Lần đầu Việt Nam và Philippines tập trận chung

Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng, trước đó, sáng 5-8, tàu CSB 8002 (Hải đoàn 21, Vùng Cảnh sát biển 2) cùng đoàn công tác Cảnh sát biển Việt Nam cập cảng Manila (Philippines), bắt đầu chuyến thăm, giao lưu với Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines.

Đây là lần đầu tiên Cảnh sát biển Việt Nam tổ chức tàu sang thăm, trao đổi kinh nghiệm thực thi pháp luật trên biển với Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines.

Tàu CSB 8002 tham gia luyện tập cứu hộ cứu nạn cùng tàu BRP Gabriela Silang của Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines sáng 9-8 - Ảnh: REUTERS

Tàu CSB 8002 tham gia luyện tập cứu hộ cứu nạn cùng tàu BRP Gabriela Silang của Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines sáng 9-8 – Ảnh: REUTERS

 

Thượng tá Hoàng Quốc Đạt, phó tư lệnh quân sự Vùng Cảnh sát biển 2, làm trưởng đoàn.

Trong khuôn khổ chuyến thăm, tàu CSB 8002 và đoàn công tác đã tham gia nhiều hoạt động giao lưu thể thao, tham quan văn hóa, dự tiệc chiêu đãi với Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines

Quang cảnh lễ tiễn tàu CSB 8002 tại quân cảng Manila - Ảnh: Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng

Quang cảnh lễ tiễn tàu CSB 8002 tại quân cảng Manila – Ảnh: Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng

Đặc biệt, ngày 6-8, đoàn công tác đã đến chào xã giao lãnh đạo Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines tại trụ sở lực lượng này.

 Chuẩn đô đốc Edgar L Ybañez – chỉ huy trưởng Hạm đội bảo vệ bờ biển (Lực lượng tuần duyên Philippines) – chúc mừng đoàn công tác Cảnh sát biển Việt Nam hoàn thành tốt nhiệm vụ thăm, giao lưu với Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines. Đồng thời, ông Ybañez tin tưởng chuyến thăm lần này sẽ góp phần tăng cường mối quan hệ, hợp tác giữa hai lực lượng.

Cảnh sát biển Việt Nam và Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines đã thực hành cơ động, tổ chức luyện tập về tìm kiếm cứu nạn và phòng chống cháy nổ trên biển.

Tàu Cảnh sát biển 8002 luyện tập cứu hộ trên biển cùng Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines- Ảnh 3.

Thuyền viên tàu CSB 8002 tham gia nội dung luyện tập cứu nạn trên biển sáng 9-8 – Ảnh: REUTERS

Một tàu cảnh sát biển Việt Nam hôm 5/8 đến Manila trong chuyến thăm thiện chí kéo dài bốn ngày và tập trận chung khi hai nước cố gắng gác lại các tranh chấp lãnh thổ của riêng mình trước căng thẳng gia tăng với Trung Quốc về quyền kiểm soát các thực thể chính ở Biển Đông.

Philippines và Việt Nam nằm trong số những nước chỉ trích mạnh mẽ nhất các hành động ngày càng thù địch của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp, một tuyến đường thương mại và an ninh toàn cầu quan trọng. Bản thân Việt Nam và Philippines cũng có các yêu sách chồng chéo ở tuyến đường biển đông đúc cùng với Malaysia, Brunei và Đài Loan. Các tranh chấp này được coi là điểm nóng ở Châu Á và là sự rạn nứt nhạy cảm trong sự cạnh tranh khu vực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Sau cuộc đối đầu dữ dội vào ngày 17 tháng 6 tại Bãi Cỏ Mây do Philippines chiếm đóng ở Biển Đông giữa lực lượng Trung Quốc — được trang bị dao, rìu và giáo tự chế — và lực lượng hải quân Philippines, Trung Quốc và Philippines đã đạt được một thỏa thuận tạm thời vào tháng trước để ngăn chặn các cuộc đụng độ tiếp theo có thể gây ra xung đột vũ trang lớn tại đảo san hô này.

Philippines-China confrontation: What’s next? | ABS-CBN News

Một tuần sau khi thỏa thuận được ký kết, lực lượng chính phủ Philippines đã vận chuyển thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác đến con tàu mắc cạn mà Manila dùng làm tiền đồn tại Bãi Cỏ Mây, không có cuộc đối đầu nào được báo cáo.

Tuy nhiên, Philippines đã cam kết sẽ tiếp tục nỗ lực tăng cường lực lượng lãnh thổ và quốc phòng cũng như mở rộng liên minh an ninh với các nước châu Á và phương Tây.


 

Xôn xao tin đồn Nguyễn Xuân Phúc sắp bị bắt?

Ba’o Dat Viet

August 6, 2024

Trong nước và nước ngoài, tin tức đang rộ lên về việc ông Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước Việt Nam, bị Ủy Ban Kiểm tra Trung ương triệu tập để làm việc liên quan đến các cáo buộc nhận hối lộ từ Trương Mỹ Lan, Cao Minh Trí (Giám đốc Truyền thông Trường Phổ thông Duy Tân), và Phan Quốc Việt (Chủ tịch, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á).

Theo tờ Thời Báo ở Đức, hiện nay Nguyễn Xuân Phúc và vợ, bà Trần Nguyệt Thu, đang bị cấm xuất cảnh. Vì hôm cuối tháng 7 vừa qua sau đám tang ông Nguyễn Phú Trọng họ có chuyến xuất ngoại để thăm con trai ở Mỹ nhưng đã bị An Ninh chặn lại tại phi trường Đà Nẵng. Bà Thu đã nhờ Bùi Thị Thu Hà, vợ của Thiếu tướng Đàm Thanh Thế, đứng tên giúp để tránh bị phát giác khối tài sản nhiều ngàn tỷ đồng. Đàm Thanh Thế là người có họ hàng với Nguyễn Xuân Phúc (anh em đằng mẹ).

Cuối năm 2013, Đàm Thanh Thế chuyển từ ngành công an sang làm Vụ trưởng trong Văn phòng Chính phủ, làm thư ký riêng cho ông Nguyễn Xuân Phúc khi ông còn là Phó Thủ tướng. Tháng 7/2016, sau khi ông Phúc lên làm Thủ tướng, Đàm Thanh Thế được bổ nhiệm giữ chức Chánh Văn phòng Thường trực BCĐ 389, cơ quan chỉ đạo các hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại, và hàng giả của Chính phủ. Vị trí này giúp ông Thế nắm quyền lực lớn và kiếm được nhiều tiền trong hơn 5 năm.

Khi còn làm Thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc dùng Phó Thủ tướng Trương Hoà Bình và Trung tướng Trần Văn Vệ để khởi tố bắt giam nhiều cán bộ và doanh nghiệp, nhằm trả thù cá nhân và loại bỏ đối thủ chính trị. Vụ án liên quan đến Vũ Nhôm (Phan Văn Anh Vũ) là một ví dụ, khi tòa án kết tội dựa vào suy đoán của cơ quan tố tụng mà không có chứng cứ rõ ràng.

Ngoài ra, ông Nguyễn Xuân Phúc còn bị cáo buộc cướp Cảng Quy Nhơn từ doanh nghiệp tư nhân của ông Lê Hồng Thái để chuyển giao cho con rể Vũ Chí Hùng, yêu cầu Đỗ Quang Hiển (Bầu Hiển) chi tiền đầu tư.

Phúc còn dùng Trung tướng Trần Văn Vệ để khởi tố bắt giam nhiều người thuộc phe cánh của Tô Lâm và Trần Đại Quang, như Đại tá Nguyễn Duy Linh, con trai của Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng. Năm 2019, ông Phúc “bật đèn xanh” cho Tướng Trần Văn Vệ bắt Đại tá Nguyễn Duy Linh và Hồ Hữu Hoà về tội “nhận hối lộ” và “môi giới hối lộ”.

Đại tá Nguyễn Duy Linh bị kết án 14 năm tù nhưng vẫn được cho là có điều kiện sống tốt trong tù nhờ Bộ trưởng Tô Lâm. Tướng Nguyễn Văn Hưởng, cha của Linh, thề sẽ bắt bằng được ông Phúc để trả thù.

Dự kiến, Nguyễn Xuân Phúc có thể bị khởi tố về tội nhận hối lộ, còn Trung tướng Trần Văn Vệ có thể bị khởi tố vì liên quan đến việc bỏ lọt tội phạm và bảo kê đánh bạc.


 

Ngành công an bành trướng quyền lực: Một di sản khác của Nguyễn Phú Trọng

Ba’o Dat Viet

August 4, 2024

Trong suốt khoảng thời gian từ năm 2016 cho đến nay, ông Nguyễn Phú Trọng đều được ca ngợi là một người chiến sĩ cộng sản kiên trung, dẫn đầu chiến dịch chống tham nhũng lớn nhất và chưa từng có tiền lệ trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. [1] Điều này đã được người ta nhắc đến rất nhiều.

Song nói đến “dẫn đầu”, ở một khía cạnh khác, ông Trọng có lẽ cũng là chính trị gia dù chưa từng có chức vụ trong ngành công an nhưng lại đóng góp nhiều nhất cho sự thống trị của ngành này. Chưa xét đến các nước cờ chính trị (dù sai hay đúng) của ông đã giúp cho vị thế của Bộ Công an và lãnh đạo của bộ này ngày một mạnh, trong giai đoạn cầm quyền gần như tuyệt đối của mình (2016 – 2024), ông Trọng có thể được xem là người giám sát lẫn bật đèn xanh cho hàng loạt dự án luật tăng cường phạm vi ảnh hưởng lẫn quyền lực của Bộ Công an trong hầu hết các vấn đề dân sự, xã hội, chính trị khác nhau. [2]

Bài viết này sẽ giới thiệu, phân tích các văn bản quy phạm pháp luật này, cũng như cách mà nó bổ sung cho quyền lực ngày một lớn của Bộ Công an.

  1. Luật Phòng thủ Dân sự 2023

Luật Phòng thủ Dân sự 2023 là văn bản luật được ban hành vào ngày 20/6/2023 và có hiệu lực vào ngày 01/7/2024. [3] Đây có thể nói là dự án luật liên quan đến an ninh quốc phòng cuối cùng trong giai đoạn ông Trọng còn tại vị.

Dù cái tên “phòng thủ dân sự” gợi ý cho chúng ta sự kết hợp giữa các nhóm cơ quan nhà nước là Bộ Quốc phòng cùng cơ quan dân sự như ủy ban nhân dân các cấp, Bộ Công an vẫn có một vai trò rất lớn trong luật ở nhiều khía cạnh.

Tính mới của văn bản: Hoàn toàn mới. Việt Nam chưa từng có văn bản riêng về vấn đề phòng thủ dân sự. Trước đây, vấn đề này được phân bổ rải rác trong các văn bản như Luật Đê điều 2006; Luật Phòng, chống thiên tai 2013; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015; hay Luật Quốc phòng 2018.

Luật Phòng thủ dân sự, vì vậy, một phần pháp điển hóa, tổng hợp các quy định có sẵn từ các văn bản khác, nhưng quan trọng nhất là nó chuyên nghiệp hóa và tạo ra các định chế riêng, thủ tục riêng và quy cách riêng cho các vấn đề được cho là liên quan đến phòng thủ dân sự. Trong đó, về mặt chính sách và nhân sự, Bộ Công an có thể nói là được lợi nhiều nhất từ nỗ lực pháp điển hóa này.

Phạm vi điều chỉnh: Về mặt lý thuyết, Luật Phòng thủ Dân sự quy định về các biện pháp “phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân” (theo Điều 2).

Nói cách khác, đạo luật này đưa ra khung pháp lý cũng như trao thẩm quyền cho các cơ quan ban ngành nhằm dùng các công cụ khác nhau ứng phó với các sự cố hay thảm họa xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.

Thẩm quyền bổ sung cho Bộ Công an: Thẩm quyền của Bộ Công an trong luật được tăng cường thông qua nhiều khía cạnh, mà trong tổng thể bài viết này, người viết tạm thời nhóm thành ba ý chính: (1) thẩm quyền về hoạch định, (2) thẩm quyền về ngân sách, và (3) thẩm quyền về nhân sự.

Về mặt thẩm quyền hoạch định và ngân sách, trong các Điều 5.2 (“xây dựng lực lượng chuyên trách về tổ chức và trang bị hiện đại, chuyên nghiệp; tăng cường trang bị, phương tiện lưỡng dụng cho lực lượng vũ trang…”) và Điều 17.1 (“Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an ban hành nội dung, chương trình đào tạo, huấn luyện phòng thủ dân sự cho lực lượng vũ trang”), chúng ta có thể thấy Bộ Công an được xếp chung với Bộ Quốc phòng trong thẩm quyền đào tạo, tăng cường phương tiện và xây dựng lực lượng chuyên nghiệp cho các hoạt động phòng thủ dân sự. Nói cách khác, ngân sách về đào tạo và trang thiết bị, thẩm quyền về chương trình đào tạo, tiếng nói trong chủ trương và chỉ đạo phòng vệ đều phải qua kênh quan trọng là Bộ Công an, chia sẻ thẩm quyền với Bộ Quốc phòng.

Đặc biệt hơn, Bộ Công an cũng được xếp chung với Bộ Quốc phòng khi nói về lực lượng vũ trang, tiếp tục củng cố quan điểm của Luật Quốc phòng 2018 về thẩm quyền sâu rộng ở cả khía cạnh trị an dân sự lẫn sử dụng vũ lực trong các tình huống cấp bách như sự cố hay thảm họa dẫn đến yêu cầu phòng thủ dân sự của siêu Bộ này. [4]

Về mặt thẩm quyền nhân sự, ở Điều 35 của luật, lực lượng phòng thủ dân sự nòng cốt của phòng thủ dân sự gồm dân quân tự vệ – dân phòng và lực lượng chuyên trách kiêm nhiệm của Quân đội Nhân dân hoặc Công an Nhân dân. Trong đó, lực lượng dân phòng trực thuộc quyền quản lý, điều động trực tiếp của công an địa phương (mà chúng ta sẽ tiếp tục nhắc đến ở các văn bản sau); trong khi Bộ Công an cũng được trao quyền thành lập định chế chuyên trách hoặc kiêm nhiệm cho mình. Điều này đồng nghĩa với lương, trợ cấp, biên chế đặc biệt được bổ sung cho nhân sự dưới quyền Bộ Công an.

  1. Luật Lực lượng tham gia bảo vệ An ninh, Trật tự ở cơ sở 2023

Luật Lực lượng tham gia bảo vệ An ninh, Trật tự ở cơ sở 2023 tiếp tục là một dự án luật tham vọng, với mong muốn pháp điển hóa và chính danh hóa sự tham gia của một bộ phận phần tử địa phương do công an xã quản lý trong việc thực thi các chính sách quản lý, kiểm tra, hay thậm chí đàn áp các cá thể, hội nhóm ở một khu vực cụ thể. [5] Được ban hành vào ngày 28/11/2023 và có hiệu lực vào ngày 01/7/2024, luật này chính thức thừa nhận và mở rộng thực hành “an ninh cơ sở”, dung hợp các nhóm như “bảo vệ dân phố”, “công an bán chuyên trách”, và từ đó biến họ thành lực lượng chân rết đông đảo nhất đại diện cho Bộ Công an tại các địa phương.

Tính mới của văn bản: Hoàn toàn mới. Trước đây, vấn đề an ninh trật tự địa phương có được quy định chủ yếu trong Pháp lệnh Công an xã năm 2008. Song điều thú vị là pháp lệnh này không ghi nhận cụ thể điều nào về “lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự”. Theo “truyền thống” của ngành, đây là một nhóm bán vũ trang dưới quyền của Bộ Công an được sáng tạo ra từ nhiều các văn bản nhỏ dưới luật, ban hành và kiểm soát bởi chính bộ này. Thông qua đạo luật, nhà nước chính thức thừa nhận vai trò thường được gọi là “bảo vệ dân phố”, và thẩm quyền sâu sát của lực lượng “dưới Bộ Công an” tại các thôn, làng, ấp…

Phạm vi điều chỉnh: Về mặt lý thuyết, văn bản luật ghi nhận các yếu tố về cấu trúc, vai trò – nhiệm vụ, cơ cấu nhân sự, cơ chế quản lý, ngân sách dành cho lực lượng an ninh cơ sở. Văn bản không giấu giếm khả năng điều động và sử dụng lực lượng đông đảo này của Bộ Công an trong rất nhiều hoạt động trị an tùy chọn khác nhau.

Thẩm quyền bổ sung cho Bộ Công an: Tương tự như trên, chúng ta có thể hiểu sự cơi nới thẩm quyền của Bộ Công an với luật lực lượng an ninh cơ sở qua ba khía cạnh: (1) thẩm quyền về hoạch định (2) thẩm quyền về ngân sách; và (3) thẩm quyền về nhân sự.

Về mặt thẩm quyền hoạch định, Bộ Công an, thông qua công an cấp xã, sẽ là cơ quan đầu não trong việc đào tạo, giáo dục lực lượng cơ sở (Điều 18). Ngoài ra, họ cũng là cơ quan có quyền phân công, huy động lực lượng an ninh cơ sở khi cần “nắm bắt tình hình an ninh” (Điều 7); “hỗ trợ công tác phòng cháy chữa cháy” (Điều 9); “kiểm tra nhân khẩu, tạm trú, tạm vắng…” (Điều 10); giám sát và quản lý các đối tượng đang sinh sống tại cơ sở, dù là người bị cấm khỏi nơi cư trú, đã chấp hành hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích, đang trong thời gian thử thách, hay các trường hợp khác (Điều 11).

Một số quy định như Điều 7 và Điều 11 là rất đáng bận tâm. Dù trước nay việc dùng tiền thân của lực lượng này để theo dõi, đe dọa, giam cầm tại gia… các đối tượng bị xem là nguy hiểm về chính trị, có tiền án tiền sự… là không mới, đây là lần đầu tiên có một văn bản cấp độ luật công nhận hoạt động này.

Về mặt nhân sự, Bộ Công an, thông qua công an xã, tiếp tục có thẩm quyền khuynh đảo trong việc xây dựng lực lượng an ninh cơ sở.

Không những luật không giải tán “bảo vệ dân phố”, “công an bán chuyên”, “dân phòng” trước kia, các nhóm này đơn giản được hợp nhất và “kiện toàn” thành lực lượng mới với danh nghĩa “Tổ viên tổ an ninh trật tự”. Về mặt số lượng tổ viên, tuyển dụng tổ viên, lực lượng công an xã và các cấp công an cao hơn có quyền chủ động “tham mưu” và “xây dựng” phương án để chính quyền địa phương làm theo. Nói cách khác, họ cũng là nhóm quyết định thực tế về mặt số lượng tổ viên tổ an ninh trật tự và quy trình tuyển chọn diễn ra như thế nào. Điều này được thể hiện rõ nhất ở Điều 15.4 của luật, ghi rằng “Bộ trưởng Bộ Công an quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục tuyển chọn Tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự”.

Về mặt ngân sách, lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự cơ sở vừa tạo ra nguồn ngân sách cho Bộ Công an (Điều 25), vừa nhận thêm ngân sách từ chính quyền dân sự địa phương (Điều 26).

  1. Luật Cảnh sát Cơ động 2022

Luật Cảnh sát cơ động 2022 được ban hành vào ngày 14/6/2022, và chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2023. [6] Đây là văn bản đầu tiên trong các văn bản chúng ta đã nhắc tới mà các nhóm quy phạm không sáng tạo ra thẩm quyền và không gian hoạt động mới cho Bộ Công an. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng đạo luật không ghi nhận thêm nhiều lợi ích, mở rộng thêm quyền hạn có sẵn, và từ đó bổ trợ thêm nhiều công cụ cho siêu Bộ Công an tại Việt Nam.

Tính mới của văn bản: Không hoàn toàn mới. Luật Cảnh sát cơ động là sản phẩm nâng cấp có tính kế thừa từ Pháp lệnh Cảnh sát cơ động 2013.

Phạm vi điều chỉnh: Xét tổng quát, Luật Cảnh sát cơ động làm rõ các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, và hoạt động của lực lượng cảnh sát cơ động và đồng thời làm rõ chế độ – chính sách lương bổng, ngân sách và các phúc lợi khác cho lực lượng này.

Thẩm quyền bổ sung cho Bộ Công an: Dù không sáng tạo như các văn bản ở trên, điều này không có nghĩa là Luật Cảnh sát Cơ động không nâng quyền hạn, lợi ích dành cho lực lượng cảnh sát cơ động – một trong những nhánh có khả năng biểu dương uy quyền nhất của Bộ Công an. Và để nhận thấy điều này, chúng ta cần xoáy sâu vào các chi tiết và điều khoản nhỏ lẻ.

Ví dụ, tại Điều 4, đạo luật bổ sung thêm một khoản chưa từng có trong pháp lệnh trước đó, ghi nhận chủ trương quản lý đối với lực lượng cảnh sát cơ động là “bảo đảm sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung, thống nhất từ trung ương đến địa phương”. Khoản 5 này có thể được diễn giải theo nhiều hướng, nhưng với các điều khoản đi kèm bên dưới, có thể khẳng định đây là xu hướng tách lực lượng cảnh sát cơ động ra khỏi các định chế chính trị tỉnh thành (ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân), và đặt họ trực tiếp dưới quyền Bộ Công an.

Quan sát này có thể nói được biểu hiện rõ nhất tại Điều 12 về vấn đề “tuần tra, kiểm sát bảo đảm an ninh trật tự”. Đây cũng là một điều hoàn toàn mới so với Pháp lệnh Cảnh sát Cơ động, mở rộng không gian hoạt động của lực lượng này ngay cả trong trường hợp không có bạo loạn hay những vấn đề trị an nghiêm trọng khác. Khoản 4 của Điều 12 luật hóa khả năng dừng, kiểm tra, lục soát người, phương tiện, đồ vật, tài liệu với độ bao quát gần như không giới hạn. Điều đáng nói hơn là, việc tuần tra, kiểm soát để bảo đảm an ninh trật tự ra sao sẽ không được quản lý bởi chính quyền địa phương, dù là lực lượng cảnh sát cơ động địa phương, mà do “Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy trình hoạt động tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát Cơ động” (Khoản 5 Điều 12).

Cơ chế bảo vệ dành cho “cán bộ, chiến sĩ cảnh sát cơ động” cũng được tăng cường. Tại Điều 8 về các hành vi bị nghiêm cấm, Khoản 1 của điều này không chỉ cấm hành vi “chống đối, cản trở” công vụ (như pháp lệnh cũ), mà còn nghiêm cấm việc “trả thù, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cán bộ, chiến sĩ cảnh sát cơ động, cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp, cộng tác, hỗ trợ, giúp đỡ cảnh sát cơ động trong thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ”.

Cuối cùng, luật cũng bổ sung thêm “trách nhiệm” của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài việc “quy hoạch quỹ đất phù hợp để xây dựng trụ sở đóng quân, thao trường huấn luyện” còn bao gồm “hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất khác”, lẫn “ưu tiên thực hiện chính sách về nhà ở xã hội cho cán bộ, chiến sĩ cảnh sát cơ động theo quy định của pháp luật” (Điều 30).

Những quy định trên rõ ràng củng cố quyền lợi của Bộ Công an cả về mặt hoạch định, nhân sự, lẫn tài chính.

  1. Luật An ninh mạng 2018

Luật An ninh mạng 2018 là một sản phẩm pháp lý gây tranh cãi dữ dội trong nước lẫn trên trường quốc tế. [7] Nó cũng là bước đệm lớn nhất cho việc mở rộng quyền lực của Bộ Công an sang môi trường công nghệ cao và không gian mạng. Được ban hành vào ngày 12/6/2018 và có hiệu lực vào ngày 01/01/2019, đây có thể được xem là văn bản luật có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với sự phát triển và trần giới hạn của không gian mạng Việt Nam trong tương lai, mà theo đó, vai trò của Bộ Công an ở tất cả các khía cạnh hoạch định chính sách, nhân sự, và ngân sách là hoàn toàn vượt trội.

Tính mới của văn bản: Hoàn toàn mới. Luật An ninh mạng khác biệt với hầu hết các quy định pháp lý trước đó về không gian mạng. Nó tạo ra thẩm quyền mới, và định chế mới, và từ đó là những tác động mới cho xã hội Việt Nam.

Phạm vi điều chỉnh: Xét tổng quát, Luật An ninh mạng được đặt ra nhằm “bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng”, đi kèm theo đó là các vấn đề về tổ chức và quản lý nhà nước.

Thẩm quyền bổ sung cho Bộ Công an: Trước khi nói về tình trạng “cường hóa” Bộ Công an, cần công nhận rằng trong môi trường hiện nay, Luật An ninh mạng có đưa ra một số giải pháp để đảm bảo sự ổn định của hệ thống hạ tầng thông tin cũng như sẵn sàng cho các cuộc tấn công kỹ thuật mạng có khả năng làm tê liệt nhiều hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia. Tuy nhiên, văn bản luật cũng trao quá nhiều thẩm quyền cho Bộ Công an so với tất cả các cơ quan khác (kể cả Bộ Quốc phòng).

Trước tiên, bàn về thẩm quyền hoạch định, Bộ Công an trở thành cơ quan quản lý thực tế về an ninh mạng.

Ví dụ, tại Điều 10, khi nói về thẩm định, đánh giá, kiểm tra, khắc phục sự cố của hệ thống thông tin, Khoản 4 cho biết Chính phủ sẽ quy định về việc phối hợp giữa các bộ, ban ngành. Song điều này được làm rõ trong Nghị định 53/2022/NĐ-CP, cho thấy Bộ Công an sẽ là cơ quan gửi yêu cầu, đề nghị, và tham gia chủ trì toàn bộ và tất cả các quy trình liên quan. [8]

Thẩm quyền về hoạch định chính sách cũng được ghi nhận rõ ràng hơn ở Điều 7 của luật, với việc “Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp thực hiện hợp tác quốc tế về an ninh mạng”. Thẩm quyền duy nhất lọt khỏi tay Bộ Công an là vấn đề hợp tác quốc tế có liên quan trực tiếp đến quốc phòng.

Cuối cùng, liên quan đến mọi hoạt động phòng ngừa, xử lý thông tin; phòng ngừa gián điệp mạng; phòng chống tấn công mạng, khủng bố mạng; ứng phó với tình huống nguy hiểm về an ninh mạng… được quy định tại Chương III (từ Điều 16 cho đến Điều 22), Bộ Công an cũng là đầu mối duy nhất.

Điều này cũng dẫn đến thực tế pháp lý quan trọng nhất, ghi nhận tại Điều 36 của luật, là Bộ Công an có thẩm quyền soạn dự thảo luật và đề xuất chính sách chủ trương chung đối với vấn đề an ninh mạng nói chung, cho mọi vấn đề, trừ khi đó là phạm vi thẩm quyền hạn chế của Bộ Quốc Phòng.

Với thẩm quyền bao trùm hoàn toàn, không khó để tưởng tượng rằng lực lượng quản lý của ngành này cũng sẽ do Bộ Công an xây dựng, đào tạo, và bổ sung ngân sách cho việc duy trì hoạt động. Từ đó, chúng ta có Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an.

Với những dẫn chứng pháp lý rõ ràng trên, không khó để khẳng định thẩm quyền gần như tuyệt đối của Bộ Công an trong lĩnh vực an ninh mạng, dù rất nhiều nội dung trong số đó có thể được chia sẻ cho cơ quan có chuyên môn kỹ thuật và phù hợp về mặt logic hơn như Bộ Thông tin và Truyền thông.

Di sản của một nhà lãnh đạo là một điều rất khó để đánh giá, với nhiều cách tiếp cận và nhiều thông tin để khai thác, biện dẫn. Có người thích nói về văn hóa, có người thích bàn về giọng nói, có người lại khen ngợi sự giản dị, gần gũi.

Tuy nhiên, dưới góc độ pháp luật, di sản lập pháp có lẽ là điều quan trọng nhất. Nhà lãnh đạo đã ủng hộ con đường lập pháp nào và đã có dấu ấn bằng những văn bản nào là một phương tiện dễ dàng hơn để đánh giá “di sản”, vì “di sản” chỉ có ý nghĩa khi nó là thứ mà người đời sau có thể thật sự vận dụng cho tương lai của mình.

Nhìn vào cách mà quyền năng pháp lý của Bộ Công an được thổi phồng trong giai đoạn ông Nguyễn Phú Trọng nắm quyền, có lẽ giới luật sư và những người nhà nghiên cứu pháp luật đều phải lắc đầu ngao ngán. (LKTC)


 

Đưa tin trung thực bị coi là “bôi nhọ, xuyên tạc”? – RFA

RFA
2024.07.30

Người dân đang đọc báo mạng. Ảnh minh họa.

 REUTERS

00:57/07:36

 REUTERS

Một số tờ báo Nhà nước Việt Nam gồm báo Nhân Dân, báo Công an Nhân dân, báo Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những bài viết trong mục “chống diễn biến hòa bình” như “Cảnh giác với chiêu trò mới của các thế lực thù địch trên không gian mạng”; “Lật tẩy thủ đoạn “thao túng tâm lý” của các thế lực thù địch, phản động”; “Lật tẩy chiêu trò đả kích, bôi nhọ của các thế lực thù địch sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần” …

Nội dung những bài viết vừa nêu cáo buộc những cơ quan báo chí hải ngoại “đưa tin không trung thực” về một vấn đề nào đó xảy ra tại Việt Nam. Tác giả những bài báo “chống diễn biến hòa bình” dùng những từ ngữ như “đả kích”, “bôi nhọ”, “thao túng tâm lý”, “xuyên tạc” gán cho cách đưa tin của những cơ quan truyền thông không phải thuộc Chính phủ Việt Nam.

“Thế lực thù địch, phản động” được liệt kê ra là những cơ quan truyền thông Việt ngữ ở hải ngoại, những nhà báo tự do ở nước ngoài, những facebookers đưa tin về Việt Nam.

Vì sao có tình trạng đó?

Nhà báo Lê Trung Khoa, Thoibao.de nói với RFA:

“Đối với các blogger, báo chí hoặc mạng truyền thông, mạng xã hội tự do ở hải ngoại và một số người ở trong nước… chỉ nói lên tiếng nói tự do của họ mà thôi. Với chúng tôi, chúng tôi có những nguồn thông tin riêng tương đối chính xác để báo trước những sự kiện xảy ra trong nước, chẳng hạn như tin ông Nguyễn Phú Trọng chết vì lý do gì. Hay trước đây là trường hợp Vương Đình Huệ hay Võ Văn Thưởng, chúng tôi đều đưa tin từ rất sớm.

Điều đó đương nhiên ĐCS Việt Nam họ không muốn, vì người dân khi biết sự thật sẽ không còn tin vào báo chí của đảng nữa mà họ sẽ tìm đọc báo chí hải ngoại. Đấy là nguy cơ có thể làm cho ĐCS Việt Nam bị rối loạn, thậm chí sụp đổ khi đến một lúc nào đó, khi người dân tích tụ nguồn thông tin, biết được tất cả sự thật về ĐCS.

Điều đó thật sự nguy hiểm cho đảng cho nên họ muốn chặn nguồn thông tin này bằng cách vu cáo truyền thông, mạng xã hội hải ngoại”.

Trong bài viết “Lật tẩy chiêu trò đả kích, bôi nhọ của các thế lực thù địch sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần”, tác giả cho rằng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần là một mất mát vô cùng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân nhưng các “thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị” lại đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận những cống hiến, đóng góp của ông Trọng.

Cũng theo tác giả bài viết, mục đích của các “thế lực thù địch” là nhằm bôi xấu, kích động chia rẽ trong nội bộ, gây nên sự phân tâm trong các tầng lớp nhân dân về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của ông Trọng, tạo ra sự lo lắng về vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Luật sư Nguyễn Văn Đài từ Đức Quốc nói với RFA:

“Trong chế độ cộng sản Việt Nam, tất cả những thông tin của báo chí đều do nhà cầm quyền đưa ra. Những thông tin đó mang tính một chiều và không hoàn toàn phản ánh đúng sự thật những diễn biến tại Việt Nam, đặc biệt trong cái chết của ông Nguyễn Phú Trọng. Trong khi đó, báo chí tiếng Việt hải ngoại hay những tờ báo của những nhà hoạt động ở bên ngoài Việt Nam có những nguồn tin riêng từ nội bộ tiết lộ ra. Họ đưa lên báo để giúp người dân trong nước có cái nhìn hai chiều về một sự kiện; họ so sánh những thông tin của nhà nước Việt Nam đưa ra với thông tin từ cộng đồng người Việt ở hải ngoại để cân nhắc.

Việc vạch ra sự sai trái mà theo cách gọi của nhà nước cộng sản Việt Nam là “đả kích, bôi nhọ” là không đúng. Vì bạn đọc sẽ là người công tâm nhất xem thông tin nào đúng, thông tin nào sai và họ sẽ tin theo tuyên truyền của nhà nước hay tin theo báo chí người Việt ở hải ngoại”.

Bài viết của LS Mạnh bị chặn tại VN hôm 26/7/2024

Việc ngăn chặn bài viết của các nhà báo, blogger, facebooker ở nước ngoài với mục đích hạn chế người dân trong nước tiếp cận bài viết, là điều xảy ra với Luật sư Đặng Đình Mạnh, hiện sống tại Hoa Kỳ.

Ông kể, hôm 20 tháng 7 vừa qua, một ngày sau khi ông Trọng mất (theo truyền thông nhà nước), ông đăng tải bài viết tựa đề “Tương lai nào cho Tân Tổng bí thư” trên trang mạng xã hội Facebook có nội dung nêu đánh giá chủ quan của ông về tình hình chính trị ở Việt Nam. Chỉ vài phút sau, hệ thống của công ty Meta báo cho ông biết bài đã bị gỡ với lý do “Có vẻ như bạn đã cố thu thập thông tin nhạy cảm của người khác”.

Năm ngày sau, ông đăng tải lại bài viết thì cũng một ngày sau (26 tháng 7), hệ thống của công ty Meta lại thông báo cho biết rằng họ nhận “yêu cầu từ Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam đề nghị hạn chế khả năng tiếp cận bài viết”. Theo đó, bài viết sẽ không được hiển thị tại Việt Nam.

Luật sư Mạnh nêu nhận định của ông với RFA:

“Đánh giá theo quy định từ Hiến pháp Việt Nam và tiêu chuẩn thông thường của thế giới về quyền tự do ngôn luận, tôi tin rằng bài viết chỉ nêu quan điểm chính trị là hoàn toàn hợp pháp. Bài viết không hề có nội dung nào để có thể hiểu rằng có sự cổ súy cho các hành vi khủng bố, bạo lực, xúc phạm tôn giáo hoặc vi phạm các tiêu chuẩn cộng đồng mà công ty Meta đã xác định. Hơn nữa, yêu cầu của Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam cũng chỉ là ý kiến mang tính chủ quan với mục đích đàn áp quyền tự do ngôn luận.

Chúng không phải là phán quyết của tòa án có hiệu lực phải thi hành. Thế nên, có thể nói rằng sự hạn chế bài viết của tôi bằng cách không cho hiển thị tại Việt Nam là hoàn toàn không chính đáng và hợp pháp. Đồng thời, tôi cũng thật sự lấy làm tiếc khi công ty Meta, một cơ sở kinh doanh tại Hoa Kỳ lại có hành vi hỗ trợ, đáp ứng cho những yêu cầu bất chính của Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam. Đi ngược lại với các giá trị tự do căn bản mà Hoa Kỳ vẫn cổ súy bao lâu nay”.

Việt Nam hiện có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (trong đó có 319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan Đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người, trong đó khối phát thanh, truyền hình xấp xỉ 16.500 người. Tổng số người được cấp thẻ nhà báo kì hạn 2021-2025 tính đến tháng 12/2023 là 20.508 trường hợp, trong đó 7.587 trường hợp có bằng tốt nghiệp đại học trở lên ngành Báo chí.

Tất cả các cơ quan truyền thông trên đều thuộc quyền quản lý của Ban tuyên giáo trung ương.


 

Sự thật đằng sau “vĩ đại, kiệt xuất”- Quốc Anh

Ba’o Tieng Dan

29/07/2024

Quốc Anh

29-7-2024

Liên Xô, đất nước từng là chiếc nôi nuôi dưỡng nhiều người cộng sản hàng đầu trên thế giới với lãnh tụ được tôn thờ “kiệt xuất, vĩ đại” là Lenin.

Nhưng sự thật đằng sau mấy chữ “kiệt xuất, vĩ đại” là những mưu đồ đen tối, đã biến ông ấy thành “thần tượng” như một công cụ để che giấu tội ác, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của các đồng chí tự nhận là “học trò” của ông ấy.

Vào những năm 1920 trong ban lãnh đạo của nhà nước Xô Viết xảy ra mâu thuẫn có tính đối kháng giữa hai nhóm, một do Lenin, một do Trotsky cầm đầu. Và trong cuộc đả phá đấu đá này, Stalin kẻ nham hiểm nhất đã đứng về phía Lenin, dù biết Stalin “không tốt” nhưng Lenin bắt buộc phải dùng Stalin.

Sự liên kết này đã gạt nhóm Trotsky ra khỏi bộ máy quyền lực của nhà nước Xô Viết.

Lenin giữ được vai trò của người đứng đầu đất nước Xô Viết, nhưng thực sự thì Stalin mới là kẻ có quyền lực thao túng, kéo bè kết đảng và ra lệnh hãm hại rất nhiều người có ý chống lại ông ta trong các chiến dịch thanh trừng dưới vỏ bọc làm “trong sạch đảng”.

Lenin biết điều này, nhưng đây là thời điểm sức khỏe suy yếu, đặc biệt là bị thương sau cuộc ám sát. Ông ta bất lực, không thể ngăn chặn được sự tiếm quyền của Stalin.

Khi biết không còn sống được bao lâu, Lenin đã bí mật viết di chúc tố cáo nhân cách tồi tệ của Stalin và đề nghị gạt Stalin trong vai trò lãnh đạo đảng ở đại hội.

Stalin biết điều này, rất tức tối và gọi điện cho vợ Lenin mạt sát và đe dọa phải giữ bí mật về di chúc.

Vì Stalin đã thao túng được bộ máy nên không cho công bố di chúc của Lenin tại đại hội, mà chỉ nói qua loa trong hội nghị trung ương nơi toàn những người được ông ta dựng lên.

Lenin chết dù rất hận, nhưng Stalin rất quỷ quyệt đã đứng ra làm trưởng ban lễ tang và tiến hành nghi lễ rất trọng thể, ca ngợi công lao trời biển của Lenin và quyết định xây dựng lăng để Lenin trở thành thần tượng bất tử, và sau này ông ta viết nhiều sách tự nhận mình là học trò của Lenin.

Ảnh: Stalin bên linh cữu Lenin. Tranh do họa sĩ Isaak Brodsky vẽ

Nhưng đấy là một thủ đoạn để che giấu tội ác, bàn tay đẫm máu của Stalin, lịch sử sau này phán xét sẽ đổ tội tất cả là do sự chỉ đạo của Lenin ông ta chỉ là người thực hiện – Đánh lạc hướng dư luận, và kẻ nào muốn bới móc, tố cáo sẽ phải coi chừng.


 

Đáp số thất bại từ một đám tang-Nam Việt/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

July 29, 2024

Nam Việt/SGN

Khác với với cái chết của Lê Đức Anh hay Đỗ Mười, là những nguyên thủ cấp cao đời đầu, người ta nhận ra ngay việc ca ngợi và đánh bóng cho những nhân vật này hoàn toàn rất yếu ớt. Điều này hoàn toàn khác biệt với đám tang của Nguyễn Phú Trọng: bộ máy tuyên truyền của Hà Nội đã hoạt động hết công suất, thúc ép ca ngợi và khóc than, cho nhiều ý nghĩa khác nhau.

Có hai ý nghĩa quan trọng nhất, mà Hà Nội muốn nhấn mạnh trong đám tang của Nguyễn Phú Trọng. Thứ nhất, đó là đánh bóng lại bộ mặt chính danh cầm quyền được dựng lên của Hà Nội, mà qua vài thập niên qua đã lộ rõ là một đảng cầm quyền ăn tàn phá hại đất nước, coi nhân dân chỉ là thành phần để bóc lột và cai trị.

Ý nghĩa thứ hai, dùng cái chết được dựng lên đầy màu sắc ý nghĩa thanh liêm của ông Trọng như một phép thử, xem liệu sau 50 cưỡng chiếm miền Nam và thống nhất địa lý đất nước, đã thật sự thống nhất được lòng người dưới sự chỉ huy của đảng CSVN hay không.

Cả hai vấn đề này, có thể tìm thấy đáp số ngay sau khi phút quốc tang cuối cùng vừa chấm dứt, xã hội Việt Nam bùng lên những sự chỉ trích về ông, cũng như chỉ ra sự mục ruỗng của đảng CSVN.

Suốt một giai đoạn dài, hình tượng ông Hồ Chí Minh qua cuộc chiến tranh tấn công miền Nam, cùng những sai lầm được nhắc đi nhắc lại hàng năm như cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm… đã khiến mọi thứ của chủ nghĩa cộng sản mòn mỏi. Thậm chí người ta nhìn thấy những thế hệ lớn lên ở phía Bắc, gia đình cách mạng, thậm chí trưởng thành từ mô hình giáo dục xã hội chủ nghĩa cũng đã mỉa mai và bỡn cợt hình tượng ông Hồ không ngại ngùng.

Nhưng nhân sắp đến ngày kỷ niệm 50 năm cưỡng chiếm miền Nam, Hà Nội rắp tâm muốn những dựng lên một hình ảnh ông Hồ mới, qua hình ảnh “Bác Trọng” như một điểm tựa tinh thần mới.

Một đoạn video trên mạng xã hội ghi lại hình ảnh khi xe tang của ông trọng diễu qua đường phố, một thanh niên – thành phần đã được chuẩn bị trước – đứng gào thét và bắt nhịp khẩu hiệu “bác Trọng,” lớp đoàn viên thanh niên đứng đằng sau nhịp nhàng hô to đáp lời “muôn năm.” Đây là một điều chưa bao giờ có, kể cả trong đám tang của ông Võ Văn Kiệt, hoặc ông Võ Nguyên Giáp, ông tướng mà hệ thống truyền thông CSVN Việt Nam cố gắng đẩy lên như một nhân vật để thờ phụng, ngang hàng ông Hồ Chí Minh.

Ông Nguyễn Phú Trọng, một nhà lãnh đạo cộng sản kỷ trị, cả đời chưa bao giờ cầm một khẩu súng ra trận trong cả hai cuộc chiến với Mỹ và với Trung Quốc, đã khéo vẽ cho mình một hình ảnh như một người thanh liêm, và cũng được bộ máy tuyên truyền của nhà nước tung hô theo hướng đó như một sinh lộ, khi đảng cộng sản không còn một nhân vật nào xứng đáng để được nhân dân coi trọng.

Nói về ý nghĩa thứ hai ở trên, tức là một phép thử của Hà Nội để xem lòng dân lúc này thực sự có toàn phần ủng hộ đảng cộng sản hay không, đặc biệt với một nhân vật được dày công tô vẽ như một hình tượng đáng kính trọng.

Nếu không có một miền Nam có truyền thống dân chủ và nhận định rõ ràng công tội, không bị nhồi sọ về việc thần phục lãnh đạo như nhiều lớp người ở miền Bắc, Hà Nội đã thực sự thắng lợi toàn phần. Tiếc là những tiếng nói của đa số, khởi đi từ phía Nam – ngày càng nhiều – đã chỉ ra những sai lầm của ông Trọng, sự bất lực lãnh đạo trong một hệ thống thối nát, đồng thời là một người cầm quyền không có trái tim dành cho quê hương và đất nước.

Trong những ngày đảng CSVN đang vận hành cho đám tang, thì những lời chỉ trích xuất hiện tương đối kín đáo và ít, do việc bắt bớ bùng phát. Nhưng cho đến khi ngày quốc tang qua đi thì thực sự mọi thứ lộ rõ với tất cả những bình luận và nhận định trực diện rộ lên về ông Trọng.

Người ta đem hình ảnh của ông Lê Đình Kình, một đảng viên gần 60 năm tuổi đảng, con người luôn luôn lý tưởng với chủ nghĩa cộng sản nhưng bị chính những người lãnh đạo của mình xua quân đến tận giường và bắn chết, vì ông tranh đấu cho đất đai của làng ông, cho những người dân quê quanh ông. Trọng chưa bao giờ nói một lời nào về con người cộng sản lão thành đó, và cũng chưa bao giờ lên tiếng về những sai phạm mà công an cũng như chính quyền địa phương là đối xử với gia đình ông Lê Đình Kình. So với cả ông Lê Đình Kình, rõ là ông Trọng thâm hiểm và thủ đọa hơn, kể cả hèn hạ hơn.

Bà Mận (vợ ông Trọng) bên linh cữu chống, và bà Thành (vợ ông Kình), bị công an cướp xác chồng mang đi. (FB)

Những tay nhiếp ảnh của báo chí nhà nước cố gắng săn tìm hình ảnh ra vẻ cô đơn và chịu đựng của bà Mận, vợ ông Trọng trong lễ tang, để đưa lên nhằm để mủi lòng người nhìn thấy. Nhưng người ta cũng không quên hình ảnh của bà Dư Thị Thành, vợ ông Lê Đình Kình, đeo khăn tang và đau đớn khóc kể về câu chuyện công an ập vào bắn nát người một cụ già đang ngồi xe lăn. Bà cũng mạnh mẽ tố cáo nói công an vu cho ông Kình là cầm lựu đạn. Đã vậy công an còn tra tấn, ép cả làng phải nói dối, nhận tội và áp án tử hình cho hai người con của ông Lê Đình Kình. Sự cô đơn và chịu đựng nào có thể so được với bà Dư Thị Thành?

Gượng gạo, một số trí thức xã hội chủ nghĩa vội đưa ra lý lẽ là với ông Trọng “hãy để lịch sử về sau phán xét”. Nhưng nói như bà Phạm Thanh Nghiên, thì “tại sao ông Trọng lại được đặc cách để lịch sử phán xét”, khi tội ác và sự hèn kém của ông ta lộ rõ qua từng vụ xử đại án, từng vụ cho quan chức từ chức để hạ cánh an toàn, hay vỗ tay cho Bộ Công an tung hoành với điều 331 và 117 để bắt bớ, đánh đập người yêu nước nhưng không yêu đảng?

Lợi dụng cái chết của ông Trọng, đảng cầm quyền thao túng nhằm cố nối dài hơi thở tàn của chủ nghĩa cộng sản trên đất Việt Nam. Nhưng đáp số có thể thấy ngay là thất bại. Hà Nội không thể nào vui mừng với những lời tung hô và khóc than giả tạo do chính họ tạo ra, mà lúc này, họ không thể ăn ngon ngủ yên với sự im lặng nặng nề và những nụ cười mỉa mai của cả nước trước chiêng trống rùm beng, từ đám tang của một tay lãnh đạo.


 

Chi hơn $21 triệu nâng cấp, mặt đường đèo Prenn rạn nứt do ‘trời mưa’

Ba’o Nguoi-Viet

July 29, 2024

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Đường đèo Prenn, cửa ngõ vào trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xuất hiện vết nứt dài hàng chục mét, đe dọa có thể sụp lún bất cứ lúc nào.

Theo ghi nhận của báo VNExpress, vị trí mặt đường bị rạn nứt cách điểm đầu đèo phía thành phố Đà Lạt khoảng hơn 200 mét, được phát hiện hôm 27 Tháng Bảy. Vết rạn nứt mặt đường phía taluy âm, rộng 1-3 cm, kéo dài khoảng 20 mét.

Vết rạn nứt trên đường đèo Prenn có thể lan rộng thêm và sụt lún bất cứ lúc nào. (Hình: Khánh Hương/VNExpress)

Điều đáng nói là đoạn đường đèo Prenn dài 7.27 km nối quốc lộ 20 này mới vừa được nâng cấp, mở rộng với kinh phí đầu tư 552 tỷ đồng ($21 triệu), gồm bốn làn xe hơi, vận tốc thiết kế 60 km/h và mới được đưa vào sử dụng từ đầu năm 2024.

Giải thích về sự việc trên, công ty Cổ Phần Xây Dựng Đèo Cả, nhà thầu thi công, và cơ quan chuyên môn cho rằng “do mưa lớn nhiều ngày, nước thấm sâu xuống đất dưới nền đường gây ra trạng thái bão hòa, đồng thời đất nền ở đèo hàm lượng sét cao ảnh hưởng khả năng liên kết, chịu lực, dẫn tới hư hỏng mặt đường.”

Để xoa dịu công luận, nhà thầu đã sử dụng nhựa đường trám các vết nứt ngăn nước thâm nhập xuống nền, xem diễn biến của vết nứt và “sẽ có phương án xử lý dứt điểm ngay khi mùa mưa kết thúc.”

Về phía chính quyền tỉnh Lâm Đồng, sau khi tuyến đường đèo xuất hiện sạt lở ở một số vị trí, đất đá tràn xuống bên dưới, nguy cơ mất an toàn giao thông đã yêu cầu chủ đầu tư, nhà thầu dọn đất đá sạt trượt, khơi thông mương tránh ngập úng, nước chảy ra đường, đồng thời “thường xuyên kiểm tra đường để kịp thời sửa chữa.”

Một đoạn đường đèo Prenn được mở rộng. (Hình: Hải Đăng/VNExpress)

Đèo Prenn dài 7.27 km nối quốc lộ 20, đường huyết mạch từ khu vực Đông Nam Bộ lên Đà Lạt, có địa hình đồi núi cao, nhiều khúc cua nguy hiểm. Dọc đường đèo còn có nhiều điểm du lịch nổi tiếng như thác Datanla, hồ Tuyền Lâm, Thiền Viện Trúc Lâm… nên vào các dịp lễ, cuối tuần, lưu lượng xe cộ rất lớn, thường xuyên xảy ra kẹt xe.

Ngoài đường đèo Prenn, còn có hai tuyến từ huyện Đức Trọng lên Đà Lạt là Mimosa và Tuyền Lâm. (Tr.N) [kn]


 

Australia: Cần gây sức ép để Việt Nam chấm dứt vi phạm nhân quyền

Ba’o Tieng Dan

Human Rights Watch

29-7-2024

Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (bên trái) bắt tay với Thủ tướng Australia Anthony Albanese tại Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN – Australia ở Melbourne, Australia, ngày 5-3-2024. Nguồn: © 2024 Hamish Blair/AP Photo

Vận dụng Đối thoại Nhân quyền để xác lập các mốc đánh giá cải cách

(Sydney) – Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu trong một tờ trình gần đây gửi chính phủ Australia rằng Australia cần gây sức ép với chính quyền Việt Nam bằng cách xác lập các mốc rõ ràng, cụ thể và dễ đánh giá về tiến bộ trong các cuộc gặp sắp tới.  Cuộc Đối thoại Nhân quyền Australia – Việt Nam lần thứ 19 sẽ diễn ra vào ngày 30 tháng Bảy năm 2024 ở Canberra.

Tình hình nhân quyền tồi tệ của Việt Nam tiếp tục xấu đi khi nhà cầm quyền các cấp ở Việt Nam gia tăng sách nhiễu, bắt giữ và truy tố các nhà hoạt động ôn hòa. Hiện có hơn 160 người đang bị giam giữ ở Việt Nam vì lên tiếng phê phán chính quyền, kể cả những người chỉ lên tiếng trên mạng xã hội. Các nhà hoạt động môi trường càng ngày càng dễ trở thành đối tượng bị chính quyền đặt vào vòng ngắm. Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát toàn bộ truyền thông trong nước và Việt Nam hiện đứng thứ ba thế giới về số lượng nhà báo bị cầm tù.

“Trong hai thập niên qua, Australia đã tổ chức 18 cuộc đối thoại nhân quyền hầu như vô hiệu với Việt Nam và cần có cách tiếp cận mới,” bà Daniela Gavshon, Giám đốc quốc gia Australia của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Thay vì tiếp cận theo kiểu thụ động về nhân quyền, chính phủ Australia nên gây sức ép để có những cải tổ mang tính hệ thống, dựa trên các mốc đánh giá rõ ràng.”

Trong tờ trình của mình, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền khuyến nghị chính phủ Australia tập trung vào năm lĩnh vực ưu tiên về tình hình nhân quyền ở Việt Nam: phóng thích các tù nhân chính trị và những người bị giam giữ tùy tiện; chấm dứt đàn áp các nhà hoạt động môi trường; tôn trọng quyền của người lao động; 4) bảo đảm trình tự tố tụng công bằng đối với các nghi can và bị cáo hình sự; và chấm dứt đè nén quyền tự do thực hành tôn giáo và tín ngưỡng.

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói rằng Chính phủ Australia cần nêu đích danh vụ việc của các nhà hoạt động nhân quyền, gồm có Đặng Đăng PhướcBùi Tuấn LâmTrần Văn BangNguyễn Vũ BìnhNguyễn Chí Tuyến, cùng nhiều vụ khác. Ngày mồng 1 tháng Sáu, công an Việt Nam bắt giữ nhà báo nổi tiếng Huy Đức và luật sư Trần Đình Triển vì đăng những bài viết ủng hộ dân chủ trên Facebook. Cả hai người đều bị cáo buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước” theo điều 331 nhiều tai tiếng của bộ luật hình sự Việt Nam.

Tháng Ba năm nay, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đã đến thăm Canberra để nâng cấp quan hệ hai nước thành Đối tác Chiến lược Toàn diện. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói rằng chính phủ Australia không nên để mối quan hệ được nâng cấp này trở thành một trở ngại cho việc đề cập đến tình trạng nhân quyền của người dân Việt Nam.

“Chính phủ Australia không cho biết nhiều về các vấn đề nhân quyền đã nêu với phía Việt Nam trong các cuộc đối thoại trước, nhưng rõ ràng những cuộc đối thoại đó không có tác động gì mấy,” bà Gavshon nói. “Chính phủ Australia cần cân nhắc một cách tiếp cận mới và có hiệu quả hơn, đồng thời đặt nhân quyền vào vị trí trung tâm trong tất cả các cuộc thương lượng với chính phủ Việt Nam thay vì chỉ giới hạn trong một cuộc đối thoại song phương thường niên tách biệt và không mấy quan trọng.” 


 

Động Đất Lớn Tại Kon Tum Gây Chấn Động Rộng Khắp Các Tỉnh Miền Trung Việt Nam, Người Dân Hoang Mang

Ba’o Dat Viet

July 28, 2024

Trưa ngày 28/7, một chuỗi các trận động đất đã xảy ra tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, gây chấn động rộng khắp và lan tỏa đến nhiều tỉnh miền Trung Việt Nam. Theo thông tin từ Viện Vật lý địa cầu, trận động đất mạnh nhất đạt 5 độ Richter, diễn ra vào khoảng 11h35 theo giờ  Hà Nội, với độ sâu chấn tiêu khoảng 8,1 km. Trận động đất này được đánh giá có cấp độ rủi ro thiên tai cấp 2, đặc biệt nguy hiểm cho các khu vực gần tâm chấn.

Trước đó, chỉ khoảng 18 phút, tức vào lúc 11h17 cùng ngày, tại khu vực này cũng đã xảy ra một trận động đất khác với cường độ 4,1 độ, có độ sâu chấn tiêu khoảng 8,3 km. Đây là trận động đất đầu tiên trong chuỗi bốn trận động đất diễn ra tại Kon Plông trong ngày, với hai trận khác xảy ra vào buổi sáng, cường độ lần lượt là 3,4 và 3,3 độ. Mặc dù các trận động đất này được xếp vào loại nhẹ, nhưng vẫn đủ để gây cảm nhận rõ rệt trong khu vực.

Theo ông Nguyễn Xuân Anh, Viện trưởng Viện Vật lý địa cầu, các trận động đất mạnh từ 5 đến 5,9 độ thường được coi là mức độ trung bình, có khả năng gây ra thiệt hại từ trung bình đến nặng cho các công trình xây dựng có thiết kế kém. Tuy nhiên, những công trình được xây dựng tốt thì ít bị ảnh hưởng. Trong khi đó, các trận động đất từ 4 đến 4,9 độ chủ yếu gây rung lắc nhẹ, thường không gây thiệt hại lớn, nhưng cũng đủ làm người dân cảm thấy bất an.

Cảm Nhận Rung Lắc Rộng Khắp Miền Trung

Không chỉ tại Kon Tum, động đất còn được cảm nhận rõ ràng tại nhiều tỉnh thành khác như Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và Quảng Ngãi. Nhiều người dân tại đây đã trải qua những giây phút lo lắng khi cảm nhận rõ ràng sự rung lắc của mặt đất và các đồ vật trong nhà.

Tại Quy Nhơn, Bình Định, ông Nguyễn Hồng Phúc cho biết vào khoảng 11h50, khi đang ngồi xem tivi, ông cảm thấy chiếc ghế mình đang ngồi rung chuyển. Ban đầu, ông nghĩ rằng có thể ghế bị hỏng, nhưng sau đó phát hiện ra là toàn bộ nhà cửa đều đang rung lắc. Đây là lần đầu tiên trong đời ông Phúc cảm nhận được hiện tượng này.

Ở Phú Yên, anh Hoàng Vũ Phương cũng kể lại rằng anh và gia đình đã cảm nhận rõ rệt sự rung chuyển của tường và đồ đạc trong nhà vào khoảng 11h35. Cảm giác rung lắc kéo dài khoảng 5 giây, đủ mạnh để làm các bình rượu trong nhà rung động. Thậm chí, con gái anh cũng cảm nhận được điều này.

Tại Đắk Lắk, chị Quánh Thủy Kiều cho biết đã cảm nhận rõ ràng rung lắc khi đang ở trung tâm TP Buôn Ma Thuột vào khoảng 11h35. Sự bất ngờ khiến chị phải hỏi han bạn bè và người quen, nhiều người trong số họ cũng xác nhận cảm nhận được hiện tượng này. Chị Kiều chia sẻ rằng đây là lần đầu tiên chị cảm nhận được hiện tượng động đất, giống như trong các bộ phim hay trên tivi.

Phản Ứng Của Người Dân Miền Trung

Trận động đất không chỉ làm rung lắc các đồ vật trong nhà, mà còn khiến nhiều người dân tại các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và Quảng Ngãi hoảng sợ. Nhiều người đã phải nhanh chóng rời khỏi nhà vì không biết nguyên nhân của sự rung chuyển.

Tại Đà Nẵng, chị Nguyễn Thị Nhung, sống tại khu nhà ở tập thể quân đội 88B Nguyễn Chánh, cho biết sau khi cảm nhận được rung lắc, chị đã ngay lập tức ôm con chạy ra khỏi nhà. Chị Nhung cùng nhiều cư dân khác tại khu tập thể này rất hoang mang vì lần đầu tiên họ trải qua một trận động đất mạnh như vậy.

Cũng tại Đà Nẵng, nhiều người dân khác cũng cho biết đã cảm nhận được sự rung chấn kéo dài khoảng 4-5 giây. Nhiều người đã phải bỏ dở công việc, chạy ra khỏi nhà để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Ở Huế, anh Phan Hoàng, sống tại Ngự Bình, kể lại rằng mặt đất và đồ đạc trong nhà rung chuyển mạnh, như thể có một chiếc xe tải nặng chạy qua. Anh Quân ở xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền cũng cho biết đã cảm nhận được hai lần rung lắc mặt đất.

Tại Quảng Ngãi, lần đầu tiên TP Quảng Ngãi ghi nhận rung lắc mạnh do ảnh hưởng từ trận động đất ở Kon Plông. Nhiều người dân đã hoảng hốt chạy ra đường, trong đó có chị Nhi tại phường Nghĩa Chánh. Chị Nhi cho biết, khi đang ngồi trong nhà với con, chị cảm thấy rung lắc mạnh và phải ôm con chạy ra ngoài vì quá sợ hãi.

Phản Ứng của Chính Quyền và Cơ Quan Chức Năng

Trước tình hình này, Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần của Viện Vật lý địa cầu đang tiếp tục theo dõi các diễn biến để đưa ra những cảnh báo và biện pháp phòng ngừa cần thiết. Các cơ quan chức năng cũng đã sẵn sàng để đối phó với các tình huống khẩn cấp có thể xảy ra.

Trận động đất này là một lời nhắc nhở về sự cần thiết của việc tăng cường các biện pháp phòng chống thiên tai, nâng cao chất lượng thiết kế và xây dựng các công trình để giảm thiểu thiệt hại. Đồng thời, cũng cần nâng cao nhận thức và kỹ năng ứng phó của người dân trước các tình huống thiên tai để bảo vệ bản thân và gia đình.


 

Rò rỉ ảnh biệt phủ của anh em nhà Tô Lâm ngay sau đám tang Nguyễn Phú Trọng

Ba’o Nguoi-Viet

July 27, 2024

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Một ngày sau khi đám tang ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư CSVN, kết thúc, mạng xã hội hôm 27 Tháng Bảy lan truyền hình ảnh được cho là hai biệt phủ của ông Tô Lâm, chủ tịch nước Việt Nam và em trai.

Theo hình ảnh chụp được Luật Sư Lê Quốc Quân đăng tải trên trang cá nhân, ông Tô Lâm được cho là sở hữu căn nhà “trị giá hàng trăm tỷ đồng (hàng triệu đô la) tại khu đô thị Ecopark Hưng Yên, ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Một phần của tấm ảnh lan truyền trên mạng hôm 27 Tháng Bảy. (Hình: Chụp qua màn hình)

Dinh thự này được mô tả là “luôn có từ bốn đến sáu người canh gác.”

Cũng theo tấm ảnh, em trai ruột ông Tô Lâm là ông Tô Dũng, chủ tịch tập đoàn Xuân Cầu, sở hữu căn nhà “100 tỷ đồng ($3.9 triệu) ở khu Thiên Đường Bảo Sơn, tọa lạc tại Hoài Đức, Hà Nội.

Tấm ảnh nêu trên còn đưa cáo buộc ông Tô Lâm “bảo kê” cho em trai “thâu tóm bất động sản, trúng thầu, chỉ định thầu các đại dự án có vốn đầu tư từ ngân sách [tiền thuế dân] lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng (hàng trăm triệu đô la).

Luật Sư Lê Quốc Quân cho biết trên trang cá nhân rằng ông “thấy trên mạng xuất hiện tấm hình” và đặt câu hỏi: “Anh em nào biết cụ thể hai biệt thự này thì kiểm chứng có đúng vậy không và nó giá bao nhiêu nhé?”

Luật Sư Quân viết thêm: “Theo pháp luật thì chủ tịch nước là chức danh có mức lương cao nhất với hệ số lương 13,00. Như vậy, từ hôm 1 Tháng Bảy, mức lương áp dụng với lãnh đạo đứng đầu nhà nước sẽ tăng từ 23.4 triệu đồng ($924) mỗi tháng lên 30.4 triệu đồng ($1,200).”

Bên dưới bài đăng, Facebooker “Nguyen Phuong Nga” bình luận: “Tầm này mà nói chuyện trăm tỷ là sỉ nhục anh ấy [Tô Lâm] đấy!”

Một số ý kiến khác cho rằng ông Tô Lâm “sở hữu cả cái tỉnh Hưng Yên còn được chứ nói mỗi cái góc Ecopark là còn quá ít.”

Nhiều khả năng tấm ảnh gây bàn tán nêu trên được rò rỉ từ phe đối nghịch với ông Tô Lâm trong đảng.

Ngay sau khi có tin ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, giới quan sát đã suy đoán ông Tô Lâm sẽ lập tức thâu tóm quyền lực để giành ghế tổng bí thư và triệt hại các đối thủ đồng đảng.

Ông Tô Lâm (hàng đầu, thứ ba từ trái qua), chủ tịch nước Việt Nam, tại đám tang ông Nguyễn Phú Trọng hôm 26 Tháng Bảy. (Hình: ZNews)

Facebooker Dương Quốc Chính, người hay bình luận về chính trường Việt Nam, dự báo trên trang cá nhân về đấu đá trong nội bộ đảng sau khi ông Trọng qua đời: “…Trận này mới là sống mái này, vì không còn ai cầm trịch, là ‘trung tâm đoàn kết’ nữa.

Khoảng trống quyền lực sau khi một người nắm trọn quyền lực ra đi luôn là rất lớn và phải qua quá trình tranh đấu mới đi tới ổn định. Linh cảm của mình dựa trên lịch sử thôi nhé!” (N.H.K)


 

Chữ viết Việt Nam và giáo sĩ Alexandre de Rhodes

Ba’o Nguoi-Viet

July 25, 2024

Kỷ niệm 400 năm hình thành chữ quốc ngữ (1624-2024)

Huỳnh Duy Lộc/SGN

K.W.Taylor (Keith Weller Taylor) sinh năm 1946 tại Michigan, Hoa Kỳ, có bằng cử nhân vào Tháng Năm năm 1968 tại Đại học George Washington. Chỉ hai tuần sau, ông bị gọi khám sức khỏe để đi quân dịch và đã tình nguyện vào Cơ Quan Tình Báo Quân Đội với hy vọng không bị đưa sang chiến trường Việt Nam.

Thế nhưng ông vẫn phải sang Việt Nam vào năm 1970 với cấp bậc trung sĩ trong quân đội Mỹ rồi được trở về Mỹ vào năm 1971 sau khi bị thương. Vào Tháng Giêng năm 1972, sáu tháng sau khi trở về từ Việt Nam, ông được giải ngũ và tiếp tục theo học Đại học Michigan, chuyên về lịch sử Việt Nam.

Sau khi lấy được bằng tiến sĩ về lịch sử vào năm 1976 với luận án “The birth of Vietnam” (Việt Nam thời dựng nước), ông làm giảng viên khoa Lịch sử, Đại học Quốc Gia Singapore (1981-1987), giáo sư khoa Lịch sử ở Hope College (1987-1989) rồi làm giáo sư của khoa Nghiên cứu châu Á của Đại học Cornell (từ năm 1989 đến nay)

K.W.Taylor đã viết hai cuốn sách về Việt Nam:
-Luận án tiến sĩ bảo vệ năm 1976, được xuất bản năm 1983 với nhan đề “The Birth of Vietnam” (Việt Nam thời dựng nước).
-“A History of the Vietnamese” (Một lịch sử của người Việt, Cambridge University Press ấn hành, New York, 2013).

Trong lời giới thiệu đầu sách “A History of the Vietnamese”, K.W.Taylor định nghĩa: “Lịch sử Việt Nam là những gì có thể tìm biết được về một mặt nào đó của quá khứ. Lý do gọi nó là sử Việt là vì những biến cố đã xảy ra trên phần đất mà hiện nay chúng ta gọi là Việt Nam và một số phiên bản của nó đã từng được dạy như là một hồi ức hay kỷ niệm chung cho nhiều thế hệ người nói tiếng Việt và do đó gây ra một cảm giác rằng họ làm chủ. Tôi thích thú với quá khứ của Việt Nam không phải vì đấy là của [nước hay người] Việt Nam, mà vì nó giúp tìm hiểu về cách xã hội con người được tổ chức và cai trị như thế nào trong nhiều năm bên cạnh một đế quốc.”

Với các sử gia ngoại quốc như K.W.Taylor, Alexandre de Rhodes có phải là “tên gián điệp,” “biệt kích Kitô” như lời kết án của một số tác giả người Việt như Chu Văn Trình?

K.W.Taylor viết về giáo sĩ Alexandre de Rhodes: “Vào năm 1651, Alexandre de Rhodes cho in cuốn “Từ điển Việt – Bồ – La” tại Rome. Đây là cuốn từ điển đầu tiên dùng chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt. Chính vì vậy, người ta thường cho rằng Alexandre de Rhodes là người đã sáng chế chữ quốc ngữ, nhưng sự thật, chữ quốc ngữ do người Bồ Đào Nha sáng chế và các giáo sĩ dòng Tên vận dụng để hiểu được tiếng Việt.

Nhà nghiên cứu Keith Weller Taylor (Instagram)

Alexandre de Rhodes đến từ miền Avignon của Pháp, là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên của Dòng Tên đã đến truyền đạo cho người Việt. Sau khi ở Đàng Trong trong một năm rưỡi để học tiếng Việt, ông ra Đàng Ngoài vào năm 1627, ở lại đó suốt ba năm rồi bị trục xuất.

Sau khi trở về Macao và ở lại đó trong 10 năm, ông trở lại Đàng Trong trong 5 năm (1640-1645), rồi đến Rome vào năm 1649. Alexandre de Rhodes đã cung cấp cho người Âu châu những kiến thức về Đàng Ngoài qua tác phẩm “Vương quốc Đàng Ngoài” ấn hành bằng tiếng Ý vào năm 1650, bằng tiếng Pháp vào năm 1651 và bằng tiếng La tinh vào năm 1652.

Sau đó, những tác phẩm về xứ Đàng Trong của những nhà truyền giáo Dòng Tên khác lần lượt ra mắt. Joseph Tissanier (1618-1688) ở Đàng Ngoài từ năm 1658 tới năm 1663 đã viết một bản tường trình bằng tiếng Pháp vào năm 1663. Cũng trong năm ấy, Giovanni Filippo de Marini (1608-1677) truyền giáo ở Đàng Ngoài từ năm 1647 tới năm 1658, đã viết một bản tường trình bằng tiếng Ý được dịch ra tiếng Pháp vào năm 1666. Một bản tường trình của Christoforo Bori sống tại Bình Định từ năm 1618 tới năm 1622 đã được dịch ra tiếng Ý vào năm 1631 và chỉ 2 năm sau được dịch ra tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Hà Lan và tiếng Đức. Alexandre de Rhodes viết một bản tường trình về cuộc truyền giáo ở Đàng Trong được xuất bản bằng tiếng Pháp vào năm 1652. Trong những bản tường trình này là những trải nghiệm của hàng chục nhà truyền giáo của Dòng Tên đã sống ở Đàng Trong và Đàng Ngoài vào tiền bán thế kỷ 17.

Sự khởi đầu của Thiên Chúa Giáo ở xứ sở của người Việt thường được gắn kết với các nhà truyền giáo đã viết những bản tường trình bằng những ngôn ngữ của châu Âu, đặc biệt là Alexandre de Rhodes với cuốn “Từ điển Việt – Bồ – La” và cuốn “Phép giảng tám ngày” được ấn hành tại Rome…

Sự nhầm lẫn về Alexandre de Rhodes bắt nguồn từ việc cho ông là người sáng chế chữ quốc ngữ trong khi thật ra, chữ cái La tinh được các nhà truyền giáo của Dòng Tên vận dụng khi học tiếng Việt và được người Việt vận dụng để học tiếng La tinh, và cả người Việt lẫn người Âu châu đều dùng chữ cái La tinh để dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo mới đến hoặc để phục vụ những mục tiêu riêng… (A History of the Vietnamese, tr. 287, 288)


 

Người Nam Kỳ – Lâm văn Bé

Lâm văn Bé

Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi trường thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đã tạo cho họ những nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở đàng ngoài.

Trước tiên, ngôn ngữ là một đổi thay lớn và nhanh chóng.

Chỉ một thế hệ, Nguyễn Ðình Chiểu, con của Nguyễn Ðình Huy gốc người quận Phong Ðiền ở Huế được bổ nhiệm vào Gia Ðịnh phò tá Lê Văn Duyệt, đã viết ra Lục Vân Tiên, một tác phẩm tiêu biểu của miền Nam với những lời văn nôm na, bình dân trái với văn phong Hán Học của ông cha.

Tiên rằng bớ chú cõng con,

Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài

hay

Phong Lai mặt đỏ phừng phừng

Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây

Nhiều nhà chánh trị, văn hóa nổi tiếng của Việt Nam và miền Nam vào thế kỷ 19 đa số là người Thuận Quảng hay người Minh Hương. Thí dụ Gia Ðịnh Tam gia gồm có Trịnh Hoài Ðức gốc người Phước Kiến (định cư ở Biên Hòa, tác giả bộ địa phương chí Gia Ðịnh Thành Thống Chí), Lê Quang Ðịnh gốc người Thuận Quảng (tác giả bộ Hoàng Việt Nhất Thống Ðịa Dư Chí), Ngô Nhân Tịnh gốc người Quảng Ðông.

Nhiều gia đình danh gia vọng tộc ở miền Nam, đặc biệt ở Gò Công, cũng là con cháu những người Thuận Quảng đã theo các đàn ghe bầu xuôi Nam lập nghiệp vào thế kỷ 17 như bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Ðức là con của đại thần Phạm Ðăng Hưng, bà Ðinh Thị Hạnh, thứ phi của vua Thiệu Trị.

Ðến vùng đất mới, lưu dân Thuận Quảng mang theo những câu hò, điệu hát đàng ngoài nhưng lại được cải biên theo địa danh mới.

 

Bắp non mà nướng lửa lò

Ðố ai ve được con đò Thuận An

(Huế)

Bắp non mà nướng lửa lò

     Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm

(Gia Ðịnh)

 

Ru em théc cho muồi

Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu

Mua vôi chợ Quán chợ Cầu

Mua cau Bát Nhị mua trầu Hội An

Hội An bán gấm bán điều

Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành

(Quảng Nam)

Ðố ai con rít mấy chưn

     Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mây người

     Chợ Dinh bán áo con trai

Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim

(Gia Ðịnh)

 

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Bà Lữ đi xúc, con dâu đi mò

(Thuận Quảng)

 

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Sấu tha ông Lữ biết đâu mà mò

(Nhà Bè)

 

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Trâu tha gảy ách ngồi bờ khoanh tay

(Hốc môn)

 

Ngoài chuyện cải biên tiếng Việt, sự cộng cư giữa lưu dân Việt từ Ðàng ngoài với người Tàu, người Miên đã tạo thành một thứ ngôn ngữ pha trộn. Biết bao địa danh Nam Kỳ là nói trại từ tiếng Miên (Sốc Trăng, Trà Vinh, Bải Xàu, Chắc Cà Ðao …) danh từ tiếng Việt Miên ghép lại: cầu Mây Tức ở giữa Trà Vinh và Vĩnh Long (Mây: tiếng Việt, Tức: tiếng Miên=nước) hay Việt Miên Tàu: sáng say, chiều xỉn, tối xà quần … hay là nóp, bao cà ròn (tiếng Miên) thèo lèo, xá, gật, hủ tiếu, mì … (tiếng Tàu) và tiếng quần xà lỏn, hay tà lỏn (pantalon, Pháp).

Bàn về bản chất của người Nam Kỳ, tôi mượn hai tài liệu xưa:

Trong Gia Ðịnh Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Ðức viết vào khoảng 1820 có đoạn:

Vùng Gia Ðịnh nước Việt Nam đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. Nhà nào tục nấy … Gia Ðịnh có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung dũng, trọng nghĩa khinh tài …

John White, sau khi thăm viếng Sài Gòn trở về Luân Ðôn có viết trong quyển hồi ký A voyage to Cochinchina năm 1824 như sau:

Chúng tôi rất thỏa mãn với tất cả những gì chúng tôi nhìn thấy, mang theo cảm tưởng tốt đẹp nhứt về phong tục và tánh tình của dân chúng. Những sự ân cần, lòng tốt và sự hiếu khách mà chúng tôi thấy đã vượt quá cả những gì mà chúng tôi đã quan sát đến nay tại các quốc gia châu Á …

Tôi cố gắng tìm hiểu những đặc tính của người dân miền Nam mà hai tác giả đã nhận định như trên qua cái nhìn lịch sử và xã hội.

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng

và biết bao ngạn ngữ Ðông Tây đã nói lên sự thích ứng của con người với ngoại cảnh.

Sự cộng cư giữa người Việt với người Tàu và người Miên đã khiến người Việt học được bản chất hiếu khách của hai sắc dân tộc nầy. Hơn thế, bản chất hiếu khách còn là một nhu cầu sinh tồn của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Trước những khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống có nhau, tương trợ nhau. Tính hiếu khách chẳng qua là một sự lo xa, phòng thân bởi lẽ nếu hôm nay tôi giúp anh thì tôi hy vọng ngày mai anh sẽ giúp tôi khi tôi gặp khó. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết nhau, dân miền Nam đều cơm nước trà rượu như đã là bà con cật ruột.

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi

Khó đi mượn chén ăn cơm

Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi

Có người còn giải thích tính hiếu khách, hào phóng của dân Nam Kỳ là do sự trù phú, màu mỡ của ruộng vườn và tài nguyên dễ kiếm được, kiểu làm chơi mà ăn thiệt của miền Nam. Giải thích như vậy có phần đúng, nhưng chưa đủ, bởi lẽ không phải ai giàu cũng hào phóng nếu không sẵn có lòng hào phóng.

Biểu hiện của tính hiếu khách là các tiệc tùng, hợp bạn. Dân Nam Kỳ hay ăn nhậu, đờn ca xướng hát. Nhưng phải hiểu rằng dân Nam Kỳ hôm nay là dân Thuận Quảng khi xưa. Xa quê cha đất tổ, người lưu dân, sau những giờ lao động cực lực hay sau những cơn hiểm nguy, cần có những phút giây để tâm sự hàn huyên với nhau, kể cho nhau nghe những kỹ niệm xưa để vơi phần nào nỗi sầu ly hương.

Từ những chung rượu cay ở bờ rừng đến những buổi tiệc linh đình ở đám cúng đình, đám giỗ có đờn ca xướng hát, người dân Nam Kỳ tìm trong những dịp gặp gỡ ấy để giải khuây, để kết bạn. Tiệc rượu là dịp bàn chuyện làm ăn, chuyện thế sự, do đó chúng ta không lấy làm lạ cái tiệm nước, quán rượu đầu làng là nơi tụ hợp quen thuộc của mọi người dân trong làng, từ ban hội tề cho đến thứ dân.

Sơn Nam trong cá tánh của miền Nam đưa ra thêm một lý giải khác về bản tánh hiếu khách, tứ hải giai huynh đệ của người miền Nam. Theo đó thì:

Thiên Ðịa Hội tạo ra một nếp sanh hoạt sâu đậm khá hấp dẫn, thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện ngoài đường, sống chết nhờ anh em, tận tình giúp đỡ bạn. Trút tất cả tâm sự với bạn kết nghĩa thì không có gì đáng ngại, đã là bạn với nhau rồi thì làm sao có chuyện phản bội. Gặp chuyện bất bình, hoặc như bạn nào bị kẻ khác ăn hiếp thì nổi nóng, trả thù cho bạn vô điều kiện, đó là đạo nghĩa giang hồ, là điệu nghệ giữa anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ (tr. 106).

Tưởng cũng nói thêm Thiên Ðịa Hội, là một thứ hội kín người Tàu phò nhà Minh, liên kết nhau với một kỹ thuật chặt chẽ để giúp đỡ nhau (những chùa miễu, xí nghiệp Tàu đều có tiền của Thiên Ðịa Hội) ảnh hưởng nhiều đến dân Minh Hương và cả dân Việt Nam trong suốt thế kỷ 19 từ thành thị đến nông thôn, là một đồng minh của các nhà ái quốc VN chống Pháp.

Những khía cạnh tiêu cực của bản tánh hào phóng là sự thiếu cần kiệm, hoang phí, mà Trịnh Hoài Ðức phê là thói bốc rời. Hiện tượng những Cậu Hai, Cậu Ba, Công tử Bạc Liêu, con của những đại phú hộ, thay vì dùng tiền rừng bạc biển để kinh doanh, thì lại đắm chìm trong việc ăn chơi cho đến khi sạch túi. Kết quả là đa số dân Nam Kỳ bị chôn chân ở ruộng vườn, ít bon chen trong thương trường, để nền kinh tế cho người Tàu thao túng.

Bản chất đôn hậu mộc mạc là một đức tính khác của dân Nam Kỳ và cũng bắt nguồn từ điều kiện sinh sống. Bản chất nầy cũng là một nhu cầu cần thiết trong cuộc cộng cư của dân tha phương. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi người trước lạ sau quen tạo thành một đại gia đình quần tụ với nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng tình nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa đến một hình phạt nhục nhã là bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ mà đi. Người dân Nam Kỳ vì vậy nhớ ơn và trung thành chẳng những với người sống mà cả với người chết. Thông thường thì có đám giỗ, ngoài việc dọn mâm cơm cúng ông bà cha mẹ còn có mâm cơm bày ra trước cửa nhà để cúng đất đai, cúng những người đã ra đi trong công cuộc vở đất mới, cúng thần linh đất đai để những người nầy phù hộ.

Nói về sự phù hộ thì dân Nam Kỳ có không biết bao nhiêu thần hộ mạng bởi trên con đường lập nghiệp, họ gặp không biết bao nhiêu hiểm nghèo. Một con thú dữ, một con sông, một tiếng trời gầm, tất cả đều gieo cho họ sự sợ hãi. Trong nỗi bơ vơ, họ luôn cầu nguyện đất trời để phù hộ họ.

Tới đây xứ sở lạ lùng

Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh

Ðạo Phật vô Nam vì vậy mà biến thể, mang thêm bản chất dị đoan, bùa chú, cộng thêm với bản chất mê tín của Phật giáo Théravada của người Miên và tục thờ cúng nhiều ông Thần, ông Thánh của người Tàu.

Dân Nam Kỳ do đó không phải là những tín đồ Phật giáo thuần thành. Việc đi chùa, hành hương, làm công quả, ngoài chuyện cầu nguyện, van vái còn mang thêm bản chất xã hội. Ðó là những dịp để bạn bè thân thích gặp gỡ nhau trong một khung cảnh linh thiêng. Chùa chiền trong Nam đa số không uy nghi, cổ kính như chùa miền Bắc và miền Trung, mà trái lại thường khiêm tốn, thu mình trong những tàng cây cổ thụ, có khi diện tích cây trái xung quanh lớn hàng chục lần ngôi chùa (các ngôi chùa Miên lại là giang sơn của các loài chim muông). Ði chùa, đi hành hương đối với dân Nam Kỳ, đặc biệt với phụ nữ còn là dịp đi vãng cảnh…

Không lấy làm lạ, là các ngày lễ hội truyền thống như Lễ Hội Bà Chúa Xứ (vía Bà) ở núi Sam Châu Ðốc (25 tháng tư), Lễ Hội Ðền Bà Ðen ở Tây Ninh (rằm tháng giêng), Lễ Hội Cúng Cá Voi ở các vùng ven duyên hải (ngày giờ tùy vùng), Lễ Hội Thánh Ðịa Hòa Hảo ở làng Hòa Hảo Long Xuyên (18 tháng năm âm lịch) … đã diễn ra trong nhiều ngày thu hút hàng trăm ngàn người, không những là tín đồ mà còn là du khách.

Sông nước bao la, kinh rạch chằng chịt và đồng ruộng cò bay thẳng cánh lại là những yếu tố qui định cá tánh của dân miền Nam.

Trái với dân cư vùng châu thổ sông Hồng bị bao vây bởi một hệ thống đê điều, làng mạc miền Bắc được thiết lập từ lâu đời nên bị bao bọc bởi những hàng rào, lũy tre, thân tộc liên kết chặt chẽ nhau qua các thế hệ, làng xã ở miền Nam thường thiết lập ven sông, chạy dài theo kinh rạch, không có lũy tre, hàng rào ngăn cách, dòng họ thân tộc chưa phát triển chằn chịt như ở miền Trung, miền Bắc. Nếu nói văn minh sông Hồng là văn minh đê điều thì văn minh đồng bằng sông Cửu Long là văn minh sông rạch.

Sông rạch đã qui định đời sống kinh tế, chính trị của Nam Kỳ. Chúng ta không ngạc nhiên khi người Pháp bắt đầu thiết kế các thành phố trong Nam, các dinh Chủ Tỉnh, hay các câu lạc bộ để ông tây bà đầm ra hứng mát đều được cất hướng ra sông, rồi chung quanh đó là trường tiểu học, nhà thương, trại lính và khám đường.

Sông rạch lại qui định tâm tính và tâm tình của dân miền Nam.

Ông Nguyễn văn Trung đã viết: Do đó về phương diện xã hội, miền Nam không có chị Dậu trong tắt đèn của Ngô Tất Tố, bị chà đạp ép bức mà vẫn chịu trận. Trái lại giai cấp điền chủ ở miền Nam không thể áp bức hay áp bức dễ dàng nông dân như ở Bắc Kỳ vì nếu không chịu nổi và nếu muốn, vợ chồng chị Dậu chỉ việc xuống ghe thuyền đi tìm một miền đất hứa khác. Ðầm lầy, ruộng hoang còn thiếu gì sẵn sàng đón nhận người đến vỡ đất lập nghiệp (NVT. Lục châu học. Ðặc san TH Mytho, năm 2000, tr. 145)

Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn. Tính lửa rơm, giận thì nói ngay, có khi hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn đi theo sông nước, đồng ruộng bao la. Cái cá tính sẵn có ấy lại được tác động thêm bởi những ý niệm trung hiếu tiết nghĩa qua các truyện Tàu đã ảnh hưởng sâu đậm trong tâm tính của dân miền Nam vào suốt tiền bán thế kỷ 20 và truyện Tàu là một đặc thù của mảng văn học Nam Kỳ Lục tỉnh.

Nhưng bản chất cứng rắn nầy có khi là một khí giới yếu trong những hoàn cảnh cần sự dẻo dai, uyển chuyển, nhất là trong các sinh hoạt chính trị. Người ta thường nhắc đến ông Trần văn Hương với tất cả hai khía cạnh của đặc tánh nầy.

Một khía cạnh tiêu cực khác của sự bộc trực là tánh thiếu cẩn mật và thiếu tế nhị. Sự thẳng thắn đôi khi là một thất lợi trong cách ứng xử, làm vơi đi sự nể trọng của người khách khi người khách không cần biết hết tuốt tuột chuyện trong, chuyện ngoài của người chủ.

Ngoài ra, trong dân gian còn lưu truyền câu Ăn mặn nói ngay để diễn tả sự bộc trực của dân Nam Kỳ. Lịch sử di dân và cuộc sống của lưu dân giải thích phần nào cái bản tính nầy. Lưu dân trên đường xuôi Nam thường phải dùng ghe thuyền để vượt biển và chất mặn của nước biển đã thấm sâu vào huyết quản của lưu dân. Họ quen với múi mặn nên họ thích ăn mặn, thường trong bữa ăn thường có món kho và khô mặn. Chất mặn cần thiết cho họ có nhiều sức lực để dãi dầu mưa nắng, để chịu đựng với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Nhưng làm một phương trình giữa ăn mặn và nói ngay thì có lẽ còn phải phân giải.

Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà còn hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt. Phải hiểu rằng trên biển cả với sóng vổ ì ầm khi xuôi Nam, trong rừng sâu cây cối dầy đặc khi khẩn đất hay trên khoảng đất rộng người thưa, cò bay thẳng cánh, lưu dân khi cần phải nói với nhau phải nói ngắn gọn và nói to để vượt các chướng ngại cách trở. Nhu cầu truyền thông trong một khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt như vậy đã thay đổi phong cách truyền thông của người Thuận Quảng xưa.

Trong công tác khai hoang vở đất, thiên nhiên khắc nghiệt không phân biệt giới tính.

Người phụ nữ Thuận Quảng vào miền Nam phải gánh chịu tất cả những thử thách cam go y như nam giới. Người phụ nữ Nam Kỳ do đó đã được đào tạo và trưởng thành trong cùng một môi trường với nam giới. Tính khí, diện mạo, y phục của người phụ nữ miền Nam vì vậy có phần nào khác với người phụ nữ miền Trung và Bắc. Họ rắn rỏi hơn trong các sinh hoạt, từ gia đình đến xã hội, từ tình cảm đến tâm tình. Cách ăn mặc của họ cũng đơn sơ hơn, ít màu sắc hơn (người bán hàng rong ở đất Bắc, đất Trung vẫn mặc áo dài, còn đại đa số người đàn bà Nam Kỳ quần đen, áo bà ba đen, có khi còn quàng qua vai một cái khăn bàng hay khăn rằn theo kiểu người Miên).

Dân Nam Kỳ chắc vẫn còn nhớ đội đá banh phụ nữ vào khoảng 1940-1950.

Vì lẽ chế độ phụ quyền lỏng lẻo bởi sự suy tàn của Nho học và sự xâm nhập của Tây học, người phụ nữ miền Nam được khai phóng sớm hơn so với phụ nữ miền Trung và miền Bắc trong các tương quan gia đình xã hội. Một khía cạnh của sự khai phóng nầy là chế độ đa thê.

Chế độ đa thê mà xưa kia người Thuận Quảng dễ dàng chấp nhận nhưng khi vào Nam, chuyện vợ lớn vợ nhỏ, tuy vẫn còn, đặc biệt ở thôn quê thuận lợi cho chuyện nầy vì người đàn ông thường phải đi làm ruộng xa, đi thương hồ, nhưng chuyện đa thê thường bị xã hội chống đối.

Nếu vua Minh Mạng có đến 142 người con

Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dựng (trong một đêm ngủ với 5 bà thì 3 bà có thai)

và Nguyễn Công Trứ, lúc 73 tuổi, lấy vợ lẻ thứ 10, cảm tác trong đêm tân hôn:

Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ ?

Ngũ thập niên tiền nhị thập tam

dịch nghĩa là:

Nàng muốn hỏi anh: chàng mấy tuổi?

Năm mươi năm trước mới hăm ba

thì vô Nam, các ông Thuận Quảng phải nhớ là:

Lập vườn thì phải khai mương,

Làm trai hai vợ phải thương cho đồng

và người đời chế giểu:

Sáng mai anh đi chợ Gò vấp

Mua một sấp nhiễu hết sáu chục đồng

Ðem về cho con hai nó cắt

Con ba nó may

Con tư nó đột

Con năm nó viền

Con sáu kết nút

Con bảy đơm khuy

Anh bước cẳng ra đi

Con tám níu, con chín trì

Ớ mười ơi! Sao để vậy còn gì áo anh.

Chuyện Nam Kỳ tính chắc còn nhiều điều phải nói, phải lý giải. Nhưng điều tôi muốn xin thưa với quý vị hôm nay là nếu xã hội miền Bắc và miền Trung đã thành hình và phát triển lâu đời thành những khuôn khổ chặt chẽ, đó là những môi trường tĩnh, thì đất Nam Kỳ vì là một vùng đất mới, vì là một môi trường động nên còn dễ dàng biến chuyển đổi thay.

Văn học Nam Kỳ

Bùi Ðức Tịnh trong bài Phần đóng góp của văn học miền Nam (Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974) đã viết:

Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp từ văn chương cổ điển sang văn chương hiện kim và giai đoạn hình thành của nền quốc văn mới, nghĩa là từ 1865 đến 1932, hầu hết các tác phẩm xuất hiện của miền Nam đều bị coi như không có trong văn học VN.

Nguyễn Hiến Lê trong quyển Bảy ngày trong Ðồng Tháp Mười có thuật lại một cuộc đối thoại giữa tác giả và một người bạn, có cử nhơn luật, được tác giả mời từ Bắc vào viếng Sài Gòn. Sau đây là câu chuyện.

Anh bạn cầm tờ TÐ coi qua vài cái tựa chữ lớn rồi bỏ xuống nói:

–         Tôi không thể nào đọc báo trong nầy được.

–         Sao thế?

–         In sai nhiều quá. Hỏi ngã nhầm be bét, rồi ác, át, an, ang … không phân biệt, thật chướng mắt. Cây cau mà in là cây cao thì có chết tôi không chứ?

–         Còn báo người Bắc không in sai sao? S thì nhầm với X, Tr với Ch mà sao anh không thấy chướng?

–         Bề gì ngoài mình cũng in ít lỗi hơn. Còn nội dung thì bài vở ở đây tầm thường lắm, ít bài xã thuyết có giá trị. Nói chung, về văn học, Sài gòn kém Hà nội xa.

Hai nhận định nầy nói lên một thiên kiến tiêu biểu về việc đánh giá thấp nền văn học Nam Kỳ, cho rằng Nam Kỳ không có văn học, hay văn học kém, thiếu Nho học, và lai căng Pháp. Người Nam không biết viết văn,viết nôm na, sai chánh tả, thậm chí có nhà phê bình đất Bắc nhận định rằng Lục Vân Tiên chẳng phải là một tác phẩm văn chương. Thiên kiến trên dựa vào những tiêu chuẩn giá trị và sự thưởng ngoạn văn chương của người miền Bắc, vốn đã trải qua bao thế kỷ trui rèn trong nền Hán Học, từ sơ khai để trở nên bóng bẩy, chải chuốt, phù hợp với tâm tình và cách ứng xử khách sáo, trang trọng của người Ðàng Ngoài. Khi vợ chồng gọi nhau bằng hiền thê, hiền phụ, và bạn bè xưng tụng là hiền huynh, hiền đệ thì dĩ nhiên lời văn phải trau chuốt gắn liền với nếp sống ấy.

Trái lại, nếp sống của người lưu dân trong vùng đất mới, thuở mới đến khai hoang lập làng, phải chiến đấu thường xuyên với sơn lam chướng khí, cọp beo rắn rít, phải đương đầu với gian khổ hiểm nguy

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,

Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma

Trong hoàn cảnh ấy, các lưu dân từ Thuận Quảng xuôi Nam còn đâu có thời giờ và ý chí mà nghĩ đến hành trang chữ nghĩa.

Nhưng khi nội chiến chấm dứt, khi đất hoang đã thành làng xóm, đời sống lưu dân được tương đối ổn định thì một mảng văn học đặc thù miền Nam đã bắt đầu được hình thành và phát triển từ giữa thế kỷ thứ 19.

Xa đất Bắc, xa cái nôi của Nho Học, tiếp cận với các văn hóa và ngôn ngữ người dân bản địa (Miên, Chàm) và người Minh Hương, lưu dân thường di động trong khoảng đồng ruộng bao la, trên sông nước kinh rạch, lội qua các khu rừng già ngập nước, người Việt vào Nam cần nói và viết sao cho dễ hiểu. Câu văn, câu nói nôm na, bình dân, ngôn ngữ của ruộng đồng là một nhu cầu truyền thông của người dân vùng đất mới. Qua nhiều thế hệ cần lao, tiếp cận với các ngôn ngữ địa phương không khoa cử, văn chương bóng bẩy, hán học vùng nguyên thủy Thuận Quảng đã biến hóa thành thứ văn chương nghĩ sao nói vậy. Do đó, văn chương miền Nam thiên về kể chuyện và trình diễn, thiên về đọc to để mình và để người khác cùng nghe với mình. Người Nam Kỳ nói thơ chớ không ngâm thơ.

Nói thơ là một sắc thái văn chương miền Nam thịnh hành từ thành thị đến thôn quê trong suốt 50 năm đầu thế kỷ 20, là một thú giải trí tao nhã của người có học lẫn ít học, và tác động nhiều đến tâm tình và lòng ái quốc của dân miền Nam. Người nói cứ trình bày các câu chuyện thường dưới thể lục bát theo lối nói thơ Vân Tiên. Vì câu chuyện bằng thơ thường dài hàng trăm câu, người nói và người nghe thường nằm trên võng, ngồi trên bộ ván hay dựa cột. Những chuyện thơ thường viết theo kiểu có hậu, tức là ơn đền oán trả, trang trải những giá trị luân lý, tiềm ẩn tinh thần ái quốc chống Pháp đã đi sâu vào tâm khảm của dân Nam Kỳ. Những chuyện thơ còn nhớ là: Bạch Viên Tôn Các, Chiêu Quân Cống Hồ, Lâm Sanh Xuân Nương, Mục Liên Thanh Ðề, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Lý Thông, Trần Minh Khố Chuối, Thoại Khanh Châu Tuấn …

Bởi lẽ cái đặc tính kể chuyện và trình diễn của văn chương của Nam Kỳ mà truyện Lục Vân Tiên, ngay khi còn ở thể văn Nôm chưa phiên âm ra chữ quốc ngữ thì truyện đã được phổ biến trong dân gian, kể cả những người không biết chữ cũng nói thơ Lục Vân Tiên và tác phẩm nầy đã được tái bản nhiều nhất.

Thanh Lãng đã nhận xét:

Lối văn trong Nam là một lối văn đơn sơ, mộc mạc, dùng hầu toàn chữ Nôm, cách đặt câu có vẽ vắn tắt, không xét gì đến cân xứng, đối chác2. Nói tóm lại, nó là thứ văn VN hơn, dân chúng hơn (Thanh Lãng – Biểu Nhất lãm văn học cận đại. Tự do, Sài Gòn, 1958, tr. 78)

Bởi lẽ quen thưởng thức lối văn cầu kỳ, những điển tích Hán văn hiểm hóc, người đọc và người nghe thường đánh giá thấp loại văn chương nôm na, bình dân của người Nam Kỳ Lục tỉnh.

Có người còn cho rằng viết văn xuôi chữ quốc ngữ có gì là khó, nhưng ở vào một thời điểm mà người ta dạy luân lý bằng diễn ca, dạy tiếng Pháp bằng diễn ca, dạy võ bằng diễn ca, thậm chí đi ăn xin cũng kêu van ngân nga có ca, có kệ, câu đối bằng trắc thì viết văn xuôi, muốn cho nó thông cũng thật là khó. (Bằng Giang: Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, Hà Nội 1972, tr. 376)

Ngoài tính chất thực tiển phù hợp với nhu cầu ngôn ngữ và truyền thông của người dân Nam Kỳ, văn chương quốc ngữ, sở dĩ được phát triển dễ dàng hơn trong Nam là nhờ sự đóng góp tích cực của giới truyền giáo Thiên Chúa, vốn đã phổ biến và sử dụng ngôn ngữ nầy từ thời Alexandre de Rhodes (1593-1660) để truyền đạo.

Trong cuộc Nam Tiến, để có thể giữ đạo trước chánh sách cấm đạo của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn, nhiều làng giáo dân đã giăng buồm bỏ xứ vào lập nghiệp ở vùng đất mới, đặc biệt các vùng cù lao ven sông Tiền, sông Hậu hay cửa sông, cửa biển (Cái Mơn, Cái Nhum, Mặt Bắc, Thom, Mõ Cày, Sóc Trăng, Ba Thắc …).

Nhiều tác phẩm nghiên cứu, tiểu thuyết tiên phong viết bằng chữ Quốc ngữ theo cấu trúc của Tây phương đã xuất hiện trong các xóm đạo từ giữa thế kỷ 19 và những tác giả tiêu biểu của thời kỳ nầy đều là tín đồ thiên chúa giáo như Huỳnh Tịnh Của (1830-1908: 26 tác phẩm), Trương Vĩnh Ký (1837-1898: 111 tác phẩm) Nguyễn Trọng Quản (1865-1911),  Trần Thiên Trung (bút hiệu của Trần Chánh Chiếu 1867-1919).

Riêng Huỳnh Tịnh Của và Trương Vĩnh Ký (nói, viết được 15 sinh ngữ và từ ngữ Tây Phương) đều xuất thân từ Ðại Chủng Viện Poulo Pénang (Mã Lai).

Một yếu tố khác cũng không kém quan trọng là văn chương chữ quốc ngữ lại được chánh quyền bảo hộ khuyến khích, mục đích cho người dân đọc được dễ dàng các thông cáo, nghị định của chánh phủ, bước đầu đưa đến việc dùng chữ Pháp, mục tiêu tối hậu của chánh sách đồng hóa (chữ quốc ngữ chỉ được sử dụng chính thức ở miền Bắc từ 1913 trong khi ở miền Nam đã sử dựng từ nửa thế kỷ trước).

Trong ý đồ ấy, người Pháp đã mở thêm nhiều trường dạy quốc ngữ và chữ Pháp, hô hào giúp đỡ ngưới dân đi học, cốt để đào tạo một đội ngũ công chức thừa hành, hỗ trợ cho công cuộc cai tri của chánh quyền thuộc địa Pháp. Nhưng trong một thời gian dài lúc ban đầu, đa số người nhà giàu, vì lo sợ mất con khi con học tiếng Pháp thì nghĩ rằng Pháp sẽ bắt đưa về Pháp  và các thuộc địa Pháp ở Phi Châu nên có hiện tượng những con nhà giàu mướn con nhà nghèo đi học thay thế. Kết quả là tại Nam Kỳ, đầu thế kỷ 20, một số trí thức đỗ đạt xuất thân từ bần cố nông. Ý thức văn hóa và chính trị của lớp người nầy làm thay đổi phần nào bộ mặt nông thôn miền Nam và là một lực lượng trí thức quan trọng kháng Pháp.

Trong một hoàn cảnh đặc thù như vậy, mảng văn học Nam Kỳ đã phát hiện và phát triển mạnh mẽ từ năm 1865 cho tới khi đất nước qua phân năm 1954. Những mảng văn học nầy bị bỏ quên vì không được biết hay bị bỏ qua vì được biết nhưng bị đánh giá thấp nên không xét tới (Nguyễn văn Trung, Giới thiệu Lục Châu học, tr. 1).

Truyện thầy Lazarô Phiền (chuyện một thầy giảng vì không đáp lại mối tình của một người đàn bà nên bị người đàn bà nầy trả thù bằng cách cáo gian vợ của thầy giảng ngoại tình. Thầy giảng ghen và thuốc vợ chết. Vợ chết rồi thầy mới biết là vợ chết oan. Thầy bị lương tâm cắn rứt cuối cùng cũng chết) của Nguyễn Trọng Quản, một tiểu thuyết tình cảm viết theo lối Tây Phương đã được xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1887, có thể được xem như mở đầu cho tiểu thuyết tình cảm viết theo tiểu thuyết tây phương trong lịch sử văn học nước ta (Ðịa lý văn hóa TPHCM, qu. 2 tr. 234) nhưng các nhà nghiên cứu văn học vẫn nhứt quyết là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, xuất bản ở Hà Nội năm 1924 là quyển tiểu thuyết đầu tiên viết theo thể loại nầy.

Nhiều tiểu thuyết cảm tác theo Tây Phương của Hồ Biểu Chánh (1885-1958), một trong số nhà văn viết nhiều tiểu thuyết nhất VN, 64 tựa trong 50 năm cầm bút (cảm tác chớ không phải phóng tác vì từ cốt chuyện, ông đã viết ra một tiểu thuyết mà khung cảnh và nhân vật đều hoàn toàn khác với cốt truyện nguyên tác, và ông đã thành tín ghi lại tên quyển sách từ đó đã đưa ông đến việc sáng tác, điều ít có của nhà văn thời nầy (thí dụ Chúa tàu Kim Qui, cảm tác từ Le Comte de Monte Christo của Alexander Dumas; Cay đắng mùi đời – Sans famille của Hector Malot; Chút phận linh đinh – En famille của Hector Malot; Ngọn cỏ gió đùa – Les misérables của Victor Hugo; Thầy thông ngôn – Les amours d´Estève của A. Theuriet: Vì nghĩa vì tình – Fanfan et Claudinet của De Courcelle; Ở theo thời – Popage của M. Pagnol…) đã lần lượt được xuất bản ở Sài Gòn cũng bị bỏ quên hay bỏ qua.

Theo ông Nguyễn văn Trung trong Lục Châu học, ông nhận định rằng loại tiểu thuyết lịch sử ở miền Nam đã xuất bản từ 1910, đi trước miền Bắc ít ra là 30 năm và phong phú, hấp dẫn điển hình như Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử (Nguyễn Hữu Ngỡi).

Những tiểu thuyết tình cảm của Lê Hoàng Mưu (1879-1941), Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), Phú Ðức (1901-1970), Bửu Ðình, Phạm Kiên … không được nhắc đến.

Trong lãnh vực báo chí, nhiều tờ báo quan trọng ở Nam Kỳ, có một lịch sử lâu năm được phổ biến ra cả Bắc Kỳ, như Gia định báo (1865-1909 do Ernest Potteaux làm tổng tài rồi sau giao lại cho Trương Vĩnh Ký), Thông loại khoa trình (1888), Nam Kỳ địa phận (1909-1945); Nông cổ mín đàm (1901-1924 nhiều chủ bút, trong số có Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt), Lục Tỉnh Tân văn (1907-1943 do H. F. Schneider sáng lập, Trần Chánh Chiếu rồi Nguyễn An Vĩnh, Lê Hoàng Mưu làm chủ bút) cũng bị liệt vào thứ yếu so với Nam Phong.

Trong loạt bài du ký Một tháng ở Nam Kỳ đăng trong Nam Phong, Phạm Quỳnh trong đó có khen nhưng có chê:

Một địa hạt Nam Kỳ mà bấy nhiêu báo cũng nhiều lắm vậy. Cứ lấy cái lượng mà xét thì đủ thật khiến cho Bắc Kỳ Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ rằng về phương diện ngôn luận còn thậm kém xa quá. Nhưng cái phẩm có được xứng đáng với cái lượng không. Ðiều đó chưa dám chắc vậy.

Ðể nhận xét về các sách dịch thuật truyện Tàu từ đầu thế kỷ 20 vô cùng phát triển ở miền Nam (những dịch giả quan trọng là các chủ bút hay phụ bút cho nhiều tờ báo ăn khách lúc đó như Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư, Nguyễn Liên Phong … nên truyện dịch của họ được đăng ngay trong báo hay in từng tập phổ biến dễ dàng trong dân chúng, gây thành một phong trào), lưu hành ra Trung Bắc và được độc giả Trung Bắc ưa thích, Phạm Quỳnh cũng trong Nam Phong đã nặng lời:

Nghề làm sách trong Nam Kỳ cũng thạnh lắm … Cái số sách xuất bản ở NK không biết bao nhiêu mà kể. Nhất là các loại dịch các tiểu thuyết Tàu cũ như Tam Quốc, Thủy Hử, Chinh Ðông, Chinh Tây, Phản Ðường, Tùy  Ðường, Ðông Châu, Phong Thần … nếu thu thập nhau lại thì làm được cái thư viện nhỏ. Nhưng những tiểu thuyết Tàu từ tám mươi đời đó, văn chương đã chẳng ra gì mà truyện thì toàn oái đản của mấy bác cuồng nho bên Tàu, ngồi không bịa đặt ra để khoái trá bọn hạ lưu vô học, thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ cũng kinh thay. Không trách cái tư tưởng quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi còn sinh ra những việc xuẩn động trong xã hội cũng vì đó …

Nếu chúng ta nghe hai câu văn:

–         Tao mà có cà phê cà pháo gì mậy, ờ mà các chả đang làm cà phê trong cái quán chỗ đám hát Sơn đông đó, nhưng mà khoan đã, để tao dằn bụng chén cháo gà rồi mình lên đường

–         Cầm hào bạc ra phố mà cắt tóc nhanh lên, nhỡ bố về trông thấy thì khốn đấy !

thì chúng ta biết được rằng không gian và thời gian đã có khả năng biến hóa con người, và Nam Kỳ hay Bắc Kỳ đều là sản phẩm của một môi trường lịch sử và địa lý.

Tóm lại, Nam Kỳ có một nền văn học đa dạng, phong phú từ hơn 150 năm nay. Mảng văn học nầy là phản ảnh tiếng nói, tâm tình và tâm tính của người Việt từ Ðàng Ngoài, sau gần 400 năm lập quốc ở phương Nam, hòa tụ với văn hóa Minh Hương và văn hóa bản địa, văn hóa tây phương để biến trở thành một mảng văn hóa độc đáo mang sắc thái đặc biệt của một địa phương Nam Kỳ.

Văn chương bóng bẩy, cầu kỳ, trọng Hán học của vùng Ðất cũ và văn chương mộc mạc, bình dân, hướng về chữ quốc ngữ của vùng đất mới, cả hai đều là văn chương.

Không có thứ văn chương sang, văn chương hèn, văn chương tốt, văn chương xấu.

Lâm văn Bé

(Bản tin HAH NÐC&LNH-Canada, số 19)