THÔNG TIN TỪ ĐOÀN ĐÓN TNLT ĐOÀN HUY CHƯƠNG

From facebook: Trần Bang added 3 new photos.
THÔNG TIN TỪ ĐOÀN ĐÓN TNLT ĐOÀN HUY CHƯƠNG

Sau 7 năm tù vì hoạt động công đoàn giúp công nhân, hôm nay 13-2-2017 anh Đoàn Huy Chương được ra tù.

Đoàn đi đón Đoàn Huy Chương xuất phát từ SG đã đến trại tù Xuân Lộc, nhưng khi đến trại CA chỉ cho Tường Mạnh- vợ Huy Chương và Minh Hạnh vào. Tuy nhiên khi hai bạn đó vào đến nơi thì đã có xe đưa Huy Chương về rồi.

Được biết có gần 50 người dự định đi đón Đoàn Huy Chương, nhưng phần lớn đã bị an ninh ngăn chặn tại nhà, do vậy chỉ còn gần 20 người thoát được đi đón.

(Minh Hạnh phải dạt vòm trước 4 ngày, nhiều người thoát được phải dạt dòm trước đó nhiều ngày)

FB Huynh Ngoc Chenh , Hoang Dung

Image may contain: 11 people, people smiling, people standing and outdoor
Image may contain: 9 people, people smiling, people standing and outdoor
Image may contain: 6 people, people standing, sky and outdoor

Công An Hay Côn Đồ??

From facebook:  Trần Bang added 3 new photos.
Công An Hay Côn Đồ??

“Côn đồ” hành hung chị Nguyễn Thị Thái Lai tại Nha Trang

Khoảng 18h45 phút tối 12/02, chị Nguyễn Thị Thái Lai đã bị 04 tên công đồ lao vào hành hung khi chị đang đi ăn cùng một người bạn tại một quán ăn ở phường Vạn Thạnh (Nha Trang – Khánh Hòa) .
Qua điện thoại, chị Lai kể: ” Tôi vừa rời khỏi quán ăn thì 4 người mang thường phục lao vào quật ngã tôi xuống đất. Chúng thay nhau đấm và đá vào đầu và cơ thể tôi. Tôi là phụ nữ nên không thể kháng cự 4 tên thanh niên được và chỉ biết nằm im chịu đòn. Sau một lúc thì tôi ngất đi”.
Khi tỉnh lại thì chị Lai cùng người bạn đến công an phường Vạn Thạnh để trình báo sự việc.

Tuy nhiên, khi đang trình báo tại đây thì chị Lai lại phát hiện những kẻ “côn đồ” vừa hành hung mình đang đi ra – vào trụ sở công an và có trao đổi với những nhân viên mang sắc phục công an. Rồi những tên “côn đồ” đó tiếp tục ra đứng phía ngoài trụ sở công an để đứng đợi chị.

Chị Nguyễn Thị Thái Lan là một trong những người tại Nha Trang đã cùng blogger Mẹ Nấm xuống đường để phản đối đường lưỡi bò tại những nơi có đông du khách Trung Quốc, yêu cầu đóng cửa nhà máy Formosa…

nguồn: AnNAm Dương Lâm
FB Hung Tran, Tấn Nguyễn

Image may contain: text
Image may contain: 1 person, eyeglasses, closeup and indoor
Image may contain: 1 person, standing and sunglasses

Vĩnh biệt loa phường!

Vĩnh biệt loa phường!

Tạp ghi Huy Phương

Nguoi-viet.com

(Hình minh họa: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Quảng Trị là một thành phố nhỏ miền Trung, giáp ranh với sông Bến Hải. Những năm dạy học ở đó, tôi thường đến thăm gia đình một người bạn đồng nghiệp mà ngôi nhà người bạn tôi thuê ở sát bên nhà máy phát điện, cung cấp điện lực cho cả nguyên thành phố nhỏ này. Tiếng động cơ nhà máy đèn ầm ì suốt ngày đêm, ở nhà bạn tôi, nhiều lúc nói chuyện với nhau, chúng tôi phải lớn tiếng người đối diện may ra mới nghe. Tôi không thể nào tưởng tượng ra vì sao gia đình người bạn tôi có thể sống, làm việc và ăn ngủ trong cái tiếng động ồn ào triền miên, mà không phải riêng ngôi nhà của bạn tôi, mà cả khu xóm này cùng phải chịu đựng chung một tình trạng như thế?

Khi nói đến tiếng động quanh năm của cái nhà máy đèn, bạn tôi chỉ mỉm cười nói nhỏ nhẹ: “Hồi mới ra đây, kiếm nhà thuê không có, mà ngày khai giảng đã gần kề, nên đành thuê đại cho có chỗ ở. Mới đầu cũng khó chịu, lâu rồi cũng quen đi!”

Cái gì lâu rồi cũng quen đi! Chúng ta thử tưởng tượng, như nhà chúng ta ở gần phi trường thường có máy bay lên xuống, hay nhà nằm cạnh đường xe lửa, mỗi đêm ngày thường có những chuyến tàu qua cùng với tiếng máy tàu sình sịch và tiếng còi tàu thét lên trong đêm. Nhưng ở đây, tiếng nhà máy đèn lại vang lên đều đặn, có khi lại dễ ru giấc ngủ chăng? Cũng như mọi thứ xẩy ra đều đặn, lâu rồi cũng quen đi!

Dễ thường, nếu bất chợt nhà máy đèn tắt tiếng, người bạn tôi chắc thức giấc và trăn trở không ngủ lại được.

Tôi nghĩ đến chiếc loa tuyên truyền oang oang đầu xóm, bám víu theo số kiếp con người phải chịu dưới chế độ Cộng Sản từ suốt hơn 70 năm nay, từ ngày những đôi dép râu vào Hà Nội, đến nay đã đến lúc cáo chung, có lẽ toàn dân bắt đầu khó ngủ! Từ nay, mỗi sáng, mỗi chiều không còn nghe tiếng loa gào thét nữa. Và cả cái chế độ này nữa, nó đeo đẳng theo số phận hẩm hiu của con người, chịu đựng lâu thành chai đá, sợ một ngày kia nó chết đi, là một sự bất bình thường cho những người đã quen thuộc, chai lỳ với nó chăng? Chỉ vì, như ông Khổng Tử nói: “Ở chung với người bất lương, như vào hàng cá ươn, tuy lâu mà chẳng nghe mùi hôi, vì mình cũng hóa theo nó vậy!”

Lớn lên trong thời Việt Minh, tôi còn nhớ đến cái loa và cái mã tấu. Một thứ để dọa nạt và một thứ để trấn áp! Loa thường ngày nay gắn thành cụm (chùm) mỗi cụm thường có hai đến ba loa, các cụm loa đặt cách nhau từ 400 đến 600 mét. Mỗi xã có từ 12 đến 20 cụm loa, ở các huyện thị trên toàn quốc có trung bình từ 300 đến 400 loa. Cả nước có 698 huyện, nên tổng số loa trong cả nước là 279,000 cái. Theo tài liệu của Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn nêu ra, thì trong cả nước Việt Nam hiện nay có 900,000 cái loa (http://press.anu.edu.au/wp-content/uploads/2013/11/Vietnam.pdf.)

Hệ thống loa tiếp cận dân số hơn 58 triệu người (chiếm 67.1% dân số Việt Nam). Như vậy, cứ hai người dân xã hội chủ nghĩa thì có hơn một người phải chịu cảnh đày đọa tra tấn của cái loa phóng thanh mỗi ngày. Con số loa nêu ở trên còn ít ỏi nếu so với loa thời nay. Xã Tả Phời, thuộc thành phố Lào Cai, theo quy định của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, toàn phố đã lắp đặt 380 cụm loa, với tổng số 900 loa công cộng, chuyển âm thanh từ 85% 2010 lên 90% năm 2014, 100% (theo nghị quyết đại hội chi bộ 2010- 2015). Loa trong XHCN không những sắp đặt san sát, mà năng suất của loa càng ngày càng lớn đủ sức làm cho người dân chảy máu tai.

Vậy mà cũng có người ngậm ngùi tiếc cái loa phường, cho rằng nó loan tin chiến đấu, sản xuất, ngày lãnh lương hưu, báo tin hôm nay bán thịt ở đâu, gạo bán độn hay không độn… Loa phường hiện diện cùng một lúc với bộ đội Việt Cộng khi vào tiếp thu Hà Nội năm 1954. Từ đó một hệ loa tuyên truyền luôn luôn đi theo với hình ảnh nón cối dép râu và là một tai nạn thường trực xẩy ra, trở nên một tai nạn bình thường. Dân Hà Nội khi mô tả về tiếng loa phường dùng những chữ như oang oang, chát chúa, tru tréo, tuy làm những đứa trẻ phải khóc thét lên, những ông cụ già đang nằm trên giường bệnh phải thở gấp, nhưng những con chó sinh ra và lớn lên trong cái âm thanh bệnh hoạn ấy không còn phản ứng gì nữa.

Đối với những xã hội văn minh khác, như miền Nam trước đây, không phải không có loa, nhưng cái loa gắn trên chiếc xe thông tin chạy quanh thành phố báo một tin tức gì quan trọng cho dân chúng, rồi trở về nằm trong chỗ ở của nó. Không như cái loa phường, nó được gắn cố định trên đầu trên cổ nhân dân, gào thét mỗi ngày những chỉ thị, những chiến công, hay hồ hởi loan tin những xe gạo, miếng thịt về phường. Cái loa hạ xuống rồi, nhưng chắc những ông bà cụ đã sống trong cái xã hội này không quên được âm thanh của nó, không thích nó nhưng hãy còn nhớ đến nó.

Quả là ghê gớm, nói như miệng lưỡi tuyên huấn, loa phường đã hoàn thành “sứ mệnh lịch sử” của nó! Chúng ta cũng đừng lấy làm lạ nếu nay mai chính phủ này trao cho loa phường một “huân chương lao động” hay “huân chương kháng chiến” hạng nhất, hay đôi khi là thứ “huân chương dũng cảm” vì suốt đời đã chịu mưa chịu nắng đến rỉ sét, nghe tiếng chửi rủa của thiên hạ trong bao nhiêu năm qua, mà vẫn trơ mặt ra đó mỗi ngày.

Rồi đây, sau khi đã “hoàn thành sứ mệnh lịch sử,” 900,000 chiếc loa phường sẽ được hạ xuống, vứt lăn lóc trong kho hay đem bán ve chai. Trong “nỗi tiếc thương” đó, chúng ta ngậm ngùi nghĩ đến số phận của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã xếp xó vào ngày 31 Tháng Giêng, 1976. Phải chi đảng Cộng Sản Việt Nam giờ đây cũng tuyên bố đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, mà tắt thở thì dân tộc này vui biết mấy!

Dư âm của một cái Tết sum vầy

Dư âm của một cái Tết sum vầy

Tưởng năng Tiến
2017-02-09

Một nông dân đem cành đào lên Hà Nội bán hôm 23/1/2017.

Một nông dân đem cành đào lên Hà Nội bán hôm 23/1/2017.

AFP photo
Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe chút điều tiếng về cung cách làm việc của những tiếp viên hàng không Việt Nam. Đầu năm 2015, từ Phnom Penh tôi sang Singapore bằng phi cơ của Vietnam Airlines. Cuối năm rồi, tôi cũng mua vé của hãng này để bay từ Phnom Penh đến Vientianne.

Trong cả hai chuyến đi trên, các cháu nam nữ tiếp viên đều ứng xử rất đàng hoàng, không có để phải phàn nàn cả. Duy chỉ có điều hơi kỳ (có lẽ do thời gian sắp xếp giữa hai chuyến bay quá ngắn) là trên ghế ngồi còn vương vãi những mẩu bánh vụn li ti khiến cho – đôi ba – hành khách hơi phải chau mày.

Nhờ sự vội vã của những công nhân lo việc vệ sinh nên tôi vớ được một tờ báo cũ (Báo Lao Động Số Xuân Đinh Dậu, phát hành vào thứ Tư 25 tháng 1, với chủ đề “Ấm Lòng Tết Sum Vầy 2017”) in mầu tuyệt đẹp.  Được nhìn thấy tiếng nước mình, giữa khung cảnh lạ, tôi mới chợt cảm nhận được cái niềm vui “ngộ cố tri” của kẻ tha hương.

Niềm vui đơn sơ này, tiếc thay, tắt ngấm ngay sau khi tôi đọc bài bình luận (“Tết Sum Vầy Và Những Giọt Nước Mắt Hạnh Phúc”) trên trang nhất của nhà báo Đình Chúc:

“Không tin vào mắt mình, cứ ngỡ như mơ, như một câu chuyện cổ tích…”. Và chị bật khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc.Đó là cảm xúc của nữ công nhân Cao Thị Luyện (quê Thanh Hóa) khi bất ngờ được gặp cha mẹ chồng cùng con trai từ Nam Định vào tận mảnh đất Bình Dương – nơi cách xa hơn ngàn cây số.

Càng cảm động hơn khi đây không phải là chuyến thăm viếng bình thường như bao cha mẹ, ông bà xa con cháu khác mà đó là kết quả của sự chăm lo, góp sức của tổ chức Công đoàn, của các nhà hảo tâm trong chương trình “Tết sum vầy” tại Bình Dương.

Ơ hay, thế là thế nào nhỉ? Bà Cao Thị Luyện là một công nhân của nước nước CHXHCNVN (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) chứ có phải tù nhân phát vãng (vào Thời Thực Dân/Phong Kiến) đâu mà việc đoàn tụ với người thân, vào dịp cuối năm, lại nhiêu khê đến thế?

Đã thế, ông Đình Chúc còn viết thêm rằng : Không cảm động sao được khi với nhiều công nhân tiền lương còn không đủ sống. Phiên chợ cuối chiều phải đắn đo nâng lên đặt xuống trước con cá, mớ rau. Đến tiền tàu xe về quê dịp tết còn không lo nổi, nói chi đến quà cáp, tết nhất cho gia đình. Nay được tổ chức Công đoàn lo quà, tặng vé để về quê thì không xúc động sao được…

Đọc báo Lao Động viết về đời sống của giới công nhân Việt Nam hiện nay mà tôi cứ có cảm tưởng như họ là những kẻ thuộc giai cấp cùng đinh (paria – untouchable) ở bên Ấn Độ, vào hồi đầu thế kỷ trước vậy.

Gần sáu mươi năm trước, đời sống của phu đồn điền cao su miền ở miền Nam (“vùng địch tạm chiếm”) cũng không đến nỗi tàn tệ và thảm thương đến thế, theo như tin báo Nhân Dân – số 2534 – phát hành ngày 26 tháng 2 năm 1961:

sumvay3.jpg
Nhà trọ công nhân khu công nghiệp Tân Tạo. Ảnh: N.B/ Tuổi Trẻ Online

 

“Công nhân đồn điền cao su miền Nam đấu tranh thắng lợi … Đây là một đợt đấu tranh lớn bao gồm hàng vạn công nhân và gia đình công nhân thuộc cá đồn điền cao xu Lộc Ninh, Lai Khê, Trảng Bom … Các chủ đồn điền nói trên đã phải nhận giải quyết các yêu sách do anh chị em đề ra như: định lại tiền lương, trả phụ cấp cho nữ công nhân khi sinh đẻ, trả phụ cấp năng xuất, sửa lại nhà ở, lập bệnh xá, lập nơi giải trí cho công nhân, mở trường học và vườn chơi cho trẻ em công nhân, và nhận lại những công nhân đã bị sa thải.

Bây giờ thì tìm đâu cho ra “nhà ở, bệnh xá, trường học, vườn chơi trẻ em, và khu giải trí” cho giới công nhân? Từ Việt Nam, phóng viên Khánh Hoà có bài tường thuật (“Nghiệt Ngã Phận Đời Ngày Làm Công Nhân, Tối Về… Bán Dâm”) trên báo Dân Việt:

“… những công nhân này, ban ngày đi làm, chiều tan ca về thì đàn ông lại xách xe đi chạy xe ôm ở mấy ngã ba, ngã tư hòng kiếm thêm vài chục ngàn đồng.

Ngoài ra, nhiều người phải nhận hàng về nhà làm thêm ban đêm hoặc đi bốc vác, phụ bồi bàn ở các quán ăn, quán cà phê ban đêm với mong muốn kiếm thêm chút đỉnh. Riêng với những công nhân nữ, dù biết là tội lỗi, là nhục nhã nhưng nhiều người vì miếng cơm, manh áo vẫn nhắm mắt đưa chân để làm cái việc nhơ nhuốc là đi bán dâm, như một cứu cánh duy nhất trong cơn cùng quẫn …”

Những cảnh đời “cùng quẫn” như trên, thực ra, không mới mẻ gì. Tôi đã nghe  Nguyễn Chí Thiện nói thế lâu rồi:

Bán trôn rồi lại bán cả mồ hôi
Mà đói rét vẫn quần cho sớm tối!

(“Trên Mảnh Đất” – 1964)

Mãi đến năm 1986 ông TBT Trường Chinh mới chịu thừa nhận nỗi “nhục nhã” và sự “nhơ nhuốc” này:“Phải cứu giai cấp công nhân!”

Trời cũng chả cứu nổi được họ, nếu Tổ Chức Công Đoàn Việt Nam vẫn chỉ là cánh tay nối dài của Đảng – theo nhận xét của Tiến Sĩ Phạm Chí Dũng:

“Không những không hỗ trợ công nhân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lại nối thêm một cánh tay giúp công an ngăn chặn đình công. Trong một số trường hợp, công nhân còn phát hiện chính cán bộ công đoàn làm công tác chỉ điểm để ‘khoanh vùng đối tượng’ và sau đó là bắt bớ tống giam những công nhân khởi xướng đình công.”

sumvay5-400.jpg
Đoàn Huy Chương & Nguyễn Hoàng Quốc Hùng. Ảnh: anhbasam

 

Nhân chuyện báo Lao Động số Xuân, với chủ đề Tết Sum Vầy, xin được ghi lại tên tuổi của vài ba công nhân hiện đang bị cầm tù (hay “dấu kín”) ở một nơi nào đó:

– Đoàn Huy Chương a.k.a. Nguyễn Tấn Hoành: Sinh năm 1985, thành viên sáng lập Tổ Chức Công Đoàn Độc Lập, bị bắt (lần thứ hai) vào ngày 23 tháng 2 năm 2010, và bị kết án bẩy năm tù vì tội “phá rối an ninh nhằm chống lại chính quyền nhân dân.” Hiện ông đang bị giam giữ tại trại  giam Phước Hòa, Huyện Tân Phước, Tỉnh Tiền Giang.

– Nguyễn Hoàng Quốc Hùng: Sinh năm 1981, thành viên của Khối 8406, hội viên của Phong Trào Các Nạn Nhân Của Sự Bất Công. Ngày 27 tháng 10 năm 2010, ông bị TAND tỉnh Trà Vinh kết án chín năm tù, cùng với tội danh với Nguyễn Tấn Hoành, và bị giam giữ trong cùng một trại.

– Lê Trí Tuệ: Sinh năm 1979, thành viên của Khối 8406, Phó Chủ Tịch Công Đoàn Độc Lập Việt Nam. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, ông tuyên bố thành lập Công Đoàn Độc Lập. Ông bị bắt vào ngày 29 tháng 03 năm 2007, bị ép buộc phải lên tiếng công khai giải tán công đoàn này. Lê Trí Tuệ từ chối và bỏ trốn sang Cambodia, sau khi bị đánh đập tàn tệ nhiều lần ngoài đường phố. Ông đột ngột “biến mất” khỏi cõi đời này, kể từ hôm 16 tháng 5 năm 2007 đến nay!

Theo bản tin của HRW, gửi đi vào ngày 4 tháng 5 năm 2009: “Người ta nghĩ rằng công an Việt Nam đã bắt cóc ông Lê Trí Tuệ, một trong những sáng lập viên của Công Đoàn Độc Lập Việt Nam.”

Ông Bùi Văn Cường, Ủy Viên  Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam – tiếc thay – không đủ can đảm để nhắc đến tên tuổi họ trong dịp Tết Sum Vầy vừa qua. Tổ chức Công Đoàn của đảng ông Cường, theo ý của một nhà phản biện độc lập ở Việt Nam là “nên chấm dứt hoạt động đi, nếu còn biết liêm sỉ.”

Ôi, tưởng gì chớ liêm sỉ thì là chuyện vô cùng xa xỉ đối với đám đảng viên CSVN!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Thứ Tư, 02/08/2017

Người dân xã Nhân Thọ xuống đường biểu tình

Người dân xã Nhân Thọ xuống đường biểu tình

 2017-02-11

Người dân xã Nhân Thọ xuống đường biểu tình đòi bồi thường thiệt hại trong vụ Formosa xả thải

Vào khoảng 9 giờ sáng hôm nay 11 tháng 2 năm 2017 bà con giáo dân giáo xứ Nhân Thọ thị xã Ba Đồn, huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình đã kéo nhau xuống quốc lộ biểu tình nhằm tỏ thái độ trước việc nhà nước không chi trả tiền bồi thường thiệt hại do Formosa gây ra.

Chính quyền và công an tại địa phương đã có mặt nhằm giải tỏa những yêu cầu của giáo dân nhưng phía người biểu tình không nhượng bộ và giáo dân vẫn tiếp tục đội mưa bày tỏ quyết tâm của họ.

Đã có hàng chục vụ biểu tình diễn ra trong hai tháng qua khi chính quyền chi trả tiền của Formosa nộp cho chính phủ để bồi thường thiệt hại cho nạn nhân 4 tỉnh miền Trung một cách tùy tiện và rất nhiều hộ tuy thiệt hại trong công việc lẫn sức khỏe nhưng không được chính quyền bồi thường thỏa đáng như lời hứa.

clip_image002

Việt Nam mời ông Trump sang thăm

Việt Nam mời ông Trump sang thăm

RFA

2017-02-12
Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ, Donald Trump

Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ, Donald Trump

AFP photo

Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ là ông Phạm Quang Vinh nói rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đã mời ông Donald Trump, Tổng Thống Mỹ sang thăm Việt Nam nhân Hội nghị các quốc gia châu Á Thái Bình Dương gọi tắt là APEC được tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11 năm nay.

Phát biểu của ông Phạm Quang Vinh được đưa ra vào hôm thứ sáu 10 tháng 2 vừa qua tại một buổi tiếp tân do Đại sứ quán Việt Nam tổ chức tại thủ đô Washington, đón tiếp các nhân vật cố vấn, trợ lý của các ủy ban thuộc lưỡng viện quốc hội Hoa Kỳ.

Cá lại chết tại Hà Tĩnh

 Cá lại chết tại Hà Tĩnh

RFA

2017-02-12

Cá lại chết hàng loạt trên một con sông là sông Quyền ở tĩnh Hà Tĩnh, miền Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Theo những thông tin được truyền đi trên mạng xã hội mà chúng tôi chưa có điều kiện kiểm chứng thì vào chiều 12/2 có khoảng 30 ngư dân mang cá chết đi biểu tình trước ủy ban phường Kỳ Thịnh, thị xã kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Những ngư dân này cho rằng chính công ty gang thép Formosa đóng tại Vũng Áng, Hà Tĩnh đã xả chất độc làm cá bị chết trên sông Quyền.

Nhưng theo trang báo điện tử của tỉnh Hà Tĩnh thì các viên chức địa phương nói rằng nguyên nhân làm cá chết trên sông Quyền có thể là do người dân tháo nước từ trong ruộng lúa ra sông. Trang báo mạng này cũng nói là sông Quyền không chảy ngang qua khu vực nhà máy thép Formosa, và tất cả hệ thống xả nước thải của Formosa không chảy ra sông Quyền.

Xin nhắc lại là nhà máy thép Formosa do người Đài Loan làm chủ đóng tại Vũng Áng, thị xã Hà Tĩnh đã xả nước thải ra biển hồi tháng tư năm ngoái làm cá biển chết hàng loạt tại bốn tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Formosa đã thừa nhận mình là thủ phạm và đồng ý đền bù một món tiền là 500 triệu đô la Mỹ. Đây được xem là một thảm họa môi trường lớn nhất trong lịch sử phát triển kinh tế tại Việt Nam.

Lễ hội miền Bắc Việt Nam: ‘Ôm rách nát trong tâm linh!’

Lễ hội miền Bắc Việt Nam: ‘Ôm rách nát trong tâm linh!’

Nguoi-viet.com

Những phong tục mang tính dân gian trong các lễ hội nay biến thành “văn hóa” mua bán, đổi chác, con người trở nên tham lam và thực dụng hơn. (Hình: Getty Images)

Trên lý thuyết, những thực hành tôn giáo và lễ hội đem đến cho con người sự cân bằng, yên ổn, cứu rỗi trong đời sống tâm linh. Tâm linh lành mạnh giúp con người hướng thượng, ngưỡng vọng những giá trị cao đẹp.

Nhưng những gì mà mùa lễ hội Tháng Giêng hằng năm diễn ra ở miền Bắc Việt Nam hiện nay lại đang cho thấy một thực tế khác.

“Vỡ trận!”

Mặc dù chính quyền ra tay “siết chặt quản lý,” “chấn chỉnh lễ hội”… thì những gì nhốn nháo, lộn xộn, nhếch nhác và nhất là bạo lực vẫn xảy ra ở các lễ hội lớn truyền thống. Chưa nói, ở nhiều địa phương của miền Bắc, còn có cả sự “phát sinh nhân rộng” của những lễ hội “truyền thống mới” để phục vụ “nhu cầu đại chúng ngày càng gia tăng.”

Năm nay, tại lễ hội Chùa Hương, nơi mà thi nhân Nguyễn Nhược Pháp từng có áng thơ “Em đi chùa Hương” (1934) rất trong trẻo, thanh tân, đã xảy ra chuyện cười ra nước mắt: sau đêm khai mạc lễ hội, một vị sư xuất hiện phát lộc, gây nên cảnh chen lấn, giẫm đạp lên nhau để giành lộc nhà chùa.

Còn tại lễ hội Phết Hiền Quan (tỉnh Phú Thọ), tuy được chính quyền “bố trí lực lượng cảnh sát cơ động kiểm soát tình hình” nhưng đến khi tung Phết cầu may vẫn diễn ra ẩu đả, đậm màu bạo lực.

Trên tờ Tuổi Trẻ, ông Bùi Văn Thanh, Chủ tịch xã Hiền Quan, trưởng ban tổ chức lễ hội Phết Hiền Quan năm 2017 giải thích: “Trước khi lễ hội Phết được diễn ra, chúng tôi đã đến các khu dân cư để tuyên truyền với người dân về thể lệ mới và đề nghị mọi người tham gia lễ hội với tinh thần lịch sự có văn hóa và tránh ẩu đả, lợi dụng hội Phết để trả thù cá nhân.Tuy nhiên do lực lượng an ninh quá mỏng và số lượng người đến cướp phết quá lớn nên mong muốn ban đầu của ban tổ chức đã không thể trở thành hiện thực.”

Tại lễ hội Khai ấn đền Trần (Nam Định) tình hình cũng không khá hơn. Theo tường thuật của các báo trong nước, cảnh chen lấn, la hét, hỗn loạn ở sân Tiêu Miếu vẫn diễn ra. Dù trước đó, ban tổ chức lễ hội này đã phát thẻ vàng cho các đại biểu để kiểm tra số lượng vào dự, nhưng do số thẻ vàng này vượt khuôn khổ sức chứa của không gian lễ hội nên… vỡ trận!

Báo chí mô tả cảnh chen chúc cướp ấn, lột cướp các vật dụng trên điện thờ, vo tiền ném kiệu ấn diễn ra đầy khốc liệt tại đền Trần có tiếng linh thiêng.

Trong khi đó, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh cũng chộn rộn manh nha cho ra đời một lễ hội Khai bút, Khai ấn với ý định “nhân rộng truyền thống tốt đẹp,” đã ngay lập tức gặp phải sự phản ứng của dư luận trong nước.

Nhìn vào bức tranh nhốn nháo đó, cần đặt câu hỏi điều gì đang xảy ra với những lễ hội dân gian và cả trong thực hành tôn giáo truyền thống đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam?

Cần nói thêm, việc phân chia hai cực Nam, Bắc vẫn biết là điều không cần thiết, nhưng một thực tế quan sát cho thấy mùa lễ hội Tháng Giêng ở miền Nam diễn ra êm đềm, hài hòa hơn, rất hiếm thấy xảy ra những hiện tượng như đã nêu ở các lễ hội phía Bắc. Việc giải thích vì sao có sự khác biệt này, người viết sẽ có quá trình suy tư, khảo cứu để đề cập trong thời gian gần nhất.

Quá nhiều và biến dạng

Hầu hết các lễ hội dân gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ được sinh ra từ làng, rộng hơn, là sinh hoạt văn hóa dân gian của cư dân địa phương ở quy mô nhỏ. Các lễ hội là sự thực hành biểu hiện chữ lễ, sự thành kính với những đấng siêu nhiên – những thế lực bảo hộ đời sống trong tín ngưỡng người dân đặt trong bối cảnh không gian xã hội nông nghiệp, đi cùng với bối cảnh văn hóa Khổng giáo của quá khứ. Lễ hội được sinh ra từ làng và phục vụ cho đời sống tinh thần của làng, ở quy mô làng, một nhà nghiên cứu đã đúc kết như thế về lễ hội miền Bắc.

Và vì tính bối cảnh hóa đó, mà khi đời sống tinh thần xã hội thay đổi, những khả năng giao lưu được mở rộng với bên ngoài, các lễ hội đã không còn khu biệt là sinh hoạt tinh thần của làng xã, địa phương mà phải đáp ứng cho một quy mô đại chúng rộng lớn hơn. Quá tải diễn ra ở quy mô. Thêm vào đó, sự biến dạng về thông điệp do diễn dịch, cách hiểu của khách dự quy định ngược trở lại đối với lễ hội cũng là một phương diện quan trọng.

Lễ hội miền Bắc Việt Nam: ‘Ôm rách nát trong tâm linh!’

Lễ hội chém lợn ở làng Ném Thượng, tỉnh Bắc Ninh bị dư luận lên án là quá tàn nhẫn đối với động vật. (Hình: Getty Images)

Nếu những nghi thức, thông điệp từ một lễ hội hứa hẹn mang lại điều mà đại chúng cầu mong, thì lễ hội đó lập tức trở thành thỏi nam châm thu hút cộng đồng mạnh mẽ. Sở dĩ có cảnh hàng trăm nghìn người chen chúc trong lễ khai ấn đền Trần (trong đó có nhiều quan chức làm trong bộ máy nhà nước) là bởi lễ hội có nguồn gốc từ thời nhà Trần này mang thông điệp mở đầu cho một năm làm việc của bộ máy chính quyền, lá ấn mang kỳ vọng về đường hoạn lộ thăng tiến, được ban thưởng…

Nghĩa là, cơn khát được thành tích, thăng quan tiến chức, địa vị xã hội đang phóng chiếu một cách đầy đủ nhất qua cái cảnh chen lấn, giành giật lá ấn trong lễ hội này hàng năm, dẫn dắt ý nghĩa lễ hội đi rất xa khỏi cái lõi ý nghĩa ban đầu. Cơn khát quyền lực, địa vị đó mạnh đến mức các hàng rào nguyên tắc ở không gian lễ hội này được dựng nên nhưng luôn bị vượt qua, đạp đổ; cảnh giẫm đạp lên nhau để đoạt được “lá ấn công danh” xảy ra hằng năm.

Một yếu tố nữa, loại hình du lịch lễ hội ra đời kéo du khách thập phương đến với lễ hội nhiều hơn, bản thân họ hiểu biết về nguồn gốc, trải nghiệm truyền thống ít hơn nhưng tham vọng, thực dụng hơn.

Chính điều này cộng với việc tư duy lễ hội truyền thống như một sản phẩm du lịch địa phương đã làm cho các lễ hội bị áp đặt nghi thức, thương mại hóa. Lễ hội bấy giờ trở thành nơi “kiếm chác” của các ban tổ chức, ban quản lý. Chùa chiền, đền miếu mất thiêng bởi tính “quốc doanh” đã thâm nhập trong một quá trình cài đặt kiểm soát lâu dài của chính quyền.

Tính thiêng mất đi, tính tục được đẩy lên cao. Sự đè đầu cưỡi cổ, tranh đoạt trong lễ hội cho thấy những giá trị cao thượng, bao dung đang bị đảo lộn. Sự mạnh được yếu thua bất chấp trật tự nề nếp trong đời sống được phản ánh rõ nhất qua những cuộc tranh giành trong lễ hội. Sự nhốn nháo trần tục của lễ hội cho thấy những giá trị thực dụng đang trỗi vượt trong cộng đồng thay thế cho giá trị hướng nội, hướng thượng và hướng tha.

Tóm lại, bức tranh cuộc sống, tâm thức bất an, các giá trị sống tốt đẹp bị lung lay… tất cả đang phóng chiếu vào trong cái không khí hỗn độn vô phương hóa giải.

Và hậu quả

Quay sang đổ lỗi cho sự “xuống cấp đạo đức của một thành phần dân chúng” là việc phổ biến. Nhưng nguyên nhân sâu xa, nguồn gốc kiến tạo nên tâm thế sống ấy là từ đâu?

Sự chà đạp tôn miếu tâm linh bằng hệ thống can thiệp và kiểm soát đặt trên ý hệ vô thần hơn 80 năm qua đang phơi bày những hệ lụy lớn lao mà cộng đồng đang hứng chịu. Một đời sống tâm linh rách nát, gãy đổ, những giá trị tinh thần tốt đẹp bị đảo lộn, truyền thống bị diễn dịch có lợi cho kẻ có quyền lực, sự bất an lan rộng trong cộng đồng, những giả hình truyền thống, giả hình tâm linh đang bộc phát điều hướng quần chúng đi về những phía lệch lạc.

Chùa chiền không còn làm cho người ta trở về an tịnh trong tâm hồn mà là nơi thổi bùng ngọn lửa tham dục. Lễ hội không còn là nơi biểu hiện sự thành kính đối với tổ tiên, nhân thần, những đấng siêu nhiên, nơi giao cảm với cộng đồng mà trở thành nơi “cộng nghiệp” của một nhân quần hỗn loạn, hoang mang, hungbạo.

Nguồn gốc tâm linh trong trẻo, thanh cao, thành trì của những giá trị căn bản trong đời sống tinh thần bị truất hữu, đó là điều mà mô hình xã hội lấy đấu tranh làm động lực phát triển đang đớn đau trải nghiệm!

Đấu tranh thay đổi hay thay thế chế độ CSVN?

Đấu tranh thay đổi hay thay thế chế độ CSVN?

Mai Thanh Truyết (Danlambao) – Câu hỏi cho hôm nay: “Ngày mai, tương lai Việt Nam có tươi sáng, có trở thành một cường quốc hay không tùy thuộc vào thể chế chính trị có thay đổi thành dân chủ hay không?”
Đây là một sự thật rất rõ ràng mà có lẽ không người dân Việt Nam nào không thấy. Nhưng trước khi có dân chủ thì phải thoát khỏi ách độc tài toàn trị của cộng sản và chính vì vậy mà có phong trào đấu tranh với ĐCSVN. Tuy nhiên, công cuộc đấu tranh với ĐCSVN thường xảy ra với những cuộc vận động chưa dứt khoát mà thường hay giao động giữa hai mục tiêu: thay đổi thay thế chế độ CSVN.
 
“Thay đổi”“Thay thế” là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau vì nó đòi hỏi những phương pháp đấu tranh khác nhau. Vì thế hai vấn đề mang tầm vóc chiến lược này cần phải được phân định rõ ràng và suy xét cẩn thận. Một khi mục tiêu đã được thống nhất thì phong trào đấu tranh sẽ cùng hướng về một điểm và sẽ tạo sức mạnh tổng hợp.
Một phương cách để tìm hiểu hai khuynh hướng là bằng cách đối chiếu quan điểm và lập luận giữa hai khuynh hướng thay đổithay thế. Từ sự đối chiếu sẽ hiện ra những điểm khôn ngoan hay sai lầm trong những hành động thực hiện. Phần tiếp theo được xếp theo hình thức đối đáp giữa hai khuynh hướng trong từng vấn đề hay quan điểm:
1. Quyền lực của ĐCSVN quá lớn chưa thế lực nào có thể đánh đổ
Khuynh hướng thay đổi:
Chế độ CSVN hay quyền lực của ĐCSVN quá lớn, quá bao trùm chưa thể lật đổ họ được. Những vấn đề căn bản trong khuynh hướng thay đổi có thể liệt kê như sau:
– Về chính trị, ĐCS có mặt, chi phối và kiểm soát mọi ngõ ngách trong cuộc sống của người dân VN. ĐCS tuy ngày nay bị thoái hóa nhưng “uy tín” và thành phần cảm tình với ĐCS vẫn còn quá đông.
– ĐCS đã ý thức được những mầm mống có thể gây nguy hại cho họ nên đã tìm cách nắm giữ tất cả các thành phần có thế lực trong xã hội như giới trí thức, giới doanh gia tư nhân, giới xã hội dân sự, báo chí.
– ĐCS đã học được những bài học Cách mạng Hoa Lài và nắm giữ quân đội rất chặt, đồng thời cũng học từ Tàu cộng về việc thành lập những cơ quan đặc biệt chống biểu tình hùng hậu và đánh trả một cách sắt máu.
– Tinh thần đối kháng của người dân Việt Nam chưa thấy thể hiện. Số lượng người dân thờ ơ và an phận còn quá nhiều. Đối diện với tất cả những trở ngại này, người dân tay không làm sao có thể chống lại? Cho dù có cả triệu người biểu tình cũng sẽ chẳng làm đổ được một nhà cầm quyền có quân đội chống lưng.
 
Khuynh hướng thay thế:
Chế độ độc tài nào cũng nắm gọn mọi quyền lực trong tay để có thể kiểm soát dân chúng.
– Họ chỉ có một phương pháp cai trị duy nhất là bằng bạo lực vì quyền cai trị của họ không đến từ dân chúng.
– Chính sự độc đoán này là yếu điểm của họ. Yếu điểm đó là không danh chính ngôn thuận và không hợp lòng dân, hay nói cách khác ĐCSVN không có chính nghĩa.
– Họ chỉ có thể đánh lừa dân chúng qua tuyên truyền hay mua chuộc dân chúng qua việc ban phát đặc quyền đặc lợi cho một tầng lớp nào đó để làm hậu thuẫn.
– Tất cả những cách thức lấy lòng dân này là sự cố gắng gượng ép cần luôn luôn phải có động lực thúc đẩy. Và nếu động lực thúc đẩy yếu đi thì những thành phần đi theo sẽ giảm đi hay biến mất.
Phương pháp đấu tranh dùng để lật đổ chế độ CS là bất bạo động. Với phương pháp này, việc sở hữu bạo lực chẳng đem lại lợi thế nào cho nhà cầm quyền vì bạo lực chỉ có thể chống lại bạo lực.
– Làm sao có thể đem xe tăng ra bắt người công nhân phải đi làm việc?
– Làm sao công an có thể bắt bỏ tù những người rút tiền của mình ra khỏi nhà băng?
– Sức mạnh của quân đội sẽ không góp gì được cho thế lực của nhà cầm quyền nếu phương pháp bất bạo động được sử dụng khôn khéo.
– Vì thế quyền lực của nhà cầm quyền sẽ không lớn khi cuộc đấu tranh được chuyển sang môi trường bất bạo động và việc lật đổ một nhà độc tài là chuyện khả thi.
2. Dân chúng Việt Nam chưa đủ hiểu biết để có thể thiết lập một thể chế dân chủ ổn định
Khuynh hướng thay đổi:
– Dân chúng Việt Nam chưa đủ ý thức, hiểu biết về dân chủ nên chưa biết tranh đấu cho quyền công dân.
– Nếu thực hiện dân chủ ngay lập tức ở Việt Nam thì sẽ chỉ tạo nên đảng phái chia rẽ, xâu xé nhau và làm đất nước yếu kém đi.
– Cách tốt nhất là thực hiện dân chủ từng bước để bảo đảm sự chuyển tiếp ổn định. Hơn nữa, trong giai đoạn khởi đầu phát triển kinh tế, Việt Nam cần phải có ‘một chút’ độc tài mới có thể phát triển được, như đường đi của các nước Nam Hàn, Đài Loan, Singapore.
– Về nhân quyền, các thứ quyền làm người này chỉ nên giao cho người dân từng bước với giáo dục và thông tin để người dân có thời gian thực tập, tránh khỏi việc lạm dụng và đưa đến tình trạng rối loạn xã hội. Các quốc gia Âu Mỹ cũng đã trải qua cả trăm năm mới có sự trưởng thành dân chủ ngày này. Phương cách thả lỏng dân chủ từng bước là cách thực hiện dân chủ ổn thỏa nhất.
 
Khuynh hướng thay thế:
Nguyên tắc dân chủ bảo đảm một thể chế chính trị của dân, do dân và vì dân. Đây là một thể chế đem công bằng đến cho mọi người dân và không ai, không đảng phái hay nhóm người nào đứng trên ý dân.
– Nguyên tắc này đã được thực hiện tại đa số các nước trên thế giới và không thể sai lầm. Chỉ có thể chế độc tài CS là sai lầm và hiện còn tồn tại ở Việt Nam và 4 quốc gia trên thế giới.
– Quan điểm dân chủ phải được thực thi từng bước để giữ cho xã hội ổn định và một cách chuyển đổi thích hợp cho phát triển kinh tế vững chãi của các nước chậm tiến là một ngụy biện.
– Về thể chế chính trị, tất cả các cuộc thay đổi từ độc tài sang dân chủ đều là sự thay đổi tức khắc, không từ từ từng bước, vì sự mâu thuẫn giữa độc tài và dân chủ không thể có sự trộn lẫn, hoặc 100% dân chủ hoặc 100% độc tài mà thôi.
– Về phát triển kinh tế thì một số nước như Nam Hàn, Đài Loan hay Singapore đã sử dụng quyền lực nhà nước để điều hướng kinh tế hầu tạo sức mạnh cạnh tranh cho các công ty quốc nội đối với các công ty quốc tế. Chuyện nhà nước nhúng tay vào kinh tế không thể được xem là độc tài nếu mục đích nhắm tới là đẩy mạnh tiềm lực kinh tế quốc gia. Chính sách điều hướng kinh tế của các chính phủ dân chủ là góp tay hỗ trợ, khuyến khích phát triển theo hướng hoạch định. Doanh nghiệp nào thuộc lãnh vực quan tâm của chính phủ sẽ được sự hỗ trợ. Chính phủ dân chủ không nhúng tay vào việc điều hành các doanh nghiệp như hình thức quốc doanh ở các chế độ độc tài.
– Vấn đề trật tự xã hội liên quan tới nhiều lãnh vực khác như giáo dục, an ninh, luật pháp. Bảo vệ nhân quyền là bảo vệ cho mọi người dân được nhà cầm quyền tôn trọng và đối xử công bằng. Chỉ có một chính quyền dân chủ mới bảo đảm nhân quyền cho người dân. Một chính quyền độc tài không bao giờ cho người dân có quyền làm người vì khi cho người dân một vài quyền nào đó thì người dân sẽ không phục tùng chính quyền nữa.
Trong giai đoạn đầu của khuynh hướng thay thế, thiết nghĩ hãy khoan đòi những tiêu chuẩn dân chủ cao. Khi chưa có quyền Tự do thực sự mà muốn có Dân chủ toàn vẹn thì nền Dân chủ đó có thể đưa đến giả hiệu ngay. Trước hết hãy nâng cao Dân trí trong những nỗ lực giành các quyền Tự do hiến định: Quyền Tự do Thông tin-báo chí, và Quyền Tự do lập các Hội dân sự, nghề nghiệp, Ái hữu… mà tuy trên danh nghĩa đã có, nhưng nay phải dành cho có được thực chất.
Chính quyền “thay thế” cần phải dựa trên thế hợp pháp mà gở từng bước, tiến tới quyền làm chủ đích thực của người dân. Có được hai loại Quyền nói trên mới mong tiến lên đòi Quyền thứ ba là Quyền ứng cử và bầu cử, để cải biến dần các cơ quan quyền lực và tiến tới một chính thể Dân chủ pháp trị văn minh phù hợp với Dân tộc.
Một khi chưa có khả năng huy động quần chúng để làm “Cách mạng” lật đổ CSVN trực tiếp, thì đây là cung cách duy nhất để thoát khỏi đêm dài toàn trị. Đây chính là con đường HOÀ BÌNH.
Kiến tạo Dân trí và Xã hội dân sự làm nền tảng, chính là tích cực tạo điều kiện để thời cơ xuất hiện.
Con đường diễn biến như vậy tuy có chậm. Không phải vì chúng ta muốn chậm mà không cách nào làm nhanh hơn được! Nhưng bù lại cũng có ưu điểm là vững bền và hợp với tình tự dân tộc và không có sự can thiệp của “thế lực thù địch” mà người dân phải lo sợ.
 
3. Yếu tố ngoại lai hiện tại
Theo Hà Sĩ Phu: “Tôi đã nhận được câu hỏi rằng Mỹ sẽ có chương trình gì để thay đổi chính phủ Việt Nam và tôi đã trả lời thẳng rằng đó không phải là chính sách của Mỹ. Chính sách của Mỹ là tôn trọng sự khác biệt trong hệ thống chính trị của các quốc gia khác. Lợi ích của Mỹ là muốn thấy một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng, độc lập, tôn trọng dân chủ, nhân quyền và pháp quyền. Việt Nam thành công thì điều đó cũng nằm trong lợi ích của Mỹ”.
Qua chiều hướng trên, chúng ta thấy gì?
Rõ ràng là Hoa Kỳ không muốn tìm cách “thay thế” CSVN ở Việt Nam mà chỉ muốn “thay đổi” một số “chính sách cai trị” của ĐCS!
Về phía Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn chịu thuần phục Tập Cận Bình trong chuyến “triều cống” ngày 12 tháng giêng vừa qua, nói lên tính cách nộ lệ của CSVN qua 15 Hiệp ước từ quốc phòng, kinh tế, chính trị, và thương mại ký ngày 15/1/17.
Như vậy, những người con Việt phải làm gì?
Trước khi tham gia vào bất cứ một cuộc đấu tranh nào, ngay cả trong cuộc sống, nếu không muốn thắng thì không nên bước vào. Sự quyết tâm và ý chí quan trọng hơn tính khả thi của vấn đề.
Và sự quyết tâm trong đấu tranh chống CS là:
Lật đổ, hủy bỏ chế độ CSVN, không phải tìm cách thay đổi nó.
– Có sự quyết tâm dứt khoát trên sẽ giúp chúng ta loại trừ được tâm trạng mất tự tin hay yếm thế và dẫn đến tính ỷ lại.
– Sự trợ giúp bên ngoài của ngoại quốc chỉ là phụ thuộc. Chúng ta phải tự lực cánh sinh.
– Sự quyết tâm còn giúp những người con Việt tránh được những tư tưởng ủy mị, dễ tin như tin vào sự thành thật của ĐCSVN đối với quốc gia, dân tộc trong suốt hơn 70 năm qua!
11.02.2017

Những người tù trở về báo hiệu bình minh của nền dân chủ

Những người tù trở về báo hiệu bình minh của nền dân chủ

FB Lê Văn Sơn

112-2-2017

Ảnh Bùi Thị Minh Hằng. Nguồn: FB Lê Văn Sơn

Ngày 11.02.2017, bà Bùi Thị Minh Hằng, một người đấu tranh kiên cường cho tự do, dân chủ và quyền con người đã được tự do sau 3 năm tù giam. Ngày trở về của bà Hằng là một sự chiến thắng hết sức lớn lao không chỉ cho riêng cá nhân của bà mà cho cả công cuộc đấu tranh của người dân Việt Nam. Sự chiến thắng của lý tưởng, niềm tin và lòng yêu nước đối với sự bắt bớ, giam cầm, nhu nhược khiếp sợ của nhà cầm quyền Hà Nội.

Theo dõi cuộc tiếp đón long trọng của người dân khi bà Hằng bước ra khỏi cổng trại giam cho ta thấy một bức tranh sáng láng, đầy hi vọng của dân chủ và tự do. Hàng trăm người từ khắp mọi nơi đến tận cổng trại giam Gia Trung, Gia Lai và tại Sài Gòn dang rộng vòng tay đón chào bà Hằng. Các hội đoàn, tổ chức xã hội dân sự hiện diện để chúc mừng và nghênh tiếp một người tù trở về.

Những giọt nước mắt của hạnh phúc, niềm vui, sự hi vọng được tỏ lộ một cách sinh động trên từng khuôn mặt của người tù trở về lẫn những người đón chào. Bắt bớ và giam cầm những người yêu nước, nhà cầm quyền Hà Nội được gì và mất gì? Có ngăn cản, trù dập, giam hãm được tinh thần yêu nước và lý tưởng cho một nền hòa bình, dân chủ, tự do thực sự của họ? Có lẽ là không, chắc chắn không.

Bà Bùi Thị Minh Hằng nói gì khi bước ra khỏi cổng trại giam sau ba năm tù? “Tôi vừa tốt nghiệp loại ưu trường đào tạo những người đấu tranh do nhà cầm quyền cộng sản tổ chức”. Ồ, hóa ra, với người đấu tranh coi chính nơi tù đày, đau khổ đó là nơi rèn rủa ý chí chiến đấu mãnh liệt hơn cho họ mà thôi.

Bắt giam và bỏ tù người yêu nước có ngăn chặn được hàng hàng lớp lớp những người khác tiếp bước trên con đường đấu tranh không vậy? Mục tiêu này của nhà cầm quyền Hà Nội lại thất bại. Mỗi khi có một ai đó bị bắt giam, hàng trăm ngàn người lên tiếng phản đối và tố cáo sự vi phạm nhân quyền của Hà Nội. Hàng chục, hàng trăm người lên tiếng yêu cầu đi tù thay hoặc bắt giam họ.

Những năm gần đây, các tù nhân lương tâm trở về sau những năm tháng bị giam cầm được hân hoan đón chào như những người hùng dân tộc, người dân đã có cái nhìn rộng mở hơn, những câu hỏi được đặt ra sắc bén hơn: “Tại sao những người tù này lại được đón chào như một vị anh hùng vậy? Họ bị nhà nước nói là phản động cơ mà, tại sao họ lại hãnh diện, mạnh mẽ, kiên cường, can đảm hơn sau những năm tháng tù tội vậy?”.

Có người lại nói: “Đi tù về mà được đón chào long trọng thế này tôi cũng muốn làm ‘phản động’, cũng muốn đấu tranh, cũng muốn hòa cùng nhịp bước với họ”.

Rõ ràng, người dân nhận chân được thực tại xã hội ngày càng nhiều hơn, người dân biết và hiểu nhiều hơn về quyền con người, về tự do dân chủ. Từ biết, hiểu dẫn đến yêu và dấn thân đấu tranh thật là dễ dàng, nhẹ nhàng.

Nhận thức xã hội theo quá trình thời gian, từ những sự kiện, bối cảnh hiện tại cuộc sống nó tác động mạnh mẽ vào trí não con người. Qua đó từ thờ ơ, vô cảm họ dần được cảm thụ và hình thành nên lý tưởng, từ lý tưởng chuyển bước sang hành động sẽ nhanh chóng hơn qua những cú hích.

Những cuộc bắt bớ giam cầm người yêu nước, những trải nghiệm đau thương và sự can đảm, kiên cường trong lý tưởng, những cuộc trả tự do và được đón tiếp nồng hậu, long trọng và đầy tình yêu thương của xã hội đối với các tù nhân lương tâm nó cũng giống như những cú hích thúc đẩy con người và xã hội vậy.

Chúng ta tin rằng, những tù nhân lương tâm là một nét vẽ đẹp, điểm nhấn quan trọng trong bức tranh tổng thể của công cuộc đấu tranh cho một nền hòa bình, tự do, dân chủ, công chính, bác ái của đất nước Việt Nam.

CHUYỆN BUỒN: ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

CHUYỆN BUỒN: ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

CHUYEN BUON

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mời các  Bạn đọc đoạn kết cuốn sách của  tác giả người Đức này, quá hay, khi nào sách in ra, mỗi người chúng ta phải mua  một vài cuốn để dành cho con cháu, chắt chung ta đọc để chúng hiểu sự thật lịch sử.

MC Người Đức … nhưng anh nầy có vẻ hiểu chuyện VN hơn rất nhiều người .Cuốn sách Đức: “A reporter’s love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta:

Đoạn kết

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng.”

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.

Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất.

Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.
Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng.” Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?
Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?

Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân.”

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?
Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?
Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.

Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”
Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố.”

Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.

Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.

Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bảnđoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

Anh Thiệu Van An gởi

Chúng ta chiến thắng trong chiến tranh để trờ thành NGƯỜI THUA CUỘC

Bài cũ nhưng vẫn còn đúng, còn giá trị

Chúng ta chiến thắng trong chiến tranh để trờ thành NGƯỜI THUA CUỘC

FB Trâm Lê

9-2-2016

Có thể đối với nhân dân VN, ngày 30/4/1975 là mốc lịch sử thống nhất tổ quốc. Thống nhất đất nước, hết tiếng bom đạn, hết lo âu về cuộc chiến đều là giấc mơ của mỗi người dân VN nói riêng và những người yêu hòa bình trên thế giới nói chung. Tôi ko đề cập đến chế độ cộng sản hay cộng hòa ở đây, bài viết này tôi chỉ đề cập duy nhất đến 1 thứ. Đó là người Việt, sự tự cường dân tộc.

Một dân tộc lớn mạnh thì phần lớn nằm ở sự tự cường của dân tộc đó. Không thể phủ nhận sự tự cường dân tộc ở chính “người anh em láng giềng” Trung Quốc. Tuy họ mang nhiều cái nhìn tiêu cực từ chúng ta như đồ ăn bẩn, chất độc, hàng nhái v.v.. Nhưng nhiêu đó chỉ là 1 phần nhỏ, cái mà chúng ta phải nhìn nhận lại mình là họ dám làm được những thứ họ cần. Vậy VN mình sao lại không như vậy? Hãy quay trở lại quá khứ 1 chút, chúng ta sẽ biết nguyên nhân.

Sáng 11/9/1975 quyết định số 111/CP chính thức áp dụng lên 17 tỉnh thành miền Nam và nó mang tên “Đánh tư Sản”. Sự kiện này chính thức loại bỏ dần tính tự cường dân tộc của VN theo khái niệm kinh tế. Nội dung chính của sự kiện này như sau: Tịch thu nhà và cưỡng chế toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống. Cưỡng chế giải tán toàn bộ các công ty doanh nghiệp tư nhân, tiểu thương, các thành phần sản xuất nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, khuyến khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.

Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ gia dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hũy. Người dân Việt Nam sẽ không còn thấy các sản phẩm tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây Dừa , xà bông hiệu cô Ba, xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí Nguyễn Văn Mạnh .v.v… Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa. Các nhà sách về khoa học kỹ thuật cũng như các tác phẩm văn học thế giới cũng bị tịch thu tiêu hủy với 1 lý do chung “văn hóa phẩm đồi trụy”.

Hiển nhiên cánh cửa kết nối khoa học kỹ thuật hiện đại đến VN đã bị chặn lại. Kế đó là đường lối quốc hữu hóa toàn bộ đất đai của nhân dân qua hình thức “Tập đoàn sản xuất” là một sai lầm nghiêm trọng dẫn đến nạn đói năm 1979 ngay liền sau đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm toàn diện tại miền Nam.

Khai tử công nghiệp, nông nghiệp thất bại, văn hóa đóng cửa. Mới nghe đến đây tôi cũng không tin rằng VN sẽ thoát ra khỏi chốn tăm tối mịt mù ấy. May thay chính phủ họ cũng đã biết sửa sai, đó là hàn gắn dân tộc sau chiến tranh. Sự kiện tập trung tại Sài Gòn, hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.

Theo thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150.000 người thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết tài sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng 600.000 người, tạo ra một sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều đại.

Ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài Gòn bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là 1,2 triệu người. Sau sự hàn gắn dân tộc này tôi hiểu được chữ Nam Kỳ – Bắc Kỳ. Nó thật đay nghiệt.

Tất cả những ai tại Sài Gòn bị Đảng tịch thu nhà , tài sản đều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh xá. HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho Đảng quản lý. Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của Đảng đối với những người bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản. Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các vùng Kinh Tế Mới này.

Nhân dân miền Nam- cả triệu người đang sống sung túc bỗng lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi nhà trước thảm cảnh. Hậu quả của nó là Việt Nam tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Đảng lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới vào năm 1985.

Cho đến năm 1994 VN thoát khỏi cấm vận và có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và USAID tăng tốc trợ giúp, cùng với chính sách thay đổi nền kinh tế đến hiện tại chúng ta có gì. Chúng ta vẫn chẳng có gì ngoài 1 đất nước làm nhân công cho thế giới, chuyên lắp ráp mà ko có dây chuyền sản xuất của riêng mình. Các chỉ tiêu đặt ra như đưa bao nhiêu ngàn nhân công xuất khẩu lao động cho nước A, B ,C ..v..v.

Các bạn có đau đớn như tôi khi nhìn thấy Campuchia tự hào họ có thể tự chế tạo xe hơi không? Bạn có cảm thấy buồn khi công nghệ Lào đã sử dụng rộng rãi 4G trước VN ko. Hay bạn vẫn đang tự hào VN ta đánh đuổi được thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Hay bạn vẫn đang tự hào về 1 VN đầy ung nhọt, đầy chia rẽ trong chính những người dân. Tôi chỉ tự hào về VN khi nào nó tìm lại được sự tự cường dân tộc.