Tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường bị mất chức, nghi tham nhũng

Ba’o Dat Viet

October 27, 2024

Chiều hôm qua, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thông báo việc miễn nhiệm chức vụ Tổng Thư ký Quốc hội đối với ông Bùi Văn Cường, sau khi ông này xin nghỉ hưu theo nguyện vọng cá nhân. Theo truyền thông nhà nước, Nghị quyết về việc miễn nhiệm không chỉ dừng lại ở chức vụ Tổng Thư ký mà còn bao gồm cả việc thôi làm Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đại biểu Quốc hội khóa XV của ông Cường. Các chế độ, chính sách về hưu trí của ông sẽ được thực hiện theo quy định hiện hành.

Ông Bùi Văn Cường, sinh năm 1965, đã đảm nhận vai trò Tổng Thư ký Quốc hội từ tháng 4/2021. Trước đó, ông từng giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, nơi ông đã vướng vào vụ lùm xùm liên quan đến cáo buộc đạo văn. Vụ việc bắt đầu khi vào tháng 8/2020, Tiến sĩ Phạm Đình Quý, một giảng viên của Đại học Tôn Đức Thắng, đã công khai tố cáo ông Cường “đạo luận án tiến sĩ, gian dối học thuật để thăng tiến không trong sáng”. Những bài báo đăng tải thông tin này sau đó đã bị gỡ bỏ, và Tạp chí Môi trường và Xã hội – nơi đăng bài viết về vụ tố cáo – đã bị Bộ Thông tin và Truyền thông phạt 50 triệu đồng và tước giấy phép hoạt động báo in trong hai tháng vì “đưa tin sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng”.

Vụ việc không chỉ dừng lại ở những cáo buộc trên truyền thông. Tiến sĩ Phạm Đình Quý đã bị bắt giữ vào tháng 9/2020 và sau đó bị Toà án Nhân dân TP Buôn Ma Thuột tuyên án hai năm chín tháng tù giam về tội “vu khống” vào tháng 1/2022. Cùng với ông Quý, một người khác là ông Hoàng Minh Tuấn – người cũng tham gia tố cáo ông Cường – cũng bị tuyên án hai năm sáu tháng tù với cùng tội danh.

Việc ông Bùi Văn Cường rời khỏi vị trí Tổng Thư ký Quốc hội diễn ra trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh công tác nhân sự, với nhiều thay đổi ở các vị trí lãnh đạo quan trọng. Sự ra đi của ông Cường được cho là động thái nhằm làm sạch bộ máy và duy trì sự minh bạch trong quá trình chuẩn bị cho Đại hội 14 của Đảng. Tuy nhiên, vụ việc liên quan đến những cáo buộc đạo văn trong quá khứ vẫn để lại những dấu ấn không dễ phai trong sự nghiệp chính trị của ông.

Quyết định miễn nhiệm và nghỉ hưu của ông Bùi Văn Cường không chỉ là vấn đề nhân sự đơn thuần, mà còn phản ánh sự phức tạp và nhạy cảm trong công tác kiểm soát thông tin, xử lý những vụ việc liên quan đến cán bộ cấp cao. 


 

Từ văn hóa sợ hãi đến văn hóa không sợ hãi: Con đường cho dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 21

Ba’o Tieng Dan

Vũ Đức Khanh

26-10-2024

Sau hơn nửa thế kỷ chịu sự kìm kẹp của chế độ Cộng sản, Việt Nam đã tồn tại một “văn hóa sợ hãi” lan rộng và sâu đậm. Đa số người dân không dám lên tiếng trước bất công, không dám tập hợp nhau lại để đấu tranh cho quyền lợi chính đáng, cho tự do và công lý.

Nỗi sợ hãi đã ngấm vào máu thịt, khiến họ tự thu mình, chấp nhận im lặng, chịu đựng. Nhưng có lẽ đã đến lúc chúng ta cần đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta phải sợ chính quyền? Tại sao chúng ta lại chấp nhận sống như những cá thể bị kiểm soát thay vì là những con người tự do?

Đối với con người, sự sống quý giá nhất. Ai cũng muốn sống. Nhưng sống là gì, nếu không phải là để trải nghiệm, để hoàn thiện chính mình và góp phần làm giàu có xã hội? Sống không chỉ là sự tồn tại vật chất, mà còn là sống trong tự do, không bị đe dọa bởi bất kỳ thế lực nào. Văn hóa sợ hãi chỉ là một gánh nặng trói buộc con người trong nỗi sợ vô hình. Chúng ta không thể để cho nỗi sợ đó cầm tù mãi. Đây là lúc để biến nỗi sợ hãi thành sức mạnh, để xây dựng một văn hóa không sợ hãi – một nền văn hóa của sự tự do, lòng dũng cảm, và niềm tin vào tương lai.

Văn hóa sợ hãi là gì?

Văn hóa sợ hãi không phải là một khái niệm trừu tượng. Nó là trạng thái mà trong đó, mỗi cá nhân đều phải cân nhắc lời nói, hành động của mình vì lo sợ hậu quả. Đó là khi người dân sợ hãi cả những điều rất cơ bản như quyền tự do biểu đạt, quyền tụ tập, quyền yêu cầu một xã hội tốt đẹp hơn. Văn hóa sợ hãi là sản phẩm của một hệ thống chính trị mà quyền lực nằm hoàn toàn trong tay một nhóm nhỏ, và mục tiêu của họ là duy trì quyền lực bằng mọi giá.

Nhưng văn hóa sợ hãi không chỉ tồn tại nhờ sự đe dọa và đàn áp. Nó cũng tồn tại nhờ vào sự chấp nhận và khuất phục của mỗi người dân. Mỗi người khi cúi đầu trước bất công, khi chọn im lặng thay vì lên tiếng, khi chọn sống an phận thay vì đấu tranh, chính là lúc họ tiếp tay cho văn hóa sợ hãi tồn tại. Nỗi sợ hãi của người này sẽ lây lan đến người khác, và từng chút một, cả một dân tộc dần dần bị giam hãm trong một nhà tù vô hình.

Xây dựng văn hóa không sợ hãi

Để thay đổi, chúng ta phải bắt đầu từ những bước nhỏ nhất – từ chính bản thân mỗi người. Một “văn hóa không sợ hãi” không phải là sự bất chấp liều lĩnh, mà là sự dũng cảm có suy nghĩ, có lý tưởng. Đó là khi mỗi cá nhân dám đứng lên bảo vệ sự thật, công lý, và quyền lợi của mình, đồng thời hiểu rằng chính những hành động nhỏ bé này là những viên gạch xây dựng nên một xã hội tự do, công bằng và tốt đẹp hơn.

Trước hết, hãy dạy cho con cháu mình rằng sợ hãi không phải là giải pháp, và khuất phục trước bất công không bao giờ là điều đúng đắn. Trẻ em cần được dạy rằng quyền tự do không phải là điều gì xa xôi hay mơ hồ, mà là điều chúng có quyền được hưởng từ khi sinh ra. Chúng cần biết rằng tự do không thể tồn tại nếu thiếu lòng dũng cảm và quyết tâm đấu tranh.

Tiếp theo, hãy khuyến khích mọi người chia sẻ suy nghĩ, ý kiến của mình, tập hợp nhau lại để cùng nhau lên tiếng trước những vấn đề chung của xã hội. Tinh thần đoàn kết, khi kết hợp với lòng dũng cảm, sẽ là vũ khí mạnh mẽ nhất để phá tan văn hóa sợ hãi. Không ai có thể làm điều này một mình, nhưng cả một dân tộc đoàn kết, biết yêu thương và ủng hộ lẫn nhau, thì không gì có thể ngăn cản được.

Tại sao chúng ta phải sống dũng cảm?

Lịch sử đã chứng minh rằng sự sợ hãi và khuất phục chưa bao giờ dẫn đến tự do hay hạnh phúc bền vững. Những người hèn nhát sẽ chỉ để lại cho con cháu họ một di sản của sự yếu đuối và bất công. Ngược lại, những người dám đấu tranh, dám hy sinh, chính là những người để lại cho hậu thế một tương lai rạng ngời, một xã hội tự do, một nền văn hóa không sợ hãi.

Chúng ta sống, nhưng không phải để chấp nhận làm nô lệ cho nỗi sợ. Sống là để cống hiến, để làm cho cuộc sống này trở nên ý nghĩa hơn không chỉ cho chúng ta mà còn cho con cháu, những thế hệ mai sau. Nếu chúng ta không đứng lên bây giờ, thì ai sẽ là người bảo vệ cho tương lai của con cháu chúng ta? Nếu chúng ta không dám hy sinh, thì ai sẽ là người gieo mầm cho một xã hội không còn sợ hãi?

Một Việt Nam không sợ hãi sẽ là một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng

Đã đến lúc để đất nước chúng ta bước sang một trang mới. Một Việt Nam không sợ hãi sẽ là một Việt Nam tự do, dân chủ, và thịnh vượng. Đây không phải là điều không thể đạt được; nó chỉ phụ thuộc vào ý chí, lòng dũng cảm và niềm tin của mỗi người dân. Đã đến lúc chúng ta gạt bỏ nỗi sợ hãi, để nó không còn là gánh nặng đè nặng trên vai mỗi cá nhân. Đã đến lúc mỗi người trong chúng ta dũng cảm đứng lên, đấu tranh vì một tương lai tốt đẹp hơn cho chính mình, cho gia đình và cho cả dân tộc.

Nỗi sợ hãi sẽ không còn chỗ đứng trong một xã hội mà mỗi người đều ý thức được giá trị của tự do và công lý. Và chỉ khi đó, chúng ta mới thực sự sống đúng nghĩa – không còn là những con người bị giam hãm, mà là những con người tự do, mạnh mẽ và dũng cảm. Hãy cùng nhau xây dựng một Việt Nam không sợ hãi, một Việt Nam tự do, dân chủ, và thịnh vượng, vì tương lai của chính chúng ta, và vì tương lai của thế hệ mai sau.


 

50 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (Kết)- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

25/10/2024

Những cố gắng cuối cùng để thoát khỏi Sài Gòn. Nguồn: Hugh van Es/REUTERS

Xem tiếp phần I, phần II

50 năm nhìn lại ngày 30 tháng Tư, chỉ mong rằng sau này, người ta biết coi là một bài học đau thương của cả một dân tộc.

15-4, 1975 | Phúc trình về số vũ khí viện trợ còn lại ở miền Nam

Theo thông tin của hãng AP, tin từ Ngũ Giác đài cho hay số vũ khí, đạn dược, máy bay bị hủy hoại hiện nay tính bằng tiền là 780 triệu Mỹ kim. Nhưng nếu tính cá các kho hàng, phi trường, bến cảng thì số tiền lên đến từ 5 đến 10 tỷ. 300 máy bay mà một nửa là trực thăng đã bị mất, hoặc bất khả dụng vì thiếu phụ tùng thay thế.

Trong cuộc triệt thoái Tây nguyên, chúng ta để mất hầu như hơn phân nửa các xe tải, súng đại bác cũng như các xe tăng.

15- 4 | Lời tuyên bố của Thái tử Sihanouk

Theo tin của hãng Reuters, từ Paris cho hay, thái tử Norodom Sihanouk của Cam Bố tuyên bố, ông sẽ rút lui khỏi chính trường trong trường hợp chính quyền hiện tại rơi vào tay cộng sản. Ông nói, “Sau chiến thắng, tôi tin chắc là tôi sẽ rút lui. Tôi đã ở ngôi vua từ lúc 18 tuổi cho đến nay tôi dã 52 tuổi. Tôi nghĩ rằng tôi đã phục vụ đầy đủ xứ sở của mình.” Ông nói thêm, “Tôi không phải người cộng sản, tôi cũng không phải Khmer rouge. Tôi không muốn là thứ bù nhìn của Khmer rouge.”

15-4, 1975 | Sau 7 ngày bị bao vây và pháo kích liên tục

Bản đồ mặt trận Xuân Lộc , tháng Tư 1975. Nguồn: Gucci | vnafmann.com

Xuân Lộc (Long Khánh), sau 7 ngày đêm bị bao vây và phái kích liên tục. Nhưng vẫn đứng vững. Phát ngôn viên quân đội Việt Nam cho hay hiện nay họ rút ra bên lề thành phố.

Về phía cộng sản, sau 7 ngày giao tranh, Văn Tiến Dũng đã liên lạc với Bộ chính trị tại Hà Nội cho thêm thời gian để tổng tấn công Sài Gòn.

Văn Tiến Dũng nhận định rằng sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo đa cầm cự một cách dũng cảm. Mặt khác, tướng Nghi ở Phan Thiết cũng gây cản trở không ít cho việc tiến quân từ Phan Rang vào. Các cánh quân từ vùng một chưa thể kịp thời điều động kịp thời vào miền Nam để tiếp tay đánh chiếm An Lộc

Bộ chính trị từ Hà Nội đã cấp thời trả lời: Đồng ý thời hạn cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong bức điện tín ký tên Lê Duẩn.

Tin buồn cho Xuân Lộc là Phan Rang đã mất. Phần phi trường Biên Hòa thì bị cộng quân pháo kích nặng nề và trở nên tê liệt. Việc tiếp tế cũng như hỗ trợ bỏ bom bị giới hạn rất nhiều. Số phận An Lộc sẽ tùy vào đó để có thể đương đầu với sự tấn công của cộng quân.

Nhưng trong suốt cuộc thoái quân của quân đội VNCH, người ta thấy rằng nếu muốn, chúng ta có thể cầm cự lâu hơn là chúng ta tưởng! Xuân Lộc đứng vững từ 9 đến 22 tháng Tư, 1975 là một bằng chứng.

Sáng ngày 15 tháng tư, 1975

Đây là lần đầu tiên, phi trường Biên Hòa bị pháo kích. Đoàn 325 từ Huế đã vào vị trí tân công ở Xuân Lộc. Trung bình một ngày Xuân Lộc nhận lãnh 2000 quả đạn pháo kích. Một đơn vị quân đội ở phía Đông Xuân Lộc đã được trực thăng bốc đi.

Tình hình quân sự càng lúc càng tỏ ra lún sâu thì các vận động chính trị càng trở nên ráo riết.

26 nhà chính trị ở Sài Gòn trong một thông cáo vào ngày 13 thúc dục chính quyền nhường lãnh thổ để có thể để đạt tới ngưng bắn.

Tinh thần chủ bại lan rộng vào nhiều tầng lớp dân chúng.

TT Trí Quang, nổi tiếng một thời, tuyên bố một cách buồn bã vào ngày 15-4 là “Chiến tranh đã thua. Tất cả mọi chuyện, ngay cả tín ngưỡng rồi cũng sẽ bị tiêu diệt khi cộng sản nắm chính quyền.”

Lời tuyên bố muộn màng. Nhưng có còn hơn không!

16 tháng tư, 1975

Bản đồ VNCH Ngày 16 tháng Tư. Nguồn AP

Cánh quân ở Phan Rang với 2500 binh sĩ đã rút lui khỏi Phan Rang bằng đường biển, khi bị cộng quân với quân số 5000 người tấn công có xe tăng yểm trợ. Phan Rang cách Sài Gòn 165 dặm.

Cộng quân nay kiểm soát 18 thành phố trên tổng số 44 và chiếm hai phần ba lãnh thổ miền Nam.

Nguồn tin quân sự cho hay sau khi quân đội VNCH rút đi, máy bay đã đến bỏ bom phi trường Phan Rang. Có thể có hai sĩ quan cao cấp của VNCH đã bị cộng sản bắt cầm tù.

Cũng ngày hôm nay, phi trường Biên Hòa tiếp tục bị pháo kích và bộ chỉ huy của quân đoàn III. Có 4 máy bay phản lực F5 đã bị phá hủy và căn cú không quân Biên Hòa phải tạm đóng cửa.

Sư đoàn 18 đóng ngoài Xuân Lộc cho đến lúc này cũng khó thoát khỏi bị tràn ngập. Hàng ngàn quả pháo đã rót vào Gia Kiệm, cách Xuân Lộc 8 dặm và có khoảng 2000 binh sĩ sư đoàn 18 đang trấn giữ ở đó. Gia Kiệm cách Sài Gòn 38 dậm.

Người ta nhận thấy cộng quân dùng chiến xa của VNCH bỏ lại  khi tháo chạy để tấn công ngược lại binh sĩ VNCH. Tinh Thần binh sĩ vì thế càng xuống thấp.

Ngày 16 tháng Tư | Tin vui hay tin buồn

Theo tin của UPI, từ Washington cho hay Quốc Hội Hoa Kỳ vừa chấp thuận chuẩn chi 200 triệu đô la để giúp việc di tản 5000 người Mỹ và 174.000 người Việt Nam. Thượng nghị sĩ John. J. Sparkman thuộc tiểu bang Alabama nói thêm rằng Quốc Hội cũng cho phép di tản ngay 4000 người Mỹ nội trong tuần này, còn lại 1000 người trong tuần sau. Ngoài ra còn có khoảng 200 triệu cho viện trợ nhân đạo.

Cho đến lúc này, Kissinger còn yêu cầu Quốc Hội Mỹ cấp tốc chuẩn chi 1.3 tỉ đô la cho Việt Nam.

Khả năng và sức mạnh duy nhất mà quân đội miền Nam có được là các cuộc thả bom xuống các vùng do địch chiếm đóng. Vậy mà phần đông các máy bay F-5 và A-37 tại căn cứ không Biên Hòa không cất cánh được vì các cuộc pháo kích của cộng quân.

Chỉ có không quân mới có thể làm chậm bước tiến của cộng sản.

Và theo các giới chức Hoa Kỳ, không có máy bay, VNCH sẽ bị tràn ngập bởi ưu thế về người và ưu thế quân sự và những tuần lễ tới đây là những tuần lễ quyết định cho số phận miền Nam. Đã thế, do sự cung cấp của Nga Xô các loại hỏa tiễn surface-to-air missile đã làm giảm thiểu khả năng uy thế của máy bay của không lực Việt Nam.

Ngày 20 tháng tư, 1975

Đại sứ Mỹ Martin đến gặp Thiệu không phải với tư cách đại diện nước Mỹ hay đại sứ Mỹ mà như một người bạn để bàn vệc Thiệu cần ra đi. Cuộc nói truyện kéo dài khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Đại sứ Martin không hẳn khuyến khích ông Thiệu từ chức. mà ông nghĩ rằng trước lúc chia tay, Tổng thống Thiệu hứa rằng, ông sẽ làm điều gì xét rằng tốt nhất cho đất nước của ông.

Ngày 22 tháng Tư | Thiệu từ chức

Trong diễn văn từ chức, ông Thiệu, một lần chót trước công chúng, đã có dịp trả một món nợ cho một người mà ông thù ghét nhất, Henry Kissinger.

“I never thought a man like Mr. Kissinger would deliver our people to such a disastrous fate.” – President Thieu in resignation speech.

Ông Thiệu đã có lý để làm như vậy trước khi từ chức.

Sau này dù Tổng thống Gerald Ford có phủ nhận giá trị ràng buộc những thư mật giữa Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu thì điều đó cũng chỉ cho thấy, người Mỹ đã phản bội những lời hứa hẹn của Tổng thống Nixon. Thượng nghị sĩ Henry Jackson gọi đó là những thỏa thuận bí mật (secret agreement) không chối bỏ được.

Trước khi từ chức, ông Thiệu có gọi cho đại sứ Martin có thể nào giúp ông rời khỏi Việt Nam không? Dĩ nhiên là vì đại sứ Mỹ có thể làm được. Đại sứ Martin liền nhờ trùm tình báo Thomas Polgar lo việc này. Polgar lại giao trách nhiệm cho Frank Snepp. Ông này có bổn phận đến ông Thiệu ở tư dinh tướng Khiêm trực tiếp lái xe, đưa ông Thiệu ra phi trường và đại sứ Martin đã ở sẵn đó, có lời giã biệt Thiệu.

Trước lúc đó trên một chiế xe Volkswagen, tướng Timmes cùng với viên Đại sứ đi gặp tướng Kỳ. Ở đây, ông Đại sứ khuyên tướng Kỳ không nên hành động gì vì kết quả sẽ chẳng đi đên đâu.

Cũng được biết rằng trước đó, ông Hoàng Đức Nhã nhận được một cú điện thoại của Thủ tướng Lý Quang Diệu mời sang Singapore. Sang đến nơi, thủ tướng Lý Quang Diệu cho Hoàng Đức Nhã hay là người Mỹ đã dàn xếp để ông Thiệu có thể rời Việt Nam đến một nước nào đó thuộc Đông Nam Á.

Hoàng Đức Nhã gọi điện thoại về cho ông Thiệu. Ông Thiệu trả lời ông đang mong chờ tin tức như thế.

Cuộc ra đi của ông Thiệu cùng với Trần Thiện Khiêm cùng với vài sĩ quan phụ tá bay sang Đài Loan. Có tất cả 14 người trong chuyến bay đêm này. Tất cả bọn họ đều là đàn ông.

Thư cựu TT Nguyễn Văn Thiệu gởi TT Trần Văn Hương xin người đi công tác, 25/1975.

Có nhiều người không ngờ rằng, đêm nay ông Thiệu và ông Khiêm lại cùng đến một điểm hẹn. Trước đây dư luận Sài Gòn cho rằng giữa hai người có nhiều khác biệt và thủ tướng Khiêm đang tìm cách để lật đổ ông Thiệu.

Rõ ràng là sai lầm. Ông Khiêm luôn luôn chứng tỏ là một người trước sau trung thành với ông Thiệu. Cũng có dư luận cho rằng ông Thiệu mang theo nhiều vàng. Theo ông trùm mật vụ Thomas Polgar, ông Thiệu đã không mang theo một chút vàng nào trong mười mấy chiếc valise của ông. Tổng thống Thiệu hiện có anh ông đang làm đại sứ ở Đài Loan, còn thủ tướng Khiêm cũng từng là cựu đại sứ VNCH tại đây. Người Mỹ đã dùng một chiếc máy bay DC-6 có thể bay đi bất cứ đâu mà không cần tiếp tế nhiên liệu.

Ông Thiệu còn cẩn thận xin Tổng thống Trần Văn Hương ký cho một sự vụ lệnh sang Đài Loan thăm viếng, lễ tang Tổng thống Tưởng Giới Thạch, mặc dầu ông này đã chết từ ngày 6 tháng Tư, và đã an táng hôm 16.

Tin TT Tưởng Giới Thach qua đời (7/4) và lễ an táng ngày 16/4 và công văn viết tay ngày 25/4 của TT Trần Văn Hương cử cựu TT Nguyễn Văn Thiệu và ĐT Trần Thiện Khiêm đi dự lễ an táng TT Trung Hoa Dân Quốc.

Còn lại là số phận miền Nam. The game is over!

Theo tin hãng AP từ Sài gòn thì nay Tổng thống Trần Văn Hương định giao cho tướng Minh làm thủ tướng chính phủ, nhưng nhất định từ chối lời yêu cầu của tướng Minh là vai trò tổng thống. Tổng thống Trần Văn Hương sau đó đã mời chủ tịch Thượng Nghị Viện Trần Văn Lắm để chính thức nhường ngôi vị cho ông Dương Văn Minh. Với sự chuẩn y của Quốc Hội. Với 134 thượng nghị sĩ còn sót lại đã tới dự bầu Minh làm tổng thống.(*)

Trong khi đó cộng quân vẫn tiến hành cuộc tấn công vào Sài Gòn và chờ đợi một giải pháp chính trị như họ yêu cầu.

Theo nguồn tin của tình báo phương Tây thì cộng quân đã ở vào vị trí sẵn sàng tấn công vào Sài gòn vào ngày thứ hai.

Nội các của thủ tướng Nguyễn Bá Cấn thì đã từ chức vào thứ tư vừa qua sau chỉ 11 ngày như một nội các tạm thời chờ được thay thế.

Những áp lực đòi Tổng thống Trần Văn Hương, 71 tuổi, rút lui để ông Dương Văn Minh có thể tạo một chính phủ mới mà cộng sản có thể chấp nhận thương thảo.

Phía bên kia, tướng Dũng gửi một điện cho tướng Tấn, “Phải vượt mọi khó khăn để chùng ta có thể ngày 29 tháng tư mở trận đánh cuối cùng vào Sài gòn.”

Nay dù đã thay ông Hương bằng Dương Văn Minh thì phía Hà nội đã cương quyết không có thương lượng gì cả, từ chối đàm phán với ông Minh.

Đó chỉ là những đòn phép chính trị giả mạo mà thôi.

Người Mỹ đã dùng trực thăng đưa được 4500 người ra tầu biển đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam.

Ngày 24 tháng tư, 1975. Viet Nam war finished for Americans-Ford

Vào tối thứ tư, Tổng thống Ford đã đến đọc một bài diễn văn tại đại học Tulane trước 4700 sinh viên đang vui mừng.

Tổng thống Ford tuyên bố, “Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Và ông kêu gọi người dân Hoa Kỳ ‘to write a new agenda for the future”.

Và ông cho rằng nay là thời gian để Hòa giải, hàn gắn những vết thương và những bất đồng để xây dựng một đất nước Hoa Kỳ tốt đẹp hơn cho tương lai.

Các sinh viên đã vỗ tay tán thường khi ông Ford tuyên bố:

“Today, America can regain the sense of pride that existed before Vietnam. But it cannot be achieved by re-fighting a war that is finished as far as America is concerned.”

26 tháng tư, 1975 | Một vớt vát cuối mùa

Theo tin của hãng AP, Tổng thống Trần Văn Hương đã khởi sự sẵn sàng nói chuyện với Bắc Việt về một giải pháp hòa bình. Ông Trần Văn Hương còn muốn gửi một bộ trưởng trong nội các ra hà nội để thăm dò quan điểm của Hà Nội. Một ngôn viên chính phủ còn cho biết, người Mỹ sẵn sàng cung cấp một máy bay của quân đội Mỹ bay ra Hà Nội.

Đó là những dự tính ảo tưởng, cuối mùa và tỏ ra đã quá trễ.

Trong khi đó thì tòa đại sứ Canada đã cuốn cờ, khăn gói về nước một cách lặng lẽ.

Trong khi đó Ngoại trưởng đương nhiệm của Canada, ông Mitchell Sharp tiết lộ cho hay Canada sẵn sàng chấp nhận 14.000 người Việt sang tỵ nạn Canda. Danh sách cũng như người bảo trợ đã được gửi cho chính quyền Việt Nam cách đây hai tuần. Nhưng Canada đã không nhận được sự chấp thuận chính thức nào. Hàng trăm người Việt đã tức giận đến trước cửa tòa đại sứ Canada. Và họ được ông Ernest Hebert yêu cầu họ quay lại ngày thứ Sáu xem có tin tức gì mới.

CBC DIGITAL ARCHIVES | Apr 24, 1975 | 4:40 | Peter Kent | Canadians pull out of Saigon

Trong khi đó, cộng quân có đủ khả năng để mở một cuộc tấn công vào Sài Gòn bất cứ lúc nào.

Cho đến giờ này đã có khoảng hơn 6000 người Mỹ đã rời khỏi Việt Nam, nay chỉ còn lại khoảng 1681 người tính đến ngày thứ tư tuần này.

Và trong một hai ngày nữa, con số sẽ tụ xuống còn 500 người.

American luxuries weakened S. Viet backbone

Chắc hẳn nhiều người sẽ không quên tên ký giả Malcolm W. Browne vào thời kỳ năm 1963 trong vụ Phật giáo.

Bài báo của M. Browne được đăng trên tờ N.Y. Times News Service. Ông ta đặt câu hỏi, tại sao quân đội VNCH lại rơi vào hoàn cảnh như hiện nay? Câu trả lới là quân đội miền Nam đã quá quen thuộc lối đánh nhau của con nhà giàu. Không bao giờ thiếu súng, thiếu đạn, tạo mọi điều kiện cho việc đánh nhau. Đi đâu có xe, có trực thăng chuyên chở. Đến nỗi mỗi khi di chuyển, không ai còn muốn đi bộ, lội rừng, lội suối. Vì thế cũng dễ bị phục kích. Cách đánh nhau như thế khác hẳn với bộ đội cộng sản. Có thể so sánh như một bên đi giầy, một bên đi đất.

Ôi! Lúc này bình luận gì, nói gì chả được!

South Viets use deadly fire bomb

Theo tin của UPI từ Sài Gòn gửi đi cho hay, quân đội Việt Nam được cung cấp loại bom lửa 5 tấn (five-ton fire bomb) có thể sát hại mọi thứ trong vòng bán kính 100 bộ anh.

Nguồn tin cho hay không quân Việt Nam đã xử dụng ít lắm là một lần.

Nguồn tin này được tiết lộ ra do đài phát thanh Hà Nội tố cáo không quân Việt Nam đã xử dụng một loại vũ khí mới. Họ tố cáo người Mỹ và Việt Nam đã vi phạm luật pháp quốc tế. Và tội phạm ấy chẳng khác gì tội phạm của Hitler trong quá khứ.

Loại bom này cùng một loại với bom Napalm, được thả xuống bởi các máy bay C-130 Hercules, bay ở độ cao 20.000 bộ tạo ra một quả cầu lửa làm bốc cháy tất cả, tạo ra hiện tượng thiếu Oxy làm cho con người chết nghẹt thở trong vòng bán kính 100 bộ Anh.

Theo nguồn tin của các binh sĩ VNCH cho hay họ đã thấy hàng chục những thây người bộ độ chết bề ngoài không thấy có vết thương gì. Và họ tin rằng đó là một vũ khí mới trong trận đánh ở Xuân Lộc, cách Sài gòn 38 dặm.

Ngày 28 tháng tư, tướng Minh lên thay Tổng thống Trần Văn Hương

Các thành phần chính phủ Dương Văn Minh gồm luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng thống, ông Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng. Người ta thấy vắng mặt trong những ngày cuối cùng của một số người thân tín của ông Dương Văn Minh như các ông Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Nguyễn Hữu Chung,…

Sự vắng mặt này có lý do của nó. Một số họ là những người có liên hệ chặt chẽ với cộng sản nên đã được khuyến cáo là không tham gia chính phủ, số khác đã lên tàu vượt biển.

Phần cuộc đời ông Dương Văn Minh có thể tóm tắt vào ba việc:

  1. Giúp ông Diệm dẹp Bình Xuyên, Bảy Viễn và đã được đền bù bằng số vàng tịch thu được của Bảy Viễn mà khọng khai báo. Sau đó còn được Ông Diệm cho một căn nhà rộng 270 m quay mặt ra Trần Quý Cáp và Hồng Thập tự.
  2. Thứ hai đã có công tham gia vào việc lật đổ ông Diệm cũng như ám sát hai anh em ông Diệm theo sự sắp xếp của Mỹ.
  3. Có công làm Tổng thống hai ngày mà mục đích chính là trao miền Nam cho cộng sản Bắc Việt.

Giờ tuyên bố đầu hàng

Cái giờ chính thức mà ông Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn là khoảng gần trưa.

Trong khi đó số người tỵ nạn đến được đảo Guam là 40.000. Con số này sẽ còn tăng thêm trong vài ngày sau đó. Người trách nhiệm đứng đầu trông coi sắp xếp người tỵ nạn đến Guam là ông James Megellan. Họ cũng tiết lộ cho hay bà Nguyễn Cao Kỳ đã đến West Coast từ đêm thứ hai, ba ngày trước khi ông Nguyễn Cao Kỳ tố cáo những kẻ trốn chạy là hèn nhát. Bà Kỳ sẽ ở với bà con ở San Francisco.

Ông Kỳ khi đó cũng đã lên được chiến hạm USS Blue Ridge, chiến hạm chỉ huy của Hạm đội có trách nhiệm trong Chiến dịch Frequent Wind, di tản người Mỹ và một số đồng minh.

Các sĩ quan của Việt Nam thì theo thủ tục phải bị tước vũ khí và khám xét (submitted to the same body search as privates).

Một tướng ba sao đã mang theo bên mình một valise. (Trích trong journal News Services nhan đề: Hordes of refugees en route to US.)

Món nợ mà Kissinger phải trả với người Việt Nam

Cuộc chiến nay đã chấm dứt. Hậu quả để lại nặng hai vai người Miền Nam.

Người Mỹ có thể ra đi mà không mất gì. Người Việt miền Nam bây giời mới thật sự họ đang phải chịu đựng một chế độ mới, Họ phải lên tiếng về chính sách của người Mỹ trong 6 năm qua. Người có trách nhiệm về chính sách ấy không ai khác là ngoại trưởng Kissinger.

Trong thất bại làm sụp đổ miền Nam ông chịu trách nhiệm một phần không nhỏ. Ít nhất ông cũng phải từ chức vì những chính sách thất bại của ông ở miền Nam.

Cũng vậy, khi nước pháp bại trận thì chính phủ Pháp phải xin từ chức và đưa một người khác lên thay là Thủ tướng Mendes France. Nhờ đó Thủ tướng mới có thể rộng tay thương thuyết với phía cộng sản.

Trường hợp ông ngoại trưởng Kissinger có phần khác. Ông đã tiến hành một chính sách bất nhất, hoài nghi. Ông biết rõ những nhược điểm của ông mỗi khi cần thương lượng.

Hiệp định Ba Lê hoàn toàn là một sản phẩm của Kissinger với nhiều khoản nhượng bộ đến phi lý. Quan điểm hòa bình của ông chỉ là những điều khoản ràng buộc về trách nhiệm của Hoa Kỳ và Việt Nam để rảnh tay cho phía cộng sản thao túng.

Chính sách của Hoa Kỳ do một người soạn thảo, một người thương lượng, một người điều hợp tỏ ra không thực tế và ảo tưởng một người ký kết thỏa thuận bất chấp sự chống đối của đồng minh của Hoa Kỳ.

Cái hòa bình cũng như khả năng rút quân mà vẫn duy trì được ổn định nay trở thành một ảo tưởng và kết quả là miền Nam rơi vào tay cộng sản.

Cái hòa bình mà Kissinger lúc thì đề cao Peace at hand, lúc thì Peace in honor. Thực ra thì đó là Peace with horror!

Chúng ta hãy nghe lại những lời tuyên bố của Tổng thống Nixon về Hiệp định Ba Lê và ‘Peace With Honor’ trên đài  truyền thanh và truyền hình Mỹ ngày 23 tháng Hai, 1973:

…, let us be proud that America did not settle for a peace that would have betrayed our allies, that would have abandoned our prisoners of war, or that would have ended the war for us but would have continued the war for the 50 million people of Indochina.

…, chúng ta hãy hãnh diện vì nước Mỹ không thương lượng một giải pháp hòa bình chỉ cho chúng ta mà có thể phản bội lại các đồng minh của mình và bỏ rơi tù binh Mỹ và có thểchấm dứt cuộc chiến cho mình nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục đối với 50 triệu người dân Đông Dương.

Sau đó, Kissinger còn định ra Hà Nội quảng cáo cho cái Hòa bình giả hiệu ấy vào ngày 31 tháng 10, chỉ vài ngày trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ. Khi Hiệp Đinh đuợc ký kết, tình trạng quân sự của miền Nam càng ngày càng yếu đi, mất dần các phần đất đã kiên trì bảo vệ trong 21 năm.

Chúng ta chỉ cùng nhau đọc những điều giả dối trong Điều 11 là đủ:

Ôi. Đều là bánh vẽ thôi!

Ông Clark Clifford đã yêu cầu Kissinger phải ra đi. Và ngày hôm nay có những câu hỏi đặt ra về chính sách của Hoa Kỳ dựa trên quan điểm của Kissinger trong nhiều năm là một sự thất bại hoàn toàn. Chính sách ngoại giao con thoi và bí mật chẳng qua chỉ là để che đậy về những yếu kém và nhượng bộ địch!

Trong một bài viết của Anthony Lewis với nhan đề “Should Kissinger Quit?” Bài viết đó một cách gián tiếp ám chỉ chính sách của Hoa Kỳ do Kissinger thao túng đã trở nên sai lầm không sửa đổ được như trong trường hợp Việt Nam.

Đọc bài viết này, người viết cảm thấy hả dạ một chút. Tên Kissinger được coi như kẻ phản bội Việt Nam số 1. Vì y mà Việt Nam nên nỗi như thế này!

Viet Cong Flag Flies over Ho Chi Minh City

Những cố gắng cuối cùng để thoát khỏi Sài Gòn. Nguồn: Hugh van Es/REUTERS

Theo lời phóng viên Leon Daniel, UPI, có mặt tại chỗ tại Sài Gòn khi những người cộng sản đầu tiên vào thành phố trên những chiếc xe tăng do Nga chế tạo. Họ trước tiên đến đường Tự Do, nơi mà trước đây là nổi tiếng ăn chơi của người Mỹ với hàng loạt các quán bar, nay vắng ngắt, cửa đóng im ỉm. Sau đó họ tiến vế phía Dinh Độc Lập, nơi mà ông Dương Văn Minh cùng với nhân viên chính phủ đang kiên nhẫn đứng đợi họ. Những người lính Việt Cộng xem ra kỷ luật trong khi chiến thắng cũng như khi chiến trận.

Phần đông người dân Sài Gòn mở hé cửa nhìn ngắm những chiếc xe tăng chạy qua một cách im lặng. Chỉ một vài người vỗ tay, hoan hô. Nhưng phần đông chỉ đứng nhìn và trông đợi một tương lai không mấy sáng sủa gì về những người chủ mới tới.

Chỉ còn vài người Hoa Kỳ còn sót lại, chắc là ký giả Mỹ. Phần ông đại sứ Martin đã rời tòa đại sứ trên một chiếc trực thăng sớm hôm nay.

Ông có thể được coi như người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam

Trên tờ Le Devoir ở Montreal, “Tous les américains ont quitté”.

Tờ Le Devoir, hiện nay vẫn còn xuất bản mỗi ngày, đã chạy tít “La Chute de Sai Gon est Imminente”.

Theo tin AFP, 81 trực thăng của Mỹ đã vận chuyển được 6400 người ra các Hàng không Mẫu hạm và tầu chở trực thăng của Mỹ. Cuộc vận chuyển khổng lồ này chỉ kéo dài trong thời gian 13 tiếng đồng hồ và chấm dứt 25 năm người Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Nhiều tiếng súng bắn lên các trực thăng này khi họ bay qua những đám quân nhân uất hận vì bị kẹt ở lại.

Đại sứ Graham Martin đã rời tòa đại sứ tại Sài Gòn vào khoảng nửa đêm với những chiếc trực thăng chót.

The Ottawa Journal. Wednesday, April 30, page 21: No Viet Flowers as Marines leave

Nhà báo Peter Arnett, người từng nhận được giải thưởng Pullitzer Prize, ông còn ở lại Sài Gòn khi những người lính Thủy quân lục chiến cuối cùng rời Việt Nam. Ông còn nhớ lại, cách đây 10 năm, ông là những người lính trong đơn vị Thủy quân lục chiến lần đầu tiên tại bãi biển Đà Nẵng. Ở nơi đây, ông được đón tiếp bằng những vòng hoa do các thiếu nữ xinh đẹp ở Đà Nẵng choàng vào cổ.

Một thập niên đã đi qua.

Và hôm thứ ba này, tôi được chứng kiến những thủy quân lục chiến lên máy bay. Họ trông cũng vẫn vậy, trông vẫn vóc dáng khỏe mạnh, trẻ đẹp. Cũng vẫn những bộ quân phục là ủi thẳng thướt như lần đấn đây.

Nhưng thái độ của người Việt Nam thì có khác.

Sau đó đã có khoảng 20 chục ngàn sĩ quan Việt Nam được gửi sang Mỹ để được huấn luyện đánh giặc theo kiểu Mỹ.

Một lối đánh giặc chủ yếu dựa vào bom và trọng pháo và sẽ chỉ hữu hiệu bao lâu mà vẫn có đủ máy bay, bom đạn trọng pháo.

Binh đội VNCH đã học được thói quen đánh giặc kiểu nhà giàu (luxury of the US way). Không có những thứ ấy, họ trở thành bất khiển dụng.

Để có thể thắng trận và chiến thắng cộng sản ở Việt Nam, phải có một cách đánh trận theo kiều Việt Nam.

Phải chăng đây chỉ là những lời khuyên, hay nhắn nhủ quá muộn màng!

Và may mắn ra, chính quyền đệ nhất cộng hòa nghĩ ngay tới chuyện đấu thầu cho khai thác dầu hỏa ngay tứ năm 1955-1956 thì đến 1973 có thể ngoài khơi Vũng Tàu đã có dầu hỏa phun lên. Lúc ấy ta có cần chi đến tiền của Mỹ và ta sẽ đánh trận theo kiểu Mỹ?

Rất tiếc là mọi sự ở đời đã không xảy ra như vậy!

30-4 -1975 | Cheers, fears, suicide in Saigon

View image | gettyimages.com

Saigon (AP) Một số chừng một chục chiếc xe tăng, xe kéo theo pháo cũng như xe tải làm tại Trung Quốc ngụy trang các lá cây đang chạy trên đại lộ Thống Nhất để tiến vào Dinh Tổng thống vào lúc buổi chiều nay.

Một số người miền Nam vỗ tay khi đàn xe đi qua vẫy cờ màu xanh và đỏ của họ với một ngôi sao vàng ở giữa rồi họ dừng xe ngay giữa đại lộ rộng thênh thang.

Trong khi đó, trước tiền đình Quốc Hội, một viên trung tá cảnh sát bước đến sát một bức tượng trên đài kỷ niệm, ông dơ tay chào nghiêm và tự nổ súng vào đầu.

Ông chết sau ít lâu khi được chở vào nhà thương.

Người ta cũng nghe thấy tiếng súng nổ ở gần tòa nhà quốc hội. Một người lính Bắc Việt đứng canh gác trước tiền đình tòa nhà trong bộ quân phục mầu Olive với đôi dép cao su đen.

Họ bắn qua lại bằng vài phát súng khi có những cánh tay dơ ra ở một chỗ nào đó gần đấy. Một vài người đi xe gắn máy chạy xe qua đó với vẻ sợ hãi xem ai đang bắn. Một lúc sau thì mọi chuyện trở lại yên tĩnh.

Trong khi Tổng thống Dương Văn Minh còn đang đọc diễn văn đầu hàng trên đài truyền hình và cộng quân đang tiến vào thành phố, người dân miền Nam cả binh sĩ cũng như thường dân còn chen chúc nhau trên mấy chiếc tầu chạy ven biển còn neo dọc theo bờ sông Sài Gòn.

Giờ phút chót, họ vẫn hy vọng họ có thể đi thoát.

Nhưng họ đã phải rời tầu khi thấy một đoàn xe díp chở bộ đội dọc theo bờ sông rồi một phản ứng rất đột ngột, họ vẫy cờ cộng sản và hoan hô.

Mộ số dân chúng đứng trước cửa nhà và quan sát đám việt cộng và lính Bắc Việt đi qua. Lúc đầu, họ rụt rè không có phản ứng gì..

Sau đó thì có người bắt đẩu hoan hô khi thấy có nhiều đám bộ đội khác tiến vào thành phố.

Kỳ Nhân, một nhiếp ảnh viên người Việt từng làm việc cho hãng The Associated Press trong ba năm đi cùng với một người Việt cộng vốn là bạn và hai lính cộng sản từ miền Bắc vào nói với phóng viên hãng thông tấn AP rằng,

“Tôi bảo đảm an ninh cho mọi người ở đây. Tôi từng theo Cách Mạng từ 10 năm nay. Công việc của tôi là liên lạc với báo chí thế giới và thông báo lại cho việt cộng tin tức.Tôi bảo đảm an ninh cho mọi người ở đây.”

George Esper, Văn phòng trưởng hãng thông tấn AP, đã tiếp họ nước Coca-Cola và một ít bánh ngọt còn lại.

Một trung sĩ Việt cộng tên là Binh Huan Lam, 25 tuổi, anh nói anh dến đây từ Hà Nội và đã đi lính được 10 năm. Tôi đã không cưới vợ bởi vì không cần thiết trong thời chiến tranh.

Nhiều người dân thành phố Sài Gòn đi bộ hoặc đi xe đạp trong thành phố. Lính miền Bắc tỏ ra tò mò khi quan sát sinh hoạt thành phố còn người dân cũng tò mò không ít nhìn ngắm cách ăn mặc của bộ đội miền Bắc.

Nhưng đã có rất nhiều người khác thì quyết định ở trong nhà. Một phụ nữ 26 tuổi nói: Họ xem ra tử tế, nhưng vẫn phải chờ xem.

Nhận xét được coi là khuôn vàng thước ngọc. Phải chờ xem

Một thương gia Pháp có được một khung hình quý giá của gia đình Tổng thống Nixon vói chữ viết, To Ambassador and Mrs. Graham Martin with appreciation for their service to the nation. Khung ảnh này chắc do mấy tên thổ phỉ nhặt được trong tòa đại sứ Mỹ, thấy vô dụng nên quẳng đi. Ông người Pháp thì lại nhìn khác. Đây là một bức hình với chữ ký tặng thật có ý nghĩa.

Người thương gia Pháp nói, “Tôi quen biết ông đại sứ tôi sẽ tìm trả lại cho ông bức hình này.”

Trước tòa đại sứ Mỹ phóng viên Peter Arnett nhìn tòa nhà 6 tầng và thấy rằng tòa nhà tuy rộng, nhưng không thích hợp cho hàng ngàn người dân miền Nam kéo vào xin di tản.

Nay thì nhiều người vào hôi của, họ lấy đi tất cả những gì có thề lấy. Nói chung, mặt dân chúng biểu lộ nhiều lo âu hơn là sung sướng.

Resignation, relief greet end of war của các nước láng giềng

Bài bình luận của phóng viên hãng AP-Reuters:

Nói chung nhiều quốc gia phản ứng về sự đầu hàng của chính quyền Nam –Việt Nam bằng sự chịu đựng và thở dài cho chuyện chẳng đặng đừng.

Thủ tướng Thái Lan nói cơn hấp hối kéo dài của miền Nam đã đến hồi chung cục. Đó là ý kiến của bộ trưởng bộ Ngoại giao. Phần thủ tướng Thái Kikrit Pramoj chính phủ của ông sẵn sàng nhìn nhận chính quyền mới.

Bộ trưởng ngoại giao Phi Luật Tân Carlos Romulo chấp nhận cuộc đầu hàng, nhờ đó nhiều sinh mạng đã được cứu vớt.

Ngoại trưởng Indonesia Adam Malik thì nói chính phủ ông không thấy khó khăn gì chẤp nhận chính quyền mới bất kể họ là ai.

Ông tiên đoán rằng chính phủ Malaysia sẽ mời chính quyền mới ở Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào 13, 15 tại Kual Lampur.

Tại Đài Loan, phát ngôn viên chính phủ cho rằng việc thành lập một chính phủ lưu vong tại Đài Loan của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một hy vọng mỏng manh.

Chính phủ Úc Đại Lợi trước đây trong 11 năm đã gửi quân chiến đấu sang Việt Nam và 500 binh sĩ Úc đã chết tại Việt Nam. Úc đại lợi sẵn sàng viện trợ cho cả hai bên, miền Bắc cũng như miền Nam.

Phần Bộ trưởng bộ ngoại giao Kim Dong-jo của chính phủ Đại Hàn cho rằng Bài học cộng sản ở Việt Nam cho thấy các quốc gia phải mạnh và phải tự cứu lấy mình. Ông Kim nói thêm, “Chúng ta có thể nhìn thấy ở Cao Mên cũng như tại Sài Gòn, họ đã không đủ sức mạnh nên cũng không thể thương thuyết, không thể hòa giải mà chỉ có đẩu hàng.”

Chính phủ Do Thái đặt câu hỏi là chính quyền Mỹ học được bài học gì trong những sai lầm ở Việt Nam? Và có thể làm suy yếu Israel?

Chính quyền Nhật qua bộ trưởng Bộ ngoại giao Miyazawa cho rằng chính quyền Sài Gòn quyết định đầu hàng là một quyết định khôn ngoan. Và chính phủ đang nghĩ tới nhìn nhận chính quyền mới.

Saigon devient Ho Chi Minh. Le transfert se fait dans l’enthousiasme

Lâu lắm mới có một bản tin bằng tiếng Pháp. Mấy anh Tây viết thì cứ cho là 3 phần trúng, bảy phần trật. Viết sạo là nghề của các ký giả Pháp. Chúng ta cùng nhau đọc bản tin này do ký giả Pháp viết cho AP, AFP và Reuters nhé.

Hầu như không có một sự chống đối nào khi mà các quân đội cách mạng tiến vào Sài Gòn, theo đó chấm dứt một cách đột ngột sau một thế kỷ có mặt của người Âu Châu tại Việt Nam.

Giữa những tiếng hoan hô và vỗ tay của đám đông, các lực lượng vũ trang đã phân tán đi khắp mọi đường phố ở Sài Gòn và họ kéo cờ chinh phủ lâm thời cách mạng miền Nam ở ngay nóc dinh Độc Lập mà trước đó vài giờ, ông tổng thồng Dương Văn Minh đã đọc thông cáo đầu hàng vô điều kiện của quân đội miền Nam.

Tin tức về sự sụp đổ Sài Gòn, được đổi tên là Hồ Chí Minh đã làm cho hàng ngàn người dân trên các đường phố Hà Nội khóc vì sung sướng. Thành phố này nay trở thành phố ‘La ville la plus heureuse et la plus bruyante du monde’ (thành phố hạnh phúc nhất và náo nhiệt nhất trên thế giới) theo các phóng viên báo chí.

Ở Bắc Kinh, các nhà ngoại giao đã nhảy mùa và hát giữa những tiếng pháo nổ.

Ở Washington, cũng là một điều khuây khỏa mặc dầu có đượm nét cay đắng.

Kết cục là c’est terminé!

Sai gon nay mang một bộ mặt bình thường. Những ngưởi bộ hành lễ phép chào các ông bộ đội vả dơ tay cười bắt tay họ,

Những chiến xa rồi những binh lính trang bị súng ống, lựu đạn vào thành phố. Các chiến xa này được chế tạo tại Liên Xô mà một trong những chiến xa ấy đã cán sụp một cánh cửa sắt của dinh Độc Lập..

Trong thành phố, có cái không khí của ngày lễ hội. Dân chúng xúm quanh các anh bộ đội mới từ trên rửng trở về để hỏi thăm với sự tò mò thích thú. Amen

Tin từ Wagshington, Georges Deschodt, “Hoa Kỳ ngăn chặn mọi giao thiệp thương mại với Việt Nam và được coi như một nước thù nghịch.”

Hoa Kỳ đã phản ứng ngay tức khắc khi được tin miền Nam bị sụp đổ vào tay cộng sản. Một biện pháp có hiệu lực ngay là bất cứ quốc gia nào rơi vào một chính quyền được coi là thù nghịch với với nước Mỹ, phong tỏa tất cả mọi giao dịch thương mại và tài chánh.

Sẽ không có một chuyến hàng hóa được vận chuyển đến miền Nam, không có chuyễn vốn đến xứ này, căt mọi quỹ mà trước đây VNCH đã ký kết, không có việc nhập cảng bất cứ thứ gì từ xứ này.

Nói chung là phong tỏa và cấm vận, xiết chặt và cô lập hóa Việt Nam với thế giới bên ngoải.

Việc phong tỏa này không ảnh hưởng gì đến kinh tế Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hầu như không nhập cảng gì từ Sài Gòn và nếu có xuất cảng thì qua trung gian viện trợ kinh tế mà nay không có lý do gì tồn tại nữa.

Sẽ gây nhiều trở ngại cho những người Việt Nam có tiền ở nhà băng Hoa Kỳ. Các compte nhà băng này đều bị phoa tỏa.

Đặc biệt là Washington cũng như Quốc Hội Hoa Kỳ đã hoàn toàn yên lặng về sự đầu hàng này. Kissinger cũng sẽ làm như vậy và không tuyên bố gì cả.

Thắng trận xong, Bắc Việt Nam hầu như bị cô lập với hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt với Hoa Kỳ. Chỉ trừ vài nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Việc Định cư người Việt di tản sang Hoa Kỳ

Phần đông người Việt khi được định cư ở Hoa Kỳ hay các nước Tây Phương thì coi như việc đương nhiên và trong lối phát biểu đượm nét tự hào vượt khuôn khổ. Thử hỏi xem đã có bao nhiêu người Việt di tản được định cư ở Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Singapore, Đài Loan, Mã Lai và Nam Dương? Cuối cùng chỉ có 4 nước sau đây là đón nhận rộng lượng nhất.

 Đó là Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi, và Pháp(**).

Việc quyết định số lượng người Việt được tỵ nạn sang Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại.

Để tiếp đón người tỵ nạn sang Mỹ, Florida và Arkansas cần 80.000 nhân viên đủ loại. Chi phí tính vào khoảng 327 triệu đôla. Chi phí này đã bị quốc hội từ chối.

TT Ford tức giận về sự phủ quyết này và tuyên bố, theo Associated Press, “not worthy of a people which has lived by the philosophy symbolized in the Statue of Liberty.”

Theo phát ngôn viên chính phủ, ông Robert Anderson cho hay cho đến thứ Tư này đã có khoảng 80.000 người di tản đến được nước Mỹ. Sẽ còn ít nhất vài chục ngàn nữa.

Đã có 40 chiếc tầu chiến của Hoa Kỳ tham dự cuộc di tản người này.

 Người viết bài này tự hỏi và so sánh: Có bao nhiêu tàu chiến Mỹ trong việc người di cư năm 1954 và bao nhiêu tàu chiến năm 1975?

Hiện nay còn 60.000 được tạm thời di trú ở Fort Chaffee, Ark., Eglin air force base, Fla., Camp Pendleton, California.

Những người di tản đầu tiên đã tới Camp Pendleton là 2315 người

Trước khi viết phần này, xin được trích dẫn một đoạn văn được ghi khắc trên Bức tượng Nữ Thần Tự Do ở Nữu Ước:

Give me your tired, your poor,
Your huddled masses yearning to breahte free,
The Wretched refuse of your teeming shore,
Send these, the homeless, tempest-tossed to me…

Emma Lazarus, The New Colossus, inscribed on the Statue of Liberty

Tinh thần của Bức tượng Tự Do thì đã nêu rõ như thế. Nhưng trong dư luận người Mỹ thì đã có sự chia rẽ và bất đồng về việc thu nhận người Việt vào Nước Mỹ.

Thomas Campbell, 24 tuổi, Louisville cho rằng làm thế nào nước Mỹ có thể thu nhận hàng loạt những người Việt Nam tỵ nạn trong khi chính nước Mỹ đang có trở ngại trong vấn đề thất nghiệp? Chúng ta chắc sẽ lại trở thành một thứ melting pot?

Phần John Faltin ở New York thì nói rằng, “It seems we’ve got enough refugees here as it is.”

Glen Owen, Lansing, Mich thì nói, “I’d burn a cross in their front yard if they moved next door to me.”

Bà Rose Gutenkust, New Jersey nói, “Tỉ lệ thất nghiệp ở đây là trên 10% và hầu như đi đến chỗ phá sản. Nếu chính chúng ta không có công việc làm, thì làm thế nào giúp họ được? Người của chúng ta có quyền có công ăn việc làm trước nhất.”

Về phần Quốc Hội Hoa Kỳ, sau khi Tổng thống Ford yêu cầu khẩn cấp giúp đỡ khoảng 150.000 người tỵ nạn Đông Dương đã nhận được sự đồng ý của Hạ Viện Hoa Kỳ. Không có con số rõ ràng về việc chuẩn chi này nhưng Tổng thống Ford cần khoảng 507 triệu đô la.

A cold life in Tent 57 for Vietnamese refugee

Câu chuyện sau đây là của cô Trần Mộng Tú viết từ Camp Pendleton, California do AP tường thuật lại.

Trần Mộng Tú là cô gái với thân hình nhỏ bé, mắt sáng vốn là thư ký cho văn phòng The Associated Press ở Sài Gòn cho đến ngày 22 tháng tư khi cô và bố mẹ được đưa ra khỏi Việt Nam.

Đây là câu chuyện của cô ở Camp Pendleton, lều 57.

“Ban đêm chúng tôi chợt tỉnh dậy, vì trời lạnh quá lạnh không ngủ được. Cái giá lạnh từ những sườn đồi, vì đây không phải là ở thành phố.

Chúng tôi xếp hàng, nói chuyện để chờ hàng nửa giờ để đến lượt lãnh phần ăn trong doanh trại. Có người nói ước gì được ăn ở trong một nhà hàng ở Sài Gòn.

Chúng tôi thường nói về những người thân thuộc còn kẹt lại Sài Gòn, nói về các gia đình. Chúng tôi hỏi thăm người khác về những người họ hàng. Các gia đình Việt Nam thì thường có mối liên hệ gần gũi như thế.

Ở đây tôi sống chung với bố mẹ tôi, chị và chồng con của họ với 5 đứa trẻ, với các chị dâu các ông chồng của họ và 4 đứa nhỏ. Tất cả chui rúc trong 4 căn nhà và một cửa tiệm bán cà phê.

Cô cho biết những người lính Mỹ thì cực kỳ tử tế. Đồ ăn thì OK. Có một ông hạ sĩ người Mỹ còn muốn mời mấy cô về nhà dùng cơm. Họ cũng mang đến cho các cô các đôi bít tất.

Ở nơi đây, đôi lúc cô nhớ nhà, nhưng làm sao về lại Sài Gòn được và cô có thêm vài người bạn mới!

Người tị nạn ở Camp Pendleton, không ở lều 57.

Đọc bài của cô, đúng là cung cách tiểu thư con nhà.

WJS | 40 Years After the War, Saigon

Đôi dòng cuối cùng sau khi viết “40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn”

Sau khi viết xong bài viết này, vào một đêm tỉnh dậy lúc 2 giờ sáng. Tôi dở ra đọc lại, tự nhiên nước mắt tuôn trào…

Biết bao nhiêu sự kiện diễn ra lần lượt trong đầu óc tôi như một cuốn film quay chậm.

Những tâm trạng buồn, phẫn uất, chán nản như ngày nào sau 30 tháng Tư còn đọng lại.

Trách nhiệm về ai? Dĩ nhiên là người Mỹ từ trong cái Situational Room của Tổng thống Ford và các chính khách Mỹ như tiến sĩ Kissinger, v.v.

Nhưng người Việt Nam, chúng ta cũng chia sẻ cái phần trách nhiệm ấy. Trách nhiệm làm mất miền Nam là các tướng lãnh, lãnh đạo cấp cao. Còn nhớ ông Nguyễn Cao Kỳ khi đến Hoa Kỳ vào đêm thứ hai, được hãng thông tấn Associated Press phỏng vấn tại camp Pendleton, California, ông đã tuyên bố một câu xanh rờn khi bước ra khỏi phi cơ:

“I will try and be a leader for them.”

Tôi không biết phải nói thế nào nữa!

Trong khi đó nhà chức trách Mỹ ngay khi ông còn ở đảo Guam đã lo sợ cho an ninh bẩn thân của ông Kỳ vì ông đã bỏ trốn đi.

Nhưng kể từ đó đến nay, sau 40 năm. Tôi cũng nhận thấy một cách chua chát có một hội chứng sau chiến tranh.

 Đó là trận chiến ký ức (Memory battlefield) giữa kẻ thua, người thắng.

Năm nay kỷ niệm 40 năm miền Nam bị mất vào tay cộng sản. Cuộc chiến tranh với xác người chết không còn nữa. Di hại của người những người bị chết từ hai phía, những người bị thương tật cho đến nay vẫn chưa có một thống kê đầy đủ và rõ ràng.

Sự hàn gắn những vết thương chiến tranh hầu như không đáng kể gì!

Người chết trên chiến trường và ở các trại tù cải tạo nay vẫn chưa tìm ra dấu tích mồ mả. Chết chưa có chỗ về, thiếu hương khói.

Người bị phế tật, nhất là thương phế binh VNCH hầu như bị bỏ rơi cho số phận của họ. Họ đã chết dần chết mòn mà ngày nay số còn lại chỉ còn là một dúm người như vật phế thải.

Sự bất nhân của kẻ cầm quyền là sự mất ý thức về lòng nhân bản (Nếu cho là người cộng sản có ý thức nhân bản).

Thật vậy, nếu trước đây có hội chứng hậu thuộc địa sau gần 100 năm người Pháp cai trị thì cũng có một hội chứng hậu 1975. Hội chứng ấy là những chấn thương tinh thần mà cả hai bên nhiều khi không chịu nhìn nhận.

Nó được hun đúc biến thành một thứ huyền thoại của kẻ thắng trận đồng thời cũng có một thứ huyền thoại của kẻ thua trận.

Đó là một cuộc chiến dai dẳng với ký ức đã bị bôi son, trát phấn làm chất liệu. Càng gần đến ngày 30 tháng Tư trận chiến ký ức nhìn lại càng trở nên sôi động từ trong ra đến ngoài nước.

Đủ các loại bài viết, các loại tài liệu mật, các bài phỏng vấn từ nhiều phía, các nhân chứng còn sống sót từ phía người Mỹ, người cộng sản, cựu tướng lãnh miền Nam, những người làm báo cho cộng sản, những người cầm bút từ hải ngoại, v.v. Tất cả như chờ đợi trong dịp này thôi, để được bày tỏ, nói lên bằng nhiều tâm trạng khác nhau.

Thà rằng nói thật, thà rằng đau xót nhìn nhận trách nhiệm và lỗi lầm. Không. Hầu như đã không ai muốn làm điều đó cả.

Nói chung thì đã có một hiện tượng phổ biến về huyền thoại của kẻ thắng trận và một huyền thoại của kẻ thua trận.

  • Phía người chiến thắng

Tôi nhớ lại khi De Gaulle đi bộ trên đại lộ Champs-Élysées vào tháng 8-1944 với hàng triệu dân chúng đón tiếpp ông.

Điều đó rõ ràng là một sự thật! Một chiến thắng cảm nhận được trên các khuôn mặt của hàng triệu dân chúng Paris với những màn ôm hôn những chiến sĩ trẻ với những vòng hoa, với những nụ cười rạng rỡ, với nước mắt mắt mừng mừng, tủi tủi.

Đó là ý nghĩa trọn vẹn của chiến thắng của ngày Giải Phóng Paris. Tôi đã nhận ra được thứ nhân cách chững chạc, phong cách của kẻ anh hùng đó nơi một De Gaulle khi vào Paris.

Tôi đã không nhận ra bất cứ điều gì như thế nơi dân chúng miền Nam.

Có một vòng hoa nào không? Một thôi cũng được. Có tiếng hoan hô nào không? Có các thiếu nữ ăn mặc đẹp đẽ tươi cười hớn hở ra ôm các anh chiến sĩ ‘giải phóng’ không? Một cô thôi. Ai tiêu biểu cho cuộc chiến giải phóng đó? Lê Duẩn hay Nguyễn Hữu Thọ?

Và dĩ nhiên cái không khí sung sướng đến hoan lạc của người dân Paris trên đại lộ Champs-E1ysées ngày nào thì không phải là không khí của đường Tự Do của Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ngược lại, đó là thứ không khí của sự lo sợ, đau buồn và tủi nhục. Ngay giữa trung tâm thành phố, xác của Trung tá cảnh sát Nguyễn Văn Long còn nằm đó. Ít ngày sau, đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện bị đem ra trước công chúng xử bắn.

Đô thành Sài Gòn – 30 tháng 4: Cảnh sát Trung tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trước tượng đài Thủy quân lục chiến (khuôn viên Công trường Lam Sơn)

Và nói cho thật chính xác là có một không khí của sự tủi nhục và sự cao ngạo!

Sự thật rõ ràng là như thế!

Chỉ nhìn cái quang cảnh khi những chiếc xe tăng đầu tiên vào Dinh Độc Lập người hiểu chuyện sẽ phải tự hỏi tại sao người dân Sài Gòn thờ ơ đến sợ hãi, nghi ngờ những kẻ chiến thắng? Hàng triệu người đã sợ hãi trốn chạy làm sao có cảnh vui mừng được!

Làm thế nào để chúng ta học được bài học lịch sử này mới là điều quan trọng.

Trên thế giới ngày nay, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt. Vậy thì cách hành xử, thái độ của những người từng coi nhau như kẻ thù, họ đã có thái độ như thế nào? Có những sự việc thuộc lịch sử của nhà viết sử, có những sự việc của người làm chính trị từ nhiều phía, có những việc thuộc quá khứ mà các thế hệ sau không có trách nhiệm và cũng có những việc thuộc hiện tại mà người ngày hôm nay phải chọn lựa, phải làm. Chọn lựa nào là thích hợp? Người Đức, người Pháp từng là kẻ thù của nhau, nay họ cùng nhau kỷ niệm thì họ đã chọn một thái độ nào?

Khi bức tường Bá Linh sụp đổ thì người Đức thuộc Tây Bá Linh đã hành xử ra sao?

Câu hỏi ấy, tôi đặt ra cho những kẻ tạm gọi là thắng cuộc! Bởi vì họ là kẻ trách nhiệm toàn thể cái hậu quả sau ngày 30 tháng Tư!

Sau 30 tháng Tư, mặc dù có thể có hằng triệu người muốn chạy trốn khỏi cộng sản. Nhưng chỉ có chưa đầy 200.000 có được cái may mắn ấy. Còn lại phải chịu chung số phận của cả miền Nam!

Nếu trước 1975, người dân miền Nam chỉ sợ cộng sản thì sau 1975, người dân miền Nam ngoài nỗi sợ còn thêm thù hận và sự khinh miệt người cộng sản.

Trước chỉ có 200.000 người trốn chạy khỏi cộng sản thì sau 1975, con số ấy tăng lên gần 2 triệu người.

Nhìn những cảnh tượng người dân Syria hôm nay bằng bất cứ giá nào chạy trốn ra khỏi đất nước của họ, chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ rồi vượt biển họ đã chết đuối trên biển Địa Trung Hải thì có khác gì các thuyền nhân người Việt vào cuối thập niên 1970?

  • Phía người thua cuộc

Nhiều người bên phía kẻ thua cuộc, nay là dịp may cuối cùng muốn chứng tỏ một điều gì đó với một quá khứ quay quắt chưa hòa giải được, cũng chưa tìm ra một giải pháp gì.

Người ta cũng cố gắng giữ lại những hoài niệm đẹp oai hùng của cả một thời và cảm thấy bị xúc phạm nếu ai nói sự thật về họ. Nhưng ít ra họ vẫn nhận ra sự hữu ích của mình, hữu ích theo nghĩa họ còn sống, họ có mặt; họ muốn làm nhân chứng của ký ức, của lịch sử theo nghĩa còn có tôi đây, tôi có mặt trong giai đoạn ấy.

Bằng bất cứ giá nào, họ không muốn kẻ thắng trận chà đạp trên lòng tự trọng, trên danh dự của một người lính ngoài mặt trận.

Và hơn thế nữa họ muốn đồng hóa thảm cảnh năm 1975 cũng chính là họ với tư cách là nạn nhân của cộng sản. Thảm cảnh ấy chính là đời họ, số phận khắc nghiệt đã phủ lên cuộc đời họ sau 1975. Họ bị tù đầy, mất nhà, mất cửa, mất vợ, mất con và mặc dù đã sang đây trên dưới 30 chục năm, họ vẫn gọi cái ngày 30 tháng Tư là ngày Quốc Hận. Một cụm từ đóng kín bất di dịch và khó để chấp nhận bất cứ danh xưng nào khác.

Cái quá khứ ấy với nhiều đau thương lẫn tủi nhục làm sao bắt họ quên được?

Về phía người Mỹ, những người trong cuộc, họ thường không có thói quen thù hận người cộng sản nên họ tránh được những thiên khiến. Họ cố gắng dùng cái lăng kính con người nhân bản, nhìn cuộc chiến ấy và chỉ thấy ở đó một thảm kịch con người mà họ đã góp phần. Họ nhìn nhận cái miền Nam sau 21 năm dưới con mắt chia sẻ và hiểu biết hơn là lúc họ còn đang tác nghiệp ở đây trước năm 1975.

Tiêu biểu nơi người Mỹ là họ chia xẻ số phận người miền Nam của họ và cảm thấy như một kẻ bội phản. Sau dây là lời trần tình của Frank Sepp, một nhân viên cao cấp CIA được trích lại trong sách của ông.

But that last day, there were no euphemisme for what we’d done. We’d betrayed the Vietnamese who’d depended on us, and those of us who’d worked most closely with them -the young CIA and State Department officers from the trenches- now had blood on our hands, for it was we who in our daily contacts had convinced them to trust us’.(17)

Chúng ta tự hỏi, có bao giờ một cách chính thức, người cộng sản miền Bắc nhìn nhận những việc họ đã làm tan hoang miền Nam không? Không, chưa bao giờ. Chẳng những thế, họ còn làm ngược lại.

Kể từ sau 30 tháng Tư cuộc sống của con người miền Nam không còn như trước nữa. Họ mất tất cả những cái họ có. Người cộng sản gọi ngày này là Ngày Giải Phóng, Người Quốc Gia gọi nó là Ngày Quốc Hận. Giữa hai cụm từ này là tội ác chống lại con người (crimes contre l’humanité) nhân danh hai chữ Giải Phóng.

Tôi đã đọc bài báo: “Không có ngược đãi sau 30 tháng tư”, trao đổi với BBC ngày 18 tháng Tư 2015 của ông phó giáo sư Vũ Quang Hiền, từ Đại học quốc gia Hà Nội. Ông dám nói như thế này:

“Sau chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng Tư, 1975, ở Việt Nam không có sự ngược đãi đối với mọi người, trong đó với các lực lượng cựu quân, cán chính của chính quyền Sài Gòn.”

Ông nói tiếp:

“Tức là tuyên truyền vu cáo về miền Bắc xâm lược miền Nam và dẫn đến sự tàn sát đẫm máu thì rõ ràng là điều đó không có ở miền Nam.”

Đang cầm ly cà phê trên tay, nghe những lời tuyên bố trên của tên Phó Giáo sư, tôi chỉ muốn cầm ly cà phê hắt vào mặt tên Vũ Quang Hiền này.

Các bài viết mang tính huyênh hoang, chạy tội, dối trá, tuyên truyền bịp bợm đến ngớ ngẩn không thiếu. Họ càng nói càng mất thế giá. Họ càng tìm cách trình diễn, càng trở nên lố bịch!

Hà Nội nhân dịp này đang nỗ lực tổ chức hội thảo, rồi tiệc tùng ăn mừng chiến thắng, rồi cho dân nghỉ lễ, rồi có pháo bông để dân nghèo cũng có cơ hội nhìn pháo bông mà quên đi cái thân phận họ. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh sẽ có duyệt binh có cả 6000 binh lính tham dự để diễn lại cái cảnh xâm chiếm miền Nam năm 1975! Chắc là cũng tốn kém bạc tỉ?

50 năm nhìn lại, chỉ mong rằng sau này, người ta biết coi đó là một bài học đau thương của cả một dân tộc.

Tiếc thương. Ảnh: Nguyễn Ngọc Hạnh.

Lời cảm tạ của người viết | Người viết thấy cần bổ túc một sơ xuất khi bài được đăng lần đầu là đã không đề cập đến nguồn của những bản tin về diễn tiến của cuộc chiến Việt Nam cách đây hơn 46 năm; 1975 chưa phải là thời đại của xa lộ thông tin nên đến khi viết loạt bài này, ngay cả nếu có khả năng truy cập mạng Internet, người viết cũng khó có thể tìm được những bản tin về lịch sử cận đại từ 50 năm trước. Chân thành cảm ơn hảo ý của người bạn đa giao cho tôi nguyên tập tài liệu gồm những bản tin anh đã cắt, dán và lưu trữ suốt hơn 40 năm trong giai đoạn trước khi Sài Gòn xụp đổ khi còn là sinh viên du học tại Canada. Anh Lê Phan Lân, một lần nữa, xin cảm ơn anh.


(17) Frank Snepp, Irreparable Harm, trang XVII

 (*) Quốc hội không có thẩm quyền bầu Tổng thống theo Điều 39, Quyền hạn của Quốc hội, trong Hiến pháp 1967 của Việt Nam Cộng Hòa. Căn cứ vào Điều 56 của Hiến pháp, nhiệm vụ của một Tổng thống chỉ có thể bị chấm dứt trước khi mãn nhiệm trong những trường hợp sau đây: chết, từ chức, mang trọng tội/truất phế, bị bệnh nặng kéo dài. Tất cả những trường hợp vừa kể không thể áp dụng với Tổng Thống Trần Văn Hương. Luận tội/truất phế Tổng thống là một trong những thẩm quyền của Tòa án Đặc biệt theo quyết định dựa trên hai Điều 85 và 87. Như vậy, hành động của Quốc hội trong việc bầu chọn Tướng Dương Văn Minh thay thế Tổng Thống Trần Văn Hương vào ngày 26 tháng tư năm 1975 có thể được coi là không hợp hiến. [Tham khảo: Văn bản của Hiến pháp mới, Việt Nam Perspectives. Vol. 3, số 1 (Tháng Tám, 1967), trang 24-40. Một phiên bản tiếng Việt của “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm 1967” có thể được tìm thấy ở đây: http://snipurl.com/24o4sn5]
(**) Theo statistiques de France-terre d’asile, từ tháng 5 năm 1975 đến ngày 31 tháng năm 1990, Pháp đã nhận tổng cộng 42.694 người tị nạn Việt Nam, 1/3 của người tị nạn Đông Dương đến Pháp (126.100) trong giai đoạn này. (Nguồn: Lam Thanh Liem et Jean Maïs, La Diaspora Vietnamienne En France Un Cas Particulier: La Region Parisienne, Bulletin EDA n° 207, 16/10/1995.) Trong cùng thời gian đó có 543.000 người Việt tị nạn tại Mỹ (Hataipreuk Rkasnuam and Jeanne Batalova, Vietnamese Immigrants in the United States, August 25, 2014.) Từ khoảng 3000 người trước 1975, đến 1991 dân số người gốc Việt tại canada tăng lên 91.000 sau những đợt di cư của người tị nạn (Louis-Jacques Dorais, “From refugees to transmigrants: the Vietnamese in Canada”). Trước năm 1975 chỉ có khoảng 700 người gốc Việt Nam tại Úc, con số này tăng lên 124.800 người vào năm 1991 (ABC.net.au, Timeline: Vietnamese immigration to Australia.)


 

Việt Nam giữa lằn ranh lịch sử: Cải cách hay làm nô lệ cho Bắc Kinh?

Ba’o Tieng Dan

Vũ Đức Khanh

Phân tích chính trường Việt Nam từ Đại hội Đảng XIII đến nay

Từ đầu năm 2021, sau Đại hội Đảng XIII, chính trường Việt Nam đã trải qua nhiều biến động lớn, đặc biệt là sự thay đổi nhanh chóng ở các vị trí lãnh đạo cấp cao. Chỉ trong vòng chưa đầy bốn năm, đất nước đã có bốn Chủ tịch nước khác nhau, một điều chưa từng có trong lịch sử Việt Nam hiện đại.

Việc thay đổi liên tục ở vị trí Chủ tịch nước cho thấy sự xung đột mạnh mẽ giữa các phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, sự kiện gần đây nhất là việc ông Tô Lâm, người giữ chức vụ Chủ tịch nước từ ngày 22/05/2024, bị thay thế bởi ông Lương Cường vào ngày 21/10/2024 chỉ sau 4 tháng 29 ngày tại vị.

Quyền lực và những biến động nội bộ

Tại Đại hội Đảng XIII, quyền lực tiếp tục tập trung vào tay Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người đã giữ chức vụ này từ năm 2011. Tuy nhiên, bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam, sự giằng co quyền lực giữa các phe phái đã trở nên rõ ràng hơn. Một phe ủng hộ mô hình chính trị độc đảng bảo thủ, gần gũi với Trung Quốc, còn một phe khác ủng hộ cải cách và mở cửa với phương Tây, đặc biệt là Mỹ và các đồng minh châu Âu.

Ông Tô Lâm, một nhân vật mạnh mẽ (được cho là) với tầm nhìn cải cách, đã bước lên giữ vị trí Chủ tịch nước vào ngày 22/05/2024 và Tổng Bí thư Đảng từ ngày 03/08/2024, một dấu hiệu cho thấy xu hướng cải cách đang gia tăng. Với việc nắm giữ hai vị trí quyền lực cao nhất, ông Tô Lâm đã có ý định đẩy mạnh cải cách toàn diện, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị. Các chuyến công du đến New York và Paris vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2024 của ông Tô Lâm đã thể hiện rõ quan điểm ngoại giao mở cửa với phương Tây, tạo ra những cam kết mạnh mẽ đối với Mỹ và châu Âu.

Trung Quốc và sự giằng co ảnh hưởng

Sự xuất hiện của ông Tô Lâm trên trường quốc tế với tư cách là Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư, một vị trí như một nguyên thủ quốc gia có tầm ảnh hưởng trong các diễn đàn đa phương, đã gây lo ngại cho Trung Quốc. Với việc công khai ủng hộ quan hệ sâu sắc hơn với phương Tây, ông Tô Lâm dường như đang đi ngược lại lợi ích chiến lược của Bắc Kinh. Trung Quốc luôn tìm cách giữ Việt Nam trong quỹ đạo ảnh hưởng của mình, tránh để Việt Nam rơi vào tay các liên minh quốc tế do Mỹ lãnh đạo.

Một giả thuyết hợp lý là Trung Quốc đã sử dụng ông Lương Cường, người được cho là thân cận với ông Nguyễn Phú Trọng và có mối quan hệ gần gũi với Bắc Kinh, để ngăn cản đà tiến của ông Tô Lâm. Ông Lương Cường, với vai trò là một nhân vật quân đội, đã được bầu làm Chủ tịch nước vào ngày 21/10/2024, thay thế ông Tô Lâm trong một quyết định không phải là hoàn toàn đột ngột nhưng cũng không phải là không có nghi vấn vì Đảng đã không đưa ra một lý do nào cụ thể. Việc thay thế này có thể là một động thái nhằm cô lập ông Tô Lâm khỏi các diễn đàn quốc tế, đồng thời giữ Việt Nam dưới tầm ảnh hưởng của Trung Quốc.

Các yếu tố quốc tế và kế hoạch cải cách của ông Tô Lâm

Ông Tô Lâm không chỉ giới hạn các mối quan hệ ngoại giao với Mỹ và châu Âu. Ông đã có kế hoạch công du tới Seoul và Pyongyang (theo một nguồn tin khả tin), một bước đi có thể thay đổi cục diện địa chính trị trong khu vực. Việt Nam, với vị thế trung lập, có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hòa giải vấn đề Bán đảo Liên Triều, tạo ra cơ hội lớn cho Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, Bắc Kinh, với sức mạnh chi phối Bắc Hàn, rõ ràng không muốn điều này xảy ra, và việc ông Tô Lâm bị loại bỏ có thể liên quan trực tiếp đến nỗ lực của Trung Quốc nhằm kiểm soát những động thái ngoại giao của Việt Nam.

Việc ông Lương Cường lên thay Tô Lâm vào đúng thời điểm này có thể là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh đã thành công trong việc cô lập “phe cải cách” ở Việt Nam. Trung Quốc không muốn Việt Nam tiến gần hơn với phương Tây và sẽ tìm mọi cách để duy trì ảnh hưởng của mình tại Hà Nội. Sự thay đổi nhanh chóng ở vị trí Chủ tịch nước, từ một nhân vật cải cách sang một người thân cận với quân đội và có mối liên hệ gần gũi với Trung Quốc, có thể là một phần trong chiến lược dài hơi của Bắc Kinh nhằm bảo vệ lợi ích của mình tại khu vực Đông Nam Á.

Cuộc chiến thầm lặng giữa Trung Quốc và Mỹ tại Việt Nam

Việt Nam đang trở thành một chiến trường thầm lặng giữa Trung Quốc và Mỹ. Trong khi Trung Quốc tìm cách duy trì ảnh hưởng của mình thông qua các mối quan hệ kinh tế và chính trị với các nhóm thân Bắc Kinh trong ĐCSVN, Mỹ và phương Tây lại muốn kéo Việt Nam vào liên minh nhằm đối phó với sự bành trướng của Trung Quốc.

Ông Tô Lâm, với tầm nhìn “cải cách” (kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?), đã bị ngăn cản không chỉ bởi các lực lượng bảo thủ trong ĐCSVN mà còn bởi áp lực từ Trung Quốc. Việc thay thế ông Tô Lâm bởi một nhân vật thân cận với Bắc Kinh cho thấy rằng Trung Quốc đang giành ưu thế trong cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng tại Việt Nam. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ gặp khó khăn hơn trong việc duy trì sự độc lập và cân bằng giữa các thế lực lớn.

Con đường cho tương lai Việt Nam

Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ lịch sử quan trọng, và không thể phủ nhận rằng Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp và trực tiếp của dân tộc. Trung Quốc không chỉ muốn kiểm soát Việt Nam về kinh tế, mà còn muốn thao túng chính trị để giữ Hà Nội trong quỹ đạo của mình. Do đó, các lực lượng yêu nước cần tỉnh táo nhận diện rõ ai là bạn, ai là thù. Chúng ta không thể để Trung Quốc tiếp tục lợi dụng các nhóm thân Bắc Kinh trong ĐCSVN để tác động đến vận mệnh đất nước.

Cần phải xây dựng một lực lượng chính trị mạnh mẽ, quyết tâm cải cách chính trị toàn diện, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Các nhà cải cách trong ĐCSVN, những người sẵn sàng trở về với nhân dân và bảo vệ chủ quyền quốc gia, cần nhận được sự ủng hộ từ các lực lượng dân chủ trong nước. Chỉ có cải cách, với dân tộc và chủ quyền làm trung tâm, mới có thể giúp Việt Nam giữ vững độc lập và phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc.

Nếu không hành động kịp thời, Việt Nam sẽ tiếp tục bị Trung Quốc thao túng, và các lực lượng dân chủ trong nước sẽ không có tiếng nói trong những quyết sách quan trọng của đất nước. Tương lai của Việt Nam phụ thuộc vào sự đoàn kết của các lực lượng yêu nước, trong đó dân chủ và chủ quyền phải là những giá trị cốt lõi dẫn dắt sự phát triển của đất nước.

Một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng phải là mệnh lệnh của thời đại, kim chỉ nam hành động của tất cả các lực lượng yêu nước và dân chủ Việt Nam.


 

Sự thật chuyện Lê Văn Tám-Tác Giả: Trần Gia Phụng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Gia Phụng

24/10/2024

Sử sách cộng sản Việt Nam, kể cả sử sách giáo khoa học đường xã hội chủ nghĩa, đều viết và ca tụng thiếu niên Lê Văn Tám, 13 tuổi là một chiến sĩ anh hùng, đã tấn công kho đạn của trại quân người Pháp tại Thị Nghè, Sài Gòn vào đêm 17-10-1945. Chuyện được nhiều tác giả cộng sản kể đi kể lại nhiều lần, thêm thắt tùy hứng, thành nhiều dị bản khác nhau. Có chỗ viết là kho xăng, có chỗ viết là kho đạn. Nội dung cũng được vẽ rắn, thêm rồng rất hấp dẫn.

Lúc đầu, các tác giả cộng sản viết Lê Văn Tám tự tẩm xăng vào người, tự thiêu làm đuốc sống, rồi chạy vào kho xăng làm cháy kho nầy. Chuyện một em bé 13 tuổi tự thiêu mà còn chạy được để đốt kho xăng, mà không bị phát hiện, bị phê bình là không thực tế, không thể xảy ra, nên cộng sản lại đổi cách viết.

Lần nầy, cộng sản cho Lê Văn Tám đem xăng vào tưới lên kho đạn, rồi mới đốt. Chuyện như thế xem ra cũng phi lý, vì làm sao Lê Văn Tám qua mặt được lính gác Pháp, mà đem xăng vào kho đạn để đốt. Dù sửa đổi nhiều lần, câu chuyện cũng không hợp lý và khó tin.

Vào cuối tháng 2-2005 tại Hà Nội, trong cuộc họp của Hãng Phim Truyền Hình Việt Nam để hãng phim thông báo chương trình sản xuất 100 tập phim hoạt hình, nội dung lịch sử Việt Nam, giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam của nhà nước cộng sản, đã tiết lộ rằng:

“… Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám” hoàn toàn không có thật. Tôi còn một món nợ với anh Trần Huy Liêu mà đến nay chưa trả được. Đó là lúc anh Liệu làm bộ trưởng bộ tuyên truyền, anh Trần Huy Liệu tự viết về nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè… Lúc sáng tác câu chuyện Lê Văn Tám, anh Liệu có nói với tôi rằng: “Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyến nên tôi viết tài liệu nầy, sau nầy, khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói giúp tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa…”

Được tin trên, nhật báo Người Việt ở California, điện thoại về Việt Nam, phỏng vấn giáo sư Phan Huy Lê ngày 18-3-2005. Giáo sư Phan Huy Lê xác nhận với báo Người Việt là ông đã công bố sự thật về nhân vật Lê Văn Tám trong cuộc họp cuối tháng 2 vừa qua.

Lê Văn Tám "còn sống" - Dân Làm Báo

Nhật báo Người Việt California, số ngày chủ nhật 20-3-2005 ghi lại như sau:

“Ông [Phan Huy Lê] cho biết: “Lúc ấy, ông Trần Huy Liệu đang là Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. Ông nói câu chuyện nầy với tôi rất nhiều lần vào những năm của thập kỷ 1960, vài năm trước khi ông Liệu mất. Không chỉ nói với mình tôi, ông Liệu còn nói cả với những đồng nghiệp của tôi là hai nhà sử học Nguyễn Đình Thanh và Nguyễn Công Bình, hiện nay cả hai người nầy vẫn còn sống…”

Sau khi nhật báo Người Việt California đăng tin trên, giáo sư Phan Huy Lê và hai nhà sử học đồng nghiệp của giáo sư Lê được bài báo nhắc đến là các ông Nguyễn Đình Thanh và Nguyễn Công Bình, đều hoàn toàn im lặng, không cải chính, nghĩa là các ông mặc nhiên xác nhận những điều báo Người Việt đăng là đúng như lời giáo sư Lê phát biểu, nghĩa là chuyện thiếu niên anh hùng Lê Văn Tám “hoàn toàn không có thật”.

Thế mà hiện nay, cộng sản Việt Nam vẫn còn ca tụng “đuốc sống” Lê Văn Tám, và quan trọng nhứt là đưa chuyện Lê Văn Tám vào sách giáo khoa, giảng dạy cho học sinh trong trường học, dùng tên Lê Văn Tám đặt tên trường học, tên đường, tên công viên … Sài Gòn có công viên Lê Văn Tám trên đường Hai Bà Trung, quận I, đoạn giữa đường Hai Bà Trưng và Yên Đỗ (cũ). Dưới đây là hình ảnh ở các nơi khác trên Internet.

Bịa chuyện láo để phỉnh gạt dư luận. Dạy chuyện láo cho học sinh nhằm phục vụ chính trị, phục vụ chế độ và phục vụ đảng cộng sản, đúng là đường lối và mục tiêu của nền giáo dục Hồ Chí Minh.

Điều đáng nói là nhà nước cộng sản, đảng cộng sản, nhà trường xã hội chủ nghĩa trắng trợn dạy chuyện láo, huấn luyện thanh thiếu niên thành những con người có thói quen nói láo chuyên nghiệp, thì kết quả là đất nước nầy sẽ đi về đâu?

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto – CANADA)


 

Bắt giữ người mẹ ở Sài Gòn bạo hành con gái đến chết

Ba’o Nguoi-Viet

October 23, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Chiều tối 22 Tháng Mười, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Công An Quận 4, Sài Gòn, đã bắt giữ nghi can Trần Thị Kim Giàu, 33 tuổi, ở phường 9, quận 4, để điều tra về tội “hành hạ con.”

Báo Tiền Phong dẫn điều tra ban đầu cho biết khoảng 5 giờ sáng 13 Tháng Mười, bà Giàu đến Công An Phường 9, quận 4, trình báo con gái bà là cháu HTA, 5 tuổi, quê huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, đã chết khi đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa Khoa Quận 4 lúc rạng sáng cùng ngày.

Thông tin về sự việc được lan truyền trên mạng xã hội. (Hình: Chụp từ màn hình)

Nhận được tin, Công An Quận 4 đã đến khám nghiệm hiện trường, ghi lời khai của những người liên quan, đồng thời yêu cầu Trung Tâm Pháp Y ở Sài Gòn giám định tử thi để xác định nguyên nhân cái chết.

Qua khai báo, bà Giàu cho biết khuya cùng ngày, bà đang ngủ với con gái lớn là TNKH, 7 tuổi, thì cháu H. nói đói bụng nên bà xuống dưới nhà để lấy sữa cho H. uống. Khi đi ra cầu thang thì bà thấy con gái TA đang nằm ở bậc chờ cầu thang.

Bà Giàu lay gọi nhưng không thấy con trả lời. Sờ vào người thì thấy chân tay cháu TA. lạnh nên ẵm xuống tầng trệt, lấy dầu xoa và nhờ người đưa cháu đi cấp cứu.

Tuy nhiên, sau khi đến bệnh viện cấp cứu thì bác sĩ thông báo cháu TA. đã mất.

Kết quả giảo nghiệm tử thi cho thấy cháu HTA “sặc đường thở, trên người có nhiều vết bầm tụ máu rải rác ở vùng trán, mặt và tứ chi.”

Sau chứng cứ không thể chối cải, bà Giàu thừa nhận thường xuyên dùng tay, muỗng múc canh, đũa gỗ… đánh vào các vùng mặt, chân, tay, hông, lưng và đổ nước nóng vào chân, đánh cháu TA. gây thương tích.

Khu vực cháu TA. (ảnh nhỏ) sinh sống cùng với mẹ ruột trước khi bị hành hạ đến chết. (Hình: H.T/Tiền Phong)

Trước đó, mạng xã hội “dậy sóng” khi danh khoản Facebook của người tên Huỳnh Trung Hiếu đăng tải bài viết cho thấy anh và vợ [Trần Thị Kim Giàu] ly hôn.

Khoảng một năm nay, con gái anh là cháu TA. sống cùng mẹ, dù nhiều lần muốn gặp con nhưng anh Hiếu không được gặp. Thời gian này, con gái anh bị mẹ đối xử tệ bạc, hành hạ cho đến lúc chết.

“Ba đâu biết một năm qua con phải sống trong một cuộc sống địa ngục, cô đơn, lạnh lẽo, con phải ngủ ngoài cầu thang, không ai cho ăn, đói thì quơ được cái gì ăn cái nấy…. Ba đâu có ngờ, đâu có biết, đâu có nghĩ trên đời này làm gì có một người mẹ ruột nào mà nỡ hành hạ con mình đến chết như vậy đâu con,” người cha đau xót viết. (Tr.N)


 

50 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (II) – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

22/10/2024

23 April 1975 – người tị nạn Việt Nam trên tàu SS Pioneer Contender trong giai đoạn kết thúc Chiến tranh Việt Nam; 50 năm trước, vào ngày 30 Tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam thất thủ. Nguồn: Bộ Quốc phòng Mỹ / AP

Tiếp theo phần I

Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng.

Chúng tôi muốn Thiệu phải từ chức

Bản đồ VNCH ngày 21 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

“Ông ta đã bán miền Nam cho cộng sản. Thiệu đã không cho biết trước có cuộc rút quân này. Chúng tôi đã bốn lần thoát chết.” Một người phụ nữ khác đã nói như thế. Một vị sĩ quan cho biết trong ba ngày đầu, những nạn nhân bị cộng quân phục kích còn được chôn cất hẳn hoi, nhưng sau đó thì những người bị giết hoặc bị thương bị đẩy sang lề đường và cứ thế đôi khi xe cộ cán qua người họ. Khi mà đoàn người bị ứ đọng bởi xe cộ, kẹt cứng trên một đoạn đường dài hơn 10 dặm, bị pháo kích của cộng quân, bị mìn, bị xô đẩy, chen chúc đến không nhúc nhích được thì bùng phát ra các vụ cướp bóc, hôi của của những người lính.

Xe cộ, tủ lạnh, tivi, quạt máy, giường ngủ, dàn máy hát và đồ đạc tùy thân lúc này trở thành miếng mồi ngon cho sự cướp bóc? Anh hùng hay hèn nhát? Nào ai có thể nói được trong hoàn cảnh những người chạy loạn khốn khổ và cay đắng ấy?

Cầu cống chưa sửa kịp tạo ra sự dồn cục, tắc nghẽn như thể chui vào trong một cái rọ cho cộng quân đuổi theo, pháo kích.

Nó còn khốn khổ, tồi tệ hơn hoàn cảnh của liên quân Anh Pháp ở Dunkerque. Cái cảnh ấy không bao giờ có thể quên được. Và cứ thế các tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột rơi vào tay cộng quân.

Miền Nam đã để mất vào tay cộng sản 11.000 dặm vuông và con số hơn một triệu dân.

Mặc dầu vậy, hàng ngàn xe cộ, xe gắn máy cũng đã tới được Tuy Hòa. Đến Tuy Hòa, phần lớn đàn bà, trẻ con như lạc mất thần. Họ lặng lẽ lau nước mắt.

Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn

Trong khi đó, cũng theo tin AP, nơi xứ người, Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn quyết tâm xiết chặt các thành phần đối lập. Trước đó đã có cuộc trưng cầu dân ý đưa đến kết quả dễ dàng one-man rule vào tháng hai vừa qua. Hoàn cảnh Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm giống nhau. Nhưng số phận hai nước lại rẽ theo những hướng khác nhau, một nước mỗi ngày một phát triển, một nước thì lận đận với chiến tranh và rồi mỗi ngày một thêm tụt hậu.

Câu hỏi thắc mắc của tôi là ta và Nam Hàn cùng một hoàn cảnh, vậy mà ông Thiệu không sang Đại Hàn một chuyến học hỏi người ta nhỉ?

Ngày Đà Nẵng mất cũng là ngày Lon Nol của Cao Mên chuồn mất.

Vào đúng ngày Đà Nẵng mất. Thủ tướng Lon Nol dẫn đầu một phái đoàn viếng thăm thiện chí Indonesia và Hoa Kỳ. Trước khi đến Indonesia, Lon Nol quá cảnh ở phi trường Thái Lan Utapao, nhưng bốn ngày sau, ông biến mất. Và kể từ ngày đó, ông không bao giờ quay trở vể nữa. Ông Lon Nol xem ra cũng quá khôn ngoan, giống lãnh đạo của ta không kém gì!

Việc ra đi của tướng Lon Nol cũng báo hiệu cho biết con bài tẩy của Kissinger cách đây hơn 4 năm cũng chấm dứt theo. Kissinger là người đầu tư vào lá bài Lon nol. Vậy mà sau đó Kissinger phủi tay.

Ngày 25 tháng Ba. Âm mưu ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

Nguồn tin của hãng Reuters trích lại một bài báo đăng trên báo ở Nhật, tờ Mainichi cho hay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa thoát một cách an lành vụ ám sát ông vào ngày chủ nhật vừa qua.

Trong ngày thứ hai, người ta cũng nghe được dư luận về vụ ám sát ông Thiệu là do âm mưu của một sĩ quan cao cấp tìm cách tấn công ông Thiệu. Nhưng các cận vệ của ông Thiệu đã phòng ngừa và ngăn cản được vụ tấn công. Và ngay lập tức, viên sĩ quan ấy bị bắt giữ.

Nguyên do của vụ mưu sát ông Thiệu liên quan đến việc ông quyết định cho rút khỏi Tây Nguyên vừa qua.

Có thể nói, trong thời gian này, ông Nguyễn Văn Thiệu là một người cô độc. Nhiều tin đồn đảo chánh đòi lật đổ. Ông Nguyễn Cao Kỳ được coi là mối nguy hiểm nhất, vốn là một địch thủ, tìm cách móc nối với tướng Lê Minh Đảo, tướng Cao Văn Viên để có thể có thêm vây cánh.

Nhưng kết quả là cả tướng Lê Minh Đảo cũng như Cao Văn Viên đều không muốn tham dự.

South Viet generals, Plots are all in vain

The Ottawa Journal, April 14, 1975, trang 13.

Phóng viên Mark Gayn có viết một bài diễn tả đủ cái tình trạng miền Nam lúc bấy giờ nhan đề: South Viet generals, Plots are all in vain.

Theo Mark Gayn, ít lắm cũng có hai nhóm tính lật đổ ông Nguyễn Văn Thiệu.

Thứ nhất, nhóm cựu tướng Dương Văn Minh mà dưới mắt người Mỹ được coi như hết thời. Ngoài thú chơi lan còn đánh Tennis mà người Mỹ đánh giá ông rất thấp. Một thứ Hamlet của chính trị Viêt Nam, tính tình không dứt khoát đi đến chỗ bất lực chẳng giải quyết được gì. Lúc nào cũng là thứ bung xung. Bề ngoài đóng vai trò trung lập. Chỉ không ngờ con bài tẩy ấy nay lại có chỗ để dùng như một con chiên tế thần mà người Mỹ gọi là a Bluff professionnal soldier, nửa mùa theo Tây. Ra vào nhà Dương Văn Minh, có một số đối lập, bất mãn với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Minh che chở như trường hợp cựu dân biểu đối lập Dương Văn Ba. Ông này ăn ở ngay trong dinh Hoa Lan và trốn lính. Cộng thêm vào đó là một vài tướng lãnh còn mong muốn Minh trở lại nắm chính quyền và có cơ may thương thảo hòa bình với cộng sản. Nhưng Minh là người rất ngại Nguyễn Văn Thiệu. Minh có mời Trần Thiện Khiêm lại nhà nói chuyện và thú nhận có liên lạc với phía Mặt trận. Minh cũng khoe là qua tướng Đôn vừa về từ Paris, có liên lạc với Jacques Chirac và Pháp đã công khai cho rằng Minh là người có thể có vai trò hòa giải. Đại sứ Pháp Jean-Marie Merrillon đã đến gặp Minh để tiếp xúc.

Người thứ hai là thủ tướng Trần Thiện Khiêm, một người khá nhất trong đám tướng lãnh, một tay chuyên nghiệp trong những âm mưu và khuynh đảo và cũng có thể là người có khả năng nhất để điều hành chính phủ. Vừa qua, nhân danh ông Thiệu, ông Khiêm là người thay đổi ba tướng quân đoàn, 20 đại tá và 200 cấp tá. Ông biết dùng người, ngay cả loại trừ người này, người kia, rồi cài đặt vào vị trí khác khiền ai cũng mắc một món nợ với ông. Tuy nhiên, tình hình quá khẩn trương và thay đổi gấp rút nên việc sắp đặt các chức vụ chỉ huy chưa đem lại kết quả gì khi cộng quân sắp sửa vào đến cửa ngõ trong nhà. Mọi cố gắng thay đổi đề trở nên vô ích. (Xem phần di tản của ông Thiệu để thấy Ông Thiệu và Khiêm là cặp bài trùng)

Lần đầu tiên, Đà Nẵng bị pháo kích. Ở phía Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Chu Lai thất thủ giúp cho cộng quân rảnh tay. Nói thất thủ là không đúng, cộng quân chưa tới nơi thì quân dân cán chính đã tự rút lui có chiến thuật, mạnh ai người nấy bỏ chạy.

Hết Quảng Ngãi, Chu Lai đến Nha Trang và cứ thế tháo chạy. Cảnh tượng đó bắt nguồn từ cuộc rút quân ngày 16 tháng 3 tại Pleiku, Kontum và như vết dầu loang. Chưa đánh đã bỏ chạy.

Thực sự sau trận tấn công dễ dàng vào Ban Mê Thuột ngày 10-3 mở đầu cho chiến dịch, cộng quân chưa hề có trận đụng độ chính thức nào với quân đội miền Nam Việt Nam.

Đó là nỗi nhục chung cho quân đội miền Nam.

Ngày 27 tháng ba. Mất Bình Định

Bản đồ VNCH ngày 27 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

Tỉnh Bình Định đã rơi vào tay cộng quân. Trong khi đó ở Sài Gòn, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh bắt một số khoảng hơn 10 người được coi là có âm mưu lật đổ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Danh sách 10 người này là những ai hiện nay chưa được biết chính xác. Nguyên thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ họp báo phủ nhận ông không có dính dáng trong những âm mưu tính lật đổ này. Ông cũng kêu gọi thành lập một chính phủ mới ‘được dân chúng và quân đội tin tưởng’. Tuy nhiên ông nói với các thông tín viên báo chí là ông mong muốn có sự thay đổi bằng những phương tiện hòa bình.

Ngày 27 tháng 3. Quảng Trị mất

Người ta còn nhớ trước đây, cộng quân đã chiếm Quảng Trị vào năm 1972. Trận đánh kéo dài đến tám tháng. Và quân đội VNCH phải mất 2 tháng để chiếm lại Cổ Thành với trợ giúp của gần 5000 chuyến bay B-52 và và gần một triệu viên đạn pháo. Cuộc chiến đấu tái chiếm Quảng Trị là một quyết tâm của quân đội VNCH, đổ ra nhiều xương máu.

Trong cuộc tái chiếm của Quảng Trị, người ta cho là trận đánh kinh hoàng nhất. Số thương vong cả hai bên, nhất là phía cộng quân thiệt hại không đếm xuể. Xác người không kịp chôn. Họ đã vùi thây ở đây như một thứ mồ chôn tập thể mà Hà Nội đã đẩy họ vào. B-52 là hung thần của họ.

Vậy mà nay đến lượt quân đội miền Nam phải bỏ chạy.

Nay thì nhiều đoàn người dân chúng hốt hoảng bỏ chạy. Thừa Thiên có mật độ dân số là 750.000 ngàn người, trong đó thành phố Huế với 200.000. Huế với những cảnh sôi nổi, biểu tình xuống đường trước đây, nay Huế chỉ còn là cảnh vườn không nhà trống. Thông tín viên AP đã phải gọi Huế là vùng no-man’s land. Thành phố Huế vắng hoe. Người ra đi thì đã đi rồi. Người ở lại thì đành chấp nhận cho số phận buông xuôi. Người ta ước lượng con số hơn nửa triệu người đã bỏ chạy.

10 giờ đêm 28 tháng ba

Có lệnh bỏ Đà Nẵng. Tướng Truởng đã họp các sĩ quan tham mưu và thông báo cho họ tin triệt thoái khỏi Đà Nẵng. Triệt thoái như thế nào, phương cách làm sao? Từ tướng Trưởng trở xuống, không một ai có lòng dạ nào lo cho cuộc triệt thoái có trật tự, có lớp lang. Ai đi trước, ai đi sau ngăn chặn cộng sản. Kinh nghiệm triệt thoái Cao Nguyên đáng lẽ là một kinh nghiệm đắt giá.

Vậy mà bài học Tây nguyên đã không rút tỉa được kinh nghiệm gì cho cuộc triệt thoái này. Cuối cuối cùng đây là cuộc bỏ chạy thê thảm thứ hai sau Ban Mê Thuột.

Trách nhiệm này chắc hẳn tướng Trưởng phải chịu một phần!

Cách đây 2 tuần lễ, tại đường số 7, đó là một Dunkerque Việt Nam.

Ngày hôm nay, cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng là một nỗi kinh hoàng mà trách nhiệm phần lớn nằm trong tay quân đội, tướng lãnh, sĩ quan cao cấp.

Ngày 29 tháng Ba. Đà Nẵng những ngày hấp hối. Miracle Flight from Hell

Đà Nẵng sau này trở thành tiêu biểu cho cuộc tháo chạy của quân đội và dân chúng miền Nam lánh nạn cộng sản. Một sự tháo chạy trong hoảng loạng, chà đạp, xô đẩy ngay cả giết chóc để kiếm một chỗ trên máy bay hay trên các tàu thủy.

Thảm cảnh ấy chỉ sau này ở hải ngoại Cao Xuân Huy mới viết “Tháng ba gẫy súng”. Đó là một địa ngục trần gian mà những chuyến bay rời khỏi Đà Nẵng những ngày cuối cùng được phóng viên Paul Vogle là nhân chứng diễn tả lại.

Câu chuyện về ông Edward Daly

Người tị nạn cộng sản, kể cả trẻ mồ côi Việt Nam đến Mỹ bằng phi cơ của World Airways. Nguồn:oaklandaviationmuseum.org

Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng thêm 17 lần để cứu vớt những người tỵ nạn mặc sự ngăn cản và chấm dứt hợp đồng của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn sau 3 chuyến di tản.

Tất cả chi phí chuyến bay cũng như trách nhiệm là do tự ý Daly quyết định với hy vọng vớt thêm người tỵ nạn. Ông là chủ công ty World Airways từ năm 1950.

Cái gương can đảm của Daly thật đáng để kể lại.

Phóng viên của hãng UPI, Paul Vogle là một trong những người đi chuyến bay chót từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông cho là một phép lạ chuyến bay có thể cất cánh và an toàn ra khỏi không phận Đà Nẵng vào ngày thứ bẩy. Nhiều người đã giành giật lên máy bay và sẵn sàng giết người khác để giành một chỗ trên chuyến bay.

Trang nhất tờ The Hour – Mar 21, 1975.

Ông Daly đã bắn một loạt đạn lên trời nhằm cảnh cáo. Nhưng xem ra tất cả đều vô hiệu. Theo Paul Vogle, những người lính VNCH đã xả hàng tràng đạn M16 để ngăn cản những người dân tỵ nạn đổ xô lên máy bay. Trong khi đó cộng quân tiếp tục pháo kích vào phi trường càng làm cho dân chúng hoảng sợ. Paul Vogle đã trông thấy một người lính của quân đội miền Nam đã đạp vào mặt một người đàn bà lớn tuổi để dành chỗ lên máy bay. Người đàn bà lộn nhào xuống ở phi đạo và một tay vẫn cố bám vào phi cơ đã sắp sửa lăn bánh. Một binh sĩ dùng súng đã bắn một tràng súng liên thanh. Trên máy bay, chỉ có các binh sĩ trong quân phục của họ. Phần đông họ thuộc Đại đội Hắc Báo, Sư đoàn 1 Bộ binh (1st Division’s Black Panther Unit). Sàn máy bay đầy những vết máu. Có hai thường dân duy nhất là đàn bà và một đứa trẻ trong chuyến bay phản lực 727. Có vài người bám vào khoang bánh phi cơ và may mắn như một phép lạ nếu họ còn sống sót. Một số người khác không có may mắn như thế khi phi cơ đã lượn ra xa và họ rớt xuống biển. Khi đến phi trường Tân Sơn Nhất, người ta còn thấy thây một người lính với khẩu M16 còn dính vào vai, thây người còn dính lủng lẳng vào bộ bánh hạ cánh của chiếc phi cơ.

Theo Frank Snepp sau này cho biết, khi chiếc máy bay World Airways 727 vừa đáp xuống phi đạo thì xe chở quân đội cộng hòa tiến lại gần máy bay và binh lính ào xuống. Khoảng 5000 dân chúng đứng sau một hàng rào nôn nóng chờ đợi đã chạy ào về phía máy bay.

Viên phi công vội cho rồ máy và vội vã cất cánh kéo theo một số người còn đang bám dính vào máy bay.(7)

Theo Nhiếp ảnh gia Liên Hương của hãng UPI đã có mặt trong chuyến bay thứ nhì từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, nhiếp ảnh gia đã nhìn thấy một số người bám vào chiếc phản lực thứ nhất khi nó cất cánh và một người đã bị rớt xuống biển.

Chân một ngươi lính VNCH còn trong bộ phận hạ cánh của chiếc World Airways 727 và cánh trái của phi cơ hư hại vì lựu đạn của lính VNCH nhưng vẫn rời Đà Nẵng. Nguồn: UPI

Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng.

Còn hàng trăm ngàn binh sĩ và thường dân kẹt lại ở Đà Nẵng trong tình trạng rối loạn và vô trật tự. Mất Đà Nẵng, coi như một thiệt hại lớn lao nhất kể từ năm 1946. Một triệu rưởi ngưởi bị vây hãm ba phía. Và trông ra biển là một lối thoát tuyệt vọng. Có 8 chuyến bay định hạ cánh xuống Đà Nẵng để cứu vớt một số dân tỵ nạn. Nhưng đành bỏ cuộc. Cũng chỉ còn chút may mắn là khoảng từ 35 ngàn đến 50.000 ngàn người đã chạy thoát bằng đường biển,

Đà Nẵng ngày 31-3. Babies fall overboard in scramble for ships

Vào ngày 29, tướng Trưởng còn ở Đà Nẵng. Nhưng thay vì ở trên bờ thì ông đã leo lên một chiếc canoe tuần tra để ra tầu lớn. Nơi đây, ông còn nán lại thêm hai ngày nữa để chứng kiến cảnh hấp hối của Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn.

Sau này, nhiều sĩ quan đã phê bình ông vì ông đã không ở lại Đà Nẵng cho đến ngày chót để giữ tinh thần binh đội của mình.Thảm cảnh giành giật lên máy bay chỉ là một sự thu nhỏ thảm kịch tháo chạy. Tại bãi biễn Đà Nẵng, hàng ngàn con người chờ đợi, lội bì bõm với hy vọng ra được tàu thủy bị sóng vùi lấp, hoặc chen chúc nhau trên các sà lan cả mấy ngày nhịn đó, nhịn khát.

1 tháng Tư, 1975 | Tàu nhỏ kéo xà lan chở người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender. Nguồn: AP Radiophoto

Trên chiếc tàu buôn dân sự chở hàng khô SS Pionner Contender(7a), theo lời một nhân chứng thuật lại, một số binh sĩ đã nhốt các chỉ huy chiến hạm này vào một cabin, rồi thay nhau hãm hiếp các phụ nữ, sát hại cũng như trấn lột nữ trang, tiền bạc gây hoảng sợ trong số dân chúng ở trên tầu.

Đây là tình trạng phẫn nộ của một số binh sĩ về sự sụp đổ cay đắng đang diễn ra. Anh hùng hay hèn nhát?

Những thủy thủ người Mỹ trên tầu cho hay có ít nhất 25 người đã bị giết chết khi tranh giành lên tầu. Những người lính thủy quân lục chiến này cho rằng, họ đã giết những người đó vì tình nghi họ là Việt Cộng. SS Pioneer Contender là chiếc tầu cuối cùng rời bến cảng Đà Nẵng. Riêng phóng viên Peter O’Loughlin đã nhìn thấy khoảng 15 xác chết và hàng trăm xác chết khác trên những chiếc xà lan khác.

Theo một nguồn tin khác của AP, trên những chiếc xà lan chất đống hàng mấy ngàn người vừa binh sĩ, vừa thường dân với trẻ con sống chen chúc nhau từ 4 ngày nay không có nước uống. Họ trở thành như điên loạn và đôi khi nhảy xuống biển tự vận. Lính thủy người Mỹ trên tầu SS Pioneer Contender làm thành hành rào người để đỡ những đàn bà trẻ em lên tàu. Phải mất tám giờ đồng hồ để đưa họ lên tàu.

1 April 1975 – Lưới chuyển hàng đưa người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender ở bờ biển, sau khi thành phố Đà Nẵng sụp đổ; Phải mất tám giờ để đưa khoảng 6.000 người tị nạn lên tầu. Nguồn: Peter O’Loughlin / AP

Nhiều người bám vào dây neo của tàu để trèo lên. Chiếc SS Pionner Contender thứ nhất đã vớt được 5000 người và đã nhổ neo. Chiếc SS Pioneer Contender đã có thể áp sát tàu vào sà lan giúp cho người ta có thể lên tàu dễ dàng hơn. Khi chiếc Contender, nhổ neo thì không còn sà lan nào khác và tàu trực chỉ phía Nam, rất có thể là sẽ ghé Cam Ranh. Trên tàu thiếu nước uống, chỉ còn vài thùng nước uống không đủ phân phát cho mọi người. Thủy thủ đoàn đã phải biến Cabin trên tàu thành một nhà thương, vì có người đàn bà hạ sinh một đứa trẻ. bác sĩ cho biết đứa trẻ ở trong tình trạng nguy kịch.

Tàu trực chỉ hướng Nam và người ta còn nhìn thấy xa xa trên bãi biển như một đống rác với xe gắn máy, valise, dày giép, quần áo vứt hỗn độn cũng như xác một đứa trẻ nằm chết trên bãi. Người ta còn nhớ cảnh tượng hãi hùng khi một vài đứa trẻ bị rớt xuống biển và mẹ chúng nhảy xuống theo với một cố gắng vô ích cuối cùng mong cứu được con của họ.

Đó là bài tường thuật của phóng viên AP, tại Đà Nẵng, vào ngày 31 tháng ba với nhan đề: Babies fall overboard in scramble for ships.

Chẳng hiểu những ông Thiệu, ông Khiêm, ông Trần Văn Đôn, ông Dương Văn Minh có cơ hội được xem những thảm cảnh này trên truyền hình hay không?

Phần tôi, sau này có dịp nghĩ rằng các các cấp lãnh đạo miền Nam và các vị chỉ huy từ cấp đại tá trở lên đang có trách nhiệm ở vùng một đã không làm hết bổn phận của một quân nhân. Hầu hết đã dùng những phương tiện dành cho họ và rút khỏi miền Trung bỏ lại đằng sau các sĩ quan cấp thấp như thiếu tá, đại úy và binh lính của họ.

Vì thế, đã có nhiều thành phố buông xuôi, bỏ chạy mà cộng quân đã không phải tốn một phát súng nào. Chẳng hạn như tại Quảng Trị, Bình Định, Tuy Hòa.

Người ta có cảm tưởng mạnh ai tìm phương tiện tháo thân và bất kể số phận dân chúng ra sao. Ông Thị trưởng Đà Nẳng đã tỏ ra bất lực và buông xuôi. Một trong những nhân viên CIA làm việc tại Đà Nẵng Francis Gasped đã hét lên khi không cách nào liên lạc được với vị thị trưởng, “Get me the Mayor.”

Đã có bao nhiêu ông thị trưởng trốn trách nhiệm vào giờ phút thứ 25 như thế?

Và khi đã gặp được viên thị trưởng thì Gaspel nói, “Hãy giúp chúng tôi một tay ở đây. Họ dù sao cũng là dân của các ông.”(8)

Người ta ít để ý và ghi nhận là ngoài khơi bãi biển Đà Nẵng có chiếc tầu thủy dành riêng cho nhóm CIA để quan sát tình hình. Tên chiếc tầu là Oseola có nhiệm vụ quan sát, nếu cần tiếp trợ theo khả năng của họ.

Trên bong tầu Oseola, người ta có thể quan sát cảnh chen chúc nhau lên chiếc Pioneer Contender, cảnh những xà lan tới tấp đưa người lên chiếc SS Pioneer Contender đã quá tải. Xa xa là chiếc HQ-5 của Hải quân, một tầu tuần duyên.

Vài giờ sau, vào lúc nửa đêm, trên chiếc Oseola, người ta có nhận thấy đèn pha trên chiếc SS Pioneer Contender trực chỉ hướng Nam về phía Cam Ranh.

Sứ mệnh một con tàu coi như đã hoàn tất. Phần còn lại, để cho số phận quyết định!

Có một điều như một tấm gương cho các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp soi gương là người ở lại cuối cùng trước khi rời Đà Nẵng lại là một người Mỹ. Mặc dầu có lệnh của trùm mật vụ Polgar yêu cầu ông phải di tản ngay khỏi Đà Nẵng bằng máy bay. Ông Philip Custer [bí danh của Trưởng Cơ sở CIA tại Đà Nẵng – có thể là Thomas J. Flores] coi như tai điếc vẫn tiếp tục ở lại, coi như không nhận được lệnh. Ông ở lại với hy vọng là cứu vớt được nhiều người khác lên tầu thủy, thêm được tin tức.

Nhưng đối với Polgar thì việc trì hoãn di tản là tự chuốc lấy một sự liều lĩnh không cần thiết.

Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng để cứu vớt thêm những người tỵ nạn mặc dầu sự ngăn cản của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn.

Nhưng nếu tất cả cấp chỉ huy của chúng ta làm công việc như ông Custer hay ông Daly ở trên thì sự thể sẽ như thế nào?

Vào lúc này, tại tòa đại sứ Hoa Kỳ loan báo sẽ có những chuyến bay đặc biệt chở sang Sài gòn các phương tiện thuốc men và cả đồ viện trợ quân sự nữa.

Quyết định của sinh viên ở Canada

Trước tình hình miền Nam trở thành một sự tuyệt vọng. Anh em sinh viên bên này đã tụ họp lại và đi đến quyết định lên gặp đại diện chính quyền Canada bảo lãnh cho gia đình sang tỵ nạn bên Canda. Hạ tuần tháng 3, 1975 sinh viên Việt Nam đã đến văn phòng Bộ trưởng Bộ Lao động và Di trú Robert Andras yêu cầu chính phủ Canada đưa thân nhân của họ rời khỏi Việt Nam. Mặc dù chỉ có một số nhỏ, sinh viên Việt Nam (khoảng 1500 người ở Ontario và Quebec) khi tình hình xấu đi, trụ sở chính của Bộ Bộ Lao động và Di trú tại Ottawa đã tràn ngập với hàng ngàn đơn xin bảo lãnh cho thân nhân và gia đình ở Việt Nam.

Đơn bảo lãnh thân nhân của sinh viên Việt Nam tại Canada, Circa tháng 3, 1975

Các toán công tác của Bộ Lao động và Di trú ở châu Á-Thái Bình Dương không kịp đối phó, và toàn bộ đội ngũ ngoại giao đoàn đã chuyển sang gởi thư và chiếu khán nhập cảnh. Đơn xin bảo lãnh được cứu xét cấp tốc, và telex danh sách người được bảo lãnh được gửi đến đại sứ quán Canada tại Sài Gòn ở tốc độ nhanh nhất. Nhân viên ngoại giao đã làm việc từ 14 đến 16 giờ một ngày. Hai nhân viên đã ngủ tại Trung tâm Thông tin liên lạc của Bộ Ngoại giao để bảo đảm bảo các tin nhắn vào và ra đã được chuyển kịp thời. Và tất cả các trung tâm di trú ở Canada đã mở cửa một ngày cuối tuần để nhận đơn bảo lãnh.

Cố gắng của nhân viên Bộ Di trú ở Canada đã đem lại kết quả: mỗi buổi sáng tháng Tư, tòa đại sứ Canada tại Sài Gòn đã nhận được những tờ telex dài từ 7 đến 10 thước với tên và địa chỉ, thường không đầy đủ, của thân nhân của sinh viên và người Việt tại Canada.(9)

Chỉ trong tháng Tư 1975, văn phòng visa Canada ở Hồng Kông đã gửi thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh đến 3.500 gia đình (khoảng 15.000 người) ở Việt Nam được người thân ở Canada bảo lãnh.(9a)

Thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh Canada, 24 tháng 4, 1975. Nguồn CIHS, số tháng 4, 1975.

Nay nhìn lại, người ta thắc mắc không biết có bao nhiêu sinh viên phản chiến ở Canada nộp đơn xin đoàn tụ gia đình?

Câu trả lời có thể là từ một người dại diệm nhóm sinh viên thiên tả trong tổ chức UGCV (Union générale des Vietnamiens au Canada. Hội Việt kiều Yêu Nước Tại Canada) – ông Thục Bình nói như sau:

Chúng tôi chào đón cuộc chinh phục toàn Đông Dương của người cộng sản. Ông nói tiếp:

“Cuộc chiến thắng vào tháng tư 1975 đã làm rung chuyển huyền thoại sức mạnh siêu cường của nước Mỹ. Nó đem đến sự giải phóng cho nhiều quốc gia. Nhờ đó, nó đem lại sự chiến thắng của các lực lượng tiến bộ của lào và Cambodia, sự chấm dứt chế độ thộc địa của Bồ Đào Nha tại Angola, Guinea-Bissau và Mozambique và sự sụp đổ của các nhóm độc tài cực tả tại Thổ Nhĩ Kỳ và Bồ Đào Nha.”(10)

Phần chính quyền Canada như Bộ trưởng Di trú Robert Andras nhấn mạnh trong buổi họp nội các rằng: “Canada có truyền thống nhân đạo ‘humanitarian considerations ought to be regarded as paramount’ (Sự cứu xét về mặt nhân đạo phải được coi là điều tối quan trọng).”

Cứu trợ nhân đạo cũng là để đáp ứng lời kêu gọi của Mỹ muốn các nước đồng minh cùng nhau hợp tác trong một chương trình đa phương nhằm định cư những người Việt.

Chẳng những chính phủ Canada chấp nhận cho các sinh viên đang du học tại đây, các người có quyền công dân hay thường trú, khoảng 1500 người được bảo lãnh thân nhân từ Việt Nam sang. Chính quyền còn thỏa thuận nhận khoảng 2000 người không có thân nhân bảo lãnh ở các trại tỵ nạn và 1000 người khác Đông Nam Á.(11)

Chúng tôi nghĩ rằng, việc bảo trợ những người Việt Nam tỵ nạn đến Canada ngay sau ngày 30 tháng Tư, 1975 là một việc làm nhân đạo. Nếu có ưu tiên nào, lúc đó, thì ưu tiên duy nhất là có thân nhân hiện ở Canada. Cũng vì tính cách nhân đạo đó, sau này chính phủ Canada đã cho nhập cảnh Canada đủ mọi thành phần, có học cũng như không có học, biết tiếng Pháp cũng như không biết tiếng Pháp. Tài liệu “Indochinese Designated Class Regulations”, S.O.R./78- 931 nêu rõ nhiều chi tiết về tiến trình bảo lãnh/nhập cư vào Canada của người tị nạn Việt, Miên, Lào đã bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng Tư 1975.

Một số thành phần thuộc giới có ăn học ở Việt Nam, được bảo lãnh vào Québec chủ quan cho rằng, Québec thường dễ chấp nhận những người có bằng cấp và nói được tiếng Pháp! Đó là một lối suy nghĩ chủ quan không đúng chỗ. Hiện nay di dân người Việt ở Canada đã lên đến con số 250.000 người, vậy thì ai là người có học và ai là người nói tiếng Pháp trong số đó?

Trong tập hồ sơ kỷ niệm 40 năm di cư của Hội Sử học Di Dân Canada (The Indochinese Movement: Fortieth Anniversary), ông Bộ trưởng Di trú Robert Andras đã nêu bật tính cách ‘phi chính trị’ trong việc tiếp nhận người tỵ nạn. Vì thế, Canada cùng lúc cho nhập những người Việt Nam tránh nạn cộng sản cũng như cho nhập những người dân Chí Lợi thuộc cánh tả của Tổng thống Allende bị chính quyền độc tài quân phiệt Pinochet săn đuổi và truy lùng.

Ngày mồng một, tháng Tư, 1975 | Cong will talk, if Thieu out

Trước một nguy cơ miền Nam sụp đổ không tránh được, cộng sản Hà Nội càng tỏ ra quyết liệt. Tin của thông tín viên AP, từ Nhật Bản cho hay, cộng sản Hà Nội tuyên bố miền Nam Việt Nam đang ở một khúc quanh mới (New turning point) về một chiến thắng áp đảo và tràn ngập về quân sự.

Nhưng Hà Nội chỉ chịu nói chuyện với một chính quyền mới trong đó không có Nguyễn Văn Thiệu và phe đảng của ông ta. Và rằng trở ngại cuối cùng để đưa đến một cuộc đàm phán chính là Nguyễn Văn Thiệu. và Người Mỹ thì vẫn ngoan cố không chịu chấm dứt sự can thiệp bằng quân sự vào cuộc chiến tranh.

Kissinger thất bại trong cuộc đàm phán Do Thái-Ai Cập

Những cố gắng ngoại giao trong những ngày gần đây xem ra đã tan ra mây khói. Chính sách ngoại giao con thoi (Shuttle diplomacy) của Kissinger đã chấm dứt bằng sự thất bại vì không đưa được Do Thái-Ai Cập xích lại gần nhau để bàn thảo về tương lai giữa hai nước về việc giải trừ binh bị. Mặc dù gặp thất bại, Kissinger vẫn không ngừng gặp gỡ đôi bên. Ông vẫn hy vọng hai bên đạt được một thỏa hiệp!

Refugees plight hopeless

Hoàn cảnh của hơn một triệu người hiện nay còn bị kẹt lại Đà Nẵng coi như hết hy vọng. Ít lắm trong số đó có khoảng 120.000 người tỵ nạn có hy vọng được vớt ngoài biển. Đạn trọng pháo của cộng quân vẫn tiếp tục nã vào Đà Nẵng.

Hiện nay có khoảng 20 tầu biển đang đậu ngoài khơi hải phận quốc tế để cố gắng tìm cách đưa những người tỵ nạn còn bị kẹt trong đất liền. Nhưng xem ra khó có hy vọng làm được điều gì. Làm thế nào người tỵ nạn có phương tiện để ra gặp tầu biển đậu ngoài khơi? Xem ra mọi chuyện đã quá trễ và hết hy vọng? Họ phải có những tầu đổ bộ (Landing ship transport) chở ra tàu lớn.

Chính quyền miền Nam đã nhờ Mỹ can thiệp với Hà Nội để cho những người tỵ nạn ở Đà Nẵng được ra đi thong thả. Hà Nội trả lời là không thể nào có cuộc ngưng bắn đi kèm với việc để những ngươi tỵ nạn ấy ra đi! Chấm hết.

Ngày 2 tháng tư, 1975

Theo tin của đài Hà Nội, một chính quyền mới nay đang có trách nhiệm ổn định lại trật tự ở Huế. Một số viên chức cao cấp như cảnh sát và nhân viên chính phủ bị kẹt ở lại được biết đã bị đem ra xử bắn ngay tức khắc.

Và như một màn kịch cùng ngày, tướng Thiệu ra lệnh tướng Trưởng phải tái thiết lập Quân đoàn 1 dể phản công lấy lại toàn vùng.

Tường Trưởng nghe được lệnh này chắc phải vừa cười, vừa khóc.

Đã ít nhất hai lần, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra những lệnh trái ngược nhau liên quan đến Quân khu I.

Cuộc triệt thoái khỏi vùng I đã phải trả giá đắt. Với 3 triệu dân chỉ có hơn 70 chục ngàn thoát chạy khỏi vùng I mà phần lớn thoát chạy bằng đường biển.

Nay đến lượt thành phố Nha Trang phải di tản. Hôm nay là ngày thứ ba, 2 tháng Tư. Thành phố nhốn nháo với dân tỵ nạn và họ tìm cách chạy ra khỏi thành phố bằng đủ phương tiện. Phần đông họ dùng đường bộ để chạy ra Cam Ranh, cách Nha Trang 40 dặm về phía Nam.

Trong số những người tỵ nạn, một số không nhỏ chạy về từ Cao Nguyên và một số chạy vào từ Đà Nẵng mới được vài ngày nay lại một lần nữa chạy khỏi Nha Trang.

Tuy nhiên các chức sắc trong thành phố cũng như những người có tiền của, có phương tiện do kinh nghiệm từ Đà Nẵng, họ đã tìm cách đi vào Sài gòn trước khi tình trạng rối loạn ở Nha Trang xảy ra. Tuy vậy, những cảnh tượng hỗn loạn xảy ra ở Đà Nẵng nay tái diễn ở đây ở mức độ nhỏ hơn. Nhà tù được mở cửa tạo thêm sự hỗn loạn với nạn cướp hóc vốn đã có sẵn.

Chương trình Orphan Airlift bị bãi bỏ

Theo tin của hãng AP từ Sài Gòn đánh đi cho hay dự định cho 500 trẻ em mồ côi được phép đi sang Mỹ dã bị bãi bõ. Chương trình này do tổ chức có tên là Friend of all Children được 4 bác sĩ và 17 nữ trợ tá gồm các quốc tịch như Mỹ, Úc và Anh trợ giúp.

Theo dự định, các trẻ em sẽ được chở đi trên các chuyến bay World Airways DC8 Cargo jet đến Chicago, ghé qua Tokyo và Hawaii.

Sau đó chẳng bao lâu lại có lệnh cho phép các trẻ em mồ côi được phép ra đi.

Ngày 3 tháng tư, 1975

Người dân Đà Nẵng lo trốn chạy cộng sản như thế, nhưng theo phóng viên John Burns của tờ The Globe and Mail cho hay, tại Bắc Kinh, tờ People’s Daily (Nhân dân nhật báo), trích dẫn một nguồn tin của báo chí cộng sản Hà Nội viết hàng trăm ngàn thường dân ‘Who had been forced to retreat with the ennemy from Danang, firmly frustrasted the vicious ennemy scheme and return to city, where they gave the liberation armed forces a rousing welcome’. (Bị áp lực rút theo bọn kẻ thù xấu xa, đã quay trở về thành phố Huế và hoan hô chúc mừng quân đội giải phóng).

Bài báo còn cho biết thêm, chính ‘ngụy quyền’ miền Nam đã vi phạm Hiệp Định Ba Lê chứ không phải người cộng sản.

Bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford

Theo tin hãng AP, tại Los Angeles, bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford, bà rất lấy làm xúc động khi thấy hoàn cảnh một số trẻ em Việt Nam và bà mong muốn nhận chúng làm con nuôi. Bà Ford đã nói trong một buổi họp báo trong lúc đang đi nghỉ hè tại Palm Springs, bà nói bà ủng hộ chương trình cứu một số trẻ em của Tổng thống Ford, Orphans Airlifts. Bà nói thêm, “Tôi thấy rằng những trẻ em cũng là những đứa trẻ và chúng cũng cần có những cơ hội lớn lên như các con em của chúng ta.”

Where is Thi My Kieu?

Cũng theo tin AP, tại Pompano beach, Florida, trong một căn phòng mới được trang hoàng dán giấy mầu hồng và mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng. Vợ chồng luật sư Ed Oddo đã sốt ruột trông chờ đứa trẻ Việt Nam được nhận làm con nuôi được sang Hoa Kỳ. Đó là bé gái Kiều Thị Mỹ.

Vào hôm thứ tư, ông Ed Oddo nói, “It’s frustrating. We’ve waited so long. You Know, We’ve got her picture. We’ve planned and dreamed, like a family would for any new baby.”

Phần bà vợ ông Oddo, Christine, 25 tuổi hy vọng rằng đứa con nuôi ba tháng rưỡi tuổi sẽ đến đây cùng với cùng với các trẻ mồ côi khác trong chuyến bay sắp tới.

Ông nói thêm, chúng tôi đã làm tất cả những điều có thể làm để hy vọng Thi My Kieu có thể đến đây.

Tin tiếp tục ngày 3-4 | Horror of war behind for 52 Viet orphans

Theo tin của hãng UPI, tại San Francisco, 52 trẻ em Việt Nam mồ côi hiện đã đặt chân đến đất Mỹ tuổi từ 3 tháng đến 8 tuổi vào tối thứ tư tại phi trường Oakland International Airport trên chuyến bay World Airways cargo jet.

Các trẻ em dã để lại đằng sau hình ảnh một cuộc chiến tranh ghê sợ mà các em chưa nhận thức hết được. Một cuộc sống mới đang mở ra.

Chắc chúng còn mệt sau 16 giờ 53 phút bay từ Việt Nam sang đây. Sau đó chúng được chở bằng xe buýt đến Tổng hành dinh của quân đoàn thứ sáu để khám bệnh và làm thủ tục nhận con nuôi.

Sở dĩ chúng có thể đến được đây trong ngày hôm nay là do lòng can đảm và tận tụy của Đại úy Ken Healy đã bất chấp lệnh từ Sài Gòn do trạm không lưu ngăn chặn không cho cất cánh bằng những chiếc phi cơ DC8. Đại úy William Keating cũng có mặt trong chuyến bay cắt nghĩa thêm: we were instructed to hold our position by ground control. We ignore that. We taxied down the runway and took off’.

Các trẻ em mồ côi này đã vượt được đoạn đường dài 6.993 dặm từ Sài gòn đến San Francisco.

Họ còn chuẩn bị một căn phòng cạnh cây cầu Golden Gate để cho các em mới tới vui chơi. Cứ hai em thì có một tấm nệm và căn phòng được trang hoàng đẹp mắt. Cứ mỗi một em thì do một người lớn chăm sóc mọi thứ.

Ngày 4 tháng Tư, 1975: Vietnamese cabinet ousted!

Theo nguồn tin UPI, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố ngày hôm nay chấp nhận chính phủ của ông sẽ từ chức và được thay thế bằng ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ viện. Vẫn có dư luận đồn thổi trong dân chúng là ông Nguyễn Cao Kỳ sẽ làm đảo chánh. Ông Kỳ phủ nhận tin này.

Sự thay đổi này chỉ là một sự chút trách nhiệm cho người khác. Nó không phải là giải pháp giải quyết của tình thế. Trong những ngày gần đây, Ông Thiệu đẩy trách nhiệm rút khỏi Tây Nguyên cho tướng Phú, trách nhiệm rút Huế Đà Nẵng cho tướng Trưởng. Tất cả chỉ là những màn chạy tội.

Miền Nam chắc sẽ mất vào tay cộng sản vì Mỹ bỏ viện trợ. Quân đội miền Nam VNCH đã từng chiến đấu ròng rã trong suốt 21 năm không lẽ thua trong vài tuần?

Ngay cả trường hợp miền Nam bị thua và rơi vào tay cộng quân, chúng ta vẫn có thể chọn lựa cho mình một cách thua khác.

Không phải cách thua nhục nhã như thế này!

Tướng Weyand, một đặc sứ của Tổng thống Ford gửi sang Việt Nam xem xét tình hình Việt Nam vẫn có thể tuyên bố như sau, “The North Vietnamese army… can be defeated.”

Chiến dịch ‘Operation Babylift’

Trong lúc cuộc chiến tranh ở miền Nam sắp sửa đi đến chỗ kết thúc. Một trong những người tích cực nhất trong việc di tản một số người Việt ra khỏi đất nước họ là ông Bộ trưởng bộ di trú Canada, ông, Robert Andras. Ông đã cho đặt thêm một emergency desk ngay trong văn phòng làm việc của ông để giải quyết vấn đề người tỵ nạn Đông Dương.

Việc làm ấy nằm trong cái tinh thần mà Peter Duschinsky, trong CIHS Bulletin, nhân dịp kỷ niệm 40 Năm sau 1975 với nhan dề bài viết The Human Side of the fall of Saigon.(12)

Cuộc chiến ấy nhiều mặt là một bi kịch chiến tranh, nhưng cũng là một thảm họa của nhân loại xét vế mặt con người.

Và sự cứu vớt người tỵ nạn ra khỏi cuộc chiến ấy, mặc dầu chỉ là như muối bỏ biển, cũng vẫn mang tính con người. Trong đó người ta nghĩ đến hàng triệu số phận trẻ em mồ côi của miền Nam mà con số may mắn được cứu vớt chỉ khoảng vài ngàn trẻ em.

Tuy nhiên, ngay chuyến bay đầu tiên, chiến dịch ấy đã tự nó mang một thảm họa vô cùng thảm khốc.

Ngày 4 tháng Tư. Thảm hoạ trên không

Hôm này có thể nói cũng là ngày tang thương cho số phận một số trẻ mồ côi trên chiếc máy bay khổng lồ của quân đội Mỹ, chiếc C-5A Galaxy đã cất cánh sau một thời gian ngắn với 305 trẻ em mồ côi để đi Mỹ. Tất cả những em ngồi ở phần đuôi máy bay thì không có hy vọng sống sót. Ít nhất có 178 trẻ em và người lớn bị chết. Cánh cửa phi cơ nổ tung do một số ổ khóa cửa hỏng gây ra, cánh cửa ở phần đuôi máy bay (cargo door) bị bung ra, phi cơ mất cao độ và viên phi công cố gắng quay trở về Tân Sơn Nhất, nhưng đã không thành công.

Trẻ mồ côi tử nạn trong chuyến bay đầu tiên của Chiến dịch Babylifts được đưa đi hỏa thiêu ở căn cứ Utapao và an táng tại một nghĩa trang Thiên chúa giáo ở Pattaya, Thailand.

Trường hợp này cũng giống như trường hợp chiếc DC 10 cũng đã nổ tung ra khi gần tới Paris năm 1974 làm chết 345 người.

Theo nguồn tin của AP thì tòa đại sứ Hoa Kỳ cho rằng có khoảng 100 em mồ côi còn sống sót cộng với 10 đến 15 người lớn. Số người sống sót bao gồm cả viên phi công. Trực thăng đã đến hiện trường và chở 63 em còn sống sót đến nhà thương Seventh-day Adventish hospital.(13)

Các em còn sống, mắt mở to ngơ ngác, không khóc và im lặng. They did not speak. They did not cry. Người ta đã chứng kiến và viết lại cái cảnh tượng đó như thế.

Việc phi cơ chở trẻ em mồ côi bị rớt trở thành một thảm kịch của những ngày tàn cuộc chiến.(14)

Ông Phan Quang Đán là một trong số những người phản đối chương trình này. Và theo tin của UPI vào ngày 7 tháng tư, chương trình mới lại được chính phủ Sài Gòn cho tiếp tục trở lại. Trong khi đó thực sự đã có chuyến bay chở trẻ em côi đến Mỹ và đến Canada.

Tại thủ đô Ottawa, ông bộ trưởng di trú Robert Andras cho hay có 300 gia đình ở tỉnh bang Ontario và 100 gia đình ở Nova Scotia bày tỏ ý muốn nhận các trẻ mồ côi đến từ Việt Nam chỉ sau ít giờ sau khi nhận được thông báo.

Hiện nay thì có hai chuyến bay sẽ đến Sài Gòn và mỗi chuyến bay sẽ chuyên chở 250 em mồ côi. Chính phủ Liên bang đã chấp thuận một quỹ là 76.000 đô la cho việc chuyên chở này.

Một vị ân nhân ẩn danh là một phụ nữ cho biết, “Tất cả điều chúng tôi mong muốn hiện nay là giúp các trẻ em mồ côi đó ra khỏi Việt Nam.” Cũng sẽ có 30 người tình nguyện đáp máy bay đi Sài Gòn để giúp đưa các trẻ mồ côi trong chuyến đi này.

Ngày 4 tháng tư, ông bà Tổng thống Ford có chương trình đón tiếp các trẻ em mồ côi trong chuyến bay đầu tiên đến Mỹ.

Đây là chuyến bay đầu tiên đến Mỹ nếu không kể chuyến bị rớt trước đó. Chuyến bay này chở 243 em mồ côi sang Mỹ. Chuyến bay sẽ dừng lại ở căn cứ không quân Clark Air Force bên Phi luật Tân, sau đó tiếp tục bay sang California. Chính ở nơi đây, ông bà Ford sẽ đón tiếp các em mồ côi.

Nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một màn kịch dở. Tổng thống Ford đã từng quay lưng trong việc không hỗ trợ Việt Nam trong cơn nguy khốn. Việc đón tiếp này vì thế có thể đặt dấu hỏi?

Cũng chính vì thế mà có những nhà báo như W.A.Wilson viết bài với nhan đề, “Trẻ em Việt Nam không nên bị bốc ra khỏi quê hương xử sở của chúng”. (Vietnamse children should not be taken from homeland).

Việc đưa các trẻ em sang Mỹ cho thấy sự ích kỷ và tính toán của họ.

Trên đây chỉ là một quan điểm nhìn của một số người không nhất thiết được mọi người đồng ý.

Ngày 7 tháng Tư

Hôm nay đã là mồng 7 tháng Tư, coi như vừa đúng một tháng sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột. Có dư luận cho rằng tướng Phú bị cộng sản lừa. Chúng làm nghi binh như thể đánh Pleiku và tướng Phú tin chắc như thế nên đã nhất định để nguyên sư đoàn 23 bộ binh đóng chung quanh Pleiku. Sau này, nhiều vị chỉ huy tại chỗ đã trách tướng Phú, trong đó có đại tướng Cao Văn Viên.

Nhưng quyết định rút quân của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một quyết định sinh tử, như vận mệnh cho số phận quân dân vùng II chiến thuật. Quyết định tái phối trí, rút quân là một quyết định xem ra quá trễ. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại quân sự. Trong số 20 ngàn quân rút lui vào ngày 16-3, đến ngày kéo về được đến Tuy Hòa chỉ còn sót lại có 5.000 người. Số còn lại hoặc bị giết hoặc rã ngũ trên đường rút lui.

Cộng sản tiếp tục đòi hỏi Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức và thành lập một chính phủ mới để có thể thương thuyết với họ.

Chính quyền Sài Gòn ra lệnh ai gây rối sẽ bị xử bắn tại chỗ và lệnh giới nghiêm được nới rộng từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng.

Chuyến bay đẩu tiên trở 61 các em mồ côi người Việt Nam và Cambodia đến Vancouver, Canada theo nguồn tin CP là ngày 7 tháng tư, 1975.

Vì thế, sau này trong CIHS Bulletin, tại Canada, số ra kỷ niệm tháng Tư 1975 đã cho rằng việc mất Sài Gòn để lại ba dấu ấn nổi bật và ấn tượng nhất:

  • Thứ nhất là cảnh trốn chạy khỏi Đà Nẵng trên các bãi biển.
  • Thứ hai là quang cảnh chiếc C-5A, 6 ngày sau đó bị rớt với 135 trẻ mồ côi bị tử nạn.
  • Thứ ba là cảnh những người chạy vào tòa đại sứ Mỹ, đứng trên nóc nhà khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi nơi đây và bỏ rơi họ.

Đó là những sad endings!

Cũng ngày 7 tháng tư, 1975

Theo nguồn tin UPI, có khoảng 60 trái đạn pháo kích vào khu ngoại ô Sài Gòn, như vùng Nhà Bè, cách Sài Gòn 6 dậm. Điều đó cho thấy cộng quân đã tiến sát quanh Thủ Đô Sài Gòn, chỉ còn cách 8 dặm. Đây là những trái đạn pháo mở màn cho một cuộc tấn công sắp tới.

Hôm nay cũng là ngày chính quyền Cambodia thương thảo chấp nhận một cuộc đầu hàng vô điều kiện.

Năm năm trước, vào tháng Ba, năm 1970, tướng Lon Nol đã làm đảo chánh. Ông bỏ chính sách trung lập và tuyên bố sẽ chống trả lại Việt Nam cộng sản. Kissinger và Nixon nhảy vào, dùng B-52 bỏ bom quân đội cộng sản Bắc Việt. Trong vòng 5 năm, người Mỹ đã rót vào Cambodia 2 tỉ đô la.

Và một lần nữa, Người Mỹ bỏ cuộc để mặc cho số phận Cambodia rơi vào tay bọn Khmer đỏ và nạn diệt chủng đã xảy ra ngay sau đó.

Ngày 8 tháng tư, 1975

Theo tin AP, một phản lực cơ của quân đội VNCH đã dội bom và bắn rocket xuống dinh Độc Lập. Nhưng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tránh thoát và không bị thương.

Tổng thống Thiệu đã lên vô tuyến truyền hình và nói rằng, có một số cá nhân muốn ám hại ông với ý đồ muốn thay đổi chính phủ.

Tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân đã lên tiếng là quân đội vẫn trung thành với Tổng thống Thiệu. Và đây chỉ là một hành vi của một cá nhân.

Tướng Kỳ lên tiếng và cho rằng ông không dính líu gì đến việc này. Nhưng yêu cầu ông Thiệu từ chức.

Ông Thiệu đã lên truyền hình và tuyên bố, “Tôi quyết định tiếp tục lãnh đạo xứ sở này.”

Cái câu nói nổi tiếng của Tổng thống Thiệu, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy xem những gì cộng sản làm” cũng có thể ứng vào trưởng hợp của chính ông Nguyễn Văn Thiệu.

Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn chúc mừng Nguyễn Thành Trung (bìa phải) sau cuộc đánh bom Dinh Độc Lập ở Sài Gòn. Nguồn: VPAF museum

Sau này thì người ta được biết chiếc phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập do Nguyễn Thành Trung lái từ Đà Nẵng. Sau đó Trung lái máy bay ở cao độ thấp, đáp xuống một phi đạo dài khoảng 915 m do Việt Cộng lập ở Phước Long, cách Sài Gòn 200 km về hướng Bắc.

Cuộc ném bom đã làm cho hai người chết và vài người bị thương.

Sài Gòn, ngày 8 tháng Tư, năm 1975: Tiếng súng tại mặt trận An Lộc bắt đầu

Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu quân đội VNCH có giữ được phòng tuyến này không?

Chiếm được Xuân Lộc, đó là mục tiêu chiến lược của cộng quân. Nhưng họ cũng mong rằng qua thương lượng, political means, qua một cuộc đầu hàng có giàn xếp với một chế độ không phải Thiệu. Nguyễn Thị Bình, ở Paris, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Lâm thời Miền Nam mong muốn đạt được mục tiêu, nếu có thể, mà không phải dùng đến những phương tiện quân sự. Nói với phóng viên tờ Le Monde, bà Bình mô tả hoàn cảnh ở miền Nam hiện nay là không thể đảo ngược được tình thế. Nhưng việc xử dụng quân lực hay sức mạnh quân sự hay không là tùy thuộc vào phía đối phương.

Ngày 9 tháng Tư: Secret US-Viet pact claimed. Tiết lộ những trao đổi thư từ bí mật giữa Mỹ và Việt Nam

Tùy viên Báo chí Tòa Bạch ốc Ronald Harold Nessen đọc bản thông cáo báo chi ngày 9 tháng Tư trong cuộc họp báo cùng ngày. Nguồn: “Vietnam – Correspondence from Richard Nixon to Nguyen Van Thieu” of the Richard B. Cheney Files at the Gerald R. Ford Presidential Library.

Trong giai đoạn trước khi ký Hòa đàm Ba Lê, Tổng thống Nixon đã thuyết phục Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký vào bản Hiệp Định với những lời hứa hẹn bảo đảm sẽ can thiệp vào Việt Nam. Nói chung có tất cả 27 lá thư trao đổi của Tổng thống Nixon gửi cho ông Thiệu. Sau đó tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã gửi cho ông Tổng trưởng Quốc Phòng là James R. Schlesinger một số trong những lá thư đó. Ông này bèn thông báo cho nghị sĩ Henry Jackson biết và ông Jackson đã tìm cách đăt vấn đề với tòa Bạch Ốc.

Cuộc họp báo của ông thượng ngị sĩ được diễn ra ngay từ 30 tháng Tư. Trong đó ông cho rằng Kissinger đã che dấu những lá thư này đến ngay Tổng thống Gérald Ford cũng như bộ trưởng Quốc Phòng Schlesinger cũng không hề biết.

Thượng nghĩ sĩ Henry Jackson nói tiếp: Đây là lần đầu tiên, Tổng thống Ford biết được những lá thư mật trao đổi giữa Nixon và ông Thiệu. Phía Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói còn giữ đuợc tất cả 27 thư trong khi phía Mỹ không biết tại sao chỉ còn giữ được có 10 bức thư.(15)

Theo bản tin của AP tại Hoa Thịnh Đốn, thượng nghị sĩ Hackson chính phủ Hoa Kỳ có bổn phận tinh thần tôn trọng những thỏa thuận ngầm này. Về phần dân chúng hoa Kỳ, họ có quyền được biết về những thỏa thuận giữa hai bên mà đáng lẽ họ phải được thông báo đầy đủ.

Nếu cứ đúng như những nội dung mà Nixon đã cam kết với ông Thiệu là Hoa Kỳ sẽ ‘react vigorously’, can thiệp một cách mạnh mẽ nếu Bắc Việt xâm lăng miền Nam bằng quân sự.

Và nếu tôn trọng những lời cam kết như trên thì Quốc Hội Hoa Kỳ phải chuẩn chi viện trợ khẩn cấp mà Tổng thống Ford đòi hỏi.

Thế nhưng, theo tin của AP, Tổng thống Ford đã nói chuyện với các lãnh tụ Thượng viện Hoa kỳ rằng: “Ông không tìm bất cứ thấy bằng chứng gọi là bí mật trong những thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.”

Nói trắng ra Tổng thống Ford muốn phủi tay không muốn bằng bất cứ giá nào can thiệp vào Việt Nam nữa.

Rockefeller, Phó tổng thống, theo thông tấn UPI tại New Orleans trong một lởi tuyên bố: U.S. must decide, ông cho rằng nay là lúc Hoa Kỳ phải quyết định nay là lúc chúng ta phải đứng một bên, bởi vì chúng ta đã đảm nhận vai trò trách nhiệm thế giới trong mấy thập niên rồi. và hãy để cho Liên Xô nắm trách nhiệm trọng tài thế giới.

Cũng ngày 9 tháng Tư

Người ta nói đến một cuộc thanh trừng ở Nam Việt Nam nếu cộng sản Hà Nội nắm chính quyền.

Theo các tài liệu báo chí từ Nga thì nếu nắm được chính quyền miền Nam, họ sẽ thực thi chính sách 10 điểm. Tờ Pravda, cơ quan ngôn luận chính thức của Liên Xô nói tới:

Việc gấp rút để đưa cuộc sống người dân trở lại bình thường và thanh trừng những thành phần tay sai ngụy quyền. Trước hết thanh lọc hết các tổ chức hành chánh, lực lượng quân đội và các tổ chức bù nhìn của chế độ. Và trong một thời gian ngắn nhất thiết lập các cơ chế chính quyền cách mạng ở mọi tầng lớp dân chúng.

Tất cả tùy thuộc vào hai chữ thanh trừng (Liquidation).

Nhiều người Việt Nam chắc đã không quên khi chiếm được miền Bắc, cộng sản đã áp đặt chính sách cải cách ruộng đất (Land reform) và chính sách tập thể hóa (Collectivization) nhằm loại bỏ các chủ đất. Theo tác giả Bernard Fall, các đợt thanh trừng này đã giết hại 50.000 nông dân và bắt 100.000 người bị tù đầy.

Tất cả chúng ta chờ xem mức độ thanh trừng sẽ được diễn ra như thế nào?

Ngày 11 tháng Tư, sinh viên Việt Nam du hoc tại Montreal biểu tình

Sinh viên Montreal biểu tình ở Quốc hội Canada, 11 tháng 4, 1975. Nguồn: CP

Có một nhóm khoảng 50 sinh viên Việt Nam cầm các biểu ngữ đi diễn hành ở trước tiền đình Quốc Hội Canada. Và họ kêu gọi có một chính quyền mạnh hơn chính quyền hiện nay để có thể đương đầu với sự tấn công của cộng sản Hà Nội vào miền Nam.

Lê [Nguyên] Khanh, một trong những phát ngôn viên của Hội Sinh Viên Việt Nam tại Montreal cho hay hầu hết những người tham dự cuộc biểu tình này đều là giới sinh viên Việt Nam du học mong muốn có một chính quyền mới đủ mạnh để đương đầu với sự xâm lăng của cộng sản Hà Nội.

Nhân dịp này, anh Lê [Nguyên] Khanh cũng cám ơn chính phủ Canda cũng như dân chúng Canada đã giúp đỡ một cách nhân đạo cho miền Nam Việt Nam như thực phẩm, thuốc men.

Trong các biểu ngữ, người ta đọc được một biểu ngữ với hàng chữ, “Stop Red”.

Cũng theo phát ngôn viên của tổ chức sinh viên ở Montréal, họ không thấy thích thú gì việc quảng cáo tuyên truyền cho Operation Babylifts. Nhưng anh nói thêm, nếu những trẻ con này tìm được những cha mẹ nuôi tốt thì cũng tốt cho các trẻ em.(16)

12 tháng tư, 1975

So chính quyền ở Pnom Penh và chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ phút này thì xem ra các lãnh đạo nước láng giềng tỏ ra cương quyết ở tại chỗ để đương đầu với cộng sản.

Tướng Sak Suthsakhan, tướng chỉ huy quân độin Cambodia tuyên bố: việc chống đối lại quân Khmer rouge vẫn được tiếp tục.

Mặc dầu quân đội Khmer rouge hiện nay, có khoảng 10 ngàn người, đã đến làng Samrong chỉ còn cách phi trường Phnom Penh có một dặm. Có khoảng 1000 quân lính chính phủ hiện đang trấn đóng dọc theo đường xe lửa, song song với đường số 3 dẫn đến phi trường.

Dân chúng bằng đủ phương tiện đang ùn ùn kéo về thành phố. Cảnh sát đã bất lực không ngăn cản được dòng người kéo vào thành phố.

Thủ tướng Long Boret vẫn còn có thể nói, “We will never surrender.” Nhưng rõ ràng là chẳng bao lâu nữa, quân phiến loạn sẽ tràn ngập thủ đô.

Long Boret cùng với bảy nhân vật chính trị và quân sự nhận lãnh trách nhiệm sau khi đại tướng Suthskhan đã bỏ ra đi vào ngày thứ bảy.

Người Mỹ đã mở chiến dịch di tản ‘Eagle Pull’ và đã chở được 270 người Mỹ và người Cao Mên ra đi một cách êm ả. Người ta cũng đã không nghe một tiếng súng cũng như không một ai bị thương trong cuộc di tản này!

Phúc trình cuối cùng của Mỹ cho hay hoàn cảnh quân sự chung quanh thủ đô hầu như tuyệt vọng và xấu đi từng giờ. Và việc mất Phnom Penh là điều không còn gỉ để nói nữa.

Adieu Phnom Penh! Con đường dẫn đến Sài Gòn nay đã được mở rộng thêm!

Ngày 12 tháng tư. Việc chuyên chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ. Vàng đó là của chung giữa Việt Nam Và Cam Bốt?

Trẻ thơ mồ côi trên đường đến phi trường LAX (Los Angeles) ngày 12 tháng 4, 1975.

Theo tin UPI từ Nữu Ước cho hay chính quyền VNCH đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thuyết phục hãng Hàng Không Swiss Charter Airline để chuyên chở 16 tấn vàng từ Sài Gòn sang Thụy Sỹ.

Hãng Balair, đại diện cho hãng hàng không Thụy Sỹ từ chối việc chở 16 tấn vàng vì quá nặng và vấn đề cân bằng cho phi cơ. Theo tin từ Time cho rằng việc chuyên chở vàng này có dính dáng đến một hai nhân vật cao cấp như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Cam Bốt Lon Nol.
Ở một đoạn văn khác được trích dẫn cũng nói rõ thêm như sau, “The airline also was concerned that the bullion might be part of the official reserves of the two countries. The gold apparently still in Saigon. Time said.”

Phải chăng số vàng đó có một phần là tài sản của Cambodia?

Tài liệu cho thấy số vàng 16 tấn không phải là của Viêt Nam mà có phần của Cao Mên. Phần là bao nhiêu thì không rõ. Thực sự chưa có tài liệu để nói rõ thêm về việc này.

Điều rõ ràng nhất là số vàng ấy sau này trở ra Bắc, rồi từ Bắc trở sang Liên Xô trả nợ.

Trẻ em mồ côi giả?

Trong số 56 trẻ em mồ côi đến Toronto để giao cho các cha mẹ nuôi, người ta phát hiện ra bé gái Phan Lợi không phải trẻ em mồ côi mà là con gái của một nhân viên làm việc cho lãnh sự Mỹ.

Bà Helen Allen, một phát ngôn viên của bộ di trú cho biết họ sẽ phân loại và hỏi xem đứa bé cảm nghĩ gì và điều gì đã thực sự xảy ra.

Người thông dịch viên ở San Fran Francisco tuần vừa qua cũng cho biết nhiều cha mẹ việt Nam lo sợ cho tương lai con cái họ nên đã tìm mọi cách để chúng có thể ra đi nước ngoài.

Điều này sau này xảy ra những vụ kiện pháp lý gay go. Cha mẹ ruột đứa trẻ tìm đủ mọi cách để đòi lại con mình.

Thật là không biết phải nói thế nào. Ai là kẻ được con và mất con?

Phần các trẻ em mồ côi khác thì được các cha mẹ nuôi đón tiếp với nước mắt và nỗi vui mừng.

Theo tin của AP, San Francisco, bà Jane Barton, thông dịch viên cho hay, bà có nói chuyện với 4 trẻ em và ba em cho biết họ là con của một đại tá và người thứ tư là cháu của vị đại tá ấy. Rõ ràng là có sự giàn xếp để cho cái một số người có tiền của, các viên chức cao cấp muốn cho con em của họ được đi ra ngoại quốc một cách an toàn.

Xem tiếp phần kết

(7) Frank Snepp, Ibid, trang 247
(7a) SS Pioneer Contender là tàu buôn dân sự chở hàng khô dài 333 bộ. Thuyền trưởng là Edward Flink do hải quân Mỹ (MSC) thuê làm theo khế ước. Con tàu bắt đầu nhiệm vụ tại Việt Nam trong tháng Ba, năm 1975, cung cấp dịch vụ vận chuyển phi quân sự và giao thông nội bộ cho quân đội VNCH và dân Việt Nam đang di tản, và những người lính Nam Việt có vũ trang. Điển hình của sự tàn ác của quân đội miền Nam Việt với những kẻ bi tình nghi là cảm tình viên của Cộng quân Bắc Việt, là những vụ xử án, ám sát, và giết người khủng khiếp trên con tàu. Rời Đà Nẵng là lúc tồi tệ nhất. Không có mặt của an ninh hàng hải trên tàu lúc đó. (Nguồn: Personal Account – PFC Matthew Phair, Hq. Co., 9th Marines/Detachment Victor)
(8) Frank Snepp, Ibid, trang 241
(9) Peter Duschinsky, “The Human Side of the Fall of Saigon”, CIHS Bulletin, Issue #73, April 2015, Canadian Immigration Historical Society. Trang 2-3
(9a) Employment and Immigration Canada, “The Indochinese Refugees: the Canadian Response, 1979 and 1980” (1981, Department of Supply and Services)
(10) Gilbert Gendron, B.A, “The Viet cong Front in Quebec”, trang 9-10
(11) Peter Duschinsky, Ibid, trang 2.
(12) Peter Duschinsky, Ibid, trang 1-5.
(13) Trong một cuốn sách Giá Tự Do mới xuất bản và được giải thưởng Văn Học, do Hội Quốc Tế Y sĩ Việt Nam Tự Do trao tặng giải thưởng Văn Học 2014, không biết dựa trên tài liệu nào, tác giả Lâm Vĩnh Bình đã viết rằng: ‘Tuy nhiên, chuyến bay đầu tiên đã gặp một tai nạn thảm khốc khi chiếc phi cơ trở 300 người gồm trẻ em và người lớn đi theo để săn sóc, vừa cất cánh phi trường Tân Sơn Nhất đã rơi vì phi cơ quá tải, 136 người đã tử nạn. Nguồn: Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do, trang 2.
(14) Xem thêm Simon Parry, “Vẫn không nguồn cội” do Trà Mi dịch 13 -04-2015 đã trích lời các nhân chứng còn sống sót, cho hay có 313 người trên máy bay. Phi công lái máy bay là Dennis ‘Bud’ đả can đảm cứu được 175 người sống sót. Simon Parry, Still rootless: the child refugees of Vietnam war’s chaotic final days, Red Door News Hong Kong, April 2015.
(15) Nguyễn Tiến Hưng, “Khi đồng minh tháo chạy”, trang 460-461.
(16) CP, “Vietnamese thank Canadians”, The Brandon Sun – Brandon, Manitoba – Apr 12 1975


 

Ông Vương Tấn Việt vừa bị Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định thu mọi bằng cấp ở bậc đại học

Đài Á Châu Tự Do 

Ông Vương Tấn Việt, hay còn được biết dưới pháp danh Thích Chân Quang, vừa bị Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định thu mọi bằng cấp ở bậc đại học.

Trước đó, trong tháng 6, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra công văn hỏa tốc yêu cầu Trường Đại học Luật Hà Nội giải trình về việc cấp bằng tiến sĩ cho vị tu sĩ Phật giáo này.

Bằng tiến sĩ của ông Vương Tấn Việt thu hút sự chú ý của dư luận bởi thời gian hoàn thành ngắn bất thường, chỉ trong vòng 2 năm, và việc trước đó ông này chỉ có bằng đại học tại chức ngành Luật.

Ngoài lùm xùm liên quan đến bằng cấp, vị trụ trì chùa Phật Quang ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn vướng phải rắc rối trong nội bộ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Các phát ngôn của ông này được cho là “không đúng chánh pháp” và “gây hoang mang trong xã hội”, dẫn đến việc Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra quyết định cấm thuyết giảng dưới mọi hình thức trong hai năm hồi giữa tháng 6.

#RFAVietnamese #thichchanquang #giaohoiphatgiaovietnam #phatgiao

Lượng kiều hối về Sài Gòn đạt kỷ lục, gần 7,4 tỷ USD trong chín tháng

Ba’o Dat Viet

October 21, 2024

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh  Sài Gòn, lượng kiều hối chuyển về thành phố này trong chín tháng đầu năm 2024 đã đạt mức kỷ lục gần 7,4 tỷ USD. Đây là con số cao nhất từ trước đến nay, chỉ trong ba quý đầu năm, và đạt 78,1% so với cả năm 2023, năm mà lượng kiều hối đã lên đến 9,46 tỷ USD – cũng là năm có lượng kiều hối lớn nhất lịch sử.

Kiều hối đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, cung cấp nguồn tài chính lớn cho tiêu dùng, đầu tư và phát triển hạ tầng. Lượng tiền từ người Việt ở nước ngoài gửi về thường được sử dụng để hỗ trợ gia đình, đầu tư vào bất động sản, kinh doanh và thậm chí là tài trợ cho các dự án phát triển địa phương.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, lượng kiều hối từ khu vực châu Á chiếm tỷ trọng cao nhất, đạt 53,8% trong tổng số tiền kiều hối chuyển về thành phố. Điều này cho thấy mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia châu Á vẫn rất mạnh mẽ, đặc biệt là với những cộng đồng người Việt sống ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Đáng chú ý, lượng kiều hối từ châu Mỹ tăng 4,4%, từ châu Đại Dương tăng 20%, trong khi từ châu Âu giảm 19,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, trong quý III/2024, lượng kiều hối từ các khu vực đều giảm, ngoại trừ châu Âu tăng 22,8% so với quý II/2024. Mặc dù kiều hối từ châu Âu giảm so với cùng kỳ năm trước, nhưng mức tăng trong quý III cho thấy có những tín hiệu tích cực từ khu vực này, có thể do các yếu tố kinh tế hoặc sự gia tăng nhu cầu hỗ trợ tài chính của người Việt ở nước ngoài.

Từ khi bắt đầu thống kê lượng kiều hối vào năm 1993, Việt Nam đã nhận được trên 190 tỷ USD tiền kiều hối, một con số gần tương đương với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giải ngân trong cùng giai đoạn. Điều này cho thấy tầm quan trọng của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong việc giúp đỡ người dân cải thiện đời sống và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế.

Số liệu cũng cho thấy rằng cộng đồng người Việt ở nước ngoài đang ngày càng lớn mạnh. Cách đây 20 năm, tổng số người Việt sinh sống ở nước ngoài là khoảng 2,7 triệu người. Hiện nay, con số này đã tăng lên khoảng 6 triệu người, sống ở hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, với hơn 80% trong số này sinh sống tại các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Canada, Úc và các nước châu Âu. Những cộng đồng này không chỉ đóng góp về mặt kiều hối mà còn giúp phát triển quan hệ kinh tế, thương mại và văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia mà họ đang sinh sống.

Bên cạnh kiều bào sinh sống lâu dài ở nước ngoài, lực lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam cũng đóng góp lớn vào nguồn kiều hối. Mỗi năm, từ 120.000 đến 140.000 lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, đặc biệt là ở các quốc gia châu Á, đã gửi về khoảng 3,5 đến 4 tỷ USD. Điều này không chỉ giúp cải thiện đời sống của hàng triệu gia đình mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam thông qua đầu tư vào các dự án địa phương và các doanh nghiệp nhỏ.

Lượng kiều hối tăng kỷ lục trong năm 2024 cho thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của nguồn tài chính này đối với nền kinh tế Việt Nam. Với xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển của công nghệ tài chính, việc chuyển tiền giữa các quốc gia ngày càng trở nên dễ dàng hơn, giúp người Việt ở nước ngoài có thể đóng góp một cách linh hoạt và hiệu quả hơn vào nền kinh tế quê hương. Trong tương lai, nguồn kiều hối có thể sẽ tiếp tục tăng, đặc biệt khi số lượng người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài tiếp tục gia tăng. 


 

Từ giải thưởng Nobel kinh tế, lại nghĩ đến Việt Nam-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba đồng sở hữu Nobel kinh tế

“Tiền là Tiên là Phật ». Chẳng ai phản đối câu nói dân dã này của người Việt Nam. Nói tóm lại Kinh tế quyết định tất cả. Sự thành bại của một cá nhân, của một quốc gia phụ thuộc vào kinh tế.

NHƯNG CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH CHO SỰ THÀNH BẠI CỦA KINH TẾ

Câu trả lời nằm trong giải Nobel kinh tế 2024

Giải Nobel Kinh tế năm 2024 đã được trao cho Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì những nghiên cứu của họ về tầm quan trọng của các thể chế đối với sự thịnh vượng của các quốc gia. Họ chỉ ra rằng các thể chế dân chủ, bảo vệ quyền sở hữu và hạn chế lạm dụng quyền lực, giúp thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng kinh tế lâu dài. Ngược lại, các thể chế chiếm đoạt, tập trung quyền lực và tài sản vào một số giới nào đó thường kìm hãm sự phát triển kinh tế. Những nghiên cứu của họ được thể hiện trong cuốn sách “Why Nations Fail: The origins of Power, Prosperity, and Poverty”(Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói).

Tôi không muốn đi sâu vào các chi tiết của cuốn sách, chỉ biết rằng cuốn sách này đã được xuất bản từ năm 2012 được dịch ra hơn 30 thứ tiếng(kể cả tiếng Việt). Cuốn sách đã có 1 ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và phát triển.
Đã có biết bao nhiêu bài báo, sách vở chỉ trích chế độ độc tài, nguyên nhân của sự nghèo đói và kém phát triển. Nhưng cuốn sách này là một cuốn nghiên cứu sâu rộng, khoa học với các dẫn chứng cụ thể và nó đã xứng đáng đạt giải Nobel. Như vậy, giải Nobel cũng đã chính thức vạch mặt chỉ tên độc tài.

Bây giờ tôi muốn nói đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của các chế độ độc tài.
Các chế độ độc tài, dù có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài, cuối cùng cũng có xu hướng sụp đổ vì nhiều lý do mang tính cấu trúc. Về bản chất, các chế độ này không ổn định, giống như một thứ cân bằng không bền, mà đã có lần tôi đã dùng đến trong một bài viết trước đây.(Người đi trên dây là một thí dụ cân bằng không bền. Quả lắc đồng hồ là 1 thí dụ về cân bằng bền). Lịch sử của nhân loại đã cho chúng ta nhiều thí dụ về tính không ổn định và sự sụp đổ không tránh khỏi của các chế độ độc tài.

Một cách ngắn gọn nhất, Các chế độ độc tài sụp đổ vì :
1. Điểm yếu đầu tiên là nó thiếu tính chính danh từ nhân dân, tính chính danh dân chủ. Khác với các chế độ dân chủ, các chế độ độc tài thường cướp chính quyền và duy trì quyền lực bằng bạo động và đàn áp. Đây là những nguyên nhân gây ra bất mãn và các phong trào phản kháng của nhân dân. Khi những bất mãn này đạt đến đỉnh điểm, chế độ sẽ sụp đổ dưới áp lực của các cuộc đấu tranh, biểu tình của nhân dân.
2. Điểm yếu thứ hai của độc tài là nó tập trung quyền lực vào tay của một cá nhân hay một nhóm. Điều này dẫn đến lạm dụng quyền lực và tham nhũng tràn lan. Thiếu sự kiểm soát và đối trọng, các chế độ này trở nên mục nát từ bên trong, sẽ đến lúc không thể nào cứu vãn được.
3. Điểm yếu thứ ba chính là điều mà giải thưởng Nobel kinh tế 2024 đã nói đến, Kinh tế kém hiệu quả. Các chế độ độc tài không thể đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Tự do cá nhân bị bóp nghẹt, tự do sáng tạo sẽ bị hạn chế. Tham nhũng làm bộ máy kinh tế không thể nào hoạt động một cách bình thường.

Sự phồn thịnh hay đói nghèo của một đất nước hay một dân tộc không phụ thuộc vào vị trí địa lý, chủng tộc hay tôn giáo hay sự ngắn dài của lịch sử mà là kết quả của thể chế chính trị. Nước Mỹ chỉ có hơn 200 năm lịch sử, nước ta trên 4.000 năm…

Tuy nhiên, một số đặc điểm riêng của VN(văn hóa, lịch sử, xã hội…) đã làm cho chế độ cộng sản có thể bám rễ lâu hơn so với các nước khác. Tôi mạo muội đưa ra một số đặc điểm sau:

  1. Chế độ cộng sản không coi trọng cá nhân(trong nhân dân) và luôn luôn đề cao tính tập thể. Đặc điểm này có vẻ như hợp với người VN. Từ ngàn đời, người Vn ta có truyền thống sống trong các làng xã nhỏ bé, nơi mà mọi người biết rõ nhau, thậm chí có quan hệ huyết thống với nhau và cùng hỗ trợ nhau để tồn tại. Sự đoàn kết chặt chẽ này giúp hình thành tinh thần tập thể mạnh mẽ và dễ đồng nhất với tư tưởng cộng sản, vốn coi trọng tập thể và cộng đồng hơn cá nhân. Chế độ cộng sản đã khéo léo khai thác đặc tính này, sử dụng nó như một công cụ để duy trì sự thống nhất và kiểm soát xã hội.
  2. Tinh thần yêu nước và chống ngoại xâm: Người Vn có truyền thống yêu nước, có lịch sử lâu dài chống lại thành công các cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Chính quyền cộng sản đã rất thành công trong việc động viên, kích động nhân dân trong các cuộc chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. HỌ KÉO LÉO GẮN KẾT NHỮNG THÀNH CÔNG ĐÓ VỚI TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN, kiến nhiều người dân tin rằng Đảng với tư tưởng cộng sản là lực lượng duy nhất có thể bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của ngoại bang. Yêu nước trở thành yêu Đảng, Yêu CNXH. Chủ nghĩa yêu nước của VN tự nhiên trở thành một yếu tố quan trọng củng cố tính chính danh của chế độ, hóa giải được điểm yếu chí mạng của một chế độ độc tài.(Yếu tố số 1 nêu trên).
  3. Chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Nước ta là một nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu. Người Vn quen với việc chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Ngày xưa thì có vua, bây giờ thì có đảng. Trong cấu trúc xã hội VN, sự tuân thủ và tôn trọng quyền lực đã trở thành một phần của văn hóa. Chính quyền cộng sản đã kế thừa và khai thác mô hình quyền lực này, áp đặt quyền lực mạnh mẽ từ trung ương đến địa phương. Điều này khiến cho người dân có xu hướng dễ chấp nhận và ít chống đối sự cai trị từ trên.
  4. Tính linh hoạt, khôn lỏi và thích nghi với hoàn cảnh. Trên đây là tôi tạm thời liệt kê một vài yếu tố có tính chất xã hội, cộng đồng, nói chung. Còn về cá nhân, người Việt có tính khôn lỏi rất cao để thích nghi với hoàn cảnh. Họ có thể chấp nhận điều chỉnh cuộc sống của mình dưới bất kỳ chế độ nào, luồn lách, tìm cái lợi riêng trong một thể chế chung tồi tệ. Người ta có thể nhắm mắt làm ngơ trước những bất công của xã hội, miễn là mình còn có lợi. Hơn nữa, trong xă hội Việt Nam, gia đình là một yếu tố trung tâm rất quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Nhiều người tìm cách sống khôn lỏi, an phận để bảo vệ an toàn cho mình và gia đình. Chế độ cộng sản cũng khéo léo lợi dụng yếu tố này để duy trì sự ổn định, thậm chí khuyến khích việc giám sát lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
  5. Tính kiên nhẫn và sức chịu đựng. Chắc chắn chúng ta là một dân tộc có tính kiên nhẫn và chịu đựng rất cao. Nói một cách dân dã “thà đói khổ nằm nhà còn hơn là đi đấu tranh đòi hỏi một cái gì đó chống lại chính quyền”.

6 Dân trí. Dưới đây là một đoạn trích trong báo Tiền Phong, Cơ quan trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh : “Tản Đà đã chỉ ra một vấn nạn vô cùng nặng nề và dai dẳng của dân tộc: Ấy là mối quan hệ giữa dân trí với nạn quan tham lại nhũng: Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn/Cho nên quân nó dễ làm quan”.(trích nguyên văn)

Rõ ràng dân trí của chúng ta vẫn đang là một vấn nạn khổng lồ của ngày hôm nay. Xã hội chỉ thay đổi được trước những đòi hỏi mãnh liệt của quần chúng nhân dân.

Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, nhưng dân trí của ta có thể vẫn ở mức độ cách đây vài trăm năm của Châu Âu. Chế độ độc tài nào rồi cũng phải sụp đổ nhưng nếu dân trí không khá hơn thì chúng ta vẫn tiếp tục “xứng đáng được hưởng” những “thành quả” của CNXH và tiếp tục tiến tới CNCS, thiên đường.

Giải thưởng Nobel là giải thưởng quốc tế danh giá nhất giành cho những công trình nghiên cứu có những đóng góp lớn lao trong việc làm cho xã hội loài người tốt hơn. Phủ nhận các giải thưởng Nobel đồng nghĩa với phủ nhận sự tiến bộ của nhân loại. Vậy mà, theo tôi được biết, cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói” do Tiến Sỹ Nguyễn Quang A dịch đầu tiên, sau đó được nhóm khác có bản quyền dịch, xuất bản ở VN đã không được tái bản, thậm chí đang bị âm thầm thu hồi.

(Hình minh hoạ tranh vui của Nga “Cái hoạ không phải là ở chỗ ở bên trên nói láo mà ở chỗ bên dưới lại tin”).


 

Báo VnExpress gỡ hình về giải Nobel Kinh tế 2024

 Đài Á Châu Tự Do

Hình ảnh với nội dung quy trách nhiệm cho thể chế chính trị về tình trạng giàu nghèo giữa các quốc gia đã bị báo VnExpress gỡ bỏ trên trang Facebook.

Ảnh chụp màn hình của bài đăng gốc về giải Nobel Kinh tế năm 2024, được đăng lúc 12:05 trưa ngày 18 tháng 10, chứa dòng chữ “Chênh lệch giàu nghèo giữa các nước là do thể chế”.

Nhưng theo lịch sử chỉnh sửa của bài đăng trên, chỉ 40 phút sau, lúc 12:45 hình ảnh gốc đã bị gỡ bỏ và thay thế bằng hình ảnh mới có nội dung “Nobel Kinh tế 2024 giải thích chênh lệch giàu-nghèo”.

Giải Nobel Kinh tế năm nay được trao cho ba kinh tế gia đang làm việc tại Hoa Kỳ, hai trong số đó là tác giả của cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại” được Nhà xuất bản Trẻ phát hành bản tiếng Việt năm 2013.

Ngày 15 tháng 10, RFA đưa tin hiện cuốn sách này đã bị cấm tái bản ở Việt Nam mà không rõ lý do.

#RFAVietnamese #NobelPrize #NobelPrize2024 #censorship #kiemduyet

SÔNG CÓ THỂ CẠN-THÁI BÁ TÂN

Nghiem Huynh

Trong “Đèn Cù” có đoạn

Nói về Chu Văn Biên,

Trùm cải cách Nghệ Tĩnh,

Bắc ghế ngồi trên thềm.

 

Hắn chỉ vào mặt mẹ

Đang cúi lạy dưới sân:

“Mày là đứa bóc lột,

Kẻ thù của nhân dân.

 

Không mẹ con gì hết.

Tao phải tiêu diệt mày.”

Vì cái thành tích ấy

Chu Văn Biên sau này

 

Được đề bạt thứ trưởng

Bộ nông nghiệp nước nhà.

Mẹ cắn lưỡi tự tử.

Thật tội nghiệp bà già.

*

Một chính quyền xúi giục

Con cái đấu mẹ cha,

Người ở đấu ông chủ,

Cháu chắt đấu ông bà,

 

Thử hỏi chính quyền ấy

Là thứ chính quyền gì?

Một tội ác man rợ

Thuộc vào hàng tru di.

 

Và sông có thể cạn,

Và núi có thể mòn,

Tội ác man rợ ấy

Sẽ được nhớ, trường tồn.

THÁI BÁ TÂN