NỖI ĐAU KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ MẤT… – BS Xuân Sơn Võ

Việt Luận – Viet’s Herald

BS Xuân Sơn Võ

“… Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng…”

Một trong các thắc mắc mà mấy anh em chúng tôi cứ hỏi nhau hoài, là làm sao có thể tính được thiệt hại vật chất trong vụ lũ lụt vừa qua ở những nơi chúng tôi đến, tại Khánh Hòa, tại Phú Yên?

Mất sạch. Có lẽ đó là khái niệm chung nhất của bà con ở những vùng lũ lụt nặng. Nhưng mất sạch theo quan niệm chung, là mất những cái “động sản”, còn những thứ thuộc về “bất động sản” thì đâu có mất đi đâu. Nhưng không. Truyền thông đưa tin, nơi có 7 cái trang trại nuôi heo bò gà vịt đã bị biến thành một dòng sông. Ngay cả bất động sản cũng bị lũ cuốn trôi luôn.

Mất sạch ở đây cần được hiểu rằng, có gì mất nấy. Có ít mất ít, có nhiều mất nhiều. Có càng nhiều mất lại càng nhiều. Sau lũ, ai cũng trắng tay, ai cũng bắt đầu lại với hai bàn tay trắng… bệch. Cứu trợ bao nhiêu cho đủ, đền bù bao nhiêu cho đủ. Tiền tỉ mang ra đó, cũng chỉ như muối bỏ biển, chẳng thấm tháp vào đâu. Cái gì cũng phải mua lại, từ cây kim, sợi chỉ, đến xong nồi, chén dĩa, đũa muổng…

Anh Toàn, chủ một cơ sở bida thuộc hàng top đầu ở Tuy Hòa, Phú Yên với 20 cái bàn bida phải bỏ đi, phải thay mới hoàn toàn. Đi trên đường Võ Nguyên Giáp ở Nha Trang, bạt ngàn xe hơi chờ sửa sau khi bị ngập. Ngay trong thành phố Nha Trang, cứ chỗ nào thấy xe hơi xếp hàng dài, lớp trong lớp ngoài, là y như rằng ở đó có cái garage, xe xếp hàng đó để chờ đến lượt vô sửa. Đi trên cao tốc, ngoài các chuyến xe cứu trợ có gắn bandrole, thì nhiều thứ nhì là những chuyến xe cứu hộ, kéo những chiếc xe bị lũ đi từng đoàn, từng đoàn… theo hướng ngược lại.

Nhiều tỉnh đã phải điều xe rác đến Khánh Hòa, Phú Yên để giúp dọn rác. Dân ở đây làm gì mà lắm rác vậy? Không, đó là của cải, là tài sản, là mồ hôi, là nước mắt… của bao nhiêu người dân, bị lũ lụt biến thành rác. Chứng kiến một chỗ người ta đốt rác, trong đó lỏng chỏng tủ lạnh, TV… Không chỉ có cảm giác xót ruột. Của cải, tài sản không phải của mình, nhưng sống mũi cứ cay cay, lái xe nhìn đường cứ nhòe đi.

Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng.

Đau hơn nữa, là biết vậy, mà vẫn cứ phải cắn răng chịu mất, cứ phải chống mắt nhìn nó ăn, nhìn nó kiếm tiền, nhìn bà con mình bỏ mạng, nhìn của cải, đồ đạc mất sạch, nhìn hai bàn tay trắng bệch…

BS Xuân Sơn Võ


 

Bão tố, lũ lụt – Một thách thức về sinh thái và môi trường mà còn là một thách thức chiến lược sống còn của Hà Nội

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

09/12/2025

Tôi còn nhớ khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ vào tháng 12-1946 thì tôi có mặt ở Hà Nội và chứng kiến chỉ trong một đêm sau một tiếng nổ kinh hoàng và nhà đèn tắt phụt và ngày hôm sau, bộ đội chủ lực của Võ Nguyên Giáp đã rút lui ra khỏi Hà Đông và chỉ còn lại dân quân du kích ở lại cầm chân Pháp và làm vật hy sinh chết dần, chết mòn..

Người Pháp đã mau chóng ổn định an ninh Hà nội dần trở lại nếp sinh hoạt bình thường cho đến năm 1954 với Hiệp định Genève chia đôi hai bên ở Vĩ Tuyến 17..

Trong suốt gần 10 năm trời ở Hà Nội, tôi không hề thấy cảnh tượng Hà Nội chìm trong biển nước như hiện nay..Nay  cứ một trận mưa thì Hà Nội biến thành một hồ nước nhân tạo. Xe cộ chết máy la liệt trông đến thảm thương.

Vì Hà Nội xưa có những hồ chứa nước như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch một sự điều hòa đúng mực..

Vào miền Nam, tôi ở Đà Nẵng một năm mới chuyển vào Sài Gon. Lên Đại học, học ở Viện Đại Học Đà Lat. Ra trường, đổi về Nhatrang trong 6 năm. Mùa hè ra Huế sống hơn 2 tháng, coi thi ở Quảng Ngãi, Quảng Trị..

Nhắc đến đây, tôi xin đặc biệt nhớ lại những kỷ niệm khó quên ở Phan Thiết, tôi không còn nhớ năm nào? Nơi mà nay cũng chìm đắm trong lũ lụt.

Chỉ biết rằng,  trước đây, tôi được điều động ra Phan thiết với vai trò phó hội đồng thi. Trương Ân, hiệu trưởng Quy Nhơn -một người bạn cũ Đà lạt làm chủ tịch. Hai chúng tôi đến ở nhà  một người bạn học cũ, anh Tùng được điều đi nơi khác..

Một lần, một nữ giáo viên vốn bố mẹ làm chủ vựa nước mắm mời đến nhà ăn. Cô Ung Thị Bạch Tuyết. Ôi thì sơn hào hải vị, cái gì ngon nhất, hai chúng tôi đều được hưởng. Cũng bữa tiệc đó, có một nữ giáo viên

đem lòng “ mê” tôi. Số tôi đúng là số “con rệp”, đi đâu gieo rắc họa đến đấy. Em nữ giáo viên tên N. có ngỏ lời bằng cách tặng tôi bài hát rất ư “ thôn nữ quê” : “hãy trả lời em đi anh” với băng casette.

Về nhà, Trương An cho vào máy, rồi hát rống lên: Hãy trả lời em di anh..Tôi nghe mà lòng lạnh tanh.  Trong khi Trương Ân nói: Này toa, em này nó mê toa rồi đố. Tôi lặng thinh.

Khi hai chúng tôi quay về, tại phi trường Phan Thiết, cả một bày nữ giáo viên ra tiễn đưa, trong đó có N. , nước mắt lưng tròng.. Sau này N. trở thành nhà

văn nữ khá nổi tiếng. Quà mang về là thứ nước mắm nhĩ thứ hảo hạng, cộng với mực phơi hai nắng trên nóc các thuyền đánh cá, ăn mới ngon và mới ngọt làm sao.

Ôi, cả một thời yên bình và hạnh phúc cho một con dân miền Nam.

Nhắc lại như một hồi ức khó quên!!!

Trong những năm tháng ấy, tôi chưa hề chứng kiến những trận bão như số 11, 12, 13 và những trận lụt khủng khiếp, nước ngập sâu đến mái nhà, dân chúng phải leo lên mái nhà. Lũ lụt trong khoảnh khắc phá tan cầu đường, thiệt hại chẳng những tài sản, nhất là đến sinh mạng con người.

Được biết, một gia đình nuôi đến 4000 con vịt, sau cơn lũ, chỉ còn khoảng 900 con. Người khác, ở Quảng Bình, có khoảng 100 gốc sầu riêng, sau lũ còn lại vài gốc.

Chưa kể, hàng trăm người bị lũ cuốn trôi mà nhiều người sau này không tìm được xác..

Nghĩ đến đây, bất giác như buồn nôn…

Tôi chỉ hỏi mà không có câu trả lời cho mình và cho đồng bào bị nạn..

Dân chúng trong khắp các tỉnh thành lập các đoàn cứu trợ để kịp thời để đền bù các thiệt hại về nhà cửa và nhất là người chết oan..

Lấy gì và bằng cách nào đền bù cho những oan hồn chết oan mà vốn mạng người là vô giá!!

Tôi theo dõi các bản tin mỗi ngày và  tôi nhận ra hai điều:

  • Dân chúng chỉ thấy đây là “tai trời” mà không một lời oán thán nhà cầm quyền.
  • Một cơn lụt lội khủng khiếp như thế, nhưng tôi không hề thấy cấp lãnh đạo cấp tỉnh bên cạnh người dân. Nói chi đến thủ tướng Phạm Minh Chính hay ông Tô Lâm? Người ta chỉ có cơ hội nhìn thấy các ông trong những chuyến công du liên tiếp, bên cạnh các mệnh phụ phu nhân ăn mặc  sang trọng.
  • Hình như thể họ thuộc một tầng lớp lãnh đạo chỉ biết cai trị hơn là người của dân chúng.

Tuy nhiên, nhà nước cộng sản Hà Nội đã không hề tiết lộ nạn phá rừng, xẻ núi, lấp ao hồ, lấp dòng sông để xây xa lộ, xây đường cao tốc và xây dinh thự.

Đất nước hình như chỗ nào cũng bị “xi măng hóa” hay “ nhựa hóa” đến độ mưa lũ xuống không có tầng đất xốp để hấp thụ nước nên gây nạn ngập lụt.

Mà đáng nhẽ, nó cần “một thành phố bông gòn” để có thể hấp thụ nước, tránh lũ lụt.

Nạn phá rừng tùy tiện lấy gỗ đã tạo ra nạn sạt lở, vì không có cây rừng ngăn chặn.

Nghĩ đến đây, tôi nghĩ đến trường hợp hãng Cimexcol, Minh Hải với Dương Văn Ba, toa rập với các quan chức đã cho người sang Lào khai thác gỗ, tạo ra dòng chảy sạt lở mà chúng gọi là “Chương trình phát tiển Lào”.

( Xin tóm lược  trở lại năm 1985, cách mạng Lào chiến thắng. Để kỷ niệm chiến thắng này, quân đội cách mạng Lào đã lập ra” công ty phát triển rừng núi Lào là Borisat Phattana Khet  Phoudoi, gọi tắt là BKKP. Công ty được đặt dưới chỉ đạo của đại tướng Khăm Tây Xiphandoong- thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng Lào.

Công ty lại liên doanh với một công ty mới thành lập tại TP Hồ Chí Minh và tỉnh Minh Hải, gọi là Cimexcol liên doanh..( Trích Đời của Hồ Ngọc Nhuận, trang 307). 

  • Về phía người dân

Dân chúng thì vô trách nhiệm. Rác cứ đem đến lỗ ống cống mà đổ gây nghẹt ống cống và nước lũ không trôi được..Lấy trường hợp Kênh Nhiêu Lộc cứ phải vét đi vét lại vì dân chúng coi con kênh như chỗ xả rác .

Đường Cỏ Ngư ở Hà Nội được ví như con đường tình Duy Tân ở Sài gòn. Nhưng hai bên đường mọc đầy quán ăn chen lấn cả lề đường làm con đường bị ô nhiễm trầm trọng..

Hiện nay, không ai còn biết, bao nhiêu ao hồ ở Hà Nội đã bị vùi lấp làm nhà ở?

Mảnh đất nào cũng bị cời xấy lên bằng xi măng làm nhà ở hoặc bằng nhựa đường làm các xa lộ, các cao tốc.

Hà Nội chỉ nhìn thấy cái lợi nhất thời mà không  có một cái nhìn về tương lai của một đất nước.

Mưa xuống không có lớp đất xốp, bãi cỏ để thẩm thẩu nước mưa gây nạn lụt gây ra sức tác hại về môi sinh, môi trường đến không thể nào tính hết thiệt thại bằng tiền.

Cả nước như chìm vào biển nước, dân chúng không biết kêu cứu vào ai. Hà Nội chỉ đưa ra những giải pháp vá víu cục bộ, nhất thời.

Năm nay lụt thì có thể năm sau cũng tiếp tục lụt lội ở một mức độ kinh kihủng hơn.

Có một cái gì bảo đảm là tương lai sẽ hết ngập lụt?

 Sự sửa chửa những sai lầm về môi sinh, môi trường đòi hỏi những tốn phí gấp hai, gấp ba lần hơn trước?

Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự sai lầm ngu ngốc của mình..

Nay vẫn ưu tiên tiếp tục xây dựng những đền đài, cung điện như đài” tưởng niệm những nạn nhân đại dịch Cô Vít”?

Chúng ta chỉ biết lên tiếng cảnh báo, còn trách nhiệm là ở quan chức lãnh đạo Hà Nội!!!!

Ước gì Hà Nội học được bài học của Thủ tướng Lý Quang Diệu mà vứt mẩu thuốc lá xuống đường cũng bị phạt nặng.

Đó là một nếp sống văn minh và văn hóa cao mà người dân biết tự trọng tuân thủ.

Viết những dòng này, chúng tôi mong mỏi một đất nước “ độc tài dân chủ vì người dân” như nhiều xã hội Đông nam Á như Nhật, Đại Hàn, Singapore  thay vì một “ đất nước độc tài mà quyền lợi của đảng trên hết” như Việt nam, Triều Tiên.

Phần Hai: Sự lựa chọn ưu tiên chiến lược dưới sự trình bày của giáo sư Khương Hữu Lộc.

Phần bài viết này chủ yếu dựa trên sự trình bày khoa học, khách quan về mọi mặt giúp có một cái nhìn sáng tỏ và khách quan về sự chọn lựa sống còn cho Việt Nam.

Chúng ta không thể không ưu tiên giải quyết vân đề lũ lụt.

Thứ nhất, không thể nào không giải quyết sự an toàn giao thông nếu không giải quyết hạ tầng cơ sở với nạn ngập lụt trên khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc.

Sự ưu tiên giải quyệ’t nạn lũ lụt này đòi hỏi một chi phí từ 70 chục tỉ đồng tiền Mỹ đến 100 tỉ đồng.

Không có sự chi phí ưu tiên thì xe điện đi ngang qua các vùng lũ lụt không có sự an toàn của những vùng địa lý thiên nhiên với những hồ chứa nước.

Chưa nói đến các tảng băng ở bắc cực nay tan nhanh tạo ra một dòng chảy như thác lũ đổ ra biển, làm cho mực nước biển tăng lên!! ảnh hưởng trục tiếp đến địa lý thiên nhiên khu vực.

Bên Mỹ, các xa lộ đều có hệ thống Master Plan- một hệ thống ao, bờ để giúp thoát nước..

Nhưng mặt khác, để đất nước phát triển không thể không nghĩ tới một dòng xe điện cao tốc với tốc độ trung bình 350 kilo/mét giờ. Từ ga xe lửa Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm, đi qua 22 trạm chỉ mất 5 tiếng thay vì 33 tiếng của xe lửa đã lỗi thời của thời Pháp để lại.

Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh với việc xử dụng phương tiện máy bay. Chi phí vé máy bay thường tốn kém hơn, mặc dầu chỉ mất hai giờ 10’ bay từ Hà Nội vào Sài Gon.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là hành khách phải có mặt ở phi trường một tiếng đồng hồ trước cho việc check in cũng như thủ tục đợi lấy hành lý.

Thời tiết xấu cũng ảnh hưởng tới các chuyến bay với thời gian chờ đợi tại các phi trường không phải là điều dễ chịu..

  • Các công ty góp phần xây dựng đường cao tốc Bắc-Nam.

Hiện nay được biết có 6 công ty. Trong đó có hai công ty của người VN là Vin Speed và Taco. Trong đó việc góp vốn của công ty là 20 %, 80% còn lại vay vốn nhà nước không tiền lời, trả dần trong 30 năm.

Vin Speed là của ông Phạm Nhật Vượng- một người dám nghĩ và dám làm. Và làm là có thể lỗ. Và vì vậy khó có kết quả tài chánh hay thương mại, nhưng vẫn phải đứng ra đấu thầu.

Trễ một năm, tiền vốn dự chi có thể tăng không trù liệu trước được. Giả dụ  đầu tư 65 tỉ đô la, cho rằng tiền lời hàng năm là 5% vẫn lợi thế hơn làm đường cao tốc.

Việt Nam phải lựa chọn các nhà đầu tư như Nhật, Pháp và cả Trung Quốc. Nhờ đó có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh việc cài đặt các thiết bị do thám có hại cho an ninh quốc gia.

Đồng thời về mặt quyền lợi pháp lý, phải có sự bảo đảm quyền lợi bảo trì vốn là điều kiện tối ưu.

Và trong một thời gian nhất định, phải bàn giao việc chuyển giao công nghệ toàn bộ cho Việt Nam.

Nước Mỹ ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe hơi. Trong khi nước Pháp ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe điện cao tốc. Vì thế với kinh nghiệm nhiều năm, chúng ta nên mời Pháp tham gia chương trình kỹ nghệ đường sắt cao tốc cũng như mời cả Nhật bản.

Về mặt thương mại, mỗi một nhà ga là một điểm hội tụ tất cả những lợi ích thương mại như giao thông, vận tải, nhà băng, khu vực buôn bán làm ăn, các khu chung cư, các khu thương mại,  khu du lịch, các nhà hàng ăn như một thành phố đô thị mới phát triển và bền vững.

Lợi ích kinh tế không phải là nhỏ.

Trong trường hợp khi có nhu cầu quân sự, việc chuyển quân, các nhu cầu quân sự như súng ống, đạn dược, xe cộ chỉ mất vài tiếng đồng hồ, tránh tình trạng bị động, không thích ứng kịp..

Trước những lợi ích về nhiều mặt như thế, việc khai thác đường xe lửa cao tốc Bác- Nam là điều chẳng đặng đừng, không làm không được.

Và càng trì trệ, vốn sẽ đội lên không theo kịp..


 

NGUYỄN TƯỜNG THỤY: MỘT ĐỜI NGƯỜI CHỌN LÀM BÁO VIẾT SỰ THẬT

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Có những con người, dù đã đi qua hơn nửa đời người, vẫn không thể làm ngơ trước những điều sai trái đang diễn ra quanh mình. Nguyễn Tường Thụy, sinh năm 1950, là một trong số ấy. Ở tuổi mà nhiều người đã chọn sống an nhàn bên gia đình, ông lại chọn bước đi trên con đường đầy bất trắc: con đường của sự thật, của quyền tự do báo chí, của trách nhiệm công dân.

Ít ai biết rằng trước khi trở thành một trong những gương mặt nổi bật của báo chí công dân Việt Nam, ông Thụy từng là quân nhân trong Quân đội nhân dân. Hình ảnh người lính, người từng đi qua chiến tranh và hiểu giá trị của hòa bình, dường như đã góp phần tạo nên một Nguyễn Tường Thụy kiên trì, điềm tĩnh và luôn nghĩ về tương lai đất nước.

Từ giữa những năm 2000, ông Thụy xuất hiện ở nhiều nơi mà lẽ ra một người ở tuổi ông không cần phải đi: các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, các buổi xuống đường bảo vệ cây xanh Hà Nội, các phiên tòa xử dân oan khiếu kiện đất đai.

Ông không phải người hô hào. Ông quan sát. Ông lắng nghe. Ông viết lại.

Qua ngòi bút của ông, người đọc thấy được nỗi đau của từng người dân, sự khốn khổ của những mảnh đời bơ vơ trước guồng máy quyền lực, và cả hy vọng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt về một xã hội công bằng hơn.

Ông tham gia Hội Bầu bí tương thân, góp phần sáng lập Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, viết bài cho Đài Á Châu Tự Do, và điều hành một blog cá nhân với lượng độc giả lớn. Ở tuổi 60–70, ông vẫn miệt mài đi lại, ghi chép, trò chuyện với từng gia đình nạn nhân môi trường, từng người dân oan trong các vụ cưỡng chế đất.

Ngày 23/5/2020, công an bắt giữ ông tại Hà Nội theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. Phiên tòa ngày 5/1/2021 tuyên ông 11 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Một người đã gần 70 tuổi phải đối mặt với bản án hơn một thập kỷ, điều đó vượt quá sức tưởng tượng của nhiều người.

Giờ đây, ông đang bị giam ở Trại giam An Phước (Bình Dương), xa gia đình, xa người thân, xa những câu chuyện mà ông vẫn muốn được kể.

Nguyễn Tường Thụy không phải người hùng theo nghĩa hào nhoáng. Ông chỉ là một người bình thường, lớn lên trong một đất nước nơi tiếng nói trung thực đôi khi phải trả giá đắt. Nhưng chính vì thế, câu chuyện của ông mới đáng trân trọng.

Những gì ông trải qua, nhắc ta rằng:

Làm người tử tế, ngay cả khi điều đó nguy hiểm, vẫn là một lựa chọn đáng sống.

Vân Phong


 

Hàng trăm ha rừng bị cày nát như thế…

Lê Vi

 Để hàng chục, hàng trăm ha rừng bị cày nát như thế không thể là chuyện không ai hay biết. Muốn phá rừng quy mô lớn phải có đường mở, máy móc vào, gỗ vận chuyển… tất cả đều diễn ra trong thời gian dài. Vậy mà khi hậu quả phơi bày, trách nhiệm lại thu hẹp vào hai nhân viên kiểm lâm?

Thực ra gốc rễ vấn đề chưa bao giờ được xử lý đến nơi đến chốn. Rừng không tự nhiên mất, mà mất vì con người ta chọn cách làm ngơ. Ai cũng hiểu phía sau mỗi cánh rừng bị xóa sổ là cả một chuỗi mắt xích cấu kết: từ người phá rừng, kẻ bao che, đến những người đáng lẽ phải bảo vệ nhưng lại quay đi vì lợi ích.

Chừng nào những mắt xích này còn được dung túng, chừng nào trách nhiệm vẫn chỉ được xử lý trên giấy, thì phá rừng sẽ còn tiếp diễn. Và cái giá phải trả luôn là người dân, là môi trường, là tương lai của chính chúng ta.

KHÔNG THAM NHŨNG THÌ KHÔNG LÀM VIỆC” – LỜI THÚ TỘI VÔ TÌNH CỦA BỘ MÁY QUYỀN LỰC?

Xuan Ly is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Phát ngôn mới của Thủ tướng Phạm Minh Chính chẳng khác gì một cú vô tình vạch áo cho người xem lưng, phơi trần bí mật mà dân ta thuộc lòng từ nửa thế kỷ: bộ máy quan chức Việt cộng muốn vận hành thì phải được… bôi trơn. Không tham nhũng, không thể làm gì. Tham nhũng chính là dầu máy để cả hệ thống chạy.

  1. Bộ máy hai tầng: làm là ăn – không ăn thì đừng làm

Ông Chính nói “làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm không sai”. Nhưng phần bị giấu đi mới là cái lõi:

Trong cơ chế này, “làm việc” đồng nghĩa “ăn được bao nhiêu”, và “không làm” chính là cách tự cứu mạng khi phe cánh đang thanh trừng lẫn nhau.

Từ các cục, vụ, sở cho đến tỉnh, bộ – tất cả cùng tuân theo logic bất thành văn:

– Muốn tồn tại,  phải biết chia phần.

– Muốn an toàn, phải biết dừng đúng lúc.

  1. “Trách nhiệm người đứng đầu” – khẩu hiệu hóa vũ khí thanh trừng

Ông Chính cứ nhắc “trách nhiệm người đứng đầu”, nhưng dân ai cũng biết đây chỉ là mặt nạ pháp lý cho các đợt thanh lọc phe phái.

Một cái nháy mắt từ trung ương đủ để loại cả một mạng lưới lợi ích. Từ Vương Đình Huệ tới Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng – ai rơi vào tầm ngắm đều bị “phát hiện sai phạm”.

  1. “Đốt lò” , kịch bản tái lập quyền lực chứ không phải làm sạch

Kể từ khi Nguyễn Phú Trọng nắm Ban Chỉ đạo, chống tham nhũng trở thành nghi lễ tế thần của Đảng.

Củi nhỏ, củi lớn, củi tươi, củi khô đều chất lên để giữ một thông điệp:

“Quyền lực nằm trong tay ai thì người đó định nghĩa thế nào là tham nhũng.”

Tham nhũng không hề giảm; nó chỉ được sắp xếp lại. Một nhóm mất phần – nhóm khác được chia.

  1. Vấn đề không nằm ở quan chức – mà nằm ở cái lò

Khi:

– Không có báo chí tự do,

– Không có bầu cử thật sự,

– Không ai giám sát người cầm quyền,

– Lợi ích nhóm ngồi trên luật pháp,

thì tham nhũng không phải “sai phạm”. Nó là cơ chế, nhiên liệu, móng nền của bộ máy.

Kết luận

Cái lò được dựng lên từ gỗ mục của chính chế độ.

Càng đốt, càng bốc mùi.

Và người dân chỉ là khán giả bất đắc dĩ của một vở kịch kéo dài nhiều thập kỷ:

chống tham nhũng để củng cố tham nhũng – thanh trừng để duy trì quyền lực.

Le Anh

Nguyễn Lân Thắng : Một nhà hoạt động nhân quyền tích cực

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Sinh năm 1975, là một blogger, nhà hoạt động nhân quyền tích cực, và là người đồng sáng lập No-U FC, một câu lạc bộ bóng đá hoạt động vì cả dân chủ lẫn dân tộc, chẳng hạn như các cuộc biểu tình phản đối yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.

Ông đưa tin về các vụ tịch thu đất đai, cưỡng chế di dời, và vi phạm nhân quyền, đồng thời đấu tranh cho quyền sử dụng đất, tự do tôn giáo, các vấn đề môi trường và quyền của những người yếu thế. Ông thường xuyên đến các địa điểm xung đột đất đai, ghi chép các hoạt động của cảnh sát và gửi báo cáo.

Ngày 5 tháng 7 năm 2022, ông Thắng bị công an Hà Nội đã bắt giữ và bị khởi tố theo Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 với cáo buộc “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước”.

Phiên tòa xét xử ông diễn ra vào ngày 12 tháng 4 năm 2023, trong một phiên tòa kín; chỉ có luật sư và vợ ông được phép tham dự.

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên án ông 6 năm tù giam và 2 năm quản chế với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” theo khoản 1, Điều 117.

Phiên xử và bản án đã vấp phải phản ứng mạnh mẽ từ các tổ chức nhân quyền quốc tế về tính minh bạch và công bằng của thủ tục tố tụng.

Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế—bao gồm Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Tổ chức Ân xá Quốc tế, và một ủy ban độc lập của Liên Hợp Quốc (Nhóm Công tác của Liên Hợp Quốc về  Bắt giữ Tùy tiện) đã chỉ trích mạnh mẽ phán quyết này. Họ cho rằng việc giam giữ ông là tùy tiện, vì ông chỉ đơn thuần thực hiện quyền tự do ngôn luận theo luật pháp quốc tế.

Nguyễn Lân Thắng là trường hợp điển hình trong danh sách những nhà hoạt động ôn hòa bị truy tố hình sự vì các hoạt động biểu đạt chính kiến ở Việt Nam./.

Vân Phong


 

 Gió chướng đã đổi chiều – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

06/12/2025

 Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc)

  Cách đây đúng 50 năm-đúng nửa thế kỷ- trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7 đang đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam VN vào lúc miền Nam đang hấp hối.

Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, tác giả cuốn Viêt Nam, a history. Frank Sneppp với các cuốn: Decent Interval và An Insinder Account of Saigon. David Halberstam với The best and the Brightest.. và Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith..vv.

Tất cả bọn ký giả này, trừ Stanley Karnov và trum mật vụ Frank Snepp  đều là bọn ký giả thuộc thành phần phản chiến, luôn tìm cách bêu xấu và phát biểu tiêu cực về miền Nam. Bọn họ gián tiếp là nguyên cớ đưa đến sự suy sụp miền Nam vào ngày 30 tháng tư, 1975, toa rập với tên H. Kissinger.

Tôi gọi sau này là: Người Mỹ thua Mỹ ngay tại Mỹ.

Đặc biệt, phụ tá Trùm mật vụ Frank Snepp đã từ Đài Loan đến đây được vài giờ để đón tiếp một nhân vật quan trọng: Đại sứ Martin. Ông đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói: Đó là lá cờ Mỹ. Ngay khi vừa đặt chân lên bong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ Sài Gòn, ông nhận được một điện tín của H.Kissinger với nội dung như sau:

« Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!”

Nhìn từ trên bong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?

Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì. Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất.

Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư.từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi. Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre?

Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ.

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy.

Nhưng cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:

 Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển..

Nhìn cảnh tượng đó, Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay như những chứng nhân lịch sử vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam chắc hẳn có công của ông đấy.

Haberstam trả lời:

Tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh.

  Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi- mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!

 – Chắc là ông hãnh diện lắm.

– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia xem.

Ông cứ tưởng tượng, trong số 100 ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn

Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả

Bài hát vui Que sera sera của Doris Day trở thành câu hỏi cho mỗi người Việt bỏ nước ra đi.

Những điều nhận xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có một nữa phần đầu của câu chuyện.

Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh trẻ VN(NCK) vừa đáp trực thăng của ông xuống bong tàu muốn được gặp.

Vị đô đốc ra lệnh một cách tắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc cởi bộ quân phục cũng như lon của ông ra và không được tuyên bố gì..

Đây là nước nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.

 Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã nhục nhã khóc, quỳ xuống, ngữa mặt lên trời và hét to lên:

« Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về.”

Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về..

Nhưng vấn đề là về để làm gì và về như thế nào? Đó là chuyện khác.

Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài.

Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước.

Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế.

Đấy là còn chưa kể những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa, người Việt đến được các xứ tự do mọi người đều quyết tâm cất cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống.

Và cuối cùng để giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần ” rác rưởi” muốn vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự”(orderly Departure Program).

Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme)(1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu:

Những con bò sữa thuyền nhân”.

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về?
(1) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.

Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó:

Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.

 Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Hùynh Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.
Kể cũng lạ, tên đường phố ở Sài Gòn thường đổi cả, chỉ có phi trường Tân Sơn Nhứt là vẫn để nguyên, phải chăng bởi vì tên đó chẳng gợi nhớ lên một ấn tượng gì? Lúc ra đi, cái được coi như giấy thông hành là mảnh giấy mà nội dung như sau: Căn nhà 224B Nguyễn Huỳnh Đức do nhà nước quản lý. Quản lý là giữ giùm? hay giữ luôn?

Việc ra đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này.

Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.

Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Trách chi những nhà báo Mỹ ở trên. Chính người Việt đã quên cái thảm cảnh liều chết ra đi với bất cứ giá nào,

 Nay họ đã quay trở về mà không thấy tủi hổ và khongo biết ngượng.

Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nuớc, bọn tay sai. Cho mãi đến 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước.

Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la! Không phải chỉ 3 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn 10 tỉ-15 tỉ, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước.

Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ.

Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trốn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân..

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này cùng lắm chỉ bán cá chợ Trần Quốc Toản.

Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó.

Đã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ..Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học.”

Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.

Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.

Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối.

Những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc.Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù cũng bị bỏ quên lãng.

Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người không thức thời. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Họ chỉ còn là những loài củi mục trong đám cây rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.

Nhưng chắc hẳn nhiều người không

nghĩ như thế. Bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua

một bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Củi mục thì cũng vẫn là củi.

Người ta nói, nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì? Thà là như anh thuyền chài, thà là như chị bán cá nói tiếng Mỹ oe éo.

Thà là như thế.

Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi.

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản.

Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu sài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.

Đó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.

10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người-năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sài Gòn-Mỹ, Sài Gòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra.

Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với 74 dự án được chấp nhận với số vốn 540 triệu đô la. Những Việt kiều như Nguyễn chánh Khê với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm.

Năm vừa qua, dự án khu khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng.Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.

Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.

Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa.

Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.

Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này:” Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam “Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình..” bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 29 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước.

Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật.

Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay..Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng.Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:

chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.

Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như nước ấy không?

Phát triển kinh tế không đồng nhịp với cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường phố Sài Gòn, Hà Nội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng học đường ở VN là đủ hiểu.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.

Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn ” tiến bộ” nay trở thành thứ ” Chim hót trong lồng”.

Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng.

 Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sài Gòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sài Gòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sài Gòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.

Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những nguời di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

 Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Lynda để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần giấu giếm với đồ dùng toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy.

 Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là Việt Kiều”.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án ” thành phố xanh” (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao, Restaurant Hoài Hương để nhớ về;nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là ” tiểu Cali “, ” tiểu Fairfax ” để nhớ đến.

Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

 Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng loại của họ.

  Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ.Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói:

– Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp.

Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là câu chuyện khác.

Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN.Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác.

Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền.Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.

Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao.

Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.

Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

 Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.

Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ.Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ chêu có những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.

Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng!

Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đên VN với mục đích gì?

© Nguyễn Văn Lục


 

NHÂN TAI chứ không phải thiên tai

 

Tôi xin nói rõ ; theo tôi , năm nay không phải là lũ lụt . 

Năm nay không phải lụt . Cũng không chỉ là lũ, theo nghĩa ta quen gọi .

Không cần giàu tưởng tượng lắm đâu , để mà thử nghĩ : Chảy hết núi rồi , thì đến gì nữa ?

Cứ đà này , rồi sẽ đến một ngày , cái nơi thân yêu và thiêng liêng mà ta vẫn gọi là Đất nước , là Tổ quốc , cái mặt đất trên đó là làng mạc , đồng ruộng , thành phố , con người nữa… tất cả , tất cả ta vẫn đinh ninh là trường cửu , là vĩnh hằng đây , có chảy trôi tuột luôn hết ra Biển Đông không ?

Song tôi có cảm giác dường như năm nay , đến giờ này , thì không còn có thể nói đến “ tương tự “ được nữa . Năm nay đã có cái gì đó mới , khác , cái khác đó lại là cơ bản , rất cơ bản . Tất nhiên ở đời không có gì đùng một cái bỗng xảy ra , cái điều tôi thấy và muốn nói là mới , khác , mà lại là mới , khác một cách cơ bản năm nay , tất nhiên đã từng có dấu hiệu những lần trước rồi , nhưng là lẻ tẻ , thỉnh thoảng , trong một điều kiện cực đoan bất chợt nào đó . Nó tích tụ dần , cho đến năm nay , thì trở thành hiện tượng tai họa cơ bản . Hơn thế nữa , rất có thể từ nay cái cơ bản này sẽ trở thành bình thường , hằng năm , ngày càng nặng hơn , dữ hơn . Thành “ quy luật ” nếu ta muốn nói cho có vẻ chữ nghĩa , khoa học một chút .

Giáo sư Nguyên Ngọc Lung , chuyên gia số một về rừng , vừa có bài viết nói rõ : khi còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất , 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm , cho nên ta đào giếng ở đâu cũng có nước . Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại , chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm , hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất .

Nghĩa là còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt . Lụt hiền , lành , và thân thuộc như bạn chung tình mỗi năm một lần trở lại . Tôi ở Hội An , tôi biết , 3 năm qua không có lụt , người ta nhớ và chờ . Lụt rửa sạch ruộng đồng và mang về phù sa .

Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên , chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt , với cỏ , với cao su , keo , cà phê… tràn lan , là các loại cây không có bộ rễ giữ nước , ( mà các báo cáo với thống kê cứ gọi vống lên một cách gian dối là “ độ che phủ ”), 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ , làng mạc và con người .

Nhưng năm nay khác : Năm nay không chỉ có nước xối xả thành lũ . Năm nay đã diễn ra một điều hoàn toàn khác , mới , và rất cơ bản : NĂM NAY ĐÃ ĐẾN LƯỢT ĐẤT CHẢY .

Tôi chưa có con số thống kê , nhưng số người chết vì đuối nước lũ năm nay , thấp hơn rất nhiều số người chết vì bị đất chảy chôn vùi . Cần hết sức chú ý đến hiện tượng mới này .

Ta gọi là lở núi . Thôi thì nói thẳng đi : Từng quả núi , từng ngọn núi lớn nổ tung rồi chảy ra thành nước , thành thác , vùi lấp xóm làng , ruộng đồng , con người , nuốt gọn từng gia đình , từng cộng đồng người , tất cả , tất cả…

Con người sống trên đất , ấy là ơn nghĩa vĩ đại của Tạo hoá . Trên khắp thế giới con người đều gọi đất là Mẹ hay là Cha . Fatherland , Mère Patrie , người Việt thì gọi Tổ quốc của mình là Đất nước .

Mối quan hệ sinh tử của sự sống là Đất và Nước , được kết chặt vào nhau bằng Rừng . Năm mươi năm nay , với lòng tham vô độ , bất chấp mọi lời kêu cứu thất thanh , ta đã chặt đứt cái khâu sinh tử : RỪNG . Phá sạch sành sanh rừng rồi . Không còn rừng , rừng tự nhiên , thì NÚI CHẢY RA như nước . Năm nay không phải chủ yếu là lũ nước , mà là lũ đất . Đó là thay đổi cơ bản năm nay , và theo tôi , từ nay .

Ai dám bảo là không ?

Nguyên Ngọc .

Các ông phá nát rừng rồi ngăn nước làm thủy điện ,đảo lộn sinh thái ,khi mưa lớn sợ vỡ đập nên xả nước làm ngập .

Đây là NHÂN TAI chứ không phải thiên tai


 

BÀI GIÁO KHOA CŨ

Xuyên Sơn

Bài học cũ, đơn giản nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có.

Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau.

Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

“Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con”.

Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi bước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở.

Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó.

Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới – rất giả tạo – bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi:

Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị… và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh


 

LÊ TRỌNG HÙNG: NGƯỜI ĐÀN ÔNG DÁM TỰ ỨNG CỬ QUỐC HỘI BẰNG MỘT CHIẾC ĐIỆN THOẠI

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Anh Lê Trọng Hùng, sinh năm 1979, từng là một người đàn ông bình thường ở Hà Nội: có vợ, có con, có công việc ổn định. Nhưng anh lại mắc “cái tật” không bỏ được: thấy bà con mất đất khóc ngoài ruộng thì phải quay phim, thấy cán bộ xã chèn ép dân thì phải livestream, thấy người dân không biết quyền của mình thì phải mở kênh YouTube dạy từng điều luật.

Thế là anh cùng vài người bạn lập ra Chấn Hưng Nước Việt Television – viết tắt là CHTV. Không phòng thu, không biên tập viên áo vest, chỉ có một chiếc điện thoại, một cái xe máy và một trái tim nóng. CHTV trở thành “đài truyền hình” của người dân oan: Đồng Tâm, Dương Nội… ở đâu có tiếng khóc vì mất đất, ở đó có mặt anh Hùng.

Anh dạy bà con cách viết đơn khiếu nại, dạy cách đối thoại với chính quyền, dạy cả cách quay phim để lưu chứng cứ. Anh nói chậm, nói rõ, nói bằng thứ ngôn ngữ mà ngay người ít học nhất cũng hiểu: “Quyền của mình nằm trong Hiến pháp, không phải trong miệng cán bộ”.

Rồi đầu năm 2021, anh làm một việc mà cả nước giật mình: tuyên bố tự ứng cử Đại biểu Quốc hội với tư cách độc lập. Không đảng đoàn bảo lãnh, không cơ quan giới thiệu, chỉ một mình anh và lá đơn. Anh bảo: “Hiến pháp cho phép, sao tôi không làm?”

Chỉ chưa đầy ba tháng sau, ngày 27-3-2021, công an đến nhà anh ở quận Đống Đa. Còng tay. Bắt khẩn cấp. Điều 117 – tội “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Ngày cuối cùng của năm 2021 – 31-12-2021 – tòa tuyên anh 5 năm tù giam và 5 năm quản chế. Lý do? Vì những video anh quay cho người dân oan, vì những buổi dạy luật miễn phí, vì lá đơn ứng cử mà anh chưa kịp nộp. Tòa nói thẳng: anh “làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền”.

Giờ anh đang ở Trại giam số 6, Nghệ An – cùng trại với thầy giáo Bùi Văn Thuận, luật sư Đặng Đình Bách và nhiều tù nhân lương tâm khác. Người nhà chỉ được thăm vài lần mỗi năm, mỗi lần nhìn anh qua tấm kính, gầy đi, tóc bạc đi, nhưng mắt vẫn sáng. 

Anh Hùng là minh chứng sống động nhất cho nghịch lý của thời đại này:

Một người chỉ dùng chiếc điện thoại để nói thay cho dân oan, dạy dân biết quyền của mình, và dám đứng ra ứng cử như Hiến pháp cho phép – lại bị kết án 5 năm tù vì “đe dọa an ninh quốc gia”.

Trong khi đó, hàng triệu người dân vẫn đang mất đất, vẫn đang khiếu kiện, vẫn đang cần những người như anh Hùng lên tiếng.

Hôm nay, ngày Nhân quyền, chúng ta không thể không nhắc đến anh – người đàn ông đã biến chiếc điện thoại thành vũ khí mạnh nhất: sự thật.

Anh không cầm súng, không kêu gọi bạo lực, anh chỉ cầm điện thoại và nói thay cho những người không có tiếng nói. Vậy mà phải trả giá bằng 5 năm tự do và thêm 5 năm quản chế.

Anh đã bị cướp mất tự do, nhưng không ai cướp được điều anh để lại: ý thức công dân mà anh đã gieo vào từng người dân nhỏ bé nhất.

Tự do cho nhà báo công dân Lê Trọng Hùng!

Thế Bảo


 

PHẠM CHÍ DŨNG: 15 NĂM TÙ CHO MỘT CÂY BÚT ĐỘC LẬP  ĐÃ TỪ BỎ HÀNG NGŨ CHẾ ĐỘ

Kim Dao Lam

Sáu năm trước, vào một buổi chiều cuối tháng 11-2019, không tiếng còi xe công an, không tiếng còng tay, không quá đông công an và vài người đàn ông mặc thường phục “mời” ông Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN),  lên xe. Từ đó, một trong những cây bút sắc bén của báo chí độc lập Việt Nam bị giam cầm sau song sắt.

Ông Phạm Chí Dũng, sinh năm 1966, tiến sĩ kinh tế, cựu sĩ quan quân đội với 30 năm tuổi Đảng. Người đàn ông ấy từng ngồi ở những vị trí mà nhiều người mơ cả đời không tới. Nhưng ngày 5-12-2013, ông làm một việc mà không ai ngờ: nộp đơn xin ra khỏi Đảng với lý do ngắn gọn đến đau thắt: “Đảng không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số nhân dân”.

Từ đó, ông chọn con đường còn lại của đời mình: làm nhà báo, thật sự là nhà báo.

Ông thành lập IJAVN – Hội Nhà Báo Độc Lập Viet Nam, tổ chức đầu tiên và duy nhất dám tự nhận mình là “nhà báo độc lập” trong một đất nước mà mọi tờ báo đều phải có “giấy phép sinh hoạt”. Ông viết hàng trăm bài báo, phân tích kinh tế sắc như dao, phơi bày tham nhũng, lên tiếng cho người dân mất đất, cho ngư dân Formosa, cho những tù nhân lương tâm bị lãng quên. Ông ký tên vào mọi thư ngỏ gửi Liên Hợp Quốc, gửi Nghị viện châu Âu, gửi bất kỳ nơi nào còn sẵn lòng lắng nghe tiếng Việt Nam không qua bộ lọc.

Ngày 5-1-2021, Tòa án Nhân dân TP.HCM tuyên phạt ông 15 năm tù giam về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. 15 năm mức án nặng nề dành cho một nhà báo tâm huyết. Cùng ngày hôm ấy, hai thành viên khác của IJAVN là Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn cũng nhận án nặng. Một thông điệp rõ ràng được gửi tới toàn bộ những ai còn dám cầm bút tự do.

Amnesty International, Phóng viên Không Biên giới (RSF), Human Rights Watch, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ)… đều đồng loạt gọi tên ông Phạm Chí Dũng là “tù nhân lương tâm” và xếp vụ án này vào danh sách những vụ đàn áp tự do báo chí nghiêm trọng nhất khu vực Đông Nam Á những năm gần đây.

Sáu năm trôi qua, ông đã bước sang tuổi 59 trong tù. Không ai được thăm gặp thường xuyên, không thông tin sức khỏe, chỉ có những dòng tin ngắn ngủi lọt ra từ người thân: “Anh vẫn đọc sách, vẫn viết khi được phép, và có lẽ anh vẫn có thể tự hào cười khi nhắc tới IJAVN”.

15 năm tù cho một người từng phục vụ chế độ 30 năm.

15 năm tù cho những con chữ không chịu nói dối.

15 năm tù chỉ để nhắc chúng ta rằng: ở Việt Nam năm 2025, nói thật vẫn là tội nặng nhất.

Ngày Quốc tế Nhân quyền năm nay, chúng ta không thể không nhắc đến ông, người đã chọn từ bỏ mọi đặc quyền để giữ lại một thứ duy nhất: lương tâm của một nhà báo.

Ông Phạm Chí Dũng không còn tự do, nhưng cây bút của ông vẫn đang được hàng trăm người trẻ âm thầm tiếp nối ngoài kia. Họ có thể không dám công khai đứng dưới ngọn cờ IJAVN nữa, nhưng mỗi dòng chữ trung thực họ viết hôm nay có bóng dáng của những người cầm bút can đảm như ông.

15 năm là quá dài với một con người, nhưng quá ngắn để dập tắt một ngọn lửa đã được thắp đúng chỗ.

Tự do cho nhà báo Phạm Chí Dũng!

Tự do cho báo chí độc lập Việt Nam!

Vân Phong