Bà Thanh đã bị bắt!-Lê Huyền Ái Mỹ

Ba’o Tieng Dan

Lê Huyền Ái Mỹ

6-10-2025

Chiều nay, báo chí đăng tin bà Phan Thị Mỹ Thanh, cựu phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai bị bắt vì tội nhận hối lộ trong vụ án liên quan siêu dự án King Bay 125 ha.

Bà Phan Thị Mỹ Thanh, cựu Phó bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai, đã bị bắt. Nguồn: BVPL

Tội trạng này hoàn toàn mới trong “bộ sưu tập” sai phạm của bà Thanh. Bởi trước đó, khi là giám đốc sở Công nghiệp, bà cho thu tiền của dân nhưng không cho xây dựng trong dự án khu tập thể nhà máy dệt Thống Nhất, lấy tiền gửi qua dự án khác (công ty gỗ Tân Mai), chuyển công tác nhưng không bàn giao dự án…

Khi là phó chủ tịch UBND tỉnh, không xem xét nội dung tham mưu của sở ngành, không báo cáo xin ý kiến các Bộ ngành khi thực hiện một số dự án trọng điểm, ký một số quyết định (có cả ngoài lãnh vực mình phụ trách) để ưu ái cho công ty gia đình, báo cáo sai sự thật về khối lượng, tiến độ đã thực hiện của dự án, nhằm mục đích trục lợi cho doanh nghiệp của gia đình mình. Nhiều lần sử dụng hộ chiếu ngoại giao để đi nước ngoài với mục đích cá nhân, xuất cảnh không báo cáo tổ chức.

Rõ ràng, bà Thanh đã vi phạm “rất nghiêm trọng” – theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương tại tờ trình 111/2018 – nên bị cách hết tất cả các chức vụ trong Đảng từ tháng 5/2018.

Và vì “rất nghiêm trọng” nên tháng 12 cùng năm, bà Thanh được chuyển từ Văn phòng tỉnh ủy Đồng Nai về Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh!

Vi phạm rất nghiêm trọng mà vẫn còn được tái bố trí trong bộ máy nhà nước thì phần nào lý giải độ “che cả bầu trời” của bà Thanh. Những vi phạm, sai phạm ở các cương vị đều cho thấy bà như đi giữa chốn không người, kỷ luật tự thân hay kỷ cương tập thể đều là thứ “bỏ túi” trong tay bà.

Trước sự đã rồi, cả Ban thường vụ Tỉnh ngồi lại tự kiểm với câu “coi đây là bài học sâu sắc để xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh”. Chẳng phải đợi đến khi Trung ương ra án kỷ luật thì mới thấy là bài học kinh nghiệm. Bài học nào – từ ai, kinh nghiệm gì – từ đâu khi diễn tiến sự việc, cách điều hành, thói can thiệp công khai, lộ liễu như thế, tính Đảng bị mất đi, bị triệt tiêu từ trong cá thể đến tập thể như thế, cần gì phải đợi tổng kết, đúc kết để ra “bài học kinh nghiệm”.

Giờ thì bà ta đã bị bắt, cái tội danh gọn ơ trong ba chữ “nhận hối lộ” nhưng như là “phẩm tính” ở một con người, một cán bộ, một lãnh đạo địa phương coi Trời bằng vung, coi dân rẻ mạt.

Việc bắt một cựu quan chức sai phạm đã gần như “thế à” ở xã hội ta. Điều đáng quan tâm hơn họ có là một mắc xích trong đường dây “quan – thương” câu kết để trục lợi ngày càng tinh vi, biến tướng, nguy hại hơn, với mối quan hệ “quan chức – doanh nhân – tội phạm”, các đối tượng đã thông đồng, móc ngoặc, hình thành “nhóm lợi ích” để trục lợi” – như lưu ý của Tổng bí thư Tô Lâm mới đây khi nói về một loạt sai phạm ở Thanh Hóa.

Những ngày này, đọc về một “bà đầm thép” xứ người nay mai sẽ là Thủ tướng; nhìn lại cũng một “đầm thép” xứ mình, là dân đất Trấn Biên xưa, sao chỉ thấy lối hành xử công quyền vô thiên vô pháp.


 

Tiên sư anh thiên tai! – Thái Hạo 

Hạo’s Post – Thái Hạo 

 Lại mưa. Nhìn những hình ảnh cột điện đổ bằng sắt hộp này và nghĩ về cảnh mất điện 4 – 5 ngày không một lời thông báo của i-vi-en mà mệt ngang. Mệt hơn nữa là dù mất điện, dù không dùng điều hòa, không sử dụng bao nhiêu nhưng tiền điện vẫn được giữ vững, có khi còn tăng trưởng ngoạn mục nữa. Tài, tài đến thế là cùng. Tiên sư anh thiên tai!

Sách cũ miền nam 1954 -1975- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2025

Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao…

…Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng.

Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6, 7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói xôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.

Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.

Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai. Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.

Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có truyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày. Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.

Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy.

Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo báo cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là: “Việc xây dựng nền Văn Hóa mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hóa ‘nô dịch’, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..” [I].

Để thực hiện nghị quyết trên, họ đã làm mọi cách: tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.

A.- Tình hình sách cũ hồi 1975.

Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu. Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9-1972, theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco, Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000 – 60.000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn. Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy. Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.

Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản.” Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông. Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa.

Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian. [ii]

Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao. [iii]

Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách. Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì.

Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hà Nội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách.

Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn. Nhã Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt.

Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình.

Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.

Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.

Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì. Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua, vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị, có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển.

Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hóa miền Nam.

Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại Ðoàn Kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.” Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở “Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại.” [iv]

Những sách càng bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền.

Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.

Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai.

Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.

Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần Thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.

Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao?

Sách nào là phản động, đồi trụy?

Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.

  • Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.

Đó là các nhà xuất bản như Tuổi Thơ, Nắng Sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai.

  • Các dịch giả Kiếm Hiệp sau đây cũng bị cấm: Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.
  • Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như: Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lực, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..

Nhận xét:

– Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách trùy dập vô tội vạ và vô ý thức.

Các trẻ em miền nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.

Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.

Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc… Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình.

Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung.

Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư Kiếm Ân Cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên 4 Hiện Ðại Hóa ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”

Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v… mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?

Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?

Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.

Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.

– Về các tác giả, các nhà văn bị xóa sổ cho thấy tính cách tổng quát hóa và khái quát hóa đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ Say, Tâm Sự Kẻ Sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng Giữ Ngọc và Giòng Sông Định Mệnh của Doãn Quốc Sỹ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Dấu Chân Sỏi Ðá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ Ðầu Trẻ, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ “Những năm 1960”, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo Trường với Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh. Bùi Giáng với Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.

Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.

Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi: Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.

Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người Thầy Cũ, Mười Ðêm Ngà Ngọc, Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật cũng vẫn bị coi là tên biệt kích văn nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi Không Còn Cô Ðộc, Bếp Lửa, Cát Lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hóa. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu Chân Sỏi Ðá, Hoa Thiên Lý, Thằng Khoa, Gấu Rừng, Giặc Ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.

Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.

Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh.

Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một sự muốn xóa trắng Văn học miền Nam. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200: “Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khóa 5: Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”

Về những bài viết, xin kể vài bài: Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa mới. Nọc độc văn hóa nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75.

Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.

Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xóa trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.

Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.

Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam

Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.

Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn ‘Loan mắt nhung’. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống.

Hãy nghe ông kể: “Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày ‘giải phóng’, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà… Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này. Xin đọc tiếp: “Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.”

Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi. [v]

Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông: “Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được.”

Chính ông cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh Nước Ðen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu.Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.

B.- Tình hình sách cũ hiện nay.

Về Sàigòn hôm nay, chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại ‘sách cũ’ thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành ‘sách mới’, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung Giữa Ðời Tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát Vọng Tự Do, quyển thượng, Thiên Hạ Ðệ Nhất Mỹ Nhân, quyển trung, Từ AQ Ðến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm Và Cây Ðàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.

Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương Ðảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn.

Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau: Kể từ 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học: Mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như: Mười Ngày Của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng Cười, dịch V.Hugô. Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà của E. Zôla… Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà ở đâu. Trăm Năm Cô Ðơn của G. Market. Tuổi Thơ Mãi Mãi Cùng Ta của M. Karim, Đất Vỡ Hoang của M. Sôlôkhốp, Thời Gian Ðể Sống Và Ðể chết của E. Rơmacơ. Ông Già Và Biển Cả của E. Hemingway, Đồi Gió Hú của E. pônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh Gió Hú, đốt Lão Ngư Ông Và Biển Cả, đốt Thời Gian Ðể Sống Và Ðể Chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì?

Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hóa đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hóa phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột.

Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.

Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hóa này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hóa đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập.” [vi]

Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.

Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ. Điều đó khó mà tha thứ được.

C.- Những người có công với sách cũ của Sàigòn.

Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hóa phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1.- Ông Khai Trí:

Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hóa vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên soạn khoảng 15 cuốn sách như Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới Chọn Lọc, Chánh Tả Cho Người Miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bi trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hóa. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét: Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.

…Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3/2005, linh cữu quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm đó 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2.- Nhà Lá Bối:

Nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến Tranh và Hòa Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp Người của Sommerset Maugham, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay và Lối Thoát Cuối Cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.

3.- An Tiêm Thanh Tuệ:

Tôi chỉ xin trích dẫn hai bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.

– Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.

Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi Giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt… Đêm Nguyệt Động, Cái Chuồng Khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

– Với nhà văn Lê Thị Huệ:

Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn:

Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thưởng, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng Ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v… đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Loang, Sàgòn Time có Võ Như Lanh, Kinh Tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986… Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có ‘Loan Mắt Nhung’ nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v… Yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN Cộng Hòa, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.

Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.

Nguyễn Văn Lục

_____________________

[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ. Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hóa Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hóa Thông tin. Trang 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 228. nxb Văn Nghệ.


 

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

Nhật Ký Yêu Nước

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

(Trần Khánh Ân-Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)

Từ một cá nhân đến sự cáo chung của cả chế độ

Mỗi chế độ độc tài thường sản sinh ra những gương mặt biểu tượng cho sự tha hóa và mục ruỗng của chính nó. Tô Lâm, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, là một gương mặt như thế. Ông ta không nổi bật bởi tài năng chính trị, cũng không nổi bật bởi tầm vóc trí tuệ, mà trái lại, nổi bật bởi sự thô kệch, tầm thường và sự khôn ngoan của một công an khét tiếng với những hồ sơ tham nhũng và khủng bố tinh thần trong tay.

Quyền lực của Tô Lâm không đến từ sự tín nhiệm của đồng chí, cũng không đến từ sự kính trọng của dân chúng. Nó đến từ sự thối nát triền miên của một chế độ đã tự biến mình thành một tổ chức tội phạm có vỏ bọc chính đảng. Ở đó, mỗi ủy viên trung ương, mỗi bộ trưởng, mỗi cán bộ cao cấp đều đã nhúng chàm tham nhũng, đều có những hồ sơ bất minh mà chỉ cần bị khui ra là có thể đi tù. Trong cái nhà tù tập thể ấy, kẻ nào nắm chìa khóa điều tra, kẻ đó trở thành “chúa tể”. Và Tô Lâm chính là chúa tể kiểu đó.

Nhưng Tô Lâm không chỉ là một cá nhân. Ông ta là tấm gương phản chiếu của cả một chế độ đang thối rữa từ gốc rễ, nơi mà quyền lực được duy trì bằng sợ hãi, nơi mà tư tưởng đã bị quăng vào sọt rác, và nơi mà kinh tế thì chìm trong những dự án thất bại, còn ngoại giao thì chỉ biết bám víu vào hai chế độ độc tài khác, cũng đang hấp hối : Trung Quốc và Nga.

Từ một cá nhân, chúng ta có thể nhìn thấy sự cáo chung không thể đảo ngược của cả chế độ.

Ở một xã hội bình thường, quyền lực chính trị dựa trên sự tín nhiệm dân chúng, dựa trên năng lực điều hành, và dựa trên những dự án chính trị thuyết phục. Ở Việt Nam, quyền lực lại nằm trong tay kẻ nào nắm được hồ sơ tham nhũng của người khác. Cái gọi là “phòng chống tham nhũng, tiêu cực” thực chất chỉ là công cụ để thanh toán phe phái. Khi trở thành Phó trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Tô Lâm bỗng nhiên có thể quyết định số phận của tất cả những ủy viên Bộ Chính trị khác. Bởi lẽ, tất cả họ đều tham nhũng, đều có những khối tài sản bất minh không thể giải thích. Một người chỉ với mức lương 1.000 đô la mỗi tháng lại có thể ngồi trong nhà hàng ăn bò dát vàng giá 2.000 đô la một miếng, uống rượu 15.000 đô la một chai, thì cái gọi là trong sạch chỉ còn là chuyện hoang đường.

Tô Lâm không mạnh, mà những kẻ khác quá yếu. Ông ta không có tầm vóc trí tuệ, nhưng có quyền lực trong tay. Ông ta không có lý tưởng, ông ta sống bằng nỗi sợ hãi của các đồng chí. Và trong một tập thể đã mục ruỗng đến tận cùng, thì nỗi sợ hãi trở thành đồng tiền giao dịch duy nhất. Đó cũng chính là bằng chứng sống động nhất cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay không còn là một chính đảng, mà là một tập đoàn tội phạm, vận hành bằng sự trao đổi hồ sơ và sợ hãi.

Tham nhũng và tội phạm hóa của cả bộ máy

Điều hiển nhiên mà Tô Lâm đã phơi bày, chính là mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng đều phạm pháp. Trong một đất nước mà tài sản khổng lồ của quan chức không thể nào giải thích bằng lương, thì tham nhũng không còn là hiện tượng cá biệt, mà là bản chất của chế độ. Mỗi vụ án tham nhũng chỉ là bề nổi. Phần chìm là cả một hệ thống đã biến tham nhũng thành điều kiện sống còn. Chế độ này giống như một căn phòng khóa kín, nơi tất cả các thành viên đều bị trói trên ghế bằng dây xích tham nhũng. Ai cũng có tội, ai cũng sợ bị lôi ra ánh sáng. Và trong cái căn phòng ấy, kẻ nào giữ chìa khóa, kẻ đó trở thành ông chủ. Đây là điều giải thích vì sao Tô Lâm có thể thanh toán những nhân vật tưởng chừng có uy tín hơn, như Vương Đình Huệ hay Võ Văn Thưởng. Và vì sao Bộ Chính trị rốt cuộc chỉ còn lại những gương mặt phục tùng ông ta một cách vô điều kiện.

Một chính đảng nếu thực sự lành mạnh thì phải là nơi tập hợp những con người có phẩm chất, có lý tưởng, có kiến thức để cùng nhau bàn bạc, thảo luận và xây dựng dự án cho đất nước. Nhưng ở đây, cái gọi là “Bộ Chính trị” chỉ là một phòng họp tội phạm, nơi những kẻ đồng lõa phải im lặng vì sợ bị xử lý thì làm sao có thể dám suy nghĩ chứ chưa nói tới việc sản xuất ra được một ý kiến đúng đắn ?

Ý thức hệ là một xác chết chưa được chôn

Có một điều đáng chú ý : từ khi Tô Lâm lên nắm quyền, những khẩu hiệu về “chủ nghĩa Marx Lenin” hay “tư tưởng Hồ Chí Minh” gần như biến mất. Tô Lâm không còn nhắc đến những thứ ấy. Nhưng không phải vì ông ta tiến bộ hơn, mà vì ông ta biết rằng đó chỉ là xác chết. Thực ra, ý thức hệ của Đảng cộng sản đã chết từ lâu. Nó chết từ khi chính quyền buộc phải quay lại với kinh tế thị trường, từ khi chủ nghĩa xã hội chỉ còn tồn tại trên giấy tờ. Nó chết từ khi chính những người lãnh đạo cao nhất xây dựng biệt phủ, gửi con cái ra nước ngoài, và tiêu xài bằng đồng đô la chứ không bằng đồng tiền Việt Nam.

Nhưng Tô Lâm là người đã công khai xác nhận cái chết ấy, bằng cách lặng lẽ trục xuất Marx – Lenin và Hồ Chí Minh ra khỏi mọi diễn ngôn chính trị. Không còn nền tảng tư tưởng, chế độ này chỉ còn lại sự trống rỗng. Một chính đảng nếu không dựa trên tư tưởng, không dựa trên dự án chính trị, thì không còn là chính đảng nữa. Nó chỉ còn là một tập đoàn quyền lực, một nhóm lợi ích.

Đó là điều mà Tô Lâm đã chứng minh một cách rõ ràng rằng Đảng cộng sản không còn sức sống, không thể tự tái tạo, và không còn lý do tồn tại.

Từ thiên đường hứa hẹn đến địa ngục thực tế của nền kinh tế và sự bất mãn trong dân chúng

Nếu một chính quyền có thể biện minh cho sự tồn tại của mình, thì lý do cuối cùng thường là kinh tế. Dân chúng có thể tha thứ cho độc tài, nhưng không thể tha thứ cho sự nghèo đói, thất nghiệp và bất công. Tô Lâm hứa hẹn một “kỷ nguyên vươn mình”, hứa hẹn tăng trưởng 8% vào năm 2025 và hai con số sau đó. Nhưng thực tế là nền kinh tế đang khốn đốn hơn bao giờ hết. Chiến dịch “tinh gọn bộ máy” tiêu tốn 170.000 tỷ đồng để rồi chỉ cắt giảm được chưa đến 3% biên chế. Những người có năng lực đã bỏ đi, những kẻ bất tài thì ở lại. Bộ máy vốn đã trì trệ nay càng thêm vô dụng. Chiến dịch “tái tổ chức hành chính” thì gây ra những vết thương tinh thần cho dân chúng. Việc sáp nhập các xã, phường, huyện, tỉnh đã chạm vào mối dây tình cảm của người dân đối với nơi chôn nhau cắt rốn, tạo ra oán thù và bất mãn vì cảm giác bị tước đoạt quê hương.

Trong lĩnh vực kinh tế tư nhân, thay vì khuyến khích một môi trường cạnh tranh bình đẳng, Tô Lâm và chế độ chỉ tập trung ưu đãi cho VinGroup đứa “con cưng” của chế độ. Nhưng “con cưng” này không thể nào tồn tại nếu không được bơm vốn vô tội vạ. Và cái gọi là “tư nhân” thực chất chỉ là tay sai của Đảng. Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam với chi phí 62 tỷ đô la, tương đương 15% GDP, lại được giao cho một công ty không hề có một kinh nghiệm nào. Đó không phải là phát triển, mà là một canh bạc bằng máu và mồ hôi của cả dân tộc.

Kinh tế Việt Nam đang lộ ra những con số bệnh hoạn : ngành xây dựng chiếm tới 30% GDP, gấp ba lần ngưỡng báo động. Xuất nhập khẩu chiếm gần 200% GDP, nghĩa là đất nước này lệ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường bên ngoài, không còn khả năng tự chủ. Đồng tiền mất giá, thị trường bất động sản lao dốc, ngân hàng ngập trong nợ xấu.

Từ “thiên đường hứa hẹn”, người dân đang bước thẳng vào “địa ngục thực tế”. Và sự phẫn nộ đang dâng lên, vượt qua cả nỗi sợ hãi.

Ngày nay, đi đến bất cứ vùng quê nào cũng nghe người dân than thở về đất đai bị thu hồi, về nhà cửa bị cướp trắng, về nợ nần chồng chất. Ở các thành phố, giới trẻ thất nghiệp, giới trung lưu bị lừa bởi những căn hộ không sổ đỏ, những lời hứa viển vông từ các tập đoàn bất động sản. Biểu tình đất đai đã nổ ra khắp nơi. Trên mạng xã hội, người dân không ngần ngại nguyền rủa Tô Lâm, thậm chí công khai mong ông ta chết đi.

Đây là dấu hiệu của một bước ngoặt : nỗi sợ hãi đang nhường chỗ cho sự phẫn nộ. Và khi sự phẫn nộ đã vượt qua nỗi sợ, thì chế độ không còn chỗ dựa. Chỉ cần một mồi lửa, một sự kiện bùng phát, thì đám cháy có thể lan rộng không ai kiểm soát nổi.

Sự bất mãn trong nội bộ Đảng

Nếu sự phẫn nộ trong dân chúng ngày càng lộ rõ, thì sự bất mãn trong nội bộ Đảng lại âm ỉ nhưng nguy hiểm hơn nhiều. Đó là một ngòi nổ ngầm có thể làm chế độ nổ tung từ bên trong.

Việc sáp nhập các xã, huyện, tỉnh đã khiến hàng ngàn cán bộ cấp cơ sở mất chức hoặc bị tinh giản sau khi đã bỏ tiền ra chạy chọt. Họ mất tiền, mất ghế, và mất cả tương lai chính trị. Đó không chỉ còn là bất mãn, mà là hận thù.

Ở cấp cao hơn, Tô Lâm đã triệt hạ những người từng được xem là có tư cách tối thiểu. Những cú đánh không chỉ nhằm loại bỏ đối thủ, mà còn làm nhục họ, khiến cả hệ thống cảm thấy bị đe dọa. Trong một đảng có năm triệu đảng viên, con số những người oán hận Tô Lâm đã chiếm đa số.

Đặc biệt, việc triệt hạ bộ máy chính quyền ở Thanh Hóa, quê hương chính trị của Phạm Minh Chính, với hơn một ngàn vụ khởi tố, hàng loạt cán bộ bị bắt, cho thấy sự thù địch đã biến thành hành động. Đó là một cuộc chiến phe phái công khai. Và lịch sử cho thấy, khi một chính đảng đã tan rã thành các phe phái thù địch, thì ngày sụp đổ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Sự cô lập quốc tế và bế tắc ngoại giao

Một chính quyền dù mục ruỗng đến đâu, vẫn có thể kéo dài sự tồn tại nếu còn được quốc tế nâng đỡ. Nhưng chính sách đối ngoại hiện tại của Việt Nam lại đưa đất nước vào thế cô lập chưa từng có. Các lễ kỷ niệm lớn của chế độ không có sự hiện diện của lãnh đạo các nước dân chủ. Liên minh duy nhất mà chính quyền bám víu là Trung Quốc và Nga, hai quốc gia đang suy yếu, một bên thì sa lầy ở Ukraine, một bên thì khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

Hình ảnh quốc tế của Việt Nam ngày càng xấu đi. Một buổi duyệt binh Quốc khánh mà Chủ tịch nước chỉ đứng như thuộc cấp bên cạnh Tổng bí thư Đảng đã nói lên tất cả : thế giới nhìn Việt Nam như một chế độ côn đồ, không có tư thế của một quốc gia bình thường.

Kinh tế phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu, nhưng Mỹ và Châu Âu đã bắt đầu siết chặt thương mại. Những ưu đãi thuế quan không còn nữa, trong khi thuế nhập khẩu vào Mỹ đã tăng lên 25%, gấp đôi so với hàng hóa từ Châu Âu. Những cú đòn này có thể làm tê liệt các tập đoàn xuất khẩu của Việt Nam, đẩy hàng triệu công nhân vào thất nghiệp.

Tất cả những điều này cho thấy con đường của chế độ đã tận. Nó không còn chỗ dựa quốc tế, không còn sức sống kinh tế, và không còn chút niềm tin nào trong dân chúng.

Việt Nam trước ngưỡng cửa của một khúc quanh lịch sử

Trong bối cảnh này, câu hỏi không còn là chế độ cộng sản có sụp đổ hay không, mà là sụp đổ như thế nào và sau đó sẽ là gì ?

Lịch sử thế giới cho thấy hai kịch bản. Một là sự sụp đổ trong hỗn loạn và bạo lực. Hai là sự sụp đổ trong trật tự và hòa giải. Việt Nam sẽ đi theo con đường nào ? Điều đó tùy thuộc vào việc có hay không một tổ chức chính trị lành mạnh sẵn sàng thay thế, với lý tưởng và dự án rõ ràng. Nếu không có, thì sự sụp đổ của sẽ chỉ mở ra một chu kỳ hỗn loạn, phe phái trong Đảng thanh toán nhau, quân đội chia rẽ, quần chúng nổi dậy bạo lực. Một đất nước đã chịu quá nhiều đau khổ như Việt Nam không thể lại tiếp tục đi vào con đường đó.

Việt Nam cần một tổ chức chính trị có lý tưởng hòa giải

Đây chính là lúc cần khẳng định một sự thật, chỉ có một tổ chức chính trị lành mạnh, có đội ngũ, có kiến thức chính trị, và có lý tưởng hòa giải dân tộc mới có thể đưa Việt Nam ra khỏi bế tắc. Một tổ chức như thế không lo lật đổ chế độ hiện tại, mà lo chuẩn bị cho ngày mai, giữ cho đất nước không rơi vào bạo loạn.

Tinh thần cốt lõi của tổ chức này phải là hòa giải. Không một chế độ dân chủ nào có thể ổn vững nếu các vết thương lịch sử tiếp tục bị khoét sâu. Chúng ta phải nhìn nhận rằng tất cả từ cán bộ cộng sản đến những người đối lập, từ công an đến dân oan, từ Nam ra Bắc đều là nạn nhân của cùng một chế độ. Hòa giải không phải là quên đi tội ác, mà là để chấm dứt vòng luẩn quẩn của hận thù, mở ra một khởi đầu mới. Một tổ chức như thế không thể ra đời trong ngày một ngày hai. Nó đòi hỏi sự chuẩn bị, sự kiên nhẫn, và sự gắn bó bền bỉ với một dự án lâu dài. Đó chính là điều duy nhất có thể cứu đất nước này khỏi tai họa.

Bước vào kỷ nguyên mới

Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử trọng đại. Đảng cộng sản đã tự chứng minh sự cáo chung của nó bằng sự thối nát, sự tê liệt, và sự thất bại toàn diện. Tô Lâm, bằng quyền lực của mình, đã vô tình làm lộ ra tất cả những điều mà chế độ muốn che giấu : sự tham nhũng, sự vô dụng, sự trống rỗng tư tưởng, và sự cô lập quốc tế. Nhưng sự sụp đổ của một chế độ không tự động mang lại dân chủ. Nó có thể mang đến hỗn loạn, bạo lực, thậm chí một hình thức độc tài mới. Chính vì vậy, lựa chọn của chúng ta hôm nay sẽ quyết định vận mệnh của dân tộc. Chúng ta cần một tổ chức chính trị trưởng thành để mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.

Đây không phải chỉ là một cảnh báo. Đây là một lựa sinh tồn. Thời gian không chờ đợi để tiếp tục chứng minh những sai lầm. Và lịch sử sẽ không tha thứ nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội này, ngày hôm nay !

Trần Khánh Ân

(26/09/2025)


 

Hai người họ Trịnh: Một bản án, hai số phận – một chế độ đầy bất công

Hoài niệm

Trong cùng một đất nước, dưới cùng một hệ thống pháp luật, hai người họ Trịnh đang được chú ý nhiều bởi hai kết quả trái ngược: một người là doanh nhân gây thiệt hại hàng ngàn tỉ đồng cho xã hội, người kia là nông dân lên tiếng vì công lý. Cách chế độ đối xử với họ đang tạo nên tranh cãi sôi nổi và cho thấy sự bất công quá rõ rệt của nhà cầm quyền.

Trịnh Văn Quyết – Tội phạm gây thiệt hại nặng nề cho xã hội, lại được ưu ái

Ngày 10/1/2022, ông Quyết bán chui hơn 76 triệu cổ phiếu FLC, thu về gần 1.700 tỷ đồng mà không công bố thông tin theo quy định.

Ông nâng khống vốn điều lệ FLC Faros từ 1,5 tỷ lên 4.300 tỷ đồng để niêm yết mã ROS, qua đó chiếm đoạt hơn 3.600 tỷ đồng từ nhà đầu tư.

Tổng thiệt hại xã hội lên đến hàng ngàn tỉ đồng, ảnh hưởng đến hàng chục ngàn người.

Bản án sơ thẩm: 21 năm tù. Phúc thẩm: giảm còn 7 năm. Sau 3 năm: được đặc xá.

Lý do đặc xá? Khắc phục hậu quả, bệnh tật, “đơn xin giảm nhẹ từ hàng ngàn cá nhân và tổ chức”. Nhưng số tiền ông trả lại chưa tới 50% số tiền chiếm đoạt. Hơn nữa, ai biết được con số thật phía sau lớn đến đâu, khi ông ta được bao che bởi những thế lực ngầm?

Trịnh Bá Phương – Người nông dân bị bóp nghẹt tiếng nói

Ông Phương là một người dân Dương Nội, lên tiếng phản đối cưỡng chế đất, đòi quyền lợi cho nông dân bị mất đất.

Không chiếm đoạt của ai một đồng, không gây thiệt hại cho xã hội, chỉ nói lên tiếng nói của người dân thấp cổ bé họng.

Bản án: 10 năm tù vì “tuyên truyền chống nhà nước”. Sau đó bị xử thêm 11 năm vì “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Tổng cộng: 21 năm tù.

Khi con trai thứ hai của ông vừa tròn 4 ngày tuổi, ông đã bị bắt. Trong tù, có lúc ông mắc bệnh nặng và suy yếu vì tuyệt thực nhưng không được đặc xá, không được chăm sóc y tế đầy đủ. Nhiều tù nhân lương tâm khác đã bỏ mạng vì điều kiện giam giữ khắc nghiệt – nhưng chẳng ai được tha dù chỉ một ngày.

Một chế độ, hai chuẩn mực

Người gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng được giảm án, đặc xá, vì “có bệnh”, “ăn năn”, “có thành tích”.

Người đấu tranh ôn hòa vì công lý bị chồng án, bị bỏ mặc trong tù, dù cũng bệnh nặng, dù không làm hại ai.

Đây không chỉ là sự bất công. Đây là sự phân biệt đối xử có hệ thống, là một chế độ bảo vệ kẻ làm giàu phi pháp, đàn áp người dân cô thế, là một nền pháp lý không dựa trên công lý mà dựa trên quyền lực và tiền bạc.

NTNgọc


 

Trịnh Bá Phương không phải người viết khẩu hiệu ở trong tù

Ba’o Nguoi- Viet

October 2, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Trịnh Bá Phương không viết những khẩu hiệu “Đả đảo Cộng sản” trong phòng giam nhưng chế độ Hà Nội vẫn áp đặt “án chồng án” để kéo dài án tù.

Cựu tù chính trị Nguyễn Bá Truyển nói như vậy trong một video clip công bố trên mạng xã hội ngày 28 Tháng Chín 2025, tức một ngày sau khi tòa án CSVN ở Đà Nẵng áp đặt thêm bản án 11 năm tù cho ông Trịnh Bá Phương với cáo buộc “tuyên truyền” chống chế độ độc tài đảng trị.

Ông Trịnh Bá Phương ra tòa sơ thẩm ở Hà Nội ngày 15 Tháng Mười Hai 2021. Ông bị kết án 10 năm từ vì bị vu cho tội “Tuyên truyền” chống chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Trong video clip đó, ông Nguyễn Bá Truyển nói rằng ông “hoặc tù nhân chính trị khác” đã viết hàng chữ “Đả đảo đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền. Đả đảo tòa án Cộng sản kết án oan tôi” trên bìa của tạp chí “Thời báo Kinh tế Sài Gòn”. Tờ tạp chí này được nhóm tù chính trị chuyền tay nhau đọc khi bị giam ở khu giam tù chính trị của nhà tù An Điềm tỉnh Quảng Nam.

Vợ ông Truyển đã mua tạp chí TBKTSG và nhật báo Tuổi Trẻ rồi gửi vào nhà tù An Điềm cho ông qua đường bưu điện. Ông và các bạn tù chính trị truyền tay nhau đọc.

Ông Truyển cho hay sau khi Trịnh Bá Phương bị kết án 10 năm tù trong một phiên xử ở Hà Nội, ông bị chuyển tới nhà tù An Điềm và ở chung phòng giam với ông Truyển khoảng một tháng trước khi ông Truyển chấp nhận sống lưu vong sang Đức thay vì chấp nhận ở tù tiếp tại Việt Nam và theo sự vận động của chính phủ Đức.

Thành viên Hội Anh Em Dân Chủ, ông Nguyễn Bắc Truyển, năm nay 57 tuổi, đã được thả ra khỏi nhà tù An Điềm ngày mùng 8 tháng Chín 2023, sau 6 năm ngồi tù với bản án 11 năm tù, 3 năm quản chế. Ông bị vu cho tội “Hoạt động nhằm lật đổ” chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam. Loại bản án này được áp đặt lên đầu tất cả các thành viên Hội Anh Em Dân Chủ (AEDC) dù chỉ vận động nhân quyền, đa nguyên đa đảng, không kêu gọi bạo động.

Theo bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương thuật lại lời luật sư bào chữa và kể trên trang Facebook Thu Đỗ, trong phiên xử, ông Phương phủ nhận mình là người viết những khẩu hiệu đó và cũng không biết ai viết. Cai tù khám xét phòng ông khi ông đang tuyệt thực dài ngày, thấy tờ tạp chí có hàng chữ chống chế độ thì đổ ngay cho ông là thủ phạm.

Trong phiên xử ở Đà Nẵng ngày 27 Tháng Chín, luật sư biện hộ đã tố cáo phía công tố đã không làm giám định chữ viết và cũng không giám định dấu vân tay trên tờ tạp chí, mà chỉ đổ riệt tội cho ông Phương nhằm áp đặt thêm bản án 11 năm tù cho một người nông dân kiên cường chống lại chế độ độc tài.

Tại phiên xử ngày 27 Tháng Chín, khi ông Phương phát biểu những lời sau cùng, bà Đỗ Thị Thu kể lại rằng “phía luật sư và chồng tôi thường xuyên bị ngắt lời và không cho nói, chồng tôi còn bị Công An bóp mồm không cho nói lời sau cùng. Khi anh Phương và các luật sư bào chữa thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa Đinh Tấn Long cho là dài dòng và đe dọa dừng vai trò của luật sư tại đây, và xử chồng tôi vắng mặt.” Bà Thu còn cho biết, chồng bà không được tiếp cận hồ sơ vụ án để thực hiện quyền tự bào chữa. Còn các luật sư của ông cũng bị cản trở, không cho tham gia quá trình điều tra.

Còn cáo buộc ông Phương “làm, tàng trữ..” tài liệu, vật phảm chống phá chế độ thì vẫn không đủ căn cứ để khép tội vì “không có bất kỳ người nào tại trại giam An Điềm chứng kiến (nhìn thấy hoặc biết hoặc có thông tin” là ông Phương “là người làm/tạo lập ra dòng chữ trên tờ giấy A3 đã thu giữ ngày 18/11/2024”.

Dù vậy, chế độ Hà Nội muốn đè thêm một tảng đá nữa lên đầu ông Trịnh Bá Phương, năm nay 40 tuổi, kéo dài thêm thời gian cầm tù, tổng cộng trước sau 21 năm tù và thêm 5 năm quản chế nữa. Trên FB của bà Đỗ Thị Thu. hàng trăm người viết bình luận theo các thông tin về phiên tòa CSVN độc diễn tại Đà Nẵng không tiếc lời nguyền rủa một “chế độ man rợ bất nhân”, hay “không ác độc thì không phải là Cộng sản”.

Vợ con của ông Trịnh Bá Phương biểu tình tại nhà với những tấm bảng phản đối chế độ Hà Nội bỏ tù oan một người vô tội. (Hình: FB Thu Đỗ)

Ngày 2 Tháng Mười, Tòa Đại sứ Đức ở Hà Nội phổ biến lời phát biểu của ông Lars Castellucci về bản án mà CSVN áp đặt cho ông Phương là “Bản án kết tội nhà hoạt động vì quyền đất đai Trịnh Bá Phương thêm 11 năm tù đã phủ bóng đen lên tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Bản án này vi phạm quyền tự do ngôn luận. Tôi kêu gọi Chính phủ và Tư pháp Việt Nam thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ nhân quyền và xem xét lại bản án đối với ông Phương.” Ông Castellucci là Đặc phái viên về nhân quyền của Chính phủ Liên bang Đức.

Trên trang Facebook của bà Đỗ Thị Thu, người ta thấy đang có lời kêu gọi ký kiến nghị tập thể gửi nhà cầm quyền CSVN, Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức Nhân quyền Quốc tế “Yêu cầu trả tự do ngay lập tức và đòi công lý cho chồng tôi Trịnh Bá Phương”.

[[https://sign.moveon.org/petitions/immediate-release-and-justice-for-vietnamese-human-rights-defender-trinh-ba-phuong?source=facebook&time=1759358089&utm_source]]

Ngày 1 Tháng Mười, bà Đỗ Thị Thu đến nhà tù An Điềm để thăm chồng thì nơi đây nói ông Phương không còn bị giam ở đây nữa nhưng cũng không cho biết ông bị đưa đi giam ở đâu. Theo luật tố tụng hình sự CSVN, ông Phương có quyền kháng án sơ thẩm trong vòng 15 ngày nhưng thân nhân của ông bị bưng bít tin tức hoàn toàn.(NTB)


 

Nềm tin của người dân chìm sâu hơn cả dòng nước- Nguyễn Thanh Sơn

Tiếng Dân News

Nềm tin của người dân chìm sâu hơn cả dòng nước

 Nguyễn Thanh Sơn

Thất bại lớn nhất của Hà Nội trong trận mưa hôm qua không phải là ngập đường mà là khoảng trống truyền thông khiến niềm tin của người dân chìm sâu hơn cả dòng nước.

Trong khủng hoảng, im lặng chính là thông điệp tệ nhất. Nhưng đó lại là điều mà người dân Hà Nội nhận được sau trận mưa lớn hôm qua. Khi phố phường biến thành sông, hàng nghìn phương tiện chết máy, hàng vạn người dân mắc kẹt, điều họ mong đợi không phải là báo cáo khô khan về lượng mưa. Họ cần những thông tin kịp thời, cụ thể và định hướng hành động: Đi đường nào an toàn, có hỗ trợ gì từ chính quyền, đâu là giải pháp tức thời. Đáng tiếc, những điều đó đã không đến.

Trận mưa tối qua có thể coi là một phép thử cho năng lực quản trị khủng hoảng của Hà Nội. Và phép thử ấy đã để lộ một khoảng trống lớn trong truyền thông chính thức. Trong khi nước ngập lên đến yên xe, người dân loay hoay trong hỗn loạn, các kênh chính thống gần như im lặng. Thông tin từ UBND thành phố hoặc các cơ quan chức năng chỉ xuất hiện nhiều giờ sau, dưới dạng báo cáo tình hình – vốn chẳng giúp ích cho ai đang kẹt giữa dòng nước.

Ngược lại, Facebook, TikTok và các diễn đàn cộng đồng lại trở thành “trung tâm điều phối” tự phát. Người dân cập nhật cho nhau tuyến đường ngập, chỗ nào có thể tránh, thậm chí kêu gọi hỗ trợ nhau qua các nhóm cư dân.

Khoảng trống mà chính quyền để lại đã nhanh chóng bị mạng xã hội lấp đầy. Trong khủng hoảng, công chúng không cần lý do. Họ cần một điểm tựa thông tin – một nguồn tin đáng tin cậy, cập nhật liên tục và có khả năng dẫn dắt hành động. Khi điểm tựa này vắng bóng, hỗn loạn là điều tất yếu.

Im lặng, trên thực tế, là một thông điệp. Và đó là thông điệp tồi tệ nhất mà một chính quyền có thể gửi đi trong khủng hoảng. Người dân cần biết phải tránh tuyến đường nào, làm gì để bảo vệ bản thân và tài sản. Khi không có thông tin chính thức, tin đồn và hình ảnh chưa kiểm chứng lan nhanh gấp bội. Nỗi lo và bức xúc nhân đôi: Vừa sợ thiên tai, vừa giận dữ vì thiếu minh bạch.

Một chính quyền hiện đại không chỉ xử lý ngập mà còn phải xử lý thông tin. Ngay cả khi chưa có giải pháp triệt để, việc xuất hiện sớm, thừa nhận vấn đề và cam kết hành động đã là một liều thuốc trấn an mạnh mẽ. Điều công chúng chờ đợi không phải là lời hứa “sẽ xem xét”, mà là một tín hiệu đồng cảm và chủ động.

Nếu nhìn sang Singapore, chúng ta sẽ thấy một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Đây cũng là một đô thị nhiệt đới, thường xuyên đối mặt với mưa lớn và ngập úng. Nhưng công dân Singapore không bao giờ phải mò mẫm trong bóng tối thông tin. Ứng dụng MyENV cung cấp cảnh báo theo thời gian thực về thời tiết, lượng mưa, chất lượng không khí và thậm chí cả bản đồ ngập theo từng khu vực.

Bên cạnh đó, kênh Gov.sg hoạt động như một trung tâm truyền thông khẩn cấp, liên tục phát đi thông điệp ngắn gọn, rõ ràng, đa kênh – từ SMS, ứng dụng, mạng xã hội cho tới email.

Nguyên tắc ở đó rất rõ ràng: Lấy người dân làm trung tâm. Truyền thông khẩn cấp không nhằm bảo vệ hình ảnh chính quyền, mà để bảo vệ sự an toàn và niềm tin của công chúng. Đây chính là bài học cho Hà Nội: Thành phố cần một trung tâm truyền thông khẩn cấp, hoạt động 24/7, có quyền phát ngôn tức thời và sử dụng đa kênh.

Thời đại số không cho phép sự chậm trễ. Một giờ im lặng có thể bằng một ngày mất niềm tin. Sự thật là Hà Nội không thất bại vì mưa. Một thành phố hàng triệu dân khó tránh khỏi những trận ngập úng khi hạ tầng còn hạn chế. Người dân có thể chấp nhận cảnh ngập đường, nếu họ được thông báo kịp thời và hướng dẫn cách ứng phó.

Thất bại lớn nhất không nằm ở cơn mưa, mà ở chỗ niềm tin cũng bị nhấn chìm trong dòng nước. Niềm tin ấy khó xây lại, vì nó không dựa trên một công trình chống ngập, mà trên sự đồng cảm và minh bạch thông tin.

Nếu hôm qua là một cơn mưa, thì ngày mai có thể là một khủng hoảng lớn hơn: Một vụ cháy, một sự cố môi trường hay một dịch bệnh bất ngờ. Câu hỏi đặt ra là: Hà Nội sẽ tiếp tục im lặng, hay sẽ học cách dẫn dắt thông tin như những đô thị hiện đại?

Bởi quản trị đô thị không chỉ là xây thêm cống thoát nước. Đó còn là khả năng xây dựng một “hệ thống thoát khủng hoảng” trong tâm trí công chúng – nơi niềm tin có thể chảy thông suốt, không bị tắc nghẽn bởi sự im lặng.

https://baotiengdan.com/…/nem-tin-cua-nguoi-dan-chim…/

Ảnh: Đường phố Hà Nội biến thành sông. Nguồn: Báo Dân Trí


 

CHỢ RẨY – NƠI ĐÔNG ĐÚC NHẤT, CŨNG LÀ NƠI CÔ ĐƠN NHẤT… Lm. Anmai, CSsR

8 SÀI GÒN

 Lm. Anmai, CSsR

Đâu ai muốn phải vào đây! Đâu ai muốn mình có mã định danh ở chốn này?

Tôi, trong thân phận là người đau yếu và tôi đã có ở nơi này để rồi cảm nhận được cái phận người. Có điều tôi may mắn được điều dưỡng Th, được bác sĩ Ái (một vị bác sĩ hiếm gặp) đã lo lắng cho tôi trong tình thương thật sự của một Nhà Thương ngang qua bác sĩ Ái cho tôi.

Có một sự nghịch lý lạnh lùng và cay đắng luôn tồn tại giữa lòng thành phố náo nhiệt. Khi những khu chợ truyền thống dần thưa vắng vì sự lên ngôi của thương mại điện tử, khi những trung tâm thương mại lộng lẫy cố gắng níu chân khách hàng bằng ánh đèn và khuyến mãi, thì có một “khu chợ” duy nhất, lạ lùng và khắc nghiệt, luôn quá tải, luôn tấp nập, và không cần bất kỳ chiêu trò quảng cáo nào: Đó chính là Bệnh viện Chợ Rẩy hay cái từ mà tôi vẫn thích gọi hơn đó là Nhà Thương Chợ Rẩy.

Nếu bạn muốn thấy nơi nào con người phơi bày bản chất mong manh nhất, nếu bạn muốn thấy nơi nào tiền bạc trở nên vô nghĩa nhất, nếu bạn muốn thấy tận mắt những người thực sự cần sự giúp đỡ không phải bằng lời nói mà bằng hành động, hãy đến Bệnh viện Chợ Rẩy, đặc biệt là lúc nửa đêm.

Nơi đây không buôn bán hàng hóa, họ buôn bán hy vọng. Và giá của món hàng ấy, đôi khi, đắt đến mức không thể trả nổi.

Những ngày tháng sống trong khuôn viên Chợ Rẩy – không phải với tư cách bệnh nhân mà là người chứng kiến – đã để lại một vết hằn sâu trong tâm hồn tôi. Khung cảnh nơi đây là một thứ nghệ thuật siêu thực: bên ngoài cổng, xe cộ vẫn lao đi với tốc độ của cuộc sống mưu sinh; nhưng ngay khi bước qua cánh cửa bệnh viện, mọi thứ chùng xuống trong một nhịp thở chậm rãi, nặng nề của sự chờ đợi.

Nửa đêm, Chợ Rẩy trở thành một thành phố thu nhỏ của những thân phận.

Không còn những dãy ghế đá lạnh lẽo thưa thớt như ban ngày. Thay vào đó, hành lang chật chội của các khu cấp cứu, hồi sức, và các khoa phòng đặc biệt biến thành một khu lều trại tự phát. La liệt người thân trải những tấm chiếu cũ mòn, những tấm bìa carton mỏng manh, san sát nhau. Họ không phải là người vô gia cư; họ là những vệ sĩ trung thành nhất đang canh gác hy vọng sống còn của người thân.

Không gian ngột ngạt này không có sự thoải mái, chỉ có sự sẻ chia vô hình. Hàng trăm chiếc chiếu nhỏ trải dọc lối đi, nhường nhịn nhau từng tấc đất. Họ nằm co ro, gác đầu lên những chiếc ba lô cũ kỹ, hoặc đơn giản là bó gối ngồi tựa vào bức tường lạnh lẽo. Ánh đèn huỳnh quang trắng nhợt từ hành lang dường như không đủ sức xua tan bóng đêm của nỗi lo âu. Tiếng ho khan, tiếng trở mình trên chiếu, tiếng xe đẩy cấp cứu vun vút qua lại, và tiếng sụt sùi nén lại của những người đang cố gắng không khóc thành tiếng, tạo nên một bản giao hưởng buồn bã mà chỉ nơi đây mới có.

Chiếc ghế đắt giá

Những dãy ghế đá dài, chật kín người từ chiều tối, là nơi tá túc không tốn phí nhưng lại là nơi đắt giá nhất về mặt tinh thần. Họ ngồi đó, vai chạm vai, đầu gục xuống, nhưng không ai ngủ say được. Họ là thân nhân chờ tin bệnh nhân nặng đang hồi sức cấp cứu hoặc phải cách ly điều trị. Họ phải chấp nhận mọi khó khăn, ăn vội vàng suất cơm hộp nguội lạnh, thậm chí là nhịn đói, chỉ để giữ lấy chút hy vọng níu kéo sự sống.

Sự khắc nghiệt ở đây không phải do thiếu vật chất, mà là do sự bất lực trước sinh tử.

Không khí tại các khu vực chờ đợi là một thực tế khắc nghiệt mà không ai muốn đối mặt. Nó là sự pha trộn kinh hoàng giữa nỗi sợ hãi tột cùng và tia hy vọng mong manh như sợi chỉ mành.

Chờ đợi trong mòn mỏi

Việc chờ tin người thân cứ thế diễn ra liên tục, kéo dài trong sự mòn mỏi. Mỗi tiếng đồng hồ trôi qua mang theo sức nặng của hàng thập kỷ.Mỗi khi cánh cửa phòng Hồi sức Cấp cứu (ICU) hé mở, hàng chục con mắt lập tức đổ dồn vào. Người y tá, bác sĩ bước ra như một vị thần nắm giữ sinh mệnh. Tiếng gọi tên người bệnh là âm thanh có khả năng làm ngưng đọng cả không gian và thời gian.

Nếu là tin tốt – dù chỉ là dấu hiệu sống còn ổn định hơn chút – một tiếng thở phào nhẹ nhõm, một cái nắm tay siết chặt. Đó là chiến thắng nhỏ nhoi, là dầu bôi trơn giúp họ tiếp tục thức trắng đêm sau.

Nếu là tin xấu – một sự chuyển biến đột ngột, một lời khuyên chuẩn bị tinh thần – thì đó là lúc sự tĩnh lặng vỡ òa thành tiếng nấc bị kìm nén.

Bình yên là điều không có mặt ở nơi đây. Chỉ có những lời cầu nguyện thầm thì, những tiếng thở dài nặng trĩu, và đôi khi là sự im lặng tuyệt đối của những người đã quá kiệt sức để khóc thêm nữa.

Cái giá của hy vọng

Tại Chợ Rẫy, người ta mới hiểu rõ một câu nói đã trở thành chân lý: “Chiếc giường đắt nhất là chiếc giường bệnh viện.”

Nó không đắt bởi giá phòng hay dịch vụ, mà bởi cái giá của sự đánh đổi:

Đánh đổi tài sản: Những gia đình đã bán đi mảnh đất, chiếc xe máy, hay thậm chí vay mượn khắp nơi để có đủ tiền chạy chữa. Tiền bạc ở đây không còn là phương tiện tận hưởng, mà là vũ khí chiến đấu sinh tử.

Đánh đổi công việc: Người thân bệnh nhân phải bỏ lại công việc, mất đi nguồn thu nhập, chấp nhận cuộc sống tạm bợ ngủ ngoài trời để làm “lá chắn” tinh thần và vật chất cho người bệnh.

Đánh đổi tương lai: Những đứa con phải nghỉ học, những người già phải chịu đựng sự đau đớn thể xác vì phải nằm co ro trên nền đất.

Họ đang cố gắng vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, với mong muốn thoát khỏi nguy cơ tử vong đang rình rập.

Chợ Rẩy không chỉ là bệnh viện hay ngày xưa gọi là nhà thương; nó là một phòng trưng bày nhân loại, nơi sự giàu có và địa vị bị tước bỏ hoàn toàn. Mọi người ở đây đều bình đẳng dưới một áp lực duy nhất: áp lực của sự sống còn.

Những người thân vật vã, những người phải ăn chung suất cơm từ thiện, những người mặc đi mặc lại bộ quần áo nhàu nát nhiều ngày liền, họ mới chính là những người thực sự cần sự chung tay và giúp đỡ thật nhiều từ cộng đồng.

Sự giúp đỡ ở đây không chỉ là vật chất. Nó còn là:

Một suất cơm nóng hổi: Giúp họ có thêm năng lượng để thức thêm một đêm dài.

Một chiếc chăn mỏng: Giúp họ giữ ấm cơ thể trong hành lang lộng gió lúc sáng sớm.

Một lời hỏi thăm chân thành: Nhắc nhở họ rằng họ không đơn độc trong cuộc chiến này.

Chợ Rẩy, nơi vốn đã quá tải và ngột ngạt, là một lời nhắc nhở thẳng thắn nhất: hãy trân trọng sức khỏe của mình. Và khi cuộc sống của chúng ta có đủ đầy, đừng quên rằng ngay tại trung tâm thành phố này, có hàng ngàn người đang chiến đấu trong một cuộc chiến sinh tử không có ngày nghỉ.

Đó là nơi mà lòng trắc ẩn và tình người phải được phát huy mạnh mẽ nhất, để chia sẻ bớt gánh nặng vô hình trên vai những người đang mòn mỏi chờ đợi giữa những hành lang lạnh lẽo.

Thật tình tôi chẳng muốn vào cái chốn này. Nhưng bệnh thì không tránh khỏi

Lm. Anmai, CSsR


 

Tư Pháp CSVN phơi bày tha hóa, vết nhơ không thể gọt rửa

Ba’o Nguoi- Viet

September 24, 2025

Minh Hải

“Chạy án” không chỉ là hành vi tiêu cực, mà là biểu hiện tột cùng của sự tha hóa trong hoạt động tư pháp. Khi tiền và quan hệ đủ sức bẻ cong bản án, khẩu hiệu “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật” của nhà cầm quyền CSVN chỉ là trò hề, sáo rỗng.

Vụ 28 thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư tham gia đường dây chạy án là vết nhơ không thể gọt rửa cho cái gọi là nhà nước pháp quyền, nơi công lý được cán bộ mặc cả, niềm tin của người dân bị đem bán. Tất cả là một sân khấu mị dân, tuyên truyền dối trá.

Theo thông tin của các cơ quan chức năng CSVN, từ tháng Ba năm 2022 đến tháng Năm 2024, một đường dây chạy án quy mô lớn bị phanh phui, xảy ra ở nhiều tỉnh thành của Việt Nam, bao gồm: Đà Nẵng, Đắk Lắk, Gia Lai, Thừa Thiên-Huế. 28 bị can đã tham gia, phần lớn là những người có thời gian công tác trong ngành tư pháp, còn lại là một số cá nhân khác.

Cụ thể một số trang truyền thông của CSVN còn nêu thẳng, trong số 28 bị can thì có 10 người nguyên là lãnh đạo, thẩm phán, công chức tòa án; 3 kiểm sát viên, nhân viên ngành kiểm sát; 2 chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự; 4 luật sư, nhân viên văn phòng luật và 9 bị cáo, đương sự trong các vụ án.

Họ đã nhận, đưa và môi giới hối lộ với tổng số tiền lên đến 11.4 tỷ VND, nhằm can thiệp vào kết quả xét xử hình sự, dân sự và kinh doanh thương mại theo hướng có lợi cho người đưa hối lộ. Đây là những bản án không còn đúng với lẽ phải, đã biến thành món hàng để kinh doanh-thương mại.

Đáng chú ý, nhiều kẻ trong số đó từng giữ vị trí quan trọng trong ngành tư pháp như Phạm Việt Cường và Phạm Tấn Hoàng là hai cựu phó chánh án Tòa Án Cấp Cao tại Đà Nẵng; Nguyễn Đức Tuấn, cựu thẩm phán, chánh tòa hình sự Tòa Án tỉnh Đắk Lắk; Vũ Văn Tú, cựu thẩm phán Tòa Án tỉnh Đắk Lắk. Với vai trò quan trọng có thể định đoạt số phận con người, thay vì phải bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật thì họ lại tha hóa cấu kết thành một đường dây, có tổ chức chặt chẽ từ địa phương đến cấp cao để biến thành những con buôn, “cò” hối lộ, nhận hối lộ để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo ở nhiều vụ án, trong đó có vụ án giết người.

Đây rõ ràng một vụ án gây chấn động dư luận, bởi nó không chỉ là vụ án hình sự đơn thuần, mà còn là đòn giáng mạnh mẽ vào niềm tin của xã hội vào nền tư pháp Việt Nam.

Ngay ở cáo trạng của vụ án có nêu vài trường hợp điển hình như; Tại Gia Lai, một người phụ nữ đã bỏ ra 300 triệu VND chạy án cho hai người con trai, để mỗi người được giảm 2 năm tù tại phiên xét xử phúc thẩm; Hoặc tại tỉnh Đắk Lắk, cũng một phụ nữ bỏ ra số tiền 150 triệu đồng để em trai ruột được giảm án từ 15 năm tù xuống còn 13 năm 6 tháng.

Thông tin về ông này, bà nọ chạy án cho người thân vốn đã là điều dư luận xì xào từ lâu nay ở Việt Nam chẳng có gì là lạ lẫm, thậm chí đã trở thành câu chuyện thường ngày ở huyện. Tuy nhiên, lần này nó được phơi bày bằng hồ sơ điều tra với sự thật không lấy gì là trần trụi hơn.

Bản thân tôi lúc còn ở Đà Nẵng, nhà nằm cách hai trụ sở Tòa Án TP.Đà Nẵng và Tòa Án Cấp Cao khoảng 2km, nên có đôi lần tôi ghé vào quán xá gần đó để nhâm nhi ly cà phê thư giản. Tại đây, tôi thường nghe những vị khách của quán ra vào bàn tán sôi nổi các vụ chạy án.

Câu chuyện mới nhất mà tôi còn nhớ là vào khoảng Tháng Giêng 2024, chị B, có con trai nằm trong vụ án hai nhóm thanh niên đường phố ẩu đả. Dù không xảy ra án mạng, nhưng do có cầm hung khí nên con trai của chị B phải nhận bản án 3 năm tù giam.

Chị B cùng người thân của những thanh niên trong cùng vụ tập hợp lại, đi gặp luật sư nhờ tìm cách chạy án, cũng như được tại ngoại ăn Tết ở nhà. Luật sư sau đó móc nối với một người tự xưng là cán bộ viện kiểm sát, và từ người này tiếp đến liên lạc với nhân viên tòa án.

Sau khi các bên thỏa thuận thủ tục xong, từng bước chạy án như thế nào được cán bộ viện kiểm sát và nhân viên tòa án bằng trực tiếp hoặc gián tiếp đều thông tin cho nhóm chị B một cách thường xuyên. Mục tiêu của nhóm người chị B, bỏ ra khoảng mấy trăm triệu để sửa lại nội dung bản án, làm nhẹ đi tình tiết phạm tội của những bị cáo. Tuy nhiên, tôi được biết vụ chạy án này không thành do khả năng tài chính của vài người bị hạn chế. Bản thân chị B chỉ thành công khi bỏ ra vài chục triệu để chạy cho con trai được thi hành án ở trại giam gần nhà.

Dẫn chứng những phi vụ chạy án để thấy, dù thành công hay thất bại thì hành vi của 28 bị can trong vụ án nêu trên đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Nhận tiền chạy án, tức là họ cố tình làm sai lệch bản án, biến bản án thành sản phẩm mua bán, đây là hình thức tham nhũng tư pháp, pháp luật trở thành công cụ phục vụ lợi ích cá nhân.

Vụ án phản ánh một phần của cuộc đấu tranh quyền lực ngầm trong nội bộ ngành. Việc các thẩm phán và kiểm sát viên nhận hối lộ không chỉ là hành vi tham nhũng cá nhân, sự tha hóa bản thân mà còn là biểu hiện của sự đồng lõa có tổ chức, thao túng quyền lực từ bên trong hệ thống.

Sự tha hóa của các bị can chính là phản ánh sự thiếu sót trong cơ chế giám sát và kiểm tra trong hệ thống tư pháp. Dẫn đến việc các bản án bị can thiệp bằng hối lộ nếu không kịp phanh phui, không sớm ngăn chặn sẽ tạo tiền lệ xấu, khuyến khích hành vi tham nhũng, chạy án tương tự trong tương lai. Điều này đe dọa đến sự ổn định và phát triển xã hội.

Trước khi vụ án được khởi tố, người dân đặt niềm tin vào những bị can để được bảo vệ lợi ích hợp pháp, nhưng khi cả hệ thống phạm tội thì niềm tin ấy bị phản bội, công lý bị bóp nghẹt, thay vào đó là sự ngờ vực phải có tiền và quan hệ mới được đối xử công bằng trước pháp luật. Dư luận có quyền nghi ngờ tính minh bạch, công bằng của các vụ án mà họ từng ở vai trò tố tụng.

Với số tiền hối lộ hơn 11.4 tỷ VND, vụ án có thể xếp vào loại “đặc biệt nghiêm trọng.” Dựa theo quy định của Bộ luật Hình sự, hành vi nhận hối lộ với số tiền trên 1 tỷ VND có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, nhiều bị can trong vụ án này có thể đối diện với mức hình phạt khá nặng.

Để ngăn chặn và loại bỏ tham nhũng trong ngành tư pháp, nhà cầm quyền CSVN cần thiết phải thực hiện một cuộc cải cách toàn diện. Trước hết, phải biết lắng nghe những ý kiến đóng góp phản biện để tiến tới xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm tra độc lập, đảm bảo tính minh bạch lẫn công bằng trong quá trình tố tụng. Các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong ngành tư pháp. Đặc biệt, nhà cầm quyền CSVN phải để báo chí được tự do điều tra, nếu không những vụ án như thế này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

Chỉ khi nào công lý được thực thi một cách công bằng và minh bạch thì xã hội mới có thể phát triển bền vững, người dân Việt Nam mới thực sự tin tưởng vào pháp luật nước nhà.


 

Bão Bualoi tàn phá nhiều tỉnh miền Trung, hàng chục người chết, mất tích

Ba’o Nguoi-Viet

September 29, 2025

HÀ TĨNH, Việt Nam (NV) – Hôm 29 Tháng Chín, bão Bualoi (bão số 10) đánh vào các tỉnh phía Bắc Miền Trung Việt Nam như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị,… làm hàng chục người chết, mất tích, bị thương, hàng trăm ngàn nhà cửa bị tốc mái, cột điện, cây xanh gãy đổ…

Theo báo Người Lao Động, đêm 28 rạng sáng 29 Tháng Chín, cơn bão Bualoi mang theo lượng mưa rất lớn từ 250 mm-300 mm và gió rít từng hồi.

Nhiều mái tôn, ngói đỏ bị hất tung, cột điện dọc đường gãy đổ do bão Bualoi. (Hình: Việt Hoàng/VNExpress)

Sáng 29 Tháng Chín, tại các tuyến đường khu vực trung tâm tỉnh Hà Tĩnh, nhiều cây xanh bị gãy đổ, nhiều bảng quảng cáo bị hư hỏng, trong đó kho than của nhà máy Nhiệt Điện Vũng Áng 2 đã bị bão quật đổ sập.

Tại xã Thiên Cầm, sau một đêm bị bão Bualoi quần thảo, khu du lịch biển Thiên Cầm chịu thiệt hại nặng nề, nhiều công trình bị tàn phá, ngổn ngang với mái tôn nằm chắn la liệt, cây xanh, cột điện gãy đổ. Hàng loạt nhà hàng, quán ăn làm bằng khung thép đổ sập, mái tôn bị gió bão cuốn bay…

Theo phúc trình của Sở Nông Nghiệp và Môi Trường Tỉnh Hà Tĩnh, ngoài việc làm một người chết, chín người bị thương, bão Bualoi khiến hơn 42,900 ngôi nhà tốc mái, hư hỏng, ngập sâu. Gần 1,000 hécta hoa màu đổ ngã, 158 hécta ao nuôi ngập nước, hơn 20 tấn cá lồng chết…

Trong khi đó, cùng lúc tại miền núi tỉnh Nghệ An nước lũ dâng cao.

Cột điện gãy đổ ở tỉnh Quảng Trị. (Hình: Hải Sâm/VietNamNet)

Di tản tới các điểm trú bão Bualoi, nhiều người dân ở tỉnh Nghệ An không chợp mắt ngủ được khi bên ngoài gió rít gầm gào.

Bà Trinh Thị Mừng ở thành phố Vinh, bật khóc khi căn nhà cấp bốn lợp ngói bị tốc mái, nước mưa tràn vào làm hư hỏng toàn bộ tài sản.

“Bão đổ bộ tôi sang nhà con ở, sáng nay trở về thấy mái nhà bị cuốn mất, đồ đạc ướt hết,” bà Trình nói.

Tương tự, bão Bualoi vào đất liền đã gây mưa to và gió lớn kéo dài ở tỉnh Thanh Hóa khiến rất nhiều xã, phường xảy ra ngập lụt, nhiều nhà dân bị đổ sập, nhiều tuyến đường giao thông ngập sâu biến thành sông, xe cộ không thể qua lại.

Trong khi đó, bờ biển xã Hoằng Tiến bị sóng đánh tan hoang. Nước biển ngập bờ kè tràn vào khu dân cư ở Hải Tiến…

Chiếc xe hơi Toyota 7 chỗ ở xã Hoằng Giang, tỉnh Thanh Hóa, bị gió thổi bay hơn 100 mét, nằm dưới ruộng. (Hình: Lê Hoàng/VNExpress)

Đáng lưu ý, nước lũ dâng cao khiến 13 công nhân tại một trang trại nuôi heo ở xã Ngọc Lặc mắc kẹt, phải nhờ lực lượng cứu hộ đến giải cứu.

Tại Quảng Trị, khoảng 11 giờ 30 phút khuya 28 Tháng Chín, hai tàu cá đang neo đậu ở tổ dân phố Xuân Lộc, phường Bắc Gianh, bị đứt dây neo, trôi tự do. Trên hai tàu có 13 ngư dân, trong đó bốn người bơi được vào bờ, chín người mất tích.

Theo phúc trình của Ban Chỉ Huy Phòng Thủ Dân Sự Tỉnh Quảng Trị, bão đã khiến hệ thống thủy lợi, đê điều chịu ảnh hưởng lớn. Nhiều đoạn sông như Kiến Giang ở xã Lệ Thủy; Vĩnh Định, Long Đại ở xã Trường Sơn, bị sạt lở nghiêm trọng hàng trăm mét, có nơi ăn sâu vào đường nhựa. Một số tuyến đê biển ở xã Vĩnh Hoàng, Triệu Cơ, Cửa Tùng bị xói lở, sạt lở vào thân đê, trong đó đoạn đê sông tại xã Hoàn Lão bị vỡ 2 mét…

Bão cũng tạo ra tám lốc xoáy chỉ trong một ngày ở tám tỉnh thành khác nhau gồm Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Thanh Hóa, Thái Bình, Quảng Ninh và Hà Nội. Trận nào cũng lớn.

Người phụ nữ làng chài ở xã Thiên Cầm, tỉnh Hà Tĩnh, chỉ còn biết òa khóc giữa gian nhà tan hoang. (Hình: Nguyễn Khánh/Tuổi Trẻ)

Trong đó, trận dông lốc quét qua các xã Quỹ Nhất, Thịnh Long, Hải Thịnh, Hồng Phong, Gia Hưng, Chất Bình và Hải Anh, tỉnh Ninh Bình, làm nhiều ngôi nhà bị đổ sập, gãy 30 cột điện, khiến chín người thiệt mạng, 18 người bị thương.

Sau 13 giờ quần thảo từ Quảng Trị ngược ra Bắc tới Nghệ An, bão Bualoi đã làm 13 người chết, 17 người mất tích, 41 người bị thương. Nhiều nhà cửa, cơ sở sản xuất bị tốc mái, thiệt hại nặng, song chưa thống kê được thiệt hại do mất điện, gián đoạn thông tin liên lạc.

Đến 2 giờ chiều cùng ngày, bão di chuyển sang khu vực Thượng Lào, suy yếu dần thành áp thấp nhiệt đới.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mưa bão, Trung Tâm Dự Báo Khí Tượng Thủy Văn Quốc Gia cảnh báo nhiều xã, phường tại 10 tỉnh, thành gồm: Lai Châu, Sơn La, Phú Thọ, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất. (Tr.N) [kn]


 

Bị công an triệu tập, cựu chủ tịch thị trấn ở Cà Mau treo cổ chết

Ba’o Nguoi-Viet

September 28, 2025

CÀ MAU, Việt Nam (NV) – Nhà chức trách xác nhận ông Đặng Văn My, cựu chủ tịch thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước trước đây, tỉnh Cà Mau, treo cổ chết tại tư gia.

Theo tờ Thanh Niên hôm 28 Tháng Chín, thi thể ông My được con trai ông này phát giác phía sau căn nhà tọa lạc tại xã Cái Nước.

Cựu chủ tịch thị trấn Cái Nước, tỉnh Cà Mau, bị tố cáo biển thủ tại chợ Cái Nước. (Hình: Dân Việt)

Khi còn tại vị ghế chủ tịch Cái Nước, ông My bị nhiều tiểu thương chợ Cái Nước làm đơn tố cáo.

Hồi Tháng Tám năm ngoái, Công An Cà Mau khởi tố vụ án vi phạm về quy định đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng, xảy ra tại Ủy Ban Nhân Dân Cái Nước trước đây, trong việc thực hiện xây dựng chợ Cái Nước.

Trước khi treo cổ, ông My từng bị triệu tập nhiều lần và có khả năng bị khởi tố.

Liên quan vụ này, báo Dân Việt hồi Tháng Chín năm ngoái cho hay, ông Đặng Văn My bị tố cáo thu 9.6 tỷ đồng ($363,498) tiền “dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ” của các tiểu thương nhưng không ra biên lai. Ngoài ra, ông ta còn được xác định có nhiều sai phạm khác trong việc xây chợ.

Do vụ này mà hồi Tháng Bảy, 2020, ông Đặng Văn My bị lột hết các chức vụ trong đảng và chính quyền.

Trước cái chết của ông My, nhiều quan chức các địa phương được ghi nhận tự sát hay tại cơ quan do đối mặt việc bị bắt hoặc bị mất ghế.

Theo báo Thanh Niên hồi năm ngoái, ông Lê Viết Thống, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Nga, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, treo cổ chết ngay tại cơ quan vào hôm 14 Tháng Hai, tức Mùng Năm Tết Giáp Thìn 2024. Sự việc được một số công chức phát giác khi họ đến cơ quan trực Tết.

Trụ sở Ủy Ban Nhân Dân thị trấn Cái Nước. (Hình: Thanh Niên)

Bản tin cũng dẫn lời một cán bộ xã Lộc Nga rằng ông Thống “không có biểu hiện gì bất thường.”

Trước đó, theo báo Lao Động hồi trung tuần Tháng Mười Hai, 2023, ông Lê Văn Đây, 40 tuổi, phó trưởng Phòng Nội Chính, Văn Phòng Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Cà Mau, treo cổ chết ngay tại tầng bốn của cơ quan này.

Bản tin dẫn lời người nhà của ông Đây cho biết, trước khi sự việc xảy ra, ông này “có biểu hiện thường xuyên mất ngủ” nhưng không rõ liệu ông có bị trầm cảm hay không.

Người nhà đã tìm kiếm ông Lê Văn Đây từ ngày hôm trước cho đến khi được cơ quan gọi thông báo tin buồn. (N.H.K) [kn]


 

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Chân Trời Mới Media

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Không nói tới những bịnh nhân (hay người nhà) hung hăng, những bác sĩ dùng bạo lực, mình chỉ xét chung những người bình thường không quá khích, nóng nảy hoặc xấu tính.

Bác sĩ là người cung cấp dịch vụ, bịnh nhân là khách hàng, nhưng đây là dịch vụ đặc biệt liên quan đến sức khỏe, tính mạng nên nên đặc biệt hơn những dịch vụ khác, cả hai bên đều có mối quan tâm rất nhiều đến y đức, lương tâm nghề nghiệp, ơn nghĩa cứu mạng, “thiên chức” v.v…

Trong mối quan hệ này thì người bịnh là người bị động. Người bịnh không có chuyên môn, không có hiểu biết nên mọi việc đều phó thác cho bác sĩ: chẩn đoán, điều trị và kết quả.

Ngày xưa, nửa thế kỷ trước, thuở chưa quá độ lên XHCN thì ở miền Nam này bịnh nhân gần như tin tưởng tuyệt đối vào bác sĩ, cũng chính là tin vào tay nghề, vào lương tâm của bác sĩ. Bác sĩ tận nhân lực thì bịnh nhân tri thiên mạng, hiếm khi trách móc hay nghi ngờ bác sĩ.

Ngày nay sau nửa thế kỷ độc lập thống nhứt tiến lên XHCN thì mối quan hệ bác sĩ và bịnh nhân ngày càng tệ. Bịnh nhân  ngày càng mất lòng tin nơi bác sĩ và bác sĩ thì coi bịnh nhân là chỗ để kiếm tiền! (Dĩ nhiên bác sĩ và bịnh nhân đều có this có that)

Nói có sách mách có chứng. Năm ngoái, cách nay đúng một năm ba tui ngã bịnh. Gia đình đưa vô bv tư gần nhà thì bs KHÔNG chẩn đoán ra manh mối gì. Ông cụ tiểu ra máu mà bs cứ hỏi dồn là ông đi cầu ra máu phải không? Ông nhớ lại coi! Ông cụ lớn tuổi, lúc quên lúc nhớ nên bị dồn thì liền ừ theo bs. Thế là bs ghi bịnh án viêm tắc ruột.

Khi tui từ xa về tới nơi liền chuyển cụ vào bịnh viện tỉnh. Vô đó xét nghiệm, siêu âm, chụp CT suốt một buổi chiều thì bs chẩn đoán là có khối u ruột, phải mổ (bs có dựa vào chẩn đoán của bv tư khi chuyển viện). Tui không tin vì cụ không hề có triệu chứng gì về tiêu hóa trước đó, vẫn ăn ngon tiêu hóa tốt.

Cụ phát bịnh buổi sáng, cả ngày xét nghiệm chụp chiếu thì chiều tối có kết luận như trên. Tối tui lại thấy cụ tiểu ra máu và bàn tay chỗ ghim truyền dịch bị bầm đen nên báo bs, khi đó bs mới làm thêm xét nghiệm, hội chẩn và báo là cụ bị rối loạn đông máu (RLĐM). Thế nhưng bv vẫn đưa cụ lên khoa ung bướu để chữa RLĐM xong rồi mổ. Tui bèn xin chuyển viện lên Chợ Rẫy.

Lên bv CR, vô khoa cấp cứu. Các bs ở đây chỉ dựa vào các kết quả cận lâm sàng ở bv tỉnh đưa lên là chẩn đoán ngay bịnh RLĐM, hoàn toàn KHÔNG có u iếc gì ở ruột!

Điều trị ở khoa huyết học BVCR được đúng một tuần là ba tui hoàn toàn hết bịnh và hết luôn tới bây giờ. Từ ngày ra viện bs dặn không cần tái khám. Tui tâm phục khẩu phục bs phòng cấp cứu ở CR quá giỏi quá kinh nghiệm, chẩn đoán đúng cái “bụp” từ những dữ liệu mà bv tỉnh đã chẩn đoán không ra. Khi điều trị ở khoa huyết học thì bs cũng thường xuyên xét nghiệm để đánh giá kết quả điều trị.

Nhìn ngoài xã hội thì vừa rồi có vụ ở bv đa khoa Tây Nguyên, máy tán sỏi hư mà bv vẫn tán cho vài trăm bịnh nhân suốt hai năm. Vụ này rõ là bác sĩ nói trời bịnh nhân hay trời, nói đất bịnh nhân hay đất. Không có sỏi mà bác sĩ phán có để tán thì cũng đành phải chịu thôi!

Chuyện cũ thì có vụ bịnh viện Bạch Mai lấy một kết quả xét nghiệm rồi sao y ra cho hàng hà sa số bịnh nhân. Mày bịnh gì kệ mày, tao đưa kết quả ma vậy đó, mày đâu có trình độ về y khoa đâu mà biết, sống chết có số nghe con!

Và còn bao nhiêu vụ chưa bị khui? Dù khui hay chưa tui cũng không dám tin cái ngành y của xứ mình mà cứ phải tin khả tin phòng khả phòng!

Nằm bịnh ở bịnh viện Chợ Rẫy là một cơn ác mộng thật sự, có dịp tui kể sau. Thật thương cho bác sĩ và bịnh nhân ở CR, ai cũng khổ quá khổ. Muốn hiểu đời là bể khổ nghĩa là gì thì vô Chợ Rẫy!

Hình: may quá, tui mần thú y, đỡ nhức đầu hơn bác sĩ trong thời buổi nhiễu nhương này!

BS Hồ Phương Trinh

Hình: admin

May be an image of ‎one or more people and ‎text that says '‎ا" #chan l0 moi media THIẾU Y ĐỨC, BỆNH NHÂN NGHÈO LÀ NẠN NHÂN CHỊU KHỔ NHIỀU NHẤT‎'‎‎