CHUYỆN ĐỜI Ở HÀNH LANG BỆNH VIỆN…- Tác giả : Trần Linh

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều 

Tác giả : Trần Linh

Khi mẹ nằm truyền, mình đi ra ngoài và hỏi thăm người đàn bà mà mình thấy đã ngồi đó rất lâu:

– Trễ rồi sao cô chưa về?

– Cô chưa có tiền đóng để mua dây, mua…vì mai tới ngày chạy thận.

– Cô đóng nhiêu ạ?

– 260 đồng. Sáng nay cô lấy 100 tờ vé số, bán được 50 tờ, còn 50 tờ nhờ bà kia bán mà chắc chưa hết nên chưa đưa tiền qua….

…Cô ở một mình, tối trải ghế bố ngủ ngoài kia, cả ngày đi bán vé số kiếm tiền trị bệnh.

– Để con đi đóng cho cô nha.

– Con giỡn chơi hà.

Mình vào phòng tìm y tá hỏi thăm. Bạn í ngạc nhiên:

– Ủa, cô Hường không có người thân mà. Chị quen gì với cô?

– Chị không quen, nhưng chị muốn đóng cho cô ấy. Một tháng cô hết bao nhiêu em hén?

– Dạ, một tháng 2,5 triệu. Chị đóng một tháng luôn hay mấy trăm ngàn thôi?

…..

Mình suy nghĩ, vì mình chỉ đưa mấy triệu để lo cho mẹ, nếu đóng cho cô mà lỡ Bs nói đóng thêm gì cho mẹ thì không đủ. Thế là, mình đi hỏi xem mẹ còn gì phải đóng tiền,  bạn nói không…Mà mình còn thẻ nữa.

– Em ơi, chị đóng luôn cho cô ấy 2 tháng. 5 triệu nha.

Bạn y tá ngạc nhiên nhìn mình, hỏi lại có đúng không. Mình gật đầu. Bạn cho tờ giấy đóng tiền, thế là mình vội chạy đi đóng ở dãy nhà khác – kịp để về chăm mẹ.

Ôi trời, mình không tưởng tượng được khi đưa biên lai cho cô ấy. Cổ đâu tin, đọc đi đọc lại tên mình xem có đúng không, rồi đọc số tiền…Là thiệt rồi, cổ thốt lên vậy…

…Rồi cổ khóc, khóc ngon ơ như có gì chất chứa trong lòng, nay được tuôn ra ngoài – người đàn bà bán vé số mang bệnh mà không có người thân – 2 tháng tới đây, chắc vơi đi khó nhọc nhiều lắm!

Rồi cũng trên dãy hành lang ấy, có cô kia đã níu tay mình:

– Cô ơi, đỡ tui dậy đi vệ sinh được không? Bị mệt và choáng nên tui không ngồi lên được.

– Cô không có ai đi cùng à?

– Con tui nó bận hết rồi, tui đi một mình.

Thế là mình đỡ cô dậy, dìu cô đi. Vào nhà vệ sinh, ngay cả quần cô cũng không kéo nổi. Mình lại loay hoay giúp cô, đứng đó cho cô nắm vào tay vì ngồi không vững.

Cô đi xong, mình chùi rửa sạch sẽ cho cô rồi dìu ra ngoài. Cô nói, sáng giờ chưa ăn gì, muốn đi mua mà không bước được.

Thế rồi mình lại chạy đi, mua 2 hộp sữa Ensure mang về cho cô 1 hộp, cô vé số 1 hộp. Mình nói, cô đưa số điện thoại con của cô, con gọi.

Cô đọc số, mình gọi và nghe giọng con trai.

– Em ơi, mẹ em yếu lắm, em vào lo cho mẹ.

Giọng bên kia gắt lên:

– Đã vào đó là có bác sĩ, y tá, không ai lo hay sao mà đưa số cho chị gọi.

– Ủa em, dù có ai đi nữa thì mẹ em cũng phải có người nhà chứ.

– Chiều tối xong việc mới vào được, chị chuyển máy cho mẹ tôi đi.

Mình muốn chửi ghê trời, nghe cái giọng điên hết cả người, nhưng rồi sợ cổ buồn, nên thôi.

– Tui có 2 đứa con, một trai, một gái. Trai có vợ rồi, còn gái thì chưa lập gia đình. Tụi nó bận lắm, muốn nhờ cũng khó.

…Rồi cô lại nói mình dìu nằm xuống ghế, đợi khỏe tí rồi tui ra phòng cấp cứu.

Lòng mình xót xa quá đỗi, chạy vội vào canh chừng mẹ:

– Cha mi, đi đâu nãy chừ để mẹ trông.

…Mình ỏn ẻn, nói con đi nhiều chuyện ở ngoài kia. Mẹ mệt, nhưng mẹ cười rất tươi…Mình nhìn mẹ – rồi lại nghĩ đến những người đàn bà nơi góc hành lang bệnh viện…

     Có vào viện mới hiểu lòng con cái …

Tác giả : Trần Linh


 

ĐỀ TÀI VỀ ĐÀ NẴNG CUỐI THÁNG 3,1975 – BS PHÙNG VĂN HẠNH

 BS PHÙNG VĂN HẠNH

Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975 được nhiều người viết. Tác giả bài viết dưới đây, Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh, một đàn anh thân thương và tài giỏi, từng hướng dẫn các SV Nội Trú năm thứ Sáu của ĐH YKH thực tập môn chỉnh hình tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Đà Nẵng. Bs. Phùng Văn Hạnh tốt nghiệp YK Saigon năm 1961, cùng năm với quý thầy Phùng Hữu Chí, Vũ Công Thưởng, Nguyễn Văn Tự, và với Bs. Vĩnh Toàn (anh đầu của Vĩnh Chánh).

Bs. Phùng Văn Hạnh bị CS bắt vào tù 12 năm vì chỉ trích chế độ CS. Sau khi được về nhà năm 1988, Bs. Hạnh vượt biên liền trong cùng năm, và được tàu Pháp của nhóm Médecins Sans Frontières (trên tàu có sẵn Bs. Lê Trang Châu đi cứu người vượt biển) vớt ngoài Biển Đông, định cư tại Montreal năm 1989. Tại cộng đồng này, Bs. Phùng Văn Hạnh là một khuôn mặt hoạt động tốt đẹp trong Văn Bút Hải Ngoại và trong các hội đoàn chống cộng. Dưới văn danh Khánh Giao, Bs, Phùng là tác giả của nhiều sách và thơ, như Tình Yêu Hiện Sinh, Một Kiếp Người, Một Hạt Đậu Hai người Khiêng, Quê Hương, Nhật Ký Một Bạn Tù…

Bs. Phùng Văn Hạnh từng hiện diện 2 lần tại Đại Hội YKH HN. BBT chọn đăng “Đà Nẵng Những Ngày Cuối Tháng 3 1975”, như một tưởng nhớ đến một người Thầy kính mến, một Đàn Anh tận tụy truyền dạy y khoa cho các thế hệ đàn em và một chiến sĩ chống Cộng nặng tình với quê hương. Bs. Phùng Văn Hạnh tạ thế tháng 11, năm 2021, tại Montreal.

                           ***

Đà Nẵng những ngày cuối tháng Ba 1975

 Sau khi thỏa hiệp Paris ký kết, Mỹ xuống thang chiến tranh. Dân sự bị thương cũng giảm. Các bác sĩ AMA giảm dần. Ban mê Thuột rồi Pleiku mất. Cao nguyên di tản. Quảng trị, Thừa thiên mất. Những ngày cuối tháng ba, 1975, Đà- nẵng đầy người chạy giặc. Cộng sản có biết tại sao mà lắm người sợ họ thế? Ông bác tôi đã từng nếm mùi trại giam cộng sản, đã đứng tim chết khi nghe cộng sản trở lại. Cha tôi cũng thế. Lính khắp nơi ùn về đầy đường. Tôi gặp một tiểu đội Địa phương quân. Họ vẫn còn kỷ luật lắm. Anh tiểu đội trưởng đi đầu, súng mang trên vai. Các đội viên đi hàng một, mũi súng chúc xuống đất. Chắc họ từ một đồn nhỏ ở ngoại ô vào thành phố. Mắt họ buồn và sợ sệt. Họ đi mất hút ở cuối đường. Có súng nổ lẻ tẻ. Xe tăng, súng ca-nông bỏ lại trên đường phố. Dân sự di tản từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, ngủ trên lề đường

 Một thiếu phụ gia tài chỉ là đôi thúng gánh trên vai. Trong mỗi thúng là một em bé 2 đến 4 tuổi. Rất nhiều gia đình đã đi bộ vượt đèo Hải vân 20 km đường dốc núi. Bên Sơn Chà xe nhà binh nghẹt đường. Ngoài bờ biển, bến cảng mọi người ùn ra tìm ghe để có thể ra tàu lớn đậu ngoài khơi. Gia đình tôi lên phi trường. Lúc gần đến, gặp cả đoàn xe cộ của một ông tướng sư đoàn cũng chạy giặc, phải tránh ra bên đường, nhường cho họ qua. Ngay cổng phi trường, xe dân sự sắp hàng dài hai bên đường. Chỉ đi bộ vào cổng. Một ký giả ngoại quốc chận tôi lại phỏng vấn. Tôi đã nói gì, bây giờ chẳng nhớ. Song một người bạn ở Thụy sĩ lúc đó có thấy tôi xuất hiện trên truyền hình. Máy bay hàng không dân sự đã ngừng bay. Một nhóm người thiện chí đứng ra liên lạc với Saigon. Họ tổ chức ra máy bay trong trật tự. Có hai chuyến cất cánh suông sẻ. Song Việt cộng bắt đầu pháo kích vào phi trường. Mọi người tìm chỗ núp, rồi ùn ùn rời phi trường vì Saigon cho biết là máy bay không ra nữa. 

Chúng tôi đi bộ về nhà. Nửa đường gặp xe của một nha sĩ bạn. Anh ta chở gia đình tôi về đến nhà. Súng lính vất lại, nghẹt cả đường cống sâu trước nhà. Vào nhà, vợ tôi chia cho mỗi đứa con một xách áo quần và một ít tiền. Tất cả quì xuống trước bàn thờ Chúa. Nhà tôi dặn: “đang loạn lạc như thế nầy, chúng ta có thể bị ly tán. Nếu may ra các con đi chung với nhau, nhớ đứa lớn che chở đứa bé. Anh em nhớ yêu thương nhau”. Thấy cảnh đau lòng, tôi rời nhà lên bệnh viện, định phi tang những bài viết chống cộng mà tôi bỏ lại ở văn phòng, trong ấy có một bài đả kích Hồ chí Minh. Vào hành lang, thấy người ta nằm la liệt. Kẻ thủng bụng, ruột lòng thòng. Người bể đầu, gãy tay chân, băng quấn sơ sài, đẫm máu. Một bạn giáo sư trung học, ôm chầm lấy năn nỉ:

“vợ tôi bị bắn thủng ruột đã 6 giờ rồi, chưa được ai chăm sóc”. Lúc ấy nhà thương không còn một bác sĩ nào cả. Tôi ghé văn phòng làm việc trống trơn, huỷ diệt bức thư điều trần, đưa kế sách cứu miền Nam, và những bài báo chống Cộng do tôi viết. Tôi xé nhỏ, bỏ vào nhà cầu và dội nước. Xong tôi vào khu giải phẫu. May sao nhân viên còn tại chỗ một nửa. Tôi cho mang vợ người bạn vào mổ. Sau đó các ca khác lại tuần tự mang vào. Chiều hôm đó BS Phạm văn Lương vào phòng mổ thăm tôi. Tôi hỏi sao không lo trên BV Duy Tân mà xuống đây. Ông y tá trưởng nói nhỏ vào tai tôi là BS Lương nay làm thị trưởng, đi thị sát BV toàn khoa đó. Sau nầy tôi mới biết là BS Lương được tỉnh hội Phật Giáo đưa lên làm thị trưởng Đà-Nẵng trong những ngày cuối tháng ba, 1975(đài BBC có loan tin).

Một mình mổ đến chiều hôm sau thì ông y tá trưởng gõ cửa phòng mổ và nói: “có ông sĩ quan cách mạng nói bác sĩ hãy ngừng mổ cho dân sự, và mổ cho các chiến sĩ cách mạng bị thương”. Hỡi ôi, thế là cộng sản đã vào thành phố! Tôi nói với ông y tá trưởng là cứ ca nào nặng thì đem vào trước, không phân biệt dân sự, cách mạng. Đó là va chạm đầu tiên mà sau này tôi bị kiểm điểm là có lập trường nhân đạo chung chung, không có quan điểm cách mạng. Chừng 10 ngày sau, thì các bác sĩ cách mạng ở trên núi xuống tiếp thu bệnh viện. Lúc đó các ca cấp cứu đã giải quyết xong. Cả khu giải phẩu nhận giấy khen của Ủy ban quân quản Đà-nẵng là đã có công trong sự ổn định y tế thành phố.

Các bác sĩ bị kẹt lại dần dà đến nhận việc và được gọi là lưu dung. Xưa kia đi làm hơi tùy tiện vì đôi khi phòng mạch tư nhiều khách. Nay ai đến cũng đúng giờ. Bắt đầu là giao ban, toàn thể bác sĩ họp lại với bác sĩ giám đốc để trình bày phiên trực ngày hôm trước, nghe chỉ thị mới và phê bình những thiếu sót nếu có. Cách làm việc nặng phần trình diễn, phí phạm thì giờ. Sau giao ban, đi khám bệnh phòng rồi đi mổ những ca lên chương trình từ cuối tuần trước. Có điều đặc biệt là bác sĩ cách mạng chuồn đâu mất lúc 10 giờ sáng. Tìm không ra. Sau này hỏi ra mới biết đó là thói quen đã có tự ngoài Bắc. Vì sáng không ăn, hoặc ăn ít nên 10 giờ đói, phải tìm chỗ kín nằm nghĩ. Có một bác sĩ thuốc mê đã được đào luyện ở Tiệp khắc, được nhân viên phòng mổ cho ăn xoài. Anh ta trầm trồ khen ngon hết lời vì chưa bao giờ nếm thử trái cây ngon như thế. Một anh khác kể là ngày Tết được chia bồi dưỡng một gói tiêu nhỏ. Về nhà rủi làm đổ. Phải thắp đèn lên kiếm từng hạt. Họ nói ở ngoài Bắc nghe tuyên truyền là trong Nam cực khổ lắm. Bây giờ mới tỉnh ngộ. Vào Saigon chơi về, họ khoe là như ra ngoại quốc. Nói là phồn vinh giả tạo, song toàn là đồ thiệt đẹp và tốt.

Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ VC trên núi về, tiếp thu TTYTDK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức. Họ chỉ lo về hành chánh, chứ chuyên môn thì đợi các bác sĩ Hà-Nội vào. Về giải phẫu thì họ chỉ đứng xem Vài người tỏ ra hiếu học, vào phụ mổ với các bác sĩ lưu dung. Tôi nhớ có Bác sĩ cấp bực Đại úy, vào phụ tôi để tái tạo một ống chân vỡ nát vì mìn. (Hắn ta là bác sĩ riêng cho thầy cũ Tám Trinh, nay đổi tên Nguyễn xuân Hữu, Phó bí thư đảng bộ Liên khu V. Phải mất ba giờ và nhiều cố gắng mới giữ được cái chân. Cuối ca mổ, đáng lý nói: ca này khó ác liệt, tôi tự nhiên buông câu nói theo thói quen: ca này khó ác ôn côn đồ Việt Cộng. Anh ta nhìn tôi không nói gì. Các y tá quanh tôi đều sửng sốt. Không biết anh ta có báo cáo gì không. Song sau này không thấy ai nhắc đến chuyện đó.

Trong suốt hơn một năm làm việc với CS, tháng ngày cũng qua nhanh, vì rất bận rộn. Những ngày đầu, mổ liên miên để giải quyết xong nhiều ca cấp cứu, Những tháng kế tiếp là mổ cho dân quê trở về làng khai khẩn nhưng đồng ruộng bỏ hoang trong chiến tranh, vướng phải mìn hay đạn ca- nông chôn dưới đất. Giải phẫu tái tạo tiếp theo cho những tật nguyền do vết thương chiến tranh gây ra. Ngoài ra nào giao ban, nào học chính trị mỗ tuần vài lần. Làm việc trong không khí u uất, vì nghe lắm lời phi lý, ngu xuẩn của bọn cán bộ, lắm chế độ hà khắc, kiểm soát tư tưởng, việc làm, những tranh cải lý thuyết v.v..

Bất hạnh thường không đến một mình. Đã buồn bực vì phải kẹt ở lại với CS, lại càng buồn thêm vì sự ra đi của người cha thân yêu. Ngày tôi chở vợ con lên phi trường để di tản, tôi đã năn nỉ cha mẹ tôi cùng đi, nhưng cha tôi một mực từ chối vì ông đã bị bại hai chân từ ba năm nay, hậu chứng xuất huyết não, và phải di chuyển trên xe lăn. Ông không muốn là gánh nặng cho tôi. Mẹ tôi thì chỉ chịu đi khi cha tôi cùng đi, vì bà phải săn sóc cha tôi tật nguyền. Khi chúng tôi không di tản được, từ phi trường trở về, hai ông bà đã khóc sướt, và lo cho tương lai chúng tôi. Hai ngày sau cha tôi chết êm thắm. Ông đã bị đứng tim trong giấc ngủ. Buổi sáng mẹ tôi mang sửa lại cho ông uống, thì thấy ông nằm bất động, tay chân lạnh ngắt. Cũng như bác tôi, cha tôi vì sợ quá, tim già đã ngưng đập khi nghĩ đến những hình phạt khủng khiếp trong tù CS. Mặc dù mới trải qua một cuộc đổi đời chưa hết bàng hoàng, tôi vẫn tổ chức ma tang thật chu đáo, với rất nhiều bà con thân thuộc theo linh cữu ra nghĩa địa. Tôi phải mướn nhiều xe ca, trong khó khăn hiện tại. Cha ơi, xin yên nghỉ bằng an trong nước Chúa.

Lúc say sưa làm việc những năm chiến tranh, theo lời khuyên của một bác sĩ Mỹ, tôi gom góp hồ sơ các ca chữa thương với đầy đủ phim, ảnh, ghi chú theo dõi. Ông cho tôi một máy ảnh, và tôi thuê một thợ chụp ảnh phụ tá cho tôi chụp hình bệnh nhân trước và sau khi mổ, diễn tiến bệnh khi nằm tại nhà thương và tái khám. Hồ sơ được lưu trữ trong một căn phòng lớn của bệnh viện. Tôi định khi nào rảnh rổi sẽ viết bài, dựa trên nhận xét lâm sàng để rút ra những kết luận hữu ích. Hai tháng sau khi cộng sản vào, thấy rảnh, tôi xuống phòng lưu trữ hồ sơ thì thấy các hộc trống trơn. Hỏi ra mới biết là tổ nhà bếp trên núi xuống nấu cơm cho bệnh nhân, vì thiếu củi đun, nên lấy hồ sơ nhóm lửa. Bao nhiêu tâm huyết đổ sông. Xưa kia nhà thầu cung cấp cơm nước cho bệnh nhân. Họ đâu có nấu nướng trong bệnh viện.

Tôi có nhiều giấc mơ đơn giản. Song đều thất bại. Lúc còn hoạt động trong đoàn Sinh viên công giáo, có đọc thuyết “Kinh tế và nhân bản” ( economie et humanisme) của cha Lebret, có dự định cùng các bạn đồng chí hướng lập những đoàn thiện chí gồm nhiều chuyên viên về thôn quê chia sẻ đời sống của nông dân. Bác sĩ lo chữa bệnh, truyền bá vệ sinh. Kỹ sư nông nghiệp, cơ khí, chăn nuôi, tìm cách nâng cao sản xuất. Tổ chức hợp tác xã, tiếp xúc với công ty ngoại quốc, tìm thị trường, vốn đầu tư..mong cho dân giàu, nước mạnh. Song khi ra trường, thì chiến tranh tràn lan, thôn quê không còn an ninh. 

Cuối năm 1974, thấy tình hình miền Nam sắp có nguy cơ rơi vào tay Việt cộng, mà trí thức thì chơi mạt chược và trùm chăn quá nhiều, định đi khắp các tỉnh, diễn thuyết, kết hợp những người thiện chí, cố nổ lực tối đa để trong sạch hoá bộ máy chính quyền, tất cả mọi người có thể cầm súng được phải chia phiên nhau ra trận. Không có nạn con ông cháu cha. Trí thức phải xuống xã ấp, phá vòng vây nông thôn bao vây thành thị. Chính phủ tuyên bố tình trạng quốc gia lâm nguy, đóng cửa Trung học và Đại học. Đưa người qua Mỹ diễn thuyết hầu giành hậu thuẫn dân Mỹ. Nếu cần cầu viện Tây âu. Sắp xếp các ý tưởng, trình bày trong một bức thư điều trần gửi quốc hội và tổng thống với đề tài “Tổ Quốc lâm nguy, đề nghị biện pháp giải cứu”. Giáng sinh 1974, tôi vào Sài-gòn, đưa thư điều trần cho bạn bè xem, song không ai hưởng ứng, vì họ đoan chắc với tôi là Mỹ sẽ không bỏ miền Nam. Sau đó tình hình Miền Nam suy sụp quá nhanh. Tuy thế lúc Việt cộng vào, đã có người muốn lập công, đưa cho chúng tài liệu, nên bị hạch hỏi. Phải làm kiểm điểm vài lần, nhận có nêu lên vấn đề, song chưa phổ biến sâu rộng. Cuối cùng muốn viết vài bài về chuyên môn mình cũng không được, vì tài liệu đã bị đốt cháy ra tro.

Khi sang Canada, đi Mỹ chơi gặp một đồng nghiệp cũ ở Bệnh viện Đà-nẵng, nay hành nghề ở Westminster, Cali. Anh ta nói với tôi: “người chống cộng có hệ thống như anh, thì lại kẹt ở lại. Còn lè phè như chúng tôi, thì lại thoát. Oái ăm thiệt!”

Kể ra cũng tại số mình long đong, chạy trời không khỏi nắng. Tôi đã bỏ lỡ nhiều dịp may: năm 1973, cộng đồng người Hoa ở Đà-Nẵng muốn có một nhà thương riêng cho họ, nên dạm hỏi tôi có muốn bán dưỡng đường của tôi với giá 20 triệu. Vì đang làm ăn phát đạt tôi từ chối. Nếu tôi chịu bán, tôi sẽ trích ra độ một triệu, mua thông hành cho cả gia đình, lấy cớ đi Mỹ học rồi ở lại luôn. Một bác sĩ bạn tôi đã ra đi như thế.

Cuối 1974, nhân có người cháu, Đại uý lái phi cơ trực thăng, đóng ở Cần thơ, chuyển về không đoàn I. Anh ta nhờ tôi xin về xưởng sửa chữa trực thăng, vì thấy đi bay, có nhiều hiểm nguy. Nhờ quen biết tôi đã thoả mãn cho anh ta. Nhận thấy miền Nam sắp mất, tôi bảo anh ta sửa chữa thật tốt một trực thăng, đổ đầy nhiên liệu, sẵn sàng chở gia đình anh ta với gia đình tôi đi Sài gòn hoặc Thái Lan, khi Đà- Nẵng có nguy cơ mất. Hôm 27-03-75, vì quen biết với gia đình Giám đốc Hàng không Việt Nam Đà-Nẵng, chúng tôi được họ mời chia xẻ một chuyến bay chót đặc biệt dành riêng cho gia đình họ. Trong khi chờ đợi máy bay từ Sài-gòn ra, tôi đến thăm người cháu gần đó, để xin ít nước uống cho các con tôi, vì đêm qua ra đi vội vã quên mang nước theo. Vào nhà tôi thấy gia đình nó chuẩn bị lên trực thăng mà tôi đã dặn để dành cho việc tẩu thoát, nếu Đà-Nẵng mất. Nó nói: “con có điện thoại lại nhà dượng, kêu dượng lên đi, nhưng không ai trả lời. Thế bây giờ dượng đi với chúng con?”. Tôi từ chối vì cho rằng đi máy bay tiện lợi hơn là trực thăng. Tôi trở lại với gia đình và ra sân bay, vì máy bay đã đáp xuống ở một chỗ hẹn trước. Nhưng chuyến bay ấy bị quân nhân phi trường tước đoạt. Cảnh súng bắn đì đoàng, người đạp lên người, chen lấn lên máy bay, làm cả hai gia đình chúng tôi đứng xa mà ngó. Cuối cùng máy bay cất cánh có cả người đeo tòn teng vào bánh xe, rụng rơi dần. Cùng lúc ấy, đạn pháo Việt cộng nổ gần phi đạo chúng tôi hoảng hốt dắt díu nhau chạy. Sau này gặp lại ở Mỹ, nó tiếc hùi hụi là hôm đó trực thăng nó trực chỉ Sài-gòn mà không có gia đình ông dượng ân nhân, có sáng kiến hay.

Cơ hội chót là ngày 29-03-75 vẫn còn một bác sĩ Mỹ, môn đồ Quaker, sang Đà-Nẵng làm từ lâu, với tư cách cá nhân, và anh ta không chịu di tản, chỉ ưng ở lại làm việc truyền đạo, chia ngọt bùi với bệnh nhân khu bài lao. Máy bay từ hạm đội Mỹ không ngại hiểm nguy đáp xuống trên nóc bệnh viện Việt Đức. Hai lính Mỹ vào mời bác sĩ ấy ra đi, nhưng anh ta một mực từ chối. Khi thấy tôi đi ngang qua, anh ta kéo tôi vào và năn nỉ tôi đi theo trực thăng ra tàu hạm đội Mỹ. Nhưng lúc ấy gia đình tôi không có mặt ở đó và tôi không muốn ra đi một mình, nên cũng từ chối. Nếu ngày ấy tôi ra đi. Sang Mỹ trở lại nghề và phát đạt, sẽ có phương tiện bảo lãnh cho gia đình qua sau, chậm lắm là vài năm sau và thoát đi tù cải tạo 12 năm. Nhưng đó chỉ là nếu, thực tế thì bi thảm vô kể.

 Bác sĩ Phùng Văn Hạnh


 

Chuyện xứ Mỹ … đến cái ngày 30 tháng 4 của xứ mình

Những câu chuyện Nhân Văn –  Tu Le 

Ai đã đọc “CUỐN THEO CHIỀU GIÓ” của bà Margaret Mitchell hẳn sẽ biết cuộc Nội Chiến của Mỹ đã diễn ra khốc liệt thể nào, khi nó kết thúc vào mùa xuân năm 1865 thì đã có hơn sáu trăm ngàn chiến sĩ của cả hai phe không thể trở về gặp mặt bạn bè lẫn người thân.

Những năm sau cuộc chiến, cứ đến độ hoa nở rộ trong vườn thì người Mỹ ở khắp nơi lại mang hoa ra cắm và cầu nguyện nơi mộ chí của những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến này bất kể là lính Nam hay lính Bắc. Người dân thành phố Waterloo của tiểu bang New York vào ngày 5 tháng 5 năm 1866 đã đóng cửa các tiệm bán buôn trong thành phố để mọi người có thể mang hoa và cờ đến cắm lên các ngôi mộ của những người lính tử trận, sự kiện này sau đó được tổ chức hàng năm ở nơi đây.

Ngày 5 tháng 5 năm 1868, Tướng John A. Logan, người đứng đầu một tổ chức cựu chiến binh miền Bắc đã kêu gọi một ngày tưởng nhớ trên toàn quốc để mọi người có thể mang hoa và cờ đi trang điểm những ngôi mộ chiến sĩ, ông chọn ngày 30 tháng 5 và gọi nó là “Ngày làm đẹp các ngôi mộ để tưởng nhớ và ghi ơn” (Decoration Day).

Trong Ngày Decoration Day được tổ chức lần đầu tiên ở nghĩa trang quốc gia Arlington, hơn 5 ngàn người gồm những goá phụ, cựu chiến binh cùng bạn bè lẫn người thân đã đến để đặt hoa và các dải ruy băng lên 20 ngàn ngôi mộ của những người chiến sĩ của cả hai phe.

Sau Thế Chiến thứ I thì ngày 30 tháng 5 dần được biết đến với cái tên Memorial Day (Ngày Tưởng Niệm) và là dịp để người Mỹ tưởng nhớ đến tất cả các chiến sĩ đã ngã xuống trong các cuộc chiến chứ không riêng gì cuộc Nội Chiến. Năm 1968 Quốc Hội thông qua đạo luật Uniform Monday Holiday Act, đạo luật này quy định lấy ngày thứ hai làm ngày nghỉ mỗi khi có dịp lễ lộc với mục đích giúp dân chúng được nghỉ liên tục 3 ngày cuối tuần đặng ăn chơi cho nó đã. Kể từ đó thì Ngày Tưởng Niệm (Memorial Day) hàng năm ở Mỹ sẽ rơi vào ngày thứ hai cuối cùng của tháng năm.

Kể sơ sơ chuyện xứ Mỹ để nói đến cái ngày 30 tháng 4 của xứ mình. Nếu tôi mà là ông tổng Trọng thì tôi sẽ gọi tên cái ngày cuối cùng của tháng tư này là ” Ngày Tiếc Thương”. Tôi sẽ khuyến khích người dân cả nước trong ngày đó đi đến tất cả các nghĩa trang lớn nhỏ mà cắm những bông hoa lên trên mộ của bất cứ ai đã bỏ mình vì những cuộc chiến tương tàn trên xứ Việt mà chẳng cần phân biệt phe nào.

Nếu tôi mà là ông tổng Trọng, tôi sẽ cách chức bất cứ quan chức nào cho phép đốt pháo hoa hay treo cờ phướng loè loẹt khắp phố phường vào cái ngày này, tôi sẽ cho người vả vào miệng bất cứ quan chức nào vẫn còn bô bô những từ “Giải Phóng, Chiến Thắng, Bản Anh Hùng Ca, Vô địch với Vĩ Đại”.

Bởi cho dù đối với người dưng kẻ lạ thì cũng chẳng có một sự phỉ báng nào vô liêm sĩ cho bằng chính vào cái ngày mà người ta tiếc thương cho thân bằng quyến thuộc đã ngã xuống của người ta còn mình lại cứ bắn pháo hoa ăn mừng, cứ lên gân hò hét lải nhải những từ ngữ mất dạy như thể cố  khoét cho sâu thêm nỗi đau của những người có thân nhân chết trận, cũng như khoét cho sâu thêm những mối thù mà bất cứ một chính quyền tử tế nào cũng phải quan tâm xoa dịu.

Kiểu cách đó đối với người dưng kẻ lạ đã là hạ tiện, huống hồ gì giữa người mình mang ra để đối với người mình.

Fb Thuc Tran


 

 Chuyện đau như đùa XHCN:  THÀ CHẾT Ở TỈNH CÒN HƠN LÀ VÔ BV CHỢ RẪY…”

Văn Hóa Việt

Em rễ tui bị K dạ dày di căn, hóa trị ở BVCR đã 8 lần, mỗi lần đi lại đều vô cùng cưc khổ. Ấy là nghe nó nói chứ tui không hình dung được. Cho đến lần tái khám này đi cùng với nó, tui mới biết thế nào là ” lễ độ” với cái sự quá tải và cung cách phục vụ của BV CR

Thôi thì ghi chép lại đây như một nỗi ám ảnh nhớ đời

TẬP 1:

17-3 đi xe KonTum – SG

18.3: xếp hàng từ 5h sáng ở khoa điều trị ( không phải nhập mới). 8h30 đến lượt thăm khám. Xếp hàng chờ lấy máu xét nghiệm. Rồi xếp hàng chờ city. 11h phòng city cho giấy hẹn phải 10 ngày nữa, tức 28-3 mới chụp city được

Cảnh tượng chưa từng thấy ở Bệnh viện Chợ Rẫy – CVD

Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Tri Thức, Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy cho hay bệnh viện thường xuyên trong trạng thái thiếu trang thiết bị y tế, thiết bị hư hỏng không sửa chữa được. 

Không lẽ về, tìm hiểu thì BVCR có chụp city dịch vụ trong ngày. Giá 3.2 triệu, bấm bụng đăng ký, 16h chiều chụp luôn. Một ngày nhịn đói.

Ngày 19-3: tiếp tục xếp hàng để nội soi đại tràng. Đến gần trưa tới lượt, BS cho một toa 3 đơn vị thuốc dặn mua rồi chia ra uống, chiều hôm sau mới nội soi được. Ngày thứ 2 lại nhịn ăn, chỉ uống sữa.

Ngày 20-3: chiều xếp hàng nội soi. 16h xong, có 1 mẫu u sinh thiết phải 10 ngày sau, tức 28.3 mới trả kết quả.

Thế là xong cái nhịn ăn 3 ngày,  ăn tạm ít cháo chống đói rồi về ( hết tập 1)

TẬP 2:

Đi khám bệnh lúc nửa đêm- Ảnh 1.

Thân nhân, người chờ khám chữa bệnh nằm vạ vật qua đêm ở Bệnh viện Chợ Rẫy – Ảnh: AN VI báo Tuổi Trẻ.

27-3 đi máy bay GL -SG vì thằng em bụng sưng to và yếu quá không đi xe nỗi

28.3 lại xếp hàng ở khoa điều trị từ 5h sáng, số thứ tự 41. Không nghe gọi số, chỉ gọi tên Chờ đến 9h phát hiện sao người ta số 8 mấy, 9 mấy vào cả mà mình thì chưa, tui đục thẳng vào phòng khám hỏi. Cô điều dưỡng khó chịu nhưng tui thắc mắc mắc hợp lý nên cũng  lục hồ sơ rồi bảo riêng ca này phải 10h- 10h30 bác sỹ mới khám được. Đến hẹn vào, cô điều dưỡng lại hẹn chiều 2h, vì chưa có kết quả sinh thiết. Tui bực quá bảo: vậy chứ xếp hàng bốc số để làm gì mà đến số không thông báo bệnh nhân biết, cứ để nhịn đói chờ đợi là sao? Cô ấy xin lỗi do quá đông, quá tải nên sơ xuất?!

Chiều 14h quay lại, kết quả sinh thiết u lành, tóm lại là k di căn nhưng chưa đến đại tràng. Và vì bụng sưng to đầy dịch, đau nên BS cho chuyển sang khoa điều trị giảm nhẹ để rút bớt dịch, sau đó quay lại khoa hóa trị tính tiếp sau.

Bệnh viện Chợ Rẫy tiếp nhận bệnh cấp cứu kỷ lục sau nghỉ lễ Quốc khánh 2.9

Bệnh nhân nằm san sát ở khoa Cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy ảnh của báo Thanh Niên ngày 5-9-2022

Thế là sang xếp hàng khoa điều trị giảm nhẹ. Khoa này ít bệnh nhân nên đến lượt nhanh. Cô BS bảo chiều thứ 6 rồi, giải quyết nhập viện thì nhanh thôi, nhưng thứ 7+ CN BS không làm thủ thuật hút dịch ổ bụng, phải thứ 2, nên nhập cũng mất công, cứ về nghỉ ngơi thoải mái sáng thứ 2 vào nhập cũng được. Nghe quá chí lý nên anh em trở về phòng trọ nghỉ.

Thứ 2 31-3: sáng sớm quay lại Khoa điều trị giảm nhẹ. Lần này BS khác, sau khi thăm bệnh ông bảo thôi cho thuốc về uống, hẹn 14-4 tái khám. Em tui bảo bụng đau lắm, muốn nhập viện rút dịch, với lại chiều thứ 6 BS hứa thứ 2 nhập viện, chứ về uống thuốc thì chiều thứ 6 em đã xin toa rồi về tỉnh, ở lại chị mất 3 ngày? Ông BS nghiêm mặt: ở đây tôi là người chịu trách nhiệm chính, anh cứ về uống thuốc, không cần nhập viện rút dịch đâu…

Thằng em nghe nói không cần rút dịch, nghĩ chắc bị nhẹ chỉ uống thuốc là đỡ nên mừng ra mặt: Dạ dạ… Tui xem toa 5 loại thuốc, thấy có 2 loại quen: paraceramol giảm đau,  lactulose hổ trợ trị trào ngược dạ dày; còn 3 loại không biết- chắc biệt được gì đó.

Quay lại khoa hóa trị theo lời dặn, BS bảo bên kia ( tức khoa điều trị giảm nhẹ) đã nói thế thì cứ về , 14-4 lại tái khám.

Thế là anh em tui lủi thủi ra về.

TẬP3:

Gần 0h đêm, người tới Bệnh viện Chợ Rẫy bốc số đã xếp hàng dài

Xếp hàng từ nửa đêm hôm trước để được khám vào sáng hôm sau. Ảnh của báo Tuổi Trẻ.

Về đến nhà, tra cụ Gồ thì 3 loại thuốc trong toa còn lại hóa ra là thuốc trị viêm dạ dày, chống trào ngược, chả phải biệt dược nào để rút dịch bụng, trị k gì cả. Thằng em tui sốc nặng, lại suy kiệt và đau quá nên nhập bệnh viện tỉnh gấp. BV tỉnh lập tức xử lý hút dịch bụng ngay, truyền nước, thuốc…

Coi như mất toi 2 chuyến đi KT- SG với 2.400 cây số và 14 ngày ở trọ, ăn chực nằm chờ chỉ để nhận 1 cái đơn thuốc(?!). Và theo lịch hẹn tái khám 14-4 tới đây là gần tháng, nếu vào lại BV CR không biết có nên cơm cháo  gì không, nhưng tui chắc thằng em tui không còn hơi sức để đi; thậm chí là die sớm vì đi lại mỏi mòn suy kiệt chứ chưa chắc die vì k di căn đâu.

Thôi thì thà die mẹ ở tỉnh cho nó đỡ khổ thân, đỡ bực mình lại tiết kiệm mớ tiền lo hậu sự cho rồi. Quá sợ cái BV CR!!!

Nguồn:  Như  Ý  Gia  Lai

Lời Bình của Kẻ Đi Tìm:

50 năm giải phóng là sự thụt lùi thê thảm như thế này sao?

Tội nghiệp cho dân tôi

Thương thay cho đất nước tôi.


 

 

Thêm Một Giám Đốc Bảo Hiểm Bị Bắt Vì Cáo Buộc ‘Lợi Dụng Quyền Tự Do Dân Chủ’

Ba’o Dat Viet

March 30, 2025

Bị can Lê Thị Mai, 41 tuổi, giám đốc công ty Đại Lý Bảo Hiểm Hoàng Gia, vừa bị bắt và khởi tố với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước.” Thông tin này được báo Thanh Niên đưa ra vào ngày 29 Tháng Ba. Theo Bộ Công An Cộng Sản Việt Nam, bà Mai bị quy kết có hành vi “lợi dụng việc tố cáo, phản ánh, kiến nghị không đúng sự thật.” Tuy nhiên, bản tin không nêu rõ những tổ chức hay cá nhân nào bị ảnh hưởng bởi các hành vi này.

Vụ bắt giữ bà Mai không phải là trường hợp cá biệt. Trong thời gian qua, nhiều phụ nữ ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc cũng đã bị bắt hoặc phạt tù với cáo buộc tương tự. Đáng chú ý, giữa Tháng Giêng năm nay, bà Đậu Thị Tâm, còn được biết đến với tên TikToker Đậu Thanh Tâm, cũng bị bắt vì đăng tải các video clip phản ánh thực trạng khám chữa bệnh tại một số bệnh viện ở Hà Nội. Theo cơ quan chức năng, những video này bị cho là “vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan chức năng và lãnh đạo các cấp.” Ngoài ra, bà Tâm còn bị cáo buộc “đưa thông tin bịa đặt gây hoang mang dư luận và kích động người dân phản đối ‘Nghị Định 168’ về xử phạt vi phạm giao thông.”

Trước đó, vào cuối Tháng Mười Hai năm ngoái, bà Đinh Thị Ngọc Ánh, 49 tuổi, cư dân huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, bị kết án 18 tháng tù cũng vì cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ.” Theo cáo trạng, bà Ánh bị cho là đã sử dụng tài khoản Facebook cá nhân để phát tán sáu video clip và phát trực tiếp (livestream) về vụ việc người dân tại Cồn Xanh, huyện Nghĩa Hưng, đi khiếu kiện đất đai. Trong các đoạn clip, hình ảnh dân oan tập trung tại một cây xăng địa phương mua xăng trước khi kéo nhau đi khiếu kiện được ghi lại. Cơ quan công an cáo buộc bà Ánh có những lời lẽ kêu gọi, lôi kéo đám đông tham gia khiếu kiện, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và quá trình triển khai các dự án đô thị tại khu vực Cồn Xanh.

Các vụ án này cho thấy sự gia tăng các biện pháp xử lý đối với những cá nhân bị cho là “lạm dụng quyền tự do ngôn luận” khi phản ánh hoặc tố cáo các vấn đề xã hội.


 

Những bẫy rập đằng sau việc tu chính hiến pháp Việt Nam-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

March 29, 2025eb

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Lúc này, hệ thống truyền thông chính thức của nhà cầm quyền CSVN đã công khai nói đến khả năng tu chính/sửa đổi hiến pháp hiện hành.

Vì lẽ, khá nhiều chủ trương mà chế độ muốn áp dụng vào đất nước để duy trì mạnh mẽ hơn chế độ độc tài đã chạm phải ngưỡng giới hạn của cả hiến pháp và pháp luật. Theo đó, nếu áp dụng chủ trương mà thiếu tham chiếu pháp lý cần thiết sẽ vô hình trung, vô hiệu hóa các mặt tích cực mà chủ trương mới có thể mang lại.

Những người phụ nữ này vừa kéo vừa đẩy một cái xe chở đầy thùng trái cây Trung Quốc xuất cảng sang Việt Nam tại cửa khẩu Lạng Sơn, giúp đảng CSVN kéo nhân dân cả nước “tiến lên xã hội chủ nghĩa” mà chẳng ai biết bao giờ sẽ tới cái thiên đường hoang tưởng đó. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Hiến pháp CSVN tu chính gần đây nhất là vào năm 2013. Đây là bản hiến pháp thứ 7 sau 1 lần ban hành và 6 lần tu chính, kể từ bản hiến pháp đầu tiên vào năm 1946 và tu chính vào các năm 1959 (tại miền bắc), 1980 (sau khi thống nhất lãnh thổ), 1989, 1992, 2001, 2013. Chưa kể các bản hiến pháp, hiến chương và ước pháp ban hành tại miền Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa.

Nhân dịp này, nhiều người ngây thơ đã cho rằng chế độ Cộng Sản trong nước đang muốn cải cách thể chế. Thế nên, họ đã vội đặt những vấn đề mang tính chất nền tảng của một hiến pháp mà khá nhiều quốc gia văn minh, tiến bộ đã từng có, như: Thiết lập hệ thống chính quyền tam quyền phân lập, chấp nhận đa đảng, đa nguyên về chính trị, xây dựng nền kinh tế thị trường tự do, thừa nhận quyền tư hữu đất đai, chính thức chấm dứt việc theo đuổi lý tưởng xã hội chủ nghĩa đầy mơ hồ….

Thực ra, không cần quá tinh ý, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra nguyên nhân chính trong việc đưa hiến pháp ra tu chính vào thời điểm này. Chúng chỉ nhằm đáp ứng, phục vụ cho việc đưa các chủ trương mà ông Tô Lâm đã công khai kêu gọi áp dụng vào đất nước mà thôi. Trong đó, bao gồm chủ trương sáp nhập các tỉnh thành và bãi bỏ hoàn toàn cơ quan hành chánh cấp huyện.

Cho dù có là nhà cải cách triệt để đến mức nào đi nữa, thời điểm này chưa phải là lúc thuận lợi để ông Tô Lâm bộc lộ ý tưởng cải cách đó (nếu có). Nhất là khi tuyệt đại đa số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản đều đang là người cũ, do người tiền nhiệm là ông Nguyễn Phú Trọng đưa vào. Và cũng số ủy viên đó đã từng thẳng thừng bỏ phiếu bác bỏ đề nghị của ông Tô Lâm đưa ông Lương Tam Quang vào ghế Bộ Chính trị trong Hội nghị Trung ương 5, vào giữa năm 2024, để có cơ sở nắm giữ chức vụ Bộ Trưởng Bộ Công an do ông Tô Lâm.

Thế nên, việc tu chính hiến pháp lúc này chỉ là biện pháp “chắp vá” tạm thời về phương diện pháp lý, để ông Tô Lâm có thể đưa các chủ trương về sáp nhập tỉnh và bãi bỏ cơ quan hành chính cấp huyện mà thôi.

Tuy vậy, điều cần lưu ý là việc việc tu chính hiến pháp sẽ được đưa ra cho toàn dân thảo luận, góp ý để tạo bộ mặt dân chủ “giả hiệu”. Đằng sau đó, chúng sẽ đều là những bẫy rập rất nguy hiểm về phương diện pháp lý mà công chúng cần biết.

Năm 2013, nhà cầm quyền cũng từng kêu gọi nhân dân thảo luận góp ý tu chính hiến pháp. Khi ấy, nổi tiếng nhất trong việc nhân dân góp ý là bản kiến nghị thường được gọi tên là Kiến nghị 72, do 72 nhân sĩ trí thức ký tên gởi đến Quốc hội.

Công an và dân phòng chặn các ngả đường dẫn đến tòa án Hà Nội khi có phiên tòa xử án chính trị. Cấm dân đến tòa án dự khán, kể cả thân nhân bị cáo, dù phiên xử được loan báo là “xét xử công khai”. (Hình: Ian Timberlake/AFP/Getty Images)

Trong thực tế, không có một điểm nào trong Kiến nghị 72 của họ được chấp nhận cả. Chưa kể, Tổng bí thư đảng Cộng Sản khi ấy là ông Nguyễn Phú Trọng còn công khai đánh giá cho rằng bản kiến nghị đó “Thể hiện sự suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức cần phải được xử lý”.

Chưa kể rằng, cùng với nhiều tù nhân chính trị, trong đó bao gồm cả thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh. Thầy chỉ chia sẻ bản kiến nghị đó về trang Facebook cá nhân, thì sự chia sẻ đó đã bị xem như là chứng cứ về tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước”. Thầy bị tuyên hình phạt lên đến 11 năm tù giam. Nhiều tù nhân chính trị khác cũng bị tuyên những hình phạt tù giam rất nặng nề.

Cho nên, người dân lưu ý, đừng tin cậy vào những lời tuyên truyền của nhà cầm quyền, nhân danh quyền tự do, hoặc quyền dân chủ gì cả. Vì nó không phải là sự thật, hay lời kêu gọi chân thành, mà chỉ là những bẫy rập khiến những người có tâm với đất nước vô tình bộc lộ ý chí, quan điểm chính trị của mình trước cơ quan an ninh, để rồi sau đó phải trả giá bằng những năm tháng tù đày dài đằng đẵng mà thôi.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 27 Tháng Ba 2025

Đặng Đình Mạnh


 

Bốn người ở Trà Vinh bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt vì cáo buộc lợi dụng quyền tự do dân chủ

Ba’o Dat Viet

March 29, 2025

Công an tỉnh Trà Vinh đã bắt giữ bốn người địa phương, gồm các ông Đặng Ngọc Thanh, Thạch Nga, Kim Som Rinh và Thạch Xuân Đồng, với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ”.

Theo thông tin từ phía chính quyền, những người này bị cáo buộc thường xuyên đăng tải, chia sẻ và bình luận các bài viết, hình ảnh và video có nội dung bị cho là vi phạm pháp luật trên mạng xã hội Facebook. Một số nội dung này được cho là chứa các cáo buộc chính quyền địa phương “vi phạm dân chủ, nhân quyền”.

Ba trong số bốn người bị bắt là người Khmer Nam Bộ, trong đó ông Kim Som Rinh là một vị sư. Hai ông Thạch Nga và Thạch Xuân Đồng cũng là những người thường xuyên lên tiếng về các vấn đề tự do tôn giáo và quyền lợi của người Khmer địa phương.

Trước khi bị bắt, ông Kim Som Rinh đã chia sẻ một bài viết trên trang Facebook cá nhân từ trang Voice of Kampuchea Krom, đề cập đến vấn đề nhân quyền của người Khmer tại Việt Nam. Vài phút sau, ông tiếp tục có một bài đăng mới vào sáng ngày 26 tháng 3.

Tỉnh Trà Vinh là nơi có cộng đồng người Khmer sinh sống đông thứ hai cả nước, chỉ sau tỉnh Sóc Trăng. Theo một người Khmer địa phương, những người bị bắt trước đó đã chia sẻ các tài liệu về nhân quyền, quyền của người bản địa và quyền tự quyết của các dân tộc.

Việt Nam đến nay vẫn từ chối công nhận sự tồn tại của khái niệm “người bản địa”. Quan điểm này được ông Y Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, nhấn mạnh tại phiên báo cáo về Công ước Xóa bỏ mọi Hình thức Phân biệt Chủng tộc (CERD) diễn ra tại Geneva, Thụy Sĩ, vào cuối tháng 11/2023.

Nhiều tổ chức đại diện cho người Khmer Nam Bộ khẳng định việc được công nhận là “người bản địa” sẽ trao cho họ quyền tự quyết và bảo vệ các quyền lợi văn hóa, xã hội.

Bà Lâm Thị Pung, vợ của ông Thạch Nga, bày tỏ nỗi lo lắng sau vụ bắt giữ. “Chồng tôi mua chai lọ cũ, rác và các vật liệu tái chế khác để bán lấy tiền trả nợ. Dân làng giúp đỡ bằng cách cho gạo, rau và trái cây. Giờ chồng tôi bị bắt rồi, tôi chỉ còn con, tôi biết phải làm sao đây?” – bà nghẹn ngào.

Liên đoàn Khmer Kampuchea Krom, một tổ chức hoạt động vì quyền lợi của người Khmer tại Việt Nam, đã lên án vụ bắt giữ này và kêu gọi cộng đồng quốc tế lên tiếng bảo vệ các quyền cơ bản của những người Khmer Nam Bộ.


 

Rối loạn tâm thần gia tăng tại Việt Nam, hơn 14 triệu người gặp vấn đề, hệ thống hỗ trợ còn quá mong manh

Ba’o Dat Viet

March 25, 2025

Tại “Ngày hội chăm sóc sức khỏe tâm thần cho gia đình Việt” do Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn tổ chức hôm 23 Tháng Ba, Bộ Y Tế Việt Nam đã đưa ra cảnh báo đáng lo ngại: tình trạng rối loạn tâm thần đang có xu hướng gia tăng trên phạm vi cả nước, với khoảng 14 triệu người dân đang gặp vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm trí.

Tuy nhiên, theo báo VN Express, chỉ một tỷ lệ rất nhỏ trong số này có thể tiếp cận được dịch vụ hỗ trợ chuyên môn, do mạng lưới chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam còn yếu và thiếu hụt nghiêm trọng về nhân lực lẫn cơ sở vật chất.

Các dạng rối loạn được ghi nhận bao gồm: trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tâm thần phân liệt, mất trí nhớ, thiểu năng trí tuệ và các rối loạn phát triển như tự kỷ. Đáng chú ý, một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến tình trạng này gia tăng chính là việc sử dụng mạng xã hội tràn lan, đặc biệt ở thanh thiếu niên và phụ nữ. Tỷ lệ ảnh hưởng tiêu cực của mạng xã hội lên sức khỏe tâm thần hiện nay được ghi nhận lên tới 32.4%.

Không chỉ mạng xã hội, các yếu tố như giấc ngủ kém, bị bắt nạt trực tuyến, hay giảm hoạt động thể chất cũng đang góp phần làm gia tăng triệu chứng lo âu, trầm cảm và cảm giác cô lập trong cộng đồng.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa sức khỏe tâm thần là trạng thái mà con người có thể nhận thức, phát huy tiềm năng bản thân, đối mặt hiệu quả với căng thẳng, làm việc và đóng góp cho xã hội. Khi bị rối loạn, không chỉ sức khỏe thể chất suy giảm, mà còn kéo theo hệ lụy như đói nghèo, mất cơ hội học tập, lao động, hòa nhập cộng đồng, thậm chí là tự sát.

Mỗi năm, thế giới có hơn 800.000 người tử vong vì tự sát – trong đó 80% rơi vào các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình như Việt Nam. Tự sát cũng là nguyên nhân tử vong thứ hai trong nhóm tuổi 15–24, cảnh báo mối nguy đang rình rập trong giới trẻ.

Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn chưa xây dựng được một chiến lược quốc gia toàn diện về sức khỏe tâm thần đúng theo khuyến cáo của WHO – nghĩa là chưa có tầm nhìn, giá trị cốt lõi, định hướng và mô hình hành động cụ thể để ứng phó với khủng hoảng sức khỏe tinh thần đang âm ỉ lan rộng.

Thực tế, hệ thống chăm sóc chuyên ngành tâm thần tại Việt Nam còn rất hạn chế. Toàn quốc hiện chỉ có khoảng 143 nhà tâm lý lâm sàng và trị liệu đang làm việc tại các bệnh viện công – một con số thấp hơn gần 10 lần so với tiêu chuẩn trung bình toàn cầu. Tổng số giường bệnh cho bệnh nhân tâm thần chỉ khoảng 9.400, chủ yếu tập trung tại tuyến tỉnh và trung ương, khiến người dân ở vùng sâu vùng xa gần như không có cơ hội tiếp cận.

Không chỉ thiếu nhân lực và cơ sở vật chất, rào cản lớn nhất có lẽ vẫn nằm ở định kiến xã hội. Bệnh tâm thần và các vấn đề sức khỏe tinh thần vẫn bị gắn với kỳ thị, sợ hãi và hiểu lầm trong cộng đồng. Nhiều người, dù đang âm thầm chịu đựng, vẫn ngần ngại tìm đến chuyên gia vì sợ bị phán xét, xa lánh.

Các chuyên gia nhấn mạnh, Việt Nam cần gấp rút đầu tư xây dựng một hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần dễ tiếp cận, thân thiện và hiệu quả – đặc biệt ở các địa phương còn nhiều khó khăn. Đồng thời, cần mở rộng truyền thông nâng cao nhận thức, xóa bỏ kỳ thị và tạo ra môi trường nơi mọi người có thể chia sẻ, tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần.


 

Nghèo khó, 2 chị em ở Ninh Thuận cột tay nhau nhảy sông Dinh tự vẫn

Ba’o Nguoi Viet

March 25, 2025

NINH THUẬN, Việt Nam (NV) – Hôm 24 Tháng Ba, khi lực lượng hữu trách tỉnh Ninh Thuận đưa thi thể hai thiếu nữ nhảy cầu Đạo Long 2 lên bờ, người ta thấy cảnh tay của hai thi thể buộc chặt vào nhau.

Cầu Đạo Long 2 bắc qua sông Dinh, nối huyện Ninh Phước với thành phố Phan Rang-Tháp Chàm.

Lực lượng cứu hộ đưa thi thể hai thiếu nữ nhảy cầu sông Dinh tự tử lên bờ để bàn giao cho gia đình lo hậu sự. (Hình: Hải Long/Lao Động)

Báo Lao Động dẫn tin ban đầu cho biết, khoảng 11 giờ khuya 22 Tháng Ba, hai chị em cô cậu là Trần Ngọc Bảo T., 16 tuổi, và Nguyễn Xuân Q., 13 tuổi, cùng ở xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, dẫn nhau ra cầu Đạo Long 2.

Tại đây, hai thiếu nữ để lại đồ dùng cá nhân, cột tay nhau rồi cùng nhảy xuống sông Dinh tự tử.

Khi người dân xung quanh phát hiện hai đôi dép trên cầu nhưng không thấy người, liền trình báo với cơ quan hữu trách.

Nhận tin báo, Công An Tỉnh Ninh Thuận đã huy động lực lượng Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy và Cứu Hộ Cứu Nạn tổ chức tìm kiếm.

Sau nhiều giờ lặn tìm, đến sáng 23 Tháng Ba, thi thể hai em được tìm thấy cách vị trí nhảy cầu khoảng 40 mét, trong tư thế ôm chặt lấy nhau, tay hai người buộc dính nhau bằng dây.

Danh tính nạn nhân sau đó được xác định là em Bảo T. và em Xuân Q.

Nói với báo Người Lao Động, lãnh đạo Ủy Ban Nhân Dân Xã Phước Thuận cho biết hai thiếu nữ đều có hoàn cảnh hết sức khó khăn. Em T. đã nghỉ học, còn em Q. hiện là học sinh lớp Bảy, trường trung học cơ sở Trần Thi, xã Phước Thuận.

Gia đình em Q. thuộc diện cận nghèo, hoàn cảnh hết sức khó khăn. Cha em Q. mất cách đây năm năm, mẹ em phải vào Sài Gòn làm thuê, gửi em cho bà ngoại chăm sóc dù là con duy nhất.

Thời gian gần đây, em Q. không có biểu hiện bất thường. Đêm xảy ra sự việc, em Q. vẫn tham gia sinh hoạt ngoại khóa, vui chơi cùng các bạn.

Hiện trường phát hiện sự việc. (Hình: Pháp Luật TP.HCM)

Trong khi đó, em T. có hoàn cảnh khó khăn nên phải nghỉ học. Cha mẹ em đã ly hôn, đi làm ăn xa. Em sống với ông bà tại địa phương.

“Khi xảy việc đau lòng vào tối 22 Tháng Ba, thì em T. có nhắn tin cho mẹ trước khi nhảy cầu Đạo Long 2. Trước đó nữa, qua lời kể thì em T. cũng từng có ý định tự tử một lần nhưng không thực hiện,” báo Người Lao Động dẫn nguồn tin cho biết.

Hiện nguyên nhân sự việc đang được giới hữu trách điều tra. (Tr.N) [kn]


 

PHÓ TRƯỞNG CÔNG AN TỰ TỬ BẰNG SÚNG LỤC

BBC News Tiếng Việt 

UBND phường Quang Trung, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum đã báo cáo về cái chết của Trung tá N.X.T, Phó trưởng Công an phường Quang Trung, tại nơi làm việc vào hôm nay 24/3.

Theo báo cáo, vào đêm 23 và sáng 24/3, Trung tá T cùng 3 cán bộ khác đang làm nhiệm vụ trực ban tại Công an phường Quang Trung.

Khoảng 5 giờ sáng ngày 24/3, các cán bộ trực ban nghe thấy tiếng nổ phát ra từ phòng làm việc của trung tá T trên tầng 2.

Khi chạy lên kiểm tra, họ phát hiện ông T đã bất tỉnh.

Các cán bộ đã gọi điện cho Trạm y tế Công an tỉnh Kon Tum gần đó. Khi nhân viên y tế tiến hành kiểm tra thì ông T đã tử vong.

Qua kiểm tra hiện trường, cơ quan chức năng xác định ông T tự tử bằng súng lục.

Vụ việc đang được cơ quan điều tra làm rõ.

#BBCTiengViet

#Congan

 

Công an tỉnh Kon Tum: Hình minh họa

Huyền Thoại & Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm

Mạn đàm với Vĩnh Phúc:

Huyền Thoại & Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm

Đúng hơn là cựu nhà báo BBC, Vĩnh Phúc. Ông đã về hưu từ năm 1996, cũng hơn 10 năm rồi. Gần 20 năm làm biên tập viên cho chương trình Việt ngữ đài BBC, ông tích lũy cả khối chuyện trên trời dưới đất, chuyện thật, chuyện giả và nhất là những chuyện lắt léo hậu trường, chuyện người, chuyện đời,… Có chuyện đã nói ra, có chuyện chưa. Chưa nói vì thời lượng phát thanh, vì chính sách của BBC, vì tế nhị, vì chưa có cơ hội nói,… Hôm rồi đến Canada, trong suốt hai ngày mạn đàm, phần lớn ông là người nói, tôi, Nguyễn Văn Lục (NVL), người nghe. Ông nói đủ đề tài, từ Duyên Anh, Ngô Đình Diệm, Trần Kim Tuyến.

Ông đã nói liên miên, nói không ngưng nghỉ, không một tờ giấy trước mặt.

Đến nay nghe rồi thì tôi có thể sờ thấy Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Diệm. Chỉ rất tiếc không có bà Nhu. 

Nhân dịp Vĩnh Phúc cho tái bản cuốn: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, tôi ghi lại một phần nội dung cuộc mạn đàm liên quan đến quyển sách mới tái bản của ông. Mặc dầu có cảm tưởng ông biện giải cho những sự thật về ông Diệm, tôi không tìm thấy nơi ông về một cảm tình quá độ, một parti–pris, ông vẫn gây cho tôi một cảm tưởng, biện hộ hẳn là có, nhưng vẫn thong dong thoải mái, vẫn có một thái độ khách quan chừng mực, trí thức và cẩn trọng. Điều quan trọng nhất, ông bằng mọi cách mọi giá tôn trọng sự thật như thái độ chọn lựa cân bằng các người được phỏng vấn. Chọn người được phỏng vấn ở nhiều góc độ khác nhau khiến cho sự kiện được nêu ra đạt được độ khả tín cao. Ông không có thói quen cường điệu hóa một sự việc, một biến cố hay nói huỵch tẹt ra là ông không nói phét, chủ quan cho mình nắm được sự thật. Có những điều tôi đặt ra cho ông mà ông không nắm rõ, ông thẳng thắn thú nhận là điều này ông không biết rõ…

Cuộc mạn đàm được diễn ra như thế nào?

Ông là người diễn xuất, tôi chỉ là chân kéo màn. 

NVL: Trước hết, xin ông cho biết cơ duyên nào đưa ông đến làm việc cho đài BBC, rồi từ

đó mở đường dẫn lối đến việc ông viết cuốn sách này?

VP: Tôi chỉ xin nói sơ lược thôi.

NVL: Xin ông 15 dòng.

VP: Đến Pulau Bidong là để chờ đi Mỹ. Vậy mà không ngờ, đã làm cho BBC gần 20 năm. Nghĩa là từ 1979 đến 1996. Khoảng năm 1988, mình giữ chức vụ Editor. Trong ban Việt ngữ hồi đó có ba người editor. Nếu cần thì Editor sẽ thay thế trưởng ban để điều khiển chương trình.

NVL: Tôi được biết BBC đã nhận ông ngay từ khi còn trên Pulau Bidong. Nhiều người biết không khỏi ngạc nhiên và nể phục. Thật ra câu chuyện đó đã xảy ra như thế nào?

VP: Ở đời, có những chuyện xảy ra không tính toán trước được. Nó như một khúc ngoặt cuộc đời. Chẳng bao giờ có ý nghĩ mình sẽ sang Anh. Ai cũng chờ đi Mỹ cả. Lúc đó chờ đợi đi Mỹ tính ra cũng 6, 7 tháng rồi. Bởi vì ở Mỹ có nhiều bạn bè, anh em bà con.

Câu chuyện nó như thế này. Có một đại diện BBC là Michael Butler sang đảo để tuyển nhân viên. Đúng ra là để test ông nhà báo người Việt gốc Hoa là ông Trần Quốc. Ông M.Butler mới nhờ mình — lúc đó là cố vấn cho Ban thông dịch – tìm kiếm Trần Quốc. Trần Quốc đã bỏ đi Mỹ. Tôi nói với M. Butler:

– “Sorry, ông ta đi Mỹ rồi”.

M. Butler tỏ vẻ thất vọng nói:

– “Tiếc quá, vừa mất công, vừa tốn tiền”. 

Rồi nhìn mình dọ hỏi:

– “Anh có muốn làm cho BBC không?” 

Mình trả lời là:

– “Tôi đã chuẩn bị đi Mỹ rồi. Nhưng anh cứ thử xem sao? Chắc gì tôi có đủ khả năng?”

– “Nói chuyện với anh từ nãy đến giờ tôi tin chắc anh có khả năng. Chỉ cần test anh về khả năng viết cho đúng thủ tục thôi. Anh bằng lòng thì để tôi test nhé ?”

-“ OK, bây giờ là trưa, để cho tôi về ăn cơm trưa xong cái đã.”

NVL: Có vẻ như Butler đi xin ông nhận vào làm cho BBC thay vì ông xin sang BBC làm việc.

VP: Không dám nghĩ thế đâu, chỉ vì Butler đặt mình vào một tình trạng mà trước đó mấy phút mình không bao giờ nghĩ tới. Mình bèn kiếm ông cha Phó trại, tạm mượn cái lều của ông ấy, mình “đuổi” ông ra khỏi lều. Lúc đó trời nắng chang chang, tiếng loa phóng thanh ồn ào gọi dân đi lãnh lương thực. Michael Butler đưa bài test. Phần mình thì ngoáy cho xong. Phải dịch những bài bình luận, despatch, bản tin tường thuật của phóng viên từ các nơi gửi về, dịch ngược, dịch xuôi, rồi một bài phóng bút, viết theo một trong ba đề tài cho sẵn.

NVL: Có thử giọng không? Cái này ông có phần ăn chắc rồi?

VP: Mình cũng hy vọng như vậy. Thử xong thì thu không rõ vì ồn quá. Ông Butler đòi thử

lại. Mình “cóc” chịu thử lại lần thứ hai. Được thì được, không được thì thôi. Hai tuần sau

nhận thư Luân Đôn: chưa có kết quả. Mình tống một thư sang “Sorry, tôi không đi Anh, chờ đi Mỹ”. Trưởng Phòng nhân viên đài BBC lại gửi một thư nói “Ráng chờ vì thủ tục hành chánh! Nhưng rất có hy vọng!”

NVL: Cứ như những điều ông vừa trình bày, có vẻ như ông không thích thú gì với công việc ở BBC mà nhiều người mơ cũng không được?

VP: Không phải là không muốn. Nhưng vì chẳng quen ai ở Luân Đôn, bà con, anh em, bạn bè đều ở Mỹ. Trời thì lúc nào cũng u ám, lạnh lẽo, đời sống lại quá đắt đỏ. Khi mới sang, cô thư ký Ăng lê dẫn đi tim thuê một chỗ ở hai phòng ngủ, trên lầu. Tiền thuê nhà, nó ngốn gần hết lương. Mình lại lên xin với xếp cho nghỉ việc và cho trở về Pulau Bidong. Bạn bè bảo khùng mới bỏ BBC. Xếp lớn khuyên ở lại.

NVL: Thế rồi ở lại luôn một lèo 17 năm đến khi về hưu? Một câu hỏi chót về chuyện này: Có gặp khó khăn trong công việc hay với đồng nghiệp không?

VP: Công việc thì từ từ cũng quen, không có gì khó khăn lắm. Nhưng với đồng nghiệp thì không dễ. Ờ mà câu hỏi này hơi riêng tư và dễ đụng chạm lắm. Ông làm khó tôi đấy.

Nên biết mình là người tỵ nạn đầu tiên được nhận vào BBC. Những anh em khác thì đều vào đó từ trước 1975. Có những người từ 1952. Dĩ nhiên, chưa hiểu nhau nên mình bị nhìn bằng một con mắt khác. Cứ như thể mình là một người thiểu số đến từ Ban Mê Thuột, mặc dầu thời trước 1975, mình cũng đã học ở Tân Tây Lan. Nhưng dần dần thì qua khả năng văn hóa Việt, vốn văn hoá Anh, kiến thức viết lách, mình đã vượt qua được những trở ngại đó. Và chỉ hơn 2 năm sau mình nhập chính ngạch ngay, một trường hợp hãn hữu.

NVL: Thôi tạm dừng ở đây. Cả ông vào tôi đều bậy rồi.

VP: Bậy điều gì?

NVL: Quá 15 dòng rồi. Cùng cười. Tôi muốn biết trước khi viết cuốn sách, ông có vẻ xu hướng cho chế độ ông Diệm. Ngay tựa đề đã cho người đọc nghĩ như thế: Những huyền thoại và sự thật… Ông có thể nói thật, trước khi viết cuốn sách này, thời còn trẻ, với tư cách một người Phật tử, thực sự ông đã nghĩ gì về chế độ ấy và khi viết cuốn sách, mức độ ảnh hưởng của ông Trần Kim Tuyến đến đâu?

 VP: Dù là gì, tôi cũng viết với tư cách nhà báo mà thôi. Lúc còn trẻ, thời sinh viên, như bất cứ người dân nào, mình nhìn chế độ ông Diệm là một chế độc tài, gia đình trị, ảnh hưởng công giáo, tổng thống là người công giáo, cần lao thì có mặt khắp nơi, chỗ nào cũng có cần lao. Mình còn nhớ có lần đi xe buýt về Thị Nghè. Gặp anh tài xế hách dịch gắt ỏm tỏi. Hành khách không ai dám hé răng, vì họ thì thầm bảo nhau ông này là người của bà Nhu. Tin đồn cho thấy cái gì cũng của bà Nhu. Dĩ nhiên mình không tin hẳn. Nhưng ai cũng ngán và sợ.

Chẳng hạn có đám cháy ở khu Khánh Hội, người ta đồn bà Nhu cho đốt để bán tôn của bà. Cái gì cũng của bà Nhu, xe buýt bà Nhu, bột ngọt bà nhu, hãng Taxi bà Nhu cây xăng bà Nhu, bất động sản khắp nơi của bà Nhu, chỗ nào cũng có người mập mờ nhận là Cần Lao … Thấy nó vô lý, nhưng làm sao kiểm chứng được. Tin đồn cứ thế loang ra. Chưa kể, mấy ông Thiên chúa giáo di cư, thái độ vênh váo cũng làm người dân khó chịu lắm.Vì thế mình cũng mong muốn thay đổi chế độ. Nhưng bảo rằng mình chịu ảnh hưởng của ông Tuyến thì không đúng. Sau này, trưởng thành hơn, có nhiều cơ hội tìm hiểu, mình cũng biết phán đoán, biết sự thật nằm ở chỗ nào?

Cho nên, không cần gặp ông Tuyến, tôi mới thay đổi. Từ khi chế độ ông Diệm rơi vào tay các tướng lãnh cầm quyền. Mình nhận ra ngay thực chất của họ và bắt đầu chán. Họ tồi tệ hơn thời ông Diệm. Mình có ăn học, mình thấy rõ ai hay, ai dở.

NVL: Ông cho biết trong trường hợp nào, ông gặp ông Tuyến?

VP: Thật ra mình biết về ông Tuyến từ lâu. Ông sang Anh từ năm 1975. Ông ở Luân Đôn một năm khá chật vật, rồi bạn bè người Anh giúp đổi lên Cambridge, tìm kế sinh sống. Mới đầu nghe đến tên ông mình tránh né. Với thành tích trùm Mật Vụ tạo nên một hình ảnh không đẹp về ông như đi bắt người, thủ tiêu, tra tấn …

NVL: Nhưng gặp rồi thì thay đổi? Không thấy có tra tấn, thủ tiêu? Nhưng dư luận bên ngoài thường cho rằng Trần Kim Tuyến như một thứ hùm xám, ác ôn, trùm mật vụ với nhiều tai tiếng nhất đã được lưu truyền trong công chúng khá lâu. Đó là phản ảnh qua bài viết của Nguyễn Văn Tuấn đăng trên Giao Điểm với bài: Đọc: Những huyền thoại của chế độ Ngô Đình Diệm…

VP: Tôi chẳng biết ông Nguyễn Văn Tuấn này có biết gì về Trần Kim Tuyến không mà viết như vậy. Thực sự tôi cũng chẳng đọc ông Tuấn nên không biết ông ta viết những gì.Nhưng gặp ông Tuyến rồi thì tôi chỉ thấy một người hiền lành, đạo đức. Tôi chưa hề nghe ông ta nói xấu một ai. Xin lỗi, vì ông ấy chết rồi mà tôi lại nói câu này: Mình thấy ông ấy như một anh nhà quê, nói ngọng L, N, cử chỉ tự nhiên, bình dị, có sao nói vậy, hút thuốc lào long sòng sọc. Từ lần gặp lần đầu đến mấy năm sau mới trở thành thân, vì tôi muốn có thời gian dài tìm hiểu. Thì thấy các bạn bè người chung quanh xa gần, ai cũng nói tốt về ông ấy. Họ cho rằng ông làm mật vụ mà cứu người nhiều hơn là bắt người bỏ tù.

NVL: Trong hồi ký “Việt Nam máu lửa Quê hương tôi” của ông Đỗ Mậu có viết, ông Tuyến khi trốn ra nước ngoài đã mang theo một cặp đựng đầy hột xoàn? Việc đó có không?

VP: Tôi có đọc và tôi buồn cười. Theo cụ Võ Như Nguyện nói với tôi nguyên văn thì “thằng Đỗ Mậu nó viết bố láo bố lếu ví dụ tôi mặc đồ tang, tay chống gậy trong đám tang ông Ngô Đình Khôi. Tôi đã mắng nó rồi. Nó viết nhiều chuyện tầm bậy, tầm bạ” .

NVL: Ông có thể kể tên một vài người thường nói tốt về Trần Kim Tuyến.

VP: Cái này thì tôi dám nói mà không ngại. Phải nói nhiều lắm. Cụ Lãng Nhân Phùng Tất

Đắc, chị Bích Thuận và chồng là Émile Ngô Trọng Hiếu, Cụ Đoàn Thêm, Cụ Cao Xuân Vỹ.  Cả Duyên Anh nữa. Duyên Anh có tha ai đâu, mà đối với ông Tuyến thì nói: Ôi thằng cha đó lo cứu người không à! Duyên Anh bảo rằng ông Tuyến làm trùm mật vụ mà đạo đức, hiền lành như vậy thì chọn lầm nghề rồi. Cụ Quách Tòng Đức, cựu đổng lý văn phòng Phủ Tổng Thống nói: “Ông Diệm nóng lắm, nhưng không ác độc. Ông Trần Kim Tuyến đàng hoàng, có tư cách”.

Còn cụ Cao Xuân Vỹ thì: “Tuyến chỉ đọc tài liệu, viết phúc trình cho ông Tổng Thống, ông Nhu. Trần Kim Tuyến chỉ cứu người chứ không hại người bao giờ cả. Ngoài ra, phải công nhận đám nhân viên ngoại vi của Trần Kim Tuyến có làm tầm bậy. Tụi này không thuộc Sở Nghiên cứu Chính trị. Anh nào cũng muốn lợi dụng Sở NCCT. Tuyến có la rầy nhân viên, nhưng như anh cả la em, không trừng phạt nặng. Nói mật vụ ác ôn là oan cho Tuyến”.

NVL: Ông có thể cho biết một vài người mà ông Tuyến đã “tha” đã giúp?

VP: Ờ, nhiều lắm chứ. Như bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, ông Nhất Linh, cụ Hà Thúc Ký. Hồi ông Tuyến còn tại chức, nhiều nhà văn nhà báo nhờ ông nên không bị bên công an, mật vụ làm phiền. Đến nay nhiều người còn nhắc. Chỉ trừ cái huyền thoại Trần Kim Tuyến cứu mạng Ngô Đình Nhu vào tháng 2/1947 là hoàn toàn bịa đặt. Về cụ Hà Thúc Ký thì xin kể lại như thế này. Ông Tuyến vào trình ông Diệm về vụ bắt được Hà Thúc Ký, lúc đó đang lẩn trốn và âm mưu ám sát ông Diệm. Ông Diệm nổi nóng quát: Đem thủ tiêu nó đi. Ông Tuyến nhận lệnh ra về và băn khoăn khó xử. Và thay vì thi hành lệnh thủ tiêu, ông Tuyến trì hoãn không làm gì cả. Hôm sau vào gặp ông Diệm. Ông Diệm đã quên béng cái lệnh miệng đem thủ tiêu HTK, rồi hỏi:

– “Hà Thúc Ký ra sao?”

-“ Dạ thưa cụ, vẫn còn giữ đó, để tôi liên lạc với bên Công an”.

 Ông Diệm nói:

-“Mình nóng mình nói như vậy, thôi liệu giúp gia đình nó. Nói bên Công An đối xử tử tế với nó.”

 Chút xíu nữa cái mạng của ông Hà Thúc Ký không còn nữa, nếu ông Tuyến thi hành lệnh miệng ngay đêm hôm đó. Ông Diệm lúc tức thì nói thế chứ đâu có ý định thủ tiêu Hà Thúc Ký.

Lại có trường hợp giúp người mà mắc oan. Ông Tuyến đã có lần giúp cho Trần Quang Thuận – về Nha chiến tranh Tâm lý, sau khi tốt nghiệp quân trường Thủ Đức – rồi mang vạ vì Thuận lái chiếc xe Austin hai mầu xanh/trắng, mang số DBA 599 của anh ta chở Hòa Thượng Thích Quảng Đức đến chỗ tự thiêu ở Ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng.  Ông Nhu “ghim” ông Tuyến vì vụ này.

NVL: Bốn câu hỏi chót về ông Tuyến. Tại sao ông ấy không tự mình viết lại hồi ký? 

VP: Ai cũng thúc dục ông ấy viết đấy chứ. Nhất là Cao Xuân Vỹ. Tôi cũng thúc dục ông ấy viết nhiều lần. Nhưng sau này, ổng có nói: “Moa (Lúc này đã thân, ông gọi toa, moa) không viết vì sợ đụng chạm rất nhiều người. Viết ra sự thật thì sẽ làm nhiều người mất mặt, trong đó có nhiều người còn sống. Nếu họ chết rồi thì vợ con họ cũng đau lòng.” Sau đó có lần, chính ông đề nghị tôi viết.

NVL: Xin hỏi lại cho chắc, tôi vẫn tưởng chính ông đến đề nghị ông Tuyến cho phỏng vấn?

VP: Không, không có chuyện đó. Chính ông Tuyến đề nghị là “Thôi Phúc toa viết đi, toa đến đây, toa đặt sẵn những câu hỏi gợi ý, rồi moa theo đó trả lời”.

NVL: Về điểm này, về nhân cách, cũng xin trân trọng ông.

VP: Không dám!

NVL: Thế còn về những lời đồn “Sở Nghiên cứu Chính trị như một CIA Việt Nam, buôn bán thuốc phiện lậu và kinh tài khai thác gỗ, xuất cảng lông vịt, vụ vé số kiến thiết”?

VP: Về điểm thành lập Sở Nghiên cứu CT, mình đã trình bầy đầy đủ trong sách. Chỉ tóm tắt là khi đó, ông Tuyến không biết một tý gì về vai trò của mình: từ ý thức chính trị đến tổ chức. Chẳng ông nào có kinh nghiệm chống Cộng sản cả. Hoàn toàn tay mơ. Nhân viên trên dưới 30 người, thử hỏi với số nhân viên như thế, làm được gì? Mỗi khi cần nhân sự thì phải điều động bên Công an, Bảo an.

Về những đồn đãi buôn thuốc phiện lậu, xuất cảng lông vịt là do hiểu lầm. Chỉ có khai thác gỗ là có nhưng có lý do và đã được hai ông Diệm – Nhu cho phép. Xin xem chi tiết trong sách.

Nói thêm là ngay cuốn sách: Làm thế nào để giết một Tổng Thống, cái tựa do Sức Mấy đặt ra cho loạt bài đăng trên báo Hoà Bình. Tác giả Cao Thế Dung chỉ được gặp Trần Kim Tuyến có một buổi để hỏi chi tiết, về viết. Nhưng sau đó lại làm như ông Tuyến là đồng tác giả, và viết quá sai sự thật. Ông Tuyến đã phản đối và Hoà Bình đã cải chính ngay. Nhưng khi in thành sách, vẫn để tên ông Tuyến, khiến ông rất bực mình.NVL: Và câu hỏi chót về ông Tuyến, ông có nhận thấy có sự trùng hợp về những điều thị phi, những tiếng đồn xấu chung quanh ông Tuyến cũng là những điều thị phi về ông Diệm và chế độ ấy? Phải chăng nó cùng nguồn gốc? Cùng bản chất? Và phải chăng khi ông bênh vực ông Trần Kim Tuyến là một cách gián tiếp giải trừ những huyền thoại về ông Diệm?

VP: Thưa ông, câu trả lời của tôi đã nằm ngay trong câu hỏi của ông rồi.

NVL: Nay thì xin đi vào chính nội dung cuốn sách của ông. So ra với lần xuất bản trước, 1998, lần này dày hơn đến 100 trang. Điều gì đã thêm vào như thế?

VP: Thêm vào vì mình không hài lòng với lần xuất bản đầu tiên, thấy cần tìm  kiếm thêm nhân chứng. Chẳng hạn tìm hiểu thêm con người của ông Ngô Đình Cẩn. Ông có cướp đoạt tài sản của người ta không, có cho bộ hạ khủng bố đối lập không? Những nhân chứng mới như Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Tường Thiết, cháu và con trai Nhất Linh giúp soi sáng thêm về chủ tâm quyên sinh của ông Nhất Linh để phản đối chế độ? Ngoài ra còn những nhận xét, đánh giá quý báu của cụ Võ Như Nguyện, một nhân vật theo rất sát với ông Ngô Đình Khôi rồi ông Diệm. Cuộc phỏng vấn cụ Võ Như Nguyện quả thực hữu ích, vì nó củng cố thêm cho những điều tôi đã trình bày trong lần xuất bản đầu tiên.

Nhưng thích thú không kém là những lời của nhân chứng cựu đại úy tùy viên Lê Châu Lộc. Nhờ Lê Châu Lộc ta hiểu thêm “con người” Ngô Đình Diệm như thế nào trong những hoàn cảnh cay nghiệt của vai trò một tổng thống, thấu hiểu được những cá tính con người ông ấy và nhất là cái cõi riêng tư, những nỗi niềm trăn trở và cô đơn của ông ấy. Nhà văn, nhà viết sử làm sao đạt được cái cõi riêng ấy để hiểu được một con người?

NVL: Tôi cũng nhìn ra được điều ấy, khi đọc những phần nhận xét của Lê Châu Lộc. Đó là những thứ tư liệu ròng mà không dễ có được. Đỗ Thọ cũng viết về ông Diệm, nhưng để tình cảm lấn lướt nhiều quá. Người đọc bị ngộp. Cảm thấy không tự nhiên. Nhưng đâu là huyền thoại và sự thật về con người Ngô Đình Diệm?

VP: Theo tôi thì giá đọc được chính bài viết thì vẫn hơn là những điều tôi nói ra đây. Nhưng về cá nhân ông ấy, tôi nghĩ ông là người có đạo đức và về phương diện chính trị, ông là người có lòng với đất nước, với dân tộc, trước ông và sau ông, thật cũng khó có người sánh bì.

NVL: Ông có nghĩ rằng, những ý kiến của ông về ông Diệm sẽ có một số người phản đối, thậm chí coi ông Diệm là thứ độc tài ác ôn, gia đình trị, ba đời Gia tô bán nước, làm tay sai cho giặc?

VP: Chính vì còn có những người nghĩ như thế nên mới có vấn đề cần giải trừ những huyền thoại và những sự thật về con người ấy. Với lại không ai cấm họ nói viết ra như thế, với điều kiện họ đưa ra được bằng cớ khả tín. Vâng, vấn đề là nói sao cũng được, miễn là có bằng cớ khả tín.

NVL: Nói chuyện bằng cớ, thưa ông, đã có lần ông chủ bút báo ĐT gửi cho tôi một bức hình gia đình ông Diệm và hỏi xem tôi nghĩ gì? Hình ảnh một già đình quan lại thuộc hàng Thượng thư triều đình ba đời làm tay sai cho Pháp mà như thế sao?

VP: Vâng, bức hình mà ông nói chính là bức hình thứ nhất ở trang 305 trong sách của tôi, do cựu trung úy Nguyễn Minh Bảo lấy được trong phòng ông Diệm trong cuộc đảo chính 1/11/63. Theo tôi, bức hình nói lên tất cả. Trông rõ cái cảnh nghèo khó, thanh bạch của gia đình ông ấy. Ông Diệm, ông Thục đi chân đất, quần áo nhếch nhác lôi thôi như bất cứ một gia đình nông dân nghèo túng nào.  Nhưng ông nói thật hay nói đùa đấy? Lấy đâu ra ba đời làm tay sai cho Pháp, mà ông Diệm làm tay sai cho Pháp hồi nào?

NVL: Có thể là tại vì ông Diệm có lý tưởng và nhờ ông sống độc thân, không bị ràng buộc vào gia đình nên ông mới hết lòng với dân, với nước?

VP: Có thể lắm và chắc cũng không thể không nghĩ tới điều đó. Có vợ con thì nó khác.

NVL: Ông có nghĩ rằng khi đọc sách của ông, sẽ có người nghĩ rằng, ôi cha Vĩnh Phúc này là tên Bắc kỳ, công giáo di cư, Hố Nai?

VP: Cười. Cứ để họ hiểu lầm. Người như ông Diệm còn không thiếu kẻ hiểu lầm, thì phần tôi có nghĩa lý gì. 

NVL: Phần tôi, tôi đặc biệt chú trọng đoạn Lê Châu Lộc, tùy viên của ông Diệm kể buổi sáng hôm ấy ông Diệm phải tiếp kiến đô đốc Felt tại Đàlạt. Ông có nhận xét gì về buổi gặp gỡ lịch sử này?

 VP: Ông tinh ý lắm, nêu dẫn đoạn ông Diệm gặp đô đốc Felt là điểm thắt nút mối bang giao hợp tác giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm trong suốt 9 năm. Buổi sáng hôm ấy, ông Diệm nôn nóng khác thường, tức giận đạp đổ ghế vì sĩ quan tùy viên tới chậm. Cái tức giận tùy viên chỉ là cái cớ thôi. Cái chính là lá bài sắp lật ngửa. Và tôi nghĩ rằng: Ván bài lương tâm và trả giá giữa người Mỹ và ông Diệm nằm ở buổi tiếp kiến hôm đó trước khi ông Diệm bị thảm sát. Đó là bản chúc thư giã từ sau 9 năm cầm quyền, một lần chót nói lên cái quan điểm khác biệt giữa người Mỹ và ông Diệm. Những kẻ viết sử sau này thường bác bỏ luận cứ này để biện hộ cho việc lật đổ ông ấy. Không có người Mỹ, cuộc đảo chánh đó không có cơ thành tựu.

VP: Vừa rồi, ông đang hỏi tôi về con người ông Diệm. Tôi chưa nói hết, thì đấy, con người ấy có thể khoan dung ngay cả đối với kẻ thù. Nhưng cũng con người đó có thể nóng như lửa, mặt đỏ gay, hầm hầm, giộng ba toong thình thình trên sàn máy bay vì thấy treo cờ Vatican, vứt hồ sơ vào mặt ông Nhu mà không cho tùy viên lượm lại. Nhưng chỉ trong chốc lát, ông tổng thống nguôi giận. Nhưng ngược lại, ông lại tỏ ra rất bình tĩnh khi dinh độc lập bị ném bom. Lê Châu Lộc nhận thấy ông Diệm vẫn ngồi đọc sách một cách bình thản hỏi:

– “Cái chi đó?”

– “ Dạ người ta bỏ bom mình”.

– “ Thế à, mà ai bỏ bom vậy?”

Theo Lê Châu Lộc, làm tùy viên cho ông Diệm là khổ lắm. Theo ông đi kinh lý tối ngày, bất kể thì giờ, bất kể ngày đêm. Bằng máy bay, bằng trực thăng, bằng xe, bằng xuồng, “thăm dân cho biết sự tình”. Có lần phải kê ghế bố mà ngủ trong khi bên dưới lõng bõng nước. Những chuyến đi vất vả và nguy hiểm như thế cũng không làm ông Tổng Thống nản lòng, vì ông muốn đến tận nơi hẻo lánh nhất, hoàn cảnh khó khăn nhất để đem lại nguồn an ủi cho binh sĩ.

Thử hỏi sau này có anh lãnh đạo nào làm được như thế không?

NVL: Tôi cũng nghĩ như vậy. Có ông lãnh đạo nào bỏ ra vài lần thăm dân, thăm trường học trong suốt những năm về sau này? Chữ kinh lý, tôi nghĩ là chữ đặc quyền dùng cho ông Diệm. Sau này chữ đó không còn có trong tự điển nữa. Vậy mà thời ông Diệm, ciné chỉ chiếu những chuyện gì đâu.

VP: Ông nhắc tôi mới nhớ. Tôi còn nhớ hồi đó, ciné hát xong bài chào cờ là hát bài suy tôn Ngô Thổng thống. Đáng nhẽ phải bỏ tù cái thằng cha nào đã nghĩ ra cái bài hát thối tha: Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. (1)  Bài đó giết ông Diệm từng ngày, từng  giờ không cần gươm giáo đấy. Vứt bài hát đó vào sọt rác và chiếu lên hình ảnh ông Tổng Thống đi bốt, lội bùn, sắn quần lên tới đầu gối thì còn gì đẹp bằng nữa? (2)

NVL: Vâng, quả đúng như vậy.

VP: Nay thì đến lúc tôi hỏi ngược lại ông: Đọc lần tái bản này ông thấy thế nào ?

NVL: Phải nói bản cũ, tôi đọc nhiều lần, mỗi lần muốn viết điều gì về chế độ Ngô Đình Diệm. Tôi đều dở ra tham khảo. Nhưng chê trước đã. Thật ra, không phải chê mà ấm ức.

Thứ nhất, cuốn sách không có cái nhìn tổng thể lớp lang về chế độ ấy. Nó thiếu văn mạch của những chuỗi sự kiện nối tiếp nhau. Nó nêu ra đó rồi để cho độc giả tùy ý chọn lựa thái độ. Quả là có rộng lượng và tôn trọng độc giả. Sự kiện từng mảnh của chế độ ấy như chính ông nói với tôi, như đống gạch. Có viên lành lặn, viên vỡ. Rồi ông bày hàng ra, ông đẩy cái trách nhiệm đánh giá cho các nhà sử học, cho người đọc. Mà như chúng ta biết đấy. Nhà sử học nào đã làm được công việc ấy? Trong khi đó, đáng nhẽ là trách nhiệm của ông phải làm?

Thứ hai, về phương pháp làm việc, ông đã chọn cách viết chỉ dựa trên nhân chứng, một thứ Oral History, rất khả tín, thời thượng. Phải chăng, đó là lối làm việc theo thói quen từ BBC của ông? Nhưng lối viết nêu dẫn nhân chứng lại rất áp đảo, trấn áp người đọc. Chẳng hạn khi chính Lê Châu Lộc nói rằng, ông Diệm nghe tin phi công Phạm Phú Quốc ở trong tù bị bọn công an hành hạ đến nơi đến chốn. Ông Diệm không an tâm sai Lê Châu Lộc đến nhà giam xem thử. Lê Châu Lộc bằt Phạm Phú Quốc dơ tay cho xem có bị thương tích không.Không có. Chỉ nêu sự việc: Một người đã ném bom tính giết mình, đã không bị đưa ra tòa,  không bị cho đi mò tôm là may, lại còn thăm hỏi. Chuỗi sự kiện đó dẫn đưa tới việc phải thừa nhận: Ông Diệm là người tốt. Không lạ gì, sau đó, Phạm Phú Quốc đã viết thư xin lỗi ông Diệm. Tôi chỉ nói, lối viết đó có tác dụng thuyết phục, vì nó vượt lý luận, bịt miệng những ai muốn nói khác, muốn bôi nhọ. 

Ở trên, tôi nói ấm ức, vì ông không sử dụng tài liệu. Ông cũng đã nêu ra những lý do khi ông cho rằng những hồi ký, những sách viết về chế độ ấy do các nhà văn, nhà chính trị, nhà báo viết bố láo, bố lếu, bóp méo lịch sử cho dù dùng tài liệu ngoại quốc viết cũng tào lao, rất là bôi bác. Nói chung là như thế. Nhưng này, ông chê người ta viết bố láo, bố lếu. Vậy có thể nào ông cho biết đích danh một tác giả hay một cuốn sách viết bôi bảc?

VP: Cái này thì xin ông tha cho. Tôi chỉ nói được là nhiều lắm, tôi tránh nói ra. Độc giả đọc họ là biết rồi. Sau khi anh em ông Diệm bị giết, nhiều người đã viết quá sai sự thật chỉ nhằm mục đích câu độc giả. Sau 1975, cũng thế. Ngay cả những bầy tôi, sau này viết về chủ mình, cũng phản bội, viết bôi bác, nói trắng ra đen. Theo tôi, viết như thế không xứng đáng một người cầm bút.

Chính vì vậy, tôi chọn lựa không sử dụng tài liệu của bất cứ ai.

NVL: Chọn lựa như thế, đúng ra là chọn lựa tư cách là một nhà báo hay nhà sử? 

VP: Nhà báo thì cung cấp thông tin, dữ kiện. Còn nhà sử cung cấp kiến thức. Nói như thế thì ông biết tôi là nhà gì rồi?

NVL: Cũng đúng, nhưng tôi xin bổ túc, Trần Trọng Kim kiến thức sử đâu có bao nhiêu, nhưng sự trung thực thì lồng lộng mà kẻ hậu bối chỉ biết cúi đầu khâm phục.

VP: Tôi cũng không nghĩ gi khác ông. Chúng ta cùng nói chung một thứ ngôn ngữ: Sự can đảm và lòng trung thực. Đó là những đức tính cần có của một người cầm bút.

NVL: Khi ông dùng chữ bày tôi viết về chủ mình thì gián tiếp người đọc như tôi cũng hiểu bầy tôi là ai rồi ?

VP: Ấy chớ, xin ông đừng diễn dịch xa quá.

NVL: Trong biến cố Phật giáo, mặc dầu ông đã cố gắng phỏng vấn một số người như cụ Quách Tòng Đức, TT Thích Tâm Châu và ngay cả ông Đặng Sỹ v.v… Phần trả lời của TT Tâm Châu chưa đầy đủ lắm. Phải nói về vai trò của TT ấy như thế nào, vai trò của TT Trí Quang có tính cách quyết định về đường lối đâu tranh chống chính quyền? Nguyên đo đưa đến sự đổ vỡ đến tách ra thành hai khối Phật giáo? Phần ông Đặng Sỹ thì tránh né trả lời.Chính tôi cũng liên lạc với ông được hai lần, nhưng ông cứ khất lần. Rất tiếc nay người nhà ông báo cho tôi biết ông mới qua đời. Thế là một dấu mốc lịch sử bị đứt quãng. Nhưng tôi vẫn thấy còn cần đào sâu thêm nữa để có thể khai thông một số vấn đề chưa sáng tỏ như vụ nổ đài phát thanh Huế v.v… Những người như đại úy Minh, văn phòng cố vấn chỉ đạo của ông Cẩn có thể đóng góp cho rõ thêm vai trò ông Cẩn và đặc biệt TT Trí Quang, sau 1975, ông rút vào bóng tối một cách khó hiểu như có điều gì không tiện nói. Im lặng ở đây là vàng. Ông cần lên tiếng và nên lên tiếng. Ông nghĩ thế nào về vấn đề này?

VP: Thật ra những người như ông Ngô Đình Nhu đáng nhẽ phải để lại những Mémoires thì đỡ cho chúng ta biết bao nhiêu. Hình như các người làm chính trị ở Việt Nam không có thói quen viết nhật ký. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp TT Thích Trí Quang nhưng quá khó gặp. Cả TT Hộ Giác một khuôn mặt đấu tranh nổi bật thời đó hiện còn sống ở Mỹ, tôi cũng cố tìm cách tiếp xúc nhiều lần mà không được. Tôi sẽ đặc biệt lưu tâm đến trường hợp này trong lần tái bản sau.

Nguon: Ho Cong Hung

KẾ HOẠCH GIẢI CỨU SCB TRONG 15 NĂM – BBC News Tiếng Việt

BBC News Tiếng Việt

SCB – ngân hàng chịu trách nhiệm cho vụ gian lận tài chính lớn nhất Việt Nam – đã nhận được gói cứu trợ từ Ngân hàng Nhà nước có trị giá lên tới 5% tổng sản lượng kinh tế quốc gia năm 2024.

Sun Group hy vọng sẽ trả lại khoản tiền này trong vòng 15 năm, theo các tài liệu mà hãng tin Reuters tiếp cận được và dẫn lại hôm 18/3.

Đây là lần đầu tiên lộ trình giải cứu ngân hàng SCB được tiết lộ, một vấn đề mà truyền thông Việt Nam rất kín tiếng.

Sun Group sẽ giúp SCB trả khoản vay 657 ngàn tỷ đồng và sinh lời ra sao?

#BBCTiengViet

#TruongMyLan

#SCB