Tổng Bí thư: Đảng suy thoái nhưng cấm bôi bẩn

Tổng Bí thư: Đảng suy thoái nhưng cấm bôi bẩn

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2016-12-09
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị chỉnh Đảng ở Hội trường Diên Hồng tòa nhà Quốc hội ngày 9/12/2016.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị chỉnh Đảng ở Hội trường Diên Hồng tòa nhà Quốc hội ngày 9/12/2016.

Courtesy quochoi.vn

Thông điệp răn đe

Phát biểu tại Hội nghị chỉnh Đảng tại Hội trường Diên Hồng tòa nhà Quốc hội ngày 9/12/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định sẽ không đóng cửa để chỉnh đốn Đảng và sẽ diệt tận gốc nạn tự diễn biến tự chuyển hóa trong nội bộ Đảng.

Ông Nguyễn Phú Trọng, trong tư cách người đứng đầu Đảng Cộng sản đã gởi một thông điệp răn đe đến những kẻ thù vô hình không có danh tính. Những người ông gọi là lợi dụng việc đấu tranh khắc phục khuyết điểm, tiêu cực để bôi nhọ, kích động chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam và sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

Đối với những ngươi dân bình thường đang chịu sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì có vẻ có điều gì không ổn vì một đảng xấu thì sẽ bị phê bình bêu riếu, không thể xem đó là lợi dụng để chống phá được.

Những nhà lý luận tuyên giáo, người ta thường xuyên lập luận như thế và người ta không thấy có những cái trái khoáy như vậy.
-Ông Nguyễn Đăng Quang

Ông Nguyễn Đăng Quang, cựu Đại tá Công an hiện nghỉ hưu ở Hà Nội nhận định:

“Những nhà lý luận tuyên giáo, người ta thường xuyên lập luận như thế và người ta không thấy có những cái trái khoáy như vậy. Nói như thể là kiểu nói lấy được, những câu nói nói có được dư luận đồng tình hay không thì bản thân người nói cũng thừa biết là như thế nào rồi. Nhưng người ta nói thì cứ nói thôi, nó chẳng có giá trị lớn lao gì, chẳng có giá trị thực tiễn nào hết.”

Hội nghị ngày 9/12/2016 ở Hà Nội mang tên Hội nghị cán bộ toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đương nhiệm về tăng cường chỉnh đốn Đảng.

Chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hàm ý vận mệnh của Đảng và chế độ đang chao đảo. Theo lời ông Tổng Bí thư, toàn Đảng cần nhận rõ rằng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng và chế độ.

Cẩm nang nhận diện “tự diễn biến”

Bóng ma “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng là gì mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho là đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ cầm quyền ở Việt Nam. Ngay khi Hội nghị Trung ương 4 khai mạc vào ngày  9/10/2016 vừa qua với cảnh báo về biểu hiện vì những biểu hiện gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, TS Hà Sĩ Phu một nhà phản biện chính trị độc lập thuộc thế hệ tiên phong đã từ Đà Lạt nhận định:

dien-hong-622
Hội nghị chỉnh Đảng tại Hội trường Diên Hồng tòa nhà Quốc hội ngày 9/12/2016. Courtesy quochoi.vn

“Bản thân Đảng của các ông ấy nó chuyển biến theo hướng bất lợi cho Đảng. Trước đây chuyện tự diễn biến, tự phân hóa được hiểu theo  nghĩa, các đảng viên ngày càng thấy rằng, con đường đi độc tài chuyên chế của Đảng là phi khoa học là không đúng, mà phải tiến dần sang phía dân chủ pháp trị theo ý kiến nhân dân. Trước đây cụm từ ấy chỉ có nghĩa như vậy thôi, nhưng gần đây cụm từ ấy có thêm một nghĩa mới là, bộc lộ sự mâu thuẫn trong nội bộ đảng về mặt nhân sự, chẳng những về mặt tư tưởng mà con về mặt nhân sự có thể dẫn đến lật đổ nhau, như ở Đại hội Đảng lần thứ 12 và thậm chí như vụ ở Yên Bái và đến vụ Trịnh Xuân Thanh nữa…”

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII được xem là một Nghị quyết cập nhật về vấn đề chỉnh Đảng, làm rõ hơn bóng ma suy thoái trong Đảng và đề ra biện pháp đối phó. Nghị Quyết Trung ương 4 đưa ra một cẩm nang 27 điểm để nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và vấn đề tự diễn biến, tự chuyển hóa.

Đặc biệt, biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ được nhận diện bằng việc phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, hay đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.

Tư tưởng bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ, sử dụng phương tiện truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng…cũng được cho là một trong các biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa.

Các đảng viên ngày càng thấy rằng, con đường đi độc tài chuyên chế của Đảng là phi khoa học là không đúng, mà phải tiến dần sang phía dân chủ pháp trị theo ý kiến nhân dân.
-TS Hà Sĩ Phu

Một điểm quan trọng được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII quy kết cho hiện tượng tự diễn biến tự chuyển hóa cho thấy tình hình khác nghiêm trọng. Đó là sự phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học – nghệ thuật. Tác động lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, hoặc điều gọi là bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

Tình trạng tham ô, nhũng nhiễu ở Việt Nam từ cấp thấp nhất lên tới cấp lãnh đạo được xem như một sự thật không thể chối cãi. Có thể nói người dân Việt Nam đã quen sống chung với tham nhũng. Nghị quyết chỉnh Đảng cũng bày tỏ quyết tâm chống tham nhũng và làm trong sạch Đảng. Nhưng những nỗ lực này trong mấy nhiệm kỳ đã tỏ ra chưa đạt kết quả bao nhiêu. Cựu Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang từ Hà Nội nhận định:

“Cá nhân tôi cho rằng có một một nghịch lý rất lớn, lãnh đạo Đảng càng hô hào chống tham nhũng, càng ra nhiều nghị quyết, chỉ thị chống tham nhũng, thì tham nhũng này lại càng khỏe ra càng mạnh lên. Thế cho nên tôi cho rằng trong lĩnh vực này đánh tham nhũng chống tham nhũng chẳng qua chỉ là đánh trận giả bắn chỉ thiên là chính thôi, chứ thực chất không phải chống tham nhũng thực sự.”

Liên quan đến vận mạng của chế độ, Đảng Cộng sản Việt Nam đang thực hiện một chiến dịch chỉnh Đảng toàn diện như lời ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đương nhiệm về tăng cường chỉnh đốn Đảng.

Luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội trong phát biểu gần đây với chúng tôi có nói rằng, nếu tình trạng tha hóa tham ô tràn làn không ngăn chặn được, thì Đảng và chế độ sẽ mất niềm tin người dân không ủng hộ nữa. Trong hoàn cảnh như thế thì cơ sở tồn tại của Nhà nước sẽ rất thấp.

Đại Hội Kiều Bào, Địa Đạo Củ Chi & Em Lê Văn Tám

Đại Hội Kiều Bào, Địa Đạo Củ Chi & Em Lê Văn Tám

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

Tuongnangtien

RFA

Nhà thơ Lê Giang Trần vừa có bài viết giới thiệu một cuốn sách mới (Sử Tính và Ý Thức) của luật sư Nguyễn Hữu Liêm – với “tinh thần cởi mở chân tình đứng về phía tác giả, để biết lắng nghe những gì trình bày” – trên tờ Việt Báo, phát hành từ California vào hôm 07 tháng 11 năm 2016.

Độc giả của trang báo thượng dẫn, tiếc thay, không ai có tinh thần “cởi mở” và “chân tình” tương tự. Cũng chả ai bận tâm gì đến nội dung tác phẩm của L.S Liêm.

Coi:

  • Đặng Huy Phong:Đừng mất thời gian và tiền bạc để đọc Nguyễn Hữu Liêm!
  • Trần Vinh:Khỏi đọc bài chủ vì tôi đã biết Nguyễn hữu Liêm là ai. Nguyễn hữu Liêm là một trong số những người từ Mỹ bay về Hà Nội tham dự “Đại hội người Việt ở nước ngoài” do Cộng Sản Hà Nội tổ chức năm 2009. Sau đó, Nguyễn Hữu Liêm viết bài “Nơi giữa Đại Hội Việt Kiều: Một nỗi bình an”của mình “. Nguyễn hữu Liêm viết: “Trong hai mươi năm qua, tôi đã bao nhiêu lần về lại Việt Nam…” 

Và rằng “Ngày thứ ba của Đại hội, ở cuối phần bế mạc, tôi cùng đứng dậy chào cờ. Bài “Tiến quân ca” được vang cao trong cả hội trường. Tôi nhìn qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam! Hồ Chí Minh! Cả hội trường, và tôi, cùng hân hoan trong tất cả (vẫn là) cái hồn nhiên mà dân tộc ta đã bước vào từ hồi thế kỷ trước. Tôi thầm cảm thấy mình thật sự bình an khi đất nước này đã mở rộng vòng tay đón tôi trở về …” 

Niềm “hân hoan” cũng như sự “hào hứng” hồi năm 2009, như lời của L.S Nguyễn Hữu Liêm, buồn thay, nay không còn nữa. Tin tức về ngày khai mạc, cũng như bế mạc (“Hội Nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài”) vào tháng 11 vừa qua – xem ra – có hơi tẻ nhạt. Không còn tiếng xe còi hụ và “vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam! Hồ Chí Minh!” – theo tường trình của báo Quân Đội Nhân Dân:

Hôm nay (12-11), Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài năm 2016 sẽ khai mạc tại TP Hồ Chí Minh với chủ đề: “Kiều bào chung sức xây dựng TP Hồ Chí Minh phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế”.

Hội nghị dự kiến có sự tham dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo một số địa phương cùng hơn 500 đại biểu kiều bào của gần 40 quốc gia và lãnh thổ. Hội nghị sẽ diễn ra trong hai ngày 12 và 13-11 với các phiên thảo luận theo chuyên đề…

Trao đổi với lãnh đạo thành phố, các kiều bào bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo dục trong nước, trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới. Các đại biểu đề nghị lãnh đạo thành phố cần chú trọng đầu tư lâu dài vào giáo dục, lấy trọng tâm là con người để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chuẩn bị cho những cơ hội mới trong hội nhập quốc tế…

 Sáng cùng ngày, các kiều bào về tham dự hội nghị được đi tham quan, giao lưu theo các chuyên đề tại: Huyện Cần Giờ, Khu Công nghiệp công nghệ cao, Công viên phần mềm Quang Trung, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Khu đô thị mới Thủ Thiêm, hầm vượt sông Sài Gòn…

Ảnh: vietnamnet

Ủa! Có tới 500 đại biểu kiều bào của gần 40 quốc gia và lãnh thổ sao không thấy ai “quan tâm đặc biệt” đến chuyện ngập lụt ở thành phố Hồ Chí Minh – vậy cà?

Không đô thị nào có thể “phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế” trong tình trạng thường xuyên chìm trong bể nước. Thành phố Hồ Chí Minh Quang Vinh, tất nhiên, cũng không ngoại lệ.

Vậy mà cũng chả có đoàn kiều bào nào đến “tham quan, giao lưu” với Củ Chi để tìm hiểu cách thoát nước của hệ thống địa đạo nổi tiếng ở địa phương này. Đây là một sự thiếu sót vô cùng đáng tiếc, nếu không muốn nói là đáng trách.

Wikipedia tiếng Việt, giọng Hà Nội, ghi rõ:

Địa đạo Củ Chi là một hệ thống phòng thủ trong lòng đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng tây-bắc. Hệ thống này được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương Chiến tranh Việt Nam. Hệ thống địa đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ thống đường ngầm dưới lòng đất.

Hệ thống địa đạo dài khoảng 200 km và có các hệ thống thông hơi vào các các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn vị trí các bụi cây… tầng cuối cùng cách mặt đất 8-10m. Ðường lên xuống giữa với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu… Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ.

Hồi thế kỷ trước mà Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam có thể làm được cả một hệ thống địa địa đạo dài 200 cây số – sâu cả chục mét – có hí viện để xem văn nghệ, và bệnh viện với phòng giải phẫu thì cớ sao nay lại để cho cái sân bay Tân Sơn Nhất cứ bị chìm đắm trong mưa (và trở nên bất khiển dụng) hoài vậy – mấy cha? Mà Củ Chi cách Tân Sơn Nhất đâu có bao xa, đúng không?

Phi trường Tân Sơn Nhất. Ảnh: Khánh Bằng

Sự tân kỳ (rất đáng nể) của Hệ Thống Địa Đạo Củ Chi khiến tôi chợt nhớ đến lòng dũng cảm (vô cùng đáng ngại) của … em Lê Văn Tám, cùng với một tiếng thở dài – cố nén. Từ đất đến người, suốt suồn suột đều chỉ là chuyện bịp!

Cái Nghị Quyết của Bộ Chính Trị, về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, cũng không ngoại lệ. Cũng rặt những lời lẽ bịp bợm và giả trá:

Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ gắn bó với quê hương, đất nước. 

Thông qua các hoạt động ngoại giao tích cực vận động chính quyền nước sở tại tạo thuận lợi cho kiều bào có điều kiện làm ăn sinh sống bình thường; chủ động tiến hành đàm phán và ký kết các thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lãnh sự, hiệp định tư pháp, bảo vệ lợi ích chính đáng của bà con, chống các biểu hiện kỳ thị, các hành động chống lại người Việt Nam ở nước ngoài.

Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người Việt Nam ở nước ngoài.

N.Q. 36 gồm 3.824 chữ, đều một giọng khoác lác như trên, và không một chữ nào đề cập đến nguyên do khiến mấy triệu nguời Việt phải lưu lạc và tứ tán khắp năm Châu. Cứ y như thể là khi khổng khi không (cái) có mấy triệu con dân Việt, từ trên trời, rơi rớt tá lả xuống khắp mặt địa cầu. Đảng chỉ tiện tay gom thành đống, và vo lại thành cục – y như cục bột – rồi muốn nặn tròn hay bóp méo thế nào thì tuỳ thích!

Đời đâu có dễ sống dữ vậy, mấy cha? Đâu có bịp thiên hạ hoài được! Cái thời Lê Văn Tám, và Địa Đạo Củ Chi đã qua rồi. Những màn múa rối, kiểu Đại Hội Việt Kiều (e) cũng không nên tiếp tục. Càng dài nó lại càng dở, và càng thêm lố bịch thôi.

Ðền bù đất giá thấp, dân cản chính quyền làm đường

Ðền bù đất giá thấp, dân cản chính quyền làm đường

Nguoi-viet.com

Người dân tập trung phản đối dự án vì cho rằng giá quá thấp. (Hình: Tuổi Trẻ)

QUẢNG NAM (NV) – Cho rằng giá đền bù sai quy định của nhà nước, hàng trăm hộ dân phường Ðiện Nam Trung, thị xã Ðiện Bàn, tập trung ngăn cản thi công làm đường.

Báo Tuổi Trẻ loan tin, ngày 9 Tháng Mười Hai, hàng trăm người dân phường Ðiện Nam Trung, thị xã Ðiện Bàn có mặt từ rất sớm khi nghe tin chính quyền địa phương mang phương tiện, máy móc xuống san ủi toàn bộ hạ tầng trên đoạn đường gần 200 mét còn lại.

Mọi người quyết định gác công việc làm ăn, quyết tâm túc trực dọc hai bên đường ÐT 607 nhằm phản đối trước giá đền bù “rẻ bèo,” không đúng với giá đất quy định của nhà nước.

Ông Huỳnh Bá Huy, một người dân thuộc diện giải tỏa tức giận: “Thông tin dự án mở rộng tuyến đường đã được dân nắm bắt từ cách đây hơn 10 năm. Ba năm trước dự án bắt đầu triển khai. Toàn bộ 146 hộ dân thuộc diện giải tỏa phải đập bỏ nhà cửa, hàng quán, hoặc phải xây dựng thụt lùi về diện tích đất còn trống phía sau. Tuy nhiên với cái giá bồi thường 720,000 đồng/mét vuông thì quả thật quá bèo bọt.”

Ngồi bám trụ từ tờ mờ sáng và liên tục than vãn chế độ đền bù không thỏa đáng khiến gia đình lâm cảnh nợ nần chồng chất, ông Võ Như Châu, chủ hộ dân có diện tích đất giải tỏa lớn nhất cho biết, trong đợt giải tỏa lấy mặt bằng phục vụ dự án, gia đình ông mất tổng cộng 361 mét vuông đất ở, nhưng chỉ nhận số tiền 260 triệu đồng. Xây dựng lại nhà cửa, gia đình ông phải mang nợ gần 400 triệu đồng.

Khổ hơn là gia đình ông Ðặng Hữu Ðức, sau khi bị giải tỏa trắng toàn bộ phần đất 214 mét vuông, hiện gia đình ông không còn lấy nổi một tấc đất cắm dùi.

Nói với phóng viên báo Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Ðạt, phó chủ tịch thị xã Ðiện Bàn lý giải, sở dĩ người dân nhận mức đền bù như trên là do căn cứ vào Luật Ðất Ðai năm 2003.

Còn về việc hứa hẹn “năm lần bảy lượt” của chính quyền thị xã trong các cuộc họp đối thoại với dân rằng sẽ xem xét bổ sung đền bù, ông Ðạt cho biết: “Thị xã đã có văn bản nhờ tỉnh hỗ trợ thêm cho các hộ dân để việc giải tỏa mặt bằng sớm hoàn tất. Còn được hỗ trợ bao nhiêu so với mức giá cũ thì tỉnh đang xem xét. Chúng tôi sẽ có câu trả lời ngay khi tiếp nhận phản hồi.” (Tr.N)

Dân biểu Mỹ chỉ trích Việt Nam vi phạm Nhân quyền, đàn áp Tôn giáo

Hòa Ái, RFA
2016-12-08

Chiều thứ Năm 8/12, Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos của Quốc hội Hoa Kỳ đã tổ chức một buổi hội thảo về tình hình nhân quyền thế giới, xoay quanh chủ đề - Nhân quyền: Ghi nhận hiện tại và Hướng tới tương lai.

Chiều thứ Năm 8/12, Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos của Quốc hội Hoa Kỳ đã tổ chức một buổi hội thảo về tình hình nhân quyền thế giới, xoay quanh chủ đề – Nhân quyền: Ghi nhận hiện tại và Hướng tới tương lai.

RFA PHOTO/Phương Anh

Chiều thứ Năm 8/12, Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos của Quốc hội Hoa Kỳ đã tổ chức một buổi hội thảo về tình hình nhân quyền thế giới, xoay quanh chủ đề “Nhân quyền: Ghi nhận hiện tại và Hướng tới tương lai”.

Buổi hội thảo được tổ chức nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Nhân quyền 10/12 hàng năm, lần này tập trung vào hai lãnh vực: Những thách thức liên quan đến hạn chế hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự cũng như đối kháng chính trị và tự do báo chí. Và làm thế nào để ngăn chặn và ứng phó với vi phạm nhân quyền cùng tội ác chiến tranh.

Nhân quyền tại Việt Nam

Là thành viên của cử tọa đoàn, Dân Biểu Alan Lowenthal trình bày về tình hình nhân quyền quốc tế trong năm 2016. Ông đặc biệt đề cập đến tình trạng vi phạm nhân quyền ở 3 quốc gia khu vực Đông Nam Á, Miến Điện, Campuchia và Việt Nam.

Dân Biểu Alan Lowenthal nêu lên tình trạng chính quyền Việt Nam trong năm qua gia tăng đàn áp tôn giáo cũng như Quốc Hội Việt Nam vừa thông qua Dự Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo mà các tổ chức tôn giáo lên tiếng cho rằng siết chặt quyền tự do tôn giáo của hàng triệu người dân.

Ông Lowenthal nhắc đến nhiều blogger bị bắt giữ và nhà cầm quyền Việt Nam giam giữ hàng trăm tù nhân lương tâm, như trường hợp Blogger Nguyễn Tiến Trung, một tiếng nói cho nền chủ tại Việt Nam nhưng bị cầm tù vì tội “âm mưu lật đổ chính quyền”, hay Mục sư Nguyễn Công Chính bị ở tù 11 năm vì niềm tin tín ngưỡng và Luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt vì lên tiếng cho nhân quyền .

nha-quyen-2
Dân Biểu Alan Lowenthal trả lời phóng viên Hòa Ái bên lề Hội thảo nhân quyền tại Quốc hội Hoa Kỳ hôm 8/12/2016. RFA PHOTO/Phương Anh

Nói với RFA bên lề cuộc hội thảo, Dân Biểu Alan Lowenthal nhấn mạnh:

“Việt Nam rất muốn trở thành đối tác trao đổi thương mại mật thiết với Hoa Kỳ. Khi gặp gỡ với giới chức Chính phủ Việt Nam, tôi nói rằng sẽ không ủng hộ việc này cho đến khi họ thay đổi.

Tôi nghĩ rằng Việt Nam muốn gia tăng hợp tác với Mỹ thì họ phải tôn trọng nhân quyền của người dân cũng như quyền tự do tín ngưỡng. Chính quyền Việt Nam rất cần bắt tay thực hiện ngay từ bây giờ và chúng tôi luôn thúc giục họ trong việc này.

Tôi đoan chắc cộng đồng người Việt hải ngoại, những người rời khỏ nước từ thập niên 70 đến giờ cũng muốn kết nối với chính phủ tại quê nhà nhưng vì tình trạng vi phạm nghiêm trọng nhân quyền ở quốc gia này đã gây nên sự cản trở.

Vì thế chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm những giải pháp để cải thiện tình trạng nhân quyền ở Việt Nam và chúng tôi sẽ luôn nhắc nhở Hà Nội về điều đó.”

Được biết Dân Biểu Alan Lowenthal sẽ đệ nạp Nghị quyết Ngày Quốc tế Nhân quyền để Quốc Hội thông qua và ông sẽ phát biểu tại Hạ viện về tình hình nhân quyền Việt Nam.

Hòa Ái tường trình từ Quốc Hội Hoa Kỳ.

‘Chi phí không tên’ vẫn là gánh rất nặng cho doanh giới Việt Nam

‘Chi phí không tên’ vẫn là gánh rất nặng cho doanh giới Việt Nam

Nguoi-viet.com

Thanh niên và sinh viên tại một văn phòng hỗ trợ việc làm. Kinh tế suy thoái liên tục khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt tại Việt Nam, kể cả giới có chuyên môn, bằng cấp. (Hình: 24h.com.vn)

HÀ NỘI (NV) – Ðó là nhận định của ông Vũ Tiến Lộc, chủ tịch phòng Công Nghiệp-Thương Mại Việt Nam (VCCI) tại Diễn Ðàn Doanh Nghiệp 2016, nhằm tìm giải pháp nâng cao vai trò của kinh tế tư nhân.

Giống như vô số cuộc thảo luận trước đó về chủ đề vừa kể, những mắc mứu được xem như nguyên nhân chính khiến kinh tế tư nhân tại Việt Nam èo uột, các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam “chết dở” vẫn còn nguyên.

Ông Lộc tiếp tục nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam vẫn bị nhũng nhiễu, vẫn phải oằn lưng gánh cả các “chi phí không chính thức” lẫn những rủi ro do chính sách thay đổi hoặc áp dụng thiếu nhất quán.

Theo ông Lộc, trong khi chính quyền nhiều quốc gia khác loay hoay tìm kiếm các giải pháp để doanh nghiệp tư nhân phát triển thì tại Việt Nam, hệ thống công quyền cũng loay hoay nhưng là loay hoay giảm phiền hà, nhũng nhiễu đối với doanh giới!

Ông Nguyễn Chí Dũng, bộ trưởng Kế Hoạch-Ðầu Tư của chính quyền Việt Nam, thừa nhận, doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam chưa đủ sức tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Là bộ trưởng Kế Hoạch-Ðầu Tư nhưng ông Dũng không đưa ra được giải pháp nào mà chỉ… cảnh báo là cứ như trước nay thì Việt Nam sẽ tụt xuống dưới đáy của khối ASEAN!

Việt Nam đang trong tình trạng hết sức nguy hiểm, doanh nghiệp tiếp tục chết, tỷ lệ thất nghiệp càng ngày càng cao, các nguồn thu cho ngân sách giảm, bội chi càng lúc càng lớn, nợ nần tăng vọt vì phải vay để chi tiêu, kinh tế suy thoái không có điểm dừng,… Cũng vì vậy, sau các chuyên gia, tới lượt chính phủ Việt Nam e ngại khủng hoảng bùng phát. Ðể ngăn chặn khả năng này, chính phủ Việt Nam vừa đưa ra hàng loạt cam kết, vừa đề ra hàng loạt chính sách để doanh giới – đặc biệt là giới chủ doanh nghiệp tư nhân – yên tâm, khuyến khích họ duy trì sản xuất, kinh doanh, mở rộng đầu tư.

Tuy nhiên những cam kết và nỗ lực điều chỉnh chính sách chỉ thể hiện trên các diễn đàn, các hội thảo, hội nghị và trên… giấy. Trong thực tế, doanh giới – đặc biệt là giới chủ doanh nghiệp tư nhân – tiếp tục bị hành hạ, bóp nặn. Sự chán nản, tuyệt vọng chỉ tăng chứ không giảm.

Hồi tháng 6, tại một hội thảo về “chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,” do Trung Tâm Nghiên Cứu Truyền Thông-Phát Triển tổ chức, ông Lê Hồng Sơn, cựu cục trưởng Cục Kiểm Tra Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật của Bộ Tư Pháp Việt Nam, từng ví von, có thể xem chủ trương, chính sách và hệ thống văn bản qui phạm pháp luật trong thời gian gần đây giống như “trải thảm nhung,” nhằm mời gọi đầu tư, phát triển kinh tế nhưng khi thực hiện, các bộ, ngành, chính quyền địa phương cố tình “gài đinh” để cho nhóm của mình trục lợi. Ông Sơn xem đó là hậu quả tất nhiên của hiện tượng viên chức bị “lưu manh hóa.” Ðáng ngạc nhiên là dù chính quyền nhiều tỉnh thản nhiên dọn sân, dành riêng chỗ chơi cho một số đại gia vi phạm cả Hiến Pháp, lẫn hàng loạt bộ luật nhưng cuối cùng vẫn chẳng có cá nhân nào bị truy cứu trách nhiệm.

Trong năm năm vừa qua, giới lãnh đạo Việt Nam đã đi từ thừa nhận sự tồn tại của các “nhóm lợi ích” (chỉ sự liên kết giữa các viên chức với doanh nhân, lũng đoạn hoạt động của hệ thống công quyền để trục lợi) đến chỗ xác định hoạt động của các “nhóm lợi ích” là một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của cả quốc gia lẫn chính thể.

Ông Nguyễn Ðình Hương, cựu phó Ban Tổ Chức của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN, từng cảnh báo, các “nhóm lợi ích” đã câu kết, chi phối nhiều lĩnh vực từ thấp đến cao, hình thành các liên minh, tạo ra các “cụm chính sách,” những “chùm lợi ích,” xé nhỏ lợi ích công cộng.

Chưa dám đả hổ chỉ đập vài con ruồi

Chưa dám đả hổ chỉ đập vài con ruồi

Nam Nguyên, phóng viên RFA
Kỳ họp thứ 8 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương diễn ra ở Hà Nội từ 28 đến 30/11.

Kỳ họp thứ 8 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương diễn ra ở Hà Nội từ 28 đến 30/11.

Courtesy chinhphu.vn

Hầu hết báo điện tử dòng chính ở Việt Nam đều đưa tin về sự kiện hàng loạt cán bộ bị kỷ luật vì dính tới quy trình bổ nhiệm ông Trịnh Xuân Thanh, nguyên Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang. Nhân vật này đã đào thoát sang Châu âu, ngay sau khi Đảng và Chính phủ khởi động điều tra và truy cứu trách nhiệm về vụ thất thoát hơn 3.300 tỷ đồng ở Tổng Công ty xây lắp dầu khí PVC, giai đoạn ông Trịnh Xuân Thanh là Chủ tịch Hội đồng Quản trị.

Chưa thấy trách nhiệm người đứng đầu

Dư luận từng cho rằng, ông Trịnh Xuân Thanh là khởi điểm của chiến dịch chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng được gọi là chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” phiên bản Việt Nam.

Nhận định về sự kiện hai lãnh đạo Tỉnh ủy, một nguyên Phó ban Tổ chức Trung ương cùng 3 thứ trưởng Bộ Nội vụ bị Ban Kiểm tra Trung ương kỷ luật hoặc đề nghị Ban Bí thư xem xét xử lý, Luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Saigon phát biểu:

Vấn đề quan trọng là kỳ này họ muốn bốc ra những người có trách nhiệm liên quan ở các cấp, nhưng mà vẫn chưa bốc lên đến cấp cao nhất…
-LS Trần Quốc Thuận

“Vấn đề quan trọng là kỳ này họ muốn bốc ra những người có trách nhiệm liên quan ở các cấp, nhưng mà vẫn chưa bốc lên đến cấp cao nhất… Bởi vì những danh hiệu như là anh hùng lao động hay là chuyện phê chuẩn phó chủ tịch tỉnh thì mấy ông tham mưu chỉ đề xuất thôi, chứ muốn thành được cái chức đó thì phải có người ký…Những người ký đó là ai thì kỳ này không thấy nêu ra mà chỉ nêu ra bộ phận tham mưu, bộ phận giúp việc, phê bình cũng lớn chức nhưng ở cấp Bộ, Ủy ban Trung ương nhưng cũng chỉ là cơ quan tham mưu thôi, chưa phải là cơ quan quyết định. Như vậy cơ quan quyết định là ai, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cũng chưa chỉ ra tận gốc.”

VnExpress, VietnamNet, Dân Trí điện tử cũng như các báo khác đã đưa tin chi tiết về nội dung kỳ họp thứ 8 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương diễn ra ở Hà Nội từ 28 đến 30/11. Trong đó có nội dung 8 điểm về xem xét, xử lý và đề nghị thi hành kỷ luật một số đảng viên và tổ chức đảng vì can dự vào việc đề bạt bổ nhiệm ông Trịnh Xuân Thanh vào chức vụ sau cùng là Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang.

Trong thẩm quyền của mình, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cơ quan giữ cây roi kỷ luật của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định  thi hành kỷ luật 4 trường hợp. Bao gồm cảnh cáo ông Bùi Cao Tỉnh, nguyên Vụ trưởng, nguyên Trợ lý Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; khiển trách ông Trần Công Chánh, Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang nhiệm kỳ 2015 -2020; khiển trách bà Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban thi đua – Khen thưởng Trung ương. Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho rằng, các vi phạm, khuyết điểm của ông Trần Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Nội vụ chưa đến mức phải thi hành kỷ luật. Yêu cầu Ban cán sự Đảng Bộ Nội vụ tổ chức kiểm điểm nghiêm túc, sâu sắc và có biện pháp khắc phục.

Ngoài ra Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị Ban Bí thư cảnh cáo đối với ông Huỳnh Minh Chắc, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang nhiệm kỳ 2010-2015 và ông Trần Lưu Hải, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương. Một Thứ trưởng Nội vụ khác là ông Nguyễn Duy Thăng cũng bị đề nghị xem xét xử lý về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.

Riêng tập thể Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ nhiệm kỳ 2011-2016 phải tổ chức kiểm điểm nghiêm túc vì có liên quan tới việc thẩm định và đề nghị phê chuẩn chức danh Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang cho ông Trịnh Xuân Thanh, cũng như  từng đề nghị khen thưởng cho Tổng Công ty cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) và cá nhân ông Trịnh Xuân Thanh.

trinh-xuan-thanh-1202-622.jpg
Ông Trịnh Xuân Thanh, ảnh minh họa chụp trước đây. Courtesy photo

Trả lời chúng tôi, ông Nguyễn Đăng Quang cựu đại tá ngành công an hiện nghỉ hưu ở Hà Nội trình bày ý kiến:

“Tôi cho rằng vụ Trịnh Xuân Thanh này không chỉ đơn thuần là nội hàm của riêng vụ này và qua vụ này còn nói lên nhiều vấn đề khác. Theo cảm nhận của tôi việc xử lý vụ này nói chung còn lúng túng còn chưa rõ ràng. Cứ đợi thêm một thời gian nữa xem hình thức kỷ luật đối với ông Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng như thế nào thì mới rõ hơn được.”

Đối với dư luận cho rằng, chiến dịch chống tham nhũng và làm trong sạch Đảng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa mang tính quyết liệt, Luật sư Trần Quốc Thuận nhắc lại vấn đề kỷ luật cựu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng về nhiều vụ việc trong đó có vụ Trịnh Xuân Thanh. Nhưng dư luận nói nhiều về việc làm sao cách chức một người không còn chức vụ nào cả. Luật sư Trần Quốc Thuận nhấn mạnh:

“Phải truy tận gốc, truy tận nơi, truy trách nhiệm cao nhất. Tự nhiên đâu phải chuyện luân chuyển, chuyện cho chỉ tiêu Hậu Giang bầu ra phó chủ tịch…Nhà nước Việt Nam hay nói trách nhiệm người đứng đầu, như vậy người đứng đầu là ai. Trong sự việc này trách nhiệm người đứng đầu thế nào không thấy nói. Tôi nghe nói toàn cấp phó không thấy nói gì tới người đứng đầu, rồi sau khi bầu xong thì phê chuẩn, thì phải là bên Chính phủ, Thủ tướng phê chuẩn… như vậy chỗ đó được biết thế nào thì không thấy nói.”

Vụ Formosa: chưa lộ diện dê tế thần

Cùng thời gian với việc công bố kỷ luật 7 cán bộ lãnh đạo liên quan tới quy trình đề bạt bổ nhiệm ông Trịnh Xuân Thanh, từ một người chịu trách nhiệm cao nhất trong vụ bê bối ở Tổng Công ty cổ phần xây lắp dầu khí PVC trở thành Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, hôm 30/11/2016  báo chí dòng chính ở Việt Nam còn được độc giả chú ý với thông tin liên quan tới Formosa Hà Tĩnh và trách nhiệm của ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Ông Võ Kim Cự là người trực tiếp vận động và đưa dự án thép khổng lồ về Vũng Áng Hà Tĩnh. Hiện nay ông Võ Kim Cự là Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa 14 đương nhiệm.

Tôi có theo dõi nghiên cứu thấy rằng ông Võ Kim Cự đã vi phạm nhiều điều, làm không đúng thẩm quyền, vi phạm nhiều quy định làm không đúng Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
-Nguyễn Đăng Quang

Theo VnExpress, sáng 30/11/2016 trong dịp tiếp xúc cử tri thành phố Đà Nẵng, ông Đinh Thế Huynh Thường trực Ban Bí thư xác nhận là Ủy ban Kiểm tra Trung ương đang làm rõ trách nhiệm của ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh trong thảm họa môi trường Formosa. Bên cạnh đó, Ban Cán sự Đảng và Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh cũng bị kiểm tra, đặc biệt là quá trình lắp đặt hệ thống xả thải của Formosa. Ông Đinh Thế Huynh cho biết sau khi kiểm tra xong sẽ có thông báo.

Cựu đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang nêu nhận xét về trường hợp ông Võ Kim Cự và thảm họa môi trường Formosa. Ông nói:

“Tôi có theo dõi nghiên cứu thấy rằng ông Võ Kim Cự đã vi phạm nhiều điều, làm không đúng thẩm quyền, vi phạm nhiều quy định làm không đúng Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Trong đó rõ nhất là khi chưa có quyết định của Chính phủ thì ông ấy đã có công văn chấp nhận cho Formosa thuê đất 70 năm, đó là vượt quyền, lộng quyền. Việc này Thanh tra Chính phủ đã có ý kiến rồi, nhưng cho đến giờ này ông ấy vẫn gọi là ‘nhâng nháo’ nói là mình làm đúng thẩm quyền.”

Đáp câu hỏi về khả năng kỷ luật ông Võ Kim Cự nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh, đặc biệt hiện nay ông đang là Đai biểu Quốc hội Khóa 14, Chủ tịch Liên Minh hợp tác xã Việt Nam. Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Saigon nhận định:

“Việc kỷ luật Đảng thì cứ việc kỷ luật, còn ông ấy là đại biểu Quốc hội, nếu có truy cứu trách nhiệm hình sự thì người ta mới xem xét tới tư cách đại biểu Quốc hội. Kỷ luật Đảng thì không ảnh hưởng gì tới danh hiệu đại biểu Quốc hội. Nếu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người ta phải đình chỉ nhiệm vụ đại biểu Quốc hội của ông đó đi, hoặc sai phạm nặng thì bãi miễn. Bây giờ kỷ luật Đảng mà nặng thì ngươi ta sẽ xem xét tư cách đại biểu Quốc hội của ông Võ Kim Cự, thí dụ kỷ luật Đảng đến mức khai trừ thì chắc chắn chức danh đại biểu Quốc hội sẽ không còn.”

Theo Luật sư Trần Quốc Thuận, dư luận hay nói tới một con dê tế thần trong vụ thảm họa môi trường Formosa. Nhưng theo ông hiện nay chưa thấy con dê tế thần đó ở đâu vì cần phải có chứng cứ rõ ràng. Vẫn theo lời cựu quan chức Quốc hội Việt Nam, đưa Formosa về Hà Tĩnh không phải là việc mà một mình ông Võ Kim Cự có thể làm được, ông ấy từng nói có các Bộ ngành ở Trung ương đồng ý và có phê duyệt của người đứng đầu Chính phủ.

Những đặc tính truyền thống cơ bản của Nền Giáo Dục ở Miền Nam thời trước Năm 1975

Nhân vụ các cô giáo tỉnh Hà Tĩnh bị ép “tiếp khách, rót rượu, hát karaoke cho quan chức tỉnh”, nhìn lại những đặc tính truyền thống cơ bản của Nền Giáo Dục ở Miền Nam thời trước Năm 1975

Phạm Cao Dương (Danlambao) – …Bài này bắt đầu được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục ở nước Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ “phá sản” để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người khác còn tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975…
*
Bồng bồng mẹ bế con sang, 
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo.
Muốn sang thì bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
(Ca dao Việt Nam)
 
“Tôi muốn thấy có sự kính trọng trong một trường học. Ông thầy tới, học trò phải nghiêm chỉnh đứng dậy chào thầy…” Nicolas Sarkozy, khi tranh cử Tổng Thống Pháp.
(Từ Nguyên, “Tựu Trường 2006”, Báo Người Việt, 10 tháng 9, 2006)
*
Một người bạn mới về thăm Việt Nam trở lại Mỹ trước ngày Lễ Tạ Ơn 2016 ít ngày cho biết rất nhiều người trong nước hiện tại đã đánh giá cao nền giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975; riêng bà con ở Miền Nam lại lấy làm hãnh diện là đã được đào tạo bởi nền giáo dục ấy, trong những học đường Miền Nam và bởi các thầy cô Miền Nam.
Bạn tôi là một nhà nghiên cứu. Anh đã khách quan kể lại không thêm bớt. Sau đó dư luận lại ồn ào về chuyện xảy ra ở trong nước: 21 cô giáo ở Thị Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh bị Ủy Ban Nhân Dân tỉnh ép phải “tiếp khách, rót rượu, hát karaoke” cho quan khách. Chưa hết, các nạn nhân lại còn bị vị Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, ông Phùng Xuân Nhạ, thay vì bênh vực cho những nhân viên thấp cổ bé miệng nhất của bộ mình, trước sự bắt nạt của những ông vua con ở các địa phương, lại công khai trách cứ họ là không biết phản đối, khiến dư luận trong và ngoài nước vô cùng phẫn nộ, nhiều người lấy làm tủi hổ.
Việc làm của các quan chức Cộng Sản tỉnh Hà Tĩnh này phải nói là chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn luôn hãnh diện tự coi mình là có nhiều ngàn năm văn hiến.
Nhân dịp này, tôi xin được cùng bạn đọc ôn lại những ưu điểm qua một số những đặc tính cơ bản của sinh hoạt giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975 nói riêng và văn hóa miền Nam nói chung, chính yếu là sự liên tục lịch sử. Nói như vậy không phải là trong thời gian này miền đất của tự do và nhân bản mà những người Quốc Gia còn giữ được không phải là không trải qua nhiều xáo trộn. Chiến tranh dưới hình thức này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại và có những thời điểm người ta nói tới các chế độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng. Nhưng ngoại trừ những gì liên hệ tới chế độ chính trị, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân vẫn luôn luôn diễn ra một cách bình thường, người nào việc nấy, người nào trách nhiệm nấy và được tôn trọng hay tôn trọng lẫn nhau. Sự liên tục lịch sử do đó đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục.
Trong bài này tôi chỉ nói tới tới giáo dục và giáo dục công lập. Đây không phải là một bài khảo cứu mà chỉ là một bài nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản, sơ khởi, và tất nhiên là không đầy đủ. Đồng thời mỗi người có thể có phần riêng của mình. Một sự nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn là một điều cần thiết.
Giáo dục và người làm giáo dục
Giáo dục công lập ở Việt Nam đã có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia, tới một mức độ nào đó định chế này đã tồn tại trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của nó là để đào tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung. Các vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học cả. Có điều coi trọng thì coi trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt Nam, nói chung, chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào sinh hoạt giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp trong nước. Sinh hoạt này hoàn toàn do các thày ở các trường do các tư nhân đảm trách. Giáo dục là của người dân và của những người làm giáo dục, và cho đến khi người Pháp sang, nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả những học thuyết, những nguyên tắc căn bản của giới này. Sang thời Pháp, do nhu cầu bảo vệ và phát triển văn minh và văn hóa của họ, người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là lựa chọn nghề dạy học với tinh thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề dạy học dù chỉ là tạm thời về phía người Pháp cũng như về phía người Việt. Họ mở các trường sư phạm để huấn luyện giáo chức chuyện nghiệp.
Đặc tính kể trên đã liên tục được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước đó, từ thời Chính Phủ Quốc Gia của Cựu Hoàng Bảo Đại. Chức vụ Bộ trưởng hay Tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ, ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính trị như đổng lý văn phòng, chánh văn phòng, bí thư tức thư ký riêng của Bộ trưởng… tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong bộ, từ Thứ trưởng, Tổng thư ký, Tổng giám đốc, Giám đốc cho tới các Hiệu trưởng các trường và đương nhiên là các Giáo sư, Giáo viên, đều là những nhà giáo chuyên nghiệp, không có đại diện đảng phái chính trị ở bên cạnh.
Lý do rất đơn giản: họ là những người vô tư, biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm, chưa kể tới sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của cả một dân tộc, hay ít ra là của những thế hệ tới mới, là quan trọng. Trong phạm vi lập pháp, rõ hơn là ở Quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay tiểu ban, dù là Thượng viện hay Hạ viện đều do các Nghị sĩ hay Dân biểu gốc nhà giáo phụ trách. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đã ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường. Thày cô giáo là nhân viên của Bộ giáo dục, do Bộ giáo dục bổ nhiệm, trực thuộc vị Hiệu trưởng của trường sở tại, rồi các nha sở của bộ giáo dục ở trung ương chứ không trực thuộc các Quận hay Tỉnh trưởng.
Về tên các trường, tất cả các trường trung, tiểu học đều được gọi bằng tên của các danh nhân hay anh hùng dân tộc thời trước, được mọi người công nhận, Trưng Vương, Ngô Quyền, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm, Gia Long, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Lê Ngọc Hân,… không hề có tên nào là của các lãnh tụ đương thời dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần Văn Hương gốc nhà giáo… thay vì những tên hoàn toàn xa lạ đối với quảng đại quần chúng Miền Nam về sau này như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám…, những người của một đảng chính trị hay, tệ hơn nữa, là ngụy tạo, không có thật.
Tôn chỉ – mục đích – quốc gia – dân tộc và con người
Nói tới ba nguyên tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của miền Nam trước năm 1975, có người tỏ ý không thích ba nguyên tắc này. Lý do có lẽ, tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản Việt Nam nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó là Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học.
Ở đây người viết không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không thích, không đồng ý, ba nguyên tắc Dân Tộc, Nhân Bản và Khai Phóng này vẫn đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam mà không ai lưu tâm tới vấn đề là không biết. Chúng đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền thống cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo kịp với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi thời… Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sở dĩ có được, phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc. Nó cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường, dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng giáo. Đôi câu đối được khắc trên cổng chính của một trong những trường trung học lớn nhất của miền Nam là trường Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp điển hình:
Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Âu Tây khoa học yếu minh tâm.
Sự khủng hoảng hiện tại của nền giáo dục ở trong nước là do ở sự thiếu những yếu tố chỉ đạo này. Điều này đã được thấy rõ qua sự vô cùng lúng túng của ông Vũ Đức Đam, đương kim Phó Thủ Tướng, đặc trách văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục và đào tạo trong một buổi điều trần trước Quốc hội và bị hỏi câu hỏi là “có hay không một triết lý giáo dục Việt Nam?” Điều khiến cho người ta ngạc nhiên là không lẽ là một cán bộ ở cấp cao chuyên lo về văn hóa, như vậy, ông lại không biết tới Đề Cương Văn Hóa 1943 của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong đó ba nguyên tắc cơ bản chỉ đạo cho các vận dụng văn hóa, nói chung, văn học và giáo dục… nói riêng, là: dân tộc hóa, đại chúng hóa, và khoa học hóa đã được nêu cao hay sao? Không lẽ ba nguyên tắc này đã trở thành lạc hậu trong tình thế mới, trước quyền hành và quyền lợi của Đảng Cộng Sản Việt Nam?
Liên tục trong phạm vi nhân sự
Nhân sự ở đây không ai khác hơn là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Tôi muốn nói tới các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở thiếu thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy học, vui với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thầy, làm cô của mình, dù đó là sư phạm Tiểu học hay sư phạm Trung học. Một nghề bị coi là “bạc nghệ”, là bị xếp sau so với các nghề khác:
Dưa leo ăn với cá kèo,
Cha mẹ anh nghèo, anh học noọc-man. (nghề Thầy giáo, theo hệ thống giáo dục Pháp xưa)
Tất cả các vị này vẫn còn nguyên vẹn khi đất nước bị qua phân và đã ở các trường trong Nam khi các trường này được mở cửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa, không mấy người tập kết ra Bắc.
Sau khi đất nước bị chia cắt và qua cuộc di cư của non một triệu người từ miền Bắc vô Nam, họ lại được tăng cường thêm bởi một số đông các đồng nghiệp của họ từ miền Bắc vô cùng với các trường được gọi là Bắc Việt di chuyển: Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục… Tất cả đã cùng nhau hướng dẫn và điều hành các học đường miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc lập, đồng thời cũng là những giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo chức thuộc thế hệ mới.
Từ phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp, cho phép học trò ngồi, tới cách viết bảng và xóa bảng, cách chấm bài hay phê bài, các vị này đã để toát ra một sự chừng mực và vô cùng thận trọng của những nhà sư phạm nhà nghề, khác hẳn với một số các đồng nghiệp của họ từ ngoại quốc về chỉ lo dạy các môn học chuyên môn. Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị hóa, tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập. Nhiều vị vào những lúc tình thế vô cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độc lập, nghiêm chỉnh của học đường và tư cách của giáo chức. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị xuất thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các Đại Học Văn Khoa ở Sài Gòn và Huế như Tiến Sĩ Nguyễn Sĩ Giác, Cử Nhân Thẩm Quỳnh, Tú Tài Kép Vũ Huy Chiểu… mà không ai là không quý trọng.
Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của Chương Trình Pháp và Chương Trình Hoàng Xuân Hãn, Phan Huy Quát
Đây là một trong những đặc tính căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền giáo dục này tồn tại. Những gì người Pháp thiết lập không những không bị hủy bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ gìn, song song với việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của dân tộc. Người Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những gì là kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại, thay vì cứ nhắm mắt đập bỏ để sau này hối tiếc. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra vô cùng thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất thời dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn cảnh mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp lực của họ đã trở nên rất mạnh.
Hệ thống giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ thời chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ trưởng giáo dục đương thời, sau này là Phan Huy Quát thời Quốc Gia Việt Nam mới được thành lập. Nó cho phép người ta, từ thầy đến trò, dễ dàng chuyển sang một nền giáo dục mới của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc. Ngay từ cuối niên học 1944-1945, trong rất nhiều khó khăn, từ giao thông, vận chuyển đến thông tin, liên lạc, người ta đã tổ chức được những kỳ thi ở bậc tiểu học bằng tiếng Việt mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên nhớ là Chính Phủ Trần Trong Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng hay hơn một trăm ngày, vô cùng ngắn ngủi, với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn. Sau này khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những khó khăn trong việc đối chiếu bằng cấp, hệ thống học và khả năng của các đương sự, không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho những ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật… vì đó là một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ thống gần với hệ thống chung của quốc tế.
Duy trì mối liên tục lịch sử cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa của người Pháp và những sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do chính người Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở những vùng đất của người quốc gia. Điển hình là các sách toán và khoa học bằng tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không những các thày mà luôn cả các trò sử dụng làm tài liệu hay để tự học. Trong phạm vi văn chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu dù cho nhiều sách giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo. Cũng vậy, trong phạm vi sử học với cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ được tinh thần tự do, cởi mở. Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn căn cứ vào giá trị của các công trình của họ thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế độ của họ, thay vì căn cứ vào chuyện họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này. Tô Hoài, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân… là những trường hợp điển hình.
Trong phạm vi thi cử, các kỳ thi được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì, đặc biệt là hai kỳ thi tú tài. Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự. Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng, mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình viện trợ khiến cho nhiều người Mỹ đã tỏ vẻ bất bình. Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với những nhận định khác nhau. Tiếc rằng chỉ vài năm sau Miền Nam đã không còn nữa.
Trong phạm vi tổ chức thi cử, người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách coi thi và chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy còn chịu ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ trước đó nữa. Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các giám thị đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng nghiệp của mình khi phải lãnh nhiệm vụ ở những vùng xa thủ đô Sài Gòn, an ninh và giao thông không bảo đảm.
Nên nhớ là trong thờ gian này hệ thống trung ương tập quyền vẫn còn tồn tại. Ra đề thi, in đề thi và gửi đề thi về địa phương với tất cả sự bảo mật cần thiết là vô cùng khó khăn, tế nhị và phức tạp. Về phía chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp can thiệp. Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn sàng phanh phui mọi chuyện.
 
Xã hội tôn trọng sự học và những người có học
Đây là một trong những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội Miền Nam nói chung và nền giáo dục Miền Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc tính này đã được biểu lộ không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được coi như một giá trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị. Sự học là một giá trị và giáo dục là một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không phải là những yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc. Người làm công tác giáo dục được tôn trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là về phương diện tinh thần để thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh trị, những nhà chủ trương cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải kiêng nể. Nhưng bù lại, người ta lại trông đợi rất nhiều ở các người làm công tác giáo dục, ở đây là các thày, cô. Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng vậy, tất cả đã tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người đã khuất.
Sự thiết lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho tinh thần giáo dục của miền Nam. Đối với các phụ huynh học sinh, sự trông đợi các thày nhiều khi qua mức, ngày nay khó ai có thể nghĩ được điển hình là chuyện “giáo sư mà cũng ăn phở”. Câu chuyện do một vị giáo sư từ Bắc vô Nam sau Hiệp Định Genève và được cử xuống Mỹ Tho chấm thi tú tài kể lại. Buổi sáng, các thày rủ nhau đi ăn phở trước khi nhập trường. Ở tiệm phở, ông nghe người địa phương thầm thì “giáo sư mà cũng ăn phở”. Nên nhớ là Mỹ Tho là một tỉnh nhỏ và hồi giữa thập niên 1950, bằng tú tài là to lắm rồi trong khi các vị giáo sư này lại là giám khảo chấm thi tú tài lận!
Tạm thời kết luận
Bài này bắt đầu được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục ở nước Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ “phá sản” để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người khác còn tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975.
Ở đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những dữ kiện căn bản liên hệ tới nền giáo dục ở Miền Nam thời truớc năm 1975. Một công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần phải được thực hiện trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này. Tuy nhiên có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi làm cách mạng. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng trong những phạm vi sinh hoạt khác trong đó có giáo dục một cách máy móc, không thận trọng. Nhận định này có thể bị coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và là một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm. Có điều vì bằng kinh nghiệm nên khi biết được là sai lầm thì đã quá muộn. Những gì thuộc về quá khứ, kể cả quá khứ bị coi là phong kiến, lạc hậu không phải là luôn luôn tệ hại, là cổ hủ và những gì được coi là canh tân, đổi mới không phải luôn luôn là tốt đẹp. Tất cả cần phải có thời gian để “gạn đục, khơi trong”. Duy có một điều không bao giờ thay đổi là: khi giáo dục không còn được coi là một giá trị và khi các thày cô không còn được coi trọng thì xã hội sẽ không còn là xã hội của loài người nữa.
Trở về với thực tế trước mắt, với vụ 21 cô giáo ở Thị Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Quảng Trị, nhiều người tự hỏi nếu các cô không được chính Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, cơ quan trực tiếp phải lo cho đời sống và điều kiện hành nghề của các cô bênh vực, thì nghiệp đoàn giáo chức của các cô ở đâu? Tự hỏi nhưng ai cũng biết là ở Việt Nam hiện tại làm gì có nghiệp đoàn vì các luật về lập hội, lập nghiệp đoàn, biểu tình vẫn chưa được Quốc Hội đem ra thảo luận.
Tưởng cũng nên nhớ là ngay từ thời Vua Bảo Đại, qua Chính Phủ Trần Trọng Kim, các đạo Dụ về tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập nghiệp đoàn đã được ban hành ngay từ Tháng Bảy năm 1945. Tất cả đã xảy ra trong một tuần lễ đầu tháng Bảy khiến cho báo chí đương thời đã mệnh danh tuần lễ này là Tuần Lễ Của Các Tự Do. Nhưng chỉ chưa tới ba tuần lễ sau ngày tuyên bố nền độc lập và thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ngày 22 tháng 9 năm 1945, bãi bỏ các nghiệp đoàn trên toàn cõi Việt Nam. Đồng thời Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp đã ký nghị định giải tán Hội Khai Trí Tiến Đức và cho Hội Văn Hóa Cứu Quốc tư cách pháp nhân. Trong khi đó, ở các nước tiền tiến, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, các nghiệp đoàn giáo chức rất mạnh và được phía chính quyền kính nể. Tương lai của các giáo chức Việt Nam, nói riêng, và nền giáo dục Việt Nam, nói chung, quả thật không có gì sáng sủa.
(*) DLB: Tác giả là một GS, Tiến sỹ Lịch sử đã nghỉ hưu.

Tốn 128 tỷ đồng nạo vét Hồ Tây nhưng ‘không thấy bùn’

Tốn 128 tỷ đồng nạo vét Hồ Tây nhưng ‘không thấy bùn’

Nguoi-viet.com

Hồi tháng 10 vừa qua, hàng trăm tấn cá ở Hồ Tây bị chết do lòng hồ ô nhiễm “thiếu oxy.” (Hình: Thanh Niên)

HÀ NỘI (NV) – Ðể hút 1.2 triệu khối bùn ở Hồ Tây, các nhà khảo sát đưa ra số tiền từ 170-180 tỷ đồng và trong 4 năm qua Ban Quản lý Hồ Tây đã chi hết 128 tỷ đồng nhưng không thấy một khối bùn nào.

Chiều 5 tháng 12, trong cuộc họp về tình hình kinh tế-xã hội của hội đồng thành phố Hà Nội, sau khi ông Nguyễn Văn Thắng, bí thư quận Tây Hồ kiến nghị cho rằng, trong kế hoạch của thành phố Hà Nội, Hồ Tây được xác định là điểm đến du lịch. Ðể tạo cảnh quan, Hà Nội cũng đã đầu tư thực hiện cải tạo, xây dựng xong 18 cây số xung quanh Hồ Tây.

“Thành phố đã đầu tư rồi, chỉ cần hơn 100 tỷ đồng nữa là xong. Còn nếu cứ để như vậy thì không thể khai thác được,” ông Thắng nói và cho biết, hiện các hộ dân trong khu vực đã đồng thuận với việc giải tỏa mặt bằng phục vụ dự án.

Trả lời ông Thắng, ông Nguyễn Ðức Chung, chủ tịch ủy ban thành phố Hà Nội cho biết, trực tiếp kiểm tra lại và nhận thấy từ năm 2011 đến nay quận Tây Hồ đã thực hiện 4 dự án nạo vét Hồ Tây có tổng vốn đầu tư khoảng 128 tỷ đồng, trong đó có gói thầu liên quan đến nạo vét ở khu vực đường Thanh Niên hơn 33 tỷ chưa được thực hiện.

Thế nhưng, sau sự cố cá chết, ban cán sự ủy ban Hà Nội đã mời một số công ty tư vấn trong và ngoài nước khảo sát Hồ Tây. Theo con số khảo sát của 3 công ty độc lập, nếu muốn làm sạch Hồ Tây, phải nạo vét khoảng 1.2 triệu khối bùn, bởi ở Hồ Tây có những khu vực hiện nay chỉ còn sâu 0.5 mét nước và bùn sâu 1.7 mét… Muốn biến Hồ Tây thành khu du lịch trong tương lai của thành phố phải có kế hoạch tổng thể.

“Với những lý do như vậy, thành phố không thể bố trí vốn cho Ban Quản Lý Hồ Tây được. Ðể hút 1.2 triệu khối bùn, các nhà khảo sát đưa ra số tiền từ 170-180 tỷ đồng, thế nhưng trong 4 năm vừa qua, Ban Quản lý Hồ Tây chi hết 128 tỷ đồng nhưng tôi không thấy một khối bùn ở đâu cả,” ông Chung buộc miệng tiết lộ.

Tại hội trường, ông Chung đề nghị ông Thắng giải thích cho cử tri quận Tây Hồ biết được chủ trương của thành phố là giao cho Sở Xây Dựng Hà Nội khởi động làm lại tổng thể dự án ở Hồ Tây. (Tr.N)

Phó Tổng biên tập báo Thanh Niên bị thu thẻ nhà báo

Phó Tổng biên tập báo Thanh Niên bị thu thẻ nhà báo

Sản xuất nước mắm

GETTY

Thông tin sai sự thật về nước mắm có thạch tín đã ảnh hưởng đến nước mắm truyền thống

Phó TBT báo Thanh Niên Đặng Việt Hoa bị Bộ Thông tin Truyền thông thu thẻ nhà báo sau khi báo này bị phạt nặng vì “thông tin sai về nước mắm”.

Theo quyết định số 2184/QĐ-BTTTT được Bộ Trưởng Trương Minh Tuấn ký ngày 5/12, ông Đặng Việt Hoa (tên thật là Đặng Ngọc Hoa) bị thu thẻ nhà báo vì đã bị xử lý kỷ luật cảnh cáo.

Nguyên Ủy viên Ban Biên tập, Tổng thư ký tòa soạn Võ Văn Khối cũng bị thu thẻ nhà báo theo quyết định số 2185/QĐ-BTTTT ký cùng ngày.

Ông Khối trước đó đã bị xử lý kỷ luật cách chức.

Báo Thanh Niên hôm 21/11 cùng 49 cơ quan báo chí khác đã bị xử phạt hành chính trong vụ điều tra “các cơ quan báo chí đăng thông tin sai sự thật về việc nước mắm có hàm lượng thạch tín vượt ngưỡng quy định”.

Báo này bị phạt mức cao nhất là 200 triệu đồng.

Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam lúc đó nói Báo Thanh Niên, và sau đó là Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas), vào tháng 10 đã công bố thông tin “mập mờ” về tỷ lệ nhiễm thạch tín trong nước mắm, không giải thích loại nào là độc hại, loại nào là không độc hại.

Từ hai nguồn này, hàng chục cơ quan báo chí Việt Nam đã đăng “170 tin, bài công bố kết quả khảo sát có nội dung sai sự thật từ báo Thanh Niên và Vinastas”.

Báo Thanh Niên trước đó đã đăng lời cáo lỗi và gỡ bỏ 5 bài viết về nước mắm ra khỏi trang mạng của họ.

Đọc báo trong nước

Mỗi ngày 20 tỷ thuốc trừ sâu Trung Quốc: Việt Nam tự đầu độc mình

Trong 5 tháng đầu năm 2016, Việt Nam chi tới 140 triệu USD (hơn 3.080 tỉ đồng) để nhập khẩu TTS Trung Quốc, tính ra mỗi tháng Việt Nam phải chi hơn 616 tỉ đồng, mỗi ngày Việt Nam phải dành ít nhất 20,5 tỉ đồng để nhập TTS của Trung Quốc.

 

Sai phạm hơn 4,4 tỉ đồng, rút kinh nghiệm lãnh đạo trường

TTO – Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Kiên Giang đề nghị kiểm điểm rút kinhnghiệm tập thể đảng ủy và ông Nguyễn Đông Hải – Phó hiệu trưởng Trường Cao đẳng cộng đồng Kiên Giang để xảy ra sai phạm trên 4,43 tỉ đồng.

Lời bình : Chỉ duy nhất xảy ra ở Việt Nam.

VIẾT CHO NHỮNG BẠN CỪU.

From Facebook Hằng Lê
VIẾT CHO NHỮNG BẠN CỪU.

Những bạn Cừu thân mến! các bạn là những người luôn luôn tự hào về Đất Nước và con Người VN. Chính vì vậy, hôm nay tôi viết (à không, tôi trích dẫn những bài báo của Đảng) nói về sự kiện đã xảy ra trên khắp Đất Nước này và những con Cừu như chúng ta bị đảng “vặt lông” như thế nào, để các bạn biết mà tự hào thêm nhé.
Hiện tại, mỗi người dân chúng ta đang chịu 432 loại thuế, phí các kiểu. (nhiều nhất so với Thế Giới)

http://thanhnien.vn/…/432-loai-phi-de-doanh-nghiep-nguoi-da…

Các bạn đừng nghĩ rằng “tôi có nộp thuế bao giờ đâu”. Không! Nhà nước họ đã tính thuế vào hết các sản phẩm mà bạn tiêu dùng. Thay vì 1 chiếc ô tô ta nhập về có giá 100 triệu, nhưng bạn phải mua với giá 300 triệu vì nhà nước đã đã lấy thêm 200 triệu tiền thuế phí của bạn. Để chứng minh điều này, hiện nay ta đổ 1 lít xăng với giá là 17 ngàn thì ta đã đóng các loại thuế phí hết 8.800đ (hơn 1 nửa). Thực chất mỗi lít xăng chỉ có giá 8.200đ mà thôi.

http://motthegioi.vn/…/moi-lit-xang-nguoi-dan-phai-cong-880…

Các bạn Cừu thân mến! Chúng ta nộp thuế là để xây dựng và phát triển Đất Nước. Nếu 1 Đất Nước phát triển thật sự thì:
– Người nghèo giảm dần
– Học phí giảm dần
– Viện phí giảm dần
– Các khoản đóng góp của người dân giảm dần. v.v…..
Đất Nước chúng ta rõ ràng là đang đi thụt lùi, vì các khoản kia nó không giảm mà lại càng tăng. Vậy số tiền thuế chúng ta đóng hằng ngày, nó đi đâu?
Ngoài việc vô trách nhiệm gây thất thoát, thua lỗ hàng trăm ngàn tỷ đồng ngân sách. Các đảng viên CS cao cấp còn lấy tiền thuế mồ hôi nước mắt của chúng ta chơi ngông mua nhà cho bồ nhí (Dương Chí Dũng bỏ ra hơn chục tỷ mua 2 căn hộ cao cấp cho bồ). Trịnh Xuân Thanh chỉ đạo công ty PVC trích 500 triệu ra mua quà sinh nhật cho cha mình. Huyền Như bỏ ra 43 tỷ mua nhà cho Mẹ. v.v….
Các đảng viên cấp cao, họ là người chuyên lên giọng rao giảng đạo đức, họ bắt chúng ta phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức của ông Hồ. Nhưng chính bọn họ thay nhau ăn cướp tiền thuế mồ hôi pha lẫn nước mắt của chúng ta. Từ Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng, Phạm Công Danh, Vũ Đình Duy, Trịnh Xuân Thanh V.v…..Có ông nào không là đảng viên cấp cao? Có ông nào ăn ít hơn 1000 tỷ?
Chúng nó thay nhau đục khoét đến khi ngân khố trống rổng rồi lại hè nhau tăng thuế phí để bù vào. Tháng này, viện phí lại tăng từ 2 đến 7 lần. (có nghĩa là trước kia ta mua 1 viên thuốc 10k, thì hôm nay ta phải trả từ 20k đến 70k)

http://tuoitre.vn/…/vien-phi-dich-vu-benh-vien-…/991510.html

Vậy đấy! Bọn chúng thay nhau (hết đời cha, tiếp đời con) ra sức vặt lông các bạn, còn các bạn thì ra sức tự hào!

TỰ HÀO NHỈ!

P/s: Các bạn đừng nhìn bên ngoài như: Đường rộng hơn ngày xưa, Cầu nhiều hơn, Trường học- Bệnh viện khang trang hơn…. mà khẳng định Đất Nước ta phát triển nghe. Xin thưa! Các bạn hãy xem “Rừng vàng, Biển bạc” của ta còn không? Tài nguyên Quốc Gia còn không? Đất rừng, đất Thành Phố ta đã bán cho TQ bao nhiêu? Nợ công hiện nay ta gánh bao nhiêu….. Đấy! Hãy nhìn vào đấy mà so sánh.

(Ngo Truong An)

Image may contain: food

Nhiều bệnh tật tại Việt Nam sẽ không có thuốc chữa

Nhiều bệnh tật tại Việt Nam sẽ không có thuốc chữa

Nguoi-viet.com

Thuốc vẫn dễ mua như… kẹo và theo sau đó là vấn nạn càng ngày càng lớn với sức khỏe của cả công đồng. (Hình: Phụ Nữ Sài Gòn)

VIỆT NAM – Ngoài các loại bệnh tật do đói nghèo, thiếu vệ sinh, môi trường ô nhiễm, vì quản lý, điều hành tồi, sức khỏe của dân chúng Việt Nam còn bị đe dọa bởi nguy cơ bệnh tật không thuốc chữa.

Hai tổ chức quốc tế là Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) và Tổ Chức Lương Thực-Nông Nghiệp Quốc Tế (FAO) vừa cảnh báo về nguy cơ bệnh tật của dân chúng Việt Nam sẽ không có thuốc chữa.

Vào lúc này, tại Việt Nam, số lượng vi khuẩn gây bệnh có khả năng đề kháng với các loại thuốc kháng sinh càng ngày càng nhiều. Thậm chí có những loại vi khuẩn đã biến đổi gien và có thể đề kháng với tất cả loại kháng sinh hiện có! Nói cách khác, nguy cơ dân chúng Việt Nam có thể mất mạng vì những chứng bệnh bình thường nhưng không có thuốc chữa càng ngày càng lớn.

Nguyên nhân chính dẫn tới thực trạng vừa kể và mức độ trầm trọng của thực trạng này càng ngày càng lớn là vì việc quản lý dược phẩm quá tồi. Ai cũng có thể mua kháng sinh, không bị hạn chế cả về loại lẫn lượng.

Sau khi thực hiện một cuộc khảo sát trên toàn quốc, Bộ Y Tế Việt Nam thú nhận, tại nông thôn, khoảng 91% dân chúng tự mua các loại kháng sinh để tự chữa bệnh cho mình. Tỉ lệ này tại các đô thị là 88%. Tổng lượng kháng sinh được mua bán tại Việt Nam đã tăng gấp đôi so với năm 2009.

Ðáng nói là việc dùng kháng sinh không đúng cách, lạm dụng kháng sinh khiến các loại vi khuẩn lờn thuốc không chỉ phổ biến trong dân chúng mà còn trở thành trào lưu trong nhân viên y tế. Ðể nâng cao uy tín, danh tiếng về khả năng khám bệnh-chữa bệnh, nhận thêm hoa hồng từ các hãng dược phẩm, nhiều bác sĩ phóng tay kê toa cho bệnh nhân dùng đủ loại kháng sinh.

Vấn nạn bệnh tật không thuốc chữa vốn đã trầm trọng vì quản lý thị trường dược phẩm tồi đã trở thành nghiêm trọng hơn do quản lý nông nghiệp tồi. Không kiểm soát, mặc kệ nông dân tùy nghi sử dụng các loại thuốc kích thích tăng trưởng và kháng sinh trong trồng trọt, chăn nuôi đã giúp vi khuẩn làm quen với kháng sinh tồn đọng trên thực phẩm, tăng khả năng kháng kháng sinh.

Do số lượng vi khuẩn kháng kháng sinh ngày càng nhiều, việc khám bệnh-chữa bệnh tại Việt Nam ngày càng kém hiệu quả, chi phí điều trị ngày càng lớn. Chi phí dành cho dược phẩm chiếm khoảng 50% thì trong đó có tới 33% là chi cho kháng sinh.

Mãi tới gần đây, giới hữu trách ở Việt Nam mới tính đến chuyện kiểm soát việc mua bán – sử dụng kháng sinh. Một số bệnh viện bắt đầu xem xét toa thuốc của các bác sĩ, nhắc nhở họ phải thận trọng trong việc kê toa. Tuy nhiên, chỉ chừng đó thì rõ ràng chưa đủ. Còn kiểm soát chặt chẽ việc kinh doanh cả dược phẩm lẫn sử dụng các loại thuốc kích thích, kháng sinh trong nông nghiệp thì không dễ dàng, nó liên quan đến lợi ích của nhiều giới, kể cả giới hữu trách. (G.Ð)