Dưới sự cai trị của xã hội đen, Việt Nam mãi nằm dưới đáy đói nghèo chẳng có gì lạ

Dưới sự cai trị của xã hội đen, Việt Nam mãi nằm dưới đáy đói nghèo chẳng có gì lạ

Phương Nguyễn (Danlambao) – Không thể phủ nhận trình độ lý luận khoa học, kiến thức xã hội học, kinh tế học và khả năng triết luận của các ông Marx, Angel hai kẻ lập thuyết cộng sản có sức hấp dẫn, thuyết phục cao. Do đó, học thuyết cộng sản ngay từ lúc ra đời đã có không ít trí thức khoa bảng, kể cả tầng lớp quý tộc tham gia ủng hộ, tiếp tay rao giảng, truyền bá trong quảng đại quần chúng nhân dân khắp thế giới.

Tuy nhiên, thảm họa khủng khiếp của cộng sản gieo rắc xuống nhân loại chỉ xảy đến kể từ khi Lenin biến học thuyết Mác thành chủ nghĩa Mác- Lenin và lợi dụng thành phần công nông ít học, tầng lớp đầu đường xó chợ, đâm cha thuốc chú sử dụng bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang cướp chính quyền, độc quyền lãnh đạo nhà nước, xã hội. Chúng củng cố độc tài, phát triển tội ác, xuất cảng mô hình nhà nước phi nhân, phản động đi ngược lại trào lưu tiến hoá của nhân loại ra toàn thế giới.

Với nguồn gốc xuất thân từ thành phần bất hảo ít học nhưng lưu manh độc ác cực kỳ nên trở thành thảm họa cho nhân loại. Thảm họa cộng sản chỉ dừng lại hay biến mất, khi và chỉ khi nào chế độ độc tài toàn trị, công an trị bị loại trừ khỏi đời sống của xã hội loài người.

Thảm họa này tồn tại trong hiện tại, tiếp diễn đến cả tương lai bởi nguồn gốc xuất thân của các tín đồ cộng sản đa phần là thành phần bất hảo, ngu dốt độc ác phi nhân tính, chúng xây dựng quyền lực chính trị trên nòng súng và nhà tù.

Ngay cả các tên lãnh đạo chính trị tối cao, là tứ trụ triều đình cộng sản Việt Nam hiện tại gồm tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ và chủ tịch quốc hội vẫn không hiểu rõ trách nhiệm, quyền hạn của người lãnh đạo quốc gia, điều hành đất nước. Điều đó làm cho xã hội rối loạn, luật pháp như con nít chơi nhà chòi, mạnh ai nấy làm luật, diễn giải luật tuỳ ý, thi hành luật tuỳ tiện.

Cụ thể là các bộ trưởng của nội các chính phủ cộng sản Việt Nam đều được bộ chính trị chỉ định, cơ cấu qua màn diễn ứng cử, bầu cử do đảng cộng sản tổ chức bằng tiền thuế của người dân và hầu hết các bộ trưởng nội các chính phủ Việt cộng đều không biết vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của họ bao gồm:

– Định hướng chính sách của chính phủ và đưa ra các quyết định lẫn giải pháp mang tính chiến lược về các vấn đề phát triển quốc gia.

– Thảo luận việc thực hiện chính sách quốc gia và đề xuất cách hoàn thiện chính sách phát triển quốc gia.

– Soạn thảo dự luật, trình bày các dự luật đưa ra quốc hội bỏ phiếu thông qua để tháo mở rào cản luật pháp do các bộ của nội các chính phủ chịu trách nhiệm thực hiện chính sách.

Với nội các chính phủ do đảng cộng sản tuyển chọn theo tiêu chuẩn hồng hơn chuyên, qua cái gọi là rèn luyện, cơ cấu. Thực chất là được chỉ định chỉ biết thần thánh hoá lãnh tụ, vâng lời lãnh tụ một cách máy móc và học tập làm theo chủ trương, đường lối, cương lĩnh đảng, là cương lĩnh lạc hậu lỗi thời, phản động từ nguồn gốc lý luận. Thế cho nên bảo sao nhà nước Việt cộng không đi từ sai lầm này đến sai lầm khác… Rối rắm trong vòng luẩn quẩn, sai rồi sửa, sửa rồi lại sai nhấn chìm đất nước, dân tộc xuống đáy đói nghèo, lạc hậu, chậm tiến.

Không chỉ nội các chính phủ của Việt cộng không biết vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của chúng mà tứ trụ triều đình cộng sản cũng không biết trách, nhiệm vụ lãnh đạo quyền lực chính trị tối cao của chúng là phải làm gì?

Lãnh đạo Việt cộng, đứa nào như đứa nấy, chúng lãnh đạo, điều hành quốc gia như băng đảng xã hội đen, phát ngôn nhảm nhí như con nít, nói không biết nói gì?

Điển hình của chuyện lãnh đạo Việt cộng, nói nhưng không biết nói gì, là chủ tịch quốc hội Vương Đình Huệ, một trong tứ trụ triều đình đã nhiều lần phát ngôn linh tinh không biết vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu ngành lập pháp đã được Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định:

“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

…Lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ phận của quyền lực nhà nước. Quyền lập pháp, bao gồm thể chếthiết chế và hoạt động của thiết chế đó, thực hiện nhiệm vụ làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật nhằm thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ của người dân và lợi ích chung của toàn xã hội.”

Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch quốc hội, lãnh đạo tối cao ngành lập pháp, dù không đúng chuẩn của các nước dân chủ văn minh tiên tiến, vẫn được quy định cụ thể rõ ràng như sau:

1-Chủ tọa các phiên họp Quốc hội, bảo đảm thi hành quy chế đại biểu Quốc hội, nội quy kỳ họp Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội.

2-Chỉ đạo công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; dự kiến chương trình làm việc, chỉ đạo việc chuẩn bị, triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; ký pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

3-Triệu tập và chủ tọa hội nghị Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội bàn chương trình hoạt động của Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; tham dự phiên họp của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

4-Giữ mối quan hệ với các Đại biểu Quốc hội.

5-Chỉ đạo việc thực hiện kinh phí hoạt động của Quốc hội.

6-Chỉ đạo và tổ chức việc thực hiện công tác đối ngoại của Quốc hội; thay mặt Quốc hội trong quan hệ đối ngoại của Quốc hội; lãnh đạo hoạt động của Đoàn Quốc hội Việt Nam trong các tổ chức liên nghị viện thế giới và khu vực.

Qua những quy định cụ thể về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch quốc hội do nước cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nêu trên.

Thế chủ tịch quốc hội Vương Đình Huệ có làm theo luật pháp quy định sau khi tên thủ tướng Việt gian Phạm Minh Chính giết dân, phá nát kinh tế Việt Nam qua việc chống dịch cúm Tàu cho Tàu bằng các khẩu hiệu.

Chúng ta cùng nhau tham khảo phát biểu sau đây của Vương Đình Huệ:

“Hiện việc hấp thụ vốn của nền kinh tế gặp trở ngại, tín dụng tăng chậm, có nguy cơ chảy vào những lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản.

Bộ tài chính, ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu giải pháp cải thiện thể chế, luật pháp, ưu đãi… để mở rộng năng lực thị trường vốn, huy động nguồn lực trong dân còn đang nhiều.

Phải tập trung phân tích các yếu tố để đánh giá năng lực hấp thụ vốn nền kinh tế. Tiền đưa vào chỗ nào, kích thích vào đâu để tiền rót vào mà tiêu được, nhất là phân bổ, giải ngân đầu tư công, giải quyết các dự án treo, chậm tiến độ…

Tác động của Covid-19 gây nguy cơ rủi ro kinh tế, đứt đoạn chuỗi cung ứng còn hiện hữu. Bản kế hoạch tái cơ cấu 5 năm tới phải gắn với chương trình phục hồi tổng thể nền kinh tế và tăng tính tự chủ nền kinh tế…

Như vậy, vừa phải trọng cung, vừa phải kích cầu. Tức là coi trọng kích thích các yếu tố phát triển, nhưng cũng phải chú trọng tới kích cầu.

Chương trình phải gắn với nâng cao nội lực, tính tự chủ của nền kinh tế, gắn với khuôn khổ đầu tư công trung hạn, kế hoạch tài chính ngân sách, phát triển kinh tế, xã hội dài hạn.

Chương trình cũng cần có lộ trình phù hợp, đồng thời cần có trọng tâm, trọng điểm, có tính khả thi cao và dẫn vốn được vào khu vực thực sự cấp bách, có khả năng hấp thụ vốn.

Chương trình quản lý rủi ro đảm bảo cho việc huy động, phân bổ các nguồn lực công khai, đúng mục đích, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, chống lợi ích nhóm…”

Phát ngôn của Vương Đình Huệ vừa dẫn và nhiều phát ngôn kể từ khi được đảng cử làm chủ tịch quốc hội, Huệ luôn cầm nhầm vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn. Nói cách khác là Huệ hiểu sai chức năng của người đứng đầu ngành lập pháp.

Như phát ngôn được trích dẫn ở trên, Vương Đình Huệ nói như người lãnh đạo ngành hành pháp, đứng đầu nội các chính phủ ban hành sắc lệnh hành pháp cho các bộ hoạch định chính sách phục hồi kinh tế hậu cúm Tàu.

Thật ra không chỉ có Vương Đình Huệ không biết vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn chính trị của mình mà hầu hết lãnh đạo cộng sản Việt Nam đều không hề biết điều gì được làm và điều gì không được làm trong nhiệm vụ chính trị của chúng được đảng cộng sản giao.

Với Việt cộng, nhiệm vụ chính trị là nòng súng, nhà tù và với công cụ đàn áp đó, chúng quản trị, điều hành đất nước tồi tệ hơn băng đảng giang hồ xã hội đen sống ngoài vòng pháp luật.

Một đất nước nằm dưới sự cai trị của băng đảng xã hội đen thì mãi nằm dưới đáy đói nghèo, lạc hậu, chậm tiến so với thế giới chẳng có gì lạ!

Tham khảo:

https://quochoi.vn/ct-vuong-dinh-hue/Pages/qua-trinh-cong-tac.aspx?ItemID=60798

https://quochoi.vn/ct-vuong-dinh-hue/Pages/qua-trinh-cong-tac.aspx?ItemID=60640

https://moh.gov.vn/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo/-/asset_publisher/TW6LTp1ZtwaN/content/tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-khong-khoan-nhuong-voi-cai-xau-cai-ac-phi-van-hoa-phan-van-hoa-

 Phương Nguyễn

danlambaovn.blogspot.com

Tại sao Đảng sợ Phạm Đoan Trang

Tại sao Đảng sợ Phạm Đoan Trang

01:06 | Posted by BVN1

16/12/2021

Ngô Nhân Dụng

Nhà báo Phạm Đoan Trang tại phiên xử tại tòa Hà Nội ngày 14 tháng 12, 2021.

Cô Phạm Đoan Trang, 43 tuổi, đã bị tuyên án 9 năm tù vì tội “Tuyên truyền chống Nhà nước” theo luật Hình sự của đảng Cộng sản. Luật sư Đặng Đình Mạnh kể, có lúc tòa tạm ngưng, cô Đoan Trang quay lại nhìn về phía người mẹ đang ngồi phía sau khoảng 5 mét. Bà Bùi Thị Thiện Căn, hơn 80 tuổi, đã nắm tay, đưa một ngón cái lên: “Con là Số Một!”

Có 5 luật sư bào chữa cho Phạm Đoan Trang, các ông Đặng Đình Mạnh, Nguyễn Văn Miếng, Lê Văn Luân, Ngô Anh Tuấn và bà Phạm Lệ Quyên. Luật sư Mạnh nhận xét, “Có lẽ, chỉ có dòng máu anh thư chảy trong huyết quản người mẹ Việt mới có thể luân chuyển, hun đúc nên tinh thần kiên cường của một Đoan Trang mà chúng tôi phải ngả mũ từ rất xa.”

Phạm Đoan Trang đã sáng lập tạp chí “Luật Khoa” giúp người Việt Nam hiểu luật pháp để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Cô làm báo từ năm 2000 cho đến 2013, cộng tác với gần mười cơ quan báo chí trong nước, như VnExpress, Vietnamnet, báo Pháp Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, đài truyền hình VTC, vân vân.

Năm 2014, cô qua Mỹ nhận học bổng nghiên cứu của tổ chức Villa Aurora & Thomas Mann House và thư viện Feuchtwanger tại đại học nam California (University of Southern California- USC). Năm 2015 Phạm Đoan Trang tham gia cuộc biểu tình ôn hoà “bảo vệ cây xanh” và bị công an đánh gãy cả hai chân. Cô đã xuất bản những cuốn Phản kháng phi bạo lực, Cẩm nang nuôi tù, Chính trị bình dân, tất cả hơn 10 tác phẩm tranh đấu. Cô bị bắt giam thêm nhiều lần nữa.

Tại sao sau khi công tố viên đề nghị bản án từ 7 đến 8 năm tù, quan tòa lại tăng lên thành 9 năm?

Vì Đảng Cộng sản đang sợ. Đó là nhận xét của một tờ báo ở Berlin, nước Đức, ngay lập tức khi loan tin bản án.

Ông Dương Hồng Ân ở Đức giới thiệu nhật báo TAZ tường thuật phiên tòa, dưới tiêu đề “Tự Do Báo Chí ở Việt Nam (Pressefreiheit in Vietnam). Báo này viết tựa: “Chín năm tù cho nhà báo nữ” (Neun Jahre Haft für Journalistin). TAZ giải thích, “Chế độ độc tài đưa ra bản án quá nặng, chắc vì họ sợ…” Nhờ bản tin này, độc giả được biết “Việt Nam đứng hàng thứ 175 trong số 180 quốc gia, trong bảng xếp hạng “tự do báo chí” của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới.“

Tại sao Đảng sợ Phạm Đoan Trang? TAZ viết rằng họ “sợ dân chúng các làng” sẽ tiếp tục tranh đấu mạnh hơn. Một tháng trước khi bị bắt vào năm ngoái, cô Trang cùng với Will Nguyễn (ở Mỹ) đã công bố hồ sơ về làng Đồng Tâm, ngoại ô Hà Nội, dân làng phản đối chế độ cộng sản tịch thu đất đai rồi bị đàn áp tàn nhẫn. TAZ ghi nhận “Hai người dân xã Đồng Tâm đã bị án tử hình, những người khác đã bị kết án tù nhiều năm.”

Báo TAZ cũng loan những tin mà dân Việt Nam trong nước không hề biết, vì không báo, đài nào nói đến: Ngày Thứ Hai trước phiên tòa, tổ chức quốc tế Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) đã yêu cầu Cộng sản Việt Nam trả tự do cho Phạm Đoan Trang ngay lập tức. HRW kết tội cộng sản đã vi phạm Công Ước Quốc tế về Quyền Tự do mà họ đã ký kết năm 1982. Báo TAZ còn nhắc lại, vào năm 2017 tổ chức nhân quyền “People in Need” ở Cộng Hòa Tiệp (Czech) đã tặng cô Đoan Trang giải Người Với Người (Homo-Homini Preis), và năm 2019 tổ chức Phóng viên Không Biên Giới đã trao tặng cô giải “Tự Do Báo chí.” Trung tâm PEN ở Đức tuyên dương Phạm Đoan Trang là thành viên danh dự; yêu cầu nhà nước CSVN phải trả tự do cho cô.

Giáo sư Nguyễn Quang A (1) cho thấy một lý do khác khiến Đảng sợ Phạm Đoan Trang: Vì chính cái tội danh “chống nhà nước” họ cáo buộc cho cô đã là phi lý. Ông viết, … khi chính quyền ấy làm bậy“… xét về mặt nguyên tắc chẳng ai có thể chống lại một nhà nước cả …, nhưng ai cũng có quyền chống một chính quyền …”

Nhà báo Tuấn Khanh cũng nhìn thấy Đảng đuối lý. Vì đuối lý nên “văng tục.” Đảng sợ Phạm Đoan Trang vì cô “chủ trương đấu tranh bằng lý lẽ, chữ nghĩa.” Còn Đảng thì không nghĩ ra lý lẽ! Bí quá, Đảng phải dùng những hành động thô bạo, ngôn ngữ, hạ cấp. Tuấn Khanh kể lại năm 2017, sau khi Đoan Trang xuất bản cuốn Chính trị Bình Dân ở nước ngoài rồi bị bắt, cô được dẫn vào phòng giam. Sau khi cô hỏi đi hỏi lại tại sao lại bỏ tù cô, không ai trả lời được một câu. Thay vì nói “tôi chỉ làm theo lệnh trên,” một anh công an trẻ chỉ tay vào mặt cô, quát lên, “Địt mẹ con mặt l…!” Đó là thứ lý lẽ, chữ nghĩa quen thuộc của Đảng.

Bản án 9 năm tù chính là thứ ngôn ngữ “Đ.M.” của những kẻ vô học khi bị đuối lý. Nguyễn Quang A thấy bản án 9 năm giống như vậy: “… chỉ những kẻ yếu mới dùng đến những biện pháp đàn áp thô bạo như thế…” Nhưng ông cũng thấy hậu quả là “chỉ khiến nhiều người quyết tâm hơn!” Hơn nữa, “nhiều người nhìn thấy hành động phi pháp của chính quyền, và như thế thực sự hại cho chính quyền.”

Một ngày sau bản án cho cô ĐoanTrang, nhà phản kháng Trịnh Bá Phương và bà Nguyễn Thị Tâm đã bị kết án tù 10 năm và 6 năm. Bà Tâm góp mặt, như một phụ nữ đòi dân chủ tự do, cùng với Lê Thị Công Nhân, Tạ Phong Tần, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, vân vân. Có lẽ Đảng Cộng Sản sợ các phụ nữ đấu tranh nhiều hơn nam giới. Vì khi họ lên tiếng nói ảnh hưởng sẽ mạnh hơn. Những nhà lãnh đạo đầu tiên đòi độc lập cho dân tộc Việt Nam là các Bà Trưng và Bà Triệu. Quân Hán, quân Ngô đã đánh bại các bà. Nhưng Lịch sử mãi mãi ghi danh các vị nữ anh hào.

Lời nói sau chót của Phạm ĐoanTrang nói đến một phiên tòa của lịch sử: “Các anh, các chị có thể bỏ tù tôi và hả hê đắc thắng vì đã xóa bỏ được một cái gai trong mắt các anh chị nhiều năm nay; nhưng mãi mãi các anh chị không xóa bỏ được tiếng xấu, độc tài, phi dân chủ, phản dân chủ. Vì con thú mãi mãi là con thú, nó không bao giờ có thể trở thành người được.”

Sau khi đọc tin bản án 9 năm, Phạm Thị Hoài đã nhìn lại lịch sử nước Đức, nơi cô đang sống, nhắc lại một lời tuyên án: “Không có gì ô danh một dân tộc văn hiến hơn là khoanh tay chấp nhận sự cai trị của một tập đoàn lãnh đạo vô trách nhiệm và chỉ tuân theo những bản năng tăm tối. Nếu dân tộc này đã mất hết mọi phẩm giá cá nhân và chỉ còn là một đám đông vô hồn và hèn nhát, vâng, nếu vậy thì dân tộc ấy xứng đáng diệt vong.” Đó là lời của cô sinh viên Sophie Scholl, 21 tuổi, kêu gọi người Đức chống Đức Quốc xã. Cô bị bắt và bị giết. Nhưng lời buộc tội của cô đã được lịch sử ghi nhớ.

Phạm Đoan Trang cũng tuyên án. Sau cùng, Lịch sử sẽ phê phán. Đảng Cộng sản sẽ không thoát tội trước phiên tòa của Lịch sử.

N.N.D.

Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/dang-so-pham-doan-trang/6357245.html

(1) Ông Nguyễn Quang A hiện có học vị Tiến sĩ – BVN.

Trại ‘cải tạo’ của CSVN sau năm 1975

Trại ‘cải tạo’ của CSVN sau năm 1975

Nguyễn Cao Quyền

January 8, 2019

LTS: Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khóa 51-53 trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa Án Quân Sự, đại tá chánh thẩm Tòa Án Đặc Biệt (1966-1968), cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975). Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù “cải tạo” (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ, từ năm 1990. Ông từng là chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, cựu phó chủ tịch ngoại vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, cựu chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông còn viết nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng rãi.

Những đoạn viết sau đây sẽ trình bày một số sự kiện chính trị đưa dẫn đến việc những quân nhân VNCH bị Hà Nội tập trung “cải tạo,” mô tả chính sách cải tạo của CSVN sau năm 1975 và sau cùng đề cập đến thiện chí của Hoa Kỳ trong việc giải thoát tù “cải tạo” và cho họ cùng gia đình sang sinh sống tại Hoa Kỳ và tại những nước dân chủ trên thế giới.

I-Giai đoạn lịch sử chung của Hoa Kỳ và Việt Nam

Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam kể từ thập niên 1940 nhưng sự can thiệp này chỉ trở thành tích cực bắt đầu từ thập nhiên 1950. Sau khi Thế Chiến 2 chấm dứt và cục diện chính trị thế giới đã hình thành rõ rệt với hai khối Tự Do và Cộng Sản kình chống nhau trong một mô thức được gọi là Chiến Tranh Lạnh thì tại Hoa Kỳ, Tổng Thống D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Đông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là cuộc chiến giữa Cộng Sản và Thế Giới Tự Do. Từ đó Hoa Kỳ viện trơ cho Đông Dương càng ngày càng nhiều để đánh trả lại Việt Minh hầu ngăn chặn sự bành trướng của phe Cộng Sản do Liên Xô và Trung Cộng lãnh đạo.

Sau Hiệp Định Genève 1954 (chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam, Bắc), Hoa Kỳ biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng. Tình nghĩa đồng minh mặc dù thắm thiết nhưng tới lúc cần tự mình đảm nhiệm cuộc chiến, Hoa Kỳ đã không do dự loại bỏ Tổng Thống Ngô Đình Diệm để được rảnh tay mang quân vào Việt Nam và Mỹ hóa chiến tranh. Ngày 8 Tháng Ba, 1965, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng mà không hề thỏa hiệp trước với chính phủ Sài Gòn. Số quân Mỹ tham chiến ở Việt Nam lớn dần theo thời gian và có lúc đã lên tới nửa triệu người.

Đến khi Hoa Kỳ cần oanh tạc Bắc Việt thì họ lại tạo ra sự kiện tàu Maddox. Tuy nhiên với những trận mưa bom trên đất Bắc và những chiến dịch lùng diệt rất quy mô tại miền Nam, Hoa Kỳ vẫn không đạt được mục tiêu và bị sa lầy. Số binh sĩ Mỹ tử trận tại miền Nam càng ngày càng gia tăng và số phi cơ bị bắn hạ tại miền Bắc cũng lên cao (1,621 chiếc từ năm 1961 đến 1966).

Cuối năm 1967 nước Mỹ chìm trong xáo trộn và phân hóa vì chiến tranh Việt Nam. Tổng Thống Johnson quyết định “Việt Nam Hóa” cuộc chiến. Được tăng cường, quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) lần lượt thay thế quân lực Hoa Kỳ trong những trách vụ hành quân quan trọng.

Chiến tích lẫy lừng nhất của quân lực anh hùng này là chiến thắng Tết Mậu Thân (1968). Chiến thắng này bẻ gãy kế hoạch tổng tấn công/tổng nổi dậy của Tướng Cộng Sản Võ Nguyên Giáp và phá tan huyền thoại “bách chiến bách thắng” của quân đội Cộng Sản Bắc Việt. Gần 60,000 quân Cộng Sản tung vào trận địa đã bị tiêu diệt hết phần nửa chỉ trong một tháng giao tranh. Phần còn lại bị thanh toán gần hết khi cuộc chiến chấm dứt. Trong cuộc chiến khốc liệt ấy, người ta ghi nhận bên phía VNCH chỉ có 4,954 chiến sĩ hy sinh.

Sau chiến thắng Tết Mậu Thân, Quân Lực VNCH tự đảm nhiệm trọng trách tác chiến để quân Mỹ có thể rút về nước. Cuộc hành quân thần tốc vào Cambodia để truy lùng Việt Cộng và tiếp cứu Lon Nol, chiến dịch Lam Sơn 719 cắt đứt đường tiếp liệu của Cộng Sản, cuộc tử thủ An Lộc được ví như trận Verdun của Pháp, cuộc tái chiếm cổ thành Quảng Trị tranh nhau với binh sĩ Cộng Sản từng thước đất, đã chúng minh một cách hùng hồn khả năng tác chiến và tinh thần dũng cảm của quân lực anh hùng ấy.

Song song với những chiến tích lẫy lừng của quân đội, công cuộc “Bình Định và Phát Triển Nông Thôn” cũng ở trên đà thành công tốt đẹp. Vào những năm đầu của thập kỷ 1970, theo cuộc thăm dò của Hamlet Evaluation Survey (HES) do các cố vấn Hoa Kỳ thực hiện khắp miền Nam Việt Nam thì trong 1,333 xã ấp cuối cùng do chiến dịch Accelerated Pacification Campaign (APC) đảm trách, 1,035 xã ấp đã có an ninh và 80% dân số miền Nam đã được sống trong vùng chính phủ kiểm soát.

Chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh đang đi vào giai đoạn thành công thì trên thế giới xảy ra một biến cố làm cho chương trình này đứt đoạn và cuộc chiến thắng của VNCH bị bỏ lỡ. Năm 1969, trên sông USSURI, dọc theo biên giới Đông Bắc Trung Hoa, Liên Xô và Trung Cộng đã động binh giáp chiến. Sự kiện này chứng minh cho Hoa Kỳ thấy rằng sự nứt rạn, từ năm 1953, giữa hai đảng Cộng Sản anh em là có thật và Hoa Kỳ đã không bỏ lỡ cơ hội tìm cách ly gián để làm suy nhược hàng ngũ đối phương.

Chiến lược toàn cầu của Mỹ thay đổi từ giờ phút đó. Những cuộc vận động ngoại giao và chính trị dồn dập xảy ra nhằm hỗ trợ mục tiêu chiến lược vừa nói:

-Ngày 9 Tháng Bảy, 1971, Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến.

-Ngày 25 Tháng Mười, 1971, tại Đại Hội Đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan để bắt tay với Trung Cộng.

-Ngày 21 Tháng Hai, 1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăm viếng Trung Quốc trong bảy ngày.

-Ngày 28 Tháng Hai, 1972, Thông Cáo Chung Thượng Hải ra đời. Tổng Thống Nixon tuyên bố đây là “một tuần lễ” sẽ làm thay đổi thế giới.

Sự thay đổi thế giới khởi sự bằng tiến trình rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam. Bill Sullivan, phụ tá của Henri Kissinger tại hòa đàm Paris tuyên bố rằng: “…người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta. Làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta quan trong hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”

Điều không may cho miền Nam Việt Nam là đúng vào lúc chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh đang thành công tốt đẹp thì, trên bàn cờ chính trị thế giới, Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu, còn trong nước thì làn sóng chống chiến tranh dâng lên như nuớc thủy triều. Cả một thế hệ xuống đường vào năm 1968, gồm toàn những thành phần trẻ mới vào đời, chịu ảnh hưởng tiểu thuyết hiện sinh của Hemingway và Fitzerald. Họ sợ hãi. Một loại sợ hãi đặc biệt chỉ tìm thấy trong các xã hội giàu có. Đó là thứ sợ hãi trách nhiệm vì ham hưởng thụ và không chịu ràng buộc vào bất cứ vấn đề gì. Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu một phần vì muốn lợi dụng sự phân hóa trong khối Cộng Sản quốc tế nhưng phần khác cũng tại áp lực của phong trào phản chiến trong nội địa.

Về phía miền Nam Việt Nam thì mặc dầu chiến đấu oanh liệt và thắng lợi như vậy, rốt cuộc quân lực VNCH đã phải tủi hờn rã ngũ để nhìn Việt Cộng chiếm trọn quê hương. Họ đã là thành phần phải trả giá đắt nhất cho một sự phản bội. Họ không thua vì hèn kém mà thua vì lộ đồ bại trận đã được đồng minh Hoa Kỳ vạch sẵn từ lâu.

Vào giờ phút hấp hối của VNCH, khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, năm vị tướng tài ba và đảm lược nhất của quân đội đã tuẫn tiết theo truyền thống hào hùng của ông cha. Đó là các tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn 4; Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn 4; Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5; Trần Văn Hai, tư lệnh Sư Đoàn 7; và Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2. Trong hàng sĩ binh sĩ cấp dưới cũng không ít những tấm gương hiên ngang và khí phách tương tự. Điểm son này cần ghi lại cho các thế hệ mai sau vì là một trong những nét kiêu hùng của nòi giống.

II-Tiến trình “cải tạo”

1-Thủ đoạn lừa dối tham độc của CSVN

Khi đồng minh Hoa Kỳ tháo chạy trước đà tiến quân của Cộng Sản Bắc Việt, họ đã để lại đằng sau 980,000 người lính của Quân Lực VNCH, những quân nhân đã từng sát cánh với binh sĩ Hoa Kỳ bảo vệ biên cương của thế giới tự do.

Vào giờ VNCH hấp hối thảm cảnh “sống chết mặc bay”diễn ra vô cùng chua sót. Người ta dẫm lên nhau chạy trốn Cộng Sản không kể gì đến sinh mạng và tài sản vì Hoa Kỳ không có một chương trình di tản nào tương xứng với tình nghĩa đồng minh. Khởi thủy Mỹ chỉ muốn di tản 50,000 người. Vào phút chót số nhân mạng được may mắn cứu vớt mới nhích lên được con số 130,000. Họ muốn mọi chuyện diễn ra nhanh chóng cho xong việc. Người ta đoán được tâm trạng này qua lời nguyền rủa rất tàn nhẫn của Henri Kissinger: “Sao chúng không chết phứt cho rồi” (Why don’t these people die fast?). Như vậy, chỉ cần làm một con tính nhỏ người ta có thể thấy ngay là hơn 800,000 binh sĩ của Quân Lực VNCH đã là nạn nhân của chế độ cải tạo của Cộng Sản Việt Nam.

Chỉ vài ngày sau khi chiếm trọn miền Nam, những người Cộng Sản đã lùa quân nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc gia vào tù bằng một thủ đoạn vô cùng hèn hạ. Trong một buổi ra mắt mừng chiến thắng, Tướng Cộng Sản Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) với dụng ý hiểm độc đã tuyên bố trước báo chí một câu mà những người bị “cải tạo” không thể nào quên “Đối với người Việt Nam không có ai là kẻ chiến thắng hay chiến bại. Chỉ có đế quốc Mỹ là bị đánh bại mà thôi.” Vì lời tuyên bố đường mật này mà các quân nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc gia đã tự nguyện đi học tập “cải tạo” với số lương thực tự túc là 10 ngày hay một tháng tùy theo cấp bậc, chức vụ.

Thế rồi một tháng trôi qua, không ai được tha. Khi giải thích sự việc này, bọn cai tù Cộng Sản, dương dương tự đắc nói rằng: “Đó là nghệ thuật của cách mạng bắt các anh vào tù chứ làm gì có chuyện trả tự do, sau một tháng giam giữ, cho các con người có nợ máu với nhân dân như các anh. Các anh còn phải cải tạo dài dài.” Biết mình bị lừa nhiều người đã tự tử. Một số người khác tìm cách trốn trại để rồi cũng bị bắt lại và đánh chết thảm thương như những con vật.

Sau một năm áp dụng lao động khổ sai cho chế độ “cải tạo,” Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam, trước khi bị Hà Nội giải tán, công bố chính sách 12 điểm quy định thời gian “cải tạo” là ba năm. Sự công bố này lại mang hy vọng cho những người đã mất hết tin tưởng vào viễn ảnh của một ngày về đoàn tụ với gia đình.

Đến cuối năm 1978 thì cái hy vọng mong manh nói trên lại tan tành ra mây khói. Thời gian “cải tạo” ba năm như lời Cộng Sản hứa đã chấm dứt, song chẳng thấy ai được tha về. Trái lại, trong thời gian này, đa số đã bị lưu đày lên những vùng rừng núi Bắc Việt ma thiêng nước độc với thân tàn ma dại và tinh thần sa sút đến cùng cực. Một làn sóng tự tử thứ hai lại xảy ra, nhưng lần này bên cạnh những xác chết vì thất vọng còn có thêm nhiều xác chết khác vì đói khát và bệnh tật.

Vợ con của những người bị bắt đi “cải tạo” cũng trở thành nạn nhân của các biện pháp kỳ thị và ngược đãi. Họ bị đuổi khỏi nơi cư trú và phải đi vùng kinh tế mới giữa những rừng núi hoang vu không có một chút tiện nghi tối thiểu cần thiết cho đời sống. Con cái họ bị kỳ thị gắt gao khi thi cử và không được phép vào đại học. Nhà cửa của họ bị cán bộ Cộng Sản chia nhau chiếm đoạt, tiền bạc của họ ở ngân hàng cũng không được phép lấy ra.

Trong cơn túng quẫn những phụ nữ trẻ đẹp đã bị dồn vào thế làm lẻ mọn cho cán bộ Cộng Sản để có phương tiện nuôi thân và nuôi con còn nhỏ dại. Những người khác, rủ nhau chạy ùa ra biển, đem sinh mạng của chính mình và của con cái mình để đổi lấy tự do. Phong trào “thuyền nhân tị nạn Cộng Sản” đã đánh động lương tâm nhân loại vì trong số hàng triệu người liều chết ra đi, gần một nửa đã nằm trong bụng cá hoặc làm mồi cho hải tặc.

2-Những chặng đường “cải tạo” (kinh nghiệm bản thân)

-Những ngày đầu giam lỏng: Sau khi trình diện để được “học tập cải tạo,” chúng tôi được chở bằng xe buýt đến Long Thành. Nằm trên đường Sài Gòn-Vũng Tàu, không cách xa thị xã Biên Hòa là bao nhiêu, trại giam Long Thành là một cô nhi viện cũ bị Cộng Sản trưng dụng làm nhà tù.

Trong những ngày đầu, chúng tôi tương đối được tự do, ăn uống không thiếu thốn vì ngoài lương thực mang theo một tháng chúng tôi còn có thể mua thực phẩm tại căng tin của trại. Chúng tôi cũng chưa phải lao động mà chỉ phải học tập 10 bài chính trị và viết tự kiểm. Các bài học chính trị là những tài liệu đơn giản “kể tội Mỹ-Ngụy,” tuyên truyền lý thuyết Cộng Sản và phổ biến chính sách khoan hồng nhân đạo của chính phủ cách mạng. Những buổi học tập này nhằm gieo vào đầu óc chung tôi mặc cảm tội lỗi để chúng tôi nhận tội và an tâm cải tạo lâu dài. Thỉnh thoảng cũng có cán bộ cao cấp từ trung ương về thuyết trình những đề tài chính trị và quân sự có tính cách vừa khoe khoang vừa đe dọa.

Cái mà những người Cộng Sản muốn đạt được không phải là vấn đề “cải tạo” chúng tôi thành những người ủng hộ chế độ mà chủ yếu là khai thác chúng tôi qua những bản tự kiểm để biết thêm tin tức về các mặt tình báo và tài nguyên của miền Nam. Trong thời gian làm tự kiểm cán bộ Cộng Sản đối xử với chúng tôi rất hòa nhã và tử tế. Họ khuyến khích khai thành thật với bằng chứng cụ thể và tố cáo thật nhiều để đái công chuộc tội với cách mạng. Phải nhìn nhận rằng về mặt khai thác này những người công an Cộng Sản rất lành nghề và làm việc có hiệu quả cao.

Sau một tháng “cải tạo” không ai được tha. Đợt tha đầu tiên, gồm một số ít người có gia đình biết chạy chọt tiền bạc, chỉ xảy ra vào đầu năm 1976 trước khi chúng tôi bị lưu đày ra Bắc. Chiến dịch lưu đày này được Cộng Sản chuẩn bị chu đáo vì họ có thời gian một năm để sắp xếp và thực hiện. Các trại tù miền Bắc được xây cất thêm hoặc dồn lại để có chỗ tiếp nhận chúng tôi. Phương tiện chuyên chở thì gồm vừa hàng không vừa hàng hải. Chuyến máy bay duy nhất chở tù chính trị ra Bắc nhằm mục đích quảng cáo cho chế độ và đánh lừa dư luận để người ta không để ý tới những chuyến hải hành khủng khiếp tiếp theo.

Sau khi những quân nhân và công chức cao cấp của VNCH được chở bằng máy bay đi rồi chúng tôi được di chuyển từ Long Thành lên trại giam Thủ Đức. Cảnh tù đày đầu tiên đến với chúng tôi tại trại giam này. Chúng tôi bị lùa vào những phòng giam chật chội thiếu vệ sinh, có cửa sắt khóa chặt dưới con mắt kiểm soát cú vọ của những người công an Cộng Sản với nét mặt căm thù và hống hách. Hai tháng không học tập, không lao động, chỉ ngồi ăn, làm cho số lương thực dự trữ của chúng tôi dần dần khô cạn. Viễn tượng đói khát bắt đầu xâm chiếm tâm hồn nhưng mỗi người trong chúng tôi cứ phải thúc thủ với ý nghĩ riêng của mình mà không dám chia sẻ với ai vì sợ bị gán cho tội nói xấu chế độ. Chúng tôi ý thức rằng cuộc đời phiêu lưu gian khổ sẽ bắt đầu từ đây.

-Chuyến hải hành khủng khiếp: Thế rồi việc gì phải đến đã đến. Tại trại giam Thủ Đức, một đêm, chúng tôi bị đánh thức dậy, nhận lệnh sắp xếp quần áo để chuyển trại, bị còng tay và chở bằng xe hơi lên bến Tân Cảng Sài Gòn. Tại đây một chiếc tàu thủy to lớn đã chờ sẵn. Chúng tôi bị lùa vào những hầm tâu dành cho súc vật, nằm chờ tàu nhổ neo để bắt đầu chuyến hành trình ra Bắc. Bóng tối của hầm tàu che dấu những giọt nước mắt tuôn ra vì lo sợ, đau buồn và tủi nhục.

Trong suốt ba bốn ngày đêm lênh đênh trên mặt biển chúng tôi phải thu hết can đảm và nghị lực để chịu đựng sự tanh tưởi và hôi hám của hầm tàu. Ban đêm hầm tối đen như mực. Ánh sáng chỉ lọt qua những kẽ hở khi mặt trời ló rạng. Khi tàu chuyển máy ra khơi, phần đông anh em tù nhân bị say sóng và nằm mê man bất tỉnh. Cao điểm của cảnh khổ cực này xảy ra chỉ một ngày sau khi chuyến hải hành khởi sự. Vì say sóng, nôn mửa và bài tiết nhiều nên lượng bài tiết lớn hơn những thùng chứa đựng khiến phân và nước tiểu cứ tự do đào thoát ra ngoài và len lỏi vào chỗ nằm của các tù nhân mỗi khi tàu chao đảo.

Khi tàu cập bến Hải Phòng, mở nắp hầm ra, những người cai tù xa xẩm mặt mày vì mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Họ tức tốc đóng cửa hầm lại, đi lấy khẩu trang đeo vào mũi miệng rồi mới tiếp tục công việc chuyển tù lên đất. Riêng đối với tù nhân thì khi bước ra khỏi hầm tầu ai cũng có cảm giác như vừa từ địa ngục được bước lên thiên đàng, một cảm giác chết đi sống lại.

Thoát được cảnh hầm tàu hôi hám chúng tôi liền bị còng tay và nhồi nhét vào những chiếc xe hơi bịt bùng không cho nhìn thấy cảnh vật bên ngoài. Xe chạy rất lâu trong đêm tối. Mãi gần sáng chúng tôi mới được lệnh ra khỏi xe và nhập trại. Những người công an canh gác cho chúng tôi tắm rửa ngay ở miệng một giếng nước, giặt giũ qua loa rồi hối thúc chúng tôi vào những phòng giam kiên cố của nhà tù. Sau khi cửa sắt đóng lại và khóa chặt, họ nói vọng vào từ bên ngoài: “Các anh đến đây an toàn rồi, bây giờ chỉ còn việc an tâm cải tạo để chờ ngày được chính phủ khoan hồng.” Nói xong họ bỏ đi chỉ còn lại hai người công an trẻ cầm súng gác.

Hỏi thăm hai người công an trẻ chúng tôi được biết trai này là trại Quảng Ninh, nằm trên rừng núi cao và nhìn ra vịnh Bắc Việt. Trại này hoàn toàn cách ly khỏi xã hội bên ngoài vì đường giao thông rất khó khăn. Xã hội thu hẹp của chúng tôi bây giờ chỉ gồm có ba thành phần: nhóm tù “cải tạo” chúng tôi mới đến, những người tù hình sự bị giam giữ từ lâu và những người cai tù có nhiệm vụ canh giữ.

Ngày đầu tiên đến trại Quảng Ninh, chúng tôi có cảm tưởng hình như thời gian trôi nhanh hơn thường lệ. Mới sáng đấy mà đã tối ngay. Khí lạnh của độ cao rừng núi thấm vào phòng giam và vào cơ thể con người. Khi màn đêm đổ xuống, trong phòng chì còn lại một ngọn đèn dầu leo lắt và những tiếng thở dài não nuột trong im lặng buồn tanh và ghê rợn.

-Tiến trình diệt chủng bắt đầu: Sáng hôm sau chúng tôi bị phân chia thành đội để bắt đầu làm quen với lao động. Mỗi đội, 30 người, do một đội trưởng là tù nhân và một quản giáo là cán bộ công an phụ trách. Khi đội đi lao động, công an vác súng đi kèm.

Trong những ngày đầu chúng tôi chỉ phải lao động nhẹ chẳng hạn như trồng rau hoặc cuốc sắn gần khu trại giam. Dần dần chúng tôi phải đi xa và phải lao động nặng nhọc hơn, chẳng hạn như vào rừng lấy gỗ làm nhà. Sau nhiều ngày làm quen với khung cảnh sinh hoạt trong trại chúng tôi thấy rằng mỗi trại tù Cộng Sản là một đơn vị kinh tế độc lập. Tù nhân phải lao động để nuôi cán bộ canh giữ mình, để xây trại giam hãm mình và để cung cấp tiện nghi cho khu gia đình là khu vợ con cán bộ ở. Nhà nước không cần chi phí gì nhiều cho trại tù nên nếu nói rằng dưới các chế độ Cộng Sản nhà tù nhiều hơn trường học thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

Bị lưu đày ra Bắc chúng tôi mất hết liên lạc với gia đình, cho nên mọi nguồn tiếp tế lương thực đều bị cắt đứt. Lao động cả ngày mệt nhọc, chúng tôi chỉ được trại cho ăn hai bữa, với mỗi bữa hai chén cơm đầy sạn thóc và một ít rau muống luộc. Ngoài hai bữa cơm ra chúng tôi không có thứ gì khác để nuôi sống cơ thể. Mỗi ngày anh em tù nhân nhìn nhau chỉ còn biết thở dài. Ai cũng gầy ốm đi trông thấy.

Ở trại Quảng Ninh chừng hơn một tháng, tôi và một số tù nhân khác bị chuyển đi trại Thanh Cẩm. Trại này nằm trong vùng Bái Thượng, trên thượng nguồn sông Mã, sau những dãy núi Lam xanh biếc. Từ trại sang biên giới Lào ước lượng chỉ vài cây số. Đến đây chúng tôi bị giam chung với khoảng 700 anh em tù chính trị khác và trong trại cũng có cả một số tù hình sự. Tôi bị giam ở trại này liên tục cho đến ngày được tha về.

Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ được ăn có bốn chén cơm với vài cọng rau muống luộc thì sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa xẻ liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa kể những vụ gánh phân đi bón nặng gãy xương sườn và chốc lở xương vai.

Sức người có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày một tăng thêm. Bên cạnh những cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết vì đói, vì thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đày ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, vì chết đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đã trở thành quen thuộc, không gây sợ hãi và cũng không gây xúc động. Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát.

Chính sách bắt lao động khổ sai kết hợp với bỏ đói là phương cách giết người tinh vi và thâm độc của những người Cộng Sản. Đó là sự nhẫn tâm và tàn ác nhất mà con người có thể đối xử với con người.

-Một vài cảnh đói ngoài tưởng tương: Xin kể ra đây vài cảnh đói mà người bình thường sống ngoài xã hội, cho dù óc tưởng tượng có súc tích đến đâu, cũng không thể nào nghĩ tới.

Một hôm nhân lúc đội tù đang lợp nhà, thình lình anh em tù nhân phát giác một ổ rắn dưới tấm lá tranh. Tức thì một anh hô to “Rắn, Rắn.” Tiếng hô vừa rứt, đám tù nhân nhanh như cắt đã vây quanh ổ rắn và chỉ trong nháy mắt, bằng tay không, các anh đã bắt hết những con rắn độc, bẻ cổ vứt đi và nhét phần còn lại vào túi áo. Trong giờ giải lao, được phép của cán bộ canh giữ, các anh đã nổi lửa rồi đem rắn ra nướng và ăn ngon như chưa bao giờ ngon thế. Không phải chỉ có rắn mà cả rết, cả chuột, cả cóc nhái, sên ốc… nghĩa là tất cả những con gì cử động mà để cho các anh trông thấy thì đều chịu chung một số phận.

Một hôm khác, nhân ngày Chủ Nhật, không phải lao động, các tù nhân ôm bụng đói đang thiu thiu ngủ thì một anh nghe tiếng chuột con kêu trên mái nhà. Không bỏ lỡ cơ hội, anh liền chồm dậy, gọi thêm hai người khác rồi cả ba, khiêng bàn, công kênh nhau lên bắt chuột. Họ bắt được một ổ chuột con hãy còn đỏ hỏn, chia nhau ăn sống như nhai những củ sâm. Mặc cho máu mê trào ra ngoài miệng trông như ác quỷ, các anh thản nhiên nhai ngấu nghiến như không màng gì tới hoạt cảnh ghê rợn tạo nên.

Một buổi chiều sau khi đi lao động về, chúng tôi thấy một anh bạn tù nhân sắp chết đói đang ngồi bên một dòng nước tiểu chảy ta từ phía những thùng phân nổi trong cầu tiêu. Nhìn kỹ thấy anh đang bắt mấy con kiến, tha những mảnh ngô chưa tiêu kịp, di chuyển từ cầu tiêu về tổ. Anh lượm những mảnh ngô đó bỏ vào mồm rồi tha cho những con kiến để chúng tiếp tục làm công việc vận tải mà anh thèm muốn. Chương trình cướp ngô của kiến anh chỉ thực hiện được có một ngày. Ngày hôm sau anh trút hơi thở cuối cùng vì quá đói.

Bằng chính sách bỏ đói kết hợp với lao động khổ sai những người Cộng Sản đã giết tù “cải tạo” mà không cần đem ra trường bắn, không cần nhốt vào lò hỏa thiêu như người Đức Quốc Xã đã làm. Họ cũng chẳng cần tạo ra những cảnh “tắm máu” làm gì.

-Một chuyện tù vượt ngục: Trại “cải tạo” Thanh Cẩm có một khu kiên giam dành cho những thành phần được Cộng Sản coi là đặc biệt nguy hiểm. Những người bị giam trên khu này không phải lao động nhưng bị cùm chân ban đêm khi đi ngủ. Có một thời gian, tôi cũng là một tù nhân của khu vực kiên giam này. Nhờ không phải lao động nên tôi mới sống sót đến ngày nay. Tại đây tôi còn giữ lại một kỷ niệm hãi hùng mà suốt đời không bao giờ quên được, kỷ niệm liên quan đến một chuyện tù vượt ngục.

Là những tù nhân không có ngày về và bị bỏ đói triền miên hết ngày này qua tháng khác, chúng tôi cam tâm kéo dài cuộc sống bị đày ải và hoàn toàn tuyệt vọng giữa rừng núi hoang vu của biên giới Lào-Việt. Khi màn đêm đổ xuống, khu kiên giam lạnh lẽo và tĩnh mịch, nặng nề như một nhà quàn chất chứa những xác người chưa chết. Ban ngày, chúng tôi đau đớn nhìn nhau như nhìn những bộ xương khô biết cử động.Viễn tượng của ngày sum họp với gia đình, từ lâu, đã hoàn toàn tan biến. Tương lai duy nhất còn lại là sự chờ đợi ngày về với tổ tiên.

Thế rồi, một biến cố kinh hoàng đã xảy ra. Đêm ấy là đêm 1 Tháng Năm, 1979, đêm liên hoan của Cộng Sản nhân dịp Lễ Lao Động. Bọn công an trẻ thường chểnh mảng trong nhiệm vụ canh gác mỗi khi có liên hoan. Bỗng nhiên trong bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya, chúng tôi nghe phát ra từ phòng giam bên cạnh, một âm thanh đào tường đều đều như máy chạy. Thỉnh thoảng lại có tiếng người rầm rì động viên nhau như hối giục.

Chúng tôi hiểu ngay đó là một kế hoạch trốn trại đang được tiến hành. Trong cơn tuyệt vọng, các anh mới đến từ trại Quyết Tiến, đang chọn đi vào chỗ chết để tìm đường sống. Mọi người trong phòng giam bên này đều nhắm mắt cầu nguyện cho các bạn đó thành công.

Đêm càng khuya chúng tôi càng hồi hộp. Âm thanh đào tường nghe mồi lúc một yếu dần. Gà bắt đầu gáy sáng mà âm thanh vẫn còn tiếp tục. Khi âm thanh chấm dứt thì ánh nắng đã luồn qua khung cửa sắt chật hẹp của phòng giam.

Đang lo lắng cho số phận của mấy anh em trốn trại, chúng tôi giật mình vì những tiếng súng báo động nổ rến. Rồi tiếng chân người xô chạy về thượng nguồn sông Mã xen lẫn với những tiếng la hét vọng lại từ xa. Trong phòng lúc đó không biết ai đã thở dài và thốt ra hai tiếng “thất bại.” Chúng tôi đau đớn chia sẻ sự thất bại đó và lo sợ đến tột cùng khi nghĩ tới những biện pháp trả thù của bọn công an Cộng Sản trong cơn tức giận.

Khi trời sáng hẳn, phòng giam của những người trốn trại bị công an lục soát rất kỹ. Một tên công an thản nhiên nói với đồng bọn: “Thằng Tiếp chết rồi.” Anh Đặng Văn Tiếp là một cựu trung tá của Không Lực VNCH và dân biểu quốc hội trước khi miền Nam sụp đổ. Nghe hung tin đó chúng tôi đau đớn lặng người. Những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má như một lời vĩnh biệt. Tất cả các anh khác bị bắt lại hết và bị đánh đập tàn nhẫn. Hai ngày sau, anh Lâm Thành Văn chết theo anh Tiếp. Riêng Cha Nguyễn Hữu Lễ may mắn sống sót dù bị đả thương rất nặng. Sau 13 năm “cải tạo,” Linh Mục Lễ hiện đang phụ trách một họ đạo ở Tân Tây Lan.

Bài học của Bắc Kinh: Vào khoảng đầu năm 1979, tại trại Thanh Cẩm, anh em tù “cải tạo” chết đói khá nhiều. Trong khi ai cũng cam tâm chờ chết thì một đêm chúng tôi nghe thấy những bài bình luận lạ tai phát ra từ những loa tuyên truyền ngoài cổng trại. Sau nhiều ngày theo dõi tin tức chúng tôi được biết giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang có sự xích mích nặng nề.

Bắc Kinh đang chuẩn bị cho Việt Nam một bài học. Một quân đoàn Trung Cộng, trải dài trên 600 cây số tại biên giới phía Bắc sẽ xâm lăng Việt Nam và sẽ tiến vào Hà Nội trong vài ngày. Không khí chiến tranh bao trùm cả nước. Lệnh tổng động viên được ban hành và bộ đội đang di chuyển cấp tốc từ Cambodia về biên giới Việt-Trung. Các trại “cải tạo” nằm sát biên giới như Quyết Tiến, Phong Quang… được di tản sâu vào nội địa. Trại Thanh Cẩm phải nhận thêm một số tù nhân đến từ trại Quyết Tiến.

Chiến tranh đã thật sự xảy ra nhưng quân Trung Cộng, sau khi làm cỏ, mấy tỉnh miền biên giới, chỉ tiến đến Việt Trì rồi rút về nước. Hà Nội không bị bao vây và công hãm.

Bài học của Bắc Kinh đã cứu sống rất nhiều tù “cải tạo,” đó là điều mà ít người biết tới. Vì có bài học này nên chính sách “cải tạo” khắc nghiệt của Hà Nội có đôi phần nới lỏng. Sau bốn năm bị cắt đứt mọi liên lạc với gia đình, chúng tôi được viết thư và nhận đồ tiếp tế trở lại. Không những thế, gia đình còn được phép đến trại thăm gặp và trong vài trường hợp đặc biệt tù nhân “cải tạo” còn được phép ở lại suốt đêm ngoài nhà khách để sinh hoạt với gia đình.

Một chuyện khác mà không ai ngờ tới là những gói quà tiếp tế không những đã cứu sống chúng tôi khói chết đói mà còn cho chúng tôi cơ hội “cải tạo” những bộ óc chậm tiến của những người tự cho có nhiệm vụ “cải tạo” chúng tôi.

Mỗi đợt khám quà của tù nhân là một dịp để các cán bộ làm quen với thế giới bên ngoài qua những đồ tiếp tế. Lần đầu tiên khám quà một anh cán bộ trẻ thấy một gói lạp xưởng đòi tịch thu. Chúng tôi hỏi tại sao thì được trả lời: “Tịch thu, vì các anh không được phép mang nến (đèn cầy) vào trong trại.” Tội nghiệp, từ bé tới lớn anh chưa được ăn lạp xưởng bao giờ nên tưởng lạp xưởng là đền cầy.

Những thứ lạ mắt như những cuốn giấy vệ sinh trắng muốt, những chai xà bông nước, những lon cà phê sữa bột, những viên thuốc Tây xanh đỏ đựng trong những lọ có nắp khó mở…. đều là những thứ mà trại thấy cần phải giữ lại để nghiên cứu. Sau này khi biết những thứ đó không có gì nguy hiểm và thỉnh thoảng lại được chúng tôi “kỷ niệm” (nghĩa là cho theo ngôn từ Cộng Sản) các công an trẻ dần dần làm thân và thường muốn nghe chúng tôi kể những chuyện của thế giới bên ngoài, trong giờ lao động. Kỷ luật trại giữa cán bộ và tù nhân cũng không còn gay gắt như trước nữa.

Ngày một số anh em chúng tôi được trả lại tự do (1985) những người công an trẻ đến chia tay bằng một câu nói cảm động: “Thôi các anh về mạnh khỏe rồi đi ngoại quốc. Chúng tôi thì còn ở đây chưa biết đến bao giờ.” Ngay lúc đó chúng tôi chưa nắm bắt được thông điệp “rồi đi ngoại quốc” nhưng chúng tôi hiểu ngay rằng những thanh niên Cộng Sản đó đã bắt đầu tỉnh ngộ sau thời gian mấy năm được chúng tôi “cải tạo.”

III-Chiến dịch giải thoát tù “cải tạo”

Có một thời gian, công an trại thường chỉ mặt chúng tôi và hăm dọa nhiều lần: “Nếu bọn Mỹ không chịu bồi thường 3 tỷ 2 thì các anh sẽ còn cải tạo mút mùa.” Câu hăm dọa này không làm chúng tôi lo sợ mà, trái lại, làm chúng tôi mừng thầm vì đoán rằng có thể ở bên ngoài xã hội đang diễn ra một cuộc thương lượng giữa Hoa Kỳ và Việt Cộng để giải thoát chúng tôi khỏi cảnh tù đày. Cho dù đây chỉ là một hy vọng rất mong manh nhưng chúng tôi cứ bám víu lấy nó như người sắp chết đuối vớ được cọc, để có lý do và can đảm tiếp tục cuộc sống.

Thế rồi, không bao lâu sau, sự ước đoán của chúng tôi được thân nhân vào thăm xác nhận là đúng. Từ đó, trong lòng chúng tôi, ngày nào cũng như mở hội. Hy vọng được về sum họp với gia đình có nhiều triển vọng trở thành sự thật.

Tôi được trả tự do vào cuối năm 1985, sau 10 năm 4 tháng 10 ngày bị Cộng Sản bỏ tù. Hội nhập lại vào xã hội bên ngoài, tôi được biết vào năm 1976, Kissinger đã tuyên bố: “Hoa Kỳ đang chuẩn bị bình thường hóa bang giao với Việt Nam.” Việc bình thường hóa bang giao không thành vì trong cuộc đàm phán ở Paris vào đầu năm 1977 Hà Nội khăng khăng đòi Hoa Kỳ phải trả $3,250 triệu để bồi thường chiến tranh. Lẽ cố nhiên là Hoa Kỳ bác bỏ đòi hỏi vô lý đó vì Hà Nội đã không tôn trọng Hiệp Định Paris năm 1973.

Nền kinh tế của Việt Nam mỗi ngày một sa sút. Sự vô hiệu của kinh tế hoạch định và tình trạng sa lầy trong chiến tranh Cambodia khiến chế độ Hà Nội đứng trên bờ vực thẳm. Trung Cộng đã trở thành thù nghịch còn Liên Xô thì cũng đang gặp khó khăn nên không biết nương tựa vào ai. Hoa Kỳ là sinh lộ duy nhất còn lại. Làm găng không được, Hà Nội bắt đầu đấu dịu.

Đầu thập niên 1980, cả Phạm Văn Đồng lẫn Nguyễn Cơ Thạch đều bắn tiếng là sẽ thả tù “cải tạo” nếu Hoa Kỳ tiếp nhận. Hà Nội dùng tù “cải tạo” như phương tiện mặc cả để xin viện trợ của Hoa Kỳ. Hoa Thịnh Đốn đáp ứng và diễn tiến của chiến dịch giải thoát tù “cải tạo” được ghi nhận như sau:

-Ngày 11 Tháng Chín, 1984, Ngoại Trưởng George Schultz chính thức yêu cầu Hà Nội trả tự do và cho phép các tù nhân chính trị được định cư tại Hoa Kỳ. Ba tuần sau Tổng Thống Reagan gửi văn thư chính thức đến các Bộ Ngoại Giao, An Sinh Và Tư Pháp về việc thâu nhận những người tù “cải tạo” Việt Nam.

Hoa Kỳ đồng ý gặp Đại Sứ Võ Đông Giang của Hà Nội tại Nữu Ước. Cuộc đàm phán tiến hành trong bí mật.

-Tháng Bảy, 1988, phái đoàn Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng Ngoại Giao Hoa kỳ, đi Hà Nội họp với phụ tá bộ trưởng Ngoại Giao Việt Cộng Trần Quang Cơ để bàn về việc trả tự do cho tù chính trị và đưa họ đi định cư tại ngoại quốc.

-Ngày 30 Tháng Bảy, 1989, ông Robert Funseth và Vũ Khoan, thứ trưởng Ngoại Giao Việt Cộng, ký kết tại Hà Nội văn kiện về việc định cư tù “cải tạo.”

Qua thỏa hiệp này 3,000 tù “cải tạo” và gia đình đã đến Hoa Kỳ trong những tháng đầu tiên của năm 1990. Chương trình định cư này trù liệu đưa ra nước ngoài 400,000 người thì 20% đã đến bến tự do năm 1990, 30% năm 1991, 30% năm 1992, 10% năm 1993 và 10% còn lại vào những năm kế tiếp.

Dựa theo các tài liệu đáng tin cậy người ta cũng được biết là trong số quân nhân VNCH được sang Mỹ định cư sau thời gian cải tạo thì 61% là cấp úy, 35% là cấp tá và tướng và 4% là viên chức chính phủ.

Con số những người chết trong các trại “cải tạo” chưa được xác định là bao nhiêu. Tài liệu của Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Hawaii, thiết lập ngày 20 Tháng Tư, 1993, đưa ra một con số rất thiếu sót là 587 người. Đây chỉ là một phần nhỏ của số “tử vong vì cải tạo” trong thực tế.

Cũng theo một tài liệu khác chưa đầy đủ thì số trại “cải tạo” CSVN thiết lập trên toàn quốc sau năm 1975 là 80 trại  bao gồm cả hai trại ở các đảo Côn Sơn và Phú Quốc).

Quyết định của Cộng Sản Việt Nam đưa quân cán chính VNCH đi “cải tạo” lâu dài sau năm 1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm miền Nam, đáng lý ra Hà Nội phải biết lợi dụng thời kỳ vàng son này để hòa hợp hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai phồn thịnh cho đất nước.

Giữa Tháng Năm, 1975, bộ trưởng ngoại giao năm nước ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đã bày tỏ ý muốn thiết lập bang giao với các nước Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24 Tháng Bảy, 1975, Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rõ là các căn cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực chỉ là tạm thời và khối SEATO sẽ giải tán.

Vào thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân khoản $1,600 triệu để giúp năm nước ASEAN và ba nước Đông Dương xây dựng khu thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, Tháng Tám, 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân hữu giữa các nước trong vùng kể cả Miến Điện, và hứa viện trợ $5 tỷ cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á thành một khu vực phồn vinh.

Sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam còn được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với một khoản vay mượn đầu tiên là $35 triệu. Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội còn là hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu.

Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách “cải tạo” sai lầm thì nhân dân hai miền Nam Bắc đã cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện việc hòa hợp hòa giải dân tộc để nhanh chóng đưa đất nước đến cảnh phú cường.

Bị Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đã xé bỏ Hiệp Định Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền sau đó lại bị Trung Cộng giăng bẫy nhử sang Cambodia và bị sa lầy ở đó. Hậu quả của những quyết định mù quáng này là một nước Việt Nam kiệt quệ và tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai thế lực thù địch. Cắt đất dâng Trung Quốc để duy trì mạng sống chính trị và quỳ gối ôm chân Hoa Kỳ để kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có một thời kỳ nhục nhã như hiện nay.

Đối với Hoa Kỳ, bỏ rơi miền Nam Việt Nam trong trận đồ quốc tế để thắng Liên Xô và làm tan rã khối Cộng Sản là một vấn đề chiến lược. Tiến hành chiến dịch giải thoát tù “cải tạo” Việt Nam để họ được sang sinh sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề của lương tâm. Đứng về phương diện quyền lợi của Hiệp Chúng Quốc mà xét thì trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi. (Nguyễn Cao Quyền)

Xin chúc mừng vì sự thành công!

Xin chúc mừng vì sự thành công!

Bởi  AdminTD

Đoàn Bảo Châu

17-12-2021

Hai người nông dân mất đất, nói lên sự thật về Đồng Tâm, một cựu nhà báo, người viết những cuốn sách phổ cập kiến thức cơ bản về chính trị, một thanh niên hay tham gia biểu tình chống Tầu, bảo vệ môi trường… bị bỏ tù từ 6 tới 10 năm trong mấy ngày qua. Tôi có đọc những bản ghi chép phiên toà của họ, tôi không thấy họ có tội gì ngoài việc họ dám nói lên sự thật, sống có trách nhiệm với đất nước.

Một cá nhân hay một xã hội muốn phát triển được đều cần phản biện. Một luận án tốt nghiệp đại học, thạc sỹ, tiến sỹ… đều cần những chuyên gia viết phản biện, khi bảo vệ luận án thì những câu hỏi phản biện sẽ được nêu ra để tác giả luận án phải chứng minh là mình đúng.

Không có một bộ óc vĩ đại và sáng suốt nào có thể luôn đúng bởi những điều chưa biết thì mênh mông như biển cả mà cái biết thì chỉ như giọt nước. Người hiểu biết, có tư tưởng tiến bộ sẽ biết lắng nghe tư tưởng, ý kiến trái chiều để học hỏi và phát triển. Kẻ độc tài luôn nghĩ mình là đúng sẽ vùi dập ý kiến trái chiều. Một chính thể độc tài sẽ kìm hãm sự phát triển của đất nước do không động viên tư tưởng phản biện.

Họ là những con người hiếm hoi trong xã hội dám lên tiếng nói lên chính kiến của mình nhưng họ phải chịu những án tù quá tàn ác với những gì mà họ đã làm.

Thử hỏi họ đã gây hậu quả nghiêm trọng gì cho xã hội? Thử hỏi nếu so sánh với những quan chức bán rẻ đất công, những bộ trưởng, tướng công an, tướng quân đội tham nhũng thì hậu quả họ gây ra có đáng gì?

Vậy những bản án tàn ác ấy là để gây nỗi sợ cho dân chúng, cho những người muốn nói lên chính kiến của mình. Một chính thể văn minh sẽ không dùng nỗi sợ để cai trị dân chúng. Làm thế là tự làm thoái hoá dân tộc mình, sẽ làm thui chột tư tưởng tiến bộ, tinh thần đấu tranh chống bất công. Làm thế được yên ổn trước mắt về chính trị nhưng gây tổn hại rất nhiều về nguyên khí quốc gia. Một quốc gia chỉ phát triển rực rỡ được khi có hàng triệu triệu thanh niên trăn trở về đất nước, luôn phản biện cái xấu, cái chưa được về tất cả các lĩnh vực.

Họ là những con người hiếm hoi quý báu nhưng họ bị dập tắt. Sự đàn áp sẽ có tác dụng tốt. Nó sẽ tạo ra một lớp thanh niên đần độn về trí tuệ, hèn nhát về tư tưởng, khi có dịp cọ xát với quốc tế sẽ phô bày hết sự kém cỏi của mình. Như vậy, thì các ý tưởng để con cháu chúng ta đòi lại biển đảo đã mất sẽ mãi mãi chỉ là ước vọng mơ hồ, không có cơ sở.

Thực ra thì nhà cầm quyền Việt Nam đã thành công rồi. Tôi xin chúc mừng các vị. Là con người bình thường ai cũng sợ phải vào tù. Nỗi sợ ấy là bản năng tất yếu. Các vị đã rất thành công. Nhìn quanh ra thì toàn bộ bạn học của tôi từ phổ thông tới đại học, chỉ một mình tôi hay quan tâm tới những vấn đề xã hội và chính trị. Trong gia đình tôi cũng vậy. Trong số bạn bè tôi giao lưu ngoài đời cũng vậy. Sự thành công khi dùng nỗi sợ để cai trị đất nước.

Rồi một tuần nữa thôi, tên tuổi mấy con người kia sẽ chìm đi. Cuộc sống lại lạnh lùng chảy tiếp, chỉ bạn bè thân hữu, người nhà của họ là đau khổ, chỉ có chính họ là phải đốt năm tháng tuổi trẻ của mình trong ngục tù tăm tối.

Trẻ con sẽ miệt mài chơi game, người lớn sẽ nhất nhất chỉ lo kiếm tiền, tiền sẽ thành một lý tưởng cao nhất của động vật hai chân, kẻ có điều kiện hơn thì sẽ luận bàn về trà, rượu, quần áo, thú chơi này kia.

Tôi biết các vị là những kẻ mạnh, quyền sinh quyền sát trong tay, làm gì chẳng được. Điều mà tôi muốn kêu gọi ở các vị là hãy suy ngẫm sâu sắc về những vấn đề này. Lợi và hại khi quá tàn ác với những tiếng nói trái chiều. Nếu thực sự yêu nước thì hãy nghĩ về tương quan sức mạnh đất nước với thế giới, hãy nhìn về những thành tựu của con người Việt Nam đã đóng góp cho nhân loại. Các vị bàn về văn hoá và cũng muốn Việt Nam có được những thành tựu về văn học, nghệ thuật nhưng để làm được điều ấy thì các vị phải học hỏi những nước như Nhật Bản, Hà Quốc, tức là văn hoá của chính các vị phải cao.

Không nói đâu xa, Trung Quốc, đất nước cùng lý tưởng của các vị cũng đã cởi bỏ rất nhiều sự kiểm duyệt về nghệ thuật. Những bộ phim mô tả sự nghẹt thở của cách mạng văn hoá cũng đã được công chiếu nhiều năm.

Sở dĩ Hàn Quốc có được một nền văn hoá có sức mạnh chinh phục thế giới, khiến giới trẻ ở Việt Nam mê đắm K-Pop, phim ảnh, thời trang Hàn là do bởi những lãnh đạo cao nhất của họ có cái nhìn cởi mở về văn hoá, tư tưởng và quyết tâm dùng văn hoá, nghệ thuật để góp phần vào sức mạnh mềm của đất nước.

Tại sao Mỹ thành một cường quốc. Xin thưa là bởi ở nước họ những người như Phạm Đoan Trang có nhiều triệu người. Nếu các vị tìm hiểu thì sẽ thấy sở dĩ nạn phân biệt chủng tộc được bỏ, bao điều luật bất công được thay đổi là bởi những nhà hoạt động can đảm. Trong một gia đình, nếu một ông bố lúc nào cũng coi mình là đúng tuyệt đối, con cái đưa ra ý kiến trái chiều là nạt nộ, đánh đòn thì những đứa trẻ có phát triển được không?

Tôi so sánh vậy không có nghĩa là coi chính quyền là bố mẹ của dân mà chỉ nói tới khía cạnh quyền lực. Chính quyền như ông Hồ Chí Minh nói là người làm thuê, nếu không làm tốt thì người dân có quyền tìm người làm thuê khác.

Các vị đã thành công, rất thành công. Thành công đến nỗi mà khi viết những lời tâm huyết tôi cũng phải sợ phải vào tù. Nhưng người can đảm không phải là người không biết sợ. Là người ai cũng có nỗi sợ bản năng nhưng Con Người với đúng nghĩa cao đẹp của từ này sẽ biết vượt lên nỗi sợ để dám nói, dám sống đúng với nhận thức của mình.

Xin nhiệt liệt chúc mừng sự thành công của các vị!

Áp lực học hành bé trai lớp 6 nhảy từ tầng 22 chung cư xuống tự tử

Con cái chúng ta đâu phải đứa nào cũng sẽ thành thiên tài hay ông này bà kia, quan chức nọ đại gia ấy?

Một xã hội sính bằng cấp, quá coi trọng địa vị và học hành luôn xem điểm số là điều quan trọng nhất thì sẽ còn nhiều đứa bé chẳng còn tuổi thơ và cuộc đời riêng của chúng.

Nhiều kiến thức luôn là điều tốt, tuy nhiên nhồi như gà thì học với trẻ có khi là những cơn ác mộng triền miên!

Tôi nghĩ chúng ta đừng nên xát thêm muối vào nỗi đau của cha mẹ bé nhưng nên kiên trì góp từng tiếng nói để nền giáo dục này thay đổi và nhân văn hơn!

– Hà Phan

NGẢ MŨ THÁN PHỤC TRƯỚC SỰ CAN ĐẢM CỦA NHÀ BÁO TỰ DO PHẠM ĐOAN TRANG

NGẢ MŨ THÁN PHỤC TRƯỚC SỰ CAN ĐẢM CỦA NHÀ BÁO TỰ DO PHẠM ĐOAN TRANG

“Phạm Đoan Trang chủ ý chấp nhận những rủi ro này để bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Tôi xin ‘ngả mũ thán phục’ trước sự can đảm và sức mạnh vào niềm tin của cô ấy”.

Đó là lời của ông Hugo Setzer – Chủ tịch Hiệp Hội Xuất bản sách Quốc tế IPA, nói về Phạm Đoan Trang.

Hiệp hội Xuất bản Quốc tế đã trao giải thưởng Prix Voltaire năm 2020 cho Phạm Đoan Trang, nhà xuất bản Tự Do, tổ chức ‘không chịu sự kiểm duyệt của chính quyền Việt Nam’.

Đây là giải thưởng nhằm thúc đẩy tự do xuất bản trên thế giới, đặc biệt là hoạt động xuất bản trong điều kiện bị kiểm duyệt và đe dọa.

Nhà báo tự do Phạm Đoan Trang từng được trao giải Tự do Báo chí năm 2019 của tổ chức Phóng viên Không Biên giới.

Hiệp hội Xuất bản Quốc tế là một tổ chức quốc tế chuyên về xuất bản sách và báo chí có trụ sở tại Geneve, Thụy Sĩ, được thành lập năm 1896 với hoạt động thúc đẩy và bảo vệ quyền xuất bản. Giải thưởng Prix Voltaire nhằm tôn vinh hoạt động xuất bản tự do, một phần quan trọng của tự do ngôn luận.

Lê Ánh

Mẹ ơi con yêu mẹ

Mẹ ơi con yêu mẹ

Tho Nguyen

Má tôi ra đi đã năm ngày. Tôi không thể bày tỏ được tổn thất này. Tôi thường về ăn tết với Má, tôi coi bà là sợi dây nối tôi với quê hương. Má đi rồi, tôi vẫn mất ngủ như khi bà còn đó, vẫn nghe tiếng bà đêm đêm kêu đau, muốn trở mình hay muốn uống nước.

Lo xong đám tang cho Má, tôi ốm gục mấy hôm nay.

Tất cả những căng thẳng, stress mấy tháng qua đã khiến tôi suy nhược thần kinh. Tôi nằm đó, luôn nghe tiếng Má rên khi khó thở. Nằm mà không ngủ được. Rồi tôi an ủi để cố ngủ: Dù sao Má đã được chúng con chăm sóc trong những ngày cuối cùng. Má đã mãn nguyện, vì ở tuổi 97, Má vẫn bắt con phải đi thẳng lưng, để khỏi bị gù, Má vẫn gọi điện ra Hà Nội nhắc anh Lộc chịu khó ăn, vẫn giục em Nhung uống thuốc.

Mấy đêm nay, mối tình mẫu tử của Phạm Đoan Trang và mẹ cô, bà Bùi Thị Thiện Căn khiến tôi thêm trăn trở. Bà Căn không được may mắn như Má. Bà không được phép chăm lo cho cô con gái bệnh tật nằm trong xà lim lạnh lẽo.

Ngày xử con gái, bà không được đến gần con. Từ chỗ chỉ là một cô giáo về hưu, không quan tâm đến chính trị, bà đã trở thành một người hiên ngang đối mặt với công quyền, quyết bảo vệ và tiếp sức cho đứa con yêu quý của bà.

Hình ảnh Trang cố ngoái cổ lại nói với mẹ: „Mẹ ơi con yêu mẹ! Con không sợ gì đâu. Mẹ giữ sức khỏe nhé“ khiến tôi dù còn ốm, vẫn phải gượng dậy viết những dòng này.

Tôi không quen Đoan Trang trong đời. Nhưng chúng tôi quý trọng nhau qua những suy nghĩ thể hiện trên mạng. Tôi không dám so mình với Trang. Em nhỏ hơn tôi 27 tuổi, nhưng em hơn hẳn tôi ở lòng dũng cảm và sức chịu đựng. Tôi rất mừng khi được Trang kết bạn. Tôi đọc từng bài em viết, theo dõi từng bước đi của em. Tôi đau long khi nghe em bị đánh vỡ đầu gối, lo lắng nghe tin em sắp mổ lại chân. Chúng tôi chỉ trao đổi với nhau vài lần. Mỗi lần như vậy tôi lại thấy ấm lòng.

Khi Trang bị bọn du côn đánh đập, tôi viết bài “Về những chiếc mũ”[1] để lên án nạn sùng bái bạo lực đang ngự trị ở Việt Nam. Chiếc mũ nhựa vỡ tan sau khi chúng đánh Trang khiến tôi liên tưởng đến bức ảnh “Con gà ấp trứng trong mũ sắt” đã gây ấn tượng cho tôi từ hồi bé. Hình ảnh chiếc mũ sắt rỉ, biểu tượng của chiến tranh, đã bị con gà biến thành tổ ấp trứng là hình ảnh sinh động về cái thiện thắng cái ác.

Những kẻ sùng bạo lực sợ hình ảnh đó làm cho con người ta yếu mềm, không còn hăng say chém giết nhau nữa. Thế là bức ảnh của phóng viên VNTTX Đức Như chụp trong những năm 1960 bị cấm, tác giả bị phê bình. Bức ảnh một thời nổi tiếng đó nay đã bị xóa khỏi trí nhớ của người Việt, có thể coi là thất truyền.

Hậu quả của việc coi trọng bạo lức, tận diệt những mầm mống của tình người là: – Sau gần nửa thế kỷ hòa bình, người Việt vẫn sống trong một xã hội hướng về bạo lực. Người ta thích dùng bạo lực để xử lý các xích mích cá nhân. Chuyện chém giết nhau chỉ vì tiền, vì đất đai không còn là điều lạ ở đất nước này. Thậm chí cả nhà chùa, nơi cổ vũ cho phi sát sinh, cũng sử dụng bạo lực. Đã có những cuộc tranh chấp chức thầy chùa kết thúc bằng án mạng.

Cái gốc của thảm cảnh này là do nhà nước coi việc dùng bạo lực để nói chuyện với dân là quốc sách. Dù là người dân đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược, hay đứng ra bảo vệ đất đai bị cướp, bảo vệ môi trường sống của mình, chống tham nhũng, tất cả đều được trả lời bằng còng số tám và nhà tù.

Bản án dành cho Đoan Trang mà bà thẩm phán Chử Phương Ngọc lạnh lùng tâng công hôm 14.12 vừa rồi chỉ là một ví dụ.

Nhà tù và sự sợ hãi không thể giữ chế độ lâu dài, nhưng chúng làm suy thoái cả một dân tộc. Điều nghịch lý là những kẻ ưa bạo lực luôn là kẻ bạc nhược, đớn hèn. Người Đức thời quốc xã đã từng như vậy. Tướng lĩnh Phổ nổi tiếng là mưu lược và giỏi dùng binh. Hầu hết sỹ quan Đức từ 1943, sau Stalingrad đều nhận ra việc nước Đức đã thua trận, nhưng không một ai dám hé miệng chống lại những kế hoạch mà họ biết là mang yếu tố tâm thần của Hitler.

Hậu quả là nước Đức bị hủy diệt, dù tầng lớp tinh hoa của Đức đều biết trước. Sự bạc nhược do trại tập trung đem lại làm cho trí thức Đức quên mất thiên chức của con người: Bảo vệ lẽ phải.

Nước Đức sau 1945 đã từ bỏ mọi hình thức bạo lực chống lại nhân dân. Nhờ vậy họ có được những thế hệ công dân dũng cảm, tự tin. Các thế hệ này đã xây dựng được nước Đức như hôm nay.

Đoan Trang coi bảo vệ lẽ phải là thiên chức của con người. Đó chính là civil courage. Lòng dũng cảm của công dân (civil courage) là vốn quý của mỗi dân tộc. Tìm cách bóp chết nó là một tội ác.

Nhà báo Ý Franca Magnani từng nói: “Đất nước nào càng có nhiều công dân dũng cảm thì càng ít cần đến những người anh hùng”. (“The more citizens with civil courage a country has, the fewer heroes it needs”)

Người Việt thích nói và thích nghe về những người anh hùng, nhưng họ luôn né tránh những gì họ coi là “chính trị”. Né tránh vì họ bị khuất phục bởi sợ hãi. Né tránh là đứng về phía chính trị của bạo lực và thật ra là đang làm chính trị. Có những người không đến mức như vậy trước cái ác, nhưng cũng chỉ ở mức trông vào “ác giả ác báo”.

Tôi không chắc là Trang tin vào “nhân quả”, nhưng chắc chắn em là người dám đem mạng sống của mình để chống lại cái ác. Với năng lực báo chí và vốn ngoại ngữ của mình, em có thể có cuộc sống no đủ, có gia đình yên ấm ở nước ngoài. Nhưng em quyết về nước. Ở đó em còn mẹ già và đó là tổ quốc em.

Trang nhắn nhủ:”Xin chăm sóc mẹ tôi giùm, đừng để mẹ tôi nghĩ là hai mẹ con đang đơn độc”.

Trang ơi, anh mong có ngày được gặp em ngoài đời, được ôm em vào lòng như một đứa em gái. Anh sẽ đến thăm mẹ em.

– Hình ảnh Trang cố ngoái cổ lại nói với mẹ: „Mẹ ơi con yêu mẹ! Con không sợ gì đâu. Mẹ giữ sức khỏe nhé“

[1] https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/2388528557831870 

Chín năm tù cho “tội” yêu nước!

Chín năm tù cho “tội” yêu nước!

Bởi  AdminTD

 Lâm Bình Duy Nhiên

15-12-2021

Có lẽ chẳng còn ai còn thầm hy vọng gì nữa về cái gọi là pháp luật tại nước CHXHCNVN. Hy vọng gì đối với những bản án vô nhân đạo, đậm chất tàn bạo của một chính quyền đối với những tiếng nói yêu nước, của những đòi hỏi, khát vọng, suy cho cùng, trong một xã hội tiến bộ, là những hành động bình thường, được ghi nhận trong Hiến pháp?

Bản án dành cho nhà báo Phạm Đoan Trang như một vở bi hài kịch mà người dân Việt Nam đang phải chịu đựng, bắt buộc xem. Đó không chỉ là bản án dành riêng cho một cá nhân, Phạm Đoan Trang, mà đó còn là một bản án dành cho cả một dân tộc, trong cái trại giam khổng lồ, nơi mọi sự tranh đấu đều bị khủng bố và uy hiếp một cách trơ trẽn.

Cái điểm đến của chế độ là xây dựng một xã hội vô cảm, nơi mà người ta chỉ biết nghĩ đến chính mình, chính gia đình, hay tập đoàn của mình. Hãy làm giàu, bất chấp mọi giá trị đạo đức. Hãy hưởng thụ, hãy đua đòi. Những chuyện còn lại đã có “ Đảng và nhà nước” lo.

Nhân quyền, dân chủ, tự do báo chí, tín ngưỡng,… Tất cả chỉ là thuốc phiện của thế giới tư bản bốc lột!

Hơn 90 triệu dân nhưng chỉ một số nhỏ, cực kỳ nhỏ, lội ngược dòng cản, bất chấp hiểm nguy, đối đầu với nhà cầm quyền, đã nói lên thảm trạng về tư duy của người Việt ngày nay.

Nhà nước Việt Nam có chủ đích tạo nên một xã hội với những công dân hèn nhát trước vận mệnh cấp bách của dân tộc. Nhưng cũng chính những công dân ấy lại sẵn sàng hùng hổ, phô trương chủ nghĩa dân tuý cực đoan cho những thứ phù phiếm, tẻ nhạt, nhưng lại vô cùng quan trọng dưới con mắt của chính quyền.

Chúng ta hèn nhát và cái gia tài để lại cho các thế hệ sau chính là một Việt Nam bệnh hoạn, tàn bạo.

Chúng ta câm miệng hôm nay là đồng loã và thoả hiệp với những tội ác của một chế độ độc tài toàn trị. Chính sự im lặng đáng sợ, đáng trách ấy đã duy trì sự tồn tại của một chế độ đáng bị lên án, nguyền rủa và đào thải trong lịch sử dân tộc.

Ngày Phạm Đoan Trang bị tuyên án 9 năm tù, có lẽ chẳng mấy ai buồn tình tìm hiểu. Có lẽ họ đang bị cái giải bóng đá ao làng cuốn hút. “Chính trị là điều không tốt”, có người tại Sài Gòn nói như thế với người viết!

Và họ càng không tỏ ra lo lắng cho chính số phận của họ, của gia đình họ qua những gì vẫn đang và sẽ xảy ra trong xã hội trên bình diện chính trị…

Người viết chợt nhận ra rằng hôm nay (14/12/2021), nhà hoạt động nhân quyền, blogger người Belarus, ông Sergueï Tikhanovski cũng bị tuyên án 18 năm tù. Một bản án tàn khốc, như những gì Phạm Đoan Trang đã bị Hà Nội đối xử.

Tikhanovski và vợ, bà Svetlana Tikhanovskaïa, lãnh đạo đối lập là mục tiêu cho sự trả thù của nhà độc tài Loukachenko.

Phạm Đoan Trang hay Sergueï Tikhanovski, những tiếng nói của lương tâm luôn là “kẻ thù” đáng sợ nhất của mọi chế độ độc tài toàn trị.

Nhưng đâu đó, người dân Belarus vẫn còn nhiều hy vọng vào những thay đổi và lột xác cho chính tương lai của họ. Những cuộc biểu tình rầm rộ của hàng trăm ngàn người trong thời gian qua chứng tỏ đó là một dân tộc trưởng thành, được đúc kết qua hành trình lịch sử bằng những khái niệm về dân chủ. Họ dám đương đầu với một bộ máy an ninh, khủng bố bất chấp mọi nguy hiểm.

Tiếc thay, đó lại là yếu tố không có trong xã hội Việt Nam. Cái tư duy hèn nhát, vô cảm khi chỉ biết trông chờ vào người khác, đã khiến cho mọi khát vọng dân chủ trở nên không tưởng và phi thực tế.

Tự do là phải tranh đấu, phải giành giựt, thậm chí hy sinh. Tự do không phải là món quà được Đấng Bề Trên ban tặng. Nhân loại đã phải trải qua những thời khắc đen tối để đào thải những rác rưởi từ phát xít, phân biệt chủng tộc đến chủ nghĩa cộng sản để xây dựng nên những xã hội nhân bản và dân chủ.

Những sự hy sinh, như Phạm Đoan Trang, dẫu bên lề của sự vô cảm của cộng đồng, vẫn thiết thực và quan trọng trong quá trình làm thay đổi nhận thức của cả một xã hội.

Bởi vì Freedom Isn’t Free!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trương Tửu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trương Tửu

Ngoại và mẹ tôi đều rất hảo rượu nên mâm cơm gia đình không bao giờ thiếu chai/ lọ và ly/cốc … Được nuôi dưỡng trong cái không khí luôn nồng nàn hơi men như thế nên tôi cũng uống rất đều, và bắt đầu lê la hàng quán, ngay từ lúc thiếu thời.

Quanh bàn rượu, đôi lần, tôi được nghe kể về bà Vương Nhuận Chi (phu nhân của nhà thơ Tô Đông Pha) mà không khỏi sinh lòng hảo cảm:

“Mười năm chia tay bạn, chiều tối chợt bạn xuất hiện. Mở cửa, tay nắm chặt tay, chẳng kịp hỏi tới nhà mình bằng thuyền hay bằng ngựa. Cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua loa, vội chạy vào nhà trong, thấp giọng hỏi vợ rằng:

– Mình liệu có đấu rượu của Tô Đông Pha không?

“Vợ tươi cười rút cành trâm vàng đang cài trên đầu trao cho. Thế là đủ ba ngày cơm rượu…”

Chỉ cần một bữa “cơm rượu” thế thôi (nếu có) cũng đủ cho tôi tri ân người bạn đời của mình cho đến khi nhắm mắt. Nói chi tới ba ngày, hay sáu bữa. Vương Nhuận Chi quả là một tấm gương sáng soi cho nữ nhi (hậu thế) chỉ tiếc có điều là nó đã mờ dần với thời gian.

Bà đã vĩnh biệt dương gian cả ngàn năm rồi. Nay, mấy ai còn nhớ đến người phụ nữ “rút cành trâm vàng”để mua rượu đãi bạn của chồng(dễ dàng) như thế nữa?

May mắn và gần gũi hơn, mới ngày qua, tôi lại vừa biết thêm về vị nữ lưu tuyệt vời khác nữa:

“Tên bà là Nguyễn Thị Lai (1916-1996) con gái đầu của cụ Nguyễn Xuân Giới chủ một hiệu may nhỏ tại phố Tiên Tsin – nay là phố Hàng Gà – Hà Nội. Khi lập gia đình với nhà văn Trương Tửu bà được cha mẹ chia hồi môn cho một cửa hàng tạp hoá nhỏ đầu phố Hàng Điếu – Cửa Đông để bán hàng xén. Cuộc đời bà chỉ lặng lẽ làm nội trợ phía sau chồng con.

 “Ngày rằm tháng giêng năm nay, kỹ sư Trương Quốc Tùng con trai của ông bà kể cho tôi nghe về nghị lực của người mẹ khi trải qua “cơn bão” Nhân văn Giai phẩm quét tới… Giáo sư Trương Tửu không còn dạy Đại học, ông bẻ bút về nhà. Không lương, không biên chế, mọi nguồn thu nhập của gia đình dồn hết lên đôi vai bà Lai.

 “Giáo sư Trương Tửu mở phòng khám Đông y châm cứu thì cơ quan chức năng yêu cầu đóng cửa vì không có chuyên môn y khoa. Lúc này 45 tuổi, tối tối bà Lai đi học lớp Trung cấp Đông y bền bỉ và tốt nghiệp, được cấp bằng xuất sắc. Bà đứng tên đăng ký hành nghề, mở hiệu Đông y bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, châm cứu. Tiếng lành đồn xa, cửa hiệu lúc nào cũng đông khách.

“Kỹ sư Trương Quốc Tùng trầm ngâm nhớ tới lời kể của người thân trong gia đình (thời gian này ông đang đi học tại CHDC Đức) có những bữa cơm, bà Lai chỉ ăn cơm không. Bà nói: Nhai kỹ thấy cơm bùi và rất ngọt.

“Kỳ thực, người vợ, người mẹ ấy nhường phần thức ăn ít ỏi trên mâm cơm cho chồng, cho con nhỏ… Khó khăn chồng chất nhưng không bao giờ bà có một lời oán thán!” ( Người Vợ Nhân Văn. FB Son Kieu Mai – 02/28/2021)

Ngay bên dưới bài viết này là phản hồi của độc giả Lệ Thúy“Tại sao người chồng không cố gắng vật lộn để khắc phục hoàn cảnh, lại cứ phải là bà vợ, vừa chăm con nội trợ lại lăn lộn kiếm tiền, chồng để ngắm? Bởi đảm đang thế nên đàn ông cứ ươn hèn…”

Trương Tửu bị mắng là “ươn hèn” không phải là chuyện ngẫu nhiên. Người đời nay không mấy kẻ biết về ông, kể cả những nhân vật học thức – theo nhận xét của PGS.TS. Nguyễn Thị Bình:

“Ông thuộc số tên tuổi mà thế hệ chúng tôi (cùng một số thế hệ trước và sau chúng tôi nữa) được nghe nói đến nhiều nhất nhưng lại ít rõ ràng nhất. Trong suốt một thời kỳ dài, chúng tôi không sao hiểu nổi ông là ai giữa những lời kết án nặng trịch trên giấy trắng mực đen và vô số câu chuyện đồn thổi vừa đầy niềm thán phục vừa không thiếu ngậm ngùi cay đắng.”

Nỗi “cay đắng” này có thể được lý giải gẫy gọn như sau:

“Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ. Kín đáo dò hỏi những người thân trong gia đình sống ở Hà Nội, thuộc thế hệ ‘phải biết’ Nhân Văn, xem có ai còn nhớ gì không? Nhưng không, tuyệt nhiên chẳng ai ‘nghe nói’ đến những cái tên như thế bao giờ: linh hồn Nhân Văn đã bị xóa trong ký ức quần chúng, và như vậy, ‘nọc độc’ Nhân Văn đã hoàn toàn bị tẩy sạch. (Thụy Khuê. Nhân Văn Giai Phẩm & Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc. Tiếng Quê Hương: Virgninia, 2012).

Công việc “tẩy sạch” cá nhân Trương Tửu cũng đã được “đội ngũ văn nghệ cùng giới trí thức miền Bắc thực hiện một cách hơi quá nhiệt tình (bởi cả đám môn sinh cũ của ông) mà “viện sỹ” Phan Cự Đệ là một gương mặt tiêu biểu:

Với một lập trường chính trị phản động, thù địch với tư tưởng xã hội chủ nghĩa, với những quan điểm văn nghệ tư sản lỗi thời, với một phương pháp giảng dạy hoàn toàn duy tâm chủ quan, cơ hội, chúng ta có thể kết luận rằng: trong mấy năm qua, Trương Tửu đã tỏ ra không xứng đáng một tý nào với cương vị giáo sư một trường Đại học.”

Thời thế, may thay, không đứng về phía những kẻ xu thời. Do đó, ngay đến Wikipedia (vốn luôn được biên soạn theo khẩu vị Hà Nội) cũng đã đề cập đến Trương Tửu một cách công bằng và khách quan hơn. Nó chỉ “gài” có mỗi một câu sai với sự thực thôi: “Đầu năm 1958, bị buộc thôi việc vì dính líu đến vụ Nhân văn giai phẩm. Sau đó, ông chuyển sang nghiên cứu y học và sống bằng nghề Đông y.”

Sự thực thì đúng là Trương Tửu định xoay sở sống bằng nghề Đông Y nhưng đâu có được Đảng và Nhà Nước để cho yên phận. Bởi thế nên mới có cảnh bà Nguyễn Thị Lai phải “nhường phần thức ăn ít ỏi trên mâm cơm cho chồng, cho con nhỏ… Khó khăn chồng chất nhưng không bao giờ bà có một lời oán thán!”

Trường hợp của L.S Nguyễn Mạnh Tường cũng vậy, cũng được Wikipedia Hà Nội “biên tập” một cách nhập nhèm, lấp liếm tương tự: “Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông được chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài tại Viện nghiên cứu phương pháp và chương trình giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, và là cộng tác viên của nhà xuất bản Giáo dục.”

Nghe cứ y như thiệt vậy, nếu chính người trong cuộc không có cơ hội lên tiếng:

Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu đó là cái đói… Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của những ông thầy tận tụy.” (Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié – Hanoi, 1954 -1991: Procès d’un intellectuel. Trans Nguyễn Quốc Vĩ – Kẻ Bị Mất Phép Thông Công Hà Nội, 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức). 

Tôi mới chỉ có dịp được biết thêm về Trương Tửu qua những bài tiểu luận viết với công tâm của vài vị thức giả thôi (Thụy KhuêLê Hoài NguyênĐỗ Ngọc ThạchLại Nguyên Ân…) nhưng cũng đã có được một hình ảnh về một Trương Tửu khác.

“Ai kiềm chế được quá khứ, kẻ đó kiểm soát được tương lai. Ai kiểm soát được hiện tại, kẻ đó kiềm chế được quá khứ- Who controls the past, controls the future; who controls the present, controls the past.” Khi viết dòng chữ trên, trong tác phẩm Nineteen Eighty – Four, vào năm 1948, George Orwell đã có thể hình dung ra được tất cả những thủ đoạn ma mãnh (của những chế độ toàn trị) trong việc ngụy tạo lịch sử.

Điều mà George Orwell không ngờ tới là kỹ thuật truyền thông tân tiến ngày nay đã đưa nhân loại bước vào Thời Đại Thông Tin. Ở thời đại này, mọi cố gắng đánh tráo dĩ vãng đều trở thành vô vọng, và chỉ tạo ra được những trò hề lố bịch mà thôi.

NGÀY NHÂN QUYỀN!

Hieu Trung Nguyen is with Hieu Trung Nguyen and Nguyên HiếuTrung.

NGÀY NHÂN QUYỀN!

(Cô Hân Phan, sinh năm 1979, tốt nghiệp ngành Luật, đang là Giám đốc của một công ty Truyền thông ở Sài Gòn đã viết một đoạn văn khiến Việt Cộng nổi điên!!!)

Đoạn văn như sau: “Hơn 40 năm thống nhất, Việt Nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường… trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái không có… nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu. Người ta được ru giấc suốt hơn 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm.” Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình.” C.! Tôi ỉ. vào cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ ngoài đường.

Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn phải chào thua nhà cầm quyền Việt Nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất.

Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi quay lưng lại với dân tộc mình? Ðơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân … gia đình nó – nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể tin vào lúc này? Ðừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động.”

“Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh phúc. Còn bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời Phật đã cho chúng con một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết…

Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm gì nữa? Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức: Bên trên, chúng nhìn thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ còn biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên, tránh né bên cạnh… ức hiếp bên dưới.”

Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,… làm “đầy tớ” của nhân dân! Bọn công bộc đó đã cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sài Gòn ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan. Tôi sợ bọn chúng vì bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi. Ðáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội – thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.

Có người lo sợ hỏi tôi rằng, nếu Cộng Sản sụp đổ thì tương lai Việt Nam sẽ ra sao? Tôi hỏi ngược rằng theo bạn thì chế độ hiện nay thế nào? “Cộng Sản Việt Nam là chế độ tồi tệ nhất!” người bạn đó trả lời. Vậy nên tôi cũng trả lời cho bạn rằng: “Điều tồi tệ có thể sẽ tới nhưng sẽ không tồi tệ bằng hiện nay vì Cộng Sản Việt Nam là chế độ tồi tệ nhất!” “Hãy mạnh dạn lên, chúng ta hãy cùng xóa sổ cái chế độ hèn với giặc ác với dân này!

HÂN PHAN

SỰ RA ĐỜI CỦA CHỮ QUỐC NGỮ & ÔNG NGUYỄN VĂN VĨNH.

Lương Văn Can

SỰ RA ĐỜI CỦA CHỮ QUỐC NGỮ & ÔNG NGUYỄN VĂN VĨNH.

Chữ Hán từng được dὺng ở Việt Nam trong vὸng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20. Alexandre de Rhodes (sinh nᾰm 1591 tᾳi Avignon, Phάp; mất nᾰm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vὸng sάu nᾰm (1624 -1630). Ông là người cό công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt (nhiều tάc giἀ gọi là La-tinh hόa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh). Kế tục công trὶnh cὐa những người đi trước là cάc tu sῖ Jesuit (dὸng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hόa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giάo lу́ Tám ngày” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt – La – Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome. Hệ thống chữ viết tiếng Việt dὺng chữ cái La-mã này được chύng ta ngày nay gọi là “chữ quốc ngữ” (chữ viết cὐa quốc gia).

Nguyễn Vᾰn Vῖnh sinh nᾰm 1882 tᾳi Hà Nội – cái nᾰm thành Hà Nội thất thὐ vào tay quân Pháp do đại tά Henri Riviѐre chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Gia đὶnh Nguyễn Vᾰn Vῖnh nghѐo nên không cό tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vῖnh đã phἀi đi làm để kiếm sống. Công việc cὐa cậu lύc đό là làm thằng nhὀ kе́o quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đὶnh Yên phụ – Hà Nội. Vừa kе́o quạt, cậu vừa nghe lὀm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và cὸn trả lời được cάc câu hὀi cὐa thày giάo trong khi cάc cậu con nhà giàu trong lớp cὸn đưσng lύng tύng. Thầy giάo người Phάp thấy vậy bѐn nόi với ông Hiệu Trưởng giύp tiền cho cậu vào học chίnh thức. Nᾰm 14 tuổi Nguyễn Vᾰn Vῖnh đỗ đầu khόa học và trở thành một thông dịch viên xuất sắc. Sau đό ông được bổ làm trợ lу́ cho công sứ Phάp tỉnh Bắc Ninh.

Nᾰm 1906, lύc ông 24 tuổi, Nguyễn Vᾰn Vῖnh được Phάp gửi sang dự triển lᾶm tᾳi Marseilles. Tᾳi đây, ông được tiếp cận với kў nghệ in ấn và bάo chί. Ông cὸn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Phάp.

Trở về Việt Nam, Nguyễn Vᾰn Vῖnh từ bὀ nghiệp quan chức và bắt đầu làm bάo tự do. Nᾰm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bἀn tờ Đᾰng Cổ Tὺng Bάo – tờ bάo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Nᾰm 1913 ông xuất bἀn tờ Đông dưσng Tᾳp chί để dᾳy dân Việt viết vᾰn bằng quốc ngữ. Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ cάc tάc phẩm cὐa cάc đᾳi vᾰn hào Phάp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Moliѐre, v.v. và cũng là người đầu tiên dịch “Truyện Kiều” sang tiếng Phάp. Bἀn dịch “Kiều” cὐa ông Vῖnh rất đặc sắc vὶ ông không chỉ dịch cả câu mà cὸn dịch nghῖa từng chữ và kể rō cάc tίch cổ gắn với nghῖa đό – một điều chỉ cό những ai am hiểu sâu sắc vᾰn chưσng Việt Nam (bằng chữ Nôm), Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Phάp mới cό thể làm được. Sự cố gắng và sức làm việc phi thường cὐa ông Vῖnh đã gόp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoά phưσng Tây trong dân Việt, và đẩy xᾶ hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ. Nᾰm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bὀ cάc khoa thi (Hưσng – Hội – Đὶnh) ở Bắc Kỳ. Nᾰm 1918 vua Khἀi Định ra chỉ dụ bãi bὀ cάc khoa thi này ở Trung Kỳ và đến nᾰm 1919 bãi bὀ hoàn toàn cάc trường dᾳy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Phάp – Việt. Ngày 18 thάng 9 nᾰm 1924, toàn quyền Đông Dưσng Merlin kу́ quyết định đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở ba nᾰm đầu cấp tiểu học. Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt – La – Bồ cὐa Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoᾳn tuyệt với chữ viết cὐa Trung Hoa, chίnh thức chuyển sang dὺng chữ quốc ngữ. Đây quἀ thực là một cuộc chuyển hόa vô cὺng lớn lao, trong đό ông Nguyễn Vᾰn Vῖnh đã vô hὶnh chung đόng vai trὸ một nhà vᾰn hόa lớn cὐa dân tộc Việt Nam.

Ông Nguyễn Vᾰn Vῖnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề bάo cὐa mὶnh. Ông là người luôn lên tiếng phἀn đối chίnh sάch hà khắc cὐa Phάp đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân chưσng Bắc đẩu bội tinh cὐa chίnh phὐ Pháp ban tặng, và cῦng là người đᾶ cὺng với bốn người Phάp viết đσn gửi chίnh quyền Đông Dưσng phἀn đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. Vὶ thế chίnh quyền thuộc địa cὐa Phάp ở Đông Dưσng chẳng ưa gὶ ông. Tὸa bάo cὐa ông vỡ nợ. Gia sἀn cὐa ông bị tịch biên. Ông bὀ đi đào vàng ở Lào và mất ở đό nᾰm 1936 vὶ sốt rе́t. Người ta tὶm thấy xάc ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dὸng sông ở Sepole. Trong tay ông lύc đό vẫn cὸn nắm chặt một cây bύt và một quyển sổ ghi chе́p: Ông đang viết dở thiên kу́ sự bằng tiếng Phάp “Một thάng với những người tὶm vàng”. Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vῖnh về đến ga Hàng Cὀ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cὺng trang nghiêm trước quἀng trường nhà ga để đưa tiễn ông – con người bằng tài nᾰng và sức lao động không biết mệt mὀi cὐa mὶnh đã gόp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết cὐa toàn dân Việt.

Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời cὐa chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt cὐa ông Nguyễn Vᾰn Vῖnh” với lὸng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nόi trên cὐa dân tộc Việt Nam – Alexandre de Rhodes và Nguyễn Vᾰn Vĩnh.

Lời cἀm σn:

Tάc giἀ bài viết này biết σn thân sinh cὐa mὶnh – nhà giάo Nguyễn Đὶnh Nam, người đầu tiên kể cho tάc giἀ về cuộc đời và sự nghiệp cὐa cụ Nguyễn Vᾰn Vῖnh từ khi tάc giἀ cὸn là học sinh tiểu học, khi sάch giάo khoa chίnh thống cὸn gọi Alexandre Rhodes là “gián điệp” cὸn Nguyễn Vᾰn Vῖnh là “bồi bύt” cὐa Phάp. Tάc giả xin chân thành cἀm σn ông Nguyễn Kỳ – con trai cụ Nguyễn Vᾰn Vῖnh, và ông Nguyên Lân Bὶnh – chάu nội cụ Nguyễn Vᾰn Vῖnh vὶ những câu chuyện xύc động về cuộc sống và sự nghiệp cὐa cụ Nguyễn Vᾰn Vῖnh cῦng như cὐa gia tộc cụ. Tάc giἀ xin cἀm σn thày Trί – chάu ngoᾳi cụ Nguyễn Vᾰn Vῖnh đồng thời từng là thầy dᾳy toάn cὐa tάc giἀ khi tάc giἀ là học sinh Trung học.

Một số bài bάo về Alexandre de Rodes and Nguyễn Vᾰn Vῖnh:

Hoàng Tiến, “Dịch giἀ Nguyễn Vᾰn Vῖnh – chiếc cầu nối vᾰn hόa Đông Tây”

Jacques Roland, “Phἀi chᾰng cần viết lᾳi lịch sử”

Nguyễn Đình Đăng

Tokyo

Những chuyện chỉ Việt Nam mới… có!

Những chuyện chỉ Việt Nam mới… có!

Bởi  AdminTD

Trân Văn

Blog VOA

9-12-2021

VN vừa thông qua “Nghị quyết về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19.” Hình minh họa.

Hôm qua (8/12/2021), Ủy ban Thường vụ của Quốc hội Việt Nam (UBTV Quốc hội) nghe đại diện chính phủ điều trần để thảo luận về nội dung một nghị quyết có tên rất dài… Nghị quyết về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Ông Nguyễn Thành Long, Bộ trưởng Y tế, đại diện cho chính phủ Việt Nam, đề nghị: Khi thông qua nghị quyết vừa đề cập, mong Quốc hội… tiếp tục cho phép sử dụng ngân sách để thanh toán các chi phí liên quan đến điều trị bệnh nhân nhiễm COVID-19. Ngoài ra, do… bóc, tách chi phí điều trị COVID-19 với chi phí điều trị các bệnh khác rất khó, thậm chí bất khả, nếu không… bóc, tách được thì Quốc hội cho phép chính phủ dùng ngân sách để thanh toán toàn bộ chi phí điều trị, nếu cần thì có thể dùng Quỹ Dự phòng của bảo hiểm y tế (BHYT).

Ông Long nhắc lại thực trạng mà ai cũng biết để thuyết minh tại sao chính phủ đề nghị như vậy: Trong đợt dịch vừa qua, rất nhiều bệnh nhân nhập viện, nhân viên y tế phải dốc sức cứu chữa, không có thời gian để thực hiện các thủ tục hành chính, thành ra thiếu cơ sở để xác nhận khoản nào là chi phí điều trị COVID-19 có thể dùng ngân sách thanh toán, khoản nào là chi phí điều trị không liên quan đến COVID-19 mà BHYT hoặc bệnh nhân phải trả. Chưa kể nhiều người được đưa vào bệnh viện không có giấy tờ, không mang theo tiền, không thể liên lạc với thân nhân, sau đó thiệt mạng, không thể thu viện phí!..

Đáng lưu ý là rất nhiều thành viên UBTV Quốc hội vừa bày tỏ sự… cảm thông sâu sắc với nhân viên y tế vì đã phải khám bệnh, chữa bệnh, lại còn phải thực hiện thủ tục… bóc tách, không dễ để có thể tận tâm, tận lực trong hoạt động nghề nghiệp, vừa lo nhân viên y tế, cơ sở y tế không… nhiệt tình bóc, tách và sẽ khiến ngân sách không… kham nổi gánh nặng này. Thậm chí Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội còn lưu ý là dùng ngân sách thanh toán hết chi phí điều trị cho cả những người không có BHYT thì sẽ là… không… công bằng với những người đóng BHYT (?!)…

Ông Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội, chính thức chốt lại: Không giao cho chính phủ quyền điều hòa giữa ngân sách và BHYT. Chỉ được phép dùng ngân sách thanh toán cho những trường hợp không thể bóc, tách được, không được phép sử dụng nguồn tiền từ BHYT để thanh toán như ngân sách.

Một vấn đề khác cũng nóng không kém chuyện nhân viên y tế, cơ sở y tế phải… bóc, tách chi phí điều trị COVID-19 để buộc BHYT và người bệnh thực thi nghĩa vụ thanh toán… các chi phí khác là kiểm toán việc mua sắm trang bị, thiết bị y tế. Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước (KTNN) kể rằng, hiện có khoảng 50 văn bản pháp quy liên quan đến mua sắm trang bị, thiết bị y tế để phòng – chống COVID-19 và vì đặc điểm của đại dịch thành ra… KTNN xin phép không kiểm toán loại hoạt động mua sắm này vì sợ vào rồi sẽ không có đường ra bởi mỗi nơi, mỗi kiểu.

Phó Tổng KTNN nói thêm, hiện nay, mua sắm trang bị, thiết bị y tế để phòng – chống dịch vẫn còn vướng mắc. Nhiều khoản được Mặt trận Tổ quốc chuyển cho Bộ Y tế không chi tiêu được vì… vướng cơ chế, chính sách mua bán trang bị, thiết bị y tế. Không có cơ chế, ngành y tế không mua sắm được…

Chủ tịch Quốc hội không đồng ý với thực trạng. Ông ta bảo Quốc hội đã trao quyền cho Thủ tướng và chính phủ tại sao lại không sử dụng? Theo Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và chính phủ phải quyết đoán. Bộ Tài chính cần xem xét để có hướng dẫn cụ thể vì đây là vấn đề thuộc loại cấp bách (1)…

***

Đọc tường thuật về phiên điều trần của chính phủ và thảo luận của UBTV Quốc hội đối với dự thảo… Nghị quyết về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19 dễ có cảm giác: Tất cả các thành viên từ Quốc hội đến chính phủ đều rất… nghiêm cẩn đối với việc sử dụng ngân sách và thực thi các qui định pháp luật liên quan đến chi tiêu. Trong bối cảnh như vừa qua và hiện nay, sự… nghiêm cẩn đó của các viên chức hữu trách giống hệt… robot – không muốn tư duy và hành xử khác với những gì đã được… lập trình.

Tuy nhiên thấy vậy chứ không phải vậy! Hệ thống chính trị và hệ thống công quyền chỉ thận trọng tới mức máy móc, không sử dụng cả não lẫn tim đối với những yếu tố liên quan đến… lợi ích thiết thực của công dân: Quốc hội chỉ muốn dùng ngân sách thanh toán chi phí cho điều trị COVID-19, dứt khoát không cho dùng ngân sách để trang trải các chi phí điều trị khác cho bệnh nhân. Dù đã được Quốc hội bật đèn xanh bằng một nghị quyết ban hành hồi hạ tuần tháng 7, dù tình thế vẫn còn cấp bách, chính phủ vẫn chỉ mua sắm trang bị, thiết bị y tế theo mớ… qui phạm pháp luật rối rắm, chồng chéo!..

Còn đối với những thứ liên quan tới sự tồn vong của đảng, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền ứng xử linh hoạt hơn nhiều, thậm chí không những không cần luật pháp mà còn biến hoạt động lập pháp thành trò hề: Ngày 26/10/2021, Quốc hội thảo luận sơ bộ về Dự luật Cảnh sát cơ động. Nhiều đại biểu bày tỏ sự băn khoăn khi dự luật qui định trang bị phi cơ, tàu biển cho lực lượng cảnh sát cơ động vì điều đó hết sức tốn kém, phải chi những khoản khổng lồ để mua sắm, bảo dưỡng… Họ đề nghị phải có nghiên cứu – báo cáo đánh giá về tác động cụ thể (2).

Đó là chuyện nghị trường! Trên thực tế, nửa tháng… trước khi Quốc hội thảo luận về… Dự luật Cảnh sát cơ động như vừa kể – luật Cảnh sát cơ động chưa có ngày khai sinh, hôm 11/10/2021, Bộ trưởng Công an đã công bố quyết định thành lập… Trung đoàn Không quân Công an nhân dân, trực thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động và Bộ Công an đã tổ chức trọng thể Lễ ra mắt trung đoàn này. Chẳng cần Quốc hội, không thèm chờ luật, chỉ cần đảng, nhà nước có… chủ trương hiện đại hóa lực lượng cảnh sát cơ động (3) thì ngân sách thế nào không còn là chuyện đáng để bận tâm. Ai dám cản?

Chú thích

(1) https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/quoc-hoi-da-trao-quyen-chinh-phu-can-co-quyet-sach-manh-me-hon-799520.html

(2) https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/dei-bieu-quoc-hoi-co-nen-trang-bi-may-bay-cho-luc-luong-cenh-set-co-dong-675454

(3) http://bocongan.gov.vn/tin-tuc-su-kien/hoat-dong-cua-luc-luong-cong-an/bo-cong-an-thanh-lap-va-ra-mat-trung-doan-khong-quan-cong-an-nhan-dan-d18-t30318.html