Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

13/11/2025

Dân oan khắp nơi vì những chính sách xã hội bất cập

Tôi thấy nhiều người bình luận:

“Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao? Ngày xưa đường đất, giờ đường bê tông; ngày xưa nhà tranh, giờ nhà tầng. Sao chị không thấy sự phát triển đó để khen?”

Nghe rất ngu ngơ.

Bởi vì một đứa trẻ, dù không ai dạy, nó cũng sẽ lớn.

Bạn không thể tự hào rằng “ngày xưa tôi cao 80cm, giờ tôi 1m70” — vì đó là quy luật sinh học, không phải thành tựu.

Cũng vậy, một quốc gia sau hàng chục năm hòa bình mà có đường bê tông, có nhà cao tầng, không phải là điều để hãnh diện.

Đó là điều tự nhiên phải có, nếu con người còn làm việc và thời gian còn trôi đi.

Cái đáng nói là: khi bạn lớn lên, bạn trở thành người tử tế hơn, hay chỉ là một thân xác to hơn?

Một đất nước thật sự phát triển không đo bằng số tầng cao ốc, mà bằng mức độ tự do, công bằng và phẩm giá của người dân.

Bê tông có thể che mưa, nhưng không thể che sự bất công.

Đường nhựa có thể chạy nhanh, nhưng không thể chạy trốn khỏi nỗi sợ nói thật.

Và GDP có thể tăng, nhưng nếu niềm tin của con người giảm, thì đó không phải là phát triển – mà là phình to trong ảo tưởng.

Nếu muốn tự hào, hãy so với những nước cùng xuất phát điểm:

Hàn Quốc sau chiến tranh nghèo đói, 60 năm sau trở thành nền kinh tế công nghệ.

Nhật Bản từ đống tro tàn, vươn lên thành quốc gia văn minh bậc nhất thế giới.

Singapore không có tài nguyên, nhưng xây được nhà nước liêm chính, dân được tôn trọng.

Còn Việt Nam?

Sau gần nửa thế kỷ, người dân vẫn phải “xin” từng giấy tờ, “chạy” từng thủ tục, “đóng” từng khoản không tên.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin hỏi: phát triển cho ai?

Cái đáng sợ nhất không phải là nghèo, mà là tự mãn trong nghèo trí tuệ.

Người ta tưởng rằng bê tông là biểu tượng của văn minh, mà quên rằng văn minh bắt đầu từ cách con người đối xử với nhau.

Một quốc gia có thể có đường cao tốc, nhưng nếu dân phải cúi đầu trước cửa quyền, thì đó chỉ là một xã hội được tráng xi măng lên sự sợ hãi.

Đừng khoe rằng đất nước đã khác xưa, khi điều duy nhất khác là lớp sơn ngoài tường.

Hãy hỏi xem:

– Con người có được tôn trọng hơn không?

– Tiếng nói của dân có được lắng nghe không?

– Và luật pháp có còn phục vụ công lý hay phục vụ quyền lực?

Bởi vì, một đất nước không thể gọi là phát triển, nếu người dân vẫn phải xin để được sống đúng luật.

Khi người dân phải nuôi cả nhà nước – đó không phải là phát triển.

Ở Việt Nam, từng đứa trẻ vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường đã phải đóng tiền để “xây dựng đất nước”, “ủng hộ đồng bào thiên tai”, “xây trường học”.

Những em bé mới mười tuổi đã bắt đầu gánh nghĩa vụ “cứu người lớn” — trong khi người lớn ấy là những người đang được trả lương để quản lý quốc gia.

Mỗi khi bão lũ xảy ra, thay vì có quỹ dự phòng quốc gia được vận hành minh bạch, thì chính phủ lại ngửa tay xin tiền dân.

Từng người nông dân, công nhân, bà bán hàng rong, chủ tiệm tạp hoá, thậm chí từng lớp học, từng doanh nghiệp nhỏ… đều phải “đóng góp cứu trợ”.

Và rồi có người vẫn nói:

“Đất nước mình đã thay đổi nhiều rồi mà.”

Thay đổi ư? Khi người dân vẫn phải trả tiền cho những thứ lẽ ra thuộc về phúc lợi

Một đất nước đứng thứ 5 về quy mô kinh tế ở Đông Nam Á, nhưng trẻ em vẫn không được học miễn phí, bệnh nhân vẫn phải “đặt phong bì” để được nằm viện, và người già vẫn phải sống nhờ con cái, thay vì được bảo đảm bằng hệ thống an sinh.

Nếu đó gọi là “thay đổi”, thì đó là sự thay đổi trên giấy, chứ không phải trong phẩm giá con người.

Ở các quốc gia phát triển, người dân nộp thuế để được bảo vệ.

Còn ở Việt Nam, người dân nộp thuế, rồi lại bị kêu gọi đóng góp để vá lỗi của chính bộ máy.

Người dân trả tiền cho trường, rồi trường vẫn xuống cấp.

Trả tiền cho bệnh viện, rồi vẫn phải mang thuốc từ nhà.

Trả tiền cho quỹ thiên tai, rồi khi lũ về, người dân vẫn tự bơi trong nước mắt của mình.

Đó không phải là “phát triển” – mà là một vòng luẩn quẩn của sự bóc lột hợp pháp hoá bằng khẩu hiệu.

Còn những “điều tích cực” mà các bạn nói là gì?

Các bạn bảo: “Hãy nhìn vào những điều tích cực chứ.”

Vậy xin chỉ cho tôi: điều tích cực nào khiến người Việt hôm nay sống hạnh phúc hơn, công bằng hơn, hay ít sợ hãi hơn?

GDP đó có cao hơn những quốc gia từng thua xa Việt Nam ba mươi năm trước hay không?

Hãy thử nhìn quanh: bao nhiêu người lao động đang sống lay lắt với đồng lương không đủ trang trải.

Những con đường bê tông mà các bạn tự hào —chính là nơi từng đứa trẻ phải đạp xe sát bên container, xe khách, xe tải, vì không có nổi một làn đường an toàn cho người dân.

Đường có thể phẳng, nhưng sinh mạng con người lại gập ghềnh hơn bao giờ hết.

Ngay cả trong bệnh viện – nơi lẽ ra là chỗ cuối cùng còn lại của nhân đạo –

đã bao nhiêu người phải chết trước cánh cửa cấp cứu, chỉ vì không kịp nộp viện phí, chỉ vì y tá, bác sĩ còn bận “hỏi giấy tờ”?

Đó là cái mà bạn gọi là “phát triển” sao?

Một xã hội nơi mạng người rẻ hơn một chữ ký, nơi sự sống phải xếp hàng chờ được phép cứu, thì mọi chỉ số GDP đều vô nghĩa.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin lỗi — đó không phải là tiến bộ, mà là sự thích nghi của người dân với bất công.

Một quốc gia không thể được gọi là “phát triển” khi trẻ em phải đóng góp để cứu người lớn,

khi người dân phải quyên góp cho những sai lầm của chính quyền, và khi người nộp thuế phải nộp thêm lần nữa để được đối xử như con người.

Thay đổi thật sự không nằm ở màu của bê tông, mà ở màu của lương tri.

Và chừng nào người dân còn phải đi xin công lý, thì mọi con đường lát nhựa chỉ là lớp sơn mỏng trên một nền đất mục.

Hong Thai Hoang


 

Trân Văn/ NV: Đảng vi quý, xã tắc vi thứ chi, dân vi khinh!

Tiếng Dân News

Nhiều cơ quan truyền thông ở Việt Nam vừa lược thuật cảnh báo của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank – WB) rằng đến 2050, GDP của Việt Nam sẽ giảm ít nhất 12.5% nếu không có những biện pháp hữu hiệu để kinh tế-xã hội Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong cảnh báo vừa kể, WB tiếp tục nhắc lại viễn cảnh vốn đã được mô tả từ lâu: Một nửa diện tích của đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ chìm trong nước, tước đi sinh kế của hàng triệu người, gia tăng nguy hiểm cho an ninh lương thực quốc gia.

Tương lai Việt Nam không chỉ có sự u ám riêng trong lĩnh vực nông nghiệp. Biến đổi khí hậu khiến nước biển dâng cao còn đe dọa sinh hoạt, sinh kế của dân cư các khu vực duyên hải, khoảng 70% dân số và 433 khu công nghiệp tạo ra 90% hàng hóa xuất cảng sẽ bị ngập.

Ngoài tác động nguy hiểm của nước biển dâng cao, nhiệt độ tăng cao cũng sẽ ảnh hưởng đến nhiều nhà máy, xí nghiệp. Khoảng 1.3 triệu lao động, trong đó 70% là phụ nữ sẽ phải gánh chịu hậu quả của yếu tố này.

Mưa to, bão lớn vì biến đổi khí hậu còn gây ngập lụt. WB ước đoán, đến năm 2030, tỷ lệ hệ thống giao thông bị hư hỏng do ngập lụt sẽ tăng khoảng 40%. Nguy cơ các cảng biển quan trọng ở TPHCM, Hải Phòng bị ngập sẽ tăng gấp năm lần so với hiện nay, gây gián đoạn cho việc vận chuyển từ 68,000 tấn đến 106,000 tấn hàng hóa/ngày, thiệt hại sẽ vào khoảng $89 triệu/ngày.

Để dễ hình dung thiệt hại, WB dẫn thiệt hại mà trận bão Yagi năm 2024 từng khiến cảng Hải Phòng mất $955 triệu làm ví dụ minh họa.

Những yếu tố như nhiệt độ cực đoan, cung cấp điện gián đoạn, mưa lũ cực đoan,… đã, đang và sẽ còn làm năng suất lao động của Việt Nam giảm, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu bị bào mòn.

Từ sự yếu kém của hạ tầng và bảo trì, WB lưu ý, thiệt hại sẽ lan truyền như hiệu ứng domino – hệ thống giao thông tê liệt vì tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm mạng lưới cung ứng – phân phối (logistics) của Việt Nam tê liệt. Ứng phó chậm trễ chừng nào thì nội lực sẽ suy giảm chừng đó.

Do chậm chạp trong ứng phó, đến 2050, có thể sẽ có từ 100,000 đến 1.1 triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo. Nguy cơ bần cùng vì không đủ điều kiện tự bảo vệ trước thiên tai ở nhóm lao động kỹ năng và thu nhập thấp, cũng như các gia đình sống ở những khu vực như ven biển, đồng bằng, nông thôn được dự đoán là “đặc biệt cao.” Nếu không sớm đầu tư vào năng lượng sạch, nâng cao khả năng thích ứng của nông nghiệp, khả năng chống chịu của đô thị, thành tựu tích lũy từ tăng trưởng sẽ bị biến đổi khí hậu quét sạch.

Theo WB, tác động của biến đổi khí hậu có thể làm tăng trưởng giảm đều đặn 0.5 %/năm. Do vậy, nguồn thu cho ngân sách sẽ giảm trong khi chi tiêu sẽ tăng để khắc phục hậu quả, vào năm 2050, tài khóa có thể thâm hụt thêm 0.8% GDP…

***

Trong sáu tháng vừa qua, dân chúng Việt Nam choáng váng vì thiên tai dồn dập, hai cụm từ “bất thường” và “vượt mức lịch sử” liên tục được lập đi, lập lại. Thiên tai đổ đến dưới đủ mọi dạng: Hạn hán, nước mặn xâm nhập, dông lốc và đặc biệt là mưa to, bão lớn, sạt lở.

Riêng tác động của mưa, bão đã vắt kiệt nội lực của quốc gia lẫn nhiều cá nhân, gia đình. Ở miền Bắc, thiệt hại do tác động của mưa, bão khiến hàng trăm ngàn gia đình ở Hà Nội, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lào Cai, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Ninh,… khánh kiệt.

Miền Trung cũng thế. Người Việt bất lực và xót xa nhìn những Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng,… bị thiên tai tàn phá.

Sau những Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang,… với hàng trăm ngàn gia đình phá sản do thiếu nước ngọt mất trắng hoa lợi từ lúa, rau trái, tôm cá, tới lượt Cà Mau rúng động vì bờ biển sạt lở trên diện rộng, đất đai sụt lún,…

Thiệt hại do đủ loại thiên tai không còn được tính bằng ngàn tỷ mà là hàng chục ngàn tỷ, chưa kể thiệt hại về sinh mạng lên tới vài trăm. Tuy nhiên đó là những tổn thất có thể đo, đếm từ những đổ nát công khai, nếu có thể đo đếm thiệt hại của từng cá nhân, gia đình, đơn vị tính chắc chắn phải là trăm ngàn tỷ. Song đó chỉ là thiệt hại trước mắt. Tác động lâu dài của thiên tai khi nông thôn, đô thị, hạ tầng bị tàn phá, cũng như cá nhân và gia đình kiệt quệ đối với sự ổn định và cơ hội phát triển kinh tế-xã hội dẫu rất lớn nhưng không dễ ước đoán.

Đáng ngại là tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam đã được cảnh báo từ thập niên 1990. Đến 2009, chính quyền Việt Nam công bố kịch bản đầu tiên để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao nhưng thực tế cho thấy họ chưa bao giờ xem điều chỉnh để thích ứng là chuyện sống còn của quốc gia, dân tộc. Vì không tính đến khả năng chống chịu, quy hoạch và nỗ lực phát triển chỉ tạo thêm những khu vực bị thiệt hại nặng nề do dễ ngập hơn, mức nước lụt cao hơn, rút chậm hơn, đồng bằng lún sụt, ven biển sạt lở nghiêm trọng hơn!

Trong sáu tháng vừa qua, dẫu thiên tai là chuyện nhãn tiền nhưng dường như cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền chỉ dồn tâm lực, trí lực và sức lực vào những thứ như “sắp xếp lại giang sơn” và “kiện toàn nhân sự” bằng kỷ luật, điều chuyển, chỉ định…

***

Cách nay khoảng 2,500 năm, Mạnh Tử – một triết gia Trung Quốc – cho rằng “Dân vi quý, xã tắc vi thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý nhất, sau đó là xã tắc tức quốc gia, còn vua là nhẹ nhất). Cha ông người Việt cũng nghĩ như vậy nên nhiều triều đại (Lý, Trần, Lê) đề cao tư tưởng “ý dân là ý trời.” Không phải tự nhiên mà Lý Thái Tổ khẳng định “Trên thuận thiên thời, dưới theo ý dân” khi quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long (Hà Nội), hay Nguyễn Trãi nhấn mạnh “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” khi viết Bình Ngô Đại Cáo.

Quan sát những diễn biến tại Việt Nam, so tác động càng ngày càng đáng ngại của thiên tai đến kinh tế-xã hội với trọng tâm hoạt động của chính quyền Việt Nam ắt sẽ thấy, “lấy dân làm gốc”chỉ là khẩu hiệu. Thực tế cho thấy “đảng vi quý” còn “xã tắc vi thứ chi” và “dân vi khinh.” [kn]

https://baotiengdan.com/…/dang-vi-quy-xa-tac-vi-thu…/

Hình ảnh ngập lụt ở Huế, ngày 3 Tháng Mười Một, 2025. (Hình minh họa: Thanh Hue/Getty Images)


 

Nạn nhân vụ ngộ độc bánh mì ở Sài Gòn lên đến 270 người

Ba’o Nguoi-Viet

November 10, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Sau ba ngày, số bệnh nhân bị ngộ độc thực phẩm sau khi ăn bánh mì gà xé mua tại hệ thống hai tiệm bánh mì cóc Bích ở Sài Gòn không ngừng tiếp tục tăng thêm.

Theo phúc trình của Phòng Nghiệp Vụ Y thuộc Sở Y Tế TP.HCM và ghi nhận của báo Dân Trí tại các bệnh viện, tính đến chiều 10 Tháng Mười Một, đã có 14 bệnh viện tiếp nhận 270 bệnh nhân bị ngộ độc sau khi ăn bánh mì gà xé Bích mua tại hai tiệm nằm trên đường Nguyễn Thái Sơn, phường Hạnh Thông, và Lê Quang Định, phường Bình Lợi Trung, Sài Gòn.

Khoa Cấp Cứu, bệnh viện Quân Y 175 tiếp tục ghi nhận hàng chục bệnh nhân nhập viện sau khi ăn bánh mì Bích. (Hình: NT/Dân Trí)

Cụ thể, bệnh viện Quân Y 175 hơn 175 ca; bệnh viện Đa Khoa Tâm Anh 26 ca; bệnh viện Nhân Dân Gia Định 52 ca; bệnh viện Quốc Tế Becamex chín ca; bệnh viện Đa Khoa Trung Mỹ Tây bảy ca; bệnh viện Nhi Đồng 2 chữa trị hai ca…

Số bệnh nhân trên lần lượt nhập viện từ hôm 5 Tháng Mười Một đến nay, do bị tình trạng nhiễm trùng ruột phải nhập viện theo dõi. Họ có chung triệu chứng đau bụng, tiêu chảy, nôn, sốt… sau khi ăn bánh mì cóc Bích, được giới thiệu là “siêu phẩm chất” trên các trang mạng xã hội như TikTok, Facebook, YouTube…

Bác Sĩ Huỳnh Văn Mười Một, phó Khoa Cấp Cứu, bệnh viện Tâm Anh, cho biết: “Đây là các biểu hiện thường gặp trong ngộ độc thực phẩm, niêm mạc dạ dày và ruột bị vi khuẩn tấn công gây đau bụng quặn, nôn ói, tiêu chảy, sốt…”

Sở Y Tế TP.HCM đã báo cáo Ủy Ban Nhân Dân thành phố và Bộ Y Tế về vụ ngộ độc tập thể này, đồng thời chỉ đạo các bệnh viện điều trị bệnh nhân theo phác đồ ngộ độc thực phẩm.

Nói với báo Dân Trí, bà Phạm Khánh Phong Lan, giám đốc Sở An Toàn Thực Phẩm TP.HCM, cho biết vì mới chỉ tìm thấy vi khuẩn Salmonella trên một bệnh nhân nên chưa thể kết luận đây là tác nhân gây ra ngộ độc thực phẩm hàng loạt.

Tiệm bánh mì Bích trên đường Nguyễn Thái Sơn, phường Hạnh Thông, hiện đã đóng cửa. (Hình: Hải Yến/Người Lao Động)

“Sở An Toàn Thực Phẩm TP.HCM phối hợp lực lượng hữu trách thành lập đoàn điều tra. Hai cơ sở bán bánh mì Bích đã tạm ngừng hoạt động, toàn bộ thực phẩm và nguyên liệu bị niêm phong, lấy mẫu kiểm nghiệm. Đoàn kiểm tra đang mở rộng xác minh các trường hợp liên quan tại nhiều bệnh viện để xác định nguyên nhân, xử lý theo quy định,” bà Lan nói.

Việc ngộ độc tập thể sau khi ăn bánh mì thường hay xảy ra ở Việt Nam.

Trước đó, báo Tuổi Trẻ hôm 30 Tháng Mười Một, 2024, loan tin sau khi ăn bánh mì kẹp thịt của tiệm bánh mì, xôi Cô Ba Bến Đình ở thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trước đây, 379 người phải nhập viện cấp cứu do bị ngộ độc, trong đó ông TVR, 71 tuổi, ở phường 11, thành phố Vũng Tàu, đã không qua khỏi do liên tục bị nôn ói và tiêu chảy dù được bệnh viện Đa Khoa Tỉnh Bà Rịa tích cực cứu chữa. (Tr.N) [kn]


 

Chuyện 3 người ở Lý Sơn đúng là khó tin

Những câu chuyện Nhân Văn – Hùng Vương 

Khi sóng đánh lật úp thuyền thúng:

  1. Khi lật thúng, Đồn Biên phòng và địa phương huy động tàu ra cứu nhưng bất thành vì sóng lớn
  2. Bão số 13 với sức mạnh được đánh giá là có thể “thổi bay 1 chiếc xe container” theo lời của Tuệ Zero hay ngồi thiền.
  3. Chỉ 1 người còn ôm được thành thúng, 2 người còn lại trôi mất dấu

Ở đất liền, nhà cửa còn bị gió xé toang, vậy mà làm sao cả 3 người họ có thể sống sót thần kì ngoài ngoài biển khơi giữa những cơn sóng dữ ngay tâm bão?

“Tôi ngửa mặt lên trời uống nước mưa”, ông Quang kể và cho biết lúc biển động mạnh, cua cá nhỏ bị sóng đánh trồi lên mặt nước, ông cố vớt đưa vào miệng để lấy sức cầm cự.

Nhiều lần thấy tàu đi qua, ông Quang bơi, la hét, nhưng tiếng người bị nuốt chửng giữa sóng

Đến khi tàu Hải Nam 39 xuất hiện, ông nhìn vào hướng đi của tàu và tìm cách bơi đón đầu theo hướng tiếp cận mũi mới thành công, được cứu.

Bản thân mình từng thả nổi trên biển nhưng là kiểu thư giản lúc sóng yên biển lặng, chứ có tý gió, sóng nó dập 1 chút là say mèm.

Trong khi họ lênh đênh 42 giờ trên biển trong bão Kalmaegi, phải uống nước mưa, ăn cua sống để lấy sức đến lúc được cứu.

Tôi nghĩ chỉ có dân biển với kinh nghiệm, kỹ năng bơi lội, sức khỏe, thể lực, ý chí và khát khao được sống mới có thể sinh tồn trong hoàn cảnh như vậy.

Câu chuyện như này tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long Ký hư cấu của Kim Dung.

Nhưng ở Lý Sơn, ba con người nhỏ bé ấy đã viết nên một trang thật


 

NGỌT NGÀO HAI TIẾNG “DẠ –THƯA”

Xuyên Sơn

https://youtu.be/Zuad5rbSPqI

Khi xеm lại ᴄáᴄ ρhim nhựa ᴄủa Sài Gòn làm tɾướᴄ năm 75, hᴏặᴄ ɡần hơn,

nếᴜ xеm ᴄáᴄ ᴄô, ᴄhú ᴄa sĩ ᴄủa thế hệ tɾướᴄ 75 tɾả lời ρhỏnɡ νấn, ᴄáᴄ bạn dễ dànɡ nhận thấy ɾằnɡ khônɡ baᴏ ɡiờ thiếᴜ νắnɡ tiếnɡ dạ tiếnɡ thưa tɾᴏnɡ đối đáρ νới nhaᴜ, dù đó là nói ᴄhᴜyện νới nɡười lớn tᴜổi hơn hᴏặᴄ nhỏ tᴜổi hơn thì đềᴜ như νậy.

Hᴏànɡ Oanh – ᴄô ᴄa sĩ – ᴄựᴜ nữ sinh Gia Lᴏnɡ qᴜê ở Mỹ Thᴏ, khi tɾả lời ρhỏnɡ νấn ᴄủa ᴄáᴄ đài ở hải nɡᴏại, νẫn xưnɡ là “dạ thưa ᴄhị”, “dạ ᴄhưa anh”…dù nɡười đối diện ᴄhỉ đánɡ tᴜổi ᴄᴏn ᴄháᴜ.

Điềᴜ đó khônɡ ρhải ᴄhỉ ᴄó tɾᴏnɡ ρhim ảnh hay tɾᴏnɡ ᴄáᴄ đᴏạn ρhỏnɡ νấn, đó là một nét νăn hóa nói ᴄhᴜyện thônɡ thườnɡ ᴄủa Sài Gòn xưa, νà ít nhiềᴜ νẫn ᴄòn ᴄhᴏ đến nay đối νới nhữnɡ nɡười Sài Gòn ɡốᴄ.

Nɡười Sài Gòn thân tình, lịᴄh sự, khônɡ tɾịᴄh thượnɡ, lᴜôn nói ᴄhᴜyện một ᴄáᴄh hòa nhã νà “nɡọt” như νậy khônɡ biết từ baᴏ ɡiờ, khônɡ ρhải nɡọt thеᴏ kiểᴜ khеn lấy lònɡ hay xã ɡiaᴏ.

Mà là nhữnɡ tiếnɡ dạ, thưa, ᴄám ơn, xin lỗi… đã nằm sẵn tɾᴏnɡ tim νà nằm nɡay ᴄửa miệnɡ.

Nhữnɡ tiếnɡ dạ thưa đó, nɡày nay ᴄó lẽ tɾở thành thứ qᴜý hiếm. Xưa ᴄó mà nay tự nhiên biến mất, ᴄó ρhải là dᴏ ᴄᴜộᴄ sốnɡ hiện đại qᴜá νội νànɡ, nɡười ta ᴄắt bớt ᴄhữ nɡhĩa đi để nói ᴄhᴏ nhanh, ρhù hợρ νới ᴄhủ nɡhĩa yêᴜ ᴄᴜồnɡ sốnɡ νội,

hay là dᴏ ɡiá tɾị ᴄủa νật ᴄhất đã tỉ lệ nɡhịᴄh νới ɡiá tɾị ᴄủa ᴄᴏn nɡười?

Nhắᴄ νề tiếnɡ dạ, tiếnɡ thưa là tôi lại nhớ đến ᴄụ Bùi Giánɡ khi đưa 2 ᴄhữ này νô bài thơ nɡắn ᴄủa ônɡ νề Hᴜế như saᴜ:

Cô nươnɡ mắt nɡọᴄ ɾănɡ nɡà 

Nhìn bồ tát ɡọi ɾằnɡ là: dạ thưa

– Dạ thưa ρhố Hᴜế bây ɡiờ

Vẫn ᴄòn núi Nɡự bên bờ sônɡ Hươnɡ

Dạ thưa ᴄủa ᴄᴏn ɡái Hᴜế nó kháᴄ νùnɡ miền kháᴄ, ɾất nhỏ nhẹ νà nɡọt như mía lùi.

Sốnɡ ở ᴄᴜộᴄ đời ᴄhưa lâᴜ lắm, nhưnɡ ᴄũnɡ νừa đủ để tôi nhận ɾa một điềᴜ ɾằnɡ nɡười ta ᴄó thành ᴄônɡ hay khônɡ, qᴜá nửa là tùy thᴜộᴄ νàᴏ thái độ ᴄủa họ khi ɡiaᴏ tiếρ νới mọi nɡười, đó là nhữnɡ tiếnɡ dạ, thưa… làm mát lònɡ nɡười kháᴄ.

Đó khônɡ ρhải là sự xᴜn xᴏе lấy lònɡ, mà đó là νăn hóa ɡiaᴏ tiếρ thônɡ thườnɡ ɡiữa nhữnɡ ᴄᴏn nɡười νăn minh νà lịᴄh sự.

Mà thú thật là tôi thì ᴄhưa thấy nɡười nàᴏ ᴄó sự nɡhiệρ thành ᴄônɡ (tự thân) mà khônɡ νăn minh, lịᴄh sự ᴄả.

Xin ᴄhéρ ɾa đây ᴄâᴜ ᴄhᴜyện đượᴄ kể tɾên mạnɡ, khônɡ biết là ᴄó thật là sánɡ táᴄ, nhưnɡ đọᴄ xᴏnɡ nɡẫm thì thấy nó ɾất đời thườnɡ νà qᴜеn thᴜộᴄ tɾᴏnɡ ᴄᴜộᴄ sốnɡ:

*** Vàᴏ một bᴜổi ᴄhiềᴜ mᴜộn, saᴜ khi mᴜa ít đồ từ ᴄhợ bướᴄ ɾa, tᴜi thấy một bà ᴄụ ᴄhừnɡ bảy mươi.

Bà ăn mặᴄ đẹρ đẽ thẳnɡ thớm, tóᴄ bới ᴄaᴏ, ɡươnɡ mặt tɾanɡ điểm nhẹ, bày ᴄhiếᴄ bàn xếρ ɾa saᴜ đᴜôi xе mình, đặt mấy nải ᴄhᴜối xanh tɾên đó.

Nɡanɡ qᴜa, bà ᴄười thật tươi νới tᴜi:

– Cậᴜ ơi, mᴜa ɡiùm tᴜi nải ᴄhᴜối đi ᴄậᴜ, ᴄhᴜối xiêm đеn nhà tɾồnɡ nɡᴏn lắm.

Cái thằnɡ ᴄhẳnɡ mấy khi ăn ᴄhᴜối định ᴄám ơn ɾồi lướt qᴜa nhưnɡ đành dừnɡ lại.

Có lẽ bị nắm níᴜ bởi ᴄái ɡiọnɡ nói qᴜá ᴄhừnɡ nɡọt.

– Baᴏ nhiêᴜ một nải νậy bà ơi?

– Dạ thưa ᴄậᴜ, năm đồnɡ.

Cái này là ᴄhᴜối xiêm đеn nên nó mắᴄ hơn ᴄhᴜối thườnɡ một ᴄhút.

– Vậy bà ᴄhᴏ ᴄᴏn hai nải nhе.

– Cậᴜ ơi, sắρ tối ɾồi, hay là ᴄậᴜ lấy ɡiúρ bà ɡià bốn nải này lᴜôn đi.

Ăn hổnɡ hết mình bỏ tủ lạnh hᴏặᴄ nấᴜ ᴄhè hay làm ᴄhᴜối ᴄhiên ᴄũnɡ nɡᴏn. Chưn ᴄẳnɡ tᴜi bị khớρ, nɡồi từ ᴄhiềᴜ ɡiờ bán đượᴄ ᴄó một nải.

Tối ɾồi, ᴄậᴜ lấy hết, tᴜi tính 18 đồnɡ thôi.

– Dạ đượᴄ ɾồi, bà lấy hết ᴄhᴏ ᴄᴏn đi.

Bà ᴄẩn thận ɡói mỗi nải νô từnɡ bịᴄh ɾiênɡ, ᴄòn dặn dò thêm ᴄáᴄh ρhân biệt ᴄhᴜối xiêm đеn νà xiêm thườnɡ.

Thằnɡ tᴜi ᴄứ đứnɡ xớ ɾớ hᴏài, hỏi thăm đủ thứ.

Là để đượᴄ nɡhе ᴄái ɡiọnɡ nói nɡọt mềm, đượᴄ nɡhе ᴄái ᴄáᴄh nói ᴄủa một nɡười Sài Gòn, khi tɾướᴄ mỗi ᴄâᴜ tɾả lời, bà đềᴜ “dạ thưa ᴄậᴜ”.

Thấy đâᴜ đó bónɡ dánɡ bà nội bà Tư, thấy mình như đanɡ đứnɡ ɡiữa ᴄái νùnɡ đất đã từnɡ đượᴄ lớn lên, νới nhữnɡ ᴄᴏn nɡười hiền hᴏà, khiêm nhườnɡ νà qᴜá đỗi nɡọt nɡàᴏ tɾᴏnɡ ứnɡ xử.

Tự nhiên thấy qᴜê hươnɡ ở nɡay tɾân ᴄhỗ này, nɡọt nɡàᴏ νô ρhươnɡ.

Bà Tư, bà nội hay bà bán ᴄhᴜối ᴄủa tᴜi, ᴄhẳnɡ ai đượᴄ họᴄ ᴄaᴏ nhưnɡ ᴄái νăn hᴏá ứnɡ xử ᴄủa họ saᴏ mà νăn minh mà dễ thươnɡ qᴜá tɾời qᴜá đất. ***

nhacxua.vn4

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=4441395305913788&id=100001300874988


 

BÃO SỐ 13 KALMAEGI KHIẾN ÍT NHẤT 5 NGƯỜI CHẾT, 6 NGƯỜI BỊ THƯƠNG

BBC News Tiếng Việt 

 

(Photo by Nhac NGUYEN / AFP) (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)
(Photo by NHAC NGUYEN / AFP) (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

Theo báo cáo của Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vào sáng sớm 7/11, cơn bão Kalmaegi đã khiến 5 người thiệt mạng, gồm 3 người ở tỉnh Đắk Lắk và 2 người ở Gia Lai 2 người, cùng với 6 người khác bị thương.

Thống kê ban đầu cho thấy cơn bão mà Việt Nam gọi là bão số 13 này đã giật sập 52 căn nhà, gồm Gia Lai 43 nhà và Đắk Lắk 9 nhà), đồng thời làm hư hại, tốc mái 2.593 căn nhà khác.

Cơn bão cũng đã đánh chìm 9 con tàu – Đắk Lắk và Gia Lai mỗi tỉnh 4 tàu, và một tàu còn lại ở Quảng Ngãi.

Hiện tại, bão Kalmaegi đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và tiếp tục suy yếu thành một vùng áp thấp trên khu vực Hạ Lào.

Theo dự báo, sáng 7/11, khu vực từ Nam Quảng Trị đến Đà Nẵng và cao nguyên Trung Bộ sẽ có mưa với lượng phổ biến 20–50mm, một số nơi có thể vượt 80mm.

Từ ngày 7 đến hết 8/11, khu vực từ Thanh Hóa đến Bắc Quảng Trị dự kiến xuất hiện mưa lớn với tổng lượng phổ biến 50–150mm, cục bộ có nơi trên 200mm.

Bão số 13 Kalmaegi là cơn bão mạnh nhất châu Á từ đầu năm đến nay, khiến ít nhất 140 người thiệt mạng tại Philippines trước khi đổ bộ vào Việt Nam.

Getty Images

#BBCNewsTiengViet #baoso13 #Kalmaegi #thientai


 

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

13/11/2010

  • Nguyễn Hoàng

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

Trong Thay Lời Tựa cho cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1992, ông Vương Hồng Sển cho biết ông có tánh ham mê đọc sách từ nhỏ. Ông gọi “sách là bạn cố tri trung thành”, ông coi cuốn sách là của riêng, “y như vợ nhà, và nếu thuở nay không đời nào ai cho mượn vợ, thì xin các bạn hiểu giùm vì sao tôi ít cho mượn sách.” Bởi vì chính ông, ông cũng không bao giờ mượn sách của ai, lý do theo ông, sách mượn phải đọc hối hả để mau trả, mà đọc hối hả thì mất thú. Khi nào lựa được một cuốn sách hay thì giá nào ông cũng phải mua cho bằng được. Ông viết: “Khi đọc và lúc cao hứng, tôi thường ghi lại bên lề trang sách những cảm tưởng nhứt thời, không khác được tỉ tê tâm sự với một bạn cố giao bằng xương bằng thịt.”

Về cách đọc sách, ông cho biết ông đọc chậm rãi, không tiếc thì giờ bỏ ra cho việc đọc sách. Nhưng cũng có khi ông đọc “ngấu nghiến còn hơn bồ câu ra ràng nuốt mồi không kịp đút,… y như chó gặm xương, như mèo mới sanh được mẹ nhường mồi dạy ăn, vừa ngừ nghè sợ mất mồi, vừa gầm gừ tiếng rên nho nhỏ vì khoái trá và vì sợ miếng ngon chóng hết hoặc anh chị nào đồng lứa sắp giựt phỏng trong mồm.” Ông viết “cũng vì tật ham đọc sách hay, đọc quên ăn, quên ngủ, thậm chí có khi quên cả phận sự buồng the, cho nên chỉ tồn đã hai phen bị giựt vợ, bị cắm sừng mà không tởn.” [Sđd. Tr 7]

Ông Vương Hồng Sển có thú chơi sách đặc biệt. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản mà ông quan tâm, ông luôn luôn mua 2 cuốn. Ông đánh số và ghi vào sổ bộ hẳn hoi, theo cách thức của thư viện, để dễ tra cứu. Một cuốn để lưu trữ, trưng bày trong hàng chục tủ sách đặc biệt có cửa kính, để giữ cho cuốn sách luôn mới. Còn cuốn thứ hai thì ông dùng để đọc. Mọi người thường ngồi ghế hoặc nằm trên giường, trên ghế trường kỷ, ghế sô-pha để đọc sách. Riêng ông Vương có thói quen nằm võng đọc sách. Ông nói, vừa đu đưa chiếc võng, vừa đọc sách, vừa nghiền ngẫm, ông cảm thấy là rất thú vị.

Ông Vương lưu trữ gần đủ các ấn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, in ở trong nước và ở nước ngoài, kể cả các bản dịch ra tiếng ngoại quốc. Cuốn Thú Chơi Sách của ông xuất bản năm 1962 liệt kê có tất cả 26 ấn bản Truyện Kiều đang được lưu trữ tại “thư viện” của ông vào năm đó.

Ông có thói quen đánh máy các bản thảo với cái máy chữ cũ kỹ sắm hồi thời Tây. Ông ít khi viết nháp bằng tay.

*****

Có thể nói, ngoài việc mê sách, chơi sách, ông Vương Hồng Sển còn là người chịu khó sưu tập những bài báo và các tài liệu liên quan đến những nhân vật đã nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà ông quan tâm. Ông mở một hồ sơ cá nhân cho mỗi người. Khi cần tiểu sử, thành tích và sự nghiệp của một người nào đó thì ông có tài liệu ngay tại nhà. Từ nhiều năm, ông sưu tầm và thâu thập những phương ngữ Miền Nam, mỗi từ ghi chép vào một phiếu cứng, xếp theo thứ tự ABC. Nhờ vậy mà khi ông qu‎yết định biên soạn cuốn Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam thì công trình của ông xem gần như hoàn tất.

Trong cuốn Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương thổ lộ đời của ông, cái gì cũng cũ, cũng vá víu, cũng tạm bợ: nhà, thì mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, nhưng ở cho đến nay; vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp. Về sách vở, đĩa hát và đồ cổ, … thì càng đúng hơn. Ông viết:

“Đồ cổ, xem lại hết sức chung tình với tôi. …. Mua tháng này một cái dĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười họa, gặp, mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ: dầm, bàn, tống, tốt. Dầm: dĩa nhỏ; bàn: dĩa lớn; tống: chén lớn để dầm trà; tốt hay quân: chén để uống trà. Duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu…

Còn sách, những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng “liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ “cho phép để trong nhà”, xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thế thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.

Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp củm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quí, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gã chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm mùi tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ…”* [sđd, tr. 655-656]

Tôi thích sự thành thật của ông Vương. Nó cho thấy đời ông gắn liền với những gì xưa, cũ và «bất hợp lệ…”.

Trong cuốn Sài Gòn Tạp Pín Lù, ông Vương viết: “…Sài Gòn Năm Xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt ‘khảo cứu’ chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài Gòn Năm Xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm.” (Biểu viết lại, nhưng biết sống bao lâu mà làm?) – (Sđd tr. 95).

Thật ra, ai đọc những trang sách của ông Vương – bất cứ cuốn nào, chứ chẳng riêng gì cuốn Sài Gòn Năm Xưa – đều thấy ông Vương đúng là người viết “không khoa học, không trật tự, và thường lập đi lập lại”,…. Trong mục Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình (sđd tr. 94), ông Vương biện minh rằng bản tánh ông xưa nay “không gò gẫm, không ‘hành văn’ và chỉ viết như nói thôi. »

Nói là tự nhận lỗi, nhưng thật ra là ông Vương tự biện minh. Và rõ ràng, càng biện minh ông càng cho thấy ông coi thường người đọc khi ông viết: «Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe, và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng ‘cố tình không muốn tránh’.”

Sự khiêm tốn của ông Vương có một, nhưng lòng kiêu căng của ông có tới mười. Trước 1975, tôi có đôi lần gặp ông Vương. Và mặc dù không thích cách viết của ông, tôi vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng ông. Tôi không thích cách viết của ông: dài dòng, lê thê, đầy tĩnh từ và lập lời lập ý như một bà già khó tính khi dạy dỗ la rầy con cháu! Tôi thường bỏ giữa chừng những trang sách của ông. Tôi nghĩ, – và có lúc đã nói với anh Trần Phong Giao là nếu ông Vương cho phép tôi biên tập những cuốn sách của ông – ví dụ cuốn Sài Gòn Năm Xưa, 330 tr., tôi có thể viết gọn lại chừng 200 tr. mà không sợ phản bội tác giả. Trần Phong Giao đồng ý, nhưng anh nói, cậu không nên đụng vào ông ấy, đến như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bảo hãy đứng xa ông Vương ra một bước! Liệu cái thần hồn cậu! Tôi kể lại chuyện này chỉ muốn nói một điều, người đọc sách Sài Gòn dù trân trọng kiến thức [về hiểu biết của một “người chơi cổ ngoạn”] của họ Vương, vẫn nhận ra tính chất thiếu khoa học, vô trật tự và sự lập đi lập lại nhiều lời với chỉ một ý… của ông, chứ không cần phải chờ đến sau tháng Tư 1975, “Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng…” mới nhận ra điều ấy nơi ông.

Ông không thể coi thường những người đọc sách ông trong nửa miền Nam của đất nước trước đây. Người đọc yêu mến tài năng “khảo cổ” của ông, quý phục kinh nghiệm trường đời của ông, kính trọng tuổi tác của một bậc lão thành trong làng văn trận bút của ông… nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nhìn ra sự lê thê, luôm thuộm, rề rà, không trong sáng trong bút pháp của ông. Dù sao, tôi nghĩ, nên đọc những trang sách của ông Vương với một nụ cười.

Hy vọng được nghe nhiều tiếng nói khác của người đọc chúng ta. [NXH]

* Ông Vương Hồng Sển là hậu duệ người Trung Hoa, lưu dân Triều Châu, đến định cư tại Miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 17. Ông sanh tại Sốc Trăng [chữ Sốc Trăng, ông Vương luôn viết có dấu ^] ngày 27 tháng 9 âm lịch, Nhâm Dần (1902), nhưng trên giấy thế vì khai sanh được ghi ngày 4-11-1904. Tên của ông theo tiếng Hán-Việt là Vương Hồng Thịnh. Người Hoa đọc Thịnh là Sển. Trong đơn xin thi thiết lập giấy thế vì khai sanh, gia đình ghi là Vương Hồng Sển.

Năm 1923, ông Vương tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Ra trường, ông làm công chức tại nhiều nơi, Sài Gòn, Sốc Trăng, Cần Thơ. Chức vụ cuối cùng trong đời công chức của ông là quản thủ bảo tàng viện Blanchard de la Brosse (trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn) từ năm 1948 đến 1964.

Ông Vương Hồng Sển từ trần ngày 9-12-1996 tại Sài Gòn, hưởng thọ 92 tuổi, được an táng tại Sốc Trăng.

Ông đã sống gần trọn chiều dài của thế kỷ 20 và là tác giả của một số tác phẩm tiêu biểu:

– Sài Gòn Năm Xưa, in lần đầu 1960 [226 tr.], tái bản năm 1969 [328tr.]
– Thú Chơi Sách, 1960 [167tr.]
– Hồi Ký 50 Năm Mê Hát, 1968 [254tr.]
– Phong Lưu Cũ Mới, 1970 [310 tr.]
– Chuyện Cười Cổ Nhân, 1971 [253 tr.]
– Hiếu Cổ Đặc San, gồm 9 cuốn về đồ sứ men lam Huế, 1970-1972, nhưng chỉ in được có 6 cuốn.
– Hơn Nửa Đời Hư, 1992 [684 tr.]
– Sài gòn Tạp Pín Lù, 1992 [160 tr.]
– Nửa Đời Còn Lại, 1996 [434 tr.]
– Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam, 1994.

https://www.voatiengviet.com/a/sach-cua-vuong-hong-sen-11-13-2010-107813559/916917.html


 

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cuộc đời và tác phẩm

– Nguyễn & Bạn Hữu

July 10th, 2020

Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long, là một nhà văn miền Nam. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận định: Trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của bà cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ ngôn phong, từ ngữ sử dụng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi của các nhân vật.

Năm 1965 bà lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết văn, bên cạnh đó còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.

Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, Thụy Vũ đã xuất bản 10 tác phẩm gồm 3 tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và 7 tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.

Sau 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ không thể tiếp tục cầm bút do tác phẩm bị quy là đồi trụy, bà phải bươn chải với những công việc khác để nuôi đàn con, trong đó có một người sống đời thực vật. Bà từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê… những công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham được.

Hiện nay đời sống của bà tương đối ổn định khi bà về Bình Phước dựng nhà trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ðó là sau khi bà nhận được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua bài viết của một bạn văn mô tả cuộc sống lây lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Bà đang sống với gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ

Về cha của các con bà, nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà cho biết: Ổng đi học tập cải tạo. 13 năm ổng đi học tập, tôi có đi thăm ông một lần duy nhứt. Sau đó ổng đi Mỹ với gia đình… (theo NT Kim Cúc)

Về chi tiết này, nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong một bài viết nhan đề “Thụy Vũ: Mỉm cười với nghiệt ngã” ghi nhận: Tôi chợt buột miệng hỏi, rồi lại hối hận đáng lẽ không nên hỏi, về nhà thơ tác giả bài Ta Về, Anh Hùng Tận, chị không một thay đổi sắc mặt hay bất bình, trả lời như chuyện của người khác: ‘Ổng gọi về nhiều lắm nhưng mà không có nói chuyện với tôi, nói chuyện cả giờ với con dâu.’ Tôi nghe tiếng ổng liền nhớ đến biết bao nhiều lần trong truyện ngắn như là tự truyện chị dùng thiệt nhiều lần từ tía sắp nhỏ vừa thương mến vừa xót xa vừa cách phân.

Nhà văn Ðoàn Dự cũng cho biết:

Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi, tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Ðinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Ðinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. (Trích theo Phan Nguyên)

Một điều an ủi cho Nguyễn Thị Thụy Vũ là những sách của bà (10 cuốn) đã được nhà Phương Nam tái bản: Tất cả đều là sách đã in tại Sài Gòn trước 1975, đây có thể xem là toàn bộ sự nghiệp văn chương của bà, đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền: Lao vào lửa, Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường lạnh, Ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên…

Ðược hỏi bà cảm thấy thế nào khi tất cả tác phẩm trước năm 75 đều đã được tái bản. Nguyễn Thị Thụy Vũ thành thật trả lời: “Tôi rất vui. Sách in đẹp, tất cả lỗi chính tả đều được sửa rất kỹ. Tôi thấy mình thật may mắn khi nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều bè bạn, cả bạn cũ và bạn mới. Tôi xin cảm ơn cuộc đời và bè bạn…”

Tất nhiên là chúng ta cùng chia sẻ niềm vui với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhân đây cũng xin trình bày rõ thêm về những nỗi vất vả và khổ đau vô cùng tận cùng những may mắn dù có hơi trễ muộn trong đời nhà văn.

Thụy Vũ tâm sự với nhà báo Ngô Thị Kim Cúc:

“Cuộc sống sau ‘giải phóng’ vô cùng khó khăn. Tui một mình nuôi bầy con nheo nhóc, có đứa bị thiểu năng nằm một chỗ. Tui phải để nó cho mấy đứa lớn cho ăn, chăm sóc còn mình thì đi làm thuê bán vé xe bus cho một người bạn.

“Xe chạy tuyến Thủ Ðức – Sài Gòn, từ sáng đến tối mịt mới về nhà. Về đến nhà thấy con cái đứa thì nằm ngủ trên vũng nước đái, đứa lêu lổng đi chơi không cho em ăn… nhìn cái cảnh đó tui muốn chết đi cho rồi. Khó khăn quá, năm 1980 tui bồng bế tụi nhỏ về Bình Phước nương nhờ má cho đến bây giờ,” bà kể.

Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…”

Làm nhiều nghề kiếm sống nuôi con, từ chăn dê, buôn bán, trồng tiêu… cây bút nữ dấn thân nhất của văn đàn miền Nam trước 1975 đã không còn viết gì nữa kể từ sau “giải phóng”. Bà kể: “Ổng (tức, Tô Thùy Yên) thì theo gia đình vợ con ổng đi sang Mỹ, có đời sống riêng. Tui làm đủ nghề lo cho con.

“Ba đứa con tui cũng thành nhân, yên bề gia thất. Có một thằng làm thơ, người ta nói nó có chịu ảnh hưởng của cha nó. Nhưng mấy con tui, đứa nào cũng nghèo, chẳng giúp gì được mình. Tui sống nhờ đứa con bị tàn tật.

Người mô tả về xã hội bên lề Sài Gòn khốc liệt một thuở lại cũng chính là người chịu đựng những hệ lụy mà chiến tranh để lại.

Trở lại văn đàn trong nước sau gần nửa thế kỷ, trong bối cảnh sách vở văn chương đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn và phân hóa mạnh mẽ, thì tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ minh chứng rằng, những gì là chân giá trị sẽ không bị phủ lấp dưới bụi thời gian và những định kiến.

Xin được cảm thông với bao nỗi đời nghiệt ngã của nhà văn và mừng bà bước vào giai đoạn gọi là yên vui của cuộc đời. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ chắc chắn sẽ còn sáng mãi với thời gian.

NGUYỄN & BẠN HỮU – tổng hợp


 

Nữ ‘đại gia,’ vợ ca sĩ nổi tiếng, lừa đảo 26,000 người, thu hơn $346 triệu

Ba’o Nguoi-Viet

November 4, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nữ tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam ở Hà Nội, được biết đến là vợ của một nam ca sĩ nổi tiếng, bị cáo buộc lừa gạt hàng chục ngàn người để chiếm đoạt hàng trăm triệu đô la.

Theo báo Tuổi Trẻ hôm 4 Tháng Mười Một, sau tám tháng điều tra bổ sung, Viện Kiểm Sát Thành Phố Hà Nội đã truy tố bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam (Nhật Nam Group), cùng các đồng phạm về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “rửa tiền.”

Bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Công ty bất động sản Nhật Nam. (Hình: VnExpress)

Bị can Vũ Thị Thúy, 44 tuổi, quê Thanh Hóa, được biết đến là vợ của ông Phạm Khánh Phương, tức ca sĩ Khánh Phương.

Theo cáo trạng, Nhật Nam Group thành lập Tháng Bảy, 2019.

Để “lùa gà” (từ ngữ để chỉ hành động dụ dỗ), bị can Thúy đã sử dụng các thủ đoạn gian dối như đưa ra thông tin quảng cáo trên các trang mạng truyền thông, mời những người có uy tín, địa vị xã hội để giới thiệu, quảng bá về việc Nhật Nam Group đầu tư mua nhiều bất động sản, nhà hàng, khách sạn có giá trị lớn trải dài từ Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk đến Tây Ninh, Phú Quốc… “kinh doanh có hiệu quả” và cam kết phân chia lợi nhuận (cả tiền gốc, lãi) theo ngày với mức 7%-8%/tháng, lợi nhuận thu về sau hai năm 168%-192% giá trị hợp đồng.

Tuy nhiên, thực tế Nhật Nam Group đầu tư bất động sản nhưng không có lãi, hoạt động nhà hàng, khách sạn… thì thua lỗ dẫn đến đóng cửa.

Cơ quan điều tra cáo buộc, từ Tháng Bảy, 2019 đến Tháng Sáu, 2023, bị cáo Thúy đã lừa gạt 25,925 người, ký 43,314 hợp đồng hợp tác kinh doanh với Nhật Nam Group, thu hơn 9,113 tỷ đồng ($346.2 triệu).

Bị can Thúy sử dụng gần 4,300 tỷ đồng ($163.4 triệu) để trả tiền gốc, lãi cho chính các nhà đầu tư. Số tiền còn lại hơn 4,800 tỷ đồng ($182.4 triệu) đã bị bà ta chiếm đoạt sử dụng cá nhân, đến nay không còn khả năng chi trả.

Nhiều nhà đầu tư sau đó thấy dấu hiệu bị lừa đảo nên đòi tiền, đòi chất vấn. Một số người đã làm đơn tố cáo bà giám đốc với cơ quan công an.

Trước đó, bị can Thúy cũng đã từng có một tiền án về tội lừa đảo.

Sau khi điều tra, hôm 31 Tháng Tám, 2023, Phòng Cảnh Sát Kinh Tế Công An Hà Nội đã bắt giữ bị can Vũ Thị Thúy với cáo buộc “cung cấp thông tin đầu tư sai sự thật về bất động sản để lừa đảo chiếm đoạt số tiền “đặc biệt lớn.”

Ca sĩ Khánh Phương và vợ – bị can Vũ Thị Thúy. (Hình: Dân Trí)

Ngoài ra, bị can Thúy bị xác định đã chỉ đạo các nhân viên kế toán thực hiện việc rút tiền, chuyển tiền ra khỏi tài khoản của Nhật Nam Group rồi chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp do phạm tội mà có.

Từ đó, bị can Thúy sử dụng 120 tỷ đồng ($4.5 triệu) và nhờ người khác ký hợp đồng mua bất động sản, đầu tư mua cổ phiếu. Đây là hành vi khiến bà này bị Viện Kiểm Sát truy tố thêm tội “rửa tiền.”

Liên quan vụ án, trả lời công luận sau khi vợ bị bắt, ca sĩ Khánh Phương nói mình cũng là một nhà đầu tư tại Nhật Nam Group và “cũng thiệt thòi, mất mát giống như nhiều nhà đầu tư khác, thậm chí… mất nhiều hơn.” (Tr.N) [kn]


 

Triều đình phong kiến làm gì khi thiên tai?

Ba’o Tieng Dan

04/11/2025

Thái Hạo

3-11-2025

Bản dập Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 135, mặt khắc 26, ghi chép việc vua Minh Mạng ra dụ kêu gọi giúp dân Bắc Kỳ bị lũ lụt năm 1834. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia

  1. Cũng giống như bây giờ, mỗi khi bị thiên tai (bão tố, lũ lụt, hạn hán bất thường và nặng nề), các triều đình phong kiến (quân chủ) sẽ thực hiện việc cứu tế, mở quốc khố, phát chẩn cho dân bằng tiền, lúa, gạo, cơm ăn… Các kho lẫm dành riêng cho cứu tế sẽ đặt ngay tại địa phương, khi có tình huống xấu xảy ra thì lập tức hành động. Và công việc này chủ yếu do nhà nước đảm nhiệm, lý do là triều đình coi đó là việc tất nhiên của mình. Thêm nữa, thời đó giao thông chia cắt, đi lại khó khăn, phương tiện hạn chế, nên dân vùng khác muốn giúp cũng rất khó.

Bây giờ thì dân cứu dân rất nhiều: Quyên góp tiền bạc, tổ chức nấu ăn, vận chuyển nhu yếu phẩm, tổ chức cứu nạn…, đôi khi làm lu mờ cả hình ảnh của nhà nước.

Biển nước đe dọa Hà Nội trong trận lụt lịch sử năm 1926, thời vua Bảo Đại. Nguồn: Aeronautique Militaire

  1. Ngoài cứu đói, thời phong kiến triều đình còn thực hiện những việc rất đặc biệt.

Nhà vua cho rằng đất nước có thái bình thịnh vượng hay không là do cái đức của bản thân. Vì thế, mỗi lần thiên tai, vua sẽ tự trách, cho đó là vì “đức mỏng”, chưa sửa mình được tốt, nên tai họa mới ập xuống.

Lễ tế trời đất được thực hiện. Nhiều ngày trước khi diễn ra lễ tế, nhà vua sẽ ăn chay, giữ tâm ý lành thiện, ra lệnh cấm sát sinh… Hoàng thân và triều thần đều hưởng ứng và phải đồng lòng.

Những quan niệm và hành động này không phải chỉ là một kiểu “mê tín”, mà nó xuất phát từ tư duy trung đại, coi thiên – địa – nhân là hợp nhất, mọi thay đổi của tự nhiên đều có bàn tay và tâm ý con người. Vì thế muốn “yên thiên hạ” thì phải “sửa mình”.

Cũng vì thế mà lễ tế sẽ đi cùng với hành động (ăn chay, cấm giết hại…) chứ không phải chỉ hình thức, nói suông.

Hành động còn thể hiện ở việc mỗi lần thiên tai, triều đình sẽ cho điều tra, xem quan địa phương có bóc lột dân không, có gây ra bất công và điều ác gì khiến lòng dân oán hận hay không. Cách chức quan địa phương nếu vùng đó thường xuyên bị thiên tai bất thường, vì cho rằng họ kém đức nên mới bị giáng họa như thế.

Không chỉ sám hối và tự trách bằng lễ tế, triều đình còn miễn giảm thuế, hoãn sưu dịch. Ví dụ, năm 1442 sau lũ lụt lớn, vua Lê Nhân Tông miễn toàn bộ thuế cho vùng Thanh Hóa. Triều đình cũng có chính sách nhân đạo đặc biệt, như chôn cất người mất, nuôi dưỡng cô nhi quả phụ do thiên tai; không xử tội hình sự, tạm dừng tra khảo trong thời gian thiên tai; tổ chức ân xá cho tội nhân…

Tất cả các chính sách này là nhằm để thể hiện đức hiếu sinh, hiển bày đức độ của nhà vua nhằm “cảm động lòng trời”; và quan trọng là để an dân, cảm hóa và tạo niềm tin với dân.

  1. Bỏ qua những khác biệt về tư duy, quan niệm và những yếu tố mà người bây giờ gọi là “mê tín”, thì hành xử của triều đình phong kiến có nhiều điều vẫn đáng để chính quyền hiện đại tham khảo. Ngoài công tác cứu trợ, cứu hộ, cứu nạn cần được đồng bộ, nhanh và hiệu quả thì các chính sách lâu dài như đê điều, trồng lại rừng, quy hoạch lại thủy điện là rất cần kíp.

Bên cạnh đó, nạn quan tham, việc tiêu xài phung phí, sự lãng phí khổng lồ (như cái tòa nhà Bộ Ngoại giao 4000 tỉ bỏ hoang trên khu đất vàng giữa thủ đô) không thể tái diễn mãi. Quan chức và “triều đình” ngừng lễ lạt, tránh xa hoa, tập trung giải quyết hậu quả và chia sẻ với đồng bào. Việc Hà Nội tính bắn pháo hoa giữa lúc miền trung đang bị nhấn chìm trong lũ dữ là một sự vô cảm và thất đức, khiến lòng người oán ghét.

Khó khăn nào rồi dân cũng sẽ vượt qua, nhưng một sự thịnh vượng lâu dài bền vững không thể không có sự tin tưởng, đồng lòng và yêu mến mà dân dành cho nhà nước. Lòng dân bao giờ cũng là điều hệ trọng…


 

Nó vừa chính thức đóng cửa quán ….

Chuyện tuổi Xế Chiều

Tối qua, tôi với thằng bạn ngồi lì trong quán, nhìn nó cúi mặt mà thấy nghẹn.

Nó vừa chính thức đóng cửa quán, sau hơn hai năm cố gắng gồng gánh. Không phải vì hết vốn, mà là hết sức, hết niềm tin, hết chịu nổi.

  1. KHÔNG CÒN KHÁCH.

Cái đau đầu tiên và rõ nhất. Ngày xưa, quán lúc nào cũng có tiếng cười, mùi cà phê thơm, khách quen ghé chuyện trò.

Giờ mở cửa ra, là cảnh bàn ghế trống, ly cà phê nguội ngắt, mà đồng hồ điện thì vẫn quay, hóa đơn vẫn tới.

Mỗi đêm, nhìn ánh đèn quán hắt ra con đường vắng, nó bảo: “Tao thấy như tiền mình đang chảy theo nước cống vậy đó bro.”

Mấy tháng đầu nó còn cười, còn tự trấn an “rồi sẽ khá hơn”. Nhưng lâu dần, tiếng cười cũng tắt. Không phải vì hết tiền, mà vì hết động lực.

  1. THUẾ – CÁI ÁP LỰC KHÔNG NHÌN THẤY.

Nó nói, “thuế giống như cái dây thòng lọng, siết từ từ, không đau liền nhưng nghẹt thở.” Làm thì phải đóng, không ai trốn được. Nhưng vấn đề là, mấy cái chi phí phát sinh, thuế nọ thuế kia, cứ tăng dần mà không ai báo trước. Làm hoài, làm mãi, cuối cùng thấy mình chỉ là cái công cụ để nộp thuế.

Mệt mỏi nhất là cái cảm giác, dù có cố gắng cỡ nào, vẫn không thoát nổi.

  1. TIỀN THUÊ MẶT BẰNG – CÁI DÂY CÓ GAI.

Giá thuê giờ cao hơn cả lợi nhuận. Chủ nhà thì cứ nghĩ người thuê giàu lắm, có tiền mở quán là có tiền trả. Nhưng họ đâu biết, bên trong đó là cả đống nợ, là nước mắt, là áp lực gia đình. Nó nói, mỗi lần chủ nhà nhắn “tới hạn rồi nha”, là tim nó đập loạn, người run. Bán không đủ, vẫn phải trả, mà nếu không trả – bị khóa cửa, mất luôn cả vốn liếng, uy tín.

“Tao làm, không phải để sống, mà để tồn tại. Mà tồn tại kiểu này thì khác gì bị bóp cổ từng ngày.”

  1. NỖI ĐAU KHÔNG AI NHÌN THẤY.

Không ai thấy những đêm nó thức đến 2–3 giờ sáng, ngồi cộng sổ, gạch chi phí, vừa tính vừa rớt nước mắt.

Không ai thấy cảnh nó giấu vợ, giấu con, nói “ổn lắm”, trong khi ví không còn nổi 100 ngàn

Không ai thấy cảnh nó ngồi ngoài hiên, nhìn bảng hiệu quán mình dựng bằng cả giấc mơ bây giờ phải tháo xuống, từng chữ, từng ký ức…


 

SAU TINH GỌN: CẤP PHÓ MỌC NHƯ NẤM SAU MƯA

Người ta nói sáp nhập để tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, tiết kiệm ngân sách và tăng hiệu quả quản lý. Nhưng ở Việt Nam, cái gọi là “tinh gọn” lại đang phình ra. Càng sáp nhập, bộ máy càng đồ sộ, số cấp phó càng sinh sôi như nấm sau mưa.

Chỉ riêng con số 9 Phó Thủ tướng đã đủ

khiến người ta choáng váng. Một quốc gia không quá lớn về diện tích, dân số, cũng chẳng phải nền kinh tế đầu tàu thế giới, lại có số Phó Thủ tướng nhiều gấp ba, gấp bốn so với các nước phát triển.

Thế nhưng, nghịch lý ấy không dừng ở cấp trung ương. TP.HCM, Sở Tài chính có đến 18 phó giám đốc, một “đội hình” mà nếu xếp ghế họp thôi cũng phải mất nửa ngày.

Một đất nước với ngân sách còn phải chắt chiu từng đồng cho giáo dục, y tế, an sinh, lại chi hàng nghìn tỷ mỗi năm để trả lương cho các “ông phó”. Những con người mà đôi khi, chức danh nhiều hơn cả công việc thực tế.

Sáp nhập mà không giảm ai, chỉ đổi tên ghế, thì đó không phải là tinh giản, mà là tái sinh bộ máy cồng kềnh trong hình hài mới. Một bộ máy mà số phó ngang ngửa số dân thế này thì dân trả lương sao cho nổi?

Hiểu Lam