Ông Nguyễn Phú Trọng và ‘Trách nhiệm chính trị’

Ba’o Tieng Dan

VOA

Lê Quốc Quân

2-5-2024

Ông Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 1 tháng Hai, 2021. Sau hơn 13 năm cầm quyền, thực tiễn phơi bày ra trước mắt người dân là nỗ lực chống tham nhũng của ông không khả thi. Nguồn: Reuters

Ngày 26/4 Trung ương Đảng đồng ý để ông Vương Đình Huệ “thôi giữ các chức vụ” với lý do ông Huệ đã vi phạm“Những điều đảng viên không được làm… và chịu trách nhiệm người đứng đầu”, sau khi có vụ bắt giữ ông Phạm Thái Hà và những quan chức tập đoàn Thuận An.

Cũng tương tự như vậy, ngày 20/3/2024, ông Võ Văn Thưởng đã thôi giữ các chức vụ vì những lùm xùm liên quan đến tập đoàn Phúc Sơn và các quan chức địa phương ở tỉnh Vĩnh Phúc. Trong tháng 1/2024, trưởng ban kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh buộc phải rời nhiệm sở.

Hơn một năm trước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và hai phó thủ tướng là Vũ Đức Đam và Phạm Bình Minh cũng ngậm ngùi ra đi vì “chịu trách nhiệm chính trị”. Bộ chính trị của Đảng Cộng sản từ đầu nhiệm kỳ có 18 người, nay chỉ còn lại 13.

“Trách nhiệm pháp lý” và “Trách nhiệm chính trị”

Trách nhiệm pháp lý, năng lực chịu trách nhiệm pháp lý và cơ sở truy cứu trách nhiệm pháp lý là những thuật ngữ pháp luật phức tạp. Nhưng tóm lại thì: Trách nhiệm pháp lý là hậu quả mà công dân phải gánh chịu khi vi phạm hoặc không thực hiện các hành vi mà pháp luật quy định.

Tuy vậy, không phải ai cũng phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý vì nó còn thể hiện ở “năng lực chịu trách nhiệm pháp lý”. Một người được coi là không chịu trách nhiệm pháp lý khi: “Mắc bệnh tâm thần và không nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi”.

Một trong những nguyên tắc quan trọng trong pháp lý là cá biệt hoá trách nhiệm, nghĩa là ai làm người đó chịu, nhưng xã hội còn có nhiều loại trách nhiệm khác như: Trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm chính trị… thể hiện sự liên đới giữa các chủ thể với nhau.

Trách nhiệm chính trị là một khái niệm không rõ ràng và chưa có một văn bản nào quy định cụ thể nhưng gần đây nó được bàn thảo sôi nổi trên khắp các diễn đàn. Các cuộc bàn thảo kéo dài từ trung ương đến địa phương, từ đảng bộ tỉnh xuống chi bộ thôn. Nó còn xuất hiện trong mọi ngành nghề, lĩnh vực mà có nhân tố “đảng” lãnh đạo.

Trong một bài báo đăng trên báo Nhân dân, tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng cho rằng “Trách nhiệm chính trị là chế độ trách nhiệm đòi hỏi các quan chức chính trị phải có được sự tín nhiệm của nhân dân hoặc của những người đại diện cho nhân dân. Còn tín nhiệm thì còn chức quyền, hết tín nhiệm thì hết chức quyền”.

Luật pháp và Đảng quy không có điều khoản nào phản bác cũng như ủng hộ quan điểm này của tiến sỹ Dũng, nhưng Đảng CSVN có Quy định số 08/QĐ-TW để về “Trách nhiệm nêu gương” và tại Điều 1 ghi rõ là “Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu nêu gương”, mà muốn nêu gương được thì phải có tín nhiệm. Vậy ai đo mức độ tín nhiệm?

“Lấy phiếu tín nhiệm” và “Bỏ phiếu tín nhiệm”

Để đo mức độ tín nhiệm, Quốc hội dựa vào Nghị Quyết số 85/2014/QH13 ban hành vào năm 2014 về việc “Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn”.

Điều thú vị là Việt Nam luôn có cách làm “khác” với thế giới bằng những ngôn từ rất lạ mà đến các nhà ngôn ngữ học cũng phải đau đầu khó hiểu. Nghị Quyết này của Quốc hội đưa ra 2 khái niệm: “Lấy phiếu tín nhiệm’ và “Bỏ phiếu tín nhiệm”.

Trong “lấy phiếu” thì có 3 mức là: “tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp”. Còn “bỏ phiếu” thì chỉ có 2 mức là: “tín nhiệm hoặc không tín nhiệm”. Cùng một người, một sự việc có khi là “lấy phiếu” có lúc phải “bỏ phiếu”.

Việc đo lường mức độ tín nhiệm thì luôn phải có 3 chủ thể tham gia: Nhân dân, Người thay mặt nhân dân (Quốc hội) và Đảng cộng sản.

Trong mối quan hệ tay ba này, Đảng đã đặt nhân dân ra ngoài cuộc chơi. Đảng thao túng toàn bộ Người đại diện của dân bằng việc cài cắm hơn 97% đảng viên làm Đại biểu quốc hội, rồi qua đó, Đảng giành lấy quyền quyết định vào những thời điểm nhất định, ai là người có tín nhiệm, ai là người không.

Đảng chưa bao giờ có một cuộc trưng cầu dân ý để xác định sự tín nhiệm của Đảng và sự đồng nhất giữa mong muốn của người dân và ý chí của Đảng. Sự tín nhiệm của nhân dân chưa chắc đã là sự tín nhiệm của Đảng; ngược lại, sự bất tín nhiệm của nhân dân cũng có thể không nhất thiết là sự bất tín nhiệm của Đảng.

Độ tín nhiệm “mong manh”

Ví dụ như ông Võ Văn Thưởng đã được Quốc hội bầu làm chủ tịch nước với số phiếu tín nhiệm rất cao (487/488 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành). Ông Vương Đình Huệ thì 100% đại biểu tham gia tán thành bầu làm chủ tịch quốc hội.

Chúng ta còn nhớ hình ảnh Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đi giữa 2 bên là Võ Văn Thưởng và Vương Đình Huệ. Ông nắm chặt tay Võ Văn Thưởng và nhân dân được dịp đồn đoán về một người kế vị cùng nghiên cứu “triết học Mác Lê Nin”.

Sau khi ông Thưởng về vườn, nhân dân lại xôn xao về ông Vương Đình Huệ như là người có khả năng thay thế Tổng bí thư vì đã “cơ cấu từ lâu” và chủ tịch Quốc hội thường là bước đệm để tiến lên chức Tổng bí thư, giống như ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Phú Trọng.

Cả hai ông đã đạt được phiếu tín nhiệm cao nhất để chọn làm chủ tịch nước và Chủ tịch quốc hội. Nhưng đây là sự tín nhiệm vô cùng mong manh vì không phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng thực sự của dân hoặc người đại diện của dân.

Bởi thế cho nên, chỉ một thời gian sau, Đảng lại công bố họ “Vi phạm quy định và làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước”. Mọi sự là do đảng, thậm chí một số rất ít người trong đảng.

Có rất nhiều lời đồn đoán phía sau nhưng xét về mặt hình thức thì không có một bằng chứng rõ ràng minh bạch nào được đưa ra. Nhân dân không có quyền và không có cách nào để xác định mức độ tín nhiệm thật đã có và quá trình mất tín nhiệm của các ông như thế nào.

Nhân dân chỉ biết một cách chắc chắn rằng chỉ đảng viên mới được làm quan chức, và chỉ có quan chức mới có quyền lực để tham nhũng và hiện nay càng chống càng tăng, càng phơi bày một thực tế suy đồi nghiêm trọng. Niềm tin về mức độ tín nhiệm như đang vữa ra từng mảng.

Pandora Box và Hy vọng cuối cùng

Tổng bí thư, ông Nguyễn Phú Trọng xác định tham nhũng là giặc nội xâm và quyết tâm đánh nó để tạo ra được sự “trong sạch” và vững mạnh cho đảng và chế độ. Sau hơn 13 năm cầm quyền, thực tiễn phơi bày ra trước mắt người dân rằng nỗ lực chống tham nhũng của ông là không khả thi.

Ông đã tự mở chiếc “Pandora Box” ra và nay thì nhân dân đã thấy thật sự bộ máy của Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo là một tập hợp của những ổ tham nhũng lớn với sự băng hoại từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Trùm cuối được nhiều người xác định chính là thể chế và không bao giờ đập được chuột mà không vỡ bình vì chính cái bình đó là môi trường sinh ra chuột.

Một mặt, ta thấy “sự dữ” từ chiếc hộp Pandora do chính ông Trọng mở ra đang “bay là là” và phủ kín cả bầu trời vô minh, giống như bầu khí khuyển Hà Nội đang ô nhiễm nặng, đem đến viễn cảnh tồi tệ của tương lai dân tộc Việt Nam.

Nhưng mặt khác, thực tiễn cũng cho chúng ta những hy vọng giống như truyền thuyết về niềm hy vọng còn sót lại trong hộp Pandora. Chúng ta biết rằng tham nhũng luôn gắn liền “khuyết tật” của quyền lực và nếu giải quyết được thì có thể giúp quốc gia cất cánh.

Tham nhũng quan hệ hữu cơ với việc tạo dựng, tổ chức và sử dụng quyền lực. Vì vậy, nếu vì tương lai đất nước, Ông Nguyễn Phú Trọng nên tự nhận “Trách nhiệm chính trị”, rồi cho phép tự do báo chí, mở rộng không gian dân sự, xây dựng nhà nước pháp quyền, nâng cao trách nhiệm giải trình, minh bạch hoá chính sách, từng bước “nhốt quyền lực lại” trong một cơ chế “Check & Balance” (Kiềm chế và đối trọng) thì tự nó theo thời gian sẽ sửa chữa được khuyết tật của hệ thống.

Nếu được vậy, dân tộc Việt Nam sẽ tìm thấy niềm hy vọng để bình an đi tiếp vào tương lai.

 


 

Về nạn ‘bảo hoàng hơn vua’

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

2-5-2024

Thật không ngờ, khi tôi viết “anh em trong nhà đánh nhau” mà lại khiến nhiều người, trong đó có cả những người là nhà báo như ông Trần Quang Đại (báo Lao Động) lại tỏ ra khó chịu và hằn học đến thế. Không bàn đến việc ông Đại chỉ lên Wikipedia đọc lõm bõm vài thông tin méo mó rồi copy rất tự tin mà không hiểu về lịch sử của Hoa Kỳ cũng như lịch sử của chế độ nô lệ (ví dụ, ông Đại nói “Nước Mỹ đã tự đẻ ra tệ nạn nô lệ”!!!).

Cũng xin lưu ý, đây không phải là bài viết trao đổi với ông Trần Quang Đại, tôi chỉ nhân tiện một ý kiến mà viết bài nhằm chia sẻ với đông đảo những ai quan tâm. Bây giờ xin trở lại câu hỏi “Có chuyện anh em trong nhà đánh nhau hay không?”.

Ảnh chụp màn hình status của tác giả Thái Hạo

Không gì “thuyết phục” những người cuồng tín cho bằng phát biểu của chính nhà nước. Vì thế, có lẽ không cần và không nên dẫn chứng hay phân tích dài dòng, cũng không cần thiết đến cả việc nêu quan điểm cá nhân, tôi chỉ cần dẫn lại đây quan điểm chính thống của nhà nước từ bộ “Lịch sử Việt Nam” do Viện Sử học Việt Nam biên soạn và các phát biểu của các tác giả về bộ lịch sử này được báo Tuổi Trẻ tường thuật lại năm 2017, khi bộ sách ra đời. Đó là việc chính thức từ bỏ tên gọi “Ngụy quyền Sài Gòn” và thay bằng “Việt Nam Cộng Hòa, Chính quyền Sài Gòn, Chính thể Việt Nam Cộng Hòa”.

45 năm sau cuộc chiến tranh, sự thay đổi cách gọi này có ý nghĩa gì và vì sao? Xin trích ra đây phát biểu của một số tác giả trong bài báo đã nói trên: “Thừa nhận Việt Nam cộng hòa là bước tiến quan trọng”.

Ảnh chụp màn hình bài báo Tuổi Trẻ

– “TS Nguyễn Nhã cho rằng, về pháp lý quốc tế cũng như về mặt lịch sử, Việt Nam cộng hòa là một thực thể chính trị rất hiển nhiên không thể chối cãi. Có thể khi còn đấu tranh chính trị vì lợi ích chính trị thì không công nhận nhau cũng là chuyện thường tình. Song chính trị thì có thể thay đổi, nhất là khi đất nước đã được thống nhất và đang có nhu cầu thống nhất lòng người, đoàn kết dân tộc để phát triển hùng cường và đấu tranh chống các nguy cơ từ nguy cơ trở thành thuộc quốc hay nguy cơ tụt hậu”.

– “Từ năm 1954 – 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục”.

– “Ông Nhã cũng lưu ý rằng “Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam cộng hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt”.

Không chỉ thế, theo ông Nhã, “… Thừa nhận Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển”.

– “Việc từ bỏ cách gọi “ngụy quân”, “ngụy quyền” và công nhận Việt Nam cộng hòa như một chính quyền độc lập là một bước tiến quan trọng trong việc hàn gắn những vết thương của người Việt sau chiến tranh. Mặt khác điều này có những tác động tích cực đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa bằng công pháp quốc tế”.

– “Các nghiên cứu này đã so sánh các cách thức, quan điểm khác nhau và đi đến kết luận rằng việc công nhận hai quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc.

Và đó cũng là quan điểm có thể chấp nhận về mặt chính trị hiện nay, so với việc chỉ công nhận một quốc gia tại miền Bắc hay tại miền Nam.

Nhận định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai quốc gia cũng là điều được chấp nhận dưới góc độ luật pháp quốc tế theo nghiên cứu của nhiều luật gia quốc tế nổi tiếng”. (Hết trích).

[…]

Đến đây, tôi băn khoăn là có cần phải tiếp tục giải thích để ông Trần Quang Đại và những người như ông hiểu bản chất của vấn đề hay không, vì nó đã quá rõ ràng đối với bất cứ ai có chút tư duy lành mạnh. Thừa nhận chính thể VNCH và tất nhiên là phải từ bỏ “Ngụy quyền Sài Gòn” thì có nghĩa rằng ở đó có một chính quyền độc lập. Xin lưu ý hai chữ “độc lập”. Và cũng tất nhiên sẽ dẫn đến một sự thừa nhận rằng Mỹ hay bất cứ nước nào hiện diện tại miền Nam Việt Nam và được VNCH chấp thuận trong giai đoạn đó thì đều là ĐỒNG MINH của VNCH.

Sách sử chính thống của nhà nước đã thừa nhận VNCH bởi đó không chỉ là một thực tế lịch sử mà nó còn có ý nghĩa tiên quyết đến việc đòi lại chủ quyền của Việt Nam đối với biển đảo của chúng ta. Và còn hơn thế nữa, như đã lần lượt dẫn ra trong các trích dẫn ở trên. Ông Trần Quang Đại và những người như ông có hiểu được rằng chối bỏ chính quyền VNCH (không thừa nhận việc anh em đánh nhau) là đang tự lấy đá ghè chân mình?

Đáng ngạc nhiên là trong khi ở “thượng tầng”, vì biết đặt lợi ích quốc gia lên trên, nên đã rất hiểu vấn đề và có những thay đổi cần thiết trong quan điểm đối với VNCH, thì bên dưới, những người đang phục cho cái thượng tầng ấy như ông nhà báo Trần Quang Đại, lại tỏ ra sốt sắng và nhiệt tình đúng với tinh thần “bảo hoàng hơn vua”. Ông Trần Quang Đại đang muốn chứng tỏ điều gì? Tôi chợt nhớ đến câu “Làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại”.

***

Tôi không muốn tiếp tục bàn về bản chất cuộc chiến 1954 – 1975 vì nó đã được mổ xẻ quá nhiều, bởi chung quy có mấy quan điểm sau: Chiến tranh xâm lược/ chiến tranh ủy nhiệm/ nội chiến. Dù là quan điểm nào, thì như cách thay đổi tên gọi từ “Ngụy quyền Sài Gòn” thành “Chính thể VNCH” mà bộ Lịch Sử Việt Nam đã chính thức ghi nhận, thì nó cũng đã gián tiếp thừa nhận một cách hiển nhiên rằng có tính chất nội chiến. Và như đã dẫn, sự thừa nhận này có ý nghĩa lớn lao đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, bên cạnh đó là hàn gắn lòng người và kế thừa các thành tựu của chế độ VNCH về nhiều mặt, những điều sẽ góp phần vào sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay.

Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, những người vì thiếu sự cập nhật hay vì giàu tính thể hiện để mong lấy lòng bề trên như nhà báo Trần Quang Đại, hãy: Thứ nhất, đừng đi ngược lại với “chủ trương” của chính nơi mà các anh đang phục vụ; thứ hai, phải biết tôn trọng lịch sử và đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên bằng một cái nhìn rộng mở, sẵn sàng từ bỏ những lối nghĩ thủ cựu và hẹp hòi.

Thời gian đã lùi xa nửa thế kỷ, chừng đó có lẽ đã quá đủ để nhìn lại quá khứ và nhìn thẳng vào thực tế trước mắt để có những ứng xử phù hợp. Và như chúng ta đã thấy, vì lợi ích quốc gia, chính nhà nước đã “xóa bỏ hận thù” với Mỹ, bắt tay làm thân, nâng tầm đối tác chiến lược toàn diện, nhưng ông Trần Quang Đại vẫn muốn giữ mối hận thù, đặc biệt là thâm thù với VNCH, là vì sao thế?

Tiếp tục khoét sâu và gieo rắc thù hận, đó là sự nông cạn và có tội với dân tộc. Là những người có học thì nỗ lực hàn gắn và xây dựng tình đồng bào để cùng hi vọng cho một Việt Nam phú cường, thịnh vượng, phải là ý chí bao trùm lên tất cả. Nhưng trước hết, để có được tinh thần ấy, cần vượt qua những nhỏ nhen và toan tính cá nhân.

Trên đây hoàn toàn là “quan điểm chính thống” được phát biểu từ Viện Sử học Việt Nam mà tôi chỉ là người dẫn lại. Những ai quan tâm thì có thể đọc toàn văn bài báo trên Tuổi Trẻ tại đây, và xin nhớ cho đừng “bảo hoàng hơn vua” mà kéo lùi sự phát triển của đất nước.

_______

* Bài của nhà báo Trần Quang Đại: NGƯỜI MỸ ĐÃ “NHÂN VĂN VÀ QUẢNG ĐẠI” NHƯ THẾ NÀO?

– Ngày 29/4/2024, ông Thái Hạo viết trên Facebook cá nhân: “Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen.

Người Mỹ đánh nhau, hai miền đều hạ vũ khí, không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục. Đó là phong độ của người quân tử: nhân văn và quảng đại. Không lạ khi Mỹ thành siêu cường.

Hòa giải chỉ có thể đến từ bên thắng cuộc. Thù hận hay ăn mừng, cả hai đều bít lối tương lai. Cờ quạt và lễ lạt chỉ chứng tỏ bụng dạ hẹp hòi, dân tộc không bao giờ lớn nổi”.

– Xin có vài lời thưa cùng ông:

+ So sánh khập khiễng: Nội chiến Mỹ (1861-1865) hoàn toàn khác với Chiến tranh Việt Nam (1954-1975). Một bên là cuộc chiến giữa 2 miền Nam Bắc Mỹ để xóa bỏ chế độ nô lệ, 1 vết nhơ trong lịch sử Mỹ.

Nước Mỹ đã tự đẻ ra tệ nạn nô lệ tàn khốc và vô nhân đạo, họ đã phải tự giải quyết bằng máu, sinh mạng của khoảng 750.000 binh lính cả hai miền (chưa tính thương vong của dân thường). Đây là 1 con số thương vong khủng khiếp so với dân số Mỹ lúc đó. Sử gia John Huddleston ước tính số người chết chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam trong độ tuổi từ 18-40.

– Còn Việt Nam, dân tộc này đã phải gồng mình để chiến đấu chống ngoại xâm, với sự hiện diện của ít nhất 500 nghìn lính Mỹ trên chiến trường miền Nam với những vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân. Người Mỹ đã “ban phát” cho Việt Nam 15 triệu tấn bom đạn, cùng với khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, đến nay bao nhiêu nạn nhân vẫn quằn quại đau khổ. Họ “nhân văn và quảng đại” như thế đó, thưa ông Thái Hạo.

– Người Mỹ không muốn nhắc lại nội chiến 1861-1865 là đúng, vì đó là vết nhơ đáng xấu hổ trong lịch sử của họ. Còn Việt Nam thì ngược lại, chúng ta có quyền mãi mãi tự hào về võ công oanh liệt chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Kỷ niệm chiến thắng để có động lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó là điều đương nhiên của mọi dân tộc.

+ Thông tin sai lệch về lịch sử: Có phải sau nội chiến, nước Mỹ “không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục” như ông Thái Hạo viết?

– Không, sự thực hoàn toàn khác:

“Sau chiến thắng, Chính phủ Mỹ trấn áp mạnh tay tàn dư của quân đội miền Nam để đảm bảo dập tắt mầm mống ly khai. Tất cả binh sỹ của quân đội miền Nam đều bị giam giữ trong khoảng 2-4 năm cho tới khi một đạo luật ân xá được thông qua vào tháng 5/1866, và phải thêm 6 năm sau đó thì lính miền Nam mới được trao lại quyền công dân theo đạo luật ân xá năm 1872, tuy nhiên luật ân xá này không áp dụng với 500 chỉ huy quân sự cao cấp của Hợp bang miền Nam.

Các lực lượng tàn dư của Liên minh miền Nam cũng không chịu thất bại, họ tổ chức ám sát các quan chức miền Bắc để trả thù, mở màn bằng việc với sự kiện tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát ngày 14/4/1865, tiếp đó là sự ra đời tổ chức Ku Klux Klan vào 24/12/1865, một tổ chức chuyên khủng bố người da đen và cả một số người da trắng chống chế độ nô lệ…” (Wikipedia, mục “Nội chiến Mỹ”).

– P/s: Không rõ, ông Thái Hạo đã đọc qua những thông tin nói trên, ông không đọc hay ông đã đọc và đã quên, hoặc cố tình quên? Có những điều khắc cốt ghi tâm mà 1 công dân trong mối quan hệ với đất nước không được phép quên, thưa ông Thái Hạo!

 


 

NGƯỜI SÀI GÒN? LÀ NGƯỜI BIẾT “CHƠI ĐẸP”

 My Lan PhamNhững Câu Chuyện Thú Vị

NGƯỜI SÀI GÒN? LÀ NGƯỜI BIẾT “CHƠI ĐẸP”

Matthew NChuong

Kể từ sau 30/4/1975 lịch sử xoạc sang trang khác. Hai chữ “chơi đẹp” rơi rụng theo dòng thời gian, rồi ít hẳn trong lối sống hiện nay thì phải?

(bài dưới đây đã đăng cách đây mấy năm, thấy vẫn còn đáng suy ngẫm lắm, bài từ fb John Phạm)

*****

“Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại học. Tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau.

Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở trong cái xô để ở góc quán, mà bụng vẫn trống không.

Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta cũng cho không như trà đá. Chỉ một loáng, nguyên nải chuối để trên bàn chỉ còn đống vỏ.

Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái vỏ chuối để trên bàn, đâm lo không biết tiền mang theo có đủ trả không. Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, chủ quán bước lại, nói:

”Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là không biết có tính tiền nên lỡ ăn, chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu”.

*****

Trong những năm của thập niên 80, có lần tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ, ngang qua rạp Quốc Thanh, thấy một đôi nam nữ đi ra, ngoắc lại: “Xích lô!”.

Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại, tôi hỏi: “Anh chị đi đâu?”

– Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?

Mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. “Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho nhiêu thì cho”.

Anh con trai nói: “15 đồng mọi khi vẫn đi. Cứ chạy đi, tui chỉ đường”.

Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối. Tôi mới nói: “Em mới chạy xe, đi xa không nổi. Anh chị thông cảm, đi xe khác giùm”.

Ai ngờ anh con trai ngoái đầu lại, nói: “Tui biết ông đuối từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!”.

Thế là… được khách chở, đã vậy đến nơi, anh con trai còn trả tiền đầy đủ, không thèm bớt cắc nào vì thực ra tôi chỉ mới chở được hơn nửa đường.

*****

Hỏi người Sài Gòn về đường sá thật dễ chịu, già trẻ, lớn bé đều chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm.

Có những địa chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn Hạnh: “Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường, mé tay phải, 10m. Hỏi hoài mệt quá!”.

Ở Sài Gòn, có nhiều nhà đặt một bình trà đá trước nhà, kèm thêm một cái ly, một cái bảng “nước uống miễn phí”.

Khi bạn đang chạy xe trên đường phố Sài Gòn, nếu có ai đó la lớn nhắc bạn quên gạt cái chân chống, hoặc nhắc bạn nhét cái bóp vào sâu trong túi quần bị lòi ra sắp rớt, đích thị đó là người Sài Gòn!

Bây giờ còn vậy nữa không, nhiều hay ít?

Mà nếu bạn không còn gặp những người như vậy, câu trả lời của tôi là… những người mà bạn gặp đó không phải là người Sài Gòn. Vậy thôi.”

THAY LỜI KẾT

Đây là mẩu chuyện ngắn từ một người tù:

“Năm 1978 khi ra tù, tại ga xe lửa đường Lê Lai, một anh xích lô chạy đến hỏi tui :“Về đâu?”. Tui nói thật, “Mới ra tù, không còn tiền…”. Anh xích lô huơ tay, nói ngay: “Lên đi ông nội, tui chở về. Không có tính tiền đâu“. Làm sao tui quên được câu nói đó…”

Không bị chết cứng bởi quan điểm chính trị chính em gì ráo, người Sài Gòn sống với nhau quan trọng hơn hết là phải biết “CHƠI ĐẸP”.

Hai chữ “chơi đẹp” nghe gọn lỏn, mà hay vô cùng.

Hình như hai chữ “chơi đẹp” đã biến mất khỏi ngôn ngữ hiện nay rồi thì phải…

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

 Điều mỉa mai của lịch sử, về người anh hùng ‘giải phóng’

Ba’o Nguoi-Viet

April 30, 2024

Huỳnh Duy Lộc/SGN

Thiếu Úy Lê Văn Phượng sinh năm 1945 tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội, là một trong bốn bộ đội trên chiếc xe tăng mang số hiệu 390 đã húc đổ cánh cổng chính của Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 Tháng Tư 1975.

Thiếu Úy Phượng trở về cuộc sống đời thường như bao nhiêu người lính đã hoàn thành nhiệm vụ. Được biết đến như một người anh hùng trong chiến đấu, nhưng ở quê ông (phường Ngô Quyền, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) có người lại quy ông thuộc diện tiêu cực vì đã có nhiều năm đấu tranh đòi đất bị cưỡng chế, đòi lại quyền sở hữu hợp pháp cái ao gần 500 m2 của gia đình ông

Ông Phượng cho biết, khi ông đem đơn khiếu nại đi đòi đất thì chính quyền địa phương chẳng hề quan tâm tới. Thậm chí ngày Thương Binh Liệt Sĩ, ngày “chiến thắng 30 Tháng Tư” cũng chẳng có ai đại diện cơ quan chính quyền, đoàn thể tới thăm ông và gia đình.

Theo trình bày của ông, năm 1962 cha ông là ông Lê Văn Đảm được UBHC thị xã Sơn Tây cấp cho 300 m2 đất ở phía sau vườn hoa phố Ngô Quyền. Ngoài diện tích này, tại công văn cấp đất được ký ngày 10 Tháng Mười Hai 1962 còn ghi thêm: “Ông Đảm được phép cải tạo những phần đất còn lại hoang hóa để làm nhà ở và tăng gia sản xuất tự túc.”

Ông Phượng nhớ lại: “Khi đó xung quanh khu vực này hoang vu, không có ai ở, gia đình tôi thu dọn đắp cái ao hoang hóa liền kề với đất ở để thả cá và thả rau. Suốt 50 năm qua gia đình vẫn liên tục sử dụng cái ao này và không tranh chấp với bất cứ ai.”

Một trong những lý do miếng đất này bị cưỡng chế là vì cái ao này nằm ở vị thế rất đẹp, giá thị trường tới vài chục triệu đồng /m2, nhưng bị UBND thị xã Sơn Tây chia lô bán đấu giá.

Ông Lê Văn Phượng ở quê nhà lúc sinh thời. (Hình: FB)

Được biết ngày 29 Tháng Ba, 2016, ông Phượng lìa đời mà vẫn chưa đòi lại được phần đất của gia đình. Nhưng điều đáng nói, là lúc còn sống, khi gần đến ngày 30 Tháng Tư, ông Phượng được báo chí tìm đến để ca bài ca cũ về “giải phóng,” ông được chính quyền địa phương căn dặn là không được nhân cơ hội tiếp xúc với báo chí, kể về đơn kiện đòi đất vì sẽ làm mất uy tín của Đảng và Nhà Nước.

Và cứ mỗi 30 Tháng Tư, ông được giới tay sai tuyên truyền đưa hình ảnh, ca ngợi… ông bị lợi dụng để làm đẹp cuộc cưỡng chiếm miền Nam, nhưng cả đời tới lúc chết, ông vẫn không dùng được chút gì hình ảnh đẹp của mình trong chế độ cộng sản để đòi lại quyền lợi riêng của gia đình, của chính mình đã bị đánh cắp.

* tựa bài do SGN đặt, tựa gốc “Sự trớ trêu của lịch sử”.


 

 Có một 30/4 khác: CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC TRỌNG DỤNG

Nhạc xưa, hình cũ

 

Có một 30/4 khác: CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC TRỌNG DỤNG

Kỳ 1: Nhân vật chính phim CÔ NHÍP

——————–

Tên thật nhân vật là Cao Thị Nhíp, thuộc tổ chức Biệt động Sài Gòn (tên do tổ chức đặt là Nguyễn Trung Kiên), đã dẫn dắt đoàn xe tăng quân đội Bắc Việt tiến đánh vào phi trường Tân Sơn Nhứt vào sáng ngày 30/4/1975.

Sau 30/4/1975, Cao Thị Nhíp chuyển sang làm thuyết minh viên cho Bảo tàng Cách mạng TP.HCM.

Năm 1976, Cao Thị Nhíp được đạo diễn Khương Mễ mời vào vai chính trong bộ phim Cô Nhíp, tác phẩm đầu tiên của điện ảnh miền Nam GP sau 30/4/1975. Phim đã giành giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4 (1977).

Năm 1983, Cao Thị Nhíp chuyển sang làm việc ở Công ty Thương nghiệp Tổng hợp Quận 5, rồi lập gia đình và sinh được 2 con.

Sau đó gia đình Cao Thị Nhíp chuyển sang định cư ở Mỹ (bang California), rồi xin nhập quốc tịch Mỹ.

Khi gặp lại người bạn thân cũ và được hỏi về câu chuyện ngày 30 tháng 4 năm xưa, Cao Thị Nhíp trả lời: “Tôi đã quên rồi! Quên lâu lắm rồi!”.

Trên đây là câu chuyện về một người “quay xe” mà mỗi độ 30/4 về, bộ máy truyền thông của chế độ luôn né tránh, không nhắc tới.

Xin mượn câu mở đầu bài hát Căn Nhà Dĩ Vãng của NS Đài Phương Trang, làm câu kết cho bài viết này:

“CHUYỆN XƯA, CHÔN VÙI THEO BÓNG THỜI GIAN!…”

Nhạc xưa, hình cũ

——————–

(*) Chú thích:

+ Ảnh 1: Cao Thị Nhíp dẫn xe tăng quân đội Bắc Việt tiến đánh phi trường Tân Sơn Nhứt sáng ngày 30/4/1975.

+ Ảnh 2: Việt kiều Cao Thị Nhíp trong chuyến về thăm VN năm 2015

+ Nguồn tham khảo và hình ảnh: Google + FB Văn Toàn

Nhà văn Nguyễn Quang Lập: Sài Gòn đã giải phóng tôi

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

Thứ mì tưởng chỉ dành cho du hành vũ trụ

Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.

Thằng Minh khoe cái cassete ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có.

Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bĩu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca số 7. Kết thúc Sơn ca số 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn. Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn..

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí..

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt. Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt..

Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Capstan, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt..

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn..

Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị..

Tôi thì rất vui vì biết mình đã “được giải phóng”

Nguồn: Nguyễn Quang Lập


 

Vingroup và công an chỉ “cột dây giày trong ruộng dưa”?

 Ba’o Tieng Dan

RFA

Đồng Phụng Việt

30-4-2024

Xe điện của VinFast được trưng bày ở cửa hàng tại Hà Nội hôm 29/9/2023. Ảnh minh họa. Nguồn: AFP

Lê Minh Nguyên vừa đưa lên trang Facecebook của ông bài lược thuật về tai nạn xảy ra ở Pleasanton – một thành phố nhỏ ở khu vực Bắc California, hôm 24/4/2024. Bài lược thuật đó không dài nên xin dẫn lại:

VinFast làm thinh – Báo Việt Nam không được đăng

Gia đình bốn người chết hết vì đi xe VinFast đụng vào cây sồi bốc cháy khoảng 9 giờ tối thứ tư 24/4 ở Pleasanton, Bắc California. Tốc độ cho phép lái trên đường Stoneridge Drive của thành phố này là 40 dặm một giờ, có nghĩa là tốc độ tương đối chậm, có thể thắng kịp khi gặp sự cố. Cảnh sát cho biết việc xe chạy quá tốc độ có góp một phần vào tai nạn và không có chỉ dấu gì là do rượu, ma túy hay giằng co, gây gổ. Xe va vào trụ lề đường rồi lạc tay lái đụng vào cây, bốc cháy dữ dội ngay sau đó và ông Larry Lai, sống gần đó cho biết, ông đang ở bên ngoài thì nghe thấy tiếng nổ vào thời điểm xảy ra tai nạn. Ông nói: “Cứ năm đến mười giây lại có một tiếng nổ lớn, có thể khoảng năm đến tám lần. Ba nguời chết đã được nhận diện là: Tarun Cherukara George, 41 tuổi. Rowan George, 13 tuổi, Aaron George, 9 tuổi. Người thứ tư do bị cháy quá tệ nên chưa thể nhận diện sớm được, chỉ biết là phái nữ.

VinFast từ chối sự tiếp xúc để xin ý kiến của hãng tin NBC Bay Area. Cho tới thời điểm này, VinFast vẫn còn làm thinh về tai nạn. Trong nước các báo loan tin thì bị gỡ bài. VinFast không thể và không nên ứng xử thờ ơ trước một tai nạn kinh khủng như vậy ở Mỹ, không nên đem cung cách ứng xử với nguời tiêu dùng ở Việt Nam để áp dụng ở Mỹ, vì sẽ thất bại ê chề!

Việc xe chạy quá tốc độ cho phép, vẫn còn chưa rõ là lỗi từ người lái – một kỹ sư làm việc cho Google và được láng giềng quý mến – hay từ phần mềm. Dù cuộc điều tra đang tiến hành để biết chính xác nguyên nhân xảy ra tai nạn nhưng cháy và nổ liên tục khi xe vừa đụng vào cây cho thấy người trong xe không có những phút giây cần thiết để tẩu thoát, người cứu nạn không có thời gian và điều kiện để tiếp cận giải cứu – đây là những điều mà Tesla đã cẩn thận làm và test tới test lui trước khi đưa ra thị trường.

VinFast bán xe nhưng nên hiểu là mạng người không rẻ rúng (1).

***

Thật ra đã có rất nhiều người trích dịch tin tức từ các cơ quan truyền thông ở Mỹ, trong đó có cả những cơ quan truyền thông hướng đến độc giả người Việt như RFA về vụ tai nạn thảm khốc này (2). Người viết bài chọn giới thiệu lược thuật của ông Lê Minh Nguyên về tai nạn liên quan tới sản phẩm của VinFast vì vài lý do: Có một số thông tin mới. Chừng mực. Đặc biệt, ông Nguyên cũng là người Việt nhưng chắc chắn không cần phải… đào tẩu và… xin tị nạn như… Sonnie Tran vì ông ở bên ngoài Việt Nam!

Sonnie Trần tên thật là Trần Mai Sơn, 38 tuổi, cũng là người Việt như ông Lê Minh Nguyên nhưng sống ở Việt Nam. Sonnie Tran nổi tiếng vì chuyên chắt lọc, tổng hợp thông tin từ các cáo bạch của Vingroup, đối chiếu với những tài liệu của các doanh nghiệp ngoại quốc như Tata, LongChuan,… để phân tích, nhận định về Vingroup và VinFast – một trong những sản phẩm nổi tiếng của Vingroup – trên mạng xã hội. Những phân tích của Sonnie Tran được thiên hạ chú ý vì chúng thuộc dạng… điền thế (cung cấp các thông tin, ý kiến về Vingroup hay VinFast mà thiên hạ quan tâm nhưng không thể tìm thấy trên hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam).

Tuy nhiên đó cũng là lý do Sonnie Tran gặp rắc rối. Từ cuối năm ngoái đến đầu năm nay, Sonnie Tran liên tục bị công an Việt Nam triệu tập để lấy lời khai vì các sản phẩm thông tin mà theo công an là có dấu hiệu “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Việc Sonnie Tran bị sách nhiễu đã khiến một số cơ quan truyền thông quốc tế ngạc nhiên và nêu ra như một hiện tượng vừa kỳ dị, vừa đáng ngại ở Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tuy nhiên điều đó không giúp giảm áp lực mà Sonnie Tran phải gánh chịu. Áp lực gia tăng đến mức Sonnie Tran phải trốn khỏi Việt Nam, tìm cách được hưởng quy chế tị nạn chính trị,…

Tin Sonnie Tran đào tẩu xuất hiện gần như cùng lúc với tin về vụ tai nạn thảm khốc ở Pleasanton. Gọi là đào tẩu vì theo Sonnie Tran, ông đã bị cấm xuất cảnh và rắc rối xuất hiện, áp lực càng ngày càng gia tăng bởi công an Việt Nam thực hiện yêu cầu của Vingroup (3). Vingroup đã từng làm như thế với nhiều người. Một trong những vụ từng khuấy động dư luận là chuyện ông Trần Văn Hoàng dám sử dụng YouTube để phàn nàn về những khiếm khuyết của chiếc VinFast mà ông đã mua rồi bị công an triệu tập…

***

Thiên hạ ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam đã từng và có lẽ sẽ còn tiếp tục bàn tán rất nhiều về việc tại sao hệ thống truyền thông chính thức ở Việt Nam lại chọn phương thức hành xử theo kiểu “mũ ni che tai” trước những thông tin, sự kiện mà về mặt nghề nghiệp vốn dĩ không thể bỏ qua nhưng lại cương quyết không màng tới chỉ vì không có lợi cho sự nghiệp của Vingroup. Thiên hạ cũng không thể lý giải tại sao công an Việt Nam lại quan tâm và bảo vệ Vingroup tận tình như vậy?

Ông Tô Lâm – nhân vật lãnh đạo Bộ Công an – có biết hiện tượng hết sức bất thường này không? Đặc biệt là khi hiện tượng hết sức bất thường này trở thành “sự kiện và vấn đề” trên hệ thống truyền thông quốc tế, gây tổn hại cho nỗ lực vận động thiên hạ công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh – vấn đề có tính chất sống còn đối với sự ổn định và phát triển của kinh tế, xã hội Việt Nam – chẳng lẽ hiện tượng hết sức bất thường đó nằm ngoài phạm trù an ninh kinh tế?

Trong quá khứ, ông Tô Lâm từng dính dáng đến chủ một thực thể vốn gần gũi với người đang nắm giữ quyền điều hành Vingroup. Thực thể đó là Công ty Nghe nhìn toàn cầu (AVG). AVG nằm trong tay của ông Phạm Nhật Vũ – bào đệ của ông Phạm Nhật Vượng. Năm 2014, ông Phạm Nhật Vũ quyết định bán 95% cổ phần cho Mobifone (doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thông tin truyền thông – TTTT). Giá trị thực của số cổ phần này chỉ có 1.900 tỷ đồng nhưng Mobifone lại mua với giá 8.900 tỷ đồng.

Sự việc vỡ lở, một Ủy viên BCH TƯ đảng đồng thời là cựu Bộ trưởng TTTT bị phạt tù chung thân (Nguyễn Bắc Son), một Ủy viên BCH TƯ Đảng kiêm Bộ trưởng TTTT lúc đó bị phạt 14 năm tù (Trương Minh Tuấn), Chủ tịch Hội đồng thành viên Mobifone bị phạt 23 năm tù (Lê Nam Trà),… nhưng ông Phạm Nhật Vũ chỉ bị phạt ba năm tù vì hai… ngày trước khi Thanh tra của chính phủ (TTCP) công bố Kết luận Thanh tra (KLTT) đã chủ động đề nghị hủy thương vụ, trả lại toàn bộ tiền cho Mobifone.

Tuy TTCP khẳng định trong KLTT rằng Bộ Công an đã phát hành ba công văn “trái quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền”, đồng thời đề nghị “Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an tổ chức kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật các tổ chức, cá nhân thuộc Bộ Công an trong việc tham mưu ban hành ba văn bản tham gia ý kiến với Bộ TTTT” (4) nhưng ông Tô Lâm khi ấy là Thượng tướng, Thứ trưởng Công an – người ký cả ba văn bản vẫn vô sự.

Phiên xử vụ án Mobifone – AVG cho thấy, cả ba văn bản mà ông Tô Lâm đã ký không chỉ dọn đường để Mobifone mua cổ phần của AVG với giá trên trời mà việc tùy tiện xếp thương vụ vào diện “Mật” hoặc “Tối mật” đã ngăn chặn tất cả mọi người tiếp cận, đề cập đến thương vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG. Sự việc vỡ lở chỉ vì một số thành viên của Mobifone kiên trì tố cáo không ngưng nghỉ cả bằng đơn, thư gửi đi khắp nơi lẫn bày ra những khuất tất trên mạng xã hội và tương quan thế lực ở thượng tầng thay đổi.

Một trong ba công văn  (CV số 418/BCA-TCAN ngày 9/3/2015) đề nghị Bộ TTTT “chỉ đạo hai doanh nghiệp không công khai, tuyên truyền sự việc, quản lý chặt chẽ các thông tin, tài liệu liên quan đến việc chuyển nhượng vì đây là bí mật kinh doanh của doanh nghiệp”. Đồng thời Thượng tướng Tô Lâm còn “đề nghị Bộ Thông tin Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí không đưa tin, bài viết bình luận về hoạt động chuyển nhượng giữa hai doanh nghiệp” (5). Xem lại công văn này ắt thấy, “biện pháp nghiệp vụ” vừa kể đã được dùng nhiều lần, với nhiều đối tượng và đã dùng ắt vấn đề không nhỏ.

Chưa có bằng chứng nào về việc Bộ Công an nói chung và lực lượng an ninh thuộc Bộ Công an nói riêng, bảo kê cho Vingroup. Cũng chưa có bằng chứng nào về việc Vingroup dùng Bộ Công an, song chẳng lẽ tất cả đều là ngẫu nhiên? Ngạn ngữ có câu “trong ruộng dưa đừng cột dây giày, dưới gốc mận đừng sửa mũ”, hàm ý người tử tế nên tránh gây ngộ nhận. Cả Vingroup lẫn Bộ Công an dưới quyền điều hành của ông Tô Lâm chưa chú ý để tránh ngộ nhận và trong tương lai có muốn tránh chăng?

_________

Tham khảo:

(1) https://www.facebook.com/LeMinhNguyen22/posts/pfbid046tZ4n4UG8aro4LMVFaKZp8GaVatP9GrnM46Bys43BXNLWyTmLvwQ663TnbQVX8Sl

(2) https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/vinfast-car-crash-4-deaths-04292024060743.html

(3) https://www.voatiengviet.com/a/sonnie-tran-xin-ti-nan-to-cong-an-sach-nhieu-ham-doa-do-ong-phan-tich-vinfast-vingroup/7587298.html

(4) https://thanhtra.com.vn/thanh-tra/hoat-dong-nganh/Thanh-tra-Chinh-phu-cong-bo-ket-luan-thuong-vu-MobiFone-mua-AVG-131455.html

(5) https://baotiengdan.com/2022/12/27/su-nghiep-cua-hai-pho-thu-tuong-pham-binh-minh-va-vu-duc-dam-cham-dut-phan-2/


 

 Hai Facebooker bị bắt theo Điều 331 trong vòng hai ngày (RFA)

RFA

2024.04.29

Bà Bùi Thị Linh

 Công an

Bà Bùi Thị Linh (35 tuổi) bị Công an tỉnh Điện Biên bắt hôm 27/4 với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331, Bộ Luật Hình sự Việt Nam.

Mạng báo An ninh Thủ đô loan tin ngày 28 tháng tư cho biết bà Bùi Thị Linh từ ngày 22/7/2023 đến nay đã đăng 50 bài viết, “livestream” trên danh khoản Facebook “tài xế đòi” liên quan việc cơ quan chức năng bắt giữ chồng bà này là ông Phạm Văn Dũng. Ông Dũng bị bắt trong một vụ án về chứa chấp, sử dụng chất ma túy tại quán Karaoke Q5 do Công an Điện Biên xử lý hồi đầu năm 2023.

Nội dung của những bài viết và “livestream” của bà Bùi Thị Linh bị cơ quan chức năng cho là có những lời lẽ xúc phạm danh dự nhân phẩm của nhiều cán bộ, lãnh đạo Công an, Viện Kiểm Sát, Tòa án… Bà này còn bị cho chống đối lực lượng chức năng, không hợp tác nên phải cưỡng chế đưa về cơ quan Công an làm việc.

Cũng tin liên quan việc bắt giữ theo Điều 331, trong ngày 28 tháng tư, Công an thành phố Hà Nội cho biết vừa thực hiện lệnh bắt giữ đối với ông Dương Minh Cường (28 tuổi), ngụ tại quận Hai Bà Trưng.

Những hoạt động cụ thể của ông Dương Minh Cường khiến ông bị cáo buộc vi phạm Điều 331 không được Công an TP Hà Nội nêu rõ.

Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam lâu nay bị các tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế cho là “mơ hồ’ mà Chính phủ Hà Nội dùng nhằm “bịt miệng’ công dân muốn bày tỏ ý kiến cá nhân của họ.


 

Từ bị nhồi sọ đến tự giải ảo về Hồ Chí Minh

Ba’o Dat Viet

April 29, 2024

Tượng Hồ Chí Minh là nỗi ám ảnh với nhiều người dân

Đa số, nếu không nói là tất cả người dân miền Bắc, nhất là thế hệ sinh sau năm 1975 như tôi, đều được nhồi sọ là phải tôn thờ Hồ Chí Minh, phải tin tuyệt đối vào “sự lãnh đạo tài tình của đảng.” Cho nên, khi tôi hòa mình vào đám đông im lặng – sản phẩm của sự nhồi sọ ấy, tôi là bạn. Ngược lại, khi tôi đứng lên cùng với sự thật, chính những con người đó đã kết án, đã chửi rủa tôi không chỉ riêng vì tội thôi sùng bái ông Hồ, mà là tội dám từ bỏ niềm tin cộng sản.

Một ngày nọ đi làm về, khi vừa bước vào nhà, tôi đã phát hiện cái bàn thờ ông Hồ Chí Minh không còn ở vị trí cũ. Chắc là bố tôi đã chuyển nó sang chỗ khác. Tôi ngó nghiêng tất cả những vị trí trang trọng nhất mà tôi nghĩ bố tôi sẽ đặt bàn thờ, hoặc chí ít là treo được tấm hình cho xứng tầm với sự “vĩ đại” của ông. Nhưng không, giờ đây nó nằm chềnh ềnh trong thùng rác. Bát nhang và những tấm gỗ nằm ngổn ngang, lẫn với đủ loại gốc rau, vỏ trái cây, ruột cá – thứ mà mẹ tôi vừa vứt vào khi chuẩn bị bữa tối cho cả nhà.

Trên chiếc chiếu bố tôi hay ngồi uống trà, ảnh ông Hồ đã bị lột khỏi tấm khung gỗ, nằm vật vờ, méo mó. Tôi lặng lẽ nhặt bức ảnh lên, kín đáo kẹp vào cuốn sổ tay, cất trong ngăn bàn. Tôi sốc, và cả sợ hãi. Một nỗi buồn vô cớ ập đến, bám riết lấy tâm hồn tôi. Hai mươi bảy năm sau cái ngày được gọi là “giải phóng” ấy, bố tôi đã đoạn tuyệt với ông Hồ, với chủ nghĩa Cộng Sản, theo một cách bất ngờ như thế.

Ngày ấy tôi không hiểu vì sao ông lại làm như thế. Bố tôi không bao giờ giải thích, chỉ nói cộc lốc một câu “Đừng bao giờ nhắc đến ông ta nữa.” Nhưng từ đó, mấy mẹ con tôi phải nghe những lời chửi rủa nhiều hơn, nhất là khi xem chương trình thời sự của đài truyền hình nhà nước, với những câu như “Đ.m. cộng sản” hay “Đ.m. quân lừa đảo.”

Nhưng vào lúc ấy, tôi vẫn là một thanh niên yêu ông Hồ và tin vào đảng CSVN, dù lý trí không tự giải thích được vì sao lại thế. Nếu hồi đó có người hoạnh họe về niềm tin của tôi, chắc chắn là tôi sẽ không trả lời được. Hoặc nếu có, thì sẽ lại nói như con vẹt, nói cùn như bọn dư luận viên bây giờ.

Đồng nghĩa với sự sùng bái Hồ Chí Minh và đảng CSVN của tôi lúc đó là sự căm ghét đối với chế độ VNCH, với các nhân vật lãnh đạo miền Nam như Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi từng tin rằng, ông Diệm đã lê máy chém đi khắp miền Nam để giết hại đồng bào mình. Tôi từng tin những người lính phục vụ trong chế độ VNCH đều là những người ăn thịt trẻ con, giết phu hiếp phụ. Tôi đã tin, và phải tin, vì ở trường và ở nhà, tôi đều được ấn vào đầu những điều như thế.

Hai năm sau ngày đập bỏ bàn thờ ông Hồ, bố tôi qua đời. Đó là một sớm mùa Đông Tháng Mười Một Âm Lịch năm 2004 với cái lạnh tê tái, ngọt tận đến xương.

Tôi dại. Khi bố tôi nhồi nhét đủ thứ mang danh những điều “tốt đẹp, kỳ diệu, vĩ đại” gắn với ông Hồ và đảng CSVN vào đầu óc non nớt của tôi, tôi tiếp thu rất nhanh. Tôi cứ tưởng bố tôi cũng phải dạy con cách từ bỏ Hồ Chí Minh và đảng CSVN giống như cách ông dứt khoát vứt xuống đất, để giúp tôi thôi trở thành kẻ sùng bái họ. Lẽ ra, tôi phải nhận thức được ngay, từ cái ngày ông đập bỏ bàn thờ Hồ Chí Minh với lời tuyên bố “Đừng bao giờ nhắc đến ông ta nữa,” hay những câu chửi tục “Đ.m. cộng sản,” “Đ.m. quân lừa đảo” khi nhìn thấy những lời tuyên truyền trên TV.

Tôi vẫn tiếp tục yêu ông Hồ như thế, cho đến một ngày, tôi lôi tấm hình ông Hồ ra, tự tay xé nát thành từng mảnh vụn. Lúc ấy cũng vào một ngày mùa Đông năm 2006. Khi ấy, tôi vừa tròn 29 tuổi.

Mọi thứ, đến chầm chậm với tôi, nhưng dứt khoát và mãnh liệt, qua những trang tin điện tử từ hải ngoại mà tôi phải vượt tường lửa mới tiếp cận được. Có một sự thật rất khác với cái được gọi là “sự thật” mà người ta muốn tôi, muốn cả dân tộc này phải tin.

Tôi như trải qua một cơn bạo bệnh. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận một cách trọn vẹn dư vị của nỗi đắng cay khi biết, và nhận rõ mình bị lừa dối. Và cả sự xấu hổ, ê chề. Tôi chưa bao giờ thấy xấu hổ như thế cho dù không ai nhận ra cơn chấn động tinh thần của mình.

Đa số, nếu không nói là tất cả người dân miền Bắc, nhất là thế hệ sinh sau năm 1975 như tôi, đều được nhồi sọ là phải tôn thờ Hồ Chí Minh, phải tin tuyệt đối vào “sự lãnh đạo tài tình của đảng.” Cho nên, khi tôi hòa mình vào đám đông im lặng – sản phẩm của sự nhồi sọ ấy, tôi là bạn. Ngược lại, khi tôi đứng lên cùng với sự thật, chính những con người đó đã kết án, đã chửi rủa tôi không chỉ riêng vì tội thôi sùng bái ông Hồ, mà là tội dám từ bỏ niềm tin cộng sản.

Tôi thấy mình cần phải có một thái độ dứt khoát trước thời cuộc dù tôi chỉ là một đứa con gái còi cọc, nhát gan, nặng chưa đầy 36 kg và nhất là chữ nghĩa chẳng được bao nhiêu. Nếu tôi không làm gì, có lẽ thời cuộc cũng chẳng thèm giận hờn gì tôi cả. Tôi chỉ là một kẻ vô danh trên cõi đời này, thêm hay bớt thì nhân gian này vẫn thế.

Nhưng tôi cần sám hối, cần xét đoán lại mình, đơn giản để được là chính tôi. Tôi phải tự thoát khỏi cơn mê, chui ra khỏi cái vỏ trứng để làm một sinh linh dù yếu ớt, nhưng nhìn thấy ánh sáng của sự thật và làm chứng cho sự thật. Quyết định ấy không phải sản phẩm của một cơn bốc đồng thời cuộc, sự nổi loạn của tuổi trẻ hay lòng tự ái bị tổn thương, đến ào ạt rồi tan biến để rồi chỉ còn sự tiếc nuối và sợ hãi. Bày tỏ thái độ trước thời cuộc đồng nghĩa với việc bị liệt vào danh sách “kẻ thù của chế độ,” để bước vào một cuộc đời khác đầy bão tố, chông gai và tù đày. Nhưng tôi được là chính mình.

Tôi không bao giờ quên lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy những chú thương phế binh VNCH bằng xương bằng thịt tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn, vào cuối năm 2015. Đêm hôm trước, tôi rất hồi hộp vì sắp được gặp những con người mà mình từng nghĩ oan, từng được giáo dục là phải căm ghét và coi họ như những tội đồ của dân tộc. Lần thứ hai sau gần chục năm, ý nghĩ sám hối lại trở về với tôi.

Tôi đứng lặng lẽ ở một góc của sân Hiệp Nhất trong nhà thờ, nơi tổ chức các buổi “Tri ân thương phế binh VNCH,” và khóc. Đầu tiên, tôi còn kìm được. Càng về sau, nước mắt càng tuôn ra, với những tiếng nấc cứ lớn dần lên. Một người bạn, là con của một cựu quân nhân VNCH chạy đến, ôm tôi. Cả hai chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi khóc, không chỉ xót thương cho “những con người bị bỏ rơi hơn cả” trong chế độ cộng sản tàn ác này. Khóc, để xót thương cho một nửa đất nước từng phồn thịnh, tự do, đẹp đẽ đã bị bức tử bởi những kẻ man rợ nhân danh đủ thứ chủ nghĩa bệnh hoạn. Khóc cho sự ngu dại một thời của tôi, của biết bao người dân miền Bắc vẫn chưa có cơ may, hoặc chưa đủ dũng khí để làm một cuộc gột rửa bản thân đặng góp phần cứu nguy cho dân tộc.

Quê hương Việt Nam quá dư thừa những nỗi đau. Còn nỗi đớn đau nào đau hơn khi phải chứng kiến cảnh triệu triệu đồng bào ăn mừng trên nỗi đau thương, bất hạnh của triệu triệu đồng bào khác cũng mang tên Việt Nam, vào mỗi dịp Tháng Tư về.

Thanh Nghiên


 

“TRỘM SÁCH”-Bài viết của Trần Gia Huy

“TRỘM SÁCH” SAU 1975.

Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu.

TRỘM SÁCH THỜI VNCH TRƯỚC 1975.

Một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.

Ngay lúc đó thì ông Khai Trí bước vào…

Thấy ồn ào, ông dừng lại hỏi chuyện gì. Cô thâu ngân viên thuật lại sự việc và ông khách cũng đề nghị trả tiền như ông đã nói với cô thâu ngân. Ông Khai Trí cầm cuốn sách lên coi sơ qua rồi nói:

– Phải là học trò giỏi mới dùng tới cuốn sách này chứ học kém thì không dùng tới. Cám ơn lòng tốt của ông nhưng để tôi tặng cậu ta, không lấy tiền và sẽ còn giúp cậu ta thêm nữa…

Ông trao cuốn sách cho cậu bé, thân mật vỗ vai khuyên cậu cố gắng học hành rồi móc bóp lấy tấm danh thiếp, viết vài chữ, ký tên và đưa cho cậu:

– Từ nay hễ cần sách gì cháu cứ đem danh thiếp này đến đưa cho ông quản lý hay cô thâu ngân, họ sẽ lấy sách cho cháu. Ngày trước bác cũng là học sinh trường Pétrus Ký mà…

Ông bắt tay, cám ơn ông khách lần nữa rồi đi vào trong.

Ba năm sau, nghe nói cậu bé đậu xong Tú tài phần II, được học bổng du học nước ngoài, hình như sang Canada.

Một buổi chiều (sau 1975 khá lâu), người ta thấy một “ông già” khoảng ngoài 70 tuổi, ăn mặc theo lối Việt kiều, đứng ngắm trước cửa nhà sách Sài Gòn với nét mặt buồn buồn rồi bước vào hỏi thăm các cô bán sách về ông Khai Trí, các cô nói hình như ông đã mất cách đây đến hàng chục năm.

“Ông già Việt kiều” lại ra đứng ngắm trước cửa tiệm sách hồi lâu, lấy khăn giấy lau nước mắt, chắp tay hướng lên trên trời khẽ vái ba vái rồi đi. Không ai biết ông ta là ai cả…

Đọc chuyện xưa rồi ngẫm chuyện nay…”

Bài viết của Trần Gia Huy


 

 Không phải chỉ tham và dốt, mà là cố tình phá hoại

Ba’o Tieng Dan

Song Chi

27-4-2024

Lãnh đạo Sài Gòn tham, dốt nên chặt bỏ những hàng cây rợp bóng mát khiến Sài Gòn đã nóng càng thêm nóng, hay đây chỉ là một trong những sự cố tình phá hoại thành phố này?

Vì như nhiều người cũng nhận xét, trước kia tại những con đường có bóng mát việc kinh doanh cũng sầm uất hơn, người đi lại nhộn nhịp hơn, khách du lịch cũng thích thú đi dạo. Còn bây giờ, ngay cả những đại lộ khu trung tâm như Nguyễn Huệ, Tôn Đức Thắng… cứ vào những giờ nắng lên cao là vắng ngắt.

Về kinh tế thì xem Sài Gòn như con bò để vắt sữa, làm ra bao nhiêu tiền phải đóng vào ngân sách tới 82% rồi 79% (trong khi có những thành phố chả đóng góp hoặc đóng góp rất ít vào ngân sách quốc gia thì tối ngày xây cổng chào, tượng đài tiền tỷ để “ăn”); hạ tầng cơ sở thì không xây dựng, không những thế còn phá. Phá nát tất cả những gì thuộc Sài Gòn xưa, từ kiến trúc cũ, những địa điểm, địa danh lịch sử cho tới phi trường quốc tế Tân Sơn Nhứt cũng bị biến thành phi trường nội địa, rồi những hàng cây rợp bóng mát một thời lãng mạn của Sài Gòn… Không phải cố tình phá hoại thì là gì?

Cộng sản ở đâu cũng tâm địa nhỏ nhen giống nhau. Cứ nhìn Hong Kong, từ một làng chài nghèo qua tay người Anh đã trở thành một trung tâm tài chính thương mại quốc tế, một thành phố tự do, dân chủ, văn minh, hiện đại, âm nhạc, phim ảnh gì cũng đều phát triển (thập niên 50, 60, 70, 80 của thế kỷ trước các nước láng giềng trong đó có Việt Nam đều mê phim Hong Kong, diễn viên tài tử ca sĩ Hong Kong, hồi đó phim Hàn, nhạc Hàn làm gì đã “xuất hiện” đình đám như bây giờ). Vậy mà, chỉ về với “đất mẹ” chưa tới 3 thập niên, toàn bộ sự tự do dân chủ của Hong Kong bị triệt tiêu, Hong Kong xuống về mọi mặt, bởi vì sau khi học hỏi những cái hay của Hong Kong một thời gian là Bắc Kinh siết lại, và chỉ tập trung đầu tư cho những thành phố lớn của đại lục như Thượng Hải, Thẩm Quyến…

Không chỉ Sài Gòn, miền Tây Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long từng một thời trù phú, làm chơi ăn thật, không bao giờ biết đến hạn hán là cái gì, người nông dân Nam Bộ thông minh biết thuận theo thiên nhiên, mùa nào thì trồng cây gì, nuôi con gì. Vào tay các lãnh đạo duy ý chí, dốt nát, đem những bài học xử lý đê điều các thứ của vùng đồng bằng sông Hồng áp dụng vào miền Tây, làm đảo lộn hệ sinh thái sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long gây bao nhiêu thiệt hại, hạn hán ngập mặn bắt đầu xảy ra, cộng thêm việc Trung Cộng, Lào, Campuchia xây các đập thủy điện gây tác hại thêm mà không thấy Việt Nam có những động thái mạnh mẽ gì hoặc lo có kế hoạch đối phó; đến vụ kênh đào Funan Techo đã rập rình từ mấy năm nay rồi bây giờ mới thấy Việt Nam bắt đầu chính thức lên tiếng, liệu có quá trễ?

Quan chức lãnh đạo từ trên xuống dưới chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham, rồi lo đánh nhau giành ghế, có quan tâm đến chuyện gì khác đâu?