Các đồng chí con người mới XHCN đang xử nhau

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Kông Kông

54 quan chức ra tòa vụ giải cứu

Đại dịch covid-19 là thảm họa chung của nhân loại. Ở Ý, số người hy sinh mạng sống của chính họ để cứu bệnh nhân covid, theo tỷ lệ dân số, là nhiều nhất. Thế giới kính phục.

Cũng đại nạn covid, không một nước nào có quan chức cầm quyền lợi dụng đại họa của nước họ để trục lợi khủng khiếp như Việt Nam. Nói cách khác là cán bộ đảng viên tận dụng mọi cơ hội dịch bệnh để làm giàu, bất chấp đồng bào đang chết, đang thất nghiệp, đang bị cùng quẫn ngặt nghèo khắp nơi trên thế giới nên đành cam chịu mọi giá để được về quê hương!

Phiên tòa xử án 54 bị cáo Chuyến Bay Giải Cứu đang xảy ra. Sắp tới sẽ là vụ Que xét nghiệm covid Việt – Á, số bị cáo nhiều gấp đôi, 107!

Số bị cáo cả hai vụ án lẽ ra phải nhiều hơn nữa, vì có nhiều lãnh đạo trực tiếp của các bộ ngành liên quan, nếu không là đồng phạm thì chí ít cũng là nhân chứng. Như bộ trưởng, phó thủ tướng kể cả chủ tịch nước, đặc biệt là thủ tướng đương nhiệm. Trên tất cả là đảng trưởng đảng cộng sản Việt Nam, vì đảng lãnh đạo toàn diện!

Lãnh đạo toàn diện mà không dám đứng ra nhận trách nhiệm, không xin lỗi toàn dân thì có tư cách gì để lãnh đạo đất nước?

Ở các nước dân chủ việc ràng buộc pháp lý trong công tác là đương nhiên. Khi thuộc cấp vi phạm, lãnh đạo trực tiếp phải chịu trách nhiệm. Tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng phải từ chức, chuyện rất bình thường.

Còn ở Việt Nam đảng sắp xếp “xin thôi chức vụ” để hạ cánh an toàn. Như chủ tịch nước, hai phó thủ tướng, còn thủ tướng, người từng ban đủ thứ lệnh lạc, chệch choạc, chồng chéo trong giai đoạn đó lại vô can?

Tính từ ngày chiếm được miền Nam, số quan chức hiện đang bị xử đều khá trẻ, là nhân viên của 9 bộ gồm ngoại giao, y tế, công an, quốc phòng, giao thông vận tải, giáo dục…. Với vụ Việt – Á, sắp bị xét xử, cũng thế. Tất cả họ đều là thành phần nòng cốt, được đào tạo bài bản theo chiến lược “trồng người” để có Con Người Mới XHCN. “Thành quả” đó đang diễn ra đầy chất bi hài ở các phiên tòa.

Thế nhưng báo chí nhà nước đang ra sức định hướng tội ác của các bị cáo đều thuộc về “cá nhân tự diễn biến, tự chuyển hóa” thay vì là lỗi hệ thống, lỗi của chính chế độ XHCN!

Phiên tòa lại vô tình chứng minh như thế. Các bị cáo cộm cán chối tội rất khôi hài, ngu ngốc làm bao nhiêu sách vở tuyên truyền “đảng ta là đỉnh cao trí tuệ của loài người” bỗng chốc thành rác rưởi. Càng hơn thế nữa, tòa này trái ngược với tòa xử “phản động”, vì họ cùng là đồng chí, cùng đắp một chăn nên biết rận của nhau. Tự nó xác nhận mô hình hoang tưởng XHCN.

Phiên tòa còn dài. Vở kịch “đốt lò” sẽ còn nhiều kịch tính cho dù được dàn dựng rất công phu của đạo diễn lú lẫn. “Ta đánh ta” có làm dịu bớt được căm phẫn? Có giúp xã hội xả được phần nào stress? Thật khó có câu trả lời.

Sự thật là cả hệ thống lợi dụng tai ương của đất nước, kinh doanh trên xác thân đồng bào, thế giới đều rõ. Vậy đảng có biết nhục Quốc thể hay không?

Nếu biết nhục Quốc thể thì đảng đã không tổ chức bắt cóc người tại Đức, tại Thái Lan hay tại Cambodia, là câu trả lời!

Còn việc các đồng chí con người mới XHCN đang xử nhau, đang bày ra trước mắt mọi người, liệu có đánh thức được toàn dân sau cơn mê dài bị lường gạt mà cái giá phải trả là hàng triệu người chết oan khuất hay không, thì chưa thể biết câu trả lời!

(15/7/2023)

Kông Kông


 

U mê đầu tư vào quá khứ, rẻ rúng tương lai!

Báo Tiếng Dân

Mạc Văn Trang

15-7-2023

Không biết trên thế giới có nước nào như nước ta không? Một nước nhân danh “cộng sản vô thần”, nhưng thờ thánh, thần, ma, quỷ ở khắp mọi nơi. Đặc biệt là dồn bao nhiêu nguồn lực đầu tư vào quá khứ, trong khi rẻ rúng đầu tư cho tương lai. Tạm liệt kê vài dẫn chứng.

  1. ĐUA NHAU XÂY MỒ TO MẢ LỚN

Thời phong kiến chỉ mộ vua chúa mới được xây dựng nguy nga, nhưng vẫn chừng mực và coi trọng tinh hoa văn hoá. Các quan lại, nhà giàu cũng không được phép xây lăng mộ như vua chúa.

Ở các nước văn minh, từ thế kỷ XX, vua chúa, các nhà lãnh đạo đất nước, không còn xây dựng những lăng mộ đồ sộ, khoa trương tốn kém.

Ở nước ta thì ngược lại, từ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI mới càng đua nhau xây lăng mộ hoành tráng.

Không làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta cố tình xây lăng thật to, ướp xác Ông cụ rồi một đội ngũ mấy nghìn người phục vụ không biết sẽ kéo dài đến bao giờ, gây tốn kém, lãng phí vô cùng tận. Hoàn toàn trái với di nguyện của Ông Cụ.

Ông Chủ tịch Trần Đại Quang chưa chết đã chuẩn bị từ đường hoành tráng, lăng mộ mấy hecta đất nông nghiệp.

Ông Đại tướng Phùng Quang Thanh cũng không kém, sống đã bị dân khinh, chết còn làm mộ rõ to.

Nhiều lắm, các ông quan từ trung ương đến, tỉnh, huyện, xã, ông nào có quyền, có tiền cũng xây từ đường to đùng bằng gỗ quý, xây lăng mộ hoành tráng.

Quan nêu gương xấu, nên dân cũng ùa theo, thi nhau xây mồ to, mả lớn, biến các nghĩa địa ở làng quê nghèo mà như các “thành phố âm phủ” nguy nga, tráng lệ… Có người lúc sống, bo bo không có mà ăn, chết đói; nay con thành quan lớn, đại gia, xây cho cái mả thật oách, có rồng chầu, hổ phục như vua.

  1. XÂY ĐỀN CHÙA RÕ HOÀNH TRÁNG

Đất nước ta có truyền thống Phật giáo phát triển tốt đẹp từ thời Lý – Trần, trải qua các triều đại hơn 1.000 năm, chưa bao giờ lắm sư, nhiều chùa như dưới triều đại “cộng sản vô thần”. Mà càng về sau các đền, chùa càng thi đua xây đồ sộ hơn, cầu kỳ hơn như các cung điện của các hoàng đế. Ngó qua các chùa Tam chúc, Bái Đính, Ba Vàng… thấy sợ ghê. Nhìn các chùa trang hoàng loè loẹt, ngó đội ngũ sư trùng trùng điệp hành đạo theo phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Xã hội chủ nghĩa” thì đâu còn thấy truyền thống ngàn năm Phật giáo chân tu của dân tộc!

Mấy ông sư làm gì ra tiền mà xây chùa to, tượng lớn, đến cái Mõ cũng lớn vô địch; sư làm gì ra tiền mà xe hơi xịn, sống vương giả? Tất cả là từ nguồn lực “xã hội hoá” mà ra.

Một chuyện lộ ra mới biết nguồn lực từ dân đầu tư cho sư lớn cỡ nào. Đó là Sư Thích Thanh Toàn hơn 40 tuổi, chục năm trụ trì chùa Nga Hoàng ở xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc – ngôi chùa của một xã vùng quê xa xôi mà đã xây được 800m2 chùa, đúc chuông lớn, tượng to. Ông ta còn sống phè phỡn quen thói, nên “gạ tình” một nữ phóng viên, bị tố cáo và xin xả giới, hoàn tục. Và “Sư Toàn xin giữ tài sản 200-300 tỷ đồng, nói giờ ‘lấy vợ thoải mái” (Tiền Phong).

Có ai kinh doanh giỏi hơn ông sư này? Có nhà giáo, bác sĩ tâm huyết nào về một xã vận động được dân đóng góp xây được trường lớp, bệnh viện như ông sư này xây chùa? Không những thế ông còn tích lũy tài sản riêng có 200-300 tỷ đồng? Tiền của ở đâu ra? Dân ta đầu tư đó. Dân đầu tư vào y tế, giáo dục thì khó, nhưng đầu tư cho chùa, cho sư thì “máu” lắm!

  1. LỄ HỘI THẬT LINH ĐÌNH

Có đền to, chùa lớn thì phải tổ chức lễ hội thật linh đình, lễ vật phải “vô địch” mới xứng tầm! Có đền được dâng lễ hai con trâu mộng, hai con lợn tạ thui vàng, nguyên con; vua Hùng cũng phải “trợn mắt” khi được dâng lễ cái bánh chưng, bánh dày nặng hàng tấn! Lễ hội “đông vui” kinh hoàng như cướp lộc ở lễ hội đền Thánh Gióng; chen nhau “bẹp ruột” tranh ấn ở đền Trần; chỉ cần gõ vào Google “hàng vạn người đổ về chùa”… sẽ lập tức xuất hiện ra… chùa Hương, chùa Tam chúc, chùa Bái Đính, chùa Ba Vàng… Kinh nhất là “5 vạn người đổ về chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam…” một ngày.

Ảnh chụp màn hình

Mà nên nhớ, “Việt Nam mỗi năm có hơn 8 ngàn lễ hội – Vietnamnet”, trung bình 22 lễ hội mỗi ngày.

Lễ hội kèm theo lễ vật, đốt vàng mã, nghe mà kinh hoàng: “Người Việt chi gần 5.800 tỷ đồng mua vàng mã để đốt mỗi năm” (VOV.vn)

Biết bao nhiêu nhân lực, tài lực, vật lực “đầu tư” vào những lễ hội?

  1. TƯỢNG ĐÀI và “PHỤC DỰNG” VÔ TỘI VẠ

Điều này, bao năm nay nhiều người đã lên tiếng gay gắt, nhưng với cái chính quyền lì lợm này thì tất cả như “nước đổ đầu vịt”, “đàn gảy tai trâu” mà thôi! Tôi xin nêu ra 10 bài báo trong số hàng ngàn, vạn bài về vấn đề này để bà con thấy rõ.

– “TP Hà Nội sẽ chi 1.800 tỷ đồng thực hiện dự án phục dựng điện Kính” (1).

– “Hà Nội dự kiến có dự án 1.000 tỷ bảo tồn phục dựng hào, hệ thống thủy văn tại Khu di tích Cổ Loa. Chuyên gia cho rằng hệ thống này trước đây có cả bến thuyền thời An Dương Vương” (2).

– “UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đề xuất đầu tư dự án công viên tượng đài, nhà lưu niệm Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu với tổng mức đầu tư hơn 440 tỷ đồng” (3).

– “Đề xuất dựng tượng đài Quốc Tổ Hùng Vương cao 51m ở Đà Lạt” (4).

– “Sơn La lên tiếng về quảng trường, tượng đài Bác 1.400 tỷ đồng” (5).

– “Cà Mau: Trên 179 tỷ đồng xây dựng cụm Tượng đài kỷ niệm Chuyến tàu tập kết ra Bắc và công trình kết nối”(6)

-“Thanh Hóa: Tượng đài con tàu tập kết gần 255 tỷ, bao giờ sẽ hoàn thành?” (7).

– “Thanh Hóa xây công viên, tượng đài hơn 125 tỷ đồng” tưởng niệm 64 giáo viên và học sinh đã hy sinh khi bảo vệ đê sông Mã năm 1972” (8).

– Ninh Bình: “Tượng đài 1.500 tỷ chưa hoàn thành đã xuống cấp là do thời tiết?” (9).

– “Những tượng đài tiền tỷ vừa hoàn thành đã xuống cấp” (10).

Tôi không hiểu, Hà Nội phục dựng những cái đó để làm gì, trong khi thiếu bao nhiêu nhà trẻ, trường học?

Vũng Tàu chi 440 tỷ dựng tượng thì Võ Thị Sáu có anh hùng hơn nữa không và nhà lưu niệm thì trưng bày những tác phẩm, di vật gì của Võ Thị Sáu?

Vua Hùng liên quan đến đất Đà Lạt như thế nào mà dựng Cụ cao 51m ở đây?

Sơn La thì ông Chủ tịch từng nói rồi: Không có tượng Bác thì Sơn La thiệt thòi. Vậy tỉnh nào chả “thiệt thòi”(!).

Tài nhất là Cà Mau gọi, Thanh Hoá đáp ngay! Cái bến đi và đến của cán bộ miền Nam kết thì mỗi nơi làm một tấm Bia lớn, khắc trên đó những thông tin quan trọng là đủ. Hai nơi xây hai bảo tàng mấy trăm tỷ, rồi trưng bày những gì trong đó, ai xem? Xem gì?

64 giáo viên và học sinh hy sinh thì dựng tấm bia khắc tên từng người để tưởng nhớ là đủ, sao Thanh Hoá phải dựng tượng đài cao 18m nữa? Cứ một tập thể hy sinh trong chiến tranh lại dựng một cụm tượng đài thì cả nước đầy những tượng đài người chết.

Nhưng bài báo số 10 mới cho ta nỗi kinh hãi. Vì sao? Vì tất cả các lăng mộ, đền chùa, các tượng đài, các công trình “phục dựng” với kiểu làm ăn chộp giật, bớt xén, làm bừa, làm ẩu “hoàn thành kịp nhiệm kỳ”, thì mọi công trình ấy đều xuống cấp rất nhanh; có nhiều công trình chưa hoàn thành đã “xuống cấp” rồi. Vậy là đã “đẻ” ra thì cứ phải “nuôi” mãi như nuôi các “con nghiện”; không lẽ những “công trình văn hoá- lịch sử” đã thuyết minh bao nhiêu ý nghĩa, nay lại đập bỏ? Không được, phải “bảo dưỡng” hàng năm, rồi phải “tôn tạo”, “trùng tu”, làm khổ đến đời con, đời cháu chắt… Đảng “muôn năm” cơ mà, vậy phải bảo tồn, tôn tạo tất cả những gì đẻ ra dưới thời của Đảng đến “muôn năm” nhé! Biết bao nguồn lực đổ vào đó, kinh chửa?

  1. TƯƠNG LAI THÌ BỎ ĐÓI

Biết bao nhiêu nguồn lực đầu tư vào những người đã chết, những thứ hoài niệm về lịch sử mà ngày nay có thể tái tạo bằng hình ảnh công nghệ thì cứ phải “phục dựng” tại hiện trường, mà lẽ ra những nguồn lực ấy có thể đầu tư cho tương lai. Tương lai đang thiếu đói, khao khát.

– “Thiếu trường mầm non cho con công nhân trong khu công nghiệp” (Lao động): “TP Hải Phòng hiện có hơn 150.000 công nhân, lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn. Cùng với nhu cầu nhà ở, việc tìm nơi gửi trẻ của công nhân lao động là vấn đề bức thiết”, …

– “Đà Nẵng thiếu khoảng 28.000 nhà ở xã hội cho công nhân” (VCT News); các khu công nghiệp khác còn trầm trọng hơn.

– “33.000 học sinh Hà Nội trượt công lập và bài toán ‘ai cũng được học hành” (VietNamNet)…

– Hà Nội “Nhà ở xã hội, giấc mơ người nghèo khó chạm tới” (Dân Trí)…

– “Nhà ở xã hội giá rẻ ở TP.HCM: Không thể tin ước mơ an cư thành sự thật” (VTC News)…

– “Quá tải bệnh viện, nhiều năm vẫn là vấn đề cấp bách” (Lao động)…

– “Bộ Y tế: Giá giường bệnh theo yêu cầu tối đa 4 triệu đồng một đêm” (Tuổi trẻ)…

– Còn bao nhiêu nhu cầu đầu tư cho tương lai, như sân chơi, bể bơi của trẻ em; thư viện, câu lạc bộ phát triển năng khiếu của trẻ; những đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, văn hoá, nghệ thuật của thanh thiếu niên… Tất cả đều cần các nguồn lực từ Nhà nước từ các nguồn lực xã hội. Nhưng tất cả đều như cạn kiệt trước sự áp đảo của đầu tư vào quá khứ.

TÓM LẠI, bao giờ nước ta, dân ta mới bớt u mê bớt đầu tư cho những cái tào lao, để chắt chịu các nguồn lực đầu tư cho tương lai, cho đất nước phát triển bền vững. (Lạy các bố đừng luôn mồm nói “phát triển nhanh và bền vững”!). Cứ thế này thì người ta vẫn coi “Việt Nam là nước không chịu phát triển” theo tiêu chí của một nước văn minh.

_____

Chú tích:

(1) https://laodong.vn/…/ha-noi-se-chi-1800-ti-phuc-dung…

(2) https://thanhnien.vn/hon-nghin-ti-dung-lai-he-thong-thuy…

(3) https://thanhnien.vn/dau-tu-cong-vien-tuong-dai-nha-luu…

(4) https://tuoitre.vn/de-xuat-dung-tuong-dai-quoc-to-hung…

(5) http://tuoitre.vn/son-la-len-tieng-ve-1400-ti-dong-xay-quang-truong-tuong-dai-bac-789234.htm

(6) https://www.sggp.org.vn/ca-mau-tren-179-ty-dong-xay-dung…

(7) https://baoxaydung.com.vn/thanh-hoa-tuong-dai-con-tau-tap…

(8) https://vnexpress.net/thanh-hoa-xay-cong-vien-tuong-dai…

(9) https://www.nguoiduatin.vn/tuong-dai-1500-ti-chua-hoan…

(10) https://docs.google.com/…/1UaW…/edit…

Nghĩ vụn từ phiên tòa giải cứu!

Báo Tiếng Dân

Lê Huyền Ái Mỹ

15-7-2023

Xem, nghe đám quan lại ngạo nghễ giải cứu bữa giờ, tự hỏi, không biết “những điều trông thấy” kia có khiến cho văn nhân, thi nhân nước nhà một chút “đau đớn lòng” nào không mà cảm tác, lên tiếng.

Gần trăm năm trước, một “Tắt đèn” đã soi xuống tận cùng một số phận chị Dậu phải bán con bán chó cho lão Nghị Quế để lấy 2 đồng nộp sưu. Nay một đám đại sứ, cục lãnh sự, thứ trưởng… sẵn sàng ăn chia trên thân phận người cùng đường, kẻ cùng khổ, bòn mót, vơ vét bạc triệu với cả gái bán hoa, người tù mãn hạn…; hiện thực nào đáng “phê phán” hơn? Xưa, chị Dậu quẩn quanh trong làng; nay chị Dâu, chị Dầu, anh Mẹo, anh Dần đã ra khỏi lũy tre làng, bôn ba xứ người nhưng cái đám quan lại thì vẫn cứ là Nghị Quế, quan cụ, cụ “cố”, cai lệ…

Những “thư ký thời đại” đang ở đâu, họ có đang mở trừng mắt mà nhìn thẳng vào cái hiện thực phơi trần trong từng lời khai mạch lạc, giọt nước mắt “trong sáng”, lời thú nhận ngô nghê; hay họ ngoảnh mặt quay lưng, che mắt, bịt tai mà say sưa ngợi ca những niềm tin bất diệt?

Những cuộc thi, những trại sáng tác, những đợt tập huấn… để nâng chất cho người nghệ sĩ sáng tạo, liệu có đặt một chuyên đề về bộ mặt hiện thực xã hội đang nhức nhối kia không? Để rồi nghiệm thu và công diễn cho công chúng – có khi là nhân chứng trong bức tranh hiện thực “giải cứu” đầy ngạo nghễ kia thưởng thức? Để rồi những tác phẩm đại diện cho tiếng nói nhân dân ấy sẽ được vinh thăng, như một hồi chuông cảnh tỉnh hệ thống quan chức cán bộ các cấp.

Hay vinh quang chỉ thuộc về ngợi ca, chiến thắng và điển hình người tốt việc tốt? Còn “tấm gương” soi chiếu sự băng hoại nhân tính con người – cán bộ là lời tố cáo, là lời cảnh tỉnh, là sự công phá lẽ nào lại không đáng để cổ xúy, tôn vinh?

Đến đây, tôi mường tượng hình ảnh nhà thơ Đoàn Phú Tứ đang mở trừng đôi mắt “đăm đăm nhìn cốc rượu vang đỏ như máu đầy tràn…”, ông nhìn thẳng vào mặt tay đại tá Trần Dụ Châu mà đọc “câu thơ hay nhất mà tôi vừa chợt nghĩ ra”. Đó là “Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy hôm nay, được dọn bằng xương máu của chiến sĩ!” (trích theo ghi chép của Phùng Quán).

Tôi cũng nhìn thấy “bữa tiệc” của phiên tòa “chuyến bay giải cứu” mấy hôm nay được “thết” từ nước mắt cùng khổ, sợ hãi của dân tôi, của máu mủ đồng bào tôi.

Có 2000 tù nhân người Việt Nam mãn hạn tù ở Malaysia, bị làm tiền

Chau Trieu 

Trong vụ án bay ” giải cứu”, lòi ra một vấn đề buồn mà ít người để ý và phân tích: có 2000 tù nhân người Việt Nam mãn hạn tù ở Malaysia, bị làm tiền mới được ngồi trên “chuyến bay giải cứu” không đồng.

Tại phiên toà sơ thẩm xét xử vụ án “chuyến bay giải cứu” vào ngày 14 tháng 7 năm 2023, ông Trần Việt Thái, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng sản tại Malaysia khai rằng, 1,891 công dân Việt Nam chấp hành xong án phạt tù được đưa về nước trên 8 chuyến bay “giải cứu” vào mùa dịch đã bị làm tiền. Những người này gồm, thuỷ thủ đánh bắt cá trộm trên biển, người lao động trái phép, các cô gái làm nghề “nhạy cảm”. Theo ông Thái, từ đầu tháng 1 năm 2021, Malaysia ban bố tình trạng khẩn cấp, yêu cầu các sứ quán phải đưa người nước mình đã mãn hạn tù đang trong các trại về nước.

Sau khi khảo sát, ông Thái ra lệnh thu tiền của mỗi người mãn hạn tù là 20.3 triệu đồng đối với người có sổ thông hành, còn người không có sổ thông hành là 25 triệu đồng, còn người ở đảo xa, cần mua vé phi cơ về thủ đô Kuala Lumpur phải nộp 30 triệu đến 35 triệu đồng. Sau khi nộp tiền, những người này mới được ngồi trên “chuyến bay giải cứu giá không đồng” để về nước. Riêng đối với khoản tiền cấp sổ thông hành, ông Thái và đồng bọn đã thu của mỗi người dân 4.6 triệu đồng.

Ông Thái khai, bản thân và cấp dưới đã thu được 44.6 tỷ đồng của 1,891 người dân mãn hạn tù. Chi phí tổ chức cho họ về nước chỉ mất 33 tỷ đồng, ngoài ra, nhóm ông Thái còn thu thêm một khoản tiền khác gọi là “dự phòng khi có tình huống cẩn cấp”, và sau đó nhóm ông Thái chia chác luôn khoản tiền này. Được biết, trong thời gian xảy ra “chuyến bay giải cứu”, nhiều người “được giải cứu” đã lâm vào cảnh khốn khổ, bần cùng nhưng lại bị nhóm quan chức Cộng sản lợi dụng để kiếm chác.

Nhiều người lên tiếng tố cáo thì bị công an Cộng sản chụp mũ là “phản động”, là nghe theo các thế lực thù địch nước ngoài!

CƯỜI RA NƯỚC MẮT!

Oanh Vy Lý

Nhìn lũ hút máu lúc dân đang cạn kiệt sức sống, đúng lúc cần sự giúp đỡ đùm bọc nhất trong vụ Việt Á và Chuyến Bay Giải Cứu, các bạn nghĩ gì, cảm thấy gì?

Người trong hệ thống có thể sẽ uốn éo câu chữ mà cho rằng ở đâu mà chẳng có tham nhũng. Nhưng đợt dịch cả thế giới phải chịu vừa qua, có quốc gia nào mà cán bộ trong chính quyền lại tranh thủ hút máu, ăn thịt cơ thể Dân vốn đang ốm yếu một cách tàn nhẫn, bất nhân, đầy lưu manh, man rợ, cạn tình người như vậy không?

Trong bài này, tôi sẽ không viết bằng văn phong ưa thích là châm biếm, chế giễu lũ cán bộ mặc áo sọc nữa, bởi nhiều DLV sẽ tranh thủ bảo tôi là “thế lực thù địch”.

Tôi muốn nhìn sâu và bản chất vấn đề.

Lý do tại sao các cán bộ áo sọc, hay sẽ mặc áo sọc ấy khốn nạn và đốn mạt đến vậy là bởi mặt bằng đạo đức của các cán bộ trong bộ máy quá thấp.

Đa phần họ không có lý tưởng phục vụ đất nước, họ chỉ ăn học và vươn lên để kiếm lợi cho bản thân. Chính vì vậy mà khi cả núi tiền chồng chồng lớp lớp xuất hiện trước mặt, máu tham của họ nổi lên và họ quên mất điều cơ bản của văn hoá Việt Nam là “lá lành đùm lá rách”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ máng”.

Với tư cách là một người dân, tôi thấy hiện thực cán bộ thật vô vọng, thật cay đắng và vô cùng đáng lo ngại. Lũ cán bộ áo sọc đứng trước toà kia chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

Tưởng tượng xem, với lòng tham như thế, với sự táng tận lương tâm như thế vào trong những hoàn cảnh thuận lợi cho sự ăn đớp kín đáo thì bao nhiêu người dân sẽ bị “ăn thịt” và “hút máu”?

Hôm nay tôi thấy Huệ Như đưa clip một gia đình ở Hà Nội đang kêu gào vì bị mất nhà bởi một số kẻ giả mạo số liệu. Những đứa trẻ cầm biểu ngữ kêu oan, tố cáo sự việc. Tôi không bàn tới đúng sai của sự việc nhưng tôi tin họ có cơ sở và cũng bởi tôi không tin ở đạo đức cán bộ thời nay.

Với tình trạng đạo đức cán bộ như vậy thì liệu bao dân oan mất đất ở các tỉnh có đáng được chúng ta quan tâm, cảm thông và xót xa thay cho họ không?

Ta là dân, ta thích thú gì với lũ cán bộ áo sọc phải đứng trước vành móng ngựa kia cơ chứ? Bởi một điều rằng, chúng chẳng qua là những đồng chí không may bị lộ mà thôi. Vậy các “đồng chí chưa lộ, mãi không bị lộ” thì sẽ còn gây bao tội ác nữa? Bao dân oan sẽ rơi vào cảnh khốn cùng nữa?

Đừng chụp mũ tôi là phản động với thế lực thù địch, tôi chỉ nêu ra một lo lắng có cơ sở mà thôi. Chính các vị, những người nằm trong hệ thống mới cần xấu hổ và suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề này.

Chúng ta tạo ra một xã hội quá xấu xí cho con cháu của mình.

Rồi đây chúng sẽ phải ngụp lặn trong bầu không khí ô nhiễm, bẩn thỉu, một xã hội mà lương tâm con người bị rẻ rúng, tiếng nói trung thực bị vùi dập, quyền lực áp chế, đè bẹp công lý, tâm hồn con người sẽ bị tha hoá, bị nơm nớp lo sợ khi phải sống đúng thực là con người.

Tiền bạc là phù du, đến rồi đi, cuộc đời cũng vậy nhưng nhân phẩm của các vị nếu có mới có thể ngẩng mặt dạy con cái mình được.

Tôi sợ rằng cả khu rừng tưởng là xanh kia, thực ra toàn là củi dự bị, cây xanh tưởng là xanh nhưng gỗ mục ruỗng, năm trước còn phơi phới đứng trên sân khấu nhận bằng khen, huân chương lao động, năm sau hưởng cảnh cơm tù áo số, rồi ngậm ngùi vì kiểu “tự diễn biến” quái gở của mình.

Cáo trạng của VKS có nói tội các đồng chí ấy nặng, khiến các thế lực thù địch nói xấu chính quyền. Xin thưa, chẳng có thế lực thù địch nào tô vẽ xấu xa thêm cái gì cả đâu. Phản ánh đúng, nói đúng sự việc thì câu chữ đã đủ ngập ngụa bẩn thỉu, đang ghê tởm rồi.

Các vị hãy ngẫm đi, khẩu hiệu do dân, vì dân làm được đến đâu.

Bao nhiêu người chết oan trong vụ dịch? Ở đây tôi không phủ định sạch trơn, tôi biết ơn bao cán bộ y tế đã vô cùng vất vả chống dịch nhưng tôi cũng tức giận bởi cái phương cách chống dịch phản khoa học, thô bạo, duy ý chí và lợi dụng để kiếm lợi.

Một xã hội có trở nên tốt đẹp hay không, cũng giống như một cơ thể có khoẻ mạnh được hay không là nhờ ở việc nhìn thẳng vào yếu kém, nhìn được vi trùng là loại gì, dùng thuốc gì.

Đừng đổ tội cho thế lực nào nói xấu, bôi nhọ các vị. Sự việc thật sự đáng kinh tởm và đáng lo ngại. Những tiếng nói trung thực, thẳng thắn thực ra là đóng góp rất tốt cho xã hội. Nếu thiếu những tiếng nói ấy, cả xã hội sẽ chìm đắm trong một mớ bùng nhùng nhơn nhớt của giả dối và bất lương.

Người dân có thể cười nhưng nước mắt của họ đắng ngắt và âm thầm chảy bên trong đấy.

FB. CHAU DOAN

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Côn Minh

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

12/07/2023

Chừng hai mươi năm trước, tôi hân hạnh được Đại Tá Phạm Văn Liễu gửi cho mấy tập hồi ký (Trả Ta Sông Núi) cùng lời yêu cầu viết một bài giới thiệu về tác phẩm của ông. Tôi thưa lại rằng mình rất vinh dự khi được nhờ cậy. Tuy nhiên, theo công tâm, tôi sẽ góp đôi lời về những trang sách mà tác giả đề cập đến những nhân vật quá cố (Ngô Đình Diệm & Hoàng Cơ Minh) với quá nhiều hằn học.

Ông không đồng ý như thế nên chút duyên nợ, về chữ nghĩa, giữa chúng tôi đã không có cơ thành tựu. Từ đó đến nay – thỉnh thoảng – tôi vẫn được đọc thêm những cuốn hồi ký khác, của nhiều nhân vật khác.

Phần lớn những người Việt Nam đi làm cách mạng, hồi đầu thế kỷ trước, đều có lúc phải sang Trung Hoa lánh nạn. Họ thường đi qua ngả Vân Nam vì địa danh này giáp giới với miền Bắc nước mình.

Phạm Văn Liễu cũng thế. Là một đảng viên Việt Quốc ông đã phải lưu lạc đến Côn Minh (thủ phủ của Vân Nam) khi còn là một thanh niên, ở tuổi đôi mươi. Ông kể lại rằng khi đang bơ vơ nơi đất lạ quê người thì may mắn được một phú gia người Hoa cho tá túc. Không những thế (và có lẽ vì cảm cái khí phách và nhân cách của chàng trai nước Việt) ông còn được vị ái nữ xinh đẹp, cùng cả gia đình, của vị đại gia này đem lòng thương mến.

Thiệt là quá đã!

Nếu tôi mà rơi vào hoàn cảnh tương tự thì cuộc đời cách mạng, tới đây, là … kể như rồi. Bôn ba làm chi, cho má nó khi. Làm rể người giầu – bất kể Tây/Tầu – là cơ hội hiếm, và (rất) không nên bỏ lỡ.

Quan điểm nhân sinh (nhỏ hẹp) của tôi, tất nhiên, cũng không được Phạm Văn Liễu đồng tình. Vì nghĩa lớn nên ông từ chối một cuộc sống ấm êm – bên cạnh mỹ nhân – và lại khoác áo lên đường, để lại biết bao là luyến thương (cùng sầu muộn) trong lòng người ở lại.

Tôi vốn hay thương vay khóc mướn nên cứ áy náy hoài về mối tình (dang dở) của vị tiểu thư Trung Hoa, và có cảm tình mãi với vùng đất mà cô sinh trưởng. Vì vậy nên ngay sau khi cầm được cái visa sang Tầu là tôi mua vé bay ngay đến Côn Minh.

Phi cơ hạ cánh giữa mưa. Nhìn núi đồi nhấp nhô và mờ nhạt xa xa khiến tôi cứ ngỡ như mình vừa đáp xuống phi trường Liên Khương, vào một chiều mưa nào đó (tưởng chừng) như vẫn chưa xa xôi lắm.

Cũng như Đà Lạt, Côn Minh ở độ cao hai ngàn mét nên khí hậu rất dịu dàng. Cây cỏ xanh tươi, đất trời mát rượi. Xa lộ dẫn vào thành phố khá tân kỳ. Đường rộng thênh thang. Hoa lá được chăm sóc kỹ càng, tử tế.

Tôi đã đặt phòng với giá rẻ nhất, chưa tới mười Mỹ Kim, bao luôn ăn sáng. Phòng ngủ chung nhưng nhà trọ vắng khách nên chỉ có mình tôi với mấy cái giường đôi, ngó trống trải thấy mà ái ngại.

Sau một giấc ngủ dài, tôi đeo máy ảnh đi loanh quanh khi trời chiều còn sáng. Đường phố rộng rãi, được phân làn rõ ràng và trật tự. Côn Minh không thiếu ô tô, và có nét đặc thù là rất nhiều xe hai bánh điện (e-bike) cùng không ít xe đạp.

Tranh cổ động dán ở khắp nơi. Dù không đọc được tiếng Hoa nhưng tôi cũng đoán được nội dung rất “lành mạnh” qua sắc mầu tươi vui, và những nét vẽ đơn sơ mộc mạc: giữ vệ sinh chung, nhường nhịn người già, chăm sóc cây cảnh …

Điều đáng nói là Côn Minh không chỉ làm đẹp bằng tranh cổ động. Du khách còn có thể thấy được “thiện chí” của thành phố này qua những con phố không bụi rác, và những nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ (miễn phí) dù không dễ tìm.

Tuy nhiên, chỉ cần rời bỏ đại lộ với những cao ốc chọc trời và rẽ ngang vào bất cứ một con đường ngang nào khác là sẽ có ngay một Côn Minh khác. Nhà cửa cũ kỹ, mái ngói rêu phong, cái nghèo có thể nhìn thấy được qua những cánh cửa mở toang (giường tủ, bàn ghế bừa bộn, tuềnh toàng và qua những khuôn mặt buồn phiền, cam chịu.

Tua tủa hai bên những con đường nhỏ là những ngõ hẻm sâu, vừa chỉ vừa lọt một chiếc xe đạp hay hai người đi bộ trái chiều. Cái gì chứ cảnh nghèo ở Á Châu thì tôi nhìn thấy hoài mà (ở Miên, ở Miến, ở Lào đều như vậy tuốt) nên không có hứng thú tiếp tục lần dò tiếp vào những ngõ ngách khai khai, tôi tối, và âm ẩm của Côn Minh.

Trở ra đường lớn thì không thiếu hàng quán tấp nập nhưng tôi không có thói quen ăn tiệm mình ên nên mua một phần cơm chỉ hai món (đậu đũa xào và thịt heo kho trứng) hết mười lăm nhân dân tệ, cỡ hai MK, và một chai rượu nhỏ cùng giá. Về lại nhà trọ, tôi ngồi nhai trệu trạo vì bụng không thấy đói và rượu thì quá dở: đã nhạt phèo mà lại còn có vị hơi ngòn ngọt nữa. Thiệt là vô duyên hết biết luôn!

Tôi không vào được gmailface book, hay youtube. Mấy trang mạng quen thuộc cũng không luôn nên nghĩ rằng có lẽ vì mình thuê chỗ ở quá rẻ tiền nên wifi yếu. Thôi thì đành mua rượu uống nữa, dù là rượu dở, rồi lăn ra ngủ tiếp.

Sáng hôm sau tôi chạy ngay đi nơi khác, vào khách sạn có sao tử tế (Spring City Star Hotel) trên một con lộ lớn: No.636 Beijing Road, Panlong District 650051 China / Yunnan / Kunming. Pass word của wifi ghi sẵn luôn trong thang máy. Thiệt là văn minh chưa từng thấy. Nhận phòng xong là tôi mở labtop liền.

Tưởng sao?

Cũng y như hôm qua thôi. No Gmail, no face book, no youtube … , dù những hình ảnh quảng cáo khách sạn hay vé máy bay (Agoda, Travelgenio, Jetcost, Expedia, Cheapoair …) vẫn xuất hiện đều đều, và thử bấm chơi thì đều chạy vo vo.

Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra rằng (thôi chết mẹ rồi) mình đang ở trong đất Tầu. Côn Minh đâu phải là Vientiane, Phnom Penh, Yangon, hay Bangkok. Đây là thủ phủ của một tỉnh thuộc Trung Hoa Lục Địa, và bưng bít thông tin vốn là “chủ trương xuyên suốt” của mọi đảng CS mà. Thảo nào mà những người trẻ, ở nơi này, chả thấy mấy ai chăm chăm cầm cái smart phone như nhiều nơi khác!

Tự nhiên lại chợt nhớ đến Lưu Hiểu Ba, và câu nói lạc quan của ông khi còn tại thế: “Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc. Nó là công cụ tốt nhất cho nhân dân Trung Quốc đang mơ ước vất đi sự nô lệ và đạt đến tự do.”

Có lẽ vì món quà này quí báu quá nên Đảng CS Trung Hoa phải nhất định giằng lại” bằng mọi giá, kể cả cái giá là sự ngu dân để Nhà Nước dễ bề cai trị.

Thôi thì tạm quên Lưu Hiểu Ba, quên internet, và lại tiếp tục đi lòng vòng phố xá cho rộng tầm con mắt. Mắt tôi đụng toàn chữ Hán, đủ kích cỡ khác nhau nhưng đều đỏ rực như nhau – ngoại trừ tên mấy cái ngân hàng và khách sạn: China Construction Bank, Fudian Bank, Holiday Inn City Centre, Howard Johnson City of Flower Hotel …

Đi gần muốn rã cẳng luôn tôi mới chợt thấy một cái bảng hiệu tiếng Anh (Travel Agency) mà mừng muốn rơi nước mắt. Ôi Trời, tha hương ngộ cố tri!

Tôi cần một hướng dẫn viên, cần thuê một cái xe hơi, hay ít ra thì cũng phải mướn được một cái e-bike (cùng với bản đồ thành phố) để thăm thú Côn Minh cho biết sự tình. Chớ cứ lết bộ hoài, và xung quanh thì toàn là chữ Tầu không (chả hiểu cái con bà gì ráo trọi) thì chịu đời sao thấu?

Tôi hăm hở mở cửa bước vào văn phòng du lịch, với nụ cười tươi tắn, và một câu tiếng Anh thông dụng. Người đối diện đáp lại bằng tiếng Tầu. Tôi quay sang cô nhân viên ngồi kế, lập lại câu nói vừa rồi. Cô này cũng trả lời bằng tiếng Hoa, nghe từa tựa y như cô trước.

Coi như là hết thuốc!

Bây giờ thì tôi hiểu thế nào là một nhà tù lớn. Tuy không có chấn song nhưng kẻ ở bên trong cũng hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. No English, no face book, no youtube, no Gmail … mà tôi thì chỉ có gmail và không dùng điện thoại – bất kể loại nào.

Theo dự tính thì sau Côn Minh là sẽ đến Bắc Kinh (vài bữa, hoặc mươi ngày) nhưng tôi đổi ý. Tôi sẽ trở lại Phnom Penh hay Bangkok vào chuyến bay sớm nhất – khuya nay – với bất cứ giá nào. Côn Minh hay Bắc Kinh thì có khác gì nhau. Cả xứ sở này chỉ là một cái ngục tù bao la, có tên gọi là Trung Hoa Vỹ Đại!

Vụ ‘chuyến bay giải cứu:’ Bị cáo là giới chức Bộ Công An tố ‘còn bỏ lọt tội phạm’

Báo Nguoi-viet

July 14, 2023

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Bị cáo Hoàng Văn Hưng, cựu trưởng Phòng An Ninh, Cơ Quan An Ninh Điều Tra, Bộ Công An Việt Nam, tiếp tục kêu oan và nói vụ án “chuyến bay giải cứu” còn “bỏ lọt tội phạm,” “không chỉ một mà nhiều người.”

Bị cáo Hoàng Văn Hưng và bị cáo Nguyễn Anh Tuấn – cựu thiếu tướng, cựu phó giám đốc Công An Hà Nội – bị tố nhận gần $3 triệu để “chạy án” cho ông Lê Hồng Sơn và bà Nguyễn Thị Thanh Hằng, tổng giám đốc và phó tổng giám đốc Công ty Bầu Trời Xanh (BlueSky).

Bị cáo Hoàng Văn Hưng, cựu trưởng Phòng An Ninh, Cơ Quan An Ninh Điều Tra, Bộ Công An Việt Nam. (Hình: VNExpress)

Theo tường thuật phiên tòa của báo Tuổi Trẻ hôm 14 Tháng Bảy, đứng trước vành móng ngựa, bị cáo Hoàng Văn Hưng nhiều lần lớn giọng khẳng định mình “không nhận tiền như cáo trạng quy kết” và bị “buộc tội mà không có chứng cứ nào.”

“Trong vụ án này bị cáo không có động cơ vụ lợi gì cả. Bị cáo rất buồn nên sẽ trình bày trung thực thôi. Lần nào gặp [Nguyễn Thị Thanh] Hằng cũng là anh [Nguyễn Anh] Tuấn gọi bị cáo sang. Chưa một lần nào bị cáo chủ động gọi anh Tuấn cả,” bị cáo Hưng khai.

Phản hồi về cáo buộc từng nhận một chiếc cặp xách bên trong có $450,000 là tiền hối lộ của bà Nguyễn Thị Thanh Hằng, bị cáo Hưng khẳng định rằng khi mở ra “chỉ có bốn chai rượu vang chứ không có tiền.”

Đáng lưu ý, bị cáo Hoàng Văn Hưng nhấn mạnh: “Bị cáo khẳng định rằng không chỉ buộc tội oan bị cáo mà kết luận điều tra và cáo trạng còn bỏ lọt hành vi phạm tội, không chỉ hành vi của một người mà bỏ lọt hành vi của nhiều người. Trong phần tranh luận, bị cáo sẽ trình bày rõ hơn. Đề nghị Hội Đồng Xét Xử làm rõ mối liên hệ giữa việc buộc tội cho bị cáo và bỏ lọt tội phạm.”

Bị cáo Hoàng Văn Hưng (trái) và bị cáo Nguyễn Anh Tuấn – cựu phó giám đốc Công An Hà Nội – bị tố nhận gần $3 triệu “chạy án.” (Hình: Thanh Niên)

Tại phiên tòa “chuyến bay giải cứu,” bị cáo Hoàng Văn Hưng, cùng với bị cáo Trần Văn Dự, cựu cục phó Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh, là hai bị cáo gây chú ý vì đều là giới chức Bộ Công An.

Trong lúc bị cáo Hưng một mực kêu oan, thì bị cáo Dự được ghi nhận tỏ ra thành khẩn vì “những khoản tiền mình nhận và mình chỉ đạo chia là sai, sai hoàn toàn.”

Bị cáo Dự phân trần rằng 37 năm trong lực lượng công an, những năm trước “rất trong sạch,” nhưng sáu tháng cuối cùng trước khi nghỉ hưu thì “vấy bẩn.”

Bị cáo Trần Văn Dự bị cáo buộc nhận hối lộ 7.6 tỷ đồng ($321,455) từ các doanh nghiệp thực hiện “chuyến bay giải cứu.”(N.H.K) 


 

Tham nhũng dưới chế độ Cộng sản-Trần Trung Đạo

Báo Tiếng Dân

Trần Trung Đạo

13-7-2023

Dưới chế độ Cộng sản (CS) tham nhũng mang tính đảng. Tính đảng là gì?

Tính đảng gắn liền với sự ra đời, lý tưởng và con đường đấu tranh của đảng cộng sản. Đảng cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân – ra đời trên cơ sở kết hợp giữa lý luận (chủ nghĩa xã hội khoa học – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân) và thực tiễn (phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản)”. (Tạp chí Xây Dựng Đảng ngày 22 tháng 8, 2021).

Nói một cách dễ hiểu, tính đảng là những đặc điểm mang tính bản chất gắn liền với sự ra đời, phát triển và mất đi của ý thức hệ Cộng sản mà đại diện là đảng Cộng sản.

“Chuyên chính vô sản”, “nền tảng lý luận và tư tưởng của đảng Cộng sản đặt cơ sở trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử”, “vai trò lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng sản trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội” v.v.. là những tính đảng. Các tính đảng đó cùng tồn tại với đảng Cộng sản và trong lòng cơ chế Cộng sản.

“Tính đảng độc tài chuyên chính” đẻ ra “tính đảng tham nhũng thối nát” và vì thế “tính đảng tham nhũng thối nát” không thể nào bị ngăn chặn hay xóa bỏ khi nào “tính đảng độc tài chuyên chính” còn tồn tại.

000_8ZX9LJ.jpg

Đó là quan hệ nhân quả giữa “chuyên chính” và “tham nhũng”, và quan hệ đó tồn tại suốt chiều dài của đảng Cộng sản.

Câu hỏi thường được đặt ra liệu tham nhũng có thể được ngăn chặn hay xóa bỏ dưới chế độ Cộng sản hay không, câu trả lời đúng theo quy luật xã hội là “không”.

Câu trả lời đó không phải võ đoán mà dựa theo “cơ sở lý luận kinh điển” của hệ tư tưởng Cộng sản và thực tế xã hội tại các nước cựu Cộng sản từ LX cho tới Đông Âu.

Nhìn lại tình trạng tham nhũng tại Liên Xô.

Craig R. Whitney, từng là Chủ Bút của New York Times, khi còn là một phóng viên tại Liên Xô đã mô tả xã hội Liên Xô giống hệt như đang xảy ra tại Việt Nam ngày nay. Ông viết trên New York Times ngày 7 tháng 5, 1978, Liên Xô “là một xã hội tham nhũng tràn lan, nơi các quan chức biển thủ hàng trăm tỷ đôla mỗi năm từ các doanh nghiệp nhà nước và nơi một cảnh sát sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ nếu khoản hối lộ chưa đúng.” (The New York Times, In Soviet, Widespread Practice of Bribery Helps One Get a Car, Get an Apartment and Get Ahead, May 7, 1978).

Lenin xem tham nhũng là kẻ thù số một của chế độ nhưng không diệt được tham nhũng. Nửa thế kỷ sau, Nikita S. Khrushchev cũng thề sống chết với tham nhũng nhưng cuối cùng, một trong những nguyên nhân chính và sâu xa nhất đã nhận chìm chế độ Cộng sản Liên Xô chính là tham nhũng.

Lý do đơn giản. Một khi toàn bộ đời sống đất nước đặt trọn trong tay một nhóm người nắm giữ mọi quyền sinh sát, nhóm người đó sẽ lạm quyền, sẽ tham ô, sẽ tham nhũng, sẽ băng hoại và sẽ thối nát.

Là con người ai chẳng có ít nhiều lòng tham và dễ mềm lòng trước cám dỗ. Tham nhũng xảy ra ở khắp nơi và trong mọi xã hội. Khác chăng, tham nhũng ở các nước dân chủ phát xuất từ lòng tham cá nhân và tham nhũng dưới chế độ Cộng sản phát xuất từ hệ thống.

Cá nhân cựu Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi can tội hối lộ và trốn thuế nhưng nền Cộng Hòa Ý thì không. Cá nhân cựu Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy can tội hối lộ quan tòa nhưng nền Đệ Ngũ Cộng Hòa Pháp thì không.

Ngoài nguyên tắc tam quyền phân lập, kiểm soát và thăng bằng (check and balance) giữa các ngành, sức mạnh của người dân qua các tổ chức xã hội dân sự tại các nước dân chủ đã đóng góp phần quan trọng trong việc trong sạch hóa không ngừng xã hội.

Các nước Cộng sản không có những đặc điểm đó.

Lịch sử cho thấy nếu tham nhũng có thể ngăn chặn được thì Liên Xô đã không sụp đổ năm 1991.

Sau các giai đoạn thanh trừng đẫm máu của Stalin, thời Leonid Brezhnev (1964–1982) là thời kỳ Cộng sản chuyên chính nhất tại LX nhưng đồng thời cũng là thời kỳ tham nhũng phát xuất từ hàng ngũ cán bộ cao cấp diễn ra nhiều nhất.

Để củng cố quyền lực sau khi loại bỏ Nikita Khrushchev, Brezhnev đưa vào trung ương những cán bộ thuộc thành phần thân tín được gọi là “những cán bộ được đề cử” (nomenklatyra) và thành phần này sống đời sống xa hoa giữa một nền kinh tế đang suy thoái trầm trọng.

Tái hiện cuộc sống thời Liên Xô qua triển lãm bảo tàng | Hồ sơ ...

Sau khi Leonid Brezhnev chết (1982), một ủy ban điều tra đã khám phá ra nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Uzbekistan đã thất thoát một ngân sách khổng lồ lên tới 6.5 tỷ đôla theo thời giá 1988 vào tay các lãnh đạo CS trong đó có con rể của Brezhnev.

Khi hung thần Brezhnev còn sống, những cán bộ này được hệ thống quyền lực bao che. Tờ Pravda dưới thời kỳ cởi mở của Gorbachev cho rằng tham nhũng tại LX đã bị cơ chế hóa. (Soviet Uncover Massive Corruption : Billions Lost in Uzbekistan Case Involving Brezhnev Kin, L.A. Times, Jan. 24, 1988).

Trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, nghiên cứu về “tính đảng tham nhũng thối nát” của LX là một quan tâm chuyên môn của các phân tích gia Mỹ. Lý do, chính quyền Mỹ biết tham nhũng là điểm băng hoại mang tính bản chất của chế độ Cộng sản nên đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại Liên Xô, Ba Lan và các nước Cộng sản.

Bản phân tích mật số SOV 8510145X với tựa “The Soviet Anticorruption Campaign: Causes, Consequences, And Prospects” của CIA vào tháng 8, 1985 được bạch hóa năm 2014 cho biết nguồn gốc của phong trào chống đối tại Ba Lan phát xuất từ tình trạng tham nhũng trầm trọng trong hệ thống đảng và nhà nước Cộng sản Ba Lan. (General CIA Records, Publication Date: August 1, 1985).

Đến thời hung thần Yuri Andropov cũng thế. Yuri Andropov, còn được gọi là “đồ tể của Budapest” vì vai trò của y trong vụ đàn áp cuộc nổi dậy tại Hungary 1956, Mùa Xuân Tiệp Khắc 1968 và từng là giám đốc KGB từ 1967 đến 1982, khi lên nắm quyền Tổng Bí Thư đảng Cộng sản LX đã ra lịnh bỏ tù hàng loạt cán bộ các cấp lãnh đạo đảng vì tội tham nhũng.

Andropov chết, Konstantin Chernenko lên thay và cũng tiếp tục chính sách chống tham nhũng của Andropov nhưng cả hai cuối cùng đều thất bại.

Một thước đo được quốc tế công nhận để đo lường các chính sách chống tham nhũng và sự trong sạch của bộ máy công quyền tại một nước là tính minh bạch của chính phủ nước đó.

Minh bạch của chính phủ (Governmental transparency) là gì?

Theo định nghĩa của The Encyclopedia of American Politics, minh bạch của chính phủ (Governmental transparency) là “Công khai, trách nhiệm, và thành thật xác định tính minh bạch của chính phủ. Trong một xã hội tự do, minh bạch là trách nhiệm của chính phủ để chia sẻ thông tin với người dân. Minh bạch là trọng tâm để qua đó người dân quy trách nhiệm cho các viên chức chính quyền.”

Theo định nghĩa đó, ba đặc điểm của minh bạch cần phải có gồm (1) công khai, (2) trách nhiệm và (3) thành thật. Đồng thời, ba hậu quả của không minh bạch trong chính phủ gồm (1) thông tin bị bưng bít, (2) lạm dụng quyền hành và (3) tham nhũng.

Dưới chế độ CSVN hiện nay, nếu chỉ phải trả lời theo lối trắc nghiệm, một người có nhận thức chính trị căn bản nào cũng có thể dễ dàng chọn “không” cho ba đặc điểm và “có” cho ba hậu quả.

Thử lướt qua tính minh bạch tại vài nước Cộng sản điển hình.

Tại Liên Xô. Là lãnh đạo Cộng sản cao cấp nhất của đảng và nhà nước Liên Xô, hơn ai hết, Mikhail Gorbachev biết rất rõ rằng hệ thống Soviet dựa vào tuyên truyền dối trá và nhà tù, hơn 70 năm đã kìm hãm sự phát triển tự do của nhận thức con người, đi ngược lại sự chuyển động tự nhiên của xã hội.

Vào cuối thập niên 1980, văn minh nhân loại đã phát triển đến mức những câu chuyện tuyên truyền hoang đường về một thiên đường Cộng sản đã thành những chuyện cười trong các quán rượu ở Nga, và nhà tù không thể nhốt hết 300 triệu người dân trong 15 nước thuộc liên bang Xô Viết.

Muốn Liên Xô tồn tại, đảng Cộng sản phải thực hiện những thay đổi tận gốc rễ của chế độ và trước hết là minh bạch. Chính từ lý do đó, một trong những trọng điểm của chương trình Glasnost (Cởi mở) mà Gorbachev phát động vào năm 1986 là để gia tăng mức độ minh bạch trong chính phủ.

Gorbachev chủ trương tạo một không khí tranh luận giữa chính phủ và người dân về tất cả các vấn đề của đất nước, và điều này cũng có nghĩa giới hạn quyền kiểm soát của trung ương như đã có trước đây. Nhưng những cố gắng của Gorbachev đến quá trễ và trở thành con dao hai lưỡi, chặt đứt chế độ mà ông ta nỗ lực để cứu vãn.

Từ Đặng Tiểu Bình Đến Tập Cận Bình và Minh Bạch

Học bài học Liên Xô, Đặng Tiểu Bình và các thế hệ lãnh đạo Trung Cộng sau y đã chọn lựa ban cho người dân cơm áo nhưng siết chặt xã hội Trung Quốc bằng một chế độ hà khắc về đời sống tinh thần không khác gì Tần Thủy Hoàng hai ngàn hai trăm năm trước.

Lãnh đạo Trung Cộng ngăn cấm sử dụng internet ngoài giới hạn cho phép. Các mạng thông tin xã hội quen thuộc với phần lớn nhân loại như Facebook, Twitter hay Youtube bị chặn. Mọi đường thông tin ra ngoài Trung Quốc đều do Đề án Lá chắn Vàng (Golden Shield Project) thuộc Bộ An ninh kiểm soát. Để trấn áp dân chúng trong lãnh vực thông tin, Bộ An ninh Trung Cộng tuyển dụng một lực lượng an ninh mạng khoảng 2 triệu nhân viên.

Trong một bài bình luận gởi riêng cho báo New York Times ngày 15 tháng 6, 2015, Bào Đồng (Bao Tong), cựu Trưởng Ban Cải cách Chính trị Trung Ương đảng CSTQ và là Thư ký riêng của cố Thủ tướng Triệu Tử Dương, nhận xét rằng chính sách “làm giàu trước đã” của Đặng đã biến xã hội Trung Quốc thành một xã hội tham nhũng từ địa phương đến trung ương, lãng phí tài nguyên, tàn phá môi trường thiên nhiên và di họa cho các thế hệ mai sau.

Họ Đặng đã làm mọi cách để gia tăng tổng sản lượng bất chấp những tai họa do các chính sách đó gây ra.

Đầu năm 2015, trước áp lực quốc tế và sức phản kháng của người dân như mạch nước ngầm đang chuyển động, Tập Cận Bình lo lắng và tuyên bố sẽ minh bạch hơn trong các chính sách kinh tế, quốc phòng và đẩy mạnh chính sách chống tham nhũng. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, hành động của họ Tập chỉ nhằm mục đích thanh trừng các phần tử chống đối và củng cố quyền lực cá nhân hơn là gia tăng minh bạch trong chính phủ.

Trung Cộng tồn tại được bao lâu hiện đang là một chủ đề được các nhà nghiên cứu kinh tế chính trị tập trung vào. Không ai biết chắc về thời điểm hay cách thức nhưng đều đồng ý Trung Cộng sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Lần nữa, một trong những lý do là không minh bạch trong chính phủ.

Cộng sản Việt Nam và Minh Bạch

Cộng sản Việt Nam, về bên ngoài, đang đối diện với con quái vật Trung Cộng đang ăn tươi nuốt sống từng phần thân thể, và bên trong, là một chế độ toàn trị tồn tại bằng tuyên truyền lừa bịp và nhà tù.

Người dân trong nước có vẻ phấn khởi, vui mừng khi một số cán bộ tham nhũng bị bắt và bị khởi tố. Nhưng một tầng lớp cán bộ tham nhũng vào tù nhưng sẽ có một tầng lớp cán bộ tham nhũng khác lên thay và nếu bị lộ họ sẽ vào tù. Họ có thể nhỏ vài giọt nước mắt cá sấu trước tòa nhưng sẽ mỉm cười chiến thắng lúc một mình. Chính trị dưới chế độ Cộng sản là sòng bạc quyền lực. Nếu phải ở tù vài năm với tiêu chuẩn đảng viên cao cấp mà giấu được nhiều triệu dollar họ vẫn còn lời to.

“Còn đảng còn mình” | Diễn Đàn Hội Luận Phỏng Vấn Hiện Tình Việt Nam

Bản chất giống nhau thì hậu quả không thể khác dù đó là ở LX trước đây hay Trung cộng và Cộng sản VN hiện nay.

Các tính đảng “độc tài chuyên chính” và “tham nhũng thối nát” có quan hệ hữu cơ và do đó sẽ dẫn tới hậu quả giống nhau không tránh khỏi.

Người dân bình thường có lý do để vui mừng vì hút máu dân lành là một trọng tội nhưng đừng quên những kẻ đáng tội hơn không phải Đinh La Thăng, Tất Thành Cang, Chu Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Long v.v.. mà là cơ chế Cộng sản.

Điều đó hiển nhiên đến mức ngay cả cựu TBT đảng Cộng sản Lê Khả Phiêu cũng phải thừa nhận khi phát biểu “Tham nhũng ở nước ta là do cả cơ chế lẫn con người.” (Tìm lại lòng tin đã mất, báo Người Đô Thị, 27 tháng 11, 2014).

Cơ chế chính trị Cộng sản đã bắc thang cho các cán bộ Cộng sản leo lên đài danh vọng và tạo cho họ cơ hội làm giàu trên sự chịu đựng của nhiều triệu dân nghèo, của hàng ngàn học sinh mỗi ngày phải lội sông, lội suối đến trường, của hàng vạn trẻ thơ không áo ấm mùa đông. Nước mắt chảy thành sông trên quê hương Việt Nam giữa tiếng cười của lớp người cai trị suốt gần nửa thế kỷ qua và sẽ chảy cho đến ngày chế độ độc tài sụp đổ.

Tham nhũng tại Việt Nam là một loại cỏ độc ăn sâu trong đất, không thể cắt, không thể nhổ mà phải thay bằng đất mới.


 

Vụ án các chuyến bay giải cứu

Báo Tiếng Dân

Đỗ Duy Ngọc

13-7-2023

Có lẽ trong lịch sử của toà án Việt Nam dưới chế độ Đảng Cộng Sản lãnh đạo, chưa bao giờ có một cuộc xử án mà bị cáo toàn là cán bộ cao cấp đông đúc đến thế. Mà lại là lãnh đạo các ngành quan trọng của đất nước: Công an, ngoại giao, y tế… Một vụ án ai biết chuyện cũng buông ra lời nguyền rủa và tâm trạng thất vọng, mất lòng tin nặng nề.

Trong khi cả nước và đặc biệt là thành phố Sài Gòn bị dính vào cơn đại dịch Covid. Người chết chất chồng trong các xe lạnh, người sống quẫn bách, thiếu lương thực, nhiều nơi phải sống bằng hộp cơm từ thiện, nhiều cuộc chia ly đẫm nước mắt, những người ra đi không được một nén nhang, một vòng hoa đưa tiễn. Và trở về trong hũ cốt.

Cũng trong thời gian đó, nhiều học sinh, sinh viên, người lao động, nhiều người vì hoàn cảnh bị kẹt lại ở xứ người không có phương tiện và điều kiện để trở về với gia đình. Nhà nước liền tổ chức những chuyến bay được gọi tên là những chuyến bay giải cứu để giúp số người này trở lại quê nhà. Ý tưởng quá hay, quá đẹp, quá nhân đạo. Nhưng những người phụ trách, những kẻ quyền chức lợi dụng các chuyến bay đó để hút máu, cắt cổ người dân.

Với quyền lực có sẵn, họ bắt chẹt những người muốn bay về với những số tiền vô lý để chia chác nhau. Họ lợi dụng tình hình để tài sản họ càng nhiều, hầu bao họ càng lớn. Mà họ có thiếu thốn gì đâu, đã ngồi vào các ghế ấy, chẳng có ai nghèo. Tài sản của họ đã là hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn tỷ. Thế mà lòng tham vẫn còn chất ngất, họ liên kết cùng nhau để bóp cổ dân mình.

Không thể tưởng tượng nổi một quan chức là thư ký cho thứ trưởng Y tế 253 lần nhận hối lộ với số tiền lên đến 42,6 tỉ đồng. Liệu y ăn trọn một mình hay chia chác cho ai, đến giờ y vẫn không khai.

Hồ sơ vụ án cho thấy, 54 bị cáo trong vụ án bị đưa ra xét xử với 5 tội danh là: “Đưa hối lộ”, “Nhận hối lộ”, “Môi giới hối lộ”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Trong 54 bị cáo, 21 bị cáo bị truy tố về tội “Nhận hối lộ” và có tới 18 bị cáo bị xét xử theo khoản 4, Điều 354 Bộ luật hình sự với khung hình phạt từ 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; 4 bị cáo bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Qua đó, người ta thấy rõ là quan chức bất kể trường hợp nào, cứ ăn được là ăn, cứ đớp được là đớp, chẳng cần nghĩ đến lương tâm, đến nhân đạo.

Theo cáo trạng truy tố có 25 bị cáo nhận hối lộ gần 165 tỷ đồng. Cũng trong vụ án này, Viện Kiểm sát xác định 23 cá nhân là đại diện các doanh nghiệp đã đưa hối lộ hơn 226 tỷ đồng, 4 cá nhân môi giới hối lộ hơn 74 tỷ đồng và lừa đảo chiếm đoạt số tiền gần 25 tỷ đồng.

Người ta thấy trong hàng ngũ bị cáo có mặt nhiều quan chức cấp cao như Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng và Cục trưởng Cục Lãnh sự Nguyễn Thị Hương Lan, Phó Chủ tịch UBND Hà Nội Chử Xuân Dũng; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Trần Văn Tân…

Ngoài ra còn có Nguyễn Quang Linh, Trợ lý Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; Nguyễn Thanh Hải Vụ trưởng Vụ Quan hệ quốc tế Văn phòng Chính phủ; Nguyễn Tiến Thân, Nguyễn Mai Anh cùng là Chuyên viên Vụ Quan hệ quốc tế Văn phòng Chính phủ; Đỗ Hoàng Tùng, Phó Cục trưởng Cục Lãnh sự; Lê Tuấn Anh, Chánh Văn phòng Cục Lãnh sự; Lưu Tuấn Dũng, Phó Trưởng Phòng Bảo hộ công dân, Cục Lãnh sự; Vũ Hồng Nam, Nguyễn Hồng Hà cùng nguyên cán bộ Bộ Ngoại giao; Lý Tiến Hùng, Chuyên viên Vụ khoa học công nghệ và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo; Vũ Ngọc Minh, nguyên cán bộ Bộ Ngoại giao; Phạm Trung Kiên, chuyên viên Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế, Bộ Y tế; Ngô Quang Tuấn, chuyên viên Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Giao thông vận tải; Vũ Hồng Quang, Phó Trưởng Phòng vận tải hàng không, Cục Hàng không Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải; Trần Văn Dự, Vũ Anh Tuấn, Vũ Sỹ Cường cùng nguyên cán bộ Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an, Bùi Huy Hoàng, Chuyên viên Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế; Phạm Thị Kim Ngân, cán bộ Phòng Trị sự, Tạp chí Thanh tra, Thanh tra Chính phủ; Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Công ty Cổ phần xúc tiến thương mại và Du lịch Việt Nam và Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Phó Giám đốc Công an TP Hà Nội, Hoàng Văn Hưng, nguyên cán bộ Công an…

Ảnh trên mạng

Đồng thời có một loạt cựu cán bộ thuộc Đại sứ quán Việt Nam tại các quốc gia như Angola, Nhật Bản, Nga, Malaysia… có dính líu đến những chuyến bay giải cứu.

Toàn tai to mặt lớn cả. Đáng lẽ với chức quyền như thế, họ có bổn phận và trách nhiệm tìm đủ mọi cách để giúp người dân thuận tiện, ít tốn kém nhất để được trở về như mục đích của chính phủ. Đằng này họ nhẫn tâm siết cổ dân để thu lợi. Hành động đấy gọi là ăn cướp, vô nhân đạo, thiếu tình người khi đồng bào mình gặp cơn hoạn nạn. Con thú còn động lòng trước nỗi đau của đồng loại, họ còn tệ hơn thú vật khi hút máu của người dân trong cơn nguy khốn.

Tuy không đồng tình và ủng hộ việc xử tử hình nhưng trong trường hợp này, nếu bị cáo nào nằm trong khung tử hình thì cũng nên xử án tử một vài người đúng luật và thoả mãn được ý dân. Bởi họ tàn nhẫn quá, vô nhân đạo quá, họ không còn là con người thì không nên để họ tiếp tục được làm người. Số tiền cướp được hàng trăm, hàng ngàn tỷ không quan trọng bằng chuyện làm người lãnh đạo mà vô tâm và tàn ác với đồng bào mình khi mồm luôn cao giọng yêu nước, yêu dân. Có nhiều nhà báo, nhà văn, thầy giáo viết bài, làm thơ ca ngợi chuyến bay giải cứu. Cũng có vị đại sứ viết nguyên cuốn sách ngợi ca. Điều đó đáng ghê tởm hơn con số trăm, ngàn tỷ đồng kia.

Giờ đây, khi chen nhau đứng chật trước vòng móng ngựa. Kẻ thì khóc lóc xin tha, kẻ thì chối không khai đường đi của đồng tiền hốt được, kẻ ngu ngơ bảo lúc nhận tiền không nghĩ là phạm pháp, nghe rất buồn cười. Toàn là một lũ hèn. Khi đang đương chức miệng hét ra lửa, doạ nạt để người ta phải xuỳ tiền ra. Lúc vỡ trận thì tìm đủ cách để nguỵ biện, chối tội, xin tha. Trong danh sách ấy ông bà nào cũng có biệt phủ, biệt thự, có con học Mỹ, học Anh, có vợ thường đi shopping ở các của hàng nổi tiếng ở nước ngoài, bản thân xài tiền như nước. Quả báo nhãn tiền, yêu cầu họ phải trả lại cho các nạn nhân số tiền họ đã bóc lột được, đó mới là đạo lý.

Người dân đang chờ một bản án công minh, những nạn nhân đang đợi những đồng tiền mồ hôi xương máu của mình được trả lại một cách minh bạch. Hãy chờ xem.

Tinh thần trách nhiệm của vị Thống Đốc sau cùng Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

VOA

Ông Thống Đốc đã giữ đúng công tâm của một người công chức của khu vực công và đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tinh thần trách nhiệm) và rất trung thực, và bảo vệ tài sản quốc gia đến cùng không rơi vào tay kẻ cướp mà bàn giao vào tay kẻ có trách nhiệm. (Hình minh hoạ)

Đinh Xuân Quân

Nhân dịp tưởng niệm 49 ngày mất của ông Lê Quang Uyển, cựu Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, chúng tôi xin có bài viết sau đây để nêu lên tinh thần trách nhiệm của một vị công chức cao cấp khi quốc gia lâm vào cơn nguy biến.

Ông Lê Quang Uyển là Thống Đốc cuối cùng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, sinh tháng 9 năm 1937, đã qua đời ngày 26 tháng 1 năm 2018 tại Chiang Mai, Thái Lan, thọ 81 tuổi. Cho đến ngày miền Nam mất vào tay cộng sản năm 1975 trong giới kinh tế tài chính ai cũng biết đến ông Lê Quang Uyển, Thống đốc trẻ tuổi (nhậm chức năm 36 tuổi) của Ngân Hàng Quốc Gia, với những tư duy và hành động đầy trách nhiệm trong vai trò của mình. Trước hết xin phép nhắc đến vài nét tiểu sử của ông, và sau đó tường trình một số hoạt động của ông trong tư cách Thống đốc Ngân hàng Quốc gia.

Sau khi tốt nghiệp HEC (Hautes Etudes Commerciales) tại Paris, một trường danh tiếng về tài chính ngân hàng vào năm 1960, ông Lê Quang Uyển đã về VN phục vụ. Trong một thời gian ngắn ông đã làm cho Ngân hàng Pháp Á (BFA – Banque Francaise de l’Asie). Sau đó ông Lê Quang Uyển cũng như nhiều chuyên viên trẻ khác ở VNCH cũng bị động viên vào quân đội vì lệnh tổng động viên, để chống trả với cuộc xâm nhập của miền Bắc. Ông đã lên đến cấp đại úy.

Sau một thời gian, từ quân đội ông được chuyển sang ngạch “chuyên viên Phủ Tổng thống,” một ngạch công vụ của VNCH dành cho các chuyên viên trẻ, có học thức và nhiều tương lai. Họ được đào tạo để trở thành các lãnh đạo trong tương lai của nghành kinh tế, tài chính, giáo dục, các công ty của chính phủ như nhà đèn, công ty đường, Air VN, vv. Các chuyên viên Phủ Tổng thống sau này có thể được giao những trách nhiệm cao cấp trong ngành hành pháp của VNCH. Ngạch này được thành lập từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm để lôi kéo các chuyên viên giỏi phục vụ cho khu vực công (service public) hay là trong chính phủ VNCH.

Trong cương vị này ông đã tham gia nhiều chuyến đi công cán của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có chuyên viếng thăm Manilla. Vì có nhiều đóng góp tích cực trong ngành tài chính, ông đã được đề nghị vào giữ ghế Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, một chức vụ có trách nhiệm giữ tài sản của VNCH và điều động – kiểm soát hệ thống ngân hàng thương mại của VNCH cùng việc tham gia vào chính sách tiền tệ – giữ tỷ lệ của đồng bạc VN, nhất là trong tình thế chiến tranh. Người ta nhớ nhiều nhất về Thống Đốc Uyển qua những vụ sau đây :

Vụ Tín Nghĩa Ngân hàng (TNNH hay Ngân hàng Con Gà Đẻ Trứng Vàng), một si-căn-đan thời VNCH. Tín Nghĩa Ngân hàng là một trong những ngân hàng có tiếng tại VN, có nhiều chi nhánh tại Sài Gòn, Chợ Lớn và tại các tỉnh. Ngân hàng này có tỷ lệ tín dụng cao và làm ăn phát đạt.

Vì có nhiệm vụ kiểm soát hệ thống ngân hàng thương mại VN, ban thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Quốc gia có trách nhiệm theo dõi các nghiệp vụ cho vay của mọi ngân hàng có mặt tại VN, kể cả các ngân hàng ngoại quốc như CitiBank, BFA, BOA, v.v. Một thanh tra có báo cáo lên Thống Đốc ‘sơ hở’ trong quy trình cho vay tín dụng của Tín Nghĩa Ngân Hàng và việc này đã trở thành “si-căn-đan tài chính” tại VN. Ông chủ tịch Tổng Giám đốc Tín Nghĩa Ngân hàng, một người có nhiều ảnh hưởng trong giới kinh doanh tài chính đã dùng một số người thân tín trong gia đình để vay các tín dụng. Ông quên rằng những việc làm này cũng khó mà qua mắt các thanh tra của Ngân hàng Quốc gia. Các người được hưởng tín dụng của TNNH có tài sản quá thấp làm sao có thể thế chấp để đi vay một số tín dụng khổng lồ của TNNH. Thật ra thì ông Nguyễn Tấn Đời đã sử dụng những người này đứng tên vay tiền để cho cá nhân ông sử dụng các số tiền tín dụng này để đầu tư riêng.

Hồi thời đó tất cả các quy trình cho vay hay tín dụng đều phải làm bằng tay, chưa có tin học hay computer cho nên muốn kiểm tra phải tới tận nơi và xem xét trực tiếp các hồ sơ cho vay (Các sổ sách và tính toán làm bằng tay hay bằng máy NCR). Thống đốc Uyển đã trình Hội đồng Kinh tế Tài chính dưới sự chủ tọa của TT Thiệu và thảo luận với ngành cảnh sát hình sự để giúp Ngân Hàng Quốc Gia điều tra và đánh giá các hồ sơ cho vay của TNNH.

Nhân cơ hội ông Nguyễn Tấn Đời đi nghỉ mát ở Đà Lạt, Thống đốc Lê Quang Uyển đã gởi các thanh tra ngân hàng và cảnh sát hình sự đến làm cuộc điều tra các hồ sơ tín dụng gian lận của TNNH. Các thanh tra với sự yểm trợ của cảnh sát đã chặn các cửa của Tín Nghĩa Ngân Hàng ở bến Chương Dương để không cho một hồ sơ nào có thể thoát ra ngoài. Trụ sở Tín Nghĩa Ngân hàng cùng ở bến Chương Dương, không xa Ngân Hàng Quốc Gia. Qua việc kiểm tra này các thanh tra đã tìm thấy các hồ sơ tín dụng ‘dởm’. Lúc đó ông Nguyễn Tấn Đời là một Tổng Giám Đốc ngân hàng rất mạnh, có nhiều người che chở và việc kiểm tra sổ sách của TNNH là một kỳ công – đã phải được tổ chức như một chiến dịch quân sự.

Qua việc thanh tra và điều tra này của chuyên viên ngân hàng và cảnh sát, ông Nguyễn Tấn Đời đã bị đưa ra tòa. Ông bị tòa tuyên án và phải vào khám Chí Hòa. Trong trường hợp này Thống đốc Lê Quang Uyển đã làm đúng trách nhiệm của NHQG, là thanh tra hệ thống ngân hàng thương mại dưới quyền ông. Qua vụ này ông đã ngăn chặn được các lạm dụng trong ngành tài chính và đã bảo vệ cho các thân chủ gởi tiền tại TNNH.

Giữ tài sản quốc gia – 16 tấn vàng của VN

Trong những ngày chót của VNCH, một trong những vấn đề đặt ra là làm sao giữ tài sản quốc gia? Làm sao giữ 16 tấn vàng cho VN?

Hoa Kỳ muốn VNCH đưa 16 tấn vàng gởi dự trữ tại Ngân hàng Trung ương FED tại New York (một việc làm bình thường vì đa số các nước kể cả NHQG VN đều có trương mục tại ngân hàng FED New York). Sau khi bàn bạc, TĐ Lê Quang Uyển đã quyết định gởi các thoi vàng đi Thụy Sĩ, tại Ngân Hàng Bank for International Settlements – BIS tại Base.

Theo kinh nghiệm thế giới, nhiều chính phủ Âu châu trước đây bị CS xâm chiếm đã gởi dự trữ vàng của họ tại đây để tránh chiến tranh và sau này giữ được tài sản quốc gia. Một kế hoạch đã được đưa ra để chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ và NHQG đã cho mướn một chuyến máy bay để chở vàng này đi Thụy Sĩ.

Trong lúc hỗn loạn của những ngày miền Nam sắp mất, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và máy bay được mướn chở vàng đi Basel – Thụy Sĩ đã không thể đáp xuống TSN và kế hoạch gởi vàng qua Thụy Sĩ không thành.

Vào các ngày chót một số nhân viên ngân hàng từ cấp cao đều được cấp Walkie Talkie để dễ liên lạc với nhau hầu bảo vệ tài sản của quốc gia VN. Thống đốc Lê Quang Uyển tử thủ trong NHQG. Khi tiến vào Sài Gòn, quân đội CS đã mang xe tăng dọa bắn phá NHQG. Khi đó Thống Đốc mới cho mở cửa NHQG cho ban quân quản của CS vào.

Khi Cộng sản vào Sài Gòn họ cho phao tin (fake news) là cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng đi nước ngoài trong khi nhiều người không có công trong việc này cũng kể công (nhận vơ) về việc giữ số vàng này. Sự thật ra sao? Báo “Tuổi Trẻ” đã đăng bài sau đây, nói về số vàng tại NHQG :

Bài viết trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau:

“…Những ngày đầu tháng 5-1975, tôi vào trình diện tại Ngân hàng Quốc gia ở 17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác.Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.

Lần kiểm kê cuối cùng. “ … Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt.Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.

Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân hàng Quốc gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.

Đại diện Ban Quân quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt – chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân hàng Quốc gia.

Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân hàng Quốc gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi – Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.

Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.

Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân hàng Quốc gia…”

Tác giả Huỳnh Bửu Sơn cũng liệt kê từng tủ và từng Hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng: 1.234 thoi vàng.”

Việc giữ và bảo tồn tài sản quốc gia, cho thấy là các công chức của NHQG mà đứng đầu là Thống đốc Lê Quang Uyển đã làm việc một cách nghiêm chỉnh, với tinh thần trách nhiệm rất cao. Ông Thống Đốc đã giữ đúng công tâm của một người công chức của khu vực công và đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tinh thần trách nhiệm) và rất trung thực, và bảo vệ tài sản quốc gia đến cùng không rơi vào tay kẻ cướp mà bàn giao vào tay kẻ có trách nhiệm. Thống đốc Lê Quang Uyển là một gương cho thế hệ trẻ – cho tinh thần trách nhiệm của công chức miền Nam.

Việc giúp đào tạo các chuyên gia khối kinh tế tài chính

Một khó khăn của VNCH trong những năm 1970 là thiếu ngân sách và khó tuyển mộ chuyên viên trẻ vì lương thấp. Hơn nữa, cơ quan viện trợ Hoa kỳ USAID đã dần rút các chuyên gia và tài trợ của họ ra khỏi các cơ quan kinh tế, tài chính của VN.

Trong việc quản lý vĩ mô kinh tế, chính phủ thường cho bán một số “công khố phiếu” ra cho công chúng, nợ công chúng để đắp vào thâm hụt ngân sách quốc gia.

Ngân Hàng Quốc Gia cũng tham gia vào các chính sách tiền tệ và cũng mua một số công khố phiều của chính phủ. Tiền lời của công khố phiếu được bỏ vào một quỹ của Ngân Hàng Quốc Gia và của Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, được Thống Đốc Uyển quyết định dùng để trả lương cho nhân viên kinh tế tài chính và chia thưởng cho nhân viên của Ngân Hàng Quốc Gia. Lúc đó VNCH rất thiếu chuyên viên kinh tế ngân hàng và nhờ những biện pháp đó, NHQG đã giúp cho guồng máy kinh tế tài chính làm việc một cách bình thường. Qua việc này, Thống Đốc giúp bồi đắp vào các chỗ hổng trả lương cho chuyên viên mà trước đây cơ quan USAID tài trợ nhưng các ngân khoản viện trợ ngày càng giảm. Nhờ vậy một số chuyên viên trẻ đã được gởi đi làm tại các bộ như Tài Chính, Nha Thuế Vụ hay bộ Kế Hoạch, nói chung mọi nơi trong nghành kinh tế tài chính cần chuyên gia.

Để đầu tư cho hậu chiến, ông cũng có chương trình kéo các chuyên viên tài chính ngân hàng trẻ gia nhập Ngân Hàng Quốc Gia gây dựng nhân sự cho tương lai của ngành ngân hàng VN. Một số được tuyển mộ vào làm trong Văn Phòng Thống Đốc của Ngân Hàng Quốc Gia.

Thống Đốc cũng dùng Quỹ Phát Triển (QPT) Kinh tế Quốc Gia mà ông làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị gởi các chuyên viên của QPT đi giúp các bộ. QPT là một chi nhánh – thành phần của NHQG nhận được vốn của Hoa Kỳ (USAID) và được Trung Hoa Dân Quốc giúp vốn. Ngoài việc tái tài trợ các ngân hàng phát triển VN (Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển Nông nghiệp, SOFIDIV,vv.) Quỹ Phát Triển Kinh tế Quốc Gia có một số chuyên viên trẻ được gởi đi trợ giúp các Bộ Kế Hoạch, bộ Tài Chính qua việc tham gia vào công tác xây dựng Kế Hoạch Phát Triển Hậu chiến, nhất là sau khi ký kết Hiệp Định Paris.

Ngoài việc này, Thống Đốc Lê Quang Uyển cũng cố vấn cho TT Thiệu chọn người trong khối Kinh tế Tài Chính, trong đó ông có giới thiệu TS Nguyễn Văn Hảo làm “Tổng Giám Đốc” Quỹ Phát Triển và sau này trở thành phó Thủ Tướng đặc trách về Kinh tế Tài chính.

Thống Đốc Lê Quang Uyển và tù cải tạo

Ông Lê Quang Uyển, cũng như bao nhiêu nhân viên chính quyền và sĩ quan khác, đã phải đi trình diện cải tạo. Khác với Phó Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia, ông Nguyễn Văn Dõng, cũng tốt nghiệp HEC, ông không trình diện khi CS kêu gọi thành phần nội các ra trình diện (Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia có hàm bộ trưởng). Ông Phó Thống Đốc Nguyễn Văn Dõng đã ra trình diện và được đưa ra trại tù Thanh Cẩm, Thanh Hóa. Tại đây ông Dõng đã ở cùng buồng và nằm ngay bên cạnh một người bạn thân của tác giả bài này. Ông đã qua đời vào khoảng năm 1978 vì thiếu dinh dưỡng.

Ông Lê Quang Uyển đã ra trình diện bên thắng trận với cấp bậc đại úy của quân Lực VNCH. Ông bị đi cải tạo 3 năm. Ông Uyển đã đi Pháp cùng vợ, bà Geneviève LyLap, một công dân Pháp và là nhân viên Tòa Đại sứ Pháp tại Sài Gòn. Trước khi rời đất nước ông được Thường vụ Bộ chính trị Cộng Sản mời ở lại cộng tác với chính quyền Việt Nam, nhưng ông từ chối. Có thể ông đã nhìn thấy khả năng chuyên môn cao và nhân cách là những ưu tiên thấp -có thể rất thấp- trong guồng máy chính quyền cộng sản nên ông đã cương quyết ra đi.

Năm 1981 ông Uyển tham gia làm việc với ngân hàng Banque Indosuez. Ông làm giám đốc chi nhánh tại Saudi Arabia cho đến năm 1990. Sau đó ông đứng đầu “Al BankAl Saudi Al Fransi” (Saudi French Bank), ngân hàng duy nhất của Pháp tại Arập Saoudi với hơn hai ngàn nhân viên. Và ông cũng được phái đi làm cho nhiều chi nhánh của ngân hàng Indosuez tại nhiều nước khác nhau.

Ông Lê Quang Uyển đã về hưu tại Chiang Mai, Thái Lan. Ông là hình ảnh một công chức VNCH có tư cách xứng đáng đại diện cho hình ảnh khu vực công của miền Nam, có tinh thần trách nhiệm rất cao.

Nhân dịp 49 ngày ông qua đời tôi viết bài này để đề cao tinh thần trách nhiệm và tinh thần phục vụ cao độ của một công chức cao cấp VNCH, cựu Thống Đốc Lê Quang Uyển.

TS Đinh Xuân Quân

* TS Đinh Xuân Quân là cựu nhân viên Quỹ Phát Triển trực thuộc NHQG, đồng thời là cựu GS Đại Học Luật Khoa, ban Kinh tế, Đại Học Saigon (khóa 1974-1975). Hiện nay ông là chuyên gia cố vấn kinh tế cho Liên Hiệp Quốc (UNDP+World Bank) và đã tham gia USAID làm việc tại nhiều nước như Afghanistan, Iraq, Indonesia, Liberia, vv. kể cả Việt Nam. (qdinh2@yahoo.com)

Sâu mọt và giòi bọ- Tạ Duy Anh

Sâu mọt và giòi bọ

Tạ Duy Anh

Sáng nay đọc báo mới biết vụ giải cứu mang tên “Ngạo nghễ Việt Nam” đã khiến 54 quan chức phải ra tòa. Tôi nghĩ số người bị tòa lương tâm giày vò (giả định họ còn có lương tâm) cao hơn nhiều. Nhưng kể cả chấp nhận con số 54, cùng với số tiền họ móc từ túi những đồng bào lâm vào cảnh cùng đường (số thực chắc ngạo nghễ hơn nhiều!), cũng đủ thấy ghê rợn.

Họ là ai?

Họ đều là đảng viên, không phải đảng viên làm sao chui được vào những chỗ béo bở như vậy.

Họ hầu hết đều có bằng Lý luận cao cấp chính trị.

Nhiều người trong số đó từng “thành kính và trang nghiêm” sụt sịt thề cống hiến cho dân cho nước.

Họ chắc chắn đều có huân, huy chương, bằng khen, giấy khen các loại.

Nhưng rốt cuộc thì họ là ai?

Họ thua xa bất cứ con giòi bọ nào.

Xin đăng lại bài viết và in báo đã gần 20 năm, nhân sự kiện nói ở trên.

***

Chuyện như đùa nhưng lại là sự thật trăm phần trăm.

Một tờ báo nọ có đăng bài nhàn đàm về tham nhũng của tôi, bằng thứ giọng có phần châm biếm. Sau khi báo ra, Tổng biên tập liền nhận được thư và điện thoại của một vài người, đều giấu tung tích, trước thì dọa nạt, sau nhũn nhặn xin góp ý về những cặp từ cần thay trong bài viết vừa kể.

Cuối cùng thì mọi ý kiến “đóng góp” đều toát lên ý sau đây: Ông tác giả nên cân nhắc để có lời cải chính. Gọi bọn tham nhũng là sâu mọt thì được chứ ví họ như giòi bọ là quá lời! Giòi bọ chuyên rúc ráy những nơi bẩn thỉu, xú uế. Rằng thì dù sao, dù có xấu xa, nhơ bẩn mấy đi nữa thì họ, những kẻ bị chỉ đích danh là tham nhũng ấy vẫn cứ… là người!

Nghe thấy cũng có phần thống thiết, chân thành, đáng thương.

Sâu mọt hay giòi bọ thì cũng cùng đục khoét, ăn bám, phá hoại, làm nhũng nhiễu thân chủ mà thôi. Nhưng sâu mọt nghe không tởm, không bẩn bằng giòi bọ. Tham nhũng mà cũng vẫn còn biết tự ái kia đấy! Nhưng bình tâm để suy xét thì thấy rằng, thực ra lũ giặc nội xâm này cũng có lý khi đòi được đối xử nhẹ tay. Bởi vì:

– Thứ nhất: Chúng là những kẻ đạo mạo, ăn mặc vào loại tươm tất, nhiều kẻ không thiếu những từ văn hoa khi nói với người khác.

– Thứ hai: Tuy tham nhũng nhưng chúng luôn luôn cho mọi người cảm giác đang cống hiến hết mình bao gồm cả sức lực lẫn trí tuệ, lẫn hạnh phúc riêng cho sự nghiệp chung.

– Thứ ba: Chúng toàn chén những thứ thơm tho, béo bổ, quý hiếm… thuộc hàng cao lương mỹ vị, kèm những chai rượu mà đám giàu có châu Âu, châu Úc cũng phải ngần ngại khi nhấc từ trên kệ xuống. Tham nhũng mà phải ăn cơm bụi, cơm bình dân, uống nước vối loãng thì có họa điên!

– Thứ tư: Chúng chỉ gặm, khoét những chỗ mọt mục, những chỗ sơ hở…

– Cuối cùng là chúng không bao giờ làm cho kho công quỹ hết nhẵn mà thường bớt lại cái vỏ rỗng bên ngoài để mọi người cứ yên trí mà cống nạp tiếp!

Với năm đặc tính nổi trội và khác biệt trên, lẽ nào lại ví chúng như giòi bọ, là loại chỉ đục, gặm những xác chết.

Sau khi suy nghĩ, tôi bèn nói với ngài Tổng biên tập là tôi đồng ý với đề nghị của tầng lớp tham nhũng và bài viết nên sửa theo ý tránh từ giòi bọ.

Nào ngờ ý kiến của tôi vừa được nêu ra thì một con ruồi xanh óng ánh như viên minh châu đáp xuống trước mặt, dùng chân chặn ngòi bút, không cho viết tiếp. Tôi hất ra, nó lại xông vào, ghì chặt lấy. Tôi dọa di nát, nó cũng nhất định không buông, tức là chấp nhận chết, kể cả không toàn thây. Lạ nhỉ, dù chết cũng không sợ, thì vấn đề phải kinh hoàng lắm.

Đêm về vừa nằm xuống, tay đặt lên trán nghĩ ngợi, thì tôi rơi vào trạng thái nửa thức nửa ngủ. Đúng lúc ấy con ruồi xanh mẹ xuất hiện. Nó đanh đá mắng tôi xa xả và nói rằng nó không muốn con nó bị ô danh khi bị đem ra ví với bọn tham nhũng. Giòi bọ là giòi bọ chứ không thể “như” tham nhũng được. Giòi bọ dù sao vẫn có ích… chẳng hạn làm sạch môi trường, hoặc có thể dùng làm mồi câu cá… chứ tham nhũng thì chỉ thuần túy phá hoại và bôi bẩn.

Tôi nhớ là trong mơ mình hét lên: Vậy mày nghĩ giúp tao cái tên để gọi bọn tham nhũng! GIÒI BỌ cũng không được, thì biết gọi chúng bằng cái tên gì bây giờ?

L.T.

Nguồn: FB Lao Ta

Mất bao lâu để Việt Nam bắt kịp thế giới?

Oanh Vy Lý

Mất bao lâu để Việt Nam bắt kịp thế giới?

GDP đầu người hiện tại của Việt Nam là $3,600 và mức tăng trưởng là 7%. Vậy mất bao lâu để có thế bắt kịp các nước khác?

– Thái Lan, GDP $7,200. Việt Nam cần 11 năm.

– Malaysia, GDP $11,000. Việt Nam cần 17 năm.

– Hàn Quốc, GDP $31,000. Việt Nam cần 32 năm.

– Đài Loan, GDP $33,000. Việt Nam cần 33 năm.

– Nhật Bản, GDP $39,000. Việt Nam cần 36 năm.

– Pháp, GDP $43,000. Việt Nam cần 37 năm.

– Đức, GDP $50,000. Việt Nam cần 39 năm.

– Mỹ, GDP $69,000. Việt Nam cần 44 năm.

– Singapore, GDP $72,000. Việt Nam cần 45 năm.

– Luxembourg, GDP $135,000. Việt Nam cần 54 năm.

Với điều kiện là các nước khác không tăng trưởng, không phát triển gì thêm và dặm chân tại chỗ. Nếu họ phát triển ở mức 1-3% thì Việt Nam phải mất 100 năm để bắt kịp Hàn Quốc và 200 năm để theo kịp Singapore.

Tất cả số liệu đều công khai trên các tổ chức như Ngân Hàng Thế Giới, IMF và CIA.

Ngày xuất bản bài viết này là 24/12/2022. Mong năm 2023 sẽ khác.

Tổng hợp nhiều nguồn

FB.Peter Nguyenthanh