BIỂU HIỆN CỦA NÔ LỆ HIỆN ĐẠI TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – Nguyen Anh Tuan

 Đặng Huệ Như  

Bài viết hay của  Nguyen Anh Tuan

1. Thờ ơ với thời cuộc:

“Chính trị không liên quan đến tôi”, “Miễn tôi sống yên là được”. Đó là suy nghĩ phổ biến trong xã hội độc tài, nơi người dân bị tước quyền can thiệp vào các vấn đề công cộng, và dần đánh mất nhu cầu lên tiếng. Họ sống trong im lặng, coi bất công là chuyện “bình thường”, và không còn đặt câu hỏi vì sao đất nước mãi trì trệ.

  1. Vô cảm với đồng loại:

Khi thấy người khác bị oan sai, bị đàn áp, họ chỉ nói: “Tránh xa ra cho an toàn”. Sự vô cảm này không bắt nguồn từ sự ác, mà từ nỗi sợ hãi và tâm lý sinh tồn trong môi trường không an toàn. Nhưng chính sự vô cảm đó đã làm tê liệt sức mạnh cộng đồng.

  1. Không quan tâm chính trị:

Họ không biết ai là người nắm quyền, ai chịu trách nhiệm cho sự yếu kém của quốc gia. Họ không bầu chọn thật sự, không dám phản biện. Họ tin rằng “chuyện đó để nhà nước lo”, và vô tình trao toàn bộ vận mệnh vào tay kẻ khác.

  1. Khôn vặt, khôn lỏi để tồn tại:

Thay vì đòi hỏi một xã hội công bằng, họ học cách “luồn lách”, “biết điều”, “né rắc rối”, “chắc nó trừ mình ra”…. Đó là kỹ năng sinh tồn trong hệ thống bất công, nhưng đồng thời cũng làm lệch chuẩn đạo đức và suy giảm nhân cách xã hội.

  1. Sống trong sợ hãi thường trực:

Họ sợ bị theo dõi, sợ bị ghi nhận phát ngôn, sợ bị mất việc, sợ bị “xử lý hành chính”, sợ bị gán nhãn “phản động”. Sự sợ hãi khiến họ tự kiểm duyệt bản thân, không còn khả năng phản kháng, và dần chấp nhận kiếp sống lệ thuộc như điều tự nhiên. Nô lệ hiện đại không cần kẻ canh gác, bởi con người đã trở thành người canh giữ chính tư tưởng của mình. Và một khi con người không còn biết mình đang bị trói buộc, thì chính họ sẽ tiếp tục truyền lại sự nô lệ ấy cho thế hệ mai sau.

  1. 6. Nguy hiểm nhất của nô lệ hiện đại là khi người dân không chỉ bị kiểm soát bằng bạo lực, mà còn bị dẫn dắt trong vô thức. Họ tin rằng đất nước đang ổn định và phát triển dù thực tế đầy rẫy bất công; tin lãnh đạo là thiên tài bất chấp sai lầm hiển hiện; tin phản biện là nguy hiểm, tự do là gây loạn, “lên đồng tập thể” có khi chỉ một trận bóng đá hay một thú vui bị định hướng dẫn dắt nho nhỏ…. Mọi tiếng nói khác biệt bị gán nhãn “phản động”. Họ tự hào vì “biết chịu đựng”, vì “không cần dân chủ kiểu phương Tây”, mà không nhận ra mình đang bảo vệ chính cái hệ thống khiến họ sống trong nghèo đói, sợ hãi và bất lực. Khi người bị áp bức quay sang tôn vinh kẻ áp bức, khi xiềng xích trở thành niềm tin thì đó không còn là sự phục tùng đơn thuần, mà là tâm trí đã bị chiếm đóng.

Không ai sinh ra để làm nô lệ. Một dân tộc chỉ thật sự phát triển khi từng người dân hiểu rằng tự do không phải là đặc ân mà là quyền bất khả xâm phạm. Độc tài có thể bành trướng, nhưng lịch sử chưa từng dung thứ cho nó mãi mãi. Hãy sống như một con người đúng nghĩa chứ không chỉ tồn tại như một công cụ thoi thóp thở.


 

  ƯỚC GÌ MẸ CÓ MƯỜI TAY – CA DAO MƯỜNG – HÌNH ẢNH VCH

(CA DAO MƯỜNG – HÌNH ẢNH VCH)

 Nhân Ngày Của Mẹ, mời các bạn đọc lại bài ca dao của người Mường. Lời ru con đầy chất dân ca, chứa đựng cả một trời tâm sự của mẹ…

MƯỜI TAY

Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, ở trên trời chim bay
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, còn tay này bắn chim
Một tay chuốt chỉ luồn kim
Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau

Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một tay cầu cúng ma
Một tay khung cửi guồng xa
Một tay lo bếp nước, lo cửa nhà nắng mưa
Một tay đi củi muối dưa
Còn tay để van lạy, để bẩm thưa, đỡ đòn
Tay nào để giữ lấy con
Tay nào lau nước mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay
Bồng bồng con ngủ cho say
Dưới sông cá vẫn lội, chim vẫn bay trên trời

(Ca dao dân tộc Mường, Cầm Giang dịch)

From: taberd- & NguyenNThu


 

Sài Gòn có mưa lớn nhất 8 năm, khắp nơi ngập nặng, xe chết máy

Ba’o Nguoi-Viet

May 10, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Cơn mưa vào sáng 10 Tháng Năm kéo dài một giờ rưỡi với lượng nước đo được gần 230 mm được xác nhận là “lớn nhất từ năm 2018 đến nay” khiến nhiều nơi ở Sài Gòn ngập nặng, các loại xe chết máy nằm la liệt.

Hình ảnh do các báo trong nước đăng tải cho thấy tại những khu vực như phường Tam Bình (thành phố Thủ Đức), quận Bình Thạnh, nước ngập hơn nửa mét, qua thắt lưng người lớn, thậm chí một số nơi nước ngập quá nửa căn nhà, gây thiệt hại nhiều tài sản.

Chỉ còn xe buýt chạy được trên đường trong lúc xe hơi, xe gắn máy chết máy la liệt ở Sài Gòn do mưa lớn hôm 10 Tháng Năm. (Hình: VNExpress)

Phóng viên báo VNExpress mô tả, nước ngập tràn vào nhà, cửa hàng cạnh xa lộ Hà Nội và cả vùng ven như huyện Hóc Môn, Củ Chi, khiến nhiều người phải vất vả tát nước.

Nhiều chủ cửa hàng hoặc tiểu thương bán ở chợ phải căng nylon, dựng tấm ván, đắp đê ngăn nước ngập làm hư hỏng hàng hóa.

Trên nhiều tuyến đường ở Sài Gòn, nước ngập khiến xe hơi, xe gắn máy chết máy, trong lúc chỉ còn xe buýt chạy được.

Còn theo ghi nhận của phóng viên báo Tiền Phong, nhiều ống cống ở Thủ Đức xuống cấp, lại bị rác thải và bùn đất bít kín khiến nhiều khu vực trở thành “rốn ngập,” nước dâng cao đến ngực người lớn, mỗi khi xảy ra mưa to.

Nước ngập hơn thắt lưng người lớn hôm 10 Tháng Năm tại phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức, Sài Gòn. (Hình: Tiền Phong)

Ông Nguyễn Ngọc Huy, chuyên gia thời tiết, cho hay những ngày qua tại Sài Gòn có nắng nóng oi bức cùng “hiệu ứng đô thị,” khiến hơi ẩm bốc lên cao tích tụ rất nhiều.

Hiện tượng này kết hợp với “rìa của khối khí lạnh và khô hơn” ở trên tầng khí quyển hội tụ cực mạnh tạo nên “mưa dị thường” như trong hôm 10 Tháng Năm.

Chợ Thủ Đức nằm trong biển nước. (Hình: VNExpress)

Ngoài Sài Gòn, các tỉnh Đông Nam Bộ như Bình Dương, Đồng Nai cũng mưa lớn từ 100 đến 150 mm, gây ngập nặng ở các vườn trái cây, cô lập một số khu dân cư.

Ông Huy cũng đưa dự báo rằng từ nay đến ngày 14 Tháng Năm, tần suất mưa tại Sài Gòn và khu vực Nam Bộ sẽ gia tăng, người dân cần chuẩn bị ứng phó với hiện tượng gió giật mạnh, lốc xoáy, sấm sét hoặc mưa đá. (N.H.K) [qd]


 

Hai người Trung Quốc đào trộm mộ vua ở Thanh Hóa

Ba’o Dat Viet

May 8, 2025

Hai người đàn ông Trung Quốc bị bắt khi đang trên đường trốn về nước sau khi mang thiết bị dò kim loại đến khu di tích Lam Kinh để đào bới lăng mộ vua Lê Túc Tông – một phần linh thiêng của lịch sử Việt Nam.

Chiều ngày 6 Tháng Năm, Công an tỉnh Quảng Ninh đã bắt giữ hai nghi can Deng Zhiji (41 tuổi) và Shen Jiangyang (43 tuổi), đều quê ở Quảng Tây, Trung Quốc. Cả hai bị cáo buộc “xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt” và đã được bàn giao cho công an tỉnh Thanh Hóa để tiếp tục điều tra.

Trước đó, vào tối 3 Tháng Năm, trong lúc tuần tra khu vực lăng mộ vua Lê Túc Tông tại xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, lực lượng bảo vệ di tích phát hiện dấu hiệu lạ: một khu đất có dấu vết đào bới, kèm theo một điện thoại di động có cài đặt tiếng Trung, giấy tờ tùy thân và một dụng cụ kim loại để xăm dò lòng đất. Tất cả đều nằm gần khu vực nơi từng an táng vị vua thứ bảy của triều Lê sơ – người chỉ trị vì vỏn vẹn bảy tháng trước khi băng hà vào năm 1504.

“Chúng dùng thiết bị dò xuyên đất để tìm đồ tùy táng có giá trị, có thể là vàng bạc, ngọc ngà hoặc cổ vật quý hiếm,” đại diện Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử và Bảo tồn Di sản Văn hóa Thanh Hóa xác nhận. Vụ việc đã lập tức được báo cáo lên Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa.

Nhận tin báo, công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với công an tỉnh Quảng Ninh lập tức mở cuộc truy bắt. Đến khoảng 2 giờ 15 chiều 4 Tháng Năm, cảnh sát giao thông Quảng Ninh kiểm tra một xe taxi ở khu vực Móng Cái – cửa ngõ biên giới Việt – Trung, thì phát hiện và bắt giữ hai nghi can đang chuẩn bị xuất cảnh.

Tại cơ quan điều tra, cả hai khai nhận đã nhập cảnh vào Việt Nam hôm 28 Tháng Tư qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái, mang theo thiết bị dò kim loại và bộ dụng cụ chuyên dụng để “săn cổ vật.” Tại Thanh Hóa, họ thuê xe máy để tiếp cận khu di tích Lam Kinh, nghiên cứu địa hình và chuẩn bị dụng cụ như khoan điện, dây thừng, cưa tay, bao bì, cuốc xẻng.

Ngày 3 Tháng Năm, họ thực hiện hành vi đào bới tại lăng mộ nhưng không tìm được gì đáng giá. Khi thấy có người xuất hiện gần đó, cả hai vội bỏ lại dụng cụ, trốn chạy.

Theo báo Dân Trí, lăng mộ vua Lê Túc Tông từng bị tàn phá trong quá khứ, chỉ còn lại một số gạch vồ mỏng. Sau khi khảo sát lại vào năm 1997, khu mộ được phục dựng, xây bằng gạch và trát xi măng bên ngoài.

Hành vi đào trộm mộ không chỉ là hành vi phạm pháp nghiêm trọng, mà còn là sự xúc phạm đến di sản quốc gia và linh hồn tổ tiên người Việt. Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực gìn giữ những giá trị văn hóa lịch sử hàng trăm năm tuổi, vụ việc này gióng lên hồi chuông báo động về lỗ hổng trong việc bảo vệ các khu di tích linh thiêng – đặc biệt là trước sự nhòm ngó từ bên ngoài.

Liệu đây chỉ là vụ việc đơn lẻ, hay đằng sau còn một đường dây săn cổ vật xuyên biên giới? Nhà Cầm Quyền CSVN có dám làm rõ đến tận gốc, hay sẽ chỉ dừng lại ở việc xử lý “hai cá nhân xâm phạm”?


 

CHUYỆN VỢ CON ÔNG TỐ HỮU, BÂY GIỜ MỚI KỂ

Việt Nam xưa và nay – Lien Nguyen

Dai Tat Phan NHỮNG BÀI POST HAY.

 Nước mình nghèo đến nỗi như thế này cũng từ những chính sách chế độ thiếu nhất quán.

Vào năm nào đó tôi cũng quên rồi, chỉ biết khi đó nhà ông Tố Hữu ở phố Hồ Xuân Hương được hoá giá rẻ như cho sau khi họ trả nhà công vụ ở Phan Đình Phùng, HN. Báo Tiền phong đã có bài phàn nàn về một cố ủy viên Bộ chính trị , nhà thơ lớn Tỗ Hữu không có chỗ để lập bàn thờ. Mới nghe, ai cũng mủi lòng thương cảm với ông. Nhiều người tỏ ra bất bình với Đảng và nhà nước sao lại đối xử phũ với một bậc lão thành như vây.

Do bị áp lực của dư luận, Ban Tư tưởng Văn hoá buộc phải công bố sự thật của một nhân vật nổi tiếng , đáng trân trọng nhưng người thân của ông thì đã làm hại thanh danh ông tại một buổi giao ban báo chí định kỳ mà tôi có dự và được Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá ngày đó là nhà báo Hữu Thọ được phép của cấp trên ” nói lại cho rõ”.

Số là sau khi gia đình ông Tố Hữu chuyển về phố Hồ Xuân Hương, gia đình nhà thơ đã cho một hãng dầu nhờn nước ngoài thuê, lấy mỗi tháng tới 9 ngàn đô la. Vì thế, bà Thanh, nguyên Phó ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, vợ cố nhà thơ Tố Hữu phải về nhà con ở tại phường Thành Công ở nhờ để tiếp tục xin thêm chế độ nhà theo tiêu chuẩn ngang thứ trưởng riêng bà . Vì có chật nên bàn thờ không được đàng hoàng như nhà biệt thự nếu ở phố Hồ Xuân Hương mà gia định được mua rẻ. Lỗi này đâu phải do Đảng không chăm sóc chu đáo ? Báo Tiền phong bữa đó bị hớ to.

Từ ngôi biệt thự ở Hồ Xuân Hương, sau này gia đình bán cho ông Phạm Nhật Vũ Cty AVG, nghe đâu cả chục ngàn cây vàng. Điều này thì tôi ko nắm được mà nay đọc bài sau đây mới biết.

Từ chuyện gia đình ông Tố Hữu, tôi thấy buồn cho gia đình các quan chức , họ không hiểu rằng, tiền nhiều bao nhiêu cũng không đổi được thanh danh vốn người thân của họ được cả xã hội một thời trân trọng.

(Bài viết của Nhà báo Quoc Phong kể lại vào 2-12-2018) .

BA VAI TRÒ TRONG CUỘC ĐỜI LÀM CÁCH MẠNG CỦA TỐ HỮU

Bải ở Tố Hữu có ba vai trò trong suốt cuộc đời cách mạng của ông. Vai trò thứ nhất là làm quan, trong nhiều vị trí cao cấp của đảng. Vai trò thứ hai là làm chính trị và vai trò thứ ba là làm…thơ. Cả ba vai trò ấy đều có vấn đề, mà đều là vấn đề lớn liên quan tới nhiều người, nhiều thế hệ và nhiều năm sau đó.

Làm quan, Tố Hữu lợi dụng chức quyền đày đọa cả một thế hệ tinh hoa văn học trong phong trào Nhân văn giai phẩm. Đây là một phong trào đòi tự do nghệ thuật và thể hiện quan điểm chính trị của một số văn nghệ sĩ và trí thức sống ở miền Bắc,  khởi xướng đầu năm 1955 và kết thúc vào tháng 6 năm 1958.

Là Thứ trưởng Bộ Tuyên truyển khi phong trào Nhân Văn giai phẩm nổi lên, Tố Hữu đã thẳng tay ra lệnh đàn áp, bắt bớ các thành viên của phong trào và cho tới nay người trong cuộc đã vạch trần mọi sự trước dư luận quần chúng. Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Cung…..Ngày nay thành viên Nhân văn giai phẩm được trả lại sự thật và phục hồi danh dự cho họ nhưng Tố Hữu vẫn lặng im như người ngoài cuộc mặc dù nhiều tư liệu cũng như lời chứng của người trong cuộc cho thấy ông ta chủ trì việc bách hại tự do sáng tác của phong trào này.

Làm chính trị, trong vai trò một Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Tố Hữu tham gia thảo luận và ký quyết định “Giá, lương, tiền” vào tháng 9 năm 1985. Quyết định này đã làm Việt Nam rơi vào vòng xoáy của lạm phát có lúc lên đến 770% và người dân oán thán như bị B52 tận diệt. Tố Hữu trở thành trò hề của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một năm sau cơn khủng hoảng, năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới, Tố Hữu mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ nên bị miễn nhiệm các chức vụ quản lý, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội.

Làm thơ có lẽ là lĩnh vực tai tiếng nhất của Tố Hữu. Ông được mệnh danh là nhà thơ cách mạng nhưng bỏ xa đồng nghiệp trong lĩnh vực tuyên truyền và nịnh bợ các tay trùm Cộng sản. Nếu những bài thơ đưa Hồ Chí Minh lên tới mây xanh thì người ta còn có thể hiểu được nhưng với Stalin, con ác quỷ của phe Xã hội chủ nghĩa mà Tố Hữu cũng làm những câu thơ tụng ca y ngang hàng với Thượng đế thì người dân không còn khả năng căm phẫn nữa, họ phỉ nhổ và chà đạp lên những từ ngữ trịch thượng mà Tố Hữu đã dày công sáng tác. Những câu thơ như thế này đã và vĩnh viễn là vết nhơ trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, kể cả dòng thơ cách mạng:

“Áo Ông trắng giữa mây hồng

Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười

Stalin! Stalin!

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!

….

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương Ông thương mười”

Bao nhiêu thứ Tố hữu đã làm được lịch sử ghi lại đầy đủ. Chứng nhân trong vụ Nhân văn giai phẩm, gần sáu mươi triệu đồng bào cả nước trong vụ “Giá, lương, tiền” năm 1985 và hàng triệu trẻ con qua nhiều thế hệ học thơ Tố Hữu trong trường chẳng lẽ còn chưa đủ xấu hay sao mà lại bày trò xây dựng khu lưu niệm cho ông ấy?

(Trích : bài viết của Cánh Cò viết ở Đài Á Châu Tự Do RFA )


 

Hài cốt chồng trong trại tù cải tạo – Đoàn Trọng Hiếu

Son H Cao

Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam . Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.

Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:

–  Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.

Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp dân qua đêm với lý do là ô uế.

Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo.

Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:

–  Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!

Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa.

Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng.

Đoàn Trọng Hiếu

(Hình : Hồt cốt chồng trong tù cải tạo)


 

Những nạn nhân đầu tiên bị CSVN đàn áp ngày 30 Tháng Tư, 1975

Ba’o Nguoi-Viet

May 4, 2025

Chuyện Vỉa Hè

Đặng Đình Mạnh

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, đã đi vào lịch sử Việt Nam như một trang sử đau thương, đánh dấu sự sụp đổ của chính thể Việt Nam Cộng Hòa và mở đầu cho giai đoạn đen tối của đất nước dưới sự cai trị độc tài của Cộng Sản Việt Nam.

Thương binh VNCH được săn sóc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, thuộc quận Gò Vấp. (Hình: VNCH Today)

Sau thời khắc này, tất cả quân, dân, cán, chính miền Nam đều lần lượt bị đàn áp, như một sự trả thù vì đã phụng sự trong chính thể Việt Nam Cộng Hòa.

Có điều, họ chỉ bắt đầu bị điểm danh vào sau ngày 30 Tháng Tư, 1975. Thế nhưng, có những người bị đàn áp ngay tức khắc từ buổi chiều ngày 30 Tháng Tư theo cách phi nhân, táng tận lương tâm và độc ác nhất mà loài người chỉ có thể tưởng tượng ra. Hơn nữa, họ, những người bị đàn áp cũng không phải là những người khỏe mạnh.

Đó là những thương binh Việt Nam Cộng Hòa đang nằm điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Thật vậy, trong những giờ phút hỗn loạn cuối cùng vào những ngày cuối Tháng Tư, hàng nghìn binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn chiến đấu để bảo vệ tự do cho miền Nam, và rất nhiều người trong số họ đã phải gánh chịu những vết thương chiến tranh trên cơ thể mình.

Tổng Y Viện Cộng Hòa, một trong những bệnh viện lớn nhất Sài Gòn, đã trở thành nơi chứng kiến những đau đớn thể xác và tinh thần của những binh sĩ này, những người mà sau đó đã trở thành những nạn nhân đầu tiên của sự đàn áp và trả thù từ phía Cộng Sản Việt Nam.

Ngay cả vào ngày 30 Tháng Tư, năm 1975, ngày cuối cùng của cuộc chiến, tại một số khu vực trên đường phố đô thành Sài Gòn vẫn còn sự kháng cự của nhiều đơn vị binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, như tại Tân Cảng, Thị Nghè, Bảy Hiền… để ngăn bước tiến công của quân đội Bắc Việt.

Còn kháng cự là vẫn còn thương binh, Tổng Y Viện Cộng Hòa nằm ở khu vực Gò Vấp vẫn là nơi tiếp nhận hàng loạt thương binh được đưa về điều trị thương tích. Các bác sĩ và y tá làm việc không ngừng nghỉ, cố gắng cứu chữa những người lính bị thương nặng. Tiếng rên rỉ, tiếng khóc than và mùi máu tanh nồng bao trùm cả bệnh viện.

Ngoài số những binh sĩ bị thương mới được đưa về, vẫn gồm cả những binh sĩ đã chiến đấu ở tuyến đầu, bảo vệ từng tấc đất của miền Nam. Họ bị thương vì đạn pháo, bom mìn, và súng trường. Nhiều người mất đi một phần cơ thể, có người bị mù, có người bị liệt.

Tổng Y Viện Cộng Hòa, nơi gìn giữ hy vọng của thương binh

Tổng Y Viện Cộng Hòa, tọa lạc khu vực Gò Vấp, Sài Gòn. Nơi đây là cơ sở y tế quân sự lớn nhất của Việt Nam Cộng Hòa, với sức chứa lên đến 1,800 giường vào thập niên 1970. Tổng Y Viện được trang bị hệ thống y tế tiên tiến, cùng với đội ngũ bác sĩ tận tâm và sự hỗ trợ từ các chương trình viện trợ quốc tế, Tổng Y Viện Cộng Hòa không chỉ là nơi chữa lành vết thương thể xác mà còn là biểu tượng của hy vọng cho những người lính đã mất đi một phần cơ thể hay sức khỏe trong chiến tranh.

Những thương binh tại đây mang trên mình những vết thương kinh hoàng: Cụt tay, cụt chân, mù mắt, hay những vết thương nội tạng phức tạp. Theo thống kê, khoảng 35,000 thương binh bị cụt chi và 31,000 người mù mắt do chiến tranh đã từng được điều trị tại Tổng Y Viện.

Thời điểm chấm dứt cuộc chiến, nhiều người trong số họ vừa trải qua các ca phẫu thuật, vẫn còn băng bó, nằm bất động trên giường bệnh, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc y tế. Đối với họ, Tổng Y Viện Cộng Hòa là nơi duy nhất mang lại cơ hội sống sót và hồi phục, dù mong manh.

Ngày 30 Tháng Tư 1975, bi kịch bắt đầu

Khi xe tăng của Cộng Sản Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập, trái tim của đô thành Sài Gòn vào trưa ngày 30 Tháng Tư. Chỉ độ vài giờ đồng hồ sau đó, thảm kịch nhân đạo đã diễn ra tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Theo các nhân chứng và tài liệu lịch sử, ngay sau khi chiếm được Sài Gòn, Cộng Sản Bắc Việt đã tiến vào Tổng Y Viện Cộng Hòa. Thay vì tôn trọng luật nhân đạo quốc tế về việc bảo vệ bệnh nhân và cơ sở y tế trong chiến tranh, họ đã ra lệnh xua đuổi tất cả các thương binh Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi bệnh viện.

Một bài viết trên Việt Báo Online mô tả: “Trong các quân y viện khắp miền Nam, mọi thương bệnh binh Cộng Hòa đều bị đuổi ra đường.” Những người lính này, nhiều người còn đang trong tình trạng nguy kịch, bị buộc phải rời khỏi giường bệnh, bất kể vết thương chưa lành hay tình trạng sức khỏe yếu ớt.

Hạ Sĩ Nhất Võ Phùng Dương, một thương binh tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, là một trong những nhân chứng sống của sự kiện này. Trong bài đăng trên mạng xã hội X vào ngày 30 Tháng Tư, 2025, đã chia sẻ hình ảnh ông cùng câu chuyện đau lòng: “Chiều 30 Tháng Tư, 1975, quân Cộng Sản đã tràn vào Tổng Y Viện Cộng Hòa và đuổi hết các thương bệnh binh Việt Nam Cộng Hòa ra ngoài. Trong đó có nhiều người mới giải phẫu và vết thương chưa lành.”

Hình ảnh những thương binh lê lết trên đường phố Sài Gòn, với băng gạc thấm máu và thân thể tàn tật, là minh chứng sống động cho sự tàn nhẫn, phi nhân của hành động này.

Thương phế binh VNCH đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn để được giúp đỡ chữa bệnh suốt nhiều năm qua. Tuy nhiên, chương trình này phải chấm dứt hồi Tháng Tư, 2024, do các áp lực của nhà cầm quyền CSVN. (Hình: Tin Mừng Cho Người Nghèo)

Tội ác đàn áp, vết nhơ không thể xóa nhòa

Hành động đuổi thương binh ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa không chỉ vi phạm Công Ước Geneva về bảo vệ dân thường và thương binh trong chiến tranh, mà còn thể hiện sự vô nhân đạo của lực lượng chiến thắng. Những thương binh này không còn khả năng chiến đấu, không phải là mối đe dọa quân sự, và nhiều người thậm chí không thể tự di chuyển. Việc xua đuổi họ khỏi nơi điều trị là một hành động cố ý gây tổn hại, đẩy họ vào cảnh nguy hiểm và tuyệt vọng.

Nhiều thương binh, sau khi bị đuổi, không có nơi nương tựa. Gia đình họ, nếu còn ở Sài Gòn, thường không đủ khả năng chăm sóc trong bối cảnh hỗn loạn. Một số người đã qua đời trên đường phố do vết thương tái phát hoặc thiếu chăm sóc y tế. Những người sống sót phải đối mặt với sự kỳ thị và đàn áp từ chế độ mới.

Câu chuyện của ông Trần Văn Phụng, một thương binh mù cả hai mắt, cánh tay trái gãy và khuôn mặt dị dạng, là một ví dụ điển hình. Ông kể lại: “Tui chết đi sống lại. Tui nằm bệnh viện một năm trời.” Sau ngày 30 Tháng Tư, trợ cấp thương tật từ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không còn, gia đình ông rơi vào cảnh khốn cùng, phải buôn bán lặt vặt để kiếm sống. Những thương binh như ông không chỉ mất đi sự chăm sóc y tế mà còn bị tước đoạt phẩm giá và cơ hội tái hòa nhập xã hội.

Di sản của nỗi đau và bài học lịch sử

Sự kiện tại Tổng Y Viện Cộng Hòa ngày 30 Tháng Tư, 1975, không chỉ là một chương đau thương trong lịch sử Việt Nam mà còn là lời cảnh tỉnh về hậu quả của hận thù và sự thiếu nhân đạo trong chiến tranh.

Những thương binh Việt Nam Cộng Hòa, vốn đã hy sinh tất cả cho lý tưởng tự do, đáng lẽ phải được đối xử với lòng trắc ẩn, bất kể bên thắng hay thua. Thay vào đó, họ trở thành nạn nhân của một chính sách trả thù, đàn áp có chủ đích, nhằm xóa bỏ mọi dấu vết của chế độ cũ.

Hôm nay, khi nhìn lại biến cố 50 năm trước, chúng ta cần ghi nhớ câu chuyện của những thương binh tại Tổng Y Viện Cộng Hòa như một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc. Họ không chỉ là nạn nhân của chiến tranh mà còn là biểu tượng của sự kiên cường và hy sinh. Việc tố cáo tội ác này không nhằm khơi lại hận thù, mà để khẳng định giá trị của nhân quyền và lòng nhân ái – những điều mà nhân loại cần bảo vệ trong mọi hoàn cảnh.

Hãy để những vết thương của quá khứ trở thành bài học cho tương lai, để không một ai, dù là thương binh hay thường dân, phải chịu cảnh bị bỏ rơi hay đàn áp trong những thời khắc định mệnh của lịch sử.

Tài liệu tham khảo:
-Phùng Annie Kim, “Người Thương Binh và Bóng Tối Còn Lại,” Việt Báo Online.
-“Y tế Việt Nam Cộng hòa,” Wikipedia tiếng Việt.
-Bài đăng của @ThanhPhoSaiGon trên X, 30/4/2025.


 

50 Năm – Việt Nam Đang Ở Đâu, Làm Được Gì? Chau Doan

Chau Doan 

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm đang muốn đưa đất nước vào “kỉ nguyên vươn mình” và bài phát biểu nhân 50 năm ngày thống nhất đất nước đã gây được cảm hứng và hy vọng cho nhiều trí thức ở Việt Nam. 

Đấy là một việc tốt nhưng điều quan trọng là cần định vị đất nước đang ở đâu, điều cần thiết phải làm, mối nguy hiểm nào có thể rình rập và nếu là trí thức thực sự thì phải nhìn ra điều ấy thay vì tán thưởng với kiểu hời hợt và rỗng tuyếch. 

Để có thể đánh giá được thành tựu của một vị lãnh đạo trong vài năm tới, điều quan trọng là ta cần phải có một bàn cân có thể “cân đo, đong đếm” hiện trạng. Thực tế gần 50 năm thống nhất, đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền Việt Nam nói chung đã không hề tạo được một bước đột phá nào đáng kể trong việc lãnh đạo đất nước. Việc cố bí thư Nguyễn Phú Trọng tự hào thốt lên “đất nước ta đã bao giờ được như thế này chưa” thể hiện một tầm nhìn hạn hẹp, lạc quan tếu, một ý chí yếu ớt trong việc đưa dân tộc đi lên. 

Ở đây cần làm rõ mấy ý. Đừng mang cái đói nghèo của thời bao cấp ra rồi gật gù tâm đắc bảo: thấy chưa, xưa áo rách, cơm độn bo bo, giờ áo lành, bữa ăn đầy thịt cá, công của ai?

Cũng đừng mang cái ý như kiểu một người đàn ông bảo vợ: Xưa mà không có anh lấy thì em ế. 

Cũng đừng bảo đất nước ta mới qua chiến tranh, thế là tốt rồi. 50 năm là một quãng đường rất dài, bằng 2/3 đời người. Đủ để một dân tộc với ý chí quật cường như Việt Nam phát triển rực rỡ, hoàn toàn có thể ngang hàng hay hơn Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan… 

Giờ chúng ta hãy nhìn thực trạng của Việt Nam về mọi mặt. 

Về kinh tế, mặc dù tuyên bố tăng trưởng GDP cao nhưng thực chất 80% là do FDI mang lại, Việt Nam đơn giản là làm thuê cho nước ngoài trên chính đất nước của mình. Các “nắm đấm thép” của nhà nước đã biến thành những móng vuốt thép cào cấu nát bét ngân sách quốc gia.

Cuối năm 2023, Bộ Tài Chính điểm ra 1000 dự án lãng phí không hiệu quả, riêng Bộ Công Thương có 12 dự án thua lỗ nghìn tỉ với tổng mức đầu tư 63.610 tỉ đồng. 

20 tập đoàn kinh tế nhà nước chiếm giữ 80% tín dụng ngân hàng, họ là những đứa con đẻ được nuông chiều hết mực nhưng đóng góp không hề tương xứng với ưu đãi nhận được mà ngược lại làm góp phần suy yếu nền kinh tế. 

Trong khi ấy, nội lực kinh tế của một quốc gia thực chất phải nằm ở kinh tế tư nhân. Mô hình của Hàn Quốc cho thấy, những tập đoàn tư nhân sẽ phải tự bươn chải, chỉ khi lớn đến một mức nào đấy, đã chứng tỏ được năng lực, họ sẽ có được sự hỗ trợ nhất định của nhà nước và kết quả cho thấy Hàn Quốc đã trỗi dậy với những thương hiệu khổng lồ. 

Cùng với nó là nạn tham nhũng ngày càng tệ hại ở Việt Nam chắc chắn có liên quan tới năng lực yếu kém của những “đứa con đẻ” của nhà nước. 

Kinh tế yếu kém sẽ dẫn tới quân sự yếu kém, công nghệ yếu kém. 

Hãy mang những thành tựu của người anh em cùng ý thức hệ của chúng ta so sánh. 

Trung Quốc đang làm chấn động thế giới bởi sự vươn mình thực sự của họ. Nền kinh tế của họ là thực sự do nội lực cách doanh nghiệp trong nước. Họ chuyển từ những kẻ học việc, bắt chước thành những nhà sáng chế. 

Giờ đây Mỹ đang toát mồ hôi trong cuộc chiến về thành tựu vật lý lượng tử, máy tính lượng tử và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc, hàng hoá Trung Quốc tràn ngập khắp thế giới. Với đà này, với một dân số khổng lồ và nội lực vượt trội như vậy, nếu họ có vượt trội Mỹ về kinh tế và sức mạnh quân sự thì cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. 

Điều ấy liên quan tới vận mệnh dân tộc Việt Nam. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng có tầm nhìn bao quát thì thay vì thốt ra mấy câu cảm thán đầy hãnh diện thì ông đã nên thâm trầm mà nhìn ra nguy cơ khi đất nước ta phải sống cạnh ông bạn cùng lý tưởng, quá mạnh và vô cùng sâu hiểm. 

Hãy nhớ rằng khi anh em thân thiết nhất, hữu hảo nhất, chúng ta mất Hoàng Sa. Những năm trở lại đây Trung Quốc đã xây dựng 7 cơ sở quân sự ở Biển Đông. Những cơ sở quân sự thậm chí không có một bóng cây bởi mục đích đậm đặc của quân sự, đường băng, kho tàng vũ khí quân dụng. Họ xây dựng đảo không phải để sống, mà để tạo ra những cơ sở quân sự để kiểm soát biển Đông. 

Lãnh đạo Việt Nam nhận thức được điều này và đang nỗ lực xây dựng cơ sở quân sự ở Trường Sa nhưng với một nền kinh tế yếu kém, sự nỗ lực ấy không là gì so với thành quả xây dựng của Trung Quốc. 

Việt Nam đang trong một thế vô cùng hiểm nghèo, có thể thay câu nói của ông Trọng bằng câu nói: “Việt Nam đã bao giờ nguy đến thế này chưa?” 

Tại sao nguy, bởi phía Bắc giáp biên giới Trung Quốc, hướng biển Đông với 7 cơ sở quân sự của Trung Quốc và phía Tây Nam có Campuchia, một người anh em đang ngả hẳn vào vòng tay của Trung Quốc và tâm lý thù ghét có tính lịch sử với Việt Nam vẫn còn. 

Khi thằng hàng xóm xấu tính, đầy tham vọng ăn nuốt mà lại quá mạnh thì ta phải làm sao? Ta phải nỗ lực nâng cao năng lực, sức chiến đấu của mình, ta phải có đồng minh mạnh. Chơi với kẻ xấu tính, khi nó hữu hảo nhất, ta mất nhiều nhất, Hoàng Sa là minh chứng rõ ràng và đau đớn nhất. 

Trong khi nguy cấp như vậy nhưng quan chức Việt Nam lại khét tiếng là những thanh củi dự bị ngày càng to hơn. Lý tưởng, khát vọng xây dựng đất nước không có hay có nhưng quá yếu ớt, bị che lấp bởi lòng tham muốn kiếm lợi riêng. Cơ chế thiếu khoa học và bộ máy yếu kém lại chính là một cái công xưởng tạo ra củi, xong lại tự hào là mình đốt lò quyết liệt. Cái cần làm là trị tận gốc, tức là phải thay đổi cơ chế tạo ra củi, chứ không phải kiểu một tay tạo củi, tay kia đốt lò. 

Hãy nhớ kinh Trung Quốc được như ngày hôm nay là nhờ Đặng Tiểu Bình và hiện thời là Tập Cận Bình, hai người hiểu là muốn làm được việc lớn cho quốc gia, sự trong sạch với đồng tiền, với lợi ích riêng là điều cần thiết. 

Ông Nguyễn Phú Trọng sở dĩ có được một uy tín như vậy bởi ông là một người được đánh giá là trong sạch nhưng tiếc thay, tầm nhìn của ông quá hạn chế. Ông đắc ý về một thứ giá trị tầm phào như “ngoại giao cây tre”. 

Với thực trạng trung bình 10 người dân có một cán bộ, viên chức nhà nước, trung bình 5 lao động nuôi một viên công chức thì việc ông Tô Lâm cho tinh giản bộ máy, cắt giảm ngân sách của các tổ chức, hội nhóm trực thuộc nhà nước là một việc làm đúng đắn nhưng đấy mới chỉ là một bước nhỏ trong chặng đường trước mắt. 

Hãy nhìn vào khoa học kĩ thuật. 

Trong khi thế giới đang ráo riết và rầm rộ trong cuộc đua về máy tính lượng tử, trí tuệ nhân tạo, liên tục đạt được những thành tựu mới thì Việt Nam chỉ có con số không tròn trĩnh. 

Nói tới kỉ nguyên mới là phải nói tới những lĩnh vực này mà muốn phát triển được hai lĩnh vực này thì cần phải có ngân sách đáng kể dành cho R&D, nghiên cứu và phát triển nhưng tham nhũng như vậy, sự tích luỹ ngân sách yếu ớt như vậy thì làm sao có được R&D đáng kể? 

Do vậy, cái việc cắt giảm bộ máy cồng kềnh của ông Tô Lâm là hoàn toàn đúng. Hãy tạo ra một bộ máy tinh gọn để giảm gánh nặng cho ngân sách và cái quan trọng là phải tận diệt tham nhũng. 

Có dám làm quyết liệt hay không, bộ máy nằm trọn trong tay, không có gì là không thể nhưng đừng có kiểu tự hào đốt củi như ông Nguyễn Phú Trọng bởi với dưới góc nhìn của người dân củi là sản phẩm bộ máy của chính quyền và diệt tham nhũng chính trách nhiệm của các vị, không phải là thành tựu gì đáng để người dân tung hô. 

Hãy nhìn thực trạng của quản lý thị trường. Phải cắt đứt được vấn nạn nhập lậu qua biên giới Trung Quốc, Lào (tôi không rõ về biên giới Campuchia). Tôi đã phải có lúc 12 giờ đêm nằm phục để chứng kiến đoàn người vác đồ lậu xuyên biên giới. 

Doanh nghiệp Việt Nam nào có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập lậu như vậy? 

Rồi thực phẩm chức năng, thuốc tây, gần đây có 600 loại sữa giả lan tràn trên thị trường suốt bao năm. 

Đại dịch đã phô bày đạo đức cán bộ ngành y tế với que chọc mũi và những chuyến bay “giải cứu”. 

Tôi đau xót tự hỏi với đạo đức cán bộ như vậy thì bao dân oan mất đất đã phải tàn lụi trong đau khổ, uất ức. Những biệt phủ, siêu xe do các cán bộ buôn chỏi đót, nuôi lợn, chạy xe ôm thêm hay được xây bằng máu và nước mắt dân oan? 

Nếu thực sự “do dân vì dân” thì các vị phải nhìn thấu vấn đề. Trên con đường ra phía trước, các vị bảo không “bỏ lại ai phía sau” nhưng những người dân đã gục chết trên con đường tìm công lý thì làm sao chạy cho kịp với hành trình dân tộc? Phải chăng oan hồn của họ sẽ được bám theo? 

Tôi tự hỏi trong cái “kỉ nguyên mới” của ông Tô Lâm, bao phần trăm được hướng tới giá trị tinh thần của dân tộc? Con người ngoài bánh mì còn cần có hoa hồng. Hoa hồng ở đây là tự do, dân chủ, nhân quyền, công lý, văn học nghệ thuật, nền giáo dục tinh hoa, khai phóng con người, nền y tế khiến con người cảm thấy được chăm sóc chu đáo. Và điều quan trọng là niềm tự hào dân tộc. Ở đây tôi không nói tới niềm tự hào về lịch sử, về dòng giống con rồng cháu tiên mà là niềm tự hào của thành tựu hiện tại của một đất nước. Sao cho khi người dân ra nước ngoài, ai hỏi họ từ đâu tới, khuôn mặt người ta có thể bừng sáng rực rỡ mà trả lời “tôi là người Việt Nam.” 

Mấy “trí thức” nhân bài phát biểu của ông Tô Lâm mà “làm thơ” bằng văn xuôi, lại “tát nước theo mưa”, lại cao hứng tán thưởng, tràn trề hy vọng, lại “bay cao”… Mấy trí thức như vậy thật nhạt nhẽo, vô hại và ăn hại, chẳng có chút giá trị khai dân trí chút nào. 

Chúng ta ở đây không phải để khiến nhau thoả mãn, để vỗ tay, để cười giả lả ve vuốt hồn nhau, không phải để nhau “xuất ra” cho thoải mái và thư giãn tinh thần, để thăng hoa những cái ngã siêu bé của chúng ta. Chúng ta ở đây để nói lời thật, tư duy thật, thứ tư duy cần bao năm tháng học hỏi và suy ngẫm, thứ tư duy cần trăn trở, cần đọc nhiều, cần liên kết để đưa ra nhận định đúng đắn. 

Trước hết, nếu ông Tô Lâm thực sự là người có tâm có tầm, việc đầu tiên ông cần làm là nâng cấp, cải thiện nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà, dựng tượng tưởng nhớ những nạn nhân vượt biển mà ta gọi là thuyền nhân. Máu của người Việt Nam đã làm đỏ thêm biển Đông, nước mắt của thuyền nhân Việt Nam đã làm nước biển Đông thêm mặn. 

Họ chạy đi bởi sự đối xử tàn ác của chính quyền các vị. Có ai muốn bỏ quê hương đất nước ra đi trong khi biết nguy cơ bị chết đói, hãm hiếp và cướp bóc rất cao. Hành trình đầy sóng gió, máu, nước mắt, khi phải chứng kiến người thân chết trước mắt mình. 

Hãy dựng tượng thể hiện sự thông cảm, sự thương cảm của dân tộc Việt Nam với họ. Hành động ấy sẽ nâng hình ảnh của ông lên rất cao, và ông sẽ được ghi nhận mãi mãi trong lịch sử và trong lòng người dân. 

Hãy rà soát lại danh sách tù nhân lương tâm và hãy thả họ ra nếu các vị thấy họ vô tội. Tôi tin rằng đa phần các vị biết họ vô tội nhưng bởi thói quen độc tài, các vị bất chấp và nhân danh thứ gọi là pháp luật để buộc tội họ. 

Tôi là người trong cuộc, tôi biết rõ điều này. Tôi làm gì mà phải có kiến nghị khởi tố, cấm xuất cảnh, triệu tập và rình rập, đeo bám người nhà, bạn bè, học sinh để truy bắt? 

Hãy nhớ cho rằng tôi là người luôn thân thiện, hợp tác, lực lượng an ninh suốt từ năm 2000. 

Tôi là người ôn hoà. Bố mẹ tôi vốn có doanh nghiệp xe buýt, thời thế thay đổi, với chính sách cải tạo công thương mà trắng tay. Một doanh nghiệp ông tự xây dựng lên bằng bàn tay người thợ. Cuối đời ông thành một người bất đắc chí và chỉ cay đắng thốt lên “chúng nó cấu cánh tao.” Chỉ sợ xây nhà thì chính quyền đến cướp. Đến giờ tôi hiểu tại sao ông lo sợ, hồi hộp đến vậy khi thấy tôi mua sắt về xây nhà. 

Tôi là người ôn hoà nên không lấy câu chuyện, sự mất mát của gia đình làm mối hận thù, bởi tôi hiểu ấy là lịch sử và ta phải chấp nhận lịch sử. Ta không để cái sai của lịch sử định hình tư tưởng và hành động của ta. 

Sự công bằng, chính trực luôn là tiêu chí của tôi. 

Nhưng những ngày tháng trốn tránh này tôi càng nhận diện chân dung của các vị. Các vị nói một đằng làm một nẻo. Bảo tôi về nhưng ráo riết lùng sục. Liệu tôi có nên nhắm mắt, giả ngu để trao sinh mệnh cho các vị? Để số phận của tôi được các vị định đoạt? 

Một vị an ninh nhắn tin là chìa tay mà tôi từ chối. Ai chìa tay cho ai? Tôi có sa ngã gì đâu mà chìa tay cứu vớt? Ngược lại, tôi đang chìa tay cho cả chính thể của các vị. Bàn tay của tôi là bàn tay nhân ái, bàn tay trí tuệ, bàn tay của hiểu biết, bàn tay của khao khát thực sự đưa dân tộc đi lên, bàn tay chai sạn của lao động và tu luyện, bàn tay ấm nóng của một con tim đầy nhiệt huyết và lý tưởng cao đẹp chứ không phải bàn tay lừa lọc, đạo đức giả, bất nhân và độc tài. 

Ngày mai, ngày kia, tuần sau các vị có thể bắt được tôi nhưng các vị không bao giờ có thể khiến dân chúng nhìn sai về Đoàn Bảo Châu bởi tôi đã để ánh sáng của công lý, sự minh bạch, sự thật xuyên qua tâm hồn, hành động và toàn bộ bản thể thiêng liêng của tôi. Các vị bắt tôi, điều ấy chỉ tô thêm một nét xấu trên chân dung vốn đã không mấy tốt đẹp của các vị. 

Các vị phải học rất nhiều. Không phải học từ nhau bởi một cái ao tù thì lấy đâu ra sự trong lành mà học từ thế giới, từ những nhà hiền triết đã sống xuyên qua nhiều thế kỉ. Tôi hiểu là các vị không thể học nhanh được nhưng một con thuyền buồm sẽ tới được đích khi nó biết hướng đi. Buồm to được giương lên mà không có hướng đúng thì chỉ lạc lối mãi mà thôi. 

Vậy kỉ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ có thể vươn được đến đâu thì ta cần phải chờ thêm thời gian và điều ấy phụ thuộc vào chính các vị. Không phải phụ thuộc vào những người được gọi là “trí thức” của đất nước bởi chính các vị đã làm hỏng họ, đã biến họ thành một thứ nhạt nhẽo, lờ lợ, ăn theo nói leo, vỗ tay và cười xu nịnh. 

Cũng không phụ thuộc vào quần chúng bởi cũng chính các vị đã biến họ thành một lớp người cam phận, sợ sệt, hèn nhát, ích kỷ và khôn lỏi. 

Muốn dân tộc vươn mình, lãnh đạo thực sự phải vươn mình trước về tư tưởng, tầm nhìn, sự quyết đoán và nhất định phải có con tim yêu nước thực sự.

Thời gian sẽ trả lời điều này và tôi cũng có hy vọng vào các vị. 

Đoàn Bảo Châu.

50 Years – Where Is Vietnam, What Has It Achieved?

The General Secretary of the Communist Party of Vietnam, Mr. Tô Lâm, wants to lead the country into an “era of rising,” and his speech on the 50th anniversary of the country’s reunification has inspired and given hope to many intellectuals in Vietnam.

That is a good thing, but the important thing is to determine where the country stands, what needs to be done, what dangers might be lurking, and if one is a true intellectual, they must see these things instead of giving shallow and empty and hollow praise. 

To be able to evaluate the achievements of a leader in the coming years, it is crucial that we have a scale that can “weigh and measure” the current situation. In reality, nearly 50 years after the guns fell silent, the Communist Party of Vietnam and the Vietnamese government in general have not made any significant breakthroughs in leading the country. The fact that the late Secretary-General Nguyễn Phú Trọng proudly exclaimed, “Has our country ever been like this before?” reflects a narrow vision, a naive optimism, and a weak will to lead the nation forward.

Let me clarify a few points here. Don’t bring up the poverty and hunger of the subsidy period and then nod smugly, saying: Look, in the past we wore tattered clothes, ate rice mixed with bo bo, now we have intact clothes, meals full of meat and fish—who’s to thank for that?

Also, don’t use the kind of logic like a man telling his wife: If I hadn’t married you back then, you’d still be single.

And don’t say that our country has just come out of war, so this is good enough. 50 years is a very long time, equivalent to two-thirds of a person’s life. It’s enough for a nation with a resilient spirit like Vietnam to develop brilliantly, completely capable of being on par with or surpassing South Korea, Taiwan, Singapore, Thailand… 

Now let us look at the reality of Vietnam in all aspects.

Economically, despite claims of high GDP growth, in reality, 80% of it comes from FDI; Vietnam is simply working for foreign countries on its own land. The “iron fists” of the state have turned into steel claws that tear the national budget to shreds.

At the end of 2023, the Ministry of Finance pointed out 1,000 wasteful and ineffective projects, with the Ministry of Industry and Trade alone having 12 loss-making projects worth thousands of billions, with a total investment of 63,610 billion VND.

20 state-owned economic corporations hold 80% of the banking credit; they are the spoiled children who are pampered to the fullest but contribute far less than the privileges they receive, and in fact, they contribute to weakening the economy.

Meanwhile, the true economic strength of a nation should lie in the private sector. The South Korean model shows that private corporations must struggle on their own, and only when they grow to a certain level and prove their capabilities do they receive certain support from the state. The result is that South Korea has risen with giant brands.

Along with that is the increasingly terrible corruption in Vietnam, which is certainly related to the incompetence of these “children” of the state.

A weak economy leads to a weak military, weak technology.

Let’s compare it with the achievements of our ideological brother.

China is shaking the world with their true rise. Their economy is genuinely driven by the internal strength of domestic enterprises. They have gone from being apprentices and imitators to becoming innovators.

Now, the U.S. is sweating in the race over achievements in quantum physics, quantum computers, and artificial intelligence against China, with Chinese goods flooding the world. At this rate, with such a huge population and superior internal strength, if they surpass the U.S. in economic and military power, it would not be surprising.

This relates to the fate of the Vietnamese nation. If Mr. Nguyễn Phú Trọng had a broader vision, instead of uttering those proud exclamations, he should have been more reflective and seen the danger of our country living next to a friend with the same ideology, who is too strong and extremely cunning.

Remember that when we were closest and most friendly, we lost the Paracel Islands. In recent years, China has built seven military bases in the South China Sea. These military bases don’t even have a single tree because their purpose is purely military—runways, weapon storage facilities. They build islands not to live on, but to create military bases to control the South China Sea.

Vietnam’s leadership is aware of this and is trying to build military bases in the Spratly Islands, but with a weak economy, those efforts are nothing compared to China’s achievements.

Vietnam is in an extremely dangerous position, so much so that we could replace Mr. Trọng’s statement with: “Has Vietnam ever been in such danger as it is now?”

Why is it dangerous? Because to the north, we border China; to the east, the South China Sea has seven Chinese military bases; and to the southwest, there’s Cambodia, a brother who has fully leaned into China’s embrace, with a historical resentment toward Vietnam that still lingers. 

When the neighbor is bad-tempered, full of ambition to swallow us, and far too strong, what must we do? We must strive to enhance our capabilities, our fighting strength, and we must have strong allies. When dealing with a bad-tempered neighbor, even at its most friendly, we lose the most—the Paracel Islands are the clearest and most painful proof.

Yet, in such a critical situation, Vietnamese officials are notorious for being increasingly large “firewood reserves.” The ideals and aspirations to build the country are either nonexistent or too weak, overshadowed by the greed for personal gain. An unscientific mechanism and an incompetent system are exactly the factory that produces firewood, and then they proudly claim they are fiercely “burning the furnace.” What needs to be done is to address the root cause, which is to change the mechanism that creates firewood, not to create firewood with one hand while burning the furnace with the other.

Remember that China’s success today is thanks to Deng Xiaoping and now Xi Jinping, two people who understood that to achieve great things for the nation, integrity with money and personal interests is essential.

Mr. Nguyễn Phú Trọng gained such prestige because he is considered an honest man, but unfortunately, his vision is too limited. He takes pride in something trivial like “bamboo diplomacy.”

With the reality that, on average, for every 10 citizens, there is one state official or employee, and on average, five workers support one civil servant, Mr. Tô Lâm’s decision to streamline the system and cut the budget of state-affiliated organizations and associations is a correct move, but it is only a small step on the road ahead.

Let’s look at science and technology.

While the world is racing fiercely in the competition over quantum computers and artificial intelligence, continuously achieving new milestones, Vietnam has a round zero.

Speaking of a new era means speaking of these fields, and to develop these fields, there needs to be significant funding for R&D, research and development. But with such corruption and such weak budget accumulation, how can there be significant R&D?

Therefore, Mr. Tô Lâm’s move to cut down the cumbersome system is absolutely correct. Create a lean system to reduce the burden on the budget, and the important thing is to eradicate corruption completely.

Do they dare to act decisively or not? The system is entirely in their hands; nothing is impossible. But don’t be proud of burning firewood like Mr. Nguyễn Phú Trọng, because from the people’s perspective, firewood is a product of the government’s system, and eradicating corruption is their responsibility, not an achievement for the people to praise.

Look at the reality of market management. We must cut off the problem of smuggling across the borders with China and Laos (I’m not sure about the Cambodian border). I once had to lie in wait at midnight to witness groups of people carrying smuggled goods across the border.

Which Vietnamese businesses can compete with smuggled goods like that?

Then there are functional foods, medicines, and recently, 600 types of fake milk have been flooding the market for years.

The pandemic exposed the ethics of health sector officials with nasal swab kits and “rescue” flights.

I painfully ask myself, with such ethics among officials, how many unjustly displaced people have withered away in misery and resentment? Were those villas and supercars of officials earned from selling brooms, raising pigs, or working as motorbike taxi drivers on the side, or were they built with the blood and tears of the wronged?

If you truly “serve the people, for the people,” you must see through the issues. On the road ahead, you say you won’t “leave anyone behind,” but the people who have died on the path to justice—how can they keep up with the nation’s journey? Could it be that their wronged spirits will follow along?

I ask myself, in Mr. Tô Lâm’s “new era,” what percentage is directed toward the spiritual values of the nation? People need not only bread but also roses. Roses here mean freedom, democracy, human rights, justice, literature and arts, an elite education system that liberates people, a healthcare system that makes people feel well-cared for. And the most important thing is national pride. I’m not talking about pride in history or the lineage of dragon and fairy descendants, but pride in the current achievements of a nation—so that when people go abroad, and someone asks where they’re from, their faces can light up brightly as they answer, “I am Vietnamese.”

Some “intellectuals,” upon hearing Mr. Tô Lâm’s speech, “compose poetry” in prose, “pour water with the rain,” enthusiastically praise, brim with hope, and “soar high”… Such intellectuals are truly bland, harmless, and useless, with no value in enlightening the people.

We are not here to satisfy each other, to clap, to laugh fakely and flatter each other’s souls, not to “release” for comfort and mental relaxation, to exalt our tiny egos. We are here to speak the truth, to think genuinely, the kind of thinking that requires years of learning and reflection, the kind of thinking that demands concern, extensive reading, and connection to make accurate judgments.

First of all, if Mr. Tô Lâm is truly a man of heart and vision, the first thing he should do is to upgrade and improve the Republic of Vietnam Cemetery, erect a statue to commemorate the victims of the boat people exodus. The blood of the Vietnamese has reddened the South China Sea further, the tears of Vietnamese boat people have made the sea saltier.

They fled because of the cruel treatment by your regime. Who would want to leave their homeland knowing the high risk of starvation, rape, and robbery? A journey full of storms, blood, tears, witnessing loved ones die before their eyes.

Erect a statue to express the sympathy and compassion of the Vietnamese nation toward them. That action would elevate your image greatly, and you would be forever remembered in history and in the hearts of the people.

Review the list of prisoners of conscience and release them if you find them innocent. I believe most of you know they are innocent, but due to your authoritarian habits, you disregard that and use what you call the law to convict them.

I am someone directly involved; I know this clearly. What have I done to deserve a proposal to prosecute, a ban on leaving the country, summons, and being stalked, with my family, friends, and students harassed to hunt me down?

Let me remind you that I have always been friendly and cooperative with the security forces since 2000.

I am a peaceful person. My parents used to own a bus company, but times changed, and with the policy of industrial and commercial reform, they lost everything. A business my father built with his own hands as a worker. At the end of his life, he became a disillusioned man, bitterly saying, “They clipped my wings.” He feared that if he built a house, the authorities would come and take it. Now I understand why he was so afraid and anxious when he saw me buying steel to build a house.

I am a peaceful person, so I don’t use my family’s story and losses as a source of hatred, because I understand that it is history, and we must accept history. We cannot let the wrongs of history shape our thoughts and actions.

Fairness and integrity have always been my principles.

But during these days of hiding, I have increasingly seen your true face. You say one thing and do another. You tell me to return but relentlessly hunt me down. Should I close my eyes, play dumb, and entrust my life to you? To let my fate be decided by you?

A security officer texted me, offering a helping hand, which I refused. Who is helping whom? I haven’t fallen into anything to need saving. On the contrary, I am offering a hand to your entire regime. My hand is a hand of compassion, a hand of wisdom, a hand of understanding, a hand with a genuine desire to lift the nation, a calloused hand from labor and cultivation, a warm hand of a heart full of passion and noble ideals—not a hand of deceit, hypocrisy, cruelty, and authoritarianism.

Tomorrow, the day after, or next week, you may catch me, but you will never make the people see Đoàn Bảo Châu wrongly, because I have let the light of justice, transparency, and truth shine through my soul, my actions, and my entire sacred being. If you arrest me, it will only add another stain to your already less-than-ideal portrait.

You have a lot to learn. Not from each other, because a stagnant pond cannot produce purity, but from the world, from the sages who have lived through many centuries. I understand you cannot learn quickly, but a sailboat will reach its destination if it knows the direction. A large sail hoisted without the right direction will only drift further away.

So, how far the nation’s era of rising can go depends on time, and it depends on you. It does not depend on those called “intellectuals” of the country, because you have ruined them, turned them into something bland, lukewarm, parroting, clapping, and laughing sycophantically.

Nor does it depend on the masses, because you have turned them into a class of people who accept their fate, who are fearful, cowardly, selfish, and cunning.

For the nation to rise, the leadership must first rise in thought, vision, decisiveness, and must absolutely have a heart that truly loves the country.

Time will answer this, and I, too, have hope in you. 

Đoàn Bảo Châu


 

MIỀN NAM ĐÃ GIẢI PHÓNG MIỀN BẮC NHƯ THẾ NÀO?

Duthapsang Tran

 Fw. Bài hay và đúng sự thật

Hòa hợp, hoà giải, và hòa bình thực sự để đất nước phát triển là nhu cầu bức thiết của dân tộc hiện nay. Sau 50 năm chia cắt, thì lòng người vẫn có “Triệu người vui, triệu người buồn!” theo như nhận xét của ông Võ Văn Kiệt. Đây là bài toán nan giải không dễ giải quyết, nhưng chúng ta phải làm, để theo kịp đà tiến hoá của nhân loại!

Thực ra, nếu hiểu nghĩa vui buồn theo dựa trên kẻ thắng người thua thì cả hai miền Nam – Bắc đều có vui lẫn cả buồn!!!

Miền Bắc vui vì đã thống nhất đất nước qua sức mạnh cứng bằng súng đạn. Công lao này không ai phủ nhận, miễn là đừng lấy cái thế của kẻ thắng trận mà kiêu căng chà đạp lên nỗi đau của dân miền Nam. Miền Nam thì đã giải phóng được miền Bắc qua sức mạnh mềm!

Tự lúc nào văn hóa sống cởi mở, nhân bản của dân Miền Nam đã thức tỉnh dân Miền Bắc, văn chương, âm nhạc đầy tình người, tình tự quê hương của Miền Nam át đi những bài nhạc đầy hận thù, sắc máu với những giai điệu chói tai. Người Miền Nam chia sẻ với dân Miền Bắc tình cảm qua Nhạc Vàng Bolero đầy tình người như bài hát Tôi Muốn của Nhạc sĩ Lê Hựu Hà với câu: “… Tôi muốn mọi người biết thương nhau không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu…”

Trong một bài viết nhân dịp 50 năm ngày 30/4 của người bên thắng cuộc, tác giả Trần Lệ Bình muốn nói lên cảm nghĩ thật lòng dù có khi bị ném đá: “Tối tối mỗi khi có điện, đám bạn đến đầy nhà để nghe bài nhạc Pháp “Bang Bang”… Khi sống trong cảnh cả ngày chỉ nghe đài phát thanh phát những bài hát như hét như gào: “…không cho chúng nó thoát, chúng bay vào sẽ không có đường ra nó….” quen tai, bây giờ được nghe hai tiếng “bang bang” với âm điệu du dương đến mê hồn, khiến chúng tôi không ngờ trên đời nay lại có những loại nhạc làm lay động lòng người đến như vậy.”

Ở một đoạn khác, tác giả Trần Lệ Bình nói về chị bán mướp: “… Lúc này chị cầm trong tay chiếc dao gọt tôi chưa thấy bao giờ, tay chị lướt nhẹ nhàng từ trên xuống dưới quả mướp, vỏ mỏng như tờ giấy đều đều chui từ giữa kẽ dao rơi xuống vẫn đúng chiều dài của quả mướp. Chỉ trong tích tắc, quả mướp hết vỏ vẫn tròn trịa như nguyên. Với nét mặt thật sung sướng, chi nói: “Cái thứ dao của bọn ngụy hay thật!”. Mấy chị đang đứng chờ mua cũng xen vào: “Thế đấy, cái dao đơn giản và thuận tiện thế mà miền Bắc XHCN cũng không làm nỗi…”. Tác giả kết luận: “Một sự thật mà bất cứ ai còn có lòng trung thực đều không thể phủ nhận là 30-4-75 đã giải phóng Miền Bắc khỏi nghèo nàn lạc hậu, đã cho dân Bắc được tiếp cận với văn minh của nhân loại.

Dân Miền Nam sẽ rất vui và nên tự hào nếu họ biết được chính họ đã giải phóng người dân Miền Bắc khỏi bức màn sắt của giáo điều đã che đậy tầm nhìn, sự hiểu biết của dân Miền Bắc với thế giới văn minh, nhân bản hơn. Miền Nam vui vì được người bên thắng cuộc, bà Dương thu Hương, công nhận là xứ văn minh tiến bộ ngay trưa ngày 30/4/1975 chứ không phải đợi mãi đến giờ này ông Tô Lâm mới dám xác nhận Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông!

Đến đây thì người dân Miền Nam có thể dùng tựa của một bài hát của nhạc sĩ Nhật Ngân để đặt câu hỏi “Anh Giải Phóng Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh” và dân Miền Nam nên vui mừng vì họ đã giải phóng được Miền Bắc qua quyền lực mềm: tinh thần khai phóng, nhân bản và nghĩa đồng bào. 

Nguyễn văn Lợi


 

ĐÊM TRƯỚC NGÀY 30/4/2024: BUỒN VÀ THƯƠNG CHO DÂN MÌNH NƯỚC MÌNH

Phêrô Nguyễn Văn Khải added 7 new photos from April 29, 2024 at 5:37 PM.

April 29, 2024

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

 Năm nào cũng vậy cứ những ngày này tôi khó ngủ. Nhớ đến nguyên nhân, diễn biến và hậu quả, đặc biệt là các nạn nhân của cuộc chiến 54-75 tôi càng thấy thương cho dân mình nước mình và càng giận những kẻ gây chiến là cộng sản Việt-Nga-Tầu.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCS, trong đó có những người thân của tôi, có bố tôi, có chú tôi, có những người anh em của tôi, đã phải hy sinh tuổi trẻ, đã bỏ một phần máu thịt, hoặc bỏ cả mạng mình ở khắp bốn chiến trường A-B-C-D.

Vì họ đã bị tuyên truyền, đã bị tẩy não, đã bị nhồi sọ, đã bị lừa và bị lùa vào cuộc chiến khốc liệt! Họ đã bị đánh cắp tuổi trẻ và mạng sống mà rốt cuộc bản thân họ, gia đình họ và cả quốc gia dân tộc chẳng được lợi lộc gì! Chỉ có một số kẻ cơ hội, những kẻ đầu cơ chiến tranh là được lợi và họ vẫn tiếp tục hưởng lợi từ cuộc chiến này cho đến hôm nay.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCH đã phải gồng mình bảo vệ một quốc gia tự do được Liên hợp Quốc công nhận, một chế độ dân chủ do người dân chọn lựa. Họ đã thắng trong từng trận đánh, nhưng đã thua trong toàn cuộc chiến, vì bị đồng minh phản bội và bỏ rơi trong khi đối thủ lại được Nga-Tầu hậu thuẫn quá mạnh.

Tôi thương cho các thương binh của VNCH bị hắt hủi, phải sống lay lắt, cơ cực và nhiều người chết một thân một mình. Thế mà đến cái tên gọi là Thương Phế Binh VNCH, nhiều người cũng không dám gọi và lại càng không dám đưa tay giúp đỡ, nhưng miệng thì vẫn ra rả xưng mình là bạn đồng hành của những người nghèo, những người bị loại trừ, những người bị bỏ rơi, etc.

Tôi thương cho những người cha người mẹ bị mất con, những người vợ mất chồng, những người chồng mất vợ, những người con mất bố, những anh chị em mất nhau, ở cả hai miền Bắc-Nam, cả bên cộng sản lẫn bên cộng hoà. Tôi thương cho bao nhiêu thiếu nữ Miền Bắc phải đi dân công hoả tuyến đến khi chiến tranh kết thúc thì đã quá lứa lỡ thì và phải sống côi cút vất vả và bệnh tật cả đời.  

Tôi thương cho những tín đồ, những tu sĩ của các tôn giáo, đã phải vào tù trước sau và vì cái ngày 30 tháng 4 ấy, trong đó có cha đỡ đầu của tôi, có bác của tôi; thậm chí có cha bị bắt và bị đánh chết trong tù chỉ sau mấy ngày giam giữ như cha xứ của tôi. 

Tôi thương cho hàng triệu công dân VNCH bị đảo lộn cuộc sống, cho hàng chục nghìn gia đình quân dân cán chính VNCH bị tan cửa nát nhà, mất tài sản, mất công ăn việc làm và thậm chí phải vào tù hoặc bị lưu đầy chốn rừng thiêng nước độc.

Tôi thương cho những người vượt biên vượt biển, lao vào cõi chết để tìm cõi sống, bao nhiêu người đã bỏ mình trên rừng dưới biển trên đường đi tìm tự do, bao nhiêu người đã bị cán bộ, công an và cướp biển trấn lột, bỏ tù, hãm hiếp và cướp bóc mà thương tích trong tâm hồn còn hằn sâu đến hôm nay.

Tôi thương cho đất nước mình, man rợ thắng văn minh, độc tài thắng dân chủ, ma quỷ nhảy lên làm thần phật, những kẻ bất tài thất đức thâu tóm quyền lực trong khi những kẻ có tâm có tài thì hoặc bị bỏ tù, hoặc bị quản chế, hoặc bị cô lập, hoặc bị loại trừ, hoặc đã phải bỏ nước ra đi…

Nỗi đau buồn của tôi có thể sẽ giảm thiểu ít nhiều, nếu Việt Nam nay có tự do và quyền con người được tôn trọng, nếu môi sinh không bị tàn phá, nếu người dân không bị đè đầu cưỡi cổ và bị móc túi bằng đủ cách khác nhau, nếu đạo đức luân lý không ngày càng xuống cấp bởi tham nhũng, dối trá và bạo lực, nếu các tôn giáo không bị kiểm soát và thao túng, nếu nhiều chức sắc và nhà tu hành không bị tha hoá trở thành tay chân của bạo quyền, etc.

Đằng này…!

Một chế độ thực tâm yêu nước và thương dân sẽ không tổ chức “mừng chiến thắng”, một chính quyền biết chữa lành vết thương chiến tranh sẽ không tiếp tục ăn mày dĩ vãng để chia rẽ và thống trị dân.

Tôi nghĩ người có nhân bản, có đạo đức, có hiểu biết không ai lợi dụng dịp này để đi du hý. Ai lại đi ăn mừng trên nỗi đau của người khác và trên cái mất mát của chính dân tộc mình?

Đến như chính ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ hàng đầu của cộng sản Việt Nam, một người có vợ con chết trong cuộc chiến mà ông là tác nhân còn biết nói hồi hơn 20 năm trước rằng 30 tháng 4 là ngày “triệu người vui thì cũng có triệu người buồn”.

Tôi đọc kinh và làm lễ cầu nguyện cho các nạn nhân trong cuộc chiến 54-75, những người đã qua đời cũng như những người còn đang sống, Bắc cũng như Nam, quốc gia cũng như cộng sản, chết trước cũng như sau 75, chết trên chiến trường, chết trên rừng dưới biển, cũng như trong các trại tập trung của cộng sản.

Tôi cầu nguyện cho những người vì yêu nước và thương đồng bào, vì dấn thân cho tự do dân chủ, cho quyền con người đang bị lưu đầy ở các nước hoặc đang còn bị giam cầm hiện nay trong các trại tù của chính quyền cộng sản.

Xin Chúa cho người chết được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng các bậc tổ tiên và xin cho người sống được tìm thấy ý nghĩa cuộc đời bất chấp những gian nan, khốn khó.

Tôi cũng cầu nguyện cho mọi người Việt Nam sớm được sống như là một con người được tôn trọng và yêu thương chứ không phải như một con vật bị bạo quyền lạm dụng, được sống như con cái của Đức Chúa Trời chứ không phải như nô lệ cho các thế lực đen tối, được có đủ tự do và điều kiện để xây dựng cuộc sống của mình như Chúa muốn và người mong.

Tôi cầu nguyện cho mỗi người thức tỉnh!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT