ bỏ trốn Cộng Sản để ra đi mà! Chuyện đút lót mua bãi để không bị bắt lại, chuyện bị lường gạt mất “cây” mà không đi được, chuyện vào tù vì dám bỏ trốn chế độ xảy ra thường xuyên. Rồi vượt biên lạc đường bị đói khát, bị cướp biển, bị làm mồi cho cá mập… Ai nấy căng thẳng sợ hãi. Nhưng ở lại cũng chết, ra đi dù sao cũng có chút hy vọng, nên đông đảo người dân đã liều mình vượt biên, tạo nên một sự kiện đặc biệt trong lịch sử. Hôm nay đi học tôi lại thấy vắng thêm một người bạn, công an đang hồ hởi phong tỏa căn nhà của gia đình bạn để làm cơ sở thành phố. Thầy bói có thêm cơ hội hành nghề, vì nhiều người quá lo phải tới nhờ thầy xem dùm có đi thoát không rồi mới dám liều. Anh chị Hai tôi ở Bến Tre, anh là Đại Úy phải đi học tập, chị bị công an tịch thu nhà để làm Ủy Ban Quân Quản Thành Phố, đuổi đi kinh tế mới. Đàn con phải làm rẫy khổ sở, nên chị liều mình vượt biên, rủ tôi cùng đi.

May mắn chuyến hải trình êm xuôi, chúng tôi không bị hải tặc, chỉ bị công an Việt Nam chặn lại cướp của làm tiền. Chúng tôi được đưa tới trại tị nạn tại Nam Dương, mừng quá là mừng. Đó cũng là nhờ cháu bé con anh Năm tôi lúc đó mới 3 tháng tuổi. Khi tàu Tây Đức đi ngang qua, họ không muốn rắc rối nên chỉ cho thức ăn nước uống để chúng tôi đi tiếp. May quá một người nhanh trí đã ẵm cháu tôi giơ lên cao cho người Đức thấy. Có lẽ vì thương trẻ em cùng với con thuyền bé nhỏ mong manh trên biển cả, họ bảo chúng tôi đục cho tàu ngập nước, rồi gọi về cho cấp trên nói là chúng tôi đang chết chìm nên phải cứu.

Trại tị nạn Indonesia được mệnh danh là “Ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người”, chúng tôi an tâm học Anh văn, chuẩn bị ngày đi Mỹ. Cơm Cao Ủy phát chúng tôi ăn còn đói, còn thiếu thốn rất nhiều các phương tiện khác, nhưng không dám đòi hỏi gì hơn. Chỉ buồn là thấy chung quanh cũng có một số ít người vì chút quyền lợi, vì thiếu suy nghĩ nên luồn cúi cảnh sát Indonesia làm hại bà con, hoặc có các chị chịu đi chơi riêng với người Indonesia, không tiếc phẩm giá. Lại có người độc thân tại chỗ, vì quá cô đơn yếu đuối cần nơi nương tựa, nên đã “ghép form” ở tạm với nhau, làm sau này gặp phải cảnh  hai vợ hai chồng, không biết chọn ai bỏ ai. Ở lại quê nhà là một dấu chấm than, nhưng ra đi được lại là một dấu chấm hỏi to tướng. Trách nhiệm rất nặng nề, mình sẽ làm được gì cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước đây?…

Ngày… Tháng…

Thời gian ở trại Tị nạn thật dài với những vui buồn lẫn lộn. Vui vì thoát được chế độ Cộng Sản, buồn vì xa nhà, lo lắng cho tương lai trên xứ lạ quê người. Cuối cùng tôi và gia đình anh chị cũng tới được Cali đất Mỹ. Tôi vừa học vừa làm, mỗi ngày mười mấy tiếng, có bệnh cũng không dám nghỉ, ráng dành dụm gởi tiền, gởi quà về cho gia đình và bè bạn. Ngày ấy vải vóc ở Việt Nam rất quý, hơn một thước vải xoa Pháp vài đô-la là may được một cái quần đen, nếu chúng tôi nhịn xài thì có thể giúp được nhiều người. Mỗi khi thèm quá mua bánh kẹo trái cây ăn, cô cháu gọi tôi bằng dì luôn xuýt xoa “Chèn ơi! Ăn hết một cái quần xoa Pháp rồi!”

Chúng tôi bây giờ văn minh, bắt đầu sợ mập ăn kiêng, nhưng vẫn không quên những ngày đói khổ tại quê nhà. Chúng tôi hay nhắc lại kỷ niệm cũ như lúc phải nấu cháo ăn cho đỡ tốn, hoặc lúc đi lặn lội đào kinh làm công tác thủy lợi do phường khóm đề ra, không đi là cắt hộ khẩu, cắt gạo, bị kiểm điểm. Cái màn tự kiểm và bị kiểm điểm thật ghê sợ, nếu không nói dối, không khôn khéo sẽ bị tù như chơi. Tôi khi ấy cũng phải phụ giúp gia đình, sáng đi học chiều đi bán nước mía cho người bà con kiếm thêm tiền. Tôi lượm vỏ mía về cho má tôi nấu ăn thay củi, vỏ mía cháy vèo vèo nhưng chịu cực thì cơm cũng chín. Có lần lãng đãng lo ra, tôi đút cả ngón tay vào trục xay nước mía, may mà chỉ bị mất một phần nhỏ ngón tay cái, không bị cụt!

Tôi đã từng sắp hàng cả ngày để mua được vài ký bo bo, nấu lên cứng ngắc ba tôi nhai trệu trạo thật đau lòng. Tôi cũng nhớ có lần mang sổ hộ khẩu sắp hàng để mua được một chia bia, đem bán chợ đen ngay để có tiền mua đi chợ. Chị tôi đi dạy học có tiêu chuẩn mỗi tháng nửa ký thịt, nhưng chị vừa hiền lành vừa khẳng khái không tranh dành, nên chỉ đem về chừng vài trăm gram thịt mỡ bèo nhèo, lớp cán bộ đã ăn bớt, lớp các bạn đồng nghiệp chia chác hai ba đợt. Ba tôi lâu ngày không có thịt ăn, ăn vào lạ bụng tiêu chảy quá chừng. Buổi cơm gia đình tôi lúc ấy thường chỉ là rau muống luộc, đậu hũ luộc, ngày nào có khách thì mua vài cái trứng vịt, quậy thêm với bột mì để chiên cho được nhiều. Nhiều nơi hàng xóm dòm ngó nhau, nếu có thịt, có thức ăn ngon cũng phải dấu diếm, nếu không sẽ bị tố giác, làm khó dễ. Cộng Sản quá khôn ngoan ác độc với những hình thức trừng phạt, gieo vào lòng tất cả người dân một sự sợ hãi khó lòng vượt qua được. Sợ, sợ lắm, tới bây giờ tôi vẫn còn sợ….

Nhớ lúc mới được nhà thờ bảo trợ qua Mỹ, chúng tôi còn xấu hổ. Nhà thờ hôm ấy mừng lễ Phục Sinh, tức là Easter có cho trẻ em chơi trò dấu trứng. Trứng đây là kẹo chocolate gói giấy màu thật đẹp hình trái trứng, tượng trưng cho sự đổi mới sanh sôi nảy nở. Các cháu tôi ốm nhom bé choắt, lại khai rút tuổi để dễ đi học nên khôn lanh so với con nít Mỹ thật nhiều. Có bao nhiêu kẹo dấu ở đâu chúng cũng hớn hở tìm ra hết, hình như chúng “hửi” được mùi ngọt, đám con nít Mỹ ngây thơ hầu như chẳng tìm được trái trứng nào. Gia đình “Mít” thâu lượm hết, không biết chia sẻ, không biết đây chỉ là trò chơi cho vui!

Lại còn chuyện đãi các ông bà bảo trợ cũng mắc cười. Chị tôi mua tôm càng to đút lò, làm chả giò và nhiều món ngon mời bảo trợ tới nhà ăn để tỏ lòng biết ơn. Dĩ nhiên mấy dì cháu tôi đâu có tiêu chuẩn ăn tôm, nhưng may thay khách tới trò chuyện vui quá, chị tôi quên mất món tôm còn để nguyên trong lò. Khách về chúng tôi sung sướng thưởng thức, trong khi anh chị tôi tiếc hùi hụi….

hoi-uc-ti-nan-3

Ngày… Tháng…

Vấn đề ngôn ngữ bất đồng tại xứ người cũng rắc rối. Mấy dì cháu tôi khổ sở ngày ngày tra tự điển, uốn lưỡi tập đọc tiếng Anh, ráng nói mà sao Tây Mỹ vẫn tròn xoe mắt không chịu hiểu. Bạn tôi ước gì có viên thuốc đặc biệt uống vào là tiếng Anh như gió để có thể tìm việc làm mà không cần phải học. Nói tiếng Anh chúng tôi không mỏi miệng mà mỏi tay, vì phải ra dấu diễn tả lung tung.

Hôm đó là ngày lễ, tức là longweekend không phải đi học đi làm, nhưng chúng tôi nhận điện tín báo tin buồn. Vì nhân viên bưu điện cũng nghỉ lễ, nên họ không tới nhà trao điện tín, mà đọc nội dung cho nghe qua điện thoại trước, rồi sẽ giao giấy sau. Họ đánh vần rõ ràng “Ba đã mất” nhưng khi cô cháu nhận phôn nói lại, cả nhà không ai chịu tin. Má tôi bệnh tiểu đường, rất yếu nên má mất mới hợp lý, chứ ba tôi còn khỏe lắm. Chúng tôi trách cháu nghe cò ra quạ, chữ M lại tưởng chữ B, rồi khóc mà không biết khóc ai! Hôm sau nhận điện tín mới rõ đúng là ba đã mất.

Qua được xứ Mỹ nhưng chúng tôi rất hà tiện, vì mới chân ướt chân ráo làm lương rẻ và còn đang đi học thêm. Mỗi lần chợ đại hạ giá món hàng nào, chị Hai bắt hết mấy dì cháu chúng tôi sắp hàng mua thật nhiều về để dành. Khi có dư chút đỉnh chị mua vàng lá để trong nhà ngắm nghía. Chúng tôi bàn nên gởi ngân hàng cho có tiền lời, nhưng chị bảo hồi ở Việt Nam quá khổ, cái nhẫn một chỉ cũng không có nên bây giờ chị nhất định mua ít vàng về chưng trong phòng cho bõ ghét! Ấy thế mà chị “trúng”, sau này vàng lên giá quá chừng. Chị cũng rất sáng suốt, tuy cần tiền nhưng nhất định không cho ai “share” phòng, dù lúc này việc cho mướn phòng kiếm thêm tiền đang rất phổ thông. Chị bảo cho đàn ông vào share phòng thì sẽ mất con gái, còn cho đàn bà vào ở thì sẽ mất chồng!

Các cháu tôi ít nhiều cũng biết khổ là gì vì lớn lên ở Việt Nam, biết giá trị của cuộc sống nên cố gắng học hành, sau này đều thành bác sĩ, kỹ sư thật thành công. Cô cháu Út bắt đầu quên tiếng Việt, nói tiếng Mỹ đúng giọng rất hay. Đám trẻ thật dễ hội nhập, thật là mừng và cảm ơn xứ người đã cho chúng tôi cơ hội sống tốt đẹp hơn. Nghĩ cũng lạ, nhiều nhà cha mẹ nói tiếng Anh không giỏi lắm, nhưng con cái không biết chút tiếng Việt nào. Một người quen bảo lãnh được cha mẹ sang giúp trông cháu, đứa cháu cần cái ly, nói tiếng Anh ông bà không hiểu, phải gọi điện thoại vào hãng nhờ mẹ thông dịch mới có cái ly uống sữa! Do phải làm việc nhiều, một số gia đình không có giờ dạy dỗ con cái, chúng học theo cái xấu của Tây Mỹ trở nên hư hỏng, vợ chồng bất hòa ly dị…. Được tự do no ấm, nhưng cuộc sống hải ngoại cũng không dễ vì đang có những vấn nạn khác, không có gì là toàn vẹn….

Ngày… Tháng…

Hôm nay đi chợ bất ngờ tôi gặp lại bạn cũ. Tôi không nhận ra nhưng chị gọi tôi. Chị đi với một thanh niên rất cao ráo, thì ra đây là cháu trai hồi đó sinh ra ở đảo – đứa con không mong đợi khi chị bị hải tại cưỡng hiếp trên đường vượt biên. Tôi nhớ ngày ấy chị rất buồn. Không nỡ phá thai, nhưng chị xấu hổ bó bụng lại nên sanh ra cháu èo uột đen đủi, có người bảo cháu giống … con khỉ. Tình mẹ thật nhiệm mầu, dù cháu có nhăn nhó xấu xí chăng nữa chị vẫn chăm sóc, hôn hít yêu thương. Sau khi trò chuyện, tôi biết chị sang Cali, đã lập gia đình với anh D – người cùng thời ở đảo, nhưng anh này lớp khó tính, lớp hay đem chuyện chị bị hãm hiếp ra dày vò mỗi khi nổi giận, nên chị ly dị ở một mình nuôi con. Tôi ủng hộ quyết định của chị, nếu việc bị hải tặc ngày xưa mà cứ đem ra nói đi nói lại thì chẳng khác nào làm chị bị cưỡng hiếp thêm lần nữa. Cháu trai nay sắp tốt nghiệp dược sĩ, rất ngoan và siêng năng. Tôi thật mừng cho chị. Cuộc đời có ai biết ai ngờ, nhiều người tưởng là sẽ thành công nhưng cuối cùng lại thất bại, nhiều người bị thử thách nhưng không ngờ lại có thể vượt qua mà vươn lên. “Con khỉ” ngày xưa bây giờ là một dược sĩ bảnh trai – Hạt giống đau khổ nhưng nẩy mầm trong vùng đất tốt đã trổ sinh hoa trái tươi đẹp. Thật là một phép mầu, mà nếu không ở xứ Tự Do hai ngoai thì phép mầu này khó có thể xảy ra được.

Ngày… Tháng…

Chúng tôi sống một ngày như mọi ngày, trẻ đi học, người lớn đi làm, đi chợ nấu ăn, giặt giũ, cuối tuần thì tới nhà thờ, đi chùa, dự tiệc tùng hoặc các sinh hoạt khác…. Dù bận rộn nhưng cũng vui. Khi kinh tế khó khăn, chúng tôi cũng bị thất nghiệp, phải lo lắng nhưng rồi cũng có việc khác. Một số bạn bè bắt đầu nghề làm móng tay, mở tiệm Nail khấm khá hẳn ra. Nhiều người học cao tạo được danh tiếng trong thương trường, đóng góp đáng kể cho xã hội và được vinh danh tại hải ngoại. Sinh hoạt văn nghệ, truyền hình, sách báo sáng tác cũng rất phong phú. Ngược lại cũng có người buôn lậu, trồng cần sa hoặc trộm cắp, gian lận trợ cấp welfare, medicare làm xấu hổ người Việt, nhưng cũng may số người xấu này không đông. Trên các diễn dàn, thế giới ảo email, facebook lại hay có những bài viết nặc danh chửi bới làm nản lòng mọi người, làm thối chí ai muốn đóng góp cho Tự Do Dân Chủ trên quê hương, nhưng nói chung người tốt và các sinh hoạt ý nghĩa vẫn tiếp tục được thực hiện. Thật an ủi vì đa số ai cũng sẵn lòng góp công góp của làm việc tốt, việc thiện. Truyền thống hào hùng bất khuất, lá lành đùm lá rách vẫn mãi tồn tại và được đề cao tại hải ngoại.

Riêng tại quê nhà, cuộc sống vất vả và cái nghèo luôn hiện hữu. Một số chán nản trước đời sống không lối thoát đầy tệ nạn nên đã tìm quên trong men rượu, thậm chí bài bạc làm xã hội càng thêm xuống dốc. Không có Tự do Dân chủ, sống chung quanh các giả trá dối gian, nhiều người chịu ảnh huởng trở nên xấu thật đáng tiếc. Bất công và ranh giới giàu nghèo ngày càng rõ. Chỉ có giới cán bộ tai to mặt lớn là giàu sụ, còn lại dân nghèo dân oan khắp nơi…. 40 năm thay vì phát triển và là hòn ngọc sáng chói của Viễn Đông, nước tôi trở nên lạc hậu nghèo khổ hơn bao giờ.

Dù sao, tôi cũng xin ghi lại những dòng chữ hôm nay để cảm ơn các vui buồn trong cuộc sống, cảm ơn những thử thách để có thể tôi luyện chính mình. Tôi chân thành ghi nhớ những gương lành, những vị đã kiên trì làm việc tốt cho cộng đồng, cho người khác. Tôi cũng cám ơn cuộc sống tiện nghi, những phương tiện truyền thông tân tiến giúp tin tức, kiến thức mọi người được tốt đẹp. Tạ ơn cuộc sống này dù có nhiều phức tạp âu lo….

Ngày… Tháng…

Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hưởng ứng các sinh hoạt cộng đồng, góp tiếng tranh đấu cho Nhân Quyền, cho các Dân Oan bị áp bức không thể lên tiếng tại Việt Nam. Riêng tôi rất thông cảm cho các nhóm tổ chức. Ai cũng bận rộn khiếm khuyết, thiếu thì giờ, nếu có sai sót cũng rất đáng được bổ sung, cùng góp ý xây dựng sửa đổi, không nên chửi bới mạt sát. Ngày sanh con, đem các cháu đi bác sĩ chích ngừa các loại bệnh thông thường như đậu mùa, phong đòn gánh, tôi đã ước gì có loại thuốc chích ngừa tinh thần, tức là làm sao chủng ngừa cho các con tôi tránh được bệnh ích kỷ, bệnh lười biếng vô cảm cũng như các chứng hư tật xấu để các cháu có thể xây dựng tương lai – không những cho chính mình mà còn sống vì người khác. Bây giờ tôi thấm thía chính tôi cũng cần chích ngừa và tránh những bệnh đó. Chính tôi phải làm gương để các cháu hiểu được thế nào là tình người, là trách nhiệm với tổ quốc. Ai cũng sợ bị đột quỵ, bị stroke bất ngờ nằm bán thân bất toại, nhưng cơn stroke tâm hồn có lẽ còn nguy hiểm hơn nếu không tích cực, không sẵn lòng hy sinh và đoàn kết yêu thương. Tôi cũng đã từng bị đột quỵ tâm hồn, ú ớ không nói được lời động viên, xin lỗi với người chung quanh hoặc nhát sợ không dám lên tiếng cho sự thật, mặc “cha chung không ai khóc”!

Nhìn lại cuộc sống của một người tị nạn tầm thường nhưng đầy may mắn, tôi không biết nói sao để dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, đội ơn tiền nhân và biết ơn đất nước đã cho tôi tạm dung. Được tự do, có việc làm, có rất nhiều quyền mà trong đó quyền căn bản của con người được tôn trọng, được học hỏi nhiều điều hay tại Tây Phương, được đi du lịch đó đây, con cháu có cơ hội học hành thành đạt trong xã hội mới… tôi còn mong muốn gì hơn. Thế nhưng tôi vẫn hay tự hỏi: Bỏ nước ra đi với hai bàn tay trắng, sau mấy mươi năm nhìn lại tôi đã làm được gì cho bản thân, gia đình và việc chung? Tôi phải làm gì để san sẻ sự may mắn của mình cho người khác, đặc biệt cho những đồng bào còn đang chịu áp bức, đau khổ ở quê nhà? Tôi đã quá nửa đời người, khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại tôi nên làm gì, nghĩ gì? Cụ Phan Bội Châu đã viết những câu thơ rất hay và làm tôi suy tư thật nhiều, sống đứng chật trời không ích lợi gì thì sống làm chi?

Vì thế tôi mạnh dạn ghi thêm vài dòng suy tư, để cùng với biết bao người tị nạn khác, gạt nước mắt ly hương mà tôn vinh và tri ân các chiến sĩ, các quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho chính nghĩa Tự do và bảo vệ đất nước. Tôi xin góp lời để hiệp thông và ủng hộ các nhà Dân Chủ tại quê hương – những anh hùng anh thư thời đại dám vượt qua sợ hãi tù đày, sợ gia đình bị liên lụy để mang khát vọng yêu chuộng Tự do và Nhân quyền của người dân trong nước để thế giới hiểu được. Tôi cũng nhủ lòng phải cố gắng tích cực hơn, lạc quan hơn và làm việc nhiều hơn, dù chỉ là những việc bé nhỏ nhưng với hết tấm lòng. Tôi tin nếu ai cũng ra sức đóng góp thì chắc chắn việc chung sẽ có kết quả cao.

Vâng, bốn mươi năm mới đó mà đã thoáng qua, biến cố 30 tháng Tư như một cơn sóng thần khủng khiếp đã quét mất nước Việt Nam Cộng Hòa, đã cuốn trôi bao sinh linh, bao đổ vỡ mà hệ lụy vẫn còn kéo dài. Mỗi khi tham dự lễ Chào Cờ với phút mặc niệm, liệu một phút ngắn ngủi ấy có đủ cho mình nhớ thương và vững lòng với trách nhiệm hay không? Câu hát hùng tráng trong bài Quốc Ca Việt Nam: “Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống”, tôi đã đồng lòng đoàn kết và đã hy sinh được bao nhiêu? Thật là tủi hổ vì câu trả lời của tôi hầu như là zero – dù tôi cũng có một chút lòng thành. Có lẽ tôi sẽ vẫn mãi hoài yếu đuối, ngại khó không làm được gì – dù tôi cũng thiết tha chờ đợi một ngày quê hương vinh sáng.

Người Do Thái sau bao năm lưu đày đã quyết tâm trở về, và họ đã làm được. Không biết tới ngày nào tôi mới có thể bắt đầu trang nhật ký mới bằng câu: Hôm nay chúng tôi vinh quang trở về xây dựng quê hương, vì gông cùm cộng sản không còn – Ngày ấy chắc tôi sẽ cảm động rơi nước mắt. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện và hi vọng. Xin chắp tay dâng một lời kinh tự đáy lòng để tình người được triển nở và đất nước, con người Việt Nam sẽ sớm bước sang chặng đường mới sáng tươi…

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Lại Phải Chửi Thề

Lại Phải Chửi Thề

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Nhật báo Người Việt phát hành từ Orange County, California (số ra ngày 29 tháng 10 năm 2016) vừa “hân hoan” cho biết:

Tổng Thống Philippines, Rodrigo Duterte, nói rằng ông vừa hứa với Chúa là sẽ thôi không phát ngôn tục tằn nữa.

Ghé đến thành phố nhà Davao sau chuyến công du sang Nhật, ông Duterte cho biết, Chúa đưa ra tối hậu thư này với ông khi ông đang ngồi trên máy bay.

Trước mặt báo chí tại phi trường, ông Duterte nói: “Tôi nghe một tiếng nói bảo tôi hãy ngưng chửi thề, nếu không thì máy bay sẽ rơi từ trên không xuống, và thế là tôi hứa chấm dứt.

Đ…mẹ, tưởng gì chớ bỏ chửi thề thì dễ ợt. Dù chưa bị Chúa “hỏi chuyện” bao giờ, tui cũng đã thôi được cả ngàn lần rồi. Lần cuối, cách đây đã hơn tuần. Tui chỉ vừa tái phạm sau khi đọc một bài viết ngắn (“Cán Bộ Cướp Tang Vật Tiêu Hủy – Gian Dối Đến Thế Là Cùng”) của blogger Lã Yên trên trang Dân Luận:

Nhớ có lần tôi đến chơi nhà một người bạn – làm phóng viên đài truyền hình. Thấy nó nuôi một cặp vẹt rất đẹp. Tôi hỏi, tao nhớ là mày đâu có thú chơi chim, nay đổi gu rồi à? Nó cười, đâu có, chả là hôm vừa rồi đi đưa tin về vụ thả động vật hoang dã về tự nhiên, thấy có cặp vẹt đẹp nên đem về nuôi. Tôi hỏi tiếp, thế số còn lại thì sao? Chia nhau thôi, con thì nhậu, con thì bán lại cho nhà hàng. Thấy tôi có vẻ nghi ngờ, nó vỗ vai tôi, chuyện khó tin, nhưng đó là sự thật.

Và hôm nay, việc tranh cướp hàng chuẩn bị tiêu hủy tại Bộ Khoa học và Công nghệ, tôi chẳng lấy gì ngạc nhiên. Chỉ tiếc sự việc tương tự như thế này tồn tại từ lâu rồi, nhưng đến nay mới mới bị phanh phui. Quá muộn.”

Theo thông tin báo pháp luật, vào ngày 21-10, Thanh tra Bộ KH&CN phối hợp với Phòng CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (PC46), Công an TP Hà Nội tổ chức tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu đang được bảo hộ – Cụ thể: 726 chiếc túi xách, 1.057 chiếc ví da, 39 chiếc dây lưng, 06 chiếc đồng hồ đeo tay, 19 chiếc vòng đeo tay, 290 logo, 210 mặt dây lưng và 02 bán thành phẩm túi xách.Tuy nhiên, một clip vừa được tung lên mạng cho thấy tại buổi tiêu hủy có rất đông người xông vào săm soi, lựa chọn và lấy đi nhiều tang vật thu được.

Có lẽ không có ngôn từ nào có thể diễn tả sự tệ hại của một cơ quan công quyền – cấp bộ. Theo luật định, tất cả hàng hóa được kết luận là vi phạm sở hữu công nghiệp như nhái nhãn mác, giả xuất xứ… đều phải bị tiêu hủy. Nhưng ơ đây họ làm gì ? sự thật đã được phơi bầy trong Clip. Thật xấu hổ cho cái gọi là chống hàng giải, hàng nhái.

Ảnh:vietnamnet

Đ…mẹ, mấy con vẹt hay mớ hàng nhái, hàng giả thì ăn nhằm (cái con cặc) gì! Chúng còn tịch thu và chia chác nguyên cả gia sản của hàng chục triệu lương dân, kể cả “ân nhân cách mạng” ấy chứ.

Coi nè:

– Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

     –  “Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.” (Sđd, trang 90).

Chỉ riêng về số lượng bị coi như là thất thu (vì cán bộ thu rồi bỏ túi) đã được ghi nhận như sau, tại một số những địa phương có tổ chức vượt biên chính thức – bán bãi thu vàng – hồi cuối thập niên 1970:

 Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa Bình, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”. (Sđd, trang 129).

Và những vụ  cướp ngày (trắng trợn) tương tự  đâu phải chờ đến năm 1975 mới xẩy ra, ở miền Nam:

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó…

Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được. (Sđd, tập II, trang 204 – 206).

Ngôi nhà số 48 phố Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô.

Ảnh: hanoimoi

Thiệt là mặt dầy mày dạn. Vậy mà ông Bùi Thế Duy, Chánh Văn Phòng Bộ Khoa Học và Công nghệ (KH&CN) tuy thừa nhận là có chuyện hôi của nhưng vẫn “ráng” nói thêm: “… đây là lần đầu tiên xảy ra sự cố nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của việc thực thi pháp luật về sở hữu công nghiệp, gây ra dư luận xấu trong xã hội.”

Ông Duy, rõ ràng, muốn lấy thúng úp voi. Cướp giựt vài cái ví da, túi xách, thắt lưng … thì có (đéo) gì đáng gọi là “sự cố nghiêm trọng.” Đảng của ông cướp bóc không ngừng, từ hơn nửa thế kỷ qua, bộ tưởng là không ai biết hoặc thiên hạ đã quên ráo rồi chăng?

Chính trường VN sắp tiến vào ‘giai đoạn quyết định’ mới?

 Chính trường VN sắp tiến vào ‘giai đoạn quyết định’ mới?

Blog VOA

Phạm Chí Dũng

23-11-2016

(Từ trái sang) Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại Đại hội XII, ngày 28/1/2016. Ảnh: Reuters

Một năm sau “giai đoạn quyết định” trước Đại hội XII của đảng cầm quyền, đang có những dấu hiệu báo trước chính trường Việt Nam có thể sắp tiến vào một “giai đoạn quyết định” mới.

Những tín hiệu đồng pha

Từ trung tuần tháng 11/2016, đột nhiên xuất hiện vài bài viết trên mạng xã hội công kích Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từ thời ông còn là Chủ tịch Quảng Nam cho đến khi làm phó thủ tướng và nay là thủ tướng.

Cùng thời gian trên, không hiểu vô tình hay hữu ý, gần cuối kỳ họp Quốc hội cuối năm 2016 bất chợt nảy sinh hàng loạt câu hỏi của đại biểu Quốc hội đòi lật lại vụ Trịnh Xuân Thanh, đặc biệt về việc ai hoặc thế lực chính trị nào đã đứng đằng sau Thanh để bảo kê cho anh ta trốn thoát.

Đáng chú ý, một số tin tức dùng để công kích ông Phúc không chỉ thể hiện bằng vụ việc mà bằng cả lời thoại, cho thấy bài viết công kích ông Phúc có thể đã sử dụng những nguồn tin từ nội bộ đảng.

Trong lúc đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân có vẻ khá lúng túng, tìm cách né tránh các câu hỏi về vụ Trịnh Xuân Thanh. Báo chí nhà nước vừa ám chỉ thái độ tránh né trên vừa tỏ ra nghi ngờ khi dẫn lại một thông tin mới nhất được “tiết lộ” từ Thứ trưởng Công an Lê Quý Vương.

Theo tướng Lê Quý Vương, từ cuối tháng 9/2016, Interpol Quốc tế đã phát lệnh truy nã đỏ đối với trường hợp Trịnh Xuân Thanh. Đây là cấp độ truy nã cao nhất và được chuyển đến nhiều quốc gia. Các thông tin này có thể củng cố “quyết tâm chính trị” như một số quan chức công an và chính phủ đã phát ra cách đây không lâu: bằng mọi cách phải bắt bằng được Trịnh Xuân Thanh!

Tuy nhiên, chi tiết khó hiểu là vào tháng 10/2016 và đến cả đầu tháng 11/2016, trong lúc một số dư luận tỏ ra nghi ngờ về sự chậm chạp của Interpol Quốc tế trong việc đưa tên Trịnh Xuân Thanh vào lệnh truy nã, lại không thấy Bộ Công an thông tin về “lệnh truy nã đỏ”. Chẳng lẽ khi đó Bộ Công an vẫn không biết được Interpol Quốc tế đã đưa Trịnh Xuân Thanh vào danh sách truy nã đỏ từ cuối tháng 9/2016? Còn nếu đã biết, tại sao không thông tin để tránh “gây hoang mang nghi ngờ trong quần chúng và cán bộ đảng viên”?

Những bài viết công kích mới nhất đối với Thủ tướng Phúc trên mạng xã hội cũng có một màu sắc na ná với những bài viết từng công kích ông Phúc trên trang mạng Chân Dung Quyền Lực – trang mạng nặc danh đã làm chấn động dư luận không chỉ trong chính trường mà còn cả trong gần như toàn bộ xã hội Việt Nam vào thời gian cuối năm 2014, đầu năm 2015 với vụ “Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc” – và sau đó công kích nhiều ủy viên Bộ Chính trị, trong đó đặc biệt công kích Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Nhưng sau chiến dịch tổng công kích ấy, Chân Dung Quyền Lực đột ngột biến mất không để lại bất kỳ tung tích nào từ đó đến nay.

Một chi tiết khác có vẻ không đồng pha với tuyên bố chắc nịch của tướng Vương về lệnh truy nã đỏ đối với Trịnh Xuân Thanh chính là lời của ông Vương: “Đã là điều tra thì có những thông tin liên quan đến vụ án đưa ra đôi khi bất lợi. Chúng ta đang họp Quốc hội, có những việc diễn ra tại đây, nhưng chỉ một phút sau lên mạng hết vì thế giới phẳng. Trịnh Xuân Thanh cũng đang theo dõi qua mạng”.

Cần chú ý là vào những ngày này, trong dư luận thình lình rộ lên tin đồn về việc Trịnh Xuân Thanh đã ra nộp mình, đã bị bắt, đã bị dẫn độ về Việt Nam…

Nhưng lời tự sự “Trịnh Xuân Thanh cũng đang theo dõi qua mạng” của tướng Lê Quý Vương lại cho thấy một thực tại chắc chắn là Trịnh Xuân Thanh chưa hề bị bắt. Mà như vậy, tương lai của chiến dịch được tuyên truyền là “chống tham nhũng” của ông Nguyễn Phú Trọng xem ra còn quá xa vời.

Sắp đột biến?

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, thường có thể rút ra một kết luận chắc như đinh đóng cột rằng một chiến dịch công kích các quan chức cao cấp rất hay diễn ra trước khi nổ ra một biến động lớn trong đảng. Cuối năm 2012, mạng xã hội sôi động trước khi xảy ra biến động tại Hội nghị Trung ương 6 với ý đồ của ông Nguyễn Phú Trọng muốn kỷ luật ông Nguyễn Tấn Dũng. Cuối năm 2014, Chân Dung Quyền Lực xuất hiện trước Hội nghị Trung ương 10 về việc thăm dò uy tín các ủy viên Bộ Chính trị cho chức vụ tổng bí thư. Cuối năm 2015, dư luận bùng nổ trên một số trang mạng xã hội về “đời tư” của một số ủy viên Bộ Chính trị trước Đại hội XII của đảng cầm quyền. Cứ theo lẽ đó và với một ít bài công kích Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từ giữa tháng 11/2016, cùng bóng ma của Chân Dung Quyền Lực đang thấp thoáng ở đâu đó, người ta có thể cảm nhận sẽ diễn ra một biến động nào đó đủ lớn trong đảng trong thời gian tới.

Biến động đó là gì? “Tái sắp xếp nhân sự” như thường lệ hay còn nguyên do nào khác? Liệu có liên quan gì với vai trò mới nổi của Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh – người đang được giới phân tích xem là sẽ “nối dõi” Tổng Bí thư Trọng? Hay có liên đới gì đến vụ Trịnh Xuân Thanh?

Nhiều người cho rằng nhắm mắt cũng biết nếu Trịnh Xuân Thanh bị bắt thì sẽ có quá nhiều “chuyện vui” trong chính trường Việt Nam trong thời gian tới. Việc Thanh gây lỗ hơn 3.000 tỷ chỉ là “chuyện nhỏ”, mà tâm điểm bão tố hơn nhiều là nếu Thanh bị bắt, có thể cả một đường dây và sau đó có thể là cả một thế lực chính trị lớn đã bảo kê cho Thanh trốn sẽ bị khui ra.

Cũng đang xuất hiện vài dấu hiệu trên mạng xã hội cho thấy có một thế lực nào đó đang tìm cách đối phó với chiến dịch của Tổng Bí thư Trọng truy bắt Trịnh Xuân Thanh, bằng cách tung ra đe dọa “sẽ tố cáo…”

Cho tới nay, tất cả các mũi tiến công của Tổng Bí thư Trọng vào vụ “Vũ Đức Thuận và đồng bọn” tại PVC, vụ Núi Pháo, vụ MobiFone đều chưa đi đến đâu, mặc dù chiến dịch này đã được ông Trọng phát động từ đầu tháng 6/2016.

Trong khi đó, vụ Vũ Huy Hoàng đang lộ ra bế tắc rõ rệt, và nếu ông Trọng có xử tù được Vũ Huy Hoàng thì có lẽ cũng chẳng có ý nghĩa lớn lao gì, vì có nhiều khả năng sau ông Hoàng sẽ khó dẫn đến một con “cá lớn” nào.

Và cứ như trêu ngươi ông Trọng, một đàn em của ông Vũ Huy Hoàng là Vũ Đình Duy lại vừa trốn thoát thành công ra nước ngoài ngay trước mũi công an.

Cách đây 3 tháng khi Trịnh Xuân Thanh còn ở trong nước và chưa bùng nổ cú thách thức ghê gớm làm mất mặt Tổng Bí thư Trọng, vấn đề của Vũ Huy Hoàng chỉ là “chuyện vặt”. Tuy nhiên đến giờ, Trịnh Xuân Thanh đã biến mất và cả Vũ Đình Duy – một đệ tử ruột của ông Vũ Huy Hoàng – cũng thế. Tình thế này đã khiến cho ông Vũ Huy Hoàng, mặc dù nghe nói là đang trong giai đoạn điều trị bệnh tật, khó thoát khỏi số phận phải “chết thế”.

Một số trong giới quan sát cho rằng trong tình hình hiện nay, nếu Thanh mà rơi vào tay Tổng Bí thư Trọng theo quyết tâm chính trị “phải bắt bằng được Trịnh Xuân Thanh”, có rất nhiều khả năng từ nhân vật này mà Tổng Bí thư Trọng sẽ lần ra được những nhân vật ở cấp cao hơn hẳn và còn đang tại vị chứ không phải đã “hạ cánh”.

Kết quả có bắt được Trịnh Xuân Thanh hay không trong thời gian tới sẽ quyết định đáng kể bàn cờ thắng/thua của ông Trọng.

Thêm một yếu tố nữa: nếu trước Đại hội XII chỉ tồn tại chủ yếu hai phe phái chính trị, thì từ sau Đại hội XII đến nay, có vẻ ngày càng nhiều nhân vật cao cấp muốn trở thành… tổng bí thư.

Hoặc nhiều tham vọng hơn nữa là chủ tịch nước kiêm tổng bí thư.

Nếu Tổng Bí thư Trọng đã có dấu hiệu mệt mỏi với lời than “Đánh tham nhũng là ta tự đánh ta” trong một cuộc tiếp xúc cử tri Hà Nội gần đây, thời điểm kết thúc vai trò của ông Trọng có thể rơi vào “đại hội giữa nhiệm kỳ”, thậm chí còn có thể sớm hơn nữa.

Bầu không khí chính trường cũng bởi thế đang tiềm ẩn những xung đột lớn và có thể xảy ra đột biến vào một thời điểm không quá xa xôi.

Không có TPP, xuất khẩu của Việt Nam ảnh hưởng thế nào?

Không có TPP, xuất khẩu của Việt Nam ảnh hưởng thế nào?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2016-11-23
Trong đoạn video được công bố gửi nhân dân Mỹ để trình bày về những điều sẽ làm trong 100 ngày sau khi nhậm chức, Tổng thống Đắc cử Donald Trump tuyên bố sẽ bỏ Hiệp định TPP.

Trong đoạn video được công bố gửi nhân dân Mỹ để trình bày về những điều sẽ làm trong 100 ngày sau khi nhậm chức, Tổng thống Đắc cử Donald Trump tuyên bố sẽ bỏ Hiệp định TPP.

Screen capture

Tổng thống đắc cử Donald Trump hôm 21/11/2016 khẳng định Hoa Kỳ sẽ không theo đuổi Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương(TPP), đây là một trong những việc mà ông làm ngay sau khi nhậm chức vào ngày 20/1/2017. Trường hợp không có TPP cùng với khuynh hướng chống tự do hóa thương mại của ông Trump, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?

Mỹ không thể quay lại làm dệt may

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, năm 2015 hàng hóa Việt Nam bán qua Mỹ trị giá gần 33,5 tỷ USD. Năm ngoái Hoa Kỳ cũng là thị trường mà Việt Nam đạt thặng dư thương mại lớn nhất với 25,7 tỷ USD.

Trong 33,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam qua Hoa Kỳ năm 2015,  sản phẩm dệt may dẫn đầu với với giá trị xuất khẩu 11 tỷ USD, kế tiếp là giày dép trên 4 tỷ USD, các mặt hàng vali-ô dù-cặp và túi xách trị giá 1,18 tỷ USD, sản phẩm gỗ gần 2,17 tỷ USD, riêng nhóm sản phẩm điện tử, máy điện toán và linh kiện cũng đạt trị giá gần 2,9 tỷ USD.

Ông Trump có lôi kéo công ăn việc làm về thì cũng không thể nào lôi về những ngành mà Việt Nam xuất khẩu lớn như dệt may, da giày. Bởi vì bản thân nước Mỹ không còn sản xuất những thứ đó nữa.
-Diệp Thành Kiệt

Việt Nam từng kỳ vọng tăng kim ngạch xuất khẩu từ 17% tới 30% theo lộ trình dỡ bỏ thuế quan khi TPP có hiệu lực đầy đủ. Nay có dấu hiệu rõ rệt TPP không còn hiện thực, ít nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông Donald Trump. Ngoài ra vị Tổng thống đắc cử còn bày tỏ khuynh hướng kinh tế hướng nội, hứa hẹn đưa một số ngành sản xuất mà doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư ở nước ngoài trở về Hoa Kỳ, để tạo thêm công việc làm cho người dân Mỹ.

Trao đổi với Nam Nguyên vào tối 22/11, ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM, Phó Chủ tịch Hiệp hội da giày túi xách Việt Nam nhận định:

“Ông Trump có lôi kéo công ăn việc làm về thì cũng không thể nào lôi về những ngành mà Việt Nam xuất khẩu lớn như dệt may, da giày. Bởi vì bản thân nước Mỹ không còn sản xuất những thứ đó nữa, đã dừng sản xuất lâu rồi. Có thể khẳng định nước Mỹ sẽ vẫn tiếp tục mua những sản phẩm dệt may, da giày từ Việt Nam và thế giới.”

Theo ông Diệp Thành Kiệt, nếu Hoa Kỳ thay đổi chính sách, tạm gọi là bảo hộ, thì điều đó đối với Việt Nam cũng giống như tình trạng hiện nay mà thôi. Giả dụ TPP có hiệu lực thì Việt Nam sẽ có lợi thế lớn đối với đối thủ cạnh tranh là Trung Quốc. Trong tình hình hiện nay lợi thế cạnh tranh của Việt Nam ngang bằng với Trung Quốc, nhưng Việt Nam vẫn tăng được thị phần vào nước Mỹ. Điều này có nghĩa là nếu nước Mỹ bảo hộ thì sẽ ảnh hưởng toàn bộ thế giới chứ không chỉ riêng Việt Nam.

Ông Diệp Thành Kiệt nhấn mạnh:

“Vấn đề làm cho chúng tôi quan tâm là ông Trump có làm cho nền kinh tế Mỹ vươn lên hay không thôi. Bởi vì thị trường Mỹ lớn hay là nhỏ là do nội lực của nền kinh tế Mỹ, nếu ông ấy làm cho nền kinh tế Mỹ tốt hơn, giàu có hơn người dân tiêu thụ nhiều hơn, thì chúng tôi không lo việc họ tiếp tục nhập quần áo, da giày của chúng tôi. Còn nếu kinh tế Mỹ ảm đạm thì cho dù có TPP cũng chưa chắc tạo ra sức tăng về nhu cầu nhập khẩu.”

Trao đổi với chúng tôi vào tối 22/11, Giáo sư Vũ Văn Hóa phó Hiệu trưởng Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội cho rằng, dù là ông Trump hay ai thì cũng không thể xóa bỏ tự do mậu dịch, nếu không có TPP thì lâu dài sẽ ảnh hưởng mức tăng trưởng xuất khẩu kỳ vọng của Việt Nam. Nhưng Việt Nam vẫn còn nhiều thị trường xuất khẩu khác và nhiều hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Giáo sư Vũ Văn Hóa nhấn mạnh:

000_Hkg10188149.jpg
Sản xuất mây tre lá xuất khẩu ở Hà Nội, ảnh minh họa. AFP

“Ông Donald Trump đã tuyên bố như thế trong lúc tranh cử, khi đắc cử ông ấy cũng phải giữ lời hứa không công nhận Hiệp định TPP này. Nhưng tôi nghĩ Hoa Kỳ trước sau cũng sẽ tham gia Hiệp định này vì ông Trump không thể làm Tổng thống Mỹ quá 8 năm được… Trong quá trình ấy, nếu Việt Nam thấy là Hoa Kỳ có thể cung cấp đủ những sản phẩm trước đây từng nhập của Việt Nam và các nước khác, thì Việt Nam vẫn có thể tìm các thị trường khác và các thị trường khác cũng vẫn có thể tìm đến Việt Nam.

Ngay với một nước cung cấp tự túc cũng có thể trao đổi với nhau giữa ngành này ngành khác, bản thân trong một ngành cũng có cạnh tranh. Cho nên những ngành nào có năng suất lao động cao phù hợp với nhu cầu thị trường thì vẫn thắng lợi. Tôi nghĩ là không bao giờ mất đi mậu dịch tự do. Cũng không bao giờ lại mất đi bất cứ một ngành sản xuất nào khi nó cần thiết cho đời sống xã hội.”

Tiếp tục cải cách và hội nhập

Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ vào năm 2001, năm 2007 Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, Hoa Kỳ là một trong các nước thành viên sáng lập. Tổng thống tân cử Donald Trump có khả năng dừng việc Quốc hội phê chuẩn TPP và yêu cầu đàm phán lại với 11 nước tham gia TPP. Ông Trump mô tả TPP là thảm họa tiềm ẩn đối với Hoa Kỳ.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng nói một câu tôi cho rằng phù hợp với những điều chúng tôi suy nghĩ: cho dù có TPP hay không thì Việt Nam vẫn tiếp tục hội nhập.
-Diệp Thành Kiệt

Từ chính sách hội nhập sâu rộng, trong 20 năm qua Việt Nam đã tăng kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ gấp 13 lần. Từ mức vài trăm triệu USD, trước khi khi ký Hiệp định thương mại song phương 2001, tăng lên 33,5 tỷ USD trong năm 2015.

12 nước TPP chi phối 40% nền kinh tế thế giới, bao gồm Việt Nam, Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Brunei, Chi Lê, Peru, Mexico, Canada. TPP có thể trở thành hiện thực hay không hoàn toàn phụ thuộc vào Hoa Kỳ là nước chiếm khoảng 62% GDP toàn khối, còn Nhật Bản chiếm tỷ lệ 17%. TPP có điều khoản qui định phải có ít nhất 6/12 nước thành viên phê chuẩn và có GDP gộp chiếm 85% tổng GDP toàn khối, thì Hiệp định mới có hiệu lực. Như vậy trước thực tế TPP không hiện thực thì Việt Nam cần điều chỉnh chính sách xuất nhập khẩu như thế nào, đặc biệt trong các sản phẩm chủ lực như dệt may, da giày. Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM, Phó Chủ tịch Hiệp hội da giày túi xách Việt Nam nhận định:

“Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng nói một câu tôi cho rằng phù hợp với những điều chúng tôi suy nghĩ: cho dù có TPP hay không thì Việt Nam vẫn tiếp tục hội nhập. Có nghĩa là muốn vào thị trường Mỹ, nếu có TPP thì chúng ta thuận lợi hơn. Không có TPP thì chúng ta phải tìm các giải pháp để cạnh tranh.

Cho nên chúng tôi nghĩ rằng, những chính sách chung về hội nhập của Việt Nam và những chính sách để phát triển mở rộng thị trường và nâng cao tính cạnh tranh của các ngành nghề chúng ta đang có thế mạnh sản xuất, kể cả dệt may, kể cả da giày, thì vẫn phải tiếp tục chứ không phải vì chuyện không có TPP mà dừng lại. Tuy nhiên những thứ đầu tư nhằm vào thị trường Mỹ không thôi, thì cần phải cân nhắc. Tôi muốn lập lại cân nhắc tức là xem rằng với chính sách của Tổng thống Mỹ công bố trong thời gian tới, nó có làm cho nước Mỹ thịnh vượng hơn hay không. Nếu nước Mỹ thịnh vượng thì việc chúng ta xuất khẩu vào Mỹ vẫn còn tốt, không đáng ngại…”

Theo giới quan sát, không chỉ riêng Việt Nam mà cả thế giới đang nín thở theo dõi 100 ngày làm việc đầu tiên của Tổng thống đắc cử Donald Trump kể từ 20/1/2017. Bởi vì nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn đứng đầu thế giới và mọi quyết sách của chính phủ mới có thể tạo ra những ảnh hưởng hết sức lớn lao.

CÔNG AN TỈNH ĐĂK NÔNG ĐÁNH DÂN TRỌNG THƯƠNG

CÔNG AN TỈNH ĐĂK NÔNG ĐÁNH DÂN TRỌNG THƯƠNG

Hôm nay 22/11/2016, chị Lê Thị Thìn là vợ anh Võ Hướng đến nhờ tôi tố cáo việc chồng chị bị Công an huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông đánh trọng thương đang cấp cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy hơn 10 ngày nay.

Qua tìm hiểu chị Thìn cho biết: ngày 10/11/2016, Công an huyện Tuy Đức mời anh Võ Hướng đúng 14 giờ đến trụ sở làm việc. Đến 16 giờ cùng ngày thì chị Thìn nhận được tin báo chồng chị đang cấp cứu tại Bệnh viện huyện Tuy Đức.

Khi hay tin chị Thìn lập tức đến bệnh viện thì thấy anh Hướng đang nằm trên giường cấp cứu với tình trạng toàn thân co giật, miệng phèo nước bọt. Vì sức khỏe anh Hướng nguy kịch nên Bệnh viện huyện Tuy Đức chuyển anh Hướng đến Bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn để điều trị.

Hai ngày sau thì anh Hướng tỉnh dậy kể cho chị Thìn và nhiều người nghe sự việc như sau: Công an huyện Tuy Đức đang điều tra ông Hiển ghi số đề, trong điện thoại ông Hiển có lưu tên Huong So, vì nghi ngờ Huong So là tên anh Hướng nên Công an mời anh Hướng đến làm việc.

Khi vào trụ sở Công an huyện Tuy Đức, anh Hướng gặp công an Nguyễn Trí Sỹ hỏi về số điện thoại rồi đánh anh Hướng 1 cái vào mặt, sau đó gọi ông Hiển đến đối chứng, nhưng ông Hiển nói Huong So là tên một người đàn ông trên 50 tuổi chứ không phải là anh Hướng.

Một lúc sau thì công an tên Phùng Danh Quảng vào phòng làm việc, ông Quảng bảo ông Sỹ ra ngoài lấy còng số 8 còng tay anh Hướng lên cửa sổ, vì cho rằng anh Hướng cứng đầu không nhận tội. Khi ông Sỹ vừa đi ra ngoài thì ông Quảng đóng tất cả các cửa phòng làm việc lại. Bất ngờ từ phía sau ông Quảng dùng tay đánh nhiều cái vào đầu anh Hướng, làm anh Hướng ngất xỉu.

Chỉ vì nghi ngờ trong tin nhắn điện thoại của người ghi số đề có lưu tên Huong So mà công an huyện Tuy Đức mời anh Võ Hướng đến làm việc và đánh đến trọng thương là phạm tội Dùng nhục hình.

Đề nghị Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao sớm vào cuộc và khởi tố những viên Công an đánh anh Võ Hướng đến trọng thương.

Lúc nào Việt Nam ‘phá sản hàng loạt?’

Lúc nào Việt Nam ‘phá sản hàng loạt?’

 Phạm Chí Dũng

Ngân sách khốn quẫn và thực trạng một nửa nợ xấu liên quan đến vụ án hẳn là nguyên do chính để Quốc hội Việt Nam phải ra một bản nghị quyết về kế hoạch tài chính, trong đó chính thức xác định không dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước.

49%!

Trong lúc Công ty Quản lý các tài sản tín dụng (VAMC) khẩn thiết kêu gào phải dùng ngân sách để “xử lý nợ xấu”, còn giới chuyên gia ẵm bồng lợi ích phụ họa theo cách “không còn cách nào khác” và “để giải quyết dứt điểm nợ xấu, có quốc gia phải dùng đến 10-15% GDP”, một bằng chứng về nguồn gốc nợ xấu vừa hiện ra, húc đổ toàn bộ cơ sở luận của những kẻ chỉ muốn “lấy của người nghèo chia cho người giàu”.

Tháng 10, 2016, một báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM cho biết “nợ xấu vẫn còn nhiều tiềm ẩn rủi ro và việc xử lý nợ xấu còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân là nợ xấu liên quan đến vụ án chiếm tỷ trọng cao tới gần 49% trong tổng nợ xấu. Đây là khoản nợ khó xử lý và phần lớn các khoản nợ này vẫn chưa xử lý thu hồi được”.

Một trong những vụ án “người tốt việc tốt” mà đã khiến vài ngân hàng thương mại bị trôi sông đến 5,000 tỷ đồng là vụ “siêu lừa” Huỳnh Thị Huyền Như. Ai có thể và dám quyết định rằng những ngân hàng “bị lừa” như Vietinbank và ACB sẽ được đền bù bằng chính ngân sách nhà nước và do đó bằng tiền đóng thuế của người dân?

Hay vụ Phạm Công Danh cùng Ngân hàng Xây dựng với 9,000 tỷ thất thoát, quan chức chính quyền nào sẽ dám khẳng định rằng dân sẽ phải nội tiền nhiều hơn nữa để bù đắp cho nạn tham nhũng kinh hoàng trong giới cá mập ngân hàng?

Chỉ riêng 3 ngân hàng có lãnh đạo bị bắt nhưng sau đó đã được Ngân hàng Nhà nước ưu ái đến mức nghi ngờ khi mua lại với giá 0 đồng – Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Đại dương và Ngân hàng GP – đã có tổng nợ xấu lên đến vài chục ngàn tỷ đồng. Và tuy đã bị làm án, khả năng thu hồi số thất thoát do tham nhũng là rất thấp.

Tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam lại quá tệ so với mặt bằng chung trên thế giới. Nếu Việt Nam luôn bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) liệt vào nhóm cuối của các nước trên thế giới về độ minh bạch nhưng lại đứng ở top đầu về nạn tham nhũng, tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam chỉ khoảng 8% theo số báo cáo, so với yêu cầu quốc tế ít nhất 30%.

Vấn nạn có thể trở thành quốc nạn “vỡ ngân hàng” như trên đã khiến nợ xấu trong khối ngân hàng thương mại đang biến diễn thành khối ung thư di căn giai đoạn cuối và rất có thể sẽ khiến chế độ phải “hạ cánh cứng”.

Và đó cũng là lý do chủ yếu để khẳng định rằng một khi giới quan chức ngân hàng và quan chức nhà nước phải kêu gào “dùng ngân sách để xử lý nợ xấu”, tình thế đã trở nên vô phương cứu chữa.

$25 tỷ!

Một trong những quan chức tỏ ra nhiệt tình đột biến khi hô hào phải dùng ngân sách để mua nợ xấu là ông Trương Văn Phước – Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia.

Với nhận định “cần $25 tỷ để xử lý nợ xấu”, ông Trương Văn Phước đã trở thành nhân vật thứ hai sau cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, thừa nhận tình trạng nợ xấu đã vượt quá con số 500 ngàn tỷ đồng, khác rất xa so với những báo cáo giả dối về nợ xấu chỉ chiếm khoảng 3% GDP hiện thời.

“Xử lý nợ xấu tới lúc này không phải hô khẩu hiệu suông, mà cần tiền thực. Cần cả quan điểm và cả kỹ thuật thực”, ông Phước “hô khẩu hiệu”. Viên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tính toán, để xử lý nợ xấu thì cần $25 tỷ, và cần khoảng 180,000 tỷ để xử lý tài sản trong các tổ chức tín dụng trong 5 năm tới.

Ngoài ra, để thiết lập dự phòng rủi ro thì mỗi năm các tổ chức tín dụng cần 40,000 tỷ đồng, tức là trong 5 năm cần 150,000 – 200,000 tỷ đồng. Theo ông Phước, cần lấy nguồn tiền này từ người vay, khách hàng chia sẻ dự phòng rủi ro, bên cạnh nguồn dự phòng rủi ro đang có là 126,000 tỷ đồng.

Nhận định trên được nêu ra tại Hội thảo Thách thức tái cơ cấu nền kinh tế do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức sáng 12 tháng 10, 2016.

Cần nhắc lại, con số nợ xấu khoảng 500 ngàn tỷ đồng đã được Thống đốc Nguyễn Văn Bình thú nhận vào cuối năm 2014 tại một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau một thời gian dài cố gắng bưng bít. Trước đó, toàn bộ số liệu nợ xấu được công bố của Ngân hàng nhà nước vẫn chỉ “khuôn” nợ xấu vào khoảng 150 ngàn đến tối đa 200 ngàn tỷ đồng. Một quyết định của Ngân hàng Nhà nước ban hành vào tháng 3, 2014 đã cho phép các ngân hàng thương mại được giãn nợ và đẩy nợ xấu từ các nhóm có nguy cơ cao nhất (nhóm 4 và nhóm 5) lên các nhóm cao hơn để tạm thời làm mất khái niệm nợ xấu.

Đến sát Đại hội 12, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tìm nhiều cách để ép nợ xấu về dưới 3%. Khi đó, các báo cáo của Chính phủ đều “đẹp” đến quái lạ.

Chỉ sau Đại hội 12, mọi thứ mới thực sự tung tóe khi Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia và một số bộ ngành phải báo cáo thực về tình trạng nợ xấu không phải chỉ 3% mà lên đến 17%.

Tuy nhiên, có “xử lý” được nợ xấu hay không lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Công ty Quản lý tài sản tín dụng (VAMC) sinh ra từ năm 2013, nhưng cho đến nay chỉ mới mua lại được khoảng 10% số nợ xấu từ các ngân hàng thương mại, mà cũng chỉ mua bằng giấy tờ chứ không phải bằng tiền mặt. Rất nhiều người đã nghi ngờ số vốn 2,000 tỷ đồng mà ngân sách cấp cho VAMC đã chỉ được công ty này mang gửi ngân hàng lấy lãi sinh sống chức chẳng hề “tác nghiệp”.

Còn bây giờ, mọi thứ đang có vẻ vô phương cứu chữa. Một khi VAMC và những bộ ngành liên quan như Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, cùng một dàn chuyên gia nhà nước phải đồng ca bài “không có ngân sách thì không thể xử lý nợ xấu”, có thể hình dung tình hình đã khốn khó đến thế nào.

“Nền kinh tế con tin”

Khốn quẫn đến mức mà ngay một chuyên gia trước đây có hơi hướng phản biện sự thật về thực trạng kinh tế và có vẻ nghiêng về khuynh hướng dân túy, nay cũng “uốn lưỡi”:

“Chúng ta không nên sa đà vào việc tranh luận có nên dùng tiền thuế của người dân để xử lý nợ xấu hay không. Vấn đề cốt lõi là bài toán đánh đổi. Nếu sử dụng 5% GDP để xử lý nợ xấu ngay bây giờ thì 5 năm sau, nền kinh tế thu lại 10% GDP từ tăng trưởng thì đây là việc các nhà quản lý phải suy nghĩ. Nếu không, nền kinh tế cứ như cỗ xe di chuyển chậm chạp, không có sức để bứt lên”, lời của Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Một lần nữa kể từ năm 2011 khi chính phủ mới của Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Văn Bình thành hình, toàn bộ nền kinh tế và đời sống người dân bị các nhóm lợi ích đồng hành cùng giới đảng bắt làm “con tin”. Cứu ngân hàng chính là cứu kinh tế, nếu không cứu ngân hàng thì đất nước sẽ tàn mạt!

Còn với chuyên gia Bùi Trinh, người đã đưa ra luận điểm “Dùng ngân sách để xử lý nợ xấu là lấy tiền người nghèo chia cho người giàu” thì sao?

“Nợ là con số thật còn GDP là con số chưa đáng tin cậy. Thế nhưng, hiện nay, hầu hết các nhà hoạch định chính sách và cả các tổ chức quốc tế đều chỉ nhìn vào công bố tăng trưởng GDP để vui, buồn và bình luận”.

Và “Ở các quốc gia khác, họ lấy tiền ngân sách xử lý nợ xấu là có thể được vì họ minh bạch. Trong khi đó tại Việt Nam, có ngân hàng và một ông đại gia nào đó định giá các tài sản có khi chỉ 2 tỷ lên đến 20 tỷ. Vậy tại sao lại bắt người dân trả nợ cho những ông này. Tiền ngân sách là tiền của dân dù là tiền thuế hay tiền đi vay, không thể bắt người dân trả nợ cho cái mà họ không nợ”, ông Bùi Trinh như nói một lần để chẳng bao giờ muốn nhắc lại sự tình “khốn nạn” này.

Dấu hỏi còn lại là trong tương lai gần nào sẽ xuất hiện những ngân hàng bể nợ xấu và phá sản hàng loạt?

P.C.D.

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/binh-luan/ngan-sach-pham-chi-dung/

Lộ tẩy cầu xây không cốt thép ở Quảng Nam

Lộ tẩy cầu xây không cốt thép ở Quảng Nam

Cầu bị sạt lở sau đợt mưa lũ vừa qua. (Hình: báo Người Lao Ðộng)

QUẢNG NAM (NV) – Trụ cầu bị gãy lộ ra toàn bê tông, chỉ có những đoạn sắt nhỏ. Lộ tẩy, chủ đầu tư cho rằng cầu “không thép” là do thiết kế chứ không có sự gian dối trong thi công.

Cây cầu bắc qua sông Nước Oa dài 36 mét, rộng 4 mét nối giữa 2 xã Trà Tân và Trà Sơn, huyện Bắc Trà My, do Tổng Ðội Thanh Niên Xung Phong (TNXP) tỉnh Quảng Nam xây dựng với chi phí 1.6 tỉ đồng, bị mưa lũ làm gãy một nhịp cầu rơi xuống sông, trụ cầu cũng bị gãy một nửa. Ngay sau đó, người dân phát hiện nhịp cầu bị gãy không có sắt thép, còn trụ cầu có nhưng quá ít.

Trước sự phản ứng của người dân và truyền thông, chiều 21 tháng 11, TNXP đã có phúc trình về sự việc. Theo đó, “vào ngày 3 tháng 11 vừa qua, sau những ngày mưa lớn kéo dài, lượng nước lớn từ thượng nguồn đổ về đã phá hỏng phần mố và đường dẫn cầu phía bên xã Trà Tân.”

Cầu do công ty tư vấn xây dựng công nghệ Bách Khoa thiết kế và công ty Thanh Niên Xung Phong Quảng Nam thi công, được đưa vào sử dụng hồi tháng 10 năm 2008. Trước thông tin về việc sau khi bị sạt lở, cây cầu lộ ra có “ít thép,” chủ đầu tư lý giải rằng, theo thiết kế, phần mố cầu và đường dẫn bị sạt lở là bê tông sỏi 2×4, M150, không có cốt thép. Phần taluy bị gãy đổ xuống sông cũng được thiết kế tương tự, không cốt thép.

Trong nghĩa trang buồn

Trong nghĩa trang buồn

Một góc Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa năm 2011. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Tạp ghi Huy Phương

Trong sinh hoạt cộng đồng cuối tuần vừa qua tại Nam California, Vietnam Film Club ở Washington, DC, đã tổ chức một buổi ra mắt cuốn DVD “Hồn Tử Sĩ, Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa” trước một số người tham dự đông đảo, phần lớn là các cựu quân nhân VNCH, tại Westminster.

Ngay đối với đội quân xâm lược từ một quốc gia khác, khi tiếng súng đã ngưng, những đối thủ ngày trước, bây giờ cũng phải được tôn trọng, nhất là đối với những người đã chết.

Nước Pháp có mộ chiến sĩ vô danh nằm dưới Khải Hoàn Môn từ ngày 11 Tháng Mười Một, 1920, nơi có khắc hàng chữ “Nơi đây yên nghỉ một người lính Pháp chết cho tổ quốc.” (1914-1918). Tuy vậy, vào ngày 14 Tháng Bảy, 1940, nghĩa là trong thời gian quân đội Đức chiếm đóng Paris, buổi lễ Chiến Sĩ Trận Vong vẫn được tổ chức với sự cho phép của sĩ quan Đức.

Thay vì đào mồ bới mả kẻ thù lên mà hả hê sung sướng, reo hò khi đã thắng được kẻ thù, chúng ta được biết trong năm 2015, Ukraine đã tháo dỡ gần 140 tượng đài của Liên Xô và chính phủ Ba Lan có kế hoạch hạ bỏ khoảng 500 tượng đài Liên Xô, kẻ thù ngày trước, nhưng không đụng đến tượng đài ở các nghĩa trang, nơi an nghỉ của những người lính Xô Viết.

Sau khi cuộc Nội Chiến Mỹ kết thúc, chính phủ liên bang đã trả lại tài sản bị trưng dụng hoặc bị chiếm đoạt cho phe bại trận để hàn gắn vết thương chiến tranh và những người lính hy sinh từ hai chiến tuyến được chôn chung trong một nghĩa trang với nhau, hoàn toàn không có sự phân biệt kẻ thắng người thua.

Chỉ vài ngày sau khi miền Nam thất thủ, bức tượng “Thương Tiếc,” tác phẩm điêu khắc của Nguyễn Thanh Thu, bằng đồng, nặng 10 tấn, cao hơn 6 mét, ghi lại hình ảnh của một người lính gác súng, ngồi trên bệ đá trước nghĩa trang, đã bị Cộng Sản giật sập và kéo đi. Từ đó, Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa được xem như một vùng quân sự, cấm người dân ra vào.

Năm 1995, ký giả Gordon Dillow, sau khi bất ngờ vào được bên trong, ông đã viết trên nhật báo The Orange County Register như sau: “Hai mươi năm trước, đây là nghĩa trang quốc gia lớn nhất với đài tưởng niệm các chiến sĩ của miền Nam Việt Nam, bây giờ là bãi đất hoang vu, bị bỏ mặc không ai chăm sóc, bị phá hoại. Những nấm mồ bị đào xới không còn nhận dạng được. Nhà cầm quyền Cộng Sản đã trồng một số cây, ngay bên cạnh các mộ phần, khiến cho rễ của cây khi lớn lên sẽ phá nát những ngôi mộ bên dưới.”

Ký giả Dan Southerland của đài Á Châu Tự Do, năm 2005, khi ghé thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, đã nhận ra đây là một khung cảnh thù địch, khiến cho ông phải bàng hoàng. Nghĩa trang như một căn cứ quân sự, hay như một nhà tù, có lính Cộng Sản canh gác ngày đêm. Họ sợ điều gì vậy?

Ông Southerland cũng dã đi thăm một vài nghĩa trang của những người lính Cộng Sản, sự tương phản làm cho ông ngỡ ngàng, một bên được chăm sóc đẹp đẽ, mở cửa cho mọi người vào, một bên như là một nhà tù. Tất cả chỉ là hoang phế, phá hoại và lấn chiếm.

Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, một trong những chủ trương trả thù của quân Cộng Sản, nhằm xóa bỏ di tích của cuộc chiến, là triệt phá tất cả các nghĩa trang của quân đội VNCH trên toàn miền Nam, ngoại trừ duy nhất là Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa chưa bị san bằng và mọi việc thăm viếng đều bị kiểm soát.

Bằng chứng là vào đầu Tháng Năm, 1975, Cộng Sản đã cho san bằng hằng nghìn ngôi mộ ở Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, và sau đó là số phận của nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nơi chôn cất Thống Tướng Lê Văn Tỵ và hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Theo Wikileaks, hồi năm 2008, Thượng Nghị Sĩ Jim Webb đã bí mật đến thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nằm trong tình trạng hoang phế vì không có người chăm sóc. Dịp này, ông Webb gặp bí thư thành ủy Sài Gòn là ông Lê Thanh Hải và chủ tịch thành phố là ông Nguyễn Hoàng Quân. Ông Webb khuyến khích nhà cầm quyền Cộng Sản, đây đã đến lúc hòa giải với cựu quân nhân VNCH.

Các viên chức đảng Cộng Sản này, khi đáp lời ông Webb, đã không nhắc gì tới quân đội VNCH mà chỉ nói tới vai trò quan trọng của Mỹ trong việc phát triển kinh tế Việt Nam, tức là xin viện trợ. Cả hai đều nhắc tới những “bước tiến trong quan hệ hai nước, để người Việt ở Mỹ có thể trở về nước làm ăn!”

Báo chí ở Việt Nam hàng năm nêu ra con số hàng chục tỷ đô la do người Việt hải ngoại, đa số là những người chạy trốn Cộng Sản, gửi về nước cho thân nhân mà nhờ đó có tiền nuôi chế độ. Nhưng chế độ này, tuy bề ngoài vẫn hô hào hòa hợp hòa giải, quên đi quá khứ, nhưng vẫn quyết tâm ngoảnh mặt làm ngơ, không tương nhượng với việc hòa giải ngay cả với người chết là việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hay coi đây như là một di tích lịch sử.

Thật bất hạnh cho miền Nam chúng ta, đã có một đồng minh bội phản và hơn thế, một thứ kẻ thù mọi rợ, nhỏ nhen.

Bị bắt vì hiếp dâm, khai thêm vụ giết, hiếp 2 cháu bé

Bị bắt vì hiếp dâm, khai thêm vụ giết, hiếp 2 cháu bé

Ông Ðào Văn Hùng tại cơ quan công an. (Hình: báo Lao Ðộng)

HÀ NỘI (NV) – Một nghi can hiếp dâm bất thành, khi bị bắt còn khai ra đã hãm hại 2 cháu gái mất tích bí ẩn nhiều tháng trước và chỉ nơi chôn cất. Vụ việc gây chấn động dư luận.

Sáng 21 tháng 11, ông Nguyễn Viết Thắng, chủ tịch xã Khai Thái, huyện Phú Xuyên, Hà Nội xác nhận với báo Lao Ðộng về vụ việc ông Ðào Văn Hùng (30 tuổi), sau tố giác và bị bắt vì cưỡng hiếp bất thành một phụ nữ cùng thôn đã tự khai thêm các tội ác khác, đặc biệt là sự mất tích bí ẩn của 2 bé gái địa phương cách đó vài tháng.

Khi chế độ sụp đổ, chúng ta cần làm gì và làm như thế nào?

Khi chế độ sụp đổ, chúng ta cần làm gì và làm như thế nào?

 Nguyễn Vũ Bình

Bài 1: TẠI SAO NÓI CHẾ ĐỘ SẼ SỤP ĐỔ TRONG TƯƠNG LAI GẦN?

     Trong thời gian một vài năm trở lại đây, những nhận định về sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Việt Nam càng lúc càng nhận được sự tán đồng nhiều hơn. Một trong số các nguyên nhân dẫn tới sự tán đồng của nhiều người là số nợ của ngân hàng, của doanh nghiệp và nhà nước đang được tiết lộ theo hướng ngày càng cao hơn. Ban đầu, số nợ công đưa ra chỉ là hơn 30% của GDP, sau tăng dần lên 65%, và đến hiện nay là trên 100% GDP. Nhưng đó chắc chắn chưa phải là con số cuối cùng về số nợ của Việt Nam. Theo quan điểm của người viết bài này, và cũng đã thể hiện ở một số bài viết khác, số nợ công của Việt Nam, tính cho tất cả các chủ thể, doanh nghiệp nhà nước, chính quyền địa phương, chính phủ… tối thiểu là 200% GDP và ngày càng tăng cao hơn. Điều đó có nghĩa là Việt Nam hiện nay nợ từ 300 – 350 tỷ $ và mỗi ngày con số nợ tăng cao hơn, vì nợ chồng nợ, đi vay nợ mới trả nợ cũ.

     Phân tích về cấu trúc của các chế độ cộng sản, và cách thức xây dựng cấu trúc ấy (mời đọc bài: Phác họa lại chân dung một chế độ, http://www.rfavietnam.com/node/2753), chúng ta thấy rằng, về mặt lý thuyết, chế độ cộng sản sẽ sụp đổ bởi sức nặng của chính nó. Một chế độ, để thiết lập và duy trì sự thống trị người dân, đã tạo ra một bộ máy khổng lồ, trong khi nền kinh tế không được thiết kế để tạo ra của cải vật chất. Trên thực tế, Liên Xô và các nước Đông Âu, ngoại trừ Ba Lan, đã sụp đổ từ chính nguyên nhân kinh tế, tất nhiên có sự tương tác với các nguyên nhân xã hội, chính trị. Ở Việt Nam, tuy có chuyển đổi về kinh tế, xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa nhưng vẫn đi ngược lại các nguyên lý, cơ chế và cấu trúc của kinh tế thị trường, dẫn tới việc nền kinh tế vẫn không tạo ra của cải vật chất mà chỉ là sự gia tăng đầu ra do sự gia tăng đầu vào của quá trình sản xuất. Trong quá trình này, nhà cầm quyền Việt Nam đã kịp phá hủy hoàn toàn môi trường sống của đất nước, đem về số nợ khổng lồ, và cùng với nó là sự kết thúc của chế độ cộng sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, với các yếu tố gần như hiển nhiên, là chế độ không thể duy trì được sự tồn tại, nhưng chế độ này vẫn đứng sừng sững như hiện nay làm nhiều người hoang mang và không hiểu nổi tại sao chế độ có thể vẫn đang tồn tại như vậy? Các yếu tố sau đây hầu như không một chế độ dân chủ nào có thể duy trì và tồn tại.

     – Nợ công gấp đôi GDP như đã nói ở trên, và việc trả lãi cho số nợ này cũng không được bảo đảm, chưa nói trả nợ gốc. Nhà cầm quyền Việt Nam xử lý bằng cách vay tiếp các nguồn khác để trả cho các khoản vay đáo hạn, và nợ sẽ chồng lên nợ.

     – Nền kinh tế hầu như phá sản, ở tất cả các lĩnh vực đều trong tình trạng vật lộn để duy trì sự tồn tại. Có những ngành nghề được ưu tiên, ưu đãi mà hiện nay con số nợ được đưa ra lên tới mức kinh hoàng, ví dụ ngành điện lực là 475.357 tỷ đồng, tương đương 21,3 tỷ đô la (báo Tuổi trẻ). Trong khi đó, số người bám vào hệ thống ngân sách, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và bảo hiểm xã hội lên tới 30 – 35 triệu người (tính từ người hưởng trợ cấp 200.000 đồng tới lương tổng bí thư).

     – Tham nhũng, lãng phí, chi cho yêu cầu chính trị tràn lan ở khắp mọi tỉnh thành trong cả nước.

     Vậy nhà cầm quyền Việt Nam đã duy trì sự tồn tại bằng cách nào, dựa vào các nguồn nào? Và xu hướng của việc này là như thế nào?

     + Nguồn tài nguyên, nguồn thuế thông thường và nguồn thuế phi lý, áp đặt. Chúng ta biết rằng, dù khai thác bừa bãi, nguồn tài nguyên về dầu khí và các nguồn tài nguyên khác vẫn còn và đang được khai thác tối đa. Nguồn thuế thông thường như thuế môn bài, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… cũng là một nguồn thu lớn. Nhưng nguồn thuế phí vô lý áp đặt mới là nguồn thu lớn hơn, ví dụ thuế nhập khẩu và lưu hành xe ô tô là 300%; thuế xăng dầu trên 50%…

     + Việc phát hành tiền vượt quá khả năng sản xuất của một nền kinh tế. Đây là việc làm thường xuyên của nhà cầm quyền Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn thực hiện phát hành tiền theo yêu cầu chính trị. Lượng tiền in ra, có thể lớn gấp nhiều lần năng lực sản xuất của nền kinh tế, nhưng mỗi năm lạm phát chỉ ở mức 20-30%, và tỷ giá không tăng quá cao vì hai nguyên nhân. Thứ nhất, nguồn hàng chất lượng kém, giá cả thấp nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 50-60 tỷ $ mỗi năm. Lượng đô la từ đầu tư nước ngoài, viện trợ và kiều hối cũng trung hòa được số tiền in ra ở mức không làm tăng đột biết tỷ giá cánh kéo giữa đô la và tiền đồng Việt Nam.

     + Đối với những khoản nợ đáo hạn, nhà cầm quyền Việt Nam phải vay từ nguồn này trả cho nguồn khác, làm cho nợ chồng lên nợ, chỉ hoàn toàn giải quyết được các khoản nợ trước mắt, dồn nợ cho tương lai mà hoàn toàn không nghĩ đến giải pháp để giải quyết thực sự các khoản nợ. Đây là yếu tố tiềm ẩn rủi ro cao cho chế độ cộng sản Việt Nam.

     + Sự luân chuyển các nguồn lực. Trong các xã hội dân chủ, các chủ thể của nhà nước thường độc lập và không bị chi phối bởi yếu tố chính trị. Ở các nước này, chính phủ không được phép luân chuyển các nguồn lực, từ chủ thể này sang chủ thể khác. Nhưng đối với các nước cộng sản, đối với nhà cầm quyền Việt Nam, thì việc luân chuyển các nguồn lực là hoàn toàn bình thường. Chúng ta được thông tin về việc chính phủ Việt Nam đã sử dụng nguồn tiền 20.000 tỷ đồng của Bảo hiểm Xã hội cách đây 20 năm, mà chưa có sự hoàn trả lại cho ngành Bảo hiểm. Với khả năng luân chuyển các nguồn lực như vậy, nhà cầm quyền có thể tận dụng tối đa để kéo dài, duy trì sự tồn tại của hệ thống, bộ máy của chế độ như hiện nay.

     Trên đây là những lý do giúp cho nhà cầm quyền Việt Nam hiện vẫn đang duy trì được sự tồn tại. Nhưng nhìn vào các lý do đó, chúng ta cũng thấy ngay được xu hướng khốn cùng của chế độ sẽ tới, bởi vì: đối với các nguồn vay, khi các chủ nợ hiểu được thực chất nền kinh tế Việt Nam, việc sử dụng các nguồn vốn vay không nhằm mục đích sản xuất mà chỉ để trả nợ, đảo nợ thì các nguồn vốn vay này sẽ bị thu hẹp và khép lại. Đối với việc luân chuyển các nguồn lực, luân chuyển mãi rồi cũng phải hết, các khoản dự trữ cũng sẽ cạn kiệt. Nguồn tài nguyên hiện hữu, vật chất cũng sẽ cạn kiệt dần theo thời gian. Đối với các khoản thuế phí vô lý, người dân có nhận thức, hiểu biết sẽ không còn dễ dàng chấp nhận như trước đây, các hiệp định về thuế quan và thương mại tự do cũng sẽ tác động làm hạn chế và giảm bớt các khoản thu vô lý này.

     Như vậy, theo thời gian, với mức nợ và sự tàn phá, tham nhũng khủng khiếp như hiện nay, các nguồn lực sẽ dần cạn kiệt đến mức không thể duy trì nổi bộ máy khổng lồ. Cùng với những vấn đề xã hội phát sinh, và mâu thuẫn trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam, khả năng sụp đổ của chế độ trong tương lai gần là hoàn toàn hiện hữu.

Hà Nội, ngày 17/11/2016

N.V.B.

Bài 2: NHỮNG KỊCH BẢN THAY ĐỔI – SỤP ĐỔ CÓ THỂ XẢY RA

     Khi chế độ cộng sản Việt Nam đi tới thời điểm cận kề sự sụp đổ, trong tiềm thức và mong muốn của nhiều người, muốn có sự thay đổi trong nhận thức và trật tự, tránh sự xáo trộn và hỗn loạn. Đây là điều tự nhiên của người dân, khi đã trải qua rất nhiều những biến cố, những đảo lộn gần một thế kỷ qua. Kịch bản thay đổi mà nhiều người mong muốn, đó là đảng cộng sản tự nhận thức được nguy cơ sụp đổ của chế độ, chấp nhận sự thay đổi về chính trị, mở đường cho sự xuất hiện của đảng phái khác, và cùng nhau bắt tay vào xây dựng một thể chế dân chủ, trao trả quyền lực về cho nhân dân. Nhưng hầu như ai cũng biết, đây là kịch bản không tưởng, không thể xảy ra bởi sự vận hành của một hệ thống và theo quán tính, không ai có thể làm gì và đảo ngược được tình thế. Tuy vậy, vẫn còn một hi vọng về một sự thay đổi có chủ ý, xuất phát từ nội bộ đảng cộng sản Việt Nam. Đó là sự phất cờ trong nội bộ mà chúng ta đã từng hi vọng như trước đại hội XII của đảng cộng sản. Đây là kịch bản vẫn còn hi vọng nhưng đã giảm bớt nhiều sau hi vọng có đột biến từ đại hội XII. Đối với những người làm chính trị lớn, với những người có nhãn quan chính trị và chấp nhận rủi ro, mạo hiểm thì thời điểm trước đại hội XII và thời điểm hiện nay là thời cơ vàng để phất cờ, để tạo đột biến và dấu ấn trong lịch sử. Nhưng hi vọng về một sự phất cờ trong nội bộ đảng cộng sản rất mong manh và khó xảy ra vì hai lý do. Thứ nhất, những người ở vị trí có thể phất cờ hiệu quả đều có một hệ thống lợi ích được tích lũy và tạo ra trong nhiều năm, và người ta rất khó để dám đặt cược vào một tình thế hiểm nghèo. Thứ hai, quan trọng hơn, hệ thống quan trường của cộng sản, không có chỗ cho những người có cá tính lớn, cho những người có bản lĩnh dọc ngang thiên hạ. Phần lớn lên đến các chức vụ trung ương và bộ chính trị đều là dạng luồn cúi, thượng đội hạ đạp và quan trọng nhất, họ chưa bao giờ có khái niệm hi sinh vì một cái gì đó. Trong khi đó, việc phất cờ chủ yếu được thúc đẩy bằng động cơ lớn, trong sáng và chấp nhận sự hi sinh. Nhưng chúng ta cũng không loại trừ hoàn toàn khả năng thực tế của kịch bản này, bởi quy luật vật cùng tắc phản trong cuộc sống.

     Có một kịch bản được một số người đưa ra trao đổi về sự thay đổi của chế độ, đó là việc một cá nhân hoặc một nhóm, có thể lợi dụng tình thế để chuyển sang hình thái độc tài cá nhân hoặc độc tài nhóm. Cá nhân tôi không chia sẻ, và không nghĩ rằng việc này có thể xảy ra. Lý do là, việc lợi dụng tình thế, để xáo trộn nội bộ, đảo chính trong nội bộ, để thu quyền lực về một mối, một nhóm có thể xảy ra, có thể làm được. Nhưng để duy trì một hình thái độc tài cá nhân, hoặc nhóm trong bối cảnh bộ máy khổng lồ đang tồn tại, cộng với nền kinh tế phá sản, nát bét và số nợ lên đến gấp đôi GDP là điều không tưởng. Nếu như có một sự phất cờ, với mục đích trong sáng, mục tiêu vì tự do của nhân dân thì vấn đề lại khác. Các chính phủ dân chủ và các định chế tài chính quốc tế, thậm chí người dân trong nước, có thể ủng hộ và giúp đỡ vô tư, khách quan và hoàn toàn có thể bảo đảm duy trì, tồn tại những cơ quan, bộ máy cần thiết cũng như hoạt động bình thường của nền kinh tế. Nhưng nếu là độc tài cá nhân, độc tài nhóm thì không bao giờ có thể thu hút nổi những nguồn lực nói trên. Chính vì vậy, khả năng xảy ra kịch bản chuyển đổi sang hình thái độc tài cá nhân, hoặc độc tài nhóm là rất khó xảy ra.

     Như vậy, kịch bản về sự thay đổi là có thể có nhưng vô cùng mong manh và ít hi vọng. Cá nhân người viết bài này nhận định, sự sụp đổ và sụp đổ toàn diện có nhiều khả năng xảy ra nhất. Sự kéo dài cơn hấp hối, giãy chết này có thể thách thức sức chịu đựng của người dân và giới đấu tranh dân chủ nhưng cũng có khía cạnh tích cực. Đó là khi nhà cầm quyền Việt Nam có thể luân chuyển, huy động các nguồn lực để duy trì, kéo dài sự tồn tại của chế độ, thì sự cạn kiệt nguồn lực sẽ xảy ra ở tất cả mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi bộ phận của cơ thể cộng sản. Vậy là khi chế độ sụp đổ, tất cả đều vỡ vụn và sụp đổ theo, và cả đất nước trở thành bình địa, bằng phẳng. Điều này rất thuận lợi cho việc xây dựng một ngôi nhà mới, một thể chế mới tự do và dân chủ.

     Sự sụp đổ và sụp đổ toàn diện của chế độ như đã phân tích, gốc rễ là sự cạn kiệt nguồn lực, sụp đổ về kinh tế. Nhưng diễn biến, nguyên cớ hay giọt nước tràn ly sẽ xảy ra ở đâu, lĩnh vực nào và như thế nào là điều khó ai có thể biết được. Về đại thể, có thể có ba tình huống có tính chất ngòi nổ cho sự sụp đổ của chế độ. Ba tình huống đó tương ứng với ba lĩnh vực quan trọng của đời sống người dân.

     – Sự sụp đổ về kinh tế, có thể bắt nguồn từ sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, hoặc một cuộc lạm phát bất ngờ nào đó. Chúng ta đã biết, hệ thống ngân hàng của Việt Nam hiện nay chỉ còn vốn lưu động để duy trì hoạt động cầm chừng và tồn tại. Nếu có một thông tin, hoặc một tác động tâm lý nào đó, đẩy người dân đồng loạt tới rút tiền ngân hàng cùng một thời điểm, thì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng hoàn toàn có thể xảy ra. Sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng ngay lập tức kéo theo sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, lạm phát thường trực của Việt Nam hiện nay ở mức cao, mỗi năm tối thiểu từ 20-30%. Nguyên nhân là do nhà cầm quyền luôn in tiền vượt quá năng lực của nền sản xuất. Nếu trong một tình huống nào đó, họ cần tiền và đột ngột đẩy nguồn tiền in ra gấp nhiều lần lượng tiền in hiện tại, sẽ xảy ra siêu lạm phát. Mà siêu lạm phát thì thiêu đốt một chế độ nhanh nhất có thể, lịch sử đã nhiều lần chứng minh.

     – Động loạn xã hội xảy ra, khi nhà cầm quyền có thể đàn áp quá tay, không kiểm soát được tình hình, lại đúng vào thời điểm và lĩnh vực nhạy cảm. Người dân có thể vùng lên bất cứ lúc nào trong bối cảnh dồn nén cùng cực như hiện nay. Chúng ta không biết điều này có xảy ra hay không, nhưng chúng ta hiểu rõ, các vấn đề xã hội đang chồng chất như những thùng thuốc súng, sẵn sàng bùng lên bất cứ lúc nào khi có một mồi lửa đủ mạnh. Những vấn đề khủng hoảng ô nhiễm môi trường, dân oan, tôn giáo, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ… hiện đang là những thùng thuốc nổ cực mạnh, chỉ chờ dịp là bộc phát. Mạng lưới Internet và mạng xã hội luôn là nguồn dẫn và xung động cực lớn cho những đám cháy tưởng như nhỏ bé và đơn giản.

     – Mâu thuẫn, sát phạt trong nội bộ cấp cao của đảng cộng sản Việt Nam. Vài năm trở lại đây, vấn đề xung đột quyền lực, lợi ích nhóm đã bị rò rỉ ra bên ngoài và ai cũng thấy vấn đề này lại trở thành một quả bom nổ chậm tiềm ẩn. Khi nguồn lực chung cạn kiệt, đương nhiên chiếc bánh lợi ích sẽ bị co lại, nhưng số người và nhóm lợi ích không hề giảm đi, chính vì vậy sự xung đột và mâu thuẫn bị đẩy lên mức cao là điều dễ hiểu. Ngoài ra, việc thuần phục Trung Quốc chưa bao giờ đạt tới sự thống nhất tuyệt đối, vẫn có những người còn chút lương tâm và liêm sỉ, và đó cũng là một ngòi nổ vô hình. Việc tham quyền cố vị, hoặc phe cánh dựa vào ảnh hưởng bên ngoài càng làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn tiềm ẩn chỉ chờ cơ hội là bộc phát. Và thường là giai đoạn cuối của sự tồn tại, các mâu thuẫn tích tụ đủ lớn cho một sự bùng phát bất ngờ.

     Chúng ta không biết được, trong ba lĩnh vực nêu trên, đâu sẽ là ngòi nổ, giọt nước tràn ly cho sự sụp đổ và sụp đổ toàn diện của chế độ. Nhưng chúng ta biết chắc chắn, đó là điều sẽ tới trong tương lai gần.

Hà Nội, ngày 18/11/2016

N.V.B.

Bài 3: NHỮNG VIỆC CẦN LÀM KHI CHẾ ĐỘ SỤP ĐỔ

     Trong số các kịch bản thay đổi – sụp đổ chỉ có duy nhất kịch bản sụp đổ và sụp đổ toàn diện là khó hình dung, cũng như khó xử lý nhất. Các kịch bản còn lại, đều ít nhiều có chủ thể tiếp quản và có sự chủ động trong việc giữ ổn định xã hội và xây dựng thể chế mới. Việc chủ thể nào còn nắm giữ sự chủ động và tiếp quản chế độ cũ chúng ta không biết được nên rất khó hình dung và xác định đúng hướng. Chính vì vậy, bài viết này chỉ đề cập tới trường hợp sụp đổ và sụp đổ toàn diện của chế độ, trong bối cảnh không hề có lực lượng chính trị thay thế, do đó sẽ xuất hiện khoảng trống quyền lực và chắc chắn, ít nhiều có sự hỗn loạn xã hội.

     Chúng ta có thể hình dung ra, một số nét cơ bản của tình hình, khi chế độ sụp đổ toàn diện, không có lực lượng chính trị nào thay thế ngay được. Trước hết, sẽ có một vài tổ chức của phong trào dân chủ, và nhân sĩ trí thức kết hợp với đại diện của Liên Hợp Quốc và các đại sứ quán của các cường quốc. Liên Hợp Quốc, mà nhiều khả năng Mỹ sẽ giữ vài trò chủ đạo sẽ tập hợp các tổ chức lớn của người Việt trong và ngoài nước để thành lập Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời, có thể có cả đại diện của quân đội tham gia. Sau đó sẽ công bố Chính phủ Lâm thời, chương trình hành động, thời gian xây dựng và công bố hiến pháp mới, ấn định lịch trình tổng tuyển cử… đó là những việc thường xảy ra ở các quốc gia có sự thay đổi hay sụp đổ hoàn toàn chế độ. Như vậy, gần như chắc chắn, các đại diện của các đảng phái trong và ngoài nước, tổ chức hội nhóm xã hội dân sự trong nước sẽ tham gia vào Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời. Vậy thì, phong trào dân chủ, hay những người thuộc thuộc các tổ chức đảng phái đấu tranh cho dân chủ chúng ta cần phải làm những gì? Có hai nhiệm vụ quan trọng mà chúng ta cần thực hiện khi đó: ổn định tình hình và chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ.

     1/ Ổn định tình hình

     Khi một chế độ sụp đổ, nhất là chế độ cộng sản với biết bao nhiêu cơ quan, chủ thể trong hệ thống, đồng thời phần lớn người dân bị bất ngờ sẽ xảy ra một tình trạng hoảng loạn vô cùng rộng lớn. Sự dồn nén, căm phẫn của người dân, sự lo sợ hoảng loạn của các quan chức cộng sản… sẽ tạo ra một bức tranh cực kỳ hỗn loạn và lộn xộn. Đây là hậu quả trực tiếp của việc ngăn chặn, không cho ra đời bằng mọi giá một lực lượng đối lập có tổ chức của nhà cầm quyền Việt Nam. Như vậy, tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ chắc chắn xảy ra cho tới khi các tổ chức, hội nhóm bàn bạc và lập ra được một Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời. Quãng thời gian này, chúng ta không thể biết được có thể xảy ra những điều gì, và hầu như chưa ai có thể can thiệp được, trừ sự can thiệp của đội quân gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, nếu tình trạng hỗn loạn dẫn tới bạo loạn. Như vậy, khi xuất hiện Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời thì nhiệm vụ quan trọng nhất là vấn đề ổn định tình hình.

     Muốn ổn định tình hình, chúng ta cần phải xác định được thành phần và nguyên nhân gây ra sự hỗn loạn, và giải quyết theo các nguyên nhân đó. Có hai nhóm người chính, có thể là chủ thể dẫn tới sự hỗn loạn, đó là người dân với sự dồn nén, bức xúc và căm thù chế độ khi chế độ sụp đổ sẽ có hành động trả thù. Việc trả thù sẽ kéo dài và lan rộng nếu như họ nghĩ rằng không có luật pháp và không ai ngăn cản và chế tài được họ. Như vậy ở đây, cần có những luật lệ khẩn cấp, cần có những lực lượng ngăn cản sự trả thù một cách tự phát của người dân. Ngoài ra, sẽ có các cá nhân lợi dụng tình hình để cướp phá, hôi của cũng cần được ngăn chặn. Một thành phần khác, đó là những cựu quan chức, công nhân việc chức của chế độ cũ, nhất là công an và an ninh lo sợ sự trả thù, lo sợ cho tương lai có thể tập hợp nhau lại để đi theo hướng chống lại chính quyền mới để (họ nghĩ) có thể tự bảo vệ mình. Việc này đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết, cần có một chương trình, chính sách minh bạch, rõ ràng, công bằng và nhân bản đối với đối với những người thuộc chế độ cũ.

     Tóm lại, để ổn định tình hình, Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời cần thực hiện những công việc thiết yếu sau.

     – Công khai mục đích, mục tiêu, thời hạn của Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời.

     – Công khai tiến trình, thời gian biểu, các bước chuẩn bị để xây dựng thể chế dân chủ.

     – Công bố chính sách đối với những người, những vụ việc liên quan tới chế độ cũ.

     – Công bố, thông báo và có lực lượng hỗ trợ ngăn chặn các hành vi quá khích có tính chất trả thù cá nhân hoặc gây bạo loạn.

     Về cơ bản, với những gương mặt có uy tín, một chương trình hành động rõ ràng, minh bạch, có thời hạn đồng thời có phương án giải quyết các vấn đề nổi cộm được thông tin tới toàn thể người dân, sẽ là cơ sở để ổn định tình hình trong lúc nước sôi lửa bỏng.

     2/ Chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ

     Chúng ta biết rằng, theo thông lệ của các nước gần đây có sự thay đổi chế độ, họ thường xây dựng thể chế dân chủ theo cùng một cách. Đó là thuê các chuyên gia, có thể kết hợp với các học giả trong nước viết hiến pháp, đồng thời ấn định thời gian tổng tuyển cử khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Sau đó, tất cả thể chế dân chủ đều được bắt tay xây dựng khi đã có các cơ quan lập pháp và hành pháp là quốc hội và chính phủ. Cách thức này, quá trình này, chúng ta chỉ có thể gọi, đó là chuẩn bị cho tổng tuyển cử chứ hoàn toàn không phải là quá trình chuẩn bị để xây dựng thể chế dân chủ. Điều này (cách thức xây dựng chính quyền kiểu này) cùng với việc bỏ qua việc xác định, lựa chọn định chế dân chủ cốt lõi của thể chế dân chủ là nguyên nhân chính dẫn tới việc tất cả các quốc gia xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới chỉ có dân chủ trong tuyển cử, mà không hề có dân chủ tự do cho người dân.

     Khi chúng ta đặt vấn đề, chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ thì điều đó hoàn toàn khác với việc chuẩn bị cho ra đời bản hiến pháp và việc tổng tuyển cử để tạo ra quốc hội và chính phủ. Toàn bộ quá trình xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới đều bỏ qua một vấn đề quan trọng nhất, đó là thông tin đến từng người dân, về các quyền con người, về tự do, dân chủ về tình hình đất nước… dẫn tới tình trạng người dân không có đủ thông tin và kiến thức để tham gia vào quá trình xây dựng thể chế dân chủ và vận hành, thực thi, thực hiện các quyền con người của mình. Chính vì vậy, việc chuẩn bị để xây dựng thể chế dân chủ cần tuyệt đối tập trung vào nhiệm vụ này. Ngoài những việc cần làm, dựa vào kinh nghiệm của thế giới, chúng ta cần thực hiện ba bước tối quan trọng, để xây dựng thành công thể chế dân chủ trong tương lai.

     Một là, thời gian để các chính đảng, đảng phái đăng ký và quảng bá tới mọi miền đất nước, mọi thành phần trong xã hội ít nhất là từ 2-3 năm. Điều đó có nghĩa là Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời cần tồn tại, duy trì từ 2-3 năm, sau đó mới thực hiện tổng tuyển cử. Đây là điều kiện bắt buộc để người dân có thông tin và nhận thức về tình hình đất nước, về các quyền con người, và về các chính đảng.

     Hai là, cần xây dựng ngay lập tức một trung tâm thông tin – hỗ trợ pháp lý của quốc gia, có văn phòng ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước, có thể thông tin xuống tới tận thôn, bản, làng của người dân. Trung tâm này có chức năng thông tin toàn bộ các vấn đề về tình hình đất nước, trang bị các kiến thức về quyền con người, về tự do dân chủ cho toàn thể người dân trong cả nước. Đây là điều kiện tiên quyết, bắt buộc nếu Việt Nam muốn xây dựng được thể chế dân chủ thành công, tránh lối mòn của các quốc gia khác trên thể giới. Chúng ta tuyệt đối không được bỏ qua bước đi nền tảng này.

     Ba là, đặt việc xây dựng thể chế dân chủ ở đơn vị cơ sở làm trung tâm, tất cả việc xây dựng thể chế dân chủ ở các đơn vị khác  xoay quanh và hỗ trợ, phục vụ cho đơn vị này. Lý do là, đơn vị dân chủ cơ sở chính là nơi thể hiện và thực hành quan trọng nhất tự do của con người.

     Với ba vấn đề tối quan trọng trên, cùng với việc xác định được định chế dân chủ cốt lõi, để xây dựng và vận hành, chúng ta tin rằng, thể chế dân chủ của Việt Nam sẽ vượt thoát được lối mòn mà bao năm qua, hàng trăm quốc gia xây dựng thể chế dân chủ đã và đang mắc phải.

Hà Nội, ngày 19/11/2016

N.V.B.

Bài 4: LỰA CHỌN VÀ XÂY DỰNG ĐỊNH CHẾ DÂN CHỦ CỐT LÕI

     Trong quá trình suy tư viết cuốn sách Dân Chủ, cùng với suy nghĩ về việc sẽ xây dựng thể chế dân chủ cho Việt Nam như thế nào, trong đầu tôi luôn có một thắc mắc. Đó là, tại sao trên thế giới có khoảng 150 quốc gia có thể chế dân chủ tương đối giống nhau, nhưng chỉ có khoảng 30 quốc gia, người dân được thực sự tự do, còn lại trên dưới 120 nước kia, chỉ có dân chủ trong tuyển cử? Điều gì đã tạo ra 30 quốc gia có tự do dân chủ và điều gì ngăn cản 120 quốc gia kia người dân chưa thực sự tự do? Tại sao nền dân chủ Hoa Kỳ lại được ngưỡng mộ trên toàn thế giới? Liệu có một thể chế dân chủ nào, phương thức tổ chức xã hội nào có thể bảo đảm thành công cho tất cả các quốc gia hay không?

     Nếu ai đó từng quan tâm và nghiên cứu các bài viết của tôi, thì những câu hỏi nêu trên đã được tôi trả lời đầy đủ, trong hai bài viết vào đầu năm 2014, đó là các bài: Những thách thức trong việc xây dựng thể chế dân chủ ở Việt Nam, và bài, Nắm tay nhau xây dựng nền dân chủ, giấc mộng Việt Nam (http://anhtruong01.blogspot.com/2014/04/nhung-thach-thuc-trong-viec-xay-dung.html). Điều tôi buồn và khá lo lắng là, có rất ít người quan tâm đến việc xây dựng thể chế dân chủ mà đặt ra những câu hỏi nêu trên. Như vậy, họ sẽ mặc định cách thức xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới là tối ưu, và chỉ việc áp dụng. Là người mất nhiều công sức suy tư về chủ đề này, cá nhân tôi mong muốn có sự trao đổi, thảo luận, tranh luận và phản biện về những vấn đề tôi đưa ra trong cuốn Dân Chủ và các bài viết. Hi vọng về các quan điểm, nội dung của tôi đưa ra được áp dụng xây dựng thể chế dân chủ cho Việt Nam là rất mong manh. Nhưng trước khi đi vào trình bày lại, một cách hệ thống và ngắn gọn, tôi có một mong muốn gửi gắm cho những người có trách nhiệm xây dựng thể chế dân chủ cho Việt Nam (nếu tôi không có điều kiện tham gia được). Dù bất cứ ai, thiết kế và xây dựng thể chế dân chủ cho việt Nam, hãy đề nghị họ giải thích câu hỏi đầu tiên trong bài viết này: tại sao trên thế giới có khoảng 150 quốc gia có thể chế dân chủ tương đối giống nhau, nhưng chỉ có khoảng 30 quốc gia có được nền dân chủ tự do, còn lại 120 quốc gia, chỉ có dân chủ trong tuyển cử?

     Những vấn đề tôi đã trình bày xung quanh chủ đề xây dựng thể chế dân chủ, tôi xin không được trình bày lại. Đề nghị hãy đọc cuốn sách Dân Chủ và hai bài viết nêu trên. Ở đây, tôi đi vào trình bày ngay lý do các quốc gia có thể chế dân chủ mà người dân chưa thực sự được tự do, theo một cách tiếp cận khác, hay cách nói khác, với cùng một nội dung. Có ba lý do, hay ba yếu tố quan trọng nhất để xây dựng thành công một thể chế dân chủ cho bất cứ quốc gia nào.

     1/ Xác định và xây dựng định chế dân chủ cốt lõi

Như chúng ta biết, một thể chế dân chủ mà các quốc gia xây dựng thường có nhiều định chế dân chủ: hiến pháp dân chủ; tam quyền phân lập; đa nguyên đa đảng; bầu cử và ứng cử tự do; tản quyền và cơ chế liên bang; tự do ngôn luận, tự do báo chí, v.v. Tuy nhiên, tất cả các quốc gia xây dựng thể chế dân chủ chỉ biết vận dụng bằng cách xây dựng đầy đủ các định chế đó. Tất cả đều không đặt được vấn đề, trong số tất cả các định chế nêu trên, thì đâu là định chế dân chủ cốt lõi, cần được đặt vào vị trí trung tâm và xây dựng xung quanh định chế đó. Sự khác biệt trong cuốn sách Dân Chủ, trong các bài viết và quan điểm của cá nhân tôi chính là điểm này. Tôi đã xác định được, dựa trên nghiên cứu thể chế dân chủ của Hoa Kỳ, định chế dân chủ cốt lõi, đó là cơ chế bảo đảm tự do của con người, đó là tòa án nhân quyền bảo đảm mỗi cá nhân có thể tự mình bảo vệ các quyền con người của mình. Chỉ cần tập trung suy nghĩ vào các khái niệm tự do, quyền con người chúng ta có thể chấp nhận ngay cách đặt vấn đề này. Tự do của con người là khái niệm trung tâm, nhưng chưa được định nghĩa đầy đủ theo hướng để xây dựng định chế dân chủ, đã được cuốn sách Dân Chủ định nghĩa như sau: tự do của con người là các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi một cá nhân. Từ định nghĩa này dẫn tới định chế tòa án nhân quyền là một vấn đề lo-gic đơn giản. Đây là định chế dân chủ cốt lõi mà bất kỳ thể chế dân chủ nào, nền dân chủ nào cũng cần quan tâm và xây dựng ngay lập tức.

     2/ Trang bị kiến thức cho người dân về vấn đề tự do, dân chủ

     Khi đã xác định được cơ chế để người dân tự bảo vệ các quyền con người của mình, thì vấn đề nhận thức, kiến thức của người dân về các quyền con người của mình, về vấn đề tự do, dân chủ, cách thức tham gia xây dựng thể chế dân chủ, cách thức bảo vệ các quyền con người của mình là vấn đề sống còn. Người dân chỉ có thể tự bảo vệ các quyền con người của mình khi họ hiểu rõ các quyền đó, và cách thức bảo vệ các quyền đó thông qua tòa án nhân quyền. Không những vậy, khi có nhận thức và kiến thức về tự do, dân chủ nhân quyền người dân còn tham gia vào việc xây dựng thể chế dân chủ, xây dựng luật pháp. Chúng ta cần đơn giản hóa các kiến thức về các quyền con người, về tự do, dân chủ để trang bị cho người dân. Về lâu dài, các kiến thức này cần được phổ biến tới các cấp học từ tiểu học tới trung học và đến đại học. Làm sao phải đạt được yêu cầu, người dân thuộc, nhớ được các quyền con người của mình như nhớ những bảng cửu chương trong toán học.

     3/ Cơ chế tản quyền và vấn đề dân chủ cơ sở

     Đây là hai vấn đề quan trọng, không thể bỏ qua trong xây dựng thể chế dân chủ. Cơ chế tản quyền, xây dựng nhà nước liên bang là yêu cầu bắt buộc nhằm giảm thiểu sức ép lên trung ương đồng thời phát huy được hết các ưu điểm của từng vùng, miền có các đặc trưng, đặc thù khác nhau. Vấn đề xây dựng thể chế dân chủ cơ sở quan trọng bậc nhất khi đơn vị cơ sở chính là nơi con người thể hiện mọi sự tự do, cũng như việc tham gia xây dựng thể chế đó. Xu hướng chung của thế giới là hợp tác và hòa hợp, đồng nghĩa với việc vai trò của chính quyền trung ương không còn mạnh và chi phối mọi mặt nữa, càng thúc đẩy việc xây dựng thể chế dân chủ cơ sở lên tầm quan trọng đặc biệt. Chúng ta cần đặt việc xây dựng thể chế dân chủ cơ sở làm trung tâm, và các đơn vị khác xoay quanh và phục vụ đơn vị dân chủ cơ sở này.

     Trên đây là ba vấn đề quan trọng, trong việc xây dựng thể chế dân chủ. Chúng ta cần hiểu rằng, ba vấn đề này là trung tâm, trọng tâm, cùng với việc xây dựng đầy đủ các định chế dân chủ khác mà các quốc gia đã và đang có. Các định chế khác cần được xây dựng xoay quanh và phục vụ định chế dân chủ cốt lõi (tòa án nhân quyền) và định chế dân chủ được chú trọng đặc biệt (tản quyền và dân chủ cơ sở). Cùng một cơ hội để xây dựng thể chế dân chủ, hy vọng nhân dân và đất nước chúng ta lựa chọn và xây dựng được một thể chế dân chủ bảo đảm cao nhất tự do của con người, và bài viết này là một cách tiếp cận để tham khảo./.

Hà Nội, ngày 20/11/2016  

N.V.B.

Nguồn: http://www.rfavietnam.com/blog/4362

Hàng không quốc tế không hài lòng về ‘kiểu Việt Nam’

Hàng không quốc tế không hài lòng về ‘kiểu Việt Nam

Nguoi-viet.com

Một góc phi trường Tân Sơn Nhất. Do phi trường này quá tải. Hồi đầu tháng 9, thủ tướng Việt Nam đồng ý mở phi trường Tân Sơn Nhất rộng gấp đôi so với hiện nay. (Hình: VN Economy)

VIỆT NAM – Phí cao, thiết bị kém, thủ tục phiền hà, lo ngại việc tu sửa-mở rộng các phi trường chính như Tân Sơn Nhất, Nội Bài thiếu khoa học, không hợp lý,…

Đó là những điểm chính mà đại diện các hãng hàng không quốc tế có đường bay đến Việt Nam cùng nêu ra khi đối thoại với Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam hồi cuối tuần vừa qua.

Hiện có 55 hãng hàng không ngoại quốc thiết lập khoảng 100 đường bay đến hoặc đi từ Việt Nam.

Đại diện các hãng hàng không quốc tế cùng than phiền là phí mà họ phải trả cho Việt Nam quá cao trong khi hạ tầng quá tệ. Những thiết bị tối thiểu như máy soi hành lý vừa thiếu, vừa nhỏ nên thường bị nghẽn vào lúc cao điểm, ảnh hưởng tới hoạt động của các hãng hàng không. Đó là chưa kể đến những phiền hà, mất nhiều thời gian do thủ tục về các chuyến bay quá rườm rà.

Hiệp hội các hãng hàng không khai thác hoạt động hàng không tại Việt Nam (AOC) khuyến nghị nên thành lập ủy ban phối hợp ra quyết định điều hành bay tại phi trường (CDM) để giảm tình trạng các chuyến bay bị trễ, thậm chí bị hủy chỉ vì việc điều hành bay trục trặc.

Đại diện các hãng hàng không quốc tế cũng đã bày tỏ sự âu lo khi Việt Nam có ý định tu sửa-mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất và Nội Bài. Với cung cách điều hành như hiện nay, họ sợ rằng, hoạt động của họ sẽ bị vạ lây.

Ông Lại Xuân Thanh, cục trưởng Cục Hàng Không Dân Dụng thuộc Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam, phân bua, phí mà Việt Nam đang thu được tính toán theo hướng dẫn của Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng Quốc Tế (ICAO). Tuy nhiên ông Thanh hứa sẽ xem lại và sẽ minh bạch hóa về phí. Tuy nhiên việc điều chỉnh phí cần có thời gian để hai bên: Bên thu và bên trả thương lượng với nhau.

Ông Thanh thừa nhận, hạ tầng ở các phi trường, kể cả Tân Sơn Nhất và Nội Bài chưa đáp ứng được nhu cầu của các hãng, đặc biệt là các hãng hàng không chuyên vận tải. Đó cũng là lý do để ông Thanh biện bạch tại sao phải tu sửa – mở rộng hai phi trường Tân Sơn Nhất và Nội Bài.

Ông Trịnh Ngọc Thành, phó tổng giám đốc Vietnam Airlines, lưu ý, việc sửa chữa phi đạo ở Tân Sơn Nhất và Nội Bài có thể mất bốn tháng/mỗi phi trường. Do đó, nếu không sớm thông báo về kế hoạch tu sửa thì việc tu sửa sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các hãng hàng không.

Đối với đề nghị thành lập CDM, ông Thanh cho biết, tổng công ty quản lý bay đã thành lập trung tâm quản lý luồng không lưu. CDM sẽ là một phần quan trọng trong việc quản lý luồng không lưu, phối hợp ra quyết định cho phi cơ cất cánh tại phi trường liên quan đến cơ quan cấp phép bay, điều hành bay, phi trường và hãng hàng không. Tuy nhiên ông Thanh không cho biết lúc nào thì thực hiện “phần quan trọng” này. (G.Đ)

Giáo dục nát bét, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nên từ chức

Giáo dục nát bét, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nên từ chức

FB Lê Văn Sơn

20-11-2016

Bộ trưởng GD Phùng Xuân Nhạ. Ảnh: internet

Giáo viên bị điều đi làm tiếp viên vì nhiệm vụ chính trị, tiến sĩ giáo sư nhảy lên bàn văng tục, chửi thề người khác, học sinh đánh nhau hội đồng từ cấp tiểu học đến trung học, đại học, giáo viên mua dâm, hiếp dâm và động dâm với nhau, với học sinh, thủ đoạn moi tiền bất hợp lý của lãnh đạo và giáo viên. Tất cả những điều đó đang diễn ra nối tiếp nhau và liên tục trong nhiệm kỳ của ông Phùng Xuân Nhạ làm Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.

Khi lên chức Bộ trưởng ông Nhạ cho rằng: ” đứng trước đòi hỏi cuộc sống, đứng trước hội nhập, đứng trước nhu cầu của con người: nhu cầu học hành tử tế, nhu cầu được sống vui vẻ, nhu cầu được sống trong xã hội yên bình. Đó là nhu cầu chính đáng của bất kỳ người dân nào”.

Ông Nhạ bình luận xã hội không nên đổ lỗi hết cho giáo dục: ” Tôi xuất phát từ thực tiễn là lắng nghe con người. Tất cả con người đều có mưu cầu để cuộc sống tốt lên, nhân văn hơn từ đó quay trở lại giáo dục phải làm thế nào để kết hợp. Tại sao cứ đổ hết cho giáo dục?”

“Nhà trường – gia đình – xã hội. Xã hội ở đâu? Giáo dục có cố gắng đến mấy nhưng môi trường xã hội, cộng đồng không đồng hành cùng mà chỉ bình luận, chỉ kêu thì không được”.

Việc Giáo viên bị điều đi tiếp khách là “hãnh diện và vinh dự”, việc tiến sĩ nhảy bổ lên bàn văng tục chửi thề, một số giáo viên, lãnh đạo hoang dâm vô độ, các học sinh đánh nhau thì xuất phát từ đâu? Một cơ chế hiện thời của Giáo dục đã cho phép những điều đó xảy ra thì hệ lụy gì sẽ xảy ra cho văn hóa xã hội Việt Nam?

Ông Nhạ có liên quan, chịu trách nhiệm cho những tệ nạn đó đang xảy ra? hay vẫn chối bỏ trách nhiệm, đổ lỗi cho giáo viên và cho xã hội?

Nghề Giáo viên trong bất cứ xã hội nào, chế độ nào cũng được coi trọng, ấy thế mà trong xã hội bị cộng sản cai trị này, nghề giáo viên đã bị chôn vùi trong những điêu tàn, bị dư luận lên án, bị xã hội khinh chê.

Tất nhiên, trong hệ thống Giáo dục vẫn có nhiều nhà giáo rất đáng trân trọng, vẫn giữ được cái tâm đối với nghề và với cái chữ. Mong thay Giáo viên Việt Nam cất cao tiếng nói để lấy lại vị thế và hình ảnh của mình.

Điều đầu tiên ông Phùng Xuân Nhạ nên có văn hóa từ chức vì những bê bối của ngành mình đang quản lý. Đó là một sự thay da đổi thịt mang tính đột phá đấy ông Nhạ bộ trưởng ạ.

Tôi gởi tới các nhà giáo có tâm những lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày nhà giáo Việt Nam. Kính chúc quý thầy cô mạnh khỏe, bình an và tràn đầy trí lực để gieo những hạt giống tâm hồn tốt cho xã hội Việt Nam chúng ta.