Trăm hoa đua nở trên đất Bắc – Hoàng Văn Chí

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

18/11/2025

Câu chuyện xảy ra đã 2/3 thế kỷ. Tưởng rằng đã cũ. Nhưng đọc lại nó thì như thể câu chuyện mới đây thôi.

Tập tài liệu này xét ra còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học. Nhờ nó mà ta hiểu được tầm vóc của phong trào NVGP cũng như sức đề kháng, đấu tranh và mặt khác mức độ đàn áp khốc liệt của Hà Nội.

Nó là tiếng chuông cảnh báo và đòi hỏi tự do ngôn luận của một số giới trí thức nhà văn Hà Nội.

Nó mở đường cho những Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài đến Vũ Thư Hiên, Bùi Tín sau này.

Bên cạnh đó, người lãnh đạo uy tín và kiệt xuất của Phong trào NVGP trở thành nạn nhân bị đầy đọa cực kỳ dã man của chế độ cộng sản Hà Nội

500 nghệ sĩ, trí thức miền Bắc đi theo kháng chiến chống Pháp mà phần lớn là đảng viên cộng sản.  Nhưng kinh qua cuộc chỉnh phong và Cải cách ruộng đất một cách tàn bạo và sắt máu sau năm 1954 khi về tiếp thu Hà Nội. Điều gì đã xảy ra trước mắt họ và thực tế như thế nào?

Họ đã thất vọng và vỡ mộng.

Từ đó mở đầu cho giai đoạn của một phong trào xin ra khỏi đảng với những tên tuổi như Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm.

Và cuối cùng mở ra một cách lan rộng một phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, mùa xuân năm 1956. Tiêu biểu qua hai câu thơ sau đây:

“ Dù một sợi tóc còn cứa vào Nhân phẩm.

Tôi còn hét to, dù khản tiếng, tàn hơi.”. Hai câu thơ tóm gọn tinh thần Nhân Văn Giai phẩm.

Bài viết này của tôi muốn nhìn lại và trân trọng giới thiệu cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên đất Bắc của cụ Hoàng Văn Chí. Người đã thu tập tài liệu và mãi đến năm 1959, ấn bản đầu tiên mới xuất hiện tại Sài Gòn.

Một chi tiết nhỏ đặt ra là cụ Hoàng Văn Chí vào Saigon đầu năm 1955, làm sao cụ có tài liệu về Trăm Hoa Đua nở?

Chúng ta cần biết rằng miền Nam không công nhận Hiệp Định Genève và Ủy Hội kiểm soát đình chiến. (Ủy hội này gồm ba thành viên là Gia Nã Đại, Ấn Độ và Ba Lan)

Nhiều phần cho thấy là họ đi lại giữa Bắc và Nam như cơm bữa. Và điều ấy cho phép Canada thường mang những tài liệu, báo chí miền Bắc vào miền Nam qua bộ Thông tin nhờ đó cụ Hoàng Văn Chí có cơ hội thu tập và viết : Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc.

Phong trào NVGP vừa mở ra một viễn tượng tương lai đầy hy vọng và phấn khởi. Tuy nhiên qua tài liệu cũa Vũ Thư Hiên qua cuốn Đêm Giữa  Ban Ngày vốn là “người trong cuộc” nên hiểu rõ đâu là sự thật, đâu là  sự lừa dối.

Cộng thêm lời trần tình của Phùng Quán đã  dành ra ba ngày, ba đêm ở bên cạnh Nguyễn Hữu Đang cho thấy sự đối xử tàn tệ, dã man của cộng sản sau khi ra tù.

Điều đó giúp kẻ viết bài này hiểu ro thực chát đảng cộng sản là gi`? Họ đầy đọa một con người cho đến khi chết làm tôi càng xác tín rằng cộng sản là một thứ “trục của điều xấu” và không thể là điều gì khác.

Những nguyên nhân khách quan và chủ quan của cuộc nổi dậy của trí thức miền Bắc.

Nguyên nhân khách quan

Những nguyên nhân khách quan là tình hình biến chuyển quốc tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến Bắc Việt.

Việc thứ nhất là việc hạ bệ Stalin của Krushchev.

Nội bộ về các cuộc thanh trừng tại điện Kremlin như hạ bệ Beria, lật đổ Malenkov và nhất là hạ bệ uy tín của Stalin mặc dầu Stalin đã chết. Lý do hạ bệ uy tín của Stalin là để làm khuây khỏa lòng dân Nga vốn đã bị khốn cực dưới thời Stalin. Việc đổ tội lên đầu Stalin là một kế sách xây dựng uy tín cho người kế vị và cũng là dịp để thanh trừng nội bộ..

Các đại biểu đã dự Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô đã được chứng kiến và nghe những lời kết tội của Krushchev: như việc Stalin đã lưu dầy các dân  tộc thiểu số, thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập, hàng ngàn sĩ quan Hồng quân. Krushchev đã vạch ra những ngu độn và sai lầm của triều đại Stalin. Krushchev đã chỉ ra những sai lầm trong bệnh sùng bái cá nhân.. Người cầm đầu phong trào là  Dundinsev đã viết bài:” Cơm áo không đủ”.

Cạnh đó, tình hình ở Ba Lan, Hung Gia Lợi.

Balan vốn có một truyền thống quốc gia rất mạnh nên phong trào chống Nga ở Balan bột phát trước tiên. Sau vụ Poznan (28-6-56), nhà cầm quyền Liên xô thấy sức mạnh của quốc gia này nên tìm cách đàn áp phong trào. Nhưng Krushchev đành cố gắng ve vuốt Ba Lan kể từ khi Gomulka được thả ra từ nhà tù được trở về.

Hung Gia Lợi.

Chỉ vài tháng sau, Sô Viết phải đối phó với cuộc nổi dạy của dân chúng Hung. Krushchev ra lệnh cho quân đội đàn áp. Và vụ Budapest trở thành vang dội khắp thế giới và có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần dân chúng ở Bắc Việt cũng như  Đệ tam quốc tế ở khắp các nước chư hầu.

Ở Việt Nam, do các ảnh hưởng trên nên có chiến dịch sửa sai có nói đến “bệnh tôn sùng cá nhân” và “chính sách tập thể.”

Nạn nhân đầu tiên là sửa sai trong Cải cách ruộng đất bằng cách hạ bệ Trường Chinh và ông Hồ Viết Thắng và thả ra 12 ngàn đảng viên bị cầm tù vì bị quy lầm là địa chủ trong số đó có nhiều người bị lên án tử hình.

Việc sửa sai ấy đã tạo ra sự xung đột giữa các đồng chí đã bị tố sai để họ trả thù tạo ra sự xung đột giữa đảng viên “cũ” và đảng viên “mới”.

Phần các bần cố nông đã chót nghe lời đảng tố sai nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi nên vội vàng tẩu thoát ra Hà Nội hoặc Nam Định.

Theo Vũ Thư Hiên, việc cải cách ruộng đất chỉ là cái vỏ ngoài cho một mưu đồ chính trị. Tất cả những khẩu hiệu ca ngợi nông dân: “ nông dân là quân chủ lực”, “ giải phóng nông dân” “ Tiêu diệt cường hào ác bá, đánh đổ địa chủ, phú nông” “ruộng đất về tay dân cày” “ nông dân vùng lên giành lấy chính quyền” chỉ nhằm củng cố vị trí cai trị đất nước của Đảng. Đảng cần tiêu diệt những người đi tiên phong trong cuộc kháng chiến chống Pháp là những người mang trong đầu tư tưởng bình đẳng được đề cao trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vì thế, họ không phải, và không thể là những thần dân ngoan ngoãn. Cái mà Đảng cần .

Hơn nữa, mâu thuẫn ruộng đất hoàn toàn không phải là một lớp tay sai tuyệt đối trung thành, gọi dạ bảo vâng.

Cái gọi là Cải cách ruộng đất hoàn toàn không vì mục tiêu cải cách ruộng đất.

Không có, và không hề có về một cuộc điều tra nào về tình hình việc phân bổ ruộng đất trong xã hội, là điều tất yếu phải làm trước khi tiến hành cải cách ruộng đất.

Hơn nữa, mâu thuẫn ruộng đất hoàn toàn không phải là vấn đề nóng bỏng ở vùng giải phóng (vùng chính quyền kháng chiến) trong giai đoạn cả nước cần tập trung tinh thần và sức lực vào mục tiêu giành độc lập.

Đấu tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước được Đảng phóng tay phát động vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ đồng loại.

Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi. Nườm nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược mà với chính đồng bào mình.
Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa, nơi có dinh cơ gia đình cụ cử Nguyễn Thượng Hiền. Người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ một người bạn tôi đi khắp làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ giảm tô giảm tức. Tôi biết rõ bà là ai. Khi chiến tranh vừa bùng nổ, bà là Hội trưởng hay Hội phó Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thái Bình. Mất đất, làm nghề hàng xáo, buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy anh du kích quen đang lôi xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết : “ Ới cụ Hồ ơi, Cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân Cụ thế này đây.”

Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. “con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi mới được người ta hạ xưống.

Cha một người bạn khác của tôi chỉ là một cán bộ quèn trong ngành giáo dục, nhưng hoạt động cách mạng từ trước 1945. Khi cuộc giảm tô, giảm tức bắt đầu, ông bị bắt vì tội là đảng viên Quốc Dân đảng. Ông thắt cổ tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh: “ Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với Cụ, với Đảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm. ( Quốc Dân đảng được thành lập từ năm 1925, trước đảng cộng sản 5 năm cùng có mục tiêu chung là chống Pháp dành độc lập.)

Người ta vu cho bất cứ ai mà họ muốn giết là Quốc Dân đảng.

Trong một ngôi đình, tôi thấy người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái. Có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có một tội duy nhất là con địa chủ.. Cứ mỗi câu hỏi, những kẻ tra tấn lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói.

Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng giây vào cổ, lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rục chạy theo sau vỗ tay reo hò, cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình- những đứa trẻ này sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người?

Trich Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, trg 41-43)

Những nguyên nhân chủ quan.

Nhìn chung quanh mình, người trí thức cộng sản chỉ thấy đói khổ cùng cực. Chính bản thân họ bị bóc lột, trấn áp còn khốn khổ hơn trong thời kỳ chiến tranh.

Từ giai cấp tiểu tư sản, họ tụt xuống thành vô sản.

Từ địa vị lãnh đạo tư tưởng, họ tụt xuống cái mà Mao ngang nhiên gọi là:” không ích lợi bằng cục phân”.

Đời sống vật chất trong thời kỳ chiến tranh, họ đã đã phải bấm bụng nhịn đói, nhịn thèm. Nhưng nay đã hòa bình mà tình trạng vẫn vậy, không thấy thhay đổi.

Ông Phan Khôi khi trở về Hà Nội được bạn bè cũ đãi cơm có thịt gà.. Cầm miếng thịt gà lên, cụ nói đùa: “Chín năm nay, tao lại mới gặp mày.”

Câu nhận xét ấy đã trở thành giai thoại trên nhiều cửa miệng giới cầm bút.

Nhiều sự thật khác cũng đã được bóc trần.. .

Như tại tòa soạn báo Văn Nghệ, trong số 8 biên tập viên có vợ thì 6 người đã thất nghiệp hay bán thất nghiệp….Những trang giấy trắng đáng lẽ chỉ dùng làm thơ cũng đã bao lần trở thành  giấy xin việc… Những đơn ấy gởi đi rồi rơi vào im lặng, không nghe một tiếng trả lời.

Như trường hợp nhà thơ Hữu Loan nằm trong bóng tối của một gian nhà nhỏ ở ngoại ô Hà Nội không có tiếng vợ kêu con khóc. Hữu Loan, chỉ mơ ước có một ngọn đèn giàu để đêm đêm ngồi viết..

Hai năm sau hòa bình, chúng ta thấy nhiều nhà văn có tài bị buộc chặt vào địa vị bằng những sợi lụa có tẩm thuốc độc.

Trong khi những nhà văn thuộc giai cấp lãnh đạo như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Thước, Đặng Thái Mai, Hồ Đắc Di, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị, Ngụy Như Kon Tum vv.. chỉ thấy họ ra các chỉ thị, các thông báo, các kế hoạch cho bọn quần chúng văn nghệ phải thi hành..

Trước thực trạng ấy, cụ Phan Khôi phân tích, có hai giai cấp văn nghệ.

Cấp trên là giai cấp lãnh đạo văn nghệ. Và giai cấp dưới là quần chúng văn nghệ.

Sự thực thì có nhiều người nói thẳng là có thứ “cai văn nghệ” và thứ “ cu ly văn nghệ” trong thực trạng người bóc lột người.

Và thực tế là một cuộc tranh đấu giai cấp, giai cấp thống trị, “ngồi mát ăn bát vàng” và một giai cấp bị trị, bị bóc lột đến tận xương tủy.

Nguyễn Công Hoan kể, khi sang dự Hội Nghị Văn Hóa Á Châu đã vào ở khách sạn Asoka là khách sạn nổi tiếng là nơi trú ngụ của các bậc đế vương trên thế giới.

Một thi sĩ dấu tên đã làm bài thơ mỉa mai, miệt thị sau đây đăng trong báo Văn Nghệ số 24 ra ngày 10-10-1957.

Ông “ Vỗ ngực”

Học thuật văn chương chửa sạch nghề

Tập tòe lên lớp cũng khen chê
Giáo điều khó nuốt lèn thô bạo

Lý luận không tiêu kéo nặng nề,

Tình cảm khô khan như củi gộc.

Phê bình nồng nặc tựa cơm khê

Anh em vặn lại cùng kỳ lý

Vỗ ngực ông giơ đảng chực lòe.

Tên “Lý trưởng văn nghệ” Nguyễn Công Hoan đã từng nằm ở khách sạn Asoka đã mắng cụ Phan Khôi là tên cu ly văn nghệ, Phan Khôi vốn đáng tuổi bố Nguyễn Công Hoan..

Nhân dịp thượng thọ 70 tuổi, giữa lúc ai ai cũng lảng tránh, cụ bèn làm một bài thơ để mừng kỷ niệm ngày thượng thọ của cụ với hai câu thơ như sau:

Lên 70 rồi mẹ nó ơi!

  Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai..

Nguyễn Công Hoan ngay lập tức đáp trả đã làm một bài thơ họa lại như sau:

Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!

Thọ mi, mi chúc chứ hòng ai.

Văn chương/Đù mẹ thằng cha bạc!

 Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài

Lô dích, trước cam làm kiếp chó

Nhân văn, nay lại hít gì voi, Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,

Thêm nhục cơm trời, chẳng thấy gai.

Đại khái thì toàn bộ giai cấp mới đều có ngôn từ trịch thượng, giọng điệu đểu cáng và hèn hạ như vậy.

Trách chi mình Nguyễn Công Hoan…

Để đáp lễ, cụ Phan khôi  kêu gọi mọi người đứng lên làm “tổng vệ sinh” quét sạch lũ chúng:

Những người đã đánh bại xâm lăng

Đỏ bừng mặt vì những tên quốc sỉ

Ngay giữa thời nô lệ

Là người, chúng ta không ai biết cúi đầu.

Cụ Phan Khôi phẫn uất nên viết mạnh như sau:

Làm sao cũng chẳng làm sao

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi,

Làm chi cũng chẳng làm chi

Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao”.

Họ còn ví những người trí thức như những người đàn bà đẹp để thấy mình bị lợi dụng, ruồng bỏ, khủng bố như cảnh Hồ Xuân Hương thuở xưa:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.

Cụ Phan Khôi cũng ngán cảnh bị bỏ ngoài ra ngoài lề:

“Tuổi già thêm bệnh hoạn

Kháng chiến thấy thừa ta

Mối sầu như tóc bạc

 Hễ cắt lại dài ra.”

Tuy nhiên, xét tổng quát nói chung, sự phản kháng cũng vẫn chỉ là những tiếng than vãn, những lời oán trách gián tiếp vì không được đãi ngộ.

Vẫn thiếu một không khí đấu tranh thực sự, một sự phản kháng vùng lên đối mặt kẻ thù.

Xin nêu một trường hợp: Trường hợp bà Thụy An.

Tên thật của bà là Lưu Thị Yến. (1916-1989). Chồng bà là nhà báo Bùi Nhung. Có thời ông làm giám đốc đài phát thanh Hà nội. Bà có 7 người con, chỉ ly thân năm 1949. Lý do cuộc chia tay: bà Lưu Thị Yến có em gái là Lưu Thị Trạch có liên hệ mật thiết với ông Bùi Nhung nên bà Yến đã lặng lẽ nhường chồng cho em gái.

Bà từng là học trò Võ Nguyên Giáp, từ đó nảy sinh cũng là mối tình đầu của bà. Bà đã vào Nam sau trở ra Bắc và có mối liên hệ với ông Đỗ Đình Đạo, người của Quốc Dân Đảng. Sau Đỗ Đình Đạo đột tử khi bà Thụy An vắng nhà, người ta nghi ngờ do Thụy An đầu độc Đỗ Đình Đạo.

Sau này, mặc dù bà không liên hệ trực tiếp trong nhóm NVGP, vậy mà bà bị tù đầy lâu nhất cùng với Nguyễn Hữu Đang.

Phần Võ Nguyên Giáp đã im bặt không dám bênh vực bà.

Điều đó cho thấy tâm địa của cán bộ cao cấp trong đảng hèn nhát như thế nào?

Theo Vũ Thư Hiên viết trong Đêm giữa ban ngày, trang 36 như sau về trường hợp Phạm Văn Đồng không dám đứng ra bênh vực cho trường hợp  bố của Vũ Thư Hiên bị bắt: “  Việc tập thể quyết định , tôi làm gì được”.

Theo mẹ Vũ Thư Hiên thì:” Phạm Văn Đồng là người không tồi, không tệ bạc, nhưng ba phải vụng về và cực kỳ vô tích sự”.

Còn dưới mắt bà thì: “Ông Hồ Chí Minh coi như đã chết vào đêm cha tôi bị bắt.”

Phần Trường Chinh, dưới mắt bà, ông có an ủi vài câu, còn hứa hẹn điều này điều  kia, nhưng rồi ông chẳng làm gì hết.”.

Nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả Vang bóng một thời đã có một nhận xét cay nghiệt nổi tiếng: “ “Nước ta là một pháp trường trắng. Không có đầu rơi, không có máu chảy, mà có người chết.”

Trong khi đó, Tố Hữu vẫn công khai, vênh váo như một tên thi sĩ cuồng si, vô liêm sỉ và khát máu với những câu thơ dơ dáy, nịnh bợ như:

Hoan hô Hồ Chí Minh

Cây hải đăng vô sản.

Bão táp chẳng rung rinh

Lửa trường kỳ cách mạng

Hoan hô sít ta lin

 Đời đời cây đại thụ

 Rợp bóng mát hòa bình

Hoặc là:

Chúng ta có bác Hồ

Thế giới: sít ta lin
Đảng ta phải mạnh to

Thế giới phải đỏ mình.

Ở một chỗ khác, Tố Hữu tỏ ra một tên hung đồ, khát máu:

Giết, giết, bàn tay, không phát nghỉ.

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,

Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao Chủ tịch, thờ sít ta lin bất diệt…

Phải chăng đó là sự nghiệp chói lọi của thơ văn Tố Hữu mà nếu ở miền Nam, thứ thơ văn  đó chỉ là rác rưởi vứt vào trong thùng rác?

Đến lượt Xuân Diệu tỏ ra không kém trò nịnh hót như Tố Hữu:

Mỗi lần tranh đấu gay go

Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm

Nghe lời Bác dạy khuyên răn,

Chúng con ước muốn theo chân của Người

Chúng con thề nguyện một lời

Quyết tâm thành khẩn.. lột người từ đây”.

Phần người viết, chỉ muốn bước ra khỏi thứ văn chương xú uế này trong suốt khoảng thời gian từ 1950-1954 trong vùng cộng sản chiếm đóng với những tên cán bộ “Bốn Túi” (Bốn túi là những cán bộ cao cấp, cán bộ cấp dưới chỉ có hai túi).

Đến nỗi trong dân gian có câu: “ Phi bốn túi bất thành phu phụ.”

  • Cuộc Khởi nghĩa bắt đầu.

Lê Đạt, một nhà thơ trẻ nhất với chuyện Ông bình vôi trong đó có câu:“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi. Y như một cái bình vôi.

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại.

Phải chăng ám chỉ Hồ Chí Minh?

-Trần Dần. ( 1924-1951).

Ông từng sáng tác cuốn “ Người người lớp lớp.. Nhờ cuốn sách này, ông được cử đi Trung Quốc để viết dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim “Chiến thắng Điện Biên Phủ” do cán bộ Trung Cộng quay.

Nhìn rõ cảnh đất nước Trung Cộng, ông thất vọng vọng nên tuyên bố: Chớ nên theo đường lối văn nghệ Trung Quốc”.

Sau đó, ông tự ý xin ra khỏi đảng, ngang nhiên sống với người yêu không cần cưới xin.. Đảng tính trừng trị, nhưng thời kỳ đó còn có phong trào di cư nên đành chịu..

Nhưng bài của Trần Dần dài hơn 500 câu mới cho thấy sự khổ cực, khốn đốn của vợ chồng tác giả. Bài thơ bộc lộ cho thấy miền Bắc quá cực khổ. Khi về Việt Nam xảy ra một việc quan trọng.. Đó là việc Trần Dần lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của đảng. Trần Dần phải xin phép để được cưới vợ. Đảng đã giới thiệu nhiều cô gái, nhưng Trần Dần đều từ chối.

Khi hòa bình trở lại, tình cờ ông gặp một cô gái tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một mình, vì bố mẹ họ hàng cô đều di cư vào miền Nam không kịp mang theo..

Tên cô là Bùi thị Ngọc Khuê, sau có ba con với Trần Dần là Trần thị Băng Kha, Trần Trọng Văn và Trần Trọng Vũ.(họa sĩ)

Trần Dần xin phép, nhưng đảng không cho. Vì một lý do: Người con gái đó theo đạo Thiên Chúa. Trần Dần đã khuyên người con gái đó mang nhà cửa đất đai của bố mẹ để lại nộp cho “Ủy ban tài sản của những người vắng mặt” để hai người có thể yêu nhau trong khi thiên hạ ùn ùn đi vào miền Nam.

Xin trích một đoạn như sau:

Ta đi giữa trời mưa đất Bắc

Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm

Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ả.

Chúng phá hiệp thương!

Liệu có hiệp thương

Liệu có tuyển cử?

Liệu tổng hay chẳng tổng?

Liệu đúng kỳ hay chậm vài năm?

Ôi! Xưa nay Người vẫn tin Người.

Người vẫn kinh hoàng trước tương lai.

Vì chữ Người viết hoa nên cán bộ lãnh đạo vin ngay vào cớ đó để buộc tội cho Trần Dần có ý ám chỉ ông Hồ Chí Minh, vì xưa nay chữ Người viết hoa vẫn dành riêng cho ông Hồ.. Vì thế Trần Dần bị bắt, bị mang ra đấu tố trước một cuộc họp đông đảo của toàn thể các văn nghệ sĩ trong Hội các nhà văn.

 Trần Dần bị quy vào tội phản động.

Phẫn uất quá, Trần Dần cứa cổ tự tử, nhưng không chết, sau này vẫn mang một cái sẹo ở cổ. Cái sẹo đó như một minh chứng của sự áp bức văn nghệ dưới chế độ cộng sản miền Bắc.

Trên đây là những điều “tốt đẹp” được ghi lại về Trần Dần.

Nhưng cần nhớ rằng, truớc sau Trần Dần vẫn là người cộng sản nên cố hữu vẫn phải bày tỏ bề ngoài sự căm thù miền Nam để có thể sống còn.

Nhưng cụ Hoàng Văn Chí một cách nào đó, quá cẩn thận, đã xóa bỏ những khẩu hiệu, những đoạn sắt máu tuyên truyền, phê phán tiêu cực về miền Nam.

Như tội ác Mỹ Ngụy vv.. để độc giả miền Nam dễ chấp nhận.

Một điều khó hiểu nữa là ông Hoàng Văn Chi trong cuốn Trăm Hoa Đua Nở đã không có một dòng về Nguyễn Hữu Đang cũng như Trương Tửu.

Đặc biệt trong tập Trần Dần Ghi, ông đã công khai giọng điệu tuyên truyền chống miền Nam.

Tôi thấy không cần thiết phải ghi lại tập thơ này. Cho dù bất mãn thế nào với Đảng, sự sống còn, sự tồn tại của ông vẫn thuộc về đảng nên ông vẫn phải bám cái phao cứu chống miền Nam để tồn tại.

  • Giai phẩm mùa thu ra đời.

Ngày 29 tháng 8, 1956, Giai phẩm Mùa Thu, tập I ra đời.

Trong tập này, cụ Phan Khôi , một người không biết sợ đã giáng một đòn chí mạng vào đầu giai cấp lãnh đạo. Bài viết nhan đề như một phát súng lệnh:” Phê bình lãnh đạo văn nghệ”.

Bài viết đã gây một làn sóng dư luận khắp Hà Nội. Tờ Thời -Mới ví bài của cụ Phan Khôi như một “quả bom tạ” thả ngay giữa Hà Nội.

Có người còn nói rằng 90 năm mới lại nghe tiếng nói “sang sảng” của cụ Phan Khôi.

  • Mặt trận tấn công mở rộng.

Tính từ tháng tám 1956 trở đi, quần chúng văn nghệ đã làm chủ được dư luận và tình thế. Vì thế, để đấu tranh rộng rãi về chính trị nên cụ Phan, Nguyễn Hữu Đang và Trần Duy bèn cùng nhau đứng chung xuất bản một tờ báo. Đó là tờ Nhân Văn. Tờ Nhân Văn số I ra đời ngày 15 tháng 9. Giới sinh viên đại học hưởng ứng một cách sôi nổi cũng cho ra đời một tờ báo chống đảng lấy tên là Đất Mới.

Bên cạnh đó tờ Trăm Hoa của thi sĩ Nguyễn Bính cũng cho đăng một loạt bài mới đả kích đảng.

Phong trào chống đảng lan rộng đến tờ Thời- Mới là tờ báo hàng ngày trước đây vẫn tỏ ra ngoan ngoãn nay cũng đổi chiều.

Chưa kể các tờ Cứu-Quốc, cơ quan của Mặt Trận Tổ Quốc cũng nêu ra những tệ hại của chế độ trong Mục Sổ Tay.

Đặc biệt, tờ Nhân Dân, tờ Học Tập, cơ quan chính thức của Đảng cũng nêu ra nhiều “sai lầm” của Đảng.

Nói chung trong suốt ba tháng, nhân phong trào sửa sai, đồng loạt các tờ báo lên tiếng, phản bác về bệnh “quan liêu” , bệnh “bè phái lãnh đạo”, bổ những nhát búa chí mạng vào đầu giai cấp thống trị.

Phần các báo chí của Đảng thì bất đắc dĩ, thấy người ta nói đúng quá nên cũng phải hùa theo để cho thấy họ không ngoan cố và cho rằng những sai lầm đó chỉ là nhất thời và cá biệt, còn nói chung Đảng và nhà nước bao giờ cũng sáng suốt.

Nếu có sai lầm là do những cán bộ cấp dưới gây ra, còn cấp trên vẫn nắm vững chính sách.

Nhưng các báo chí đối lập không thèm đếm xỉa đến cấp dưới, mà vẫn chĩa mũi vào cấp lãnh đạo nên cuối cùng mới có Hồ Viết Thắng phải đứng ra đọc bản Tự-kiểm thảo về những sai lầm Về cải cách ruộng đất.

Võ Nguyên Giáp cũng thay mặt Đảng công nhận những “khuyết điểm”.

-Đảng đóng cửa báo Nhân Văn.

Đảng mở chiến dịch gọi đích danh báo Nhân Văn là tay sai của địch, là gián điệp phòng nhì của Mỹ, hoặc  tờ-rốt-kít..

Dựa vào các kiến nghị của mọi tầng lớp nhân dân.. Đảng ra lệnh cho Ủy ban Hà Nội đóng cửa tờ Nhân Văn và tịch thu mọi số báo đã phát hành.

Ngày 15 tháng 12, 1956, Hồ Chí Minh ký một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí và phải phục vụ nền vô sản chuyên chính.

Sắc lệnh cũng dọa phạt tù từ 5 năm đến khổ sai chung thân.

Sau lệnh đó, các tờ Trăm Hoa, Đất-Mới, Giai phẩm đều tắt tiếng và ra lệnh mồm về mấy điều cấm đoán:

  • Không được chống chính phủ, chống chế độ.
  • Không được xúi dục nhân dân và bộ đội làm loạn.
  • Không được tiết lộ các bí mật quân sự.
    -Không được đăng bài vở có hại đến thuần phong mỹ tục

Những nhà văn trẻ lên tiếng.
– Phùng Quán.

Phùng Quán là một sinh viên trẻ, hăng máu trước từng viết bài: “Chống tham ô lãng phí” đăng trong Giai phẩm Mùa Thu.

Lần này, Phùng Quán viết bài “Lời mẹ dặn” với những câu thơ đanh thép và sắc bén như sau:

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Ông viết tiếp:

Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã

Bút giấy tôi, ai cướp giật đi

Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.

Cuối cùng thì cũng vẫn cụ Phan Khôi xuất hiện với chuyện “Ông Năm Chuột” trong đó gián tiếp cụ ngụ ý giai cấp thống trị thuở xưa cũng như giai cấp thống trị ngày nay đều đầy rãy những thối nát, nhưng cố tình che đậy.

Sau bài của Phan Khôi, đảng bắt phải đình bản tờ báo ngay tức khắc, đồng thời bắt 304 văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn cho đến khi tự kiểm thảo để nhận biết sai lầm của mình.

Tuy nhiên, có bốn người không chịu đi dự lớp chỉnh huấn: Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An và Nguyễn Hữu Đang.

Đảng ra lệnh bắt Nguyễn Hữu Đang và Thụy An giam vào Hỏa Lò.

Phần Trương Tửu bị cất chức giáo sư ở trường đại học Văn Khoa, vợ con và gia đình nhà vợ bị bao vây kinh tế, nghĩa là rút giấy phép buôn bán.

Phần cụ Phan Khôi đã 73 tuổi, lại vốn có nhiều uy tín trong nước, nhất là đối với trí thức miền Nam nên được để yên.. Tuy nhiên, bị “ treo dò” không được tiếp xúc với ai và cũng không ai được tới thăm hỏi.

Nguyễn Đình Thi còn kết án mấy người trong Nhân Văn Giai phẩm là “ cả vú lấp miệng em”.

Phần cụ Phan Khôi lại đưa ra số  Văn, 36 câu truyện Ông Năm Chuột ám chỉ xỏ xiên Hồ Chí Minh. Chính vì vậy báo Văn bị đóng cửa ngay tức khắc.

Sau này Phan Khôi còn bịa ra câu truyện Cây cứt lợn- cây cộng sản. Có nơi gọi là cây chó đẻ, rồi Cỏ cụ Hồ.

Phần Trần Dần nổi tiếng với bài Nhất Định thắng..

“ Tôi bước đi- không thấy phố_ không thấy nhà- chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ..

Phùng Cung đóng góp với bài: Con ngựa già của Chúa Trịnh.

Ngụ ý của bài này là đả kích bọn văn sĩ trước kia có tài như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù Huy  Cận, chỉ vì ham miếng đỉnh chung mà cam  tâm làm tôi mọi cho chế độ..

Nói chung bất cứ nhà văn nào đã dùng ngòi bút ca tụng chế độ mong vinh thân phì gia thì văn chương của họ không thể nào hay được.

  • Trường hợp Văn Cao

Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh năm 1920 trong một gia đình nghèo, ở Lạch Tray, gần Hải Phòng. Ngay từ nhỏ Văn Cao đã có khiếu về âm nhạc đã nổi tiếng hát hay.  Chẳng những ông nổi tiếng về nhạc mà còn có tài về họa và thơ.

Ông nổi tiếng với bài Tiếng quân ca và được Võ Nguyên Giáp mời lên chiến khu để khen thưởng và ban cho một khẩu súng lục.

Ông cũng là người đứng ra đánh nhịp cho  đoàn Thanh niên Xung phong hát bài Tiếng quân ca ở  Nhà Hát lớn. Ngay hôm ấy là ngày 19 tháng 8, 1945, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà nội.

Sau khi Việt Minh lên nắm quyền, Văn Cao được cử làm Thường vụ hội Văn hóa Việt Nam.. Ông làm thêm bài Không-quân Việt Nam và Hải quân Việt Nam.

Lúc này danh tiếng ông nổi như cồn lên đến tột bực. Ông giao thiệp với ông chủ nhà in Rạng Đông. Cô con gái chủ nhà in Rạng Đông phải lòng người nhạc sĩ tài hoa và hai người lấy nhau.. Vi phạm tội lấy con gái tư sản nên bị Đảng bỏ rơi..

Kháng chiến bùng nổ, Văn Cao chạy lên Lào Cay, sau về Tuyên Quang rồi mở một tiệm Cà phê ở phố Yến, thuộc Vĩnh Yên.

Trong thời gian này, ông sáng tác được Trường Ca Sông Lô và được kết nạp vào đảng.

Sau Hòa bình, Văn Cao phụ trách ban nhạc ở đài phát thanh ở Hà Nội.. Năm 1956, ông tham gia phong trào Nhân Văn giai phẩm với hai bài thơ: Anh có nghe không? Và bài Những ngày báo hiệu mùa xuân…Ông đã bị Xuân Diệu vu khống chính trị viết một bài: Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao tố cáo Văn Cao là” con người phản phúc, hai mặt giả dối như con mèo, là một tên phù thủy toan dùng âm binh để chọi nhau với Đảng”.

Theo nhà văn Vũ Thư Hiên thì Văn Cao  còn:” là tên đầu sỏ trí thức mưu toan đoạt quyền lãnh đạo của Đảng”. Cho nên toàn bộ vụ Nhân Văn Giai Phẩm chỉ là trò cờ gian bạc lận.

Bản thân Văn Cao từng tâm sự với Vũ Thư Hiên như sau: “

Hồi ấy, văn nghệ sĩ còn tin Đảng lắm, còn yêu Đảng lắm. Gì thì gì, Đảng vẫn là Đảng của mình, cậu hiểu không? Là ruột thịt của mình. Nhưng là trí thức, bọn mình không quen, không thích tin mù quáng. Bọn mình thấy xã hội có những khuyết tật, những cái cần sửa chữa. Mới lên tiếng cảnh báo  Đảng cầm quyền thì phải đề xuất với Đảng, chứ còn đề xuất với ai?

Trích Vũ Thư Hiên Đêm giữa ban ngày, trang 567)

Những ngày báo hiệu mùa xuân là một đoạn  trong bài thơ dài: Những người trên cửa biển in trong tập thơ của 4 người: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Dần do nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành.

Nói chung, mặc dầu Văn Cao nổi tiếng và thành công, nhưng cuộc sống suốt đời vẫn lầm than, túng thiếu nếu so với Phạm Duy ở miền Nam thì khác nhau một trời, một vực.

Khi chết, đám tang Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo đều được tổ chức tương đối trọng thể mặc dầu chỉ là bề ngoài.

Xét cho cùng, tiếng nói của của những trí thức trong NVGP cho đến ngày Nguyễn Hữu Đang mất, 8/2/2007 vẫn bị ngăn chặn và kiểm soát.

Trường hợp Nguyễn Hữu Đang, biểu tượng chống đảng nói thay cho một lời kết luận

Nguyễn Hữu Đang (1913-2007)

(Xin tóm lược bài viết và phỏng vấn của bà Thụy Khuê).

Nguyễn Hữu Đang là một người trí thức đấu tranh cho tự do dân chủ hàng đầu và là cột trụ của phong trào NVGP.

Nguyễn Hữu Đang bị bắt, bị cầm tù trên trại Hà Giang, rồi bị quản thúc tổng cộng 59 năm, từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 2 , năm 2007 đến khi ông mất.

Ông hoạt động và tham gia Mặt trận Dân chủ Đông dương cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kinh cùng với Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh.

Ông cũng là người được Hồ Chí Minh tin tưởng giao cho trọng trách tổ chức ngày lễ đài ngày 2/9/1945. Mà theo Nguyễn Hữu Đang kể lại: ông cụ giao cho tôi một mình, về rồi tập hợp một số anh em, phương tiện chỉ có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki lô gỗ, ki lô xi măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn như vậy..

Và chỉ có 4 ngày, ông vận động hội Truyền Bá Quốc ngữ, hội Văn hóa Cứu quốc và hội Hướng đạo sinh, cả ba dưới quyền điều khiển của ông..

Nguyễn Hữu Đang đã thành công trong việc quy tụ hơn nửa triệu người ở các thành phần dân tộc khác nhau  của mọi thành phần đến Ba Đình dự Ngày Độc Lập 2/9/45.

Đó là thành công không nhỏ của Nguyễn Hữu Đang.

Từ năm 1938-1945 ông hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ với nhiều chức vụ như Ủy viên ban Trị sự Trung ương, trưởng ban cổ động.vv tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ.

1945-1946 giữ các chúc vụ Thứ trưởng bộ Thanh niên, chủ tịch  Ủy Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hóa.

Ông hoạt động trong NVGP từ tháng 9/1956 với Nhân Văn, số 1 và chấm dứt với Nhân Văn số 6 và bị đình bản tháng 12/56.

Tháng tư/1958, Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường vào miền Nam.

Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra tòa án cùng với bà Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại và Lê Nguyên Chí…

Bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân về tội: phá hoại chính trị.

Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi trại Hà Giang.

1973 được thả cùng với Thụy An, diện” Đại xá chính trị phạm trong Hiệp định Paris” và bị quản chế ở Thái Bình.

Sau này, theo Nguyễn Huy Tưởng:

Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng ảnh hưởng tới anh em. Với những tư tưởng rất là nguy hiểm, điển hình cho một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn.”

Nguyễn Hữu Đang đã chọn đúng thời cơ.

Vị thế của Trường Chinh và đảng cộng sản yếu đi sau chiến dịch cải cách ruộng đất đẫm máu. Ngoai nước, việc hạ bệ Staline ở Đại hội XX ở Liên Xô là nguyên cớ cho cho những khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động.

Nguyễn Hữu Đang với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được cảm tình và lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến..

Vì vậy, ông nắm lấy cơ hội và đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn từng hoạt động trong kháng chiến như Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo, Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm giai phẩm mùa Xuân..

Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang đã được nhiều người chấp nhận: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được.. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo .. mà cũng không có tờ Nhân Văn.

Mạnh Phú Tứ coi Đang như tên đầu sỏ :

Hắn lẩn mình và rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang.. Nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo.. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác.. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo, có một nhân lên mười. Hắn còn họp hành bí mật với những nhà văn chông Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ chính trị.. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu.. Hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội có âm mưu chính trị.”

Kết luận Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt, văn hóa và đấu tranh trên trường chính trị ở Việt Nam. Một người theo Đảng từ năm 16 tuổi nên hơn ai hết, ông hiểu rõ quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản. Nhưng ông đã tự mình  đứng ra ngoài trật tự ấy. Nhưng ông vẫn luôn luôn giữ vị trí tự do hành động cũng như tư tưởng của mình.

Nhưng cuối cùng thì Nguyễn Hữu Đang đã thất bại.. Sự thất bại của Nguyễn Hữu Đang cũng là sự thất bại CHUNG CỦA MỘT DÂN Tộc Và hậu quả của sự thất bại ấy còn kéo dài cho đến bây giờ..

Nó cho thấy Nước Việt Nam cho đến thế kỷ XXI vẫn còn chưa nhận ra được mình để thực hiện những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người mà đầu tiên là quyền Tụ Do tư tưởng.

Sụ thất bại của Nguyễn Hữu Đang cũng là sự thất bại của Phong trào NVGP dưới cái nhìn của Phùng Quán lúc cuối đời.

Ra khỏi nhà tù nhỏ với 15 năm lưu đầy từ trại giam này đến trại giam khác, cuối cùng Nguyễn Hữu Đang cũng được thả ra. Tuổi đã sấp xỉ 80, về Thái Bình, không nhà, không cửa, không vợ con, không việc làm.

Nhà văn Phùng Quán, ngày 26 tết, xin tiền vợ quyết đi thăm Nguyễn Hữu Đang ở quê hương Thái Bình. Hỏi thăm nhiều nơi, nhiều người, không ai biết Nguyễn Hữu Đang ở đâu. Cuối cùng cũng tìm ra chỗ ở của Nguyễn Hữu Đang. Ông đang tá túc tại trường Phổ thông cấp I, II xã Vũ Công. Ông Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá bác Hồ của xã. Một cô giáo chỉ: Bác ấy đang ngồi ở bực cầu ao kia kìa. Tôi đi vòng quanh, lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen, nom như vòng cùm sắt, chắn hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng…

Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình Dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung, Nam Bắc diễn thuyết, oai phong hùng biện, tuyên truyền cách mạng. Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động. Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì nhà tư sản Hà nội nào giàu có vay vàng và tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng.

Và bây giờ, anh ngồi đó, gần 80 chục tuổi, không vợ, không con, không cửa, không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rữa những viên gạch vỡ- chẳng hiểu để làm gì- như người bõ già trong truyện Hương Cuội của NguyễnTuân.

Nguyễn Hữu Đang nhận ra tôi hỏi: Chú về đây từ lúc nào thế? Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao và cả hai  gương mặt già nua đẫm lệ.

Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng 5 mét vuông chặt kín những tư trang đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo đến cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cặp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao Vàng xuyên thủng buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai.

Sau đó, tôi được anh giải thích chùm lục lạc. Đi lại trong đường làng, những đêm tối trời, anh thường bị những thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào làm anh ngã trẹo tay, sẩy gối. Học tập sáng kiến của các đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu-trâu gõ mõ, chó leo thang, anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần trên đường vắng, báo hiệu có nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc.

Chính giữa gian trái có kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín lại được, khóa một chiếc khóa lớn như khóa nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà nội người ta thường quẳng vào đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thông đỡ bằng bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông rách thủng và một xấp quần áo cũ làm gối.. Sát chân giường kê một chiếc bàn siêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường.

Anh nói giọng Lão Trang: Một cái bàn bốn chân là một con vật, khi nó chỉ còn hai chân, nó là một con người.

Trên mặt bàn xếp kín các chai lọ, vỏ đồ hộp. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đút quai, được bó thành tùng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề như đống sắt vụn, đinh cong queo, màu dây thép han rỉ.

Hai cái vại tôi nhặt về cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên làm thành cái ghế ngồi vừa vững chắc lại vừa mát. Chú ngồi thử xem, có khác gì ngồi trên đôn xứ thời Minh.Tất cả những đồ lề đó được phủ lên một lớp bụi lúc tôi bước vào gian buồng mờ mịt khói.

Anh dọn ra cái đĩa rồi chọn  ra hai cát bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn nom rất khả nghi.. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn( Đĩa nay là chả cóc, đĩa này là chả nhái). Nhờ ăn hai thứ đặc sản nay mà tôi rất khỏe. Còn khỏe hơn cả chú.

Anh giải thích: Giờ này các cô giáo nấu ăn, bếp tập thể lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang. Anh cười: Chịu khói một chút, nhưng cũng có cái lợi, thỉnh thoảng được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng.

 Trong việc dở nào cũng có việc hay và ngược lại.

Tôi nói: để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn..

Thôi khỏi cần, chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay, tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu vào lúc sáng ủ vào lồng ủ rơm còn nóng hổi.

Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão., nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn..Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ.. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm.. Tinh túy của gạo là nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm.

Anh nói rồi anh xăng xái lấy chùm chìa khóa buộc chung với chùm lục lạc, mở khóa tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ, những xấp chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu rồi mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa. Đây rồi, bây giờ già hóa ra lẩm cẩm. Để chỗ này lại hóa ra tìm chỗ khác.

Tôi mỉm cười nói: nhìn anh cứ tưởng anh là một nhà quý tộc Nga thời Sa Hoàng. Tự tay tìm thứ rượu quý cất giữ 100 năm  trong hầm rượu để đãi khách quý.

Tôi chỉ những chồng bao thuốc lá nói: Anh chơi sưu tập những bao thuốc lá à?

Ông gọi những bao thuốc lá ngoại là hàng Đối Lưu.

Ông Đang đổi những bao thuốc lá ngoại cho lũ trẻ mà ông gọi là lực lượng quần chúng, và lũ trẻ bán cho ông những con cóc, con nhái. Đổi ba số lấy ba  con cóc hoặc năm con nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng Đối lưu. Chú hiểu chưa. Mỗi tháng, tôi chỉ cần ba, bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp. Chú ăn thịt cóc của của tôi rồi thấy các thịt khác đều nhạt hoét…

Anh rót rượu ân cần chọn viên chả bỏ vào bát tôi, âu yếm, trân trọng làm tôi ứa nước mắt.

Thấm thoát như thế mà đã 47 năm trôi qua.. Anh còn nhớ như in ngày hôm đó..Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử, 28 tháng tám, phải được tính từng phút một. Năm đó, tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ.. để quyết định ngày ra mắt quốc dân đồng bào… Hôm đó, tôi có việc cần giải quyết gấp nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi nói: anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó. Tôi theo cụ Tố vào trong. Đó là lần đầu tiên, tôi được gặp mặt ông cụ. Ông cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt cụ, giới thiệu: “ Thưa  cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên  họp quyết định cử làm Trưởng ban tổ chức ngày lễ.. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà sau này thần dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi..- như muốn cân nhắc đánh giá người mà cụ quyết định giao trọng trách. Cụ Hồ hỏi tôi với giọng Nghệ rất gần giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe. Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chin. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không? Tôi tính rất nhanh trong đầu, tháng tám có 31 ngày, như vậy là chỉ còn bốn ngày thôi. Tôi suy nghĩ cân nhắc từng phút hình dung ra tất cả những khó khăn mà tôi phải vuợt qua trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng.. Tôi nói với cụ Hồ: Việc cụ giao là quá khó, vì gấp quá rồi.

Cụ Hồ nói ngay, có khó thì mới giao cho chú.

Cụ nói thế khiến tôi bừng bừng khí thế muốn lập lên được những kỳ tích.

Tôi đứng dạy, thưa cụ, vậy con xin nhận nhiệm vụ.. Con xin hứa cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ.

Cụ Hồ dáng bộ rất vui vẻ…

Cụ Hồ đứng dạy bắt tay tôi: thế thì chú ra về bắt tay ngay vào việc..

Nghĩ thế nào, tôi quay lại. Cụ Hồ hỏi, chú còn cần gì nữa? Thưa cụ để hoàn thành trọng trách, xin cụ trao cho con một quyền. Quyền gì chú cứ nói đi. Quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ về người cũng như về của.. Được rồi, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai? Cho phép chú được trả lời theo lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Công việc đầu tiên là tôi thảo  một công văn, anh vừa nói vừa gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương..rồi kể tiếp.. Nội dung như sau: ngày mồng 2 tháng 9, năm 1945 Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào được mời đến hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt gặp ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay tới tất cả báo chí hằng ngày với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo..Người đến chật Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận..Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc đâu có lấy giấy biên nhận.. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc Lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi..xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để chính phủ lâm thời đứng lên ra mắt. Một người chạc ba mươi tuổi, ăn mặc lối nghệ sĩ bước ra nói: Tôi là họa sĩ Lê Văn Đệ, tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài.. Trưa nay, tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét. Tôi bắt tay họa sĩ nói: Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh.. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh việc đóng góp của anh.

Nhưng lễ đài là một công trình kiến trúc tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đặt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hòa công trình với tổng thể. Nói ví dụ nếu như không vững chắc, nó đổ xụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh. Một người trẻ tuổi ăn mặc chỉnh tề từ trong đám đông bước ra tự giới thiệu: Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh cùng hoạt động trong hội Văn Hóa Cứu Quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức . Tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài. Anh Quỳnh trải cuốn giấy can cầm sẵn trên tay trải lên mặt bàn. Đó là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết tỉ mỉ. Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát..

Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét cân nhắc rồi đặt bút ký duyệt bản thiết kế, đóng dấu ban tổ chức. Sau đó,  tôi nói với hai anh Lê Văn Đệ và Ngô Huy Kình là Ban tổ chức quyết giao việc này cho hai anh.(Các anh cần gì, chúng tôi cố lo chạy đầy đủ. Hiện nay, chúng tôi có một kho với bảy ngàn thước len đỏ, cần dùng bao nhiêu, các anh cứ lấy mà dùng).

Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9,  tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh thành công.

Sáng ngày 31/tháng 8, tôi đến Bắc bộ phủ gặp cụ Hồ như đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi bá cáo ngắn gọn, đầy đủ mọi việc có liên quan tới ngày lễ. Cụ nói giọng hết sức nghiêm trọng: “ “Chú phải nhớ ngày 2/9 tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là khép lại  cuộc cách mạng  tháng Tám và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”,

“ Ông Đang ơi, ông Đang ơi, tiếng con nít gọi nheo nhéo  ngoài cửa cắt ngang câu truyện của anh… Tôi nhìn ra thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình đầu cành tre, đầu bị đập nát còn rỉ máu một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao: “ Ông có đổi rắn nước không ạ?

Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước rồi nói. “ Các cháu định đổi như thế nào?. “chúng cháu xin mỗi con rắn hai cái vỏ bao ba số.”.. “ Các cháu đừng giở thói bắt chẹt”. Giọng nói và dáng bộ của anh đã chuyển sang giọng dịch vụ đổi chác. Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi thì ông cũng đành chịu thiệt vậy. Mỗi con một vỏ bao ba số, các cháu có đổi thì đổi, không đổi thì thôi… Hai chú bé ngần ngừ một lúc rồi nói: chúng cháu đổi ạ. Anh quay vào, mở khóa tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc. và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng quan sát cẩn thận hai cái vỏ bao không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói:” Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác.., cái nay bên trong không có tờ giấy vàng. Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại cười. Được ông sẽ đổi cho bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì nhà nước không phải chịu thua thiệt.

Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên như người buôn bán vừa vớ được món hời. “ Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái, tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ.

Tôi ở chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã rên chụp mấy pô ảnh làm kỷ niệm.

Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ mặt hơi buồn, vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rán om mặn chát muối trong đĩa, anh vừa nói: Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên qun đến thế sự, kể từ khi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây..Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước tới nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập”, nhưng không kịp, vì bản chính đã đưa đi in mất rồi. Là Trưởng ban tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấnnhững tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng như chú biết đấy hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo tàng lịch sử không có bản thảo “ Tuyên Ngôn Độc Lập.” Tôi sợ làm không kịp mất, gần 80 chục tuổi rồi mà lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đón tù mù, đúng là đóm thật. Anh im lặng một lúc lâu, nhìn tôi rồi ngẩng lên hỏi tôi. “ Chú có biết điều tôi lo lắng nhất hiện nay là gì không? Không đợi tôi đoán, anh nói luôn: Tôi lo lắng nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được. Ở đây cũng như ở trên Hà Nội. Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột rà máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết phiền đến nhà trường, các thày cô, các cháu học sinh.. Bởi vậy mà hai năm nay, tôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết. Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy.

Tôi theo anh ra, đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa Đông-Bắc lạnh thấu xương tổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một bụi tre gần cuối xóm đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt.” Đấy, dưới chân bụi tre ấy có một chỗ trũng, nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi. Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phiền ai. Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay.”

Trở vào nhà, cả người tôi ớn lạnh, chắc là bị cảm… Tôi dốc hết rượu ra bát, uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi về tặng anh:

Gót ngọc men về thung cũ

 Quỳ dưới chân quê

Trăm sự cúi đầu.
Xin quê rộng lượng

Chút thổ phần bó xéc cuối thôn.

Đôi dòng kết luận

Bạn đọc cần đọc từng câu, từng chữ của Phùng Quán. Mỗi câu, mỗi chữ đều phản ánh tâm tư con người Nguyễn Hữu Đang.

Nó nói lên tất cả, nó gián tiếp “chửi cha” chế độ, trù dập con người, phải ty tiện đổi chác để được con rắn nước, con cóc, con nhái mà bình thường chỉ cần nghe nói đến đã lợm giọng, muốn nôn mửa huống chi khen ngon và lại còn khen lấy khen để là bổ dưởng dưỡng.

Mỗi lời khen của Nguyễn Hữu Đang là một lời tố cáo gián tiếp một chế độ bất nhân, mất nhân tính.

Tuy nhiên, về mặt chính trị khách quan mà nói, các cuộc nổi dạy ở BaLan, Hungary, Tiệp Khắt là một sự nổi dạy của quần chúng.

Không có sự vùng dậy của quần chúng nhân dân, các cuộc nổi dạy ở Đông Âu chắc chắn đi đến thất bại.

Điều đó đau xót cho thấy rằng, phong trào NVGP là một cuộc đối đầu đơn độc giữa nhà cầm quyền và một nhóm trí thức đơn độc mà quần chúng thản nhiên, thờ ơ đứng bên ngoài như một kẻ ngoài cuộc.
Sự thật cho thấy, nhà cầm quyền từng bước một cho thấy họ đàn áp thẳn tay mà hai nạn nhân hàng đầu là bà Thụy An vốn không thuộc nhóm NVGP và người cầm đầu là Nguyễn Hữu Đang.

Và kể từ đó đến ngày hôm nay  2025 đã không còn một cơ hội đứng lên tranh đấu đòi tự do dân chủ.

Một số cá nhân tranh đầu lẻ loi nhận những án tù trước sự thờ ơ, thản nhiên của trong số hơn 106 triệu người dân như trường hợp Trần Huỳnh Duy Thức hiện nay.


 

Cái chết của cô giáo trẻ…- Thái Hạo

Công Tú Nguyễn –  Chuyện tuổi Xế Chiều

Thái Hạo

  “Buồn quá anh Hạo ạ, có cô giáo trẻ sinh năm 2003 mới tự tử hôm qua, dạy ở trường tư thục gần chỗ tôi ở, nghe đâu do áp lực từ công việc, bạn ấy còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều, kĩ năng chưa hoàn thiện, sức chịu đựng có giới hạn,… Bạn ấy đang cần nhiều hơn sự hỗ trợ từ đồng nghiệp, từ P.H, từ nhà trường… Sau sự việc này những người nên hỗ trợ bạn ấy liệu có “giật mình”? Thật buồn khi phải chia sẻ với anh trong những ngày này, những ngày tháng 11. Thương bạn ấy, và gia đình bạn ấy”.

Đó là một trong nhiều tin nhắn tôi nhận được từ 2 hôm nay về vụ việc đau lòng này. Tìm hiểu thì biết cô giáo tên là Tr. T. H. G, đang dạy lớp 1 ở trường Tiểu học – THCS – THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quảng Ninh). Đây cũng là một trường tư thục.

Cô giáo Tr. T. H. G sinh năm 2003, tức năm nay mới 22 tuổi, vừa mới ra trường và bước vào nghề được vài tháng (?).

Đọc “thư tuyệt mệnh” cô để lại cho bố mẹ, rồi nhìn hình – một cô giáo trẻ măng, xinh đẹp, buồn và thương tiếc. Trong thư, cô không nói cụ thể và chi tiết về lý do, nhưng cũng phần nào hé lộ: “con không chịu được áp lực này, mọi thứ dường như đều là lỗi của con”, “mỗi ngày con đều kiệt sức vì mệt mỏi”, “nhưng cái khó khăn này con cảm thấy thật vô nghĩa”…

Cô đã phải chịu những “áp lực” gì, từ ai, cụ thể ra sao? “Khó khăn này” là khó khăn gì, đến từ đâu, tính chất ra sao? “Lỗi” mà cô nhắc đến là lỗi gì, ai kết luận/quy kết chúng cho cô? Chúng có phải là nguyên nhân quyết định dẫn đến việc cô tự tử hay không?

Theo tôi, dù cô giáo đã tự mình làm “điều dại dột”, nhưng với những điểm còn tù mù và sự bất thường này, các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ninh cần vào cuộc điều tra để minh bạch thông tin và có kết luận về những yếu tố liên quan đến quyết định tự tử của cô, Bộ Giáo dục cũng cần phải có tiếng nói trước vụ việc đau thương này. Để nếu vì cô đã phải chịu những sự bất công/phân biệt đối xử hoặc bị những trù dập nào đó mà phải tìm đến cái chết thì trả lại chút công bằng muộn màng cho cô và gia đình cô.

Việc điều tra này là cần thiết còn vì: nếu cái chết của cô không liên quan gì đến những sai phạm hoặc “vấn đề” trong trường Tiểu học – THCS – THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm thì cũng xóa đi những dư luận đang âm thầm lan rộng có thể làm ảnh hưởng đến uy tín và quyền lợi của nhà trường. Đồng thời, nếu cái chết của cô là có liên quan thì phải làm rõ nguyên nhân, xác định trách nhiệm của tổ chức và các cá nhân liên quan.

Điều quan trọng là nếu sau điều tra mà thấy môi trường giáo dục này đang thực sự “có vấn đề” thì cần phải có giải pháp cả trước mắt và lâu dài để sửa chữa kịp thời, mang lại những thay đổi bền vững, tránh việc nuôi dưỡng bất công và những tai họa tiềm tàng phía trước – như vừa xảy ra với cô giáo Tr. T. H. G.

Nếu cái chết của cô giáo trẻ là vì “áp lực công việc” thì ngành giáo dục và nhà nước nói chung phải có trách nhiệm rà soát, kiểm tra và điều chỉnh mang tính hệ thống. Vì đây không phải lần đầu tiên một giáo viên tự tử vì “áp lực công việc”.

Cuối cùng, xin được chia sẻ nỗi đau vô hạn này cùng gia đình cô giáo. Mong gia đình sớm vượt qua để cùng làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan, để cô giáo được thanh thản trong một đời sống khác, nơi có lòng yêu thương, sự ấm áp và niềm hạnh phúc hơn nhiều hơn…

Thái Hạo


 

Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

13/11/2025

Dân oan khắp nơi vì những chính sách xã hội bất cập

Tôi thấy nhiều người bình luận:

“Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao? Ngày xưa đường đất, giờ đường bê tông; ngày xưa nhà tranh, giờ nhà tầng. Sao chị không thấy sự phát triển đó để khen?”

Nghe rất ngu ngơ.

Bởi vì một đứa trẻ, dù không ai dạy, nó cũng sẽ lớn.

Bạn không thể tự hào rằng “ngày xưa tôi cao 80cm, giờ tôi 1m70” — vì đó là quy luật sinh học, không phải thành tựu.

Cũng vậy, một quốc gia sau hàng chục năm hòa bình mà có đường bê tông, có nhà cao tầng, không phải là điều để hãnh diện.

Đó là điều tự nhiên phải có, nếu con người còn làm việc và thời gian còn trôi đi.

Cái đáng nói là: khi bạn lớn lên, bạn trở thành người tử tế hơn, hay chỉ là một thân xác to hơn?

Một đất nước thật sự phát triển không đo bằng số tầng cao ốc, mà bằng mức độ tự do, công bằng và phẩm giá của người dân.

Bê tông có thể che mưa, nhưng không thể che sự bất công.

Đường nhựa có thể chạy nhanh, nhưng không thể chạy trốn khỏi nỗi sợ nói thật.

Và GDP có thể tăng, nhưng nếu niềm tin của con người giảm, thì đó không phải là phát triển – mà là phình to trong ảo tưởng.

Nếu muốn tự hào, hãy so với những nước cùng xuất phát điểm:

Hàn Quốc sau chiến tranh nghèo đói, 60 năm sau trở thành nền kinh tế công nghệ.

Nhật Bản từ đống tro tàn, vươn lên thành quốc gia văn minh bậc nhất thế giới.

Singapore không có tài nguyên, nhưng xây được nhà nước liêm chính, dân được tôn trọng.

Còn Việt Nam?

Sau gần nửa thế kỷ, người dân vẫn phải “xin” từng giấy tờ, “chạy” từng thủ tục, “đóng” từng khoản không tên.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin hỏi: phát triển cho ai?

Cái đáng sợ nhất không phải là nghèo, mà là tự mãn trong nghèo trí tuệ.

Người ta tưởng rằng bê tông là biểu tượng của văn minh, mà quên rằng văn minh bắt đầu từ cách con người đối xử với nhau.

Một quốc gia có thể có đường cao tốc, nhưng nếu dân phải cúi đầu trước cửa quyền, thì đó chỉ là một xã hội được tráng xi măng lên sự sợ hãi.

Đừng khoe rằng đất nước đã khác xưa, khi điều duy nhất khác là lớp sơn ngoài tường.

Hãy hỏi xem:

– Con người có được tôn trọng hơn không?

– Tiếng nói của dân có được lắng nghe không?

– Và luật pháp có còn phục vụ công lý hay phục vụ quyền lực?

Bởi vì, một đất nước không thể gọi là phát triển, nếu người dân vẫn phải xin để được sống đúng luật.

Khi người dân phải nuôi cả nhà nước – đó không phải là phát triển.

Ở Việt Nam, từng đứa trẻ vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường đã phải đóng tiền để “xây dựng đất nước”, “ủng hộ đồng bào thiên tai”, “xây trường học”.

Những em bé mới mười tuổi đã bắt đầu gánh nghĩa vụ “cứu người lớn” — trong khi người lớn ấy là những người đang được trả lương để quản lý quốc gia.

Mỗi khi bão lũ xảy ra, thay vì có quỹ dự phòng quốc gia được vận hành minh bạch, thì chính phủ lại ngửa tay xin tiền dân.

Từng người nông dân, công nhân, bà bán hàng rong, chủ tiệm tạp hoá, thậm chí từng lớp học, từng doanh nghiệp nhỏ… đều phải “đóng góp cứu trợ”.

Và rồi có người vẫn nói:

“Đất nước mình đã thay đổi nhiều rồi mà.”

Thay đổi ư? Khi người dân vẫn phải trả tiền cho những thứ lẽ ra thuộc về phúc lợi

Một đất nước đứng thứ 5 về quy mô kinh tế ở Đông Nam Á, nhưng trẻ em vẫn không được học miễn phí, bệnh nhân vẫn phải “đặt phong bì” để được nằm viện, và người già vẫn phải sống nhờ con cái, thay vì được bảo đảm bằng hệ thống an sinh.

Nếu đó gọi là “thay đổi”, thì đó là sự thay đổi trên giấy, chứ không phải trong phẩm giá con người.

Ở các quốc gia phát triển, người dân nộp thuế để được bảo vệ.

Còn ở Việt Nam, người dân nộp thuế, rồi lại bị kêu gọi đóng góp để vá lỗi của chính bộ máy.

Người dân trả tiền cho trường, rồi trường vẫn xuống cấp.

Trả tiền cho bệnh viện, rồi vẫn phải mang thuốc từ nhà.

Trả tiền cho quỹ thiên tai, rồi khi lũ về, người dân vẫn tự bơi trong nước mắt của mình.

Đó không phải là “phát triển” – mà là một vòng luẩn quẩn của sự bóc lột hợp pháp hoá bằng khẩu hiệu.

Còn những “điều tích cực” mà các bạn nói là gì?

Các bạn bảo: “Hãy nhìn vào những điều tích cực chứ.”

Vậy xin chỉ cho tôi: điều tích cực nào khiến người Việt hôm nay sống hạnh phúc hơn, công bằng hơn, hay ít sợ hãi hơn?

GDP đó có cao hơn những quốc gia từng thua xa Việt Nam ba mươi năm trước hay không?

Hãy thử nhìn quanh: bao nhiêu người lao động đang sống lay lắt với đồng lương không đủ trang trải.

Những con đường bê tông mà các bạn tự hào —chính là nơi từng đứa trẻ phải đạp xe sát bên container, xe khách, xe tải, vì không có nổi một làn đường an toàn cho người dân.

Đường có thể phẳng, nhưng sinh mạng con người lại gập ghềnh hơn bao giờ hết.

Ngay cả trong bệnh viện – nơi lẽ ra là chỗ cuối cùng còn lại của nhân đạo –

đã bao nhiêu người phải chết trước cánh cửa cấp cứu, chỉ vì không kịp nộp viện phí, chỉ vì y tá, bác sĩ còn bận “hỏi giấy tờ”?

Đó là cái mà bạn gọi là “phát triển” sao?

Một xã hội nơi mạng người rẻ hơn một chữ ký, nơi sự sống phải xếp hàng chờ được phép cứu, thì mọi chỉ số GDP đều vô nghĩa.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin lỗi — đó không phải là tiến bộ, mà là sự thích nghi của người dân với bất công.

Một quốc gia không thể được gọi là “phát triển” khi trẻ em phải đóng góp để cứu người lớn,

khi người dân phải quyên góp cho những sai lầm của chính quyền, và khi người nộp thuế phải nộp thêm lần nữa để được đối xử như con người.

Thay đổi thật sự không nằm ở màu của bê tông, mà ở màu của lương tri.

Và chừng nào người dân còn phải đi xin công lý, thì mọi con đường lát nhựa chỉ là lớp sơn mỏng trên một nền đất mục.

Hong Thai Hoang


 

Trân Văn/ NV: Đảng vi quý, xã tắc vi thứ chi, dân vi khinh!

Tiếng Dân News

Nhiều cơ quan truyền thông ở Việt Nam vừa lược thuật cảnh báo của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank – WB) rằng đến 2050, GDP của Việt Nam sẽ giảm ít nhất 12.5% nếu không có những biện pháp hữu hiệu để kinh tế-xã hội Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong cảnh báo vừa kể, WB tiếp tục nhắc lại viễn cảnh vốn đã được mô tả từ lâu: Một nửa diện tích của đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ chìm trong nước, tước đi sinh kế của hàng triệu người, gia tăng nguy hiểm cho an ninh lương thực quốc gia.

Tương lai Việt Nam không chỉ có sự u ám riêng trong lĩnh vực nông nghiệp. Biến đổi khí hậu khiến nước biển dâng cao còn đe dọa sinh hoạt, sinh kế của dân cư các khu vực duyên hải, khoảng 70% dân số và 433 khu công nghiệp tạo ra 90% hàng hóa xuất cảng sẽ bị ngập.

Ngoài tác động nguy hiểm của nước biển dâng cao, nhiệt độ tăng cao cũng sẽ ảnh hưởng đến nhiều nhà máy, xí nghiệp. Khoảng 1.3 triệu lao động, trong đó 70% là phụ nữ sẽ phải gánh chịu hậu quả của yếu tố này.

Mưa to, bão lớn vì biến đổi khí hậu còn gây ngập lụt. WB ước đoán, đến năm 2030, tỷ lệ hệ thống giao thông bị hư hỏng do ngập lụt sẽ tăng khoảng 40%. Nguy cơ các cảng biển quan trọng ở TPHCM, Hải Phòng bị ngập sẽ tăng gấp năm lần so với hiện nay, gây gián đoạn cho việc vận chuyển từ 68,000 tấn đến 106,000 tấn hàng hóa/ngày, thiệt hại sẽ vào khoảng $89 triệu/ngày.

Để dễ hình dung thiệt hại, WB dẫn thiệt hại mà trận bão Yagi năm 2024 từng khiến cảng Hải Phòng mất $955 triệu làm ví dụ minh họa.

Những yếu tố như nhiệt độ cực đoan, cung cấp điện gián đoạn, mưa lũ cực đoan,… đã, đang và sẽ còn làm năng suất lao động của Việt Nam giảm, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu bị bào mòn.

Từ sự yếu kém của hạ tầng và bảo trì, WB lưu ý, thiệt hại sẽ lan truyền như hiệu ứng domino – hệ thống giao thông tê liệt vì tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm mạng lưới cung ứng – phân phối (logistics) của Việt Nam tê liệt. Ứng phó chậm trễ chừng nào thì nội lực sẽ suy giảm chừng đó.

Do chậm chạp trong ứng phó, đến 2050, có thể sẽ có từ 100,000 đến 1.1 triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo. Nguy cơ bần cùng vì không đủ điều kiện tự bảo vệ trước thiên tai ở nhóm lao động kỹ năng và thu nhập thấp, cũng như các gia đình sống ở những khu vực như ven biển, đồng bằng, nông thôn được dự đoán là “đặc biệt cao.” Nếu không sớm đầu tư vào năng lượng sạch, nâng cao khả năng thích ứng của nông nghiệp, khả năng chống chịu của đô thị, thành tựu tích lũy từ tăng trưởng sẽ bị biến đổi khí hậu quét sạch.

Theo WB, tác động của biến đổi khí hậu có thể làm tăng trưởng giảm đều đặn 0.5 %/năm. Do vậy, nguồn thu cho ngân sách sẽ giảm trong khi chi tiêu sẽ tăng để khắc phục hậu quả, vào năm 2050, tài khóa có thể thâm hụt thêm 0.8% GDP…

***

Trong sáu tháng vừa qua, dân chúng Việt Nam choáng váng vì thiên tai dồn dập, hai cụm từ “bất thường” và “vượt mức lịch sử” liên tục được lập đi, lập lại. Thiên tai đổ đến dưới đủ mọi dạng: Hạn hán, nước mặn xâm nhập, dông lốc và đặc biệt là mưa to, bão lớn, sạt lở.

Riêng tác động của mưa, bão đã vắt kiệt nội lực của quốc gia lẫn nhiều cá nhân, gia đình. Ở miền Bắc, thiệt hại do tác động của mưa, bão khiến hàng trăm ngàn gia đình ở Hà Nội, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lào Cai, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Ninh,… khánh kiệt.

Miền Trung cũng thế. Người Việt bất lực và xót xa nhìn những Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng,… bị thiên tai tàn phá.

Sau những Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang,… với hàng trăm ngàn gia đình phá sản do thiếu nước ngọt mất trắng hoa lợi từ lúa, rau trái, tôm cá, tới lượt Cà Mau rúng động vì bờ biển sạt lở trên diện rộng, đất đai sụt lún,…

Thiệt hại do đủ loại thiên tai không còn được tính bằng ngàn tỷ mà là hàng chục ngàn tỷ, chưa kể thiệt hại về sinh mạng lên tới vài trăm. Tuy nhiên đó là những tổn thất có thể đo, đếm từ những đổ nát công khai, nếu có thể đo đếm thiệt hại của từng cá nhân, gia đình, đơn vị tính chắc chắn phải là trăm ngàn tỷ. Song đó chỉ là thiệt hại trước mắt. Tác động lâu dài của thiên tai khi nông thôn, đô thị, hạ tầng bị tàn phá, cũng như cá nhân và gia đình kiệt quệ đối với sự ổn định và cơ hội phát triển kinh tế-xã hội dẫu rất lớn nhưng không dễ ước đoán.

Đáng ngại là tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam đã được cảnh báo từ thập niên 1990. Đến 2009, chính quyền Việt Nam công bố kịch bản đầu tiên để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao nhưng thực tế cho thấy họ chưa bao giờ xem điều chỉnh để thích ứng là chuyện sống còn của quốc gia, dân tộc. Vì không tính đến khả năng chống chịu, quy hoạch và nỗ lực phát triển chỉ tạo thêm những khu vực bị thiệt hại nặng nề do dễ ngập hơn, mức nước lụt cao hơn, rút chậm hơn, đồng bằng lún sụt, ven biển sạt lở nghiêm trọng hơn!

Trong sáu tháng vừa qua, dẫu thiên tai là chuyện nhãn tiền nhưng dường như cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền chỉ dồn tâm lực, trí lực và sức lực vào những thứ như “sắp xếp lại giang sơn” và “kiện toàn nhân sự” bằng kỷ luật, điều chuyển, chỉ định…

***

Cách nay khoảng 2,500 năm, Mạnh Tử – một triết gia Trung Quốc – cho rằng “Dân vi quý, xã tắc vi thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý nhất, sau đó là xã tắc tức quốc gia, còn vua là nhẹ nhất). Cha ông người Việt cũng nghĩ như vậy nên nhiều triều đại (Lý, Trần, Lê) đề cao tư tưởng “ý dân là ý trời.” Không phải tự nhiên mà Lý Thái Tổ khẳng định “Trên thuận thiên thời, dưới theo ý dân” khi quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long (Hà Nội), hay Nguyễn Trãi nhấn mạnh “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” khi viết Bình Ngô Đại Cáo.

Quan sát những diễn biến tại Việt Nam, so tác động càng ngày càng đáng ngại của thiên tai đến kinh tế-xã hội với trọng tâm hoạt động của chính quyền Việt Nam ắt sẽ thấy, “lấy dân làm gốc”chỉ là khẩu hiệu. Thực tế cho thấy “đảng vi quý” còn “xã tắc vi thứ chi” và “dân vi khinh.” [kn]

https://baotiengdan.com/…/dang-vi-quy-xa-tac-vi-thu…/

Hình ảnh ngập lụt ở Huế, ngày 3 Tháng Mười Một, 2025. (Hình minh họa: Thanh Hue/Getty Images)


 

Nạn nhân vụ ngộ độc bánh mì ở Sài Gòn lên đến 270 người

Ba’o Nguoi-Viet

November 10, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Sau ba ngày, số bệnh nhân bị ngộ độc thực phẩm sau khi ăn bánh mì gà xé mua tại hệ thống hai tiệm bánh mì cóc Bích ở Sài Gòn không ngừng tiếp tục tăng thêm.

Theo phúc trình của Phòng Nghiệp Vụ Y thuộc Sở Y Tế TP.HCM và ghi nhận của báo Dân Trí tại các bệnh viện, tính đến chiều 10 Tháng Mười Một, đã có 14 bệnh viện tiếp nhận 270 bệnh nhân bị ngộ độc sau khi ăn bánh mì gà xé Bích mua tại hai tiệm nằm trên đường Nguyễn Thái Sơn, phường Hạnh Thông, và Lê Quang Định, phường Bình Lợi Trung, Sài Gòn.

Khoa Cấp Cứu, bệnh viện Quân Y 175 tiếp tục ghi nhận hàng chục bệnh nhân nhập viện sau khi ăn bánh mì Bích. (Hình: NT/Dân Trí)

Cụ thể, bệnh viện Quân Y 175 hơn 175 ca; bệnh viện Đa Khoa Tâm Anh 26 ca; bệnh viện Nhân Dân Gia Định 52 ca; bệnh viện Quốc Tế Becamex chín ca; bệnh viện Đa Khoa Trung Mỹ Tây bảy ca; bệnh viện Nhi Đồng 2 chữa trị hai ca…

Số bệnh nhân trên lần lượt nhập viện từ hôm 5 Tháng Mười Một đến nay, do bị tình trạng nhiễm trùng ruột phải nhập viện theo dõi. Họ có chung triệu chứng đau bụng, tiêu chảy, nôn, sốt… sau khi ăn bánh mì cóc Bích, được giới thiệu là “siêu phẩm chất” trên các trang mạng xã hội như TikTok, Facebook, YouTube…

Bác Sĩ Huỳnh Văn Mười Một, phó Khoa Cấp Cứu, bệnh viện Tâm Anh, cho biết: “Đây là các biểu hiện thường gặp trong ngộ độc thực phẩm, niêm mạc dạ dày và ruột bị vi khuẩn tấn công gây đau bụng quặn, nôn ói, tiêu chảy, sốt…”

Sở Y Tế TP.HCM đã báo cáo Ủy Ban Nhân Dân thành phố và Bộ Y Tế về vụ ngộ độc tập thể này, đồng thời chỉ đạo các bệnh viện điều trị bệnh nhân theo phác đồ ngộ độc thực phẩm.

Nói với báo Dân Trí, bà Phạm Khánh Phong Lan, giám đốc Sở An Toàn Thực Phẩm TP.HCM, cho biết vì mới chỉ tìm thấy vi khuẩn Salmonella trên một bệnh nhân nên chưa thể kết luận đây là tác nhân gây ra ngộ độc thực phẩm hàng loạt.

Tiệm bánh mì Bích trên đường Nguyễn Thái Sơn, phường Hạnh Thông, hiện đã đóng cửa. (Hình: Hải Yến/Người Lao Động)

“Sở An Toàn Thực Phẩm TP.HCM phối hợp lực lượng hữu trách thành lập đoàn điều tra. Hai cơ sở bán bánh mì Bích đã tạm ngừng hoạt động, toàn bộ thực phẩm và nguyên liệu bị niêm phong, lấy mẫu kiểm nghiệm. Đoàn kiểm tra đang mở rộng xác minh các trường hợp liên quan tại nhiều bệnh viện để xác định nguyên nhân, xử lý theo quy định,” bà Lan nói.

Việc ngộ độc tập thể sau khi ăn bánh mì thường hay xảy ra ở Việt Nam.

Trước đó, báo Tuổi Trẻ hôm 30 Tháng Mười Một, 2024, loan tin sau khi ăn bánh mì kẹp thịt của tiệm bánh mì, xôi Cô Ba Bến Đình ở thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trước đây, 379 người phải nhập viện cấp cứu do bị ngộ độc, trong đó ông TVR, 71 tuổi, ở phường 11, thành phố Vũng Tàu, đã không qua khỏi do liên tục bị nôn ói và tiêu chảy dù được bệnh viện Đa Khoa Tỉnh Bà Rịa tích cực cứu chữa. (Tr.N) [kn]


 

Chuyện 3 người ở Lý Sơn đúng là khó tin

Những câu chuyện Nhân Văn – Hùng Vương 

Khi sóng đánh lật úp thuyền thúng:

  1. Khi lật thúng, Đồn Biên phòng và địa phương huy động tàu ra cứu nhưng bất thành vì sóng lớn
  2. Bão số 13 với sức mạnh được đánh giá là có thể “thổi bay 1 chiếc xe container” theo lời của Tuệ Zero hay ngồi thiền.
  3. Chỉ 1 người còn ôm được thành thúng, 2 người còn lại trôi mất dấu

Ở đất liền, nhà cửa còn bị gió xé toang, vậy mà làm sao cả 3 người họ có thể sống sót thần kì ngoài ngoài biển khơi giữa những cơn sóng dữ ngay tâm bão?

“Tôi ngửa mặt lên trời uống nước mưa”, ông Quang kể và cho biết lúc biển động mạnh, cua cá nhỏ bị sóng đánh trồi lên mặt nước, ông cố vớt đưa vào miệng để lấy sức cầm cự.

Nhiều lần thấy tàu đi qua, ông Quang bơi, la hét, nhưng tiếng người bị nuốt chửng giữa sóng

Đến khi tàu Hải Nam 39 xuất hiện, ông nhìn vào hướng đi của tàu và tìm cách bơi đón đầu theo hướng tiếp cận mũi mới thành công, được cứu.

Bản thân mình từng thả nổi trên biển nhưng là kiểu thư giản lúc sóng yên biển lặng, chứ có tý gió, sóng nó dập 1 chút là say mèm.

Trong khi họ lênh đênh 42 giờ trên biển trong bão Kalmaegi, phải uống nước mưa, ăn cua sống để lấy sức đến lúc được cứu.

Tôi nghĩ chỉ có dân biển với kinh nghiệm, kỹ năng bơi lội, sức khỏe, thể lực, ý chí và khát khao được sống mới có thể sinh tồn trong hoàn cảnh như vậy.

Câu chuyện như này tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long Ký hư cấu của Kim Dung.

Nhưng ở Lý Sơn, ba con người nhỏ bé ấy đã viết nên một trang thật


 

NGỌT NGÀO HAI TIẾNG “DẠ –THƯA”

Xuyên Sơn

https://youtu.be/Zuad5rbSPqI

Khi xеm lại ᴄáᴄ ρhim nhựa ᴄủa Sài Gòn làm tɾướᴄ năm 75, hᴏặᴄ ɡần hơn,

nếᴜ xеm ᴄáᴄ ᴄô, ᴄhú ᴄa sĩ ᴄủa thế hệ tɾướᴄ 75 tɾả lời ρhỏnɡ νấn, ᴄáᴄ bạn dễ dànɡ nhận thấy ɾằnɡ khônɡ baᴏ ɡiờ thiếᴜ νắnɡ tiếnɡ dạ tiếnɡ thưa tɾᴏnɡ đối đáρ νới nhaᴜ, dù đó là nói ᴄhᴜyện νới nɡười lớn tᴜổi hơn hᴏặᴄ nhỏ tᴜổi hơn thì đềᴜ như νậy.

Hᴏànɡ Oanh – ᴄô ᴄa sĩ – ᴄựᴜ nữ sinh Gia Lᴏnɡ qᴜê ở Mỹ Thᴏ, khi tɾả lời ρhỏnɡ νấn ᴄủa ᴄáᴄ đài ở hải nɡᴏại, νẫn xưnɡ là “dạ thưa ᴄhị”, “dạ ᴄhưa anh”…dù nɡười đối diện ᴄhỉ đánɡ tᴜổi ᴄᴏn ᴄháᴜ.

Điềᴜ đó khônɡ ρhải ᴄhỉ ᴄó tɾᴏnɡ ρhim ảnh hay tɾᴏnɡ ᴄáᴄ đᴏạn ρhỏnɡ νấn, đó là một nét νăn hóa nói ᴄhᴜyện thônɡ thườnɡ ᴄủa Sài Gòn xưa, νà ít nhiềᴜ νẫn ᴄòn ᴄhᴏ đến nay đối νới nhữnɡ nɡười Sài Gòn ɡốᴄ.

Nɡười Sài Gòn thân tình, lịᴄh sự, khônɡ tɾịᴄh thượnɡ, lᴜôn nói ᴄhᴜyện một ᴄáᴄh hòa nhã νà “nɡọt” như νậy khônɡ biết từ baᴏ ɡiờ, khônɡ ρhải nɡọt thеᴏ kiểᴜ khеn lấy lònɡ hay xã ɡiaᴏ.

Mà là nhữnɡ tiếnɡ dạ, thưa, ᴄám ơn, xin lỗi… đã nằm sẵn tɾᴏnɡ tim νà nằm nɡay ᴄửa miệnɡ.

Nhữnɡ tiếnɡ dạ thưa đó, nɡày nay ᴄó lẽ tɾở thành thứ qᴜý hiếm. Xưa ᴄó mà nay tự nhiên biến mất, ᴄó ρhải là dᴏ ᴄᴜộᴄ sốnɡ hiện đại qᴜá νội νànɡ, nɡười ta ᴄắt bớt ᴄhữ nɡhĩa đi để nói ᴄhᴏ nhanh, ρhù hợρ νới ᴄhủ nɡhĩa yêᴜ ᴄᴜồnɡ sốnɡ νội,

hay là dᴏ ɡiá tɾị ᴄủa νật ᴄhất đã tỉ lệ nɡhịᴄh νới ɡiá tɾị ᴄủa ᴄᴏn nɡười?

Nhắᴄ νề tiếnɡ dạ, tiếnɡ thưa là tôi lại nhớ đến ᴄụ Bùi Giánɡ khi đưa 2 ᴄhữ này νô bài thơ nɡắn ᴄủa ônɡ νề Hᴜế như saᴜ:

Cô nươnɡ mắt nɡọᴄ ɾănɡ nɡà 

Nhìn bồ tát ɡọi ɾằnɡ là: dạ thưa

– Dạ thưa ρhố Hᴜế bây ɡiờ

Vẫn ᴄòn núi Nɡự bên bờ sônɡ Hươnɡ

Dạ thưa ᴄủa ᴄᴏn ɡái Hᴜế nó kháᴄ νùnɡ miền kháᴄ, ɾất nhỏ nhẹ νà nɡọt như mía lùi.

Sốnɡ ở ᴄᴜộᴄ đời ᴄhưa lâᴜ lắm, nhưnɡ ᴄũnɡ νừa đủ để tôi nhận ɾa một điềᴜ ɾằnɡ nɡười ta ᴄó thành ᴄônɡ hay khônɡ, qᴜá nửa là tùy thᴜộᴄ νàᴏ thái độ ᴄủa họ khi ɡiaᴏ tiếρ νới mọi nɡười, đó là nhữnɡ tiếnɡ dạ, thưa… làm mát lònɡ nɡười kháᴄ.

Đó khônɡ ρhải là sự xᴜn xᴏе lấy lònɡ, mà đó là νăn hóa ɡiaᴏ tiếρ thônɡ thườnɡ ɡiữa nhữnɡ ᴄᴏn nɡười νăn minh νà lịᴄh sự.

Mà thú thật là tôi thì ᴄhưa thấy nɡười nàᴏ ᴄó sự nɡhiệρ thành ᴄônɡ (tự thân) mà khônɡ νăn minh, lịᴄh sự ᴄả.

Xin ᴄhéρ ɾa đây ᴄâᴜ ᴄhᴜyện đượᴄ kể tɾên mạnɡ, khônɡ biết là ᴄó thật là sánɡ táᴄ, nhưnɡ đọᴄ xᴏnɡ nɡẫm thì thấy nó ɾất đời thườnɡ νà qᴜеn thᴜộᴄ tɾᴏnɡ ᴄᴜộᴄ sốnɡ:

*** Vàᴏ một bᴜổi ᴄhiềᴜ mᴜộn, saᴜ khi mᴜa ít đồ từ ᴄhợ bướᴄ ɾa, tᴜi thấy một bà ᴄụ ᴄhừnɡ bảy mươi.

Bà ăn mặᴄ đẹρ đẽ thẳnɡ thớm, tóᴄ bới ᴄaᴏ, ɡươnɡ mặt tɾanɡ điểm nhẹ, bày ᴄhiếᴄ bàn xếρ ɾa saᴜ đᴜôi xе mình, đặt mấy nải ᴄhᴜối xanh tɾên đó.

Nɡanɡ qᴜa, bà ᴄười thật tươi νới tᴜi:

– Cậᴜ ơi, mᴜa ɡiùm tᴜi nải ᴄhᴜối đi ᴄậᴜ, ᴄhᴜối xiêm đеn nhà tɾồnɡ nɡᴏn lắm.

Cái thằnɡ ᴄhẳnɡ mấy khi ăn ᴄhᴜối định ᴄám ơn ɾồi lướt qᴜa nhưnɡ đành dừnɡ lại.

Có lẽ bị nắm níᴜ bởi ᴄái ɡiọnɡ nói qᴜá ᴄhừnɡ nɡọt.

– Baᴏ nhiêᴜ một nải νậy bà ơi?

– Dạ thưa ᴄậᴜ, năm đồnɡ.

Cái này là ᴄhᴜối xiêm đеn nên nó mắᴄ hơn ᴄhᴜối thườnɡ một ᴄhút.

– Vậy bà ᴄhᴏ ᴄᴏn hai nải nhе.

– Cậᴜ ơi, sắρ tối ɾồi, hay là ᴄậᴜ lấy ɡiúρ bà ɡià bốn nải này lᴜôn đi.

Ăn hổnɡ hết mình bỏ tủ lạnh hᴏặᴄ nấᴜ ᴄhè hay làm ᴄhᴜối ᴄhiên ᴄũnɡ nɡᴏn. Chưn ᴄẳnɡ tᴜi bị khớρ, nɡồi từ ᴄhiềᴜ ɡiờ bán đượᴄ ᴄó một nải.

Tối ɾồi, ᴄậᴜ lấy hết, tᴜi tính 18 đồnɡ thôi.

– Dạ đượᴄ ɾồi, bà lấy hết ᴄhᴏ ᴄᴏn đi.

Bà ᴄẩn thận ɡói mỗi nải νô từnɡ bịᴄh ɾiênɡ, ᴄòn dặn dò thêm ᴄáᴄh ρhân biệt ᴄhᴜối xiêm đеn νà xiêm thườnɡ.

Thằnɡ tᴜi ᴄứ đứnɡ xớ ɾớ hᴏài, hỏi thăm đủ thứ.

Là để đượᴄ nɡhе ᴄái ɡiọnɡ nói nɡọt mềm, đượᴄ nɡhе ᴄái ᴄáᴄh nói ᴄủa một nɡười Sài Gòn, khi tɾướᴄ mỗi ᴄâᴜ tɾả lời, bà đềᴜ “dạ thưa ᴄậᴜ”.

Thấy đâᴜ đó bónɡ dánɡ bà nội bà Tư, thấy mình như đanɡ đứnɡ ɡiữa ᴄái νùnɡ đất đã từnɡ đượᴄ lớn lên, νới nhữnɡ ᴄᴏn nɡười hiền hᴏà, khiêm nhườnɡ νà qᴜá đỗi nɡọt nɡàᴏ tɾᴏnɡ ứnɡ xử.

Tự nhiên thấy qᴜê hươnɡ ở nɡay tɾân ᴄhỗ này, nɡọt nɡàᴏ νô ρhươnɡ.

Bà Tư, bà nội hay bà bán ᴄhᴜối ᴄủa tᴜi, ᴄhẳnɡ ai đượᴄ họᴄ ᴄaᴏ nhưnɡ ᴄái νăn hᴏá ứnɡ xử ᴄủa họ saᴏ mà νăn minh mà dễ thươnɡ qᴜá tɾời qᴜá đất. ***

nhacxua.vn4

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=4441395305913788&id=100001300874988


 

BÃO SỐ 13 KALMAEGI KHIẾN ÍT NHẤT 5 NGƯỜI CHẾT, 6 NGƯỜI BỊ THƯƠNG

BBC News Tiếng Việt 

 

(Photo by Nhac NGUYEN / AFP) (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)
(Photo by NHAC NGUYEN / AFP) (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

Theo báo cáo của Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vào sáng sớm 7/11, cơn bão Kalmaegi đã khiến 5 người thiệt mạng, gồm 3 người ở tỉnh Đắk Lắk và 2 người ở Gia Lai 2 người, cùng với 6 người khác bị thương.

Thống kê ban đầu cho thấy cơn bão mà Việt Nam gọi là bão số 13 này đã giật sập 52 căn nhà, gồm Gia Lai 43 nhà và Đắk Lắk 9 nhà), đồng thời làm hư hại, tốc mái 2.593 căn nhà khác.

Cơn bão cũng đã đánh chìm 9 con tàu – Đắk Lắk và Gia Lai mỗi tỉnh 4 tàu, và một tàu còn lại ở Quảng Ngãi.

Hiện tại, bão Kalmaegi đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và tiếp tục suy yếu thành một vùng áp thấp trên khu vực Hạ Lào.

Theo dự báo, sáng 7/11, khu vực từ Nam Quảng Trị đến Đà Nẵng và cao nguyên Trung Bộ sẽ có mưa với lượng phổ biến 20–50mm, một số nơi có thể vượt 80mm.

Từ ngày 7 đến hết 8/11, khu vực từ Thanh Hóa đến Bắc Quảng Trị dự kiến xuất hiện mưa lớn với tổng lượng phổ biến 50–150mm, cục bộ có nơi trên 200mm.

Bão số 13 Kalmaegi là cơn bão mạnh nhất châu Á từ đầu năm đến nay, khiến ít nhất 140 người thiệt mạng tại Philippines trước khi đổ bộ vào Việt Nam.

Getty Images

#BBCNewsTiengViet #baoso13 #Kalmaegi #thientai


 

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

13/11/2010

  • Nguyễn Hoàng

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

Trong Thay Lời Tựa cho cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1992, ông Vương Hồng Sển cho biết ông có tánh ham mê đọc sách từ nhỏ. Ông gọi “sách là bạn cố tri trung thành”, ông coi cuốn sách là của riêng, “y như vợ nhà, và nếu thuở nay không đời nào ai cho mượn vợ, thì xin các bạn hiểu giùm vì sao tôi ít cho mượn sách.” Bởi vì chính ông, ông cũng không bao giờ mượn sách của ai, lý do theo ông, sách mượn phải đọc hối hả để mau trả, mà đọc hối hả thì mất thú. Khi nào lựa được một cuốn sách hay thì giá nào ông cũng phải mua cho bằng được. Ông viết: “Khi đọc và lúc cao hứng, tôi thường ghi lại bên lề trang sách những cảm tưởng nhứt thời, không khác được tỉ tê tâm sự với một bạn cố giao bằng xương bằng thịt.”

Về cách đọc sách, ông cho biết ông đọc chậm rãi, không tiếc thì giờ bỏ ra cho việc đọc sách. Nhưng cũng có khi ông đọc “ngấu nghiến còn hơn bồ câu ra ràng nuốt mồi không kịp đút,… y như chó gặm xương, như mèo mới sanh được mẹ nhường mồi dạy ăn, vừa ngừ nghè sợ mất mồi, vừa gầm gừ tiếng rên nho nhỏ vì khoái trá và vì sợ miếng ngon chóng hết hoặc anh chị nào đồng lứa sắp giựt phỏng trong mồm.” Ông viết “cũng vì tật ham đọc sách hay, đọc quên ăn, quên ngủ, thậm chí có khi quên cả phận sự buồng the, cho nên chỉ tồn đã hai phen bị giựt vợ, bị cắm sừng mà không tởn.” [Sđd. Tr 7]

Ông Vương Hồng Sển có thú chơi sách đặc biệt. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản mà ông quan tâm, ông luôn luôn mua 2 cuốn. Ông đánh số và ghi vào sổ bộ hẳn hoi, theo cách thức của thư viện, để dễ tra cứu. Một cuốn để lưu trữ, trưng bày trong hàng chục tủ sách đặc biệt có cửa kính, để giữ cho cuốn sách luôn mới. Còn cuốn thứ hai thì ông dùng để đọc. Mọi người thường ngồi ghế hoặc nằm trên giường, trên ghế trường kỷ, ghế sô-pha để đọc sách. Riêng ông Vương có thói quen nằm võng đọc sách. Ông nói, vừa đu đưa chiếc võng, vừa đọc sách, vừa nghiền ngẫm, ông cảm thấy là rất thú vị.

Ông Vương lưu trữ gần đủ các ấn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, in ở trong nước và ở nước ngoài, kể cả các bản dịch ra tiếng ngoại quốc. Cuốn Thú Chơi Sách của ông xuất bản năm 1962 liệt kê có tất cả 26 ấn bản Truyện Kiều đang được lưu trữ tại “thư viện” của ông vào năm đó.

Ông có thói quen đánh máy các bản thảo với cái máy chữ cũ kỹ sắm hồi thời Tây. Ông ít khi viết nháp bằng tay.

*****

Có thể nói, ngoài việc mê sách, chơi sách, ông Vương Hồng Sển còn là người chịu khó sưu tập những bài báo và các tài liệu liên quan đến những nhân vật đã nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà ông quan tâm. Ông mở một hồ sơ cá nhân cho mỗi người. Khi cần tiểu sử, thành tích và sự nghiệp của một người nào đó thì ông có tài liệu ngay tại nhà. Từ nhiều năm, ông sưu tầm và thâu thập những phương ngữ Miền Nam, mỗi từ ghi chép vào một phiếu cứng, xếp theo thứ tự ABC. Nhờ vậy mà khi ông qu‎yết định biên soạn cuốn Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam thì công trình của ông xem gần như hoàn tất.

Trong cuốn Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương thổ lộ đời của ông, cái gì cũng cũ, cũng vá víu, cũng tạm bợ: nhà, thì mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, nhưng ở cho đến nay; vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp. Về sách vở, đĩa hát và đồ cổ, … thì càng đúng hơn. Ông viết:

“Đồ cổ, xem lại hết sức chung tình với tôi. …. Mua tháng này một cái dĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười họa, gặp, mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ: dầm, bàn, tống, tốt. Dầm: dĩa nhỏ; bàn: dĩa lớn; tống: chén lớn để dầm trà; tốt hay quân: chén để uống trà. Duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu…

Còn sách, những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng “liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ “cho phép để trong nhà”, xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thế thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.

Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp củm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quí, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gã chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm mùi tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ…”* [sđd, tr. 655-656]

Tôi thích sự thành thật của ông Vương. Nó cho thấy đời ông gắn liền với những gì xưa, cũ và «bất hợp lệ…”.

Trong cuốn Sài Gòn Tạp Pín Lù, ông Vương viết: “…Sài Gòn Năm Xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt ‘khảo cứu’ chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài Gòn Năm Xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm.” (Biểu viết lại, nhưng biết sống bao lâu mà làm?) – (Sđd tr. 95).

Thật ra, ai đọc những trang sách của ông Vương – bất cứ cuốn nào, chứ chẳng riêng gì cuốn Sài Gòn Năm Xưa – đều thấy ông Vương đúng là người viết “không khoa học, không trật tự, và thường lập đi lập lại”,…. Trong mục Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình (sđd tr. 94), ông Vương biện minh rằng bản tánh ông xưa nay “không gò gẫm, không ‘hành văn’ và chỉ viết như nói thôi. »

Nói là tự nhận lỗi, nhưng thật ra là ông Vương tự biện minh. Và rõ ràng, càng biện minh ông càng cho thấy ông coi thường người đọc khi ông viết: «Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe, và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng ‘cố tình không muốn tránh’.”

Sự khiêm tốn của ông Vương có một, nhưng lòng kiêu căng của ông có tới mười. Trước 1975, tôi có đôi lần gặp ông Vương. Và mặc dù không thích cách viết của ông, tôi vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng ông. Tôi không thích cách viết của ông: dài dòng, lê thê, đầy tĩnh từ và lập lời lập ý như một bà già khó tính khi dạy dỗ la rầy con cháu! Tôi thường bỏ giữa chừng những trang sách của ông. Tôi nghĩ, – và có lúc đã nói với anh Trần Phong Giao là nếu ông Vương cho phép tôi biên tập những cuốn sách của ông – ví dụ cuốn Sài Gòn Năm Xưa, 330 tr., tôi có thể viết gọn lại chừng 200 tr. mà không sợ phản bội tác giả. Trần Phong Giao đồng ý, nhưng anh nói, cậu không nên đụng vào ông ấy, đến như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bảo hãy đứng xa ông Vương ra một bước! Liệu cái thần hồn cậu! Tôi kể lại chuyện này chỉ muốn nói một điều, người đọc sách Sài Gòn dù trân trọng kiến thức [về hiểu biết của một “người chơi cổ ngoạn”] của họ Vương, vẫn nhận ra tính chất thiếu khoa học, vô trật tự và sự lập đi lập lại nhiều lời với chỉ một ý… của ông, chứ không cần phải chờ đến sau tháng Tư 1975, “Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng…” mới nhận ra điều ấy nơi ông.

Ông không thể coi thường những người đọc sách ông trong nửa miền Nam của đất nước trước đây. Người đọc yêu mến tài năng “khảo cổ” của ông, quý phục kinh nghiệm trường đời của ông, kính trọng tuổi tác của một bậc lão thành trong làng văn trận bút của ông… nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nhìn ra sự lê thê, luôm thuộm, rề rà, không trong sáng trong bút pháp của ông. Dù sao, tôi nghĩ, nên đọc những trang sách của ông Vương với một nụ cười.

Hy vọng được nghe nhiều tiếng nói khác của người đọc chúng ta. [NXH]

* Ông Vương Hồng Sển là hậu duệ người Trung Hoa, lưu dân Triều Châu, đến định cư tại Miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 17. Ông sanh tại Sốc Trăng [chữ Sốc Trăng, ông Vương luôn viết có dấu ^] ngày 27 tháng 9 âm lịch, Nhâm Dần (1902), nhưng trên giấy thế vì khai sanh được ghi ngày 4-11-1904. Tên của ông theo tiếng Hán-Việt là Vương Hồng Thịnh. Người Hoa đọc Thịnh là Sển. Trong đơn xin thi thiết lập giấy thế vì khai sanh, gia đình ghi là Vương Hồng Sển.

Năm 1923, ông Vương tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Ra trường, ông làm công chức tại nhiều nơi, Sài Gòn, Sốc Trăng, Cần Thơ. Chức vụ cuối cùng trong đời công chức của ông là quản thủ bảo tàng viện Blanchard de la Brosse (trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn) từ năm 1948 đến 1964.

Ông Vương Hồng Sển từ trần ngày 9-12-1996 tại Sài Gòn, hưởng thọ 92 tuổi, được an táng tại Sốc Trăng.

Ông đã sống gần trọn chiều dài của thế kỷ 20 và là tác giả của một số tác phẩm tiêu biểu:

– Sài Gòn Năm Xưa, in lần đầu 1960 [226 tr.], tái bản năm 1969 [328tr.]
– Thú Chơi Sách, 1960 [167tr.]
– Hồi Ký 50 Năm Mê Hát, 1968 [254tr.]
– Phong Lưu Cũ Mới, 1970 [310 tr.]
– Chuyện Cười Cổ Nhân, 1971 [253 tr.]
– Hiếu Cổ Đặc San, gồm 9 cuốn về đồ sứ men lam Huế, 1970-1972, nhưng chỉ in được có 6 cuốn.
– Hơn Nửa Đời Hư, 1992 [684 tr.]
– Sài gòn Tạp Pín Lù, 1992 [160 tr.]
– Nửa Đời Còn Lại, 1996 [434 tr.]
– Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam, 1994.

https://www.voatiengviet.com/a/sach-cua-vuong-hong-sen-11-13-2010-107813559/916917.html


 

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cuộc đời và tác phẩm

– Nguyễn & Bạn Hữu

July 10th, 2020

Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long, là một nhà văn miền Nam. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận định: Trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của bà cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ ngôn phong, từ ngữ sử dụng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi của các nhân vật.

Năm 1965 bà lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết văn, bên cạnh đó còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.

Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, Thụy Vũ đã xuất bản 10 tác phẩm gồm 3 tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và 7 tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.

Sau 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ không thể tiếp tục cầm bút do tác phẩm bị quy là đồi trụy, bà phải bươn chải với những công việc khác để nuôi đàn con, trong đó có một người sống đời thực vật. Bà từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê… những công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham được.

Hiện nay đời sống của bà tương đối ổn định khi bà về Bình Phước dựng nhà trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ðó là sau khi bà nhận được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua bài viết của một bạn văn mô tả cuộc sống lây lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Bà đang sống với gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ

Về cha của các con bà, nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà cho biết: Ổng đi học tập cải tạo. 13 năm ổng đi học tập, tôi có đi thăm ông một lần duy nhứt. Sau đó ổng đi Mỹ với gia đình… (theo NT Kim Cúc)

Về chi tiết này, nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong một bài viết nhan đề “Thụy Vũ: Mỉm cười với nghiệt ngã” ghi nhận: Tôi chợt buột miệng hỏi, rồi lại hối hận đáng lẽ không nên hỏi, về nhà thơ tác giả bài Ta Về, Anh Hùng Tận, chị không một thay đổi sắc mặt hay bất bình, trả lời như chuyện của người khác: ‘Ổng gọi về nhiều lắm nhưng mà không có nói chuyện với tôi, nói chuyện cả giờ với con dâu.’ Tôi nghe tiếng ổng liền nhớ đến biết bao nhiều lần trong truyện ngắn như là tự truyện chị dùng thiệt nhiều lần từ tía sắp nhỏ vừa thương mến vừa xót xa vừa cách phân.

Nhà văn Ðoàn Dự cũng cho biết:

Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi, tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Ðinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Ðinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. (Trích theo Phan Nguyên)

Một điều an ủi cho Nguyễn Thị Thụy Vũ là những sách của bà (10 cuốn) đã được nhà Phương Nam tái bản: Tất cả đều là sách đã in tại Sài Gòn trước 1975, đây có thể xem là toàn bộ sự nghiệp văn chương của bà, đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền: Lao vào lửa, Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường lạnh, Ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên…

Ðược hỏi bà cảm thấy thế nào khi tất cả tác phẩm trước năm 75 đều đã được tái bản. Nguyễn Thị Thụy Vũ thành thật trả lời: “Tôi rất vui. Sách in đẹp, tất cả lỗi chính tả đều được sửa rất kỹ. Tôi thấy mình thật may mắn khi nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều bè bạn, cả bạn cũ và bạn mới. Tôi xin cảm ơn cuộc đời và bè bạn…”

Tất nhiên là chúng ta cùng chia sẻ niềm vui với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhân đây cũng xin trình bày rõ thêm về những nỗi vất vả và khổ đau vô cùng tận cùng những may mắn dù có hơi trễ muộn trong đời nhà văn.

Thụy Vũ tâm sự với nhà báo Ngô Thị Kim Cúc:

“Cuộc sống sau ‘giải phóng’ vô cùng khó khăn. Tui một mình nuôi bầy con nheo nhóc, có đứa bị thiểu năng nằm một chỗ. Tui phải để nó cho mấy đứa lớn cho ăn, chăm sóc còn mình thì đi làm thuê bán vé xe bus cho một người bạn.

“Xe chạy tuyến Thủ Ðức – Sài Gòn, từ sáng đến tối mịt mới về nhà. Về đến nhà thấy con cái đứa thì nằm ngủ trên vũng nước đái, đứa lêu lổng đi chơi không cho em ăn… nhìn cái cảnh đó tui muốn chết đi cho rồi. Khó khăn quá, năm 1980 tui bồng bế tụi nhỏ về Bình Phước nương nhờ má cho đến bây giờ,” bà kể.

Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…”

Làm nhiều nghề kiếm sống nuôi con, từ chăn dê, buôn bán, trồng tiêu… cây bút nữ dấn thân nhất của văn đàn miền Nam trước 1975 đã không còn viết gì nữa kể từ sau “giải phóng”. Bà kể: “Ổng (tức, Tô Thùy Yên) thì theo gia đình vợ con ổng đi sang Mỹ, có đời sống riêng. Tui làm đủ nghề lo cho con.

“Ba đứa con tui cũng thành nhân, yên bề gia thất. Có một thằng làm thơ, người ta nói nó có chịu ảnh hưởng của cha nó. Nhưng mấy con tui, đứa nào cũng nghèo, chẳng giúp gì được mình. Tui sống nhờ đứa con bị tàn tật.

Người mô tả về xã hội bên lề Sài Gòn khốc liệt một thuở lại cũng chính là người chịu đựng những hệ lụy mà chiến tranh để lại.

Trở lại văn đàn trong nước sau gần nửa thế kỷ, trong bối cảnh sách vở văn chương đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn và phân hóa mạnh mẽ, thì tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ minh chứng rằng, những gì là chân giá trị sẽ không bị phủ lấp dưới bụi thời gian và những định kiến.

Xin được cảm thông với bao nỗi đời nghiệt ngã của nhà văn và mừng bà bước vào giai đoạn gọi là yên vui của cuộc đời. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ chắc chắn sẽ còn sáng mãi với thời gian.

NGUYỄN & BẠN HỮU – tổng hợp


 

Nữ ‘đại gia,’ vợ ca sĩ nổi tiếng, lừa đảo 26,000 người, thu hơn $346 triệu

Ba’o Nguoi-Viet

November 4, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nữ tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam ở Hà Nội, được biết đến là vợ của một nam ca sĩ nổi tiếng, bị cáo buộc lừa gạt hàng chục ngàn người để chiếm đoạt hàng trăm triệu đô la.

Theo báo Tuổi Trẻ hôm 4 Tháng Mười Một, sau tám tháng điều tra bổ sung, Viện Kiểm Sát Thành Phố Hà Nội đã truy tố bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam (Nhật Nam Group), cùng các đồng phạm về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “rửa tiền.”

Bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Công ty bất động sản Nhật Nam. (Hình: VnExpress)

Bị can Vũ Thị Thúy, 44 tuổi, quê Thanh Hóa, được biết đến là vợ của ông Phạm Khánh Phương, tức ca sĩ Khánh Phương.

Theo cáo trạng, Nhật Nam Group thành lập Tháng Bảy, 2019.

Để “lùa gà” (từ ngữ để chỉ hành động dụ dỗ), bị can Thúy đã sử dụng các thủ đoạn gian dối như đưa ra thông tin quảng cáo trên các trang mạng truyền thông, mời những người có uy tín, địa vị xã hội để giới thiệu, quảng bá về việc Nhật Nam Group đầu tư mua nhiều bất động sản, nhà hàng, khách sạn có giá trị lớn trải dài từ Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk đến Tây Ninh, Phú Quốc… “kinh doanh có hiệu quả” và cam kết phân chia lợi nhuận (cả tiền gốc, lãi) theo ngày với mức 7%-8%/tháng, lợi nhuận thu về sau hai năm 168%-192% giá trị hợp đồng.

Tuy nhiên, thực tế Nhật Nam Group đầu tư bất động sản nhưng không có lãi, hoạt động nhà hàng, khách sạn… thì thua lỗ dẫn đến đóng cửa.

Cơ quan điều tra cáo buộc, từ Tháng Bảy, 2019 đến Tháng Sáu, 2023, bị cáo Thúy đã lừa gạt 25,925 người, ký 43,314 hợp đồng hợp tác kinh doanh với Nhật Nam Group, thu hơn 9,113 tỷ đồng ($346.2 triệu).

Bị can Thúy sử dụng gần 4,300 tỷ đồng ($163.4 triệu) để trả tiền gốc, lãi cho chính các nhà đầu tư. Số tiền còn lại hơn 4,800 tỷ đồng ($182.4 triệu) đã bị bà ta chiếm đoạt sử dụng cá nhân, đến nay không còn khả năng chi trả.

Nhiều nhà đầu tư sau đó thấy dấu hiệu bị lừa đảo nên đòi tiền, đòi chất vấn. Một số người đã làm đơn tố cáo bà giám đốc với cơ quan công an.

Trước đó, bị can Thúy cũng đã từng có một tiền án về tội lừa đảo.

Sau khi điều tra, hôm 31 Tháng Tám, 2023, Phòng Cảnh Sát Kinh Tế Công An Hà Nội đã bắt giữ bị can Vũ Thị Thúy với cáo buộc “cung cấp thông tin đầu tư sai sự thật về bất động sản để lừa đảo chiếm đoạt số tiền “đặc biệt lớn.”

Ca sĩ Khánh Phương và vợ – bị can Vũ Thị Thúy. (Hình: Dân Trí)

Ngoài ra, bị can Thúy bị xác định đã chỉ đạo các nhân viên kế toán thực hiện việc rút tiền, chuyển tiền ra khỏi tài khoản của Nhật Nam Group rồi chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp do phạm tội mà có.

Từ đó, bị can Thúy sử dụng 120 tỷ đồng ($4.5 triệu) và nhờ người khác ký hợp đồng mua bất động sản, đầu tư mua cổ phiếu. Đây là hành vi khiến bà này bị Viện Kiểm Sát truy tố thêm tội “rửa tiền.”

Liên quan vụ án, trả lời công luận sau khi vợ bị bắt, ca sĩ Khánh Phương nói mình cũng là một nhà đầu tư tại Nhật Nam Group và “cũng thiệt thòi, mất mát giống như nhiều nhà đầu tư khác, thậm chí… mất nhiều hơn.” (Tr.N) [kn]


 

Triều đình phong kiến làm gì khi thiên tai?

Ba’o Tieng Dan

04/11/2025

Thái Hạo

3-11-2025

Bản dập Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 135, mặt khắc 26, ghi chép việc vua Minh Mạng ra dụ kêu gọi giúp dân Bắc Kỳ bị lũ lụt năm 1834. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia

  1. Cũng giống như bây giờ, mỗi khi bị thiên tai (bão tố, lũ lụt, hạn hán bất thường và nặng nề), các triều đình phong kiến (quân chủ) sẽ thực hiện việc cứu tế, mở quốc khố, phát chẩn cho dân bằng tiền, lúa, gạo, cơm ăn… Các kho lẫm dành riêng cho cứu tế sẽ đặt ngay tại địa phương, khi có tình huống xấu xảy ra thì lập tức hành động. Và công việc này chủ yếu do nhà nước đảm nhiệm, lý do là triều đình coi đó là việc tất nhiên của mình. Thêm nữa, thời đó giao thông chia cắt, đi lại khó khăn, phương tiện hạn chế, nên dân vùng khác muốn giúp cũng rất khó.

Bây giờ thì dân cứu dân rất nhiều: Quyên góp tiền bạc, tổ chức nấu ăn, vận chuyển nhu yếu phẩm, tổ chức cứu nạn…, đôi khi làm lu mờ cả hình ảnh của nhà nước.

Biển nước đe dọa Hà Nội trong trận lụt lịch sử năm 1926, thời vua Bảo Đại. Nguồn: Aeronautique Militaire

  1. Ngoài cứu đói, thời phong kiến triều đình còn thực hiện những việc rất đặc biệt.

Nhà vua cho rằng đất nước có thái bình thịnh vượng hay không là do cái đức của bản thân. Vì thế, mỗi lần thiên tai, vua sẽ tự trách, cho đó là vì “đức mỏng”, chưa sửa mình được tốt, nên tai họa mới ập xuống.

Lễ tế trời đất được thực hiện. Nhiều ngày trước khi diễn ra lễ tế, nhà vua sẽ ăn chay, giữ tâm ý lành thiện, ra lệnh cấm sát sinh… Hoàng thân và triều thần đều hưởng ứng và phải đồng lòng.

Những quan niệm và hành động này không phải chỉ là một kiểu “mê tín”, mà nó xuất phát từ tư duy trung đại, coi thiên – địa – nhân là hợp nhất, mọi thay đổi của tự nhiên đều có bàn tay và tâm ý con người. Vì thế muốn “yên thiên hạ” thì phải “sửa mình”.

Cũng vì thế mà lễ tế sẽ đi cùng với hành động (ăn chay, cấm giết hại…) chứ không phải chỉ hình thức, nói suông.

Hành động còn thể hiện ở việc mỗi lần thiên tai, triều đình sẽ cho điều tra, xem quan địa phương có bóc lột dân không, có gây ra bất công và điều ác gì khiến lòng dân oán hận hay không. Cách chức quan địa phương nếu vùng đó thường xuyên bị thiên tai bất thường, vì cho rằng họ kém đức nên mới bị giáng họa như thế.

Không chỉ sám hối và tự trách bằng lễ tế, triều đình còn miễn giảm thuế, hoãn sưu dịch. Ví dụ, năm 1442 sau lũ lụt lớn, vua Lê Nhân Tông miễn toàn bộ thuế cho vùng Thanh Hóa. Triều đình cũng có chính sách nhân đạo đặc biệt, như chôn cất người mất, nuôi dưỡng cô nhi quả phụ do thiên tai; không xử tội hình sự, tạm dừng tra khảo trong thời gian thiên tai; tổ chức ân xá cho tội nhân…

Tất cả các chính sách này là nhằm để thể hiện đức hiếu sinh, hiển bày đức độ của nhà vua nhằm “cảm động lòng trời”; và quan trọng là để an dân, cảm hóa và tạo niềm tin với dân.

  1. Bỏ qua những khác biệt về tư duy, quan niệm và những yếu tố mà người bây giờ gọi là “mê tín”, thì hành xử của triều đình phong kiến có nhiều điều vẫn đáng để chính quyền hiện đại tham khảo. Ngoài công tác cứu trợ, cứu hộ, cứu nạn cần được đồng bộ, nhanh và hiệu quả thì các chính sách lâu dài như đê điều, trồng lại rừng, quy hoạch lại thủy điện là rất cần kíp.

Bên cạnh đó, nạn quan tham, việc tiêu xài phung phí, sự lãng phí khổng lồ (như cái tòa nhà Bộ Ngoại giao 4000 tỉ bỏ hoang trên khu đất vàng giữa thủ đô) không thể tái diễn mãi. Quan chức và “triều đình” ngừng lễ lạt, tránh xa hoa, tập trung giải quyết hậu quả và chia sẻ với đồng bào. Việc Hà Nội tính bắn pháo hoa giữa lúc miền trung đang bị nhấn chìm trong lũ dữ là một sự vô cảm và thất đức, khiến lòng người oán ghét.

Khó khăn nào rồi dân cũng sẽ vượt qua, nhưng một sự thịnh vượng lâu dài bền vững không thể không có sự tin tưởng, đồng lòng và yêu mến mà dân dành cho nhà nước. Lòng dân bao giờ cũng là điều hệ trọng…