Những nạn nhân đầu tiên bị CSVN đàn áp ngày 30 Tháng Tư, 1975

Ba’o Nguoi-Viet

May 4, 2025

Chuyện Vỉa Hè

Đặng Đình Mạnh

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, đã đi vào lịch sử Việt Nam như một trang sử đau thương, đánh dấu sự sụp đổ của chính thể Việt Nam Cộng Hòa và mở đầu cho giai đoạn đen tối của đất nước dưới sự cai trị độc tài của Cộng Sản Việt Nam.

Thương binh VNCH được săn sóc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, thuộc quận Gò Vấp. (Hình: VNCH Today)

Sau thời khắc này, tất cả quân, dân, cán, chính miền Nam đều lần lượt bị đàn áp, như một sự trả thù vì đã phụng sự trong chính thể Việt Nam Cộng Hòa.

Có điều, họ chỉ bắt đầu bị điểm danh vào sau ngày 30 Tháng Tư, 1975. Thế nhưng, có những người bị đàn áp ngay tức khắc từ buổi chiều ngày 30 Tháng Tư theo cách phi nhân, táng tận lương tâm và độc ác nhất mà loài người chỉ có thể tưởng tượng ra. Hơn nữa, họ, những người bị đàn áp cũng không phải là những người khỏe mạnh.

Đó là những thương binh Việt Nam Cộng Hòa đang nằm điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Thật vậy, trong những giờ phút hỗn loạn cuối cùng vào những ngày cuối Tháng Tư, hàng nghìn binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn chiến đấu để bảo vệ tự do cho miền Nam, và rất nhiều người trong số họ đã phải gánh chịu những vết thương chiến tranh trên cơ thể mình.

Tổng Y Viện Cộng Hòa, một trong những bệnh viện lớn nhất Sài Gòn, đã trở thành nơi chứng kiến những đau đớn thể xác và tinh thần của những binh sĩ này, những người mà sau đó đã trở thành những nạn nhân đầu tiên của sự đàn áp và trả thù từ phía Cộng Sản Việt Nam.

Ngay cả vào ngày 30 Tháng Tư, năm 1975, ngày cuối cùng của cuộc chiến, tại một số khu vực trên đường phố đô thành Sài Gòn vẫn còn sự kháng cự của nhiều đơn vị binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, như tại Tân Cảng, Thị Nghè, Bảy Hiền… để ngăn bước tiến công của quân đội Bắc Việt.

Còn kháng cự là vẫn còn thương binh, Tổng Y Viện Cộng Hòa nằm ở khu vực Gò Vấp vẫn là nơi tiếp nhận hàng loạt thương binh được đưa về điều trị thương tích. Các bác sĩ và y tá làm việc không ngừng nghỉ, cố gắng cứu chữa những người lính bị thương nặng. Tiếng rên rỉ, tiếng khóc than và mùi máu tanh nồng bao trùm cả bệnh viện.

Ngoài số những binh sĩ bị thương mới được đưa về, vẫn gồm cả những binh sĩ đã chiến đấu ở tuyến đầu, bảo vệ từng tấc đất của miền Nam. Họ bị thương vì đạn pháo, bom mìn, và súng trường. Nhiều người mất đi một phần cơ thể, có người bị mù, có người bị liệt.

Tổng Y Viện Cộng Hòa, nơi gìn giữ hy vọng của thương binh

Tổng Y Viện Cộng Hòa, tọa lạc khu vực Gò Vấp, Sài Gòn. Nơi đây là cơ sở y tế quân sự lớn nhất của Việt Nam Cộng Hòa, với sức chứa lên đến 1,800 giường vào thập niên 1970. Tổng Y Viện được trang bị hệ thống y tế tiên tiến, cùng với đội ngũ bác sĩ tận tâm và sự hỗ trợ từ các chương trình viện trợ quốc tế, Tổng Y Viện Cộng Hòa không chỉ là nơi chữa lành vết thương thể xác mà còn là biểu tượng của hy vọng cho những người lính đã mất đi một phần cơ thể hay sức khỏe trong chiến tranh.

Những thương binh tại đây mang trên mình những vết thương kinh hoàng: Cụt tay, cụt chân, mù mắt, hay những vết thương nội tạng phức tạp. Theo thống kê, khoảng 35,000 thương binh bị cụt chi và 31,000 người mù mắt do chiến tranh đã từng được điều trị tại Tổng Y Viện.

Thời điểm chấm dứt cuộc chiến, nhiều người trong số họ vừa trải qua các ca phẫu thuật, vẫn còn băng bó, nằm bất động trên giường bệnh, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc y tế. Đối với họ, Tổng Y Viện Cộng Hòa là nơi duy nhất mang lại cơ hội sống sót và hồi phục, dù mong manh.

Ngày 30 Tháng Tư 1975, bi kịch bắt đầu

Khi xe tăng của Cộng Sản Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập, trái tim của đô thành Sài Gòn vào trưa ngày 30 Tháng Tư. Chỉ độ vài giờ đồng hồ sau đó, thảm kịch nhân đạo đã diễn ra tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Theo các nhân chứng và tài liệu lịch sử, ngay sau khi chiếm được Sài Gòn, Cộng Sản Bắc Việt đã tiến vào Tổng Y Viện Cộng Hòa. Thay vì tôn trọng luật nhân đạo quốc tế về việc bảo vệ bệnh nhân và cơ sở y tế trong chiến tranh, họ đã ra lệnh xua đuổi tất cả các thương binh Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi bệnh viện.

Một bài viết trên Việt Báo Online mô tả: “Trong các quân y viện khắp miền Nam, mọi thương bệnh binh Cộng Hòa đều bị đuổi ra đường.” Những người lính này, nhiều người còn đang trong tình trạng nguy kịch, bị buộc phải rời khỏi giường bệnh, bất kể vết thương chưa lành hay tình trạng sức khỏe yếu ớt.

Hạ Sĩ Nhất Võ Phùng Dương, một thương binh tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, là một trong những nhân chứng sống của sự kiện này. Trong bài đăng trên mạng xã hội X vào ngày 30 Tháng Tư, 2025, đã chia sẻ hình ảnh ông cùng câu chuyện đau lòng: “Chiều 30 Tháng Tư, 1975, quân Cộng Sản đã tràn vào Tổng Y Viện Cộng Hòa và đuổi hết các thương bệnh binh Việt Nam Cộng Hòa ra ngoài. Trong đó có nhiều người mới giải phẫu và vết thương chưa lành.”

Hình ảnh những thương binh lê lết trên đường phố Sài Gòn, với băng gạc thấm máu và thân thể tàn tật, là minh chứng sống động cho sự tàn nhẫn, phi nhân của hành động này.

Thương phế binh VNCH đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn để được giúp đỡ chữa bệnh suốt nhiều năm qua. Tuy nhiên, chương trình này phải chấm dứt hồi Tháng Tư, 2024, do các áp lực của nhà cầm quyền CSVN. (Hình: Tin Mừng Cho Người Nghèo)

Tội ác đàn áp, vết nhơ không thể xóa nhòa

Hành động đuổi thương binh ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa không chỉ vi phạm Công Ước Geneva về bảo vệ dân thường và thương binh trong chiến tranh, mà còn thể hiện sự vô nhân đạo của lực lượng chiến thắng. Những thương binh này không còn khả năng chiến đấu, không phải là mối đe dọa quân sự, và nhiều người thậm chí không thể tự di chuyển. Việc xua đuổi họ khỏi nơi điều trị là một hành động cố ý gây tổn hại, đẩy họ vào cảnh nguy hiểm và tuyệt vọng.

Nhiều thương binh, sau khi bị đuổi, không có nơi nương tựa. Gia đình họ, nếu còn ở Sài Gòn, thường không đủ khả năng chăm sóc trong bối cảnh hỗn loạn. Một số người đã qua đời trên đường phố do vết thương tái phát hoặc thiếu chăm sóc y tế. Những người sống sót phải đối mặt với sự kỳ thị và đàn áp từ chế độ mới.

Câu chuyện của ông Trần Văn Phụng, một thương binh mù cả hai mắt, cánh tay trái gãy và khuôn mặt dị dạng, là một ví dụ điển hình. Ông kể lại: “Tui chết đi sống lại. Tui nằm bệnh viện một năm trời.” Sau ngày 30 Tháng Tư, trợ cấp thương tật từ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không còn, gia đình ông rơi vào cảnh khốn cùng, phải buôn bán lặt vặt để kiếm sống. Những thương binh như ông không chỉ mất đi sự chăm sóc y tế mà còn bị tước đoạt phẩm giá và cơ hội tái hòa nhập xã hội.

Di sản của nỗi đau và bài học lịch sử

Sự kiện tại Tổng Y Viện Cộng Hòa ngày 30 Tháng Tư, 1975, không chỉ là một chương đau thương trong lịch sử Việt Nam mà còn là lời cảnh tỉnh về hậu quả của hận thù và sự thiếu nhân đạo trong chiến tranh.

Những thương binh Việt Nam Cộng Hòa, vốn đã hy sinh tất cả cho lý tưởng tự do, đáng lẽ phải được đối xử với lòng trắc ẩn, bất kể bên thắng hay thua. Thay vào đó, họ trở thành nạn nhân của một chính sách trả thù, đàn áp có chủ đích, nhằm xóa bỏ mọi dấu vết của chế độ cũ.

Hôm nay, khi nhìn lại biến cố 50 năm trước, chúng ta cần ghi nhớ câu chuyện của những thương binh tại Tổng Y Viện Cộng Hòa như một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc. Họ không chỉ là nạn nhân của chiến tranh mà còn là biểu tượng của sự kiên cường và hy sinh. Việc tố cáo tội ác này không nhằm khơi lại hận thù, mà để khẳng định giá trị của nhân quyền và lòng nhân ái – những điều mà nhân loại cần bảo vệ trong mọi hoàn cảnh.

Hãy để những vết thương của quá khứ trở thành bài học cho tương lai, để không một ai, dù là thương binh hay thường dân, phải chịu cảnh bị bỏ rơi hay đàn áp trong những thời khắc định mệnh của lịch sử.

Tài liệu tham khảo:
-Phùng Annie Kim, “Người Thương Binh và Bóng Tối Còn Lại,” Việt Báo Online.
-“Y tế Việt Nam Cộng hòa,” Wikipedia tiếng Việt.
-Bài đăng của @ThanhPhoSaiGon trên X, 30/4/2025.


 

50 Năm – Việt Nam Đang Ở Đâu, Làm Được Gì? Chau Doan

Chau Doan 

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm đang muốn đưa đất nước vào “kỉ nguyên vươn mình” và bài phát biểu nhân 50 năm ngày thống nhất đất nước đã gây được cảm hứng và hy vọng cho nhiều trí thức ở Việt Nam. 

Đấy là một việc tốt nhưng điều quan trọng là cần định vị đất nước đang ở đâu, điều cần thiết phải làm, mối nguy hiểm nào có thể rình rập và nếu là trí thức thực sự thì phải nhìn ra điều ấy thay vì tán thưởng với kiểu hời hợt và rỗng tuyếch. 

Để có thể đánh giá được thành tựu của một vị lãnh đạo trong vài năm tới, điều quan trọng là ta cần phải có một bàn cân có thể “cân đo, đong đếm” hiện trạng. Thực tế gần 50 năm thống nhất, đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền Việt Nam nói chung đã không hề tạo được một bước đột phá nào đáng kể trong việc lãnh đạo đất nước. Việc cố bí thư Nguyễn Phú Trọng tự hào thốt lên “đất nước ta đã bao giờ được như thế này chưa” thể hiện một tầm nhìn hạn hẹp, lạc quan tếu, một ý chí yếu ớt trong việc đưa dân tộc đi lên. 

Ở đây cần làm rõ mấy ý. Đừng mang cái đói nghèo của thời bao cấp ra rồi gật gù tâm đắc bảo: thấy chưa, xưa áo rách, cơm độn bo bo, giờ áo lành, bữa ăn đầy thịt cá, công của ai?

Cũng đừng mang cái ý như kiểu một người đàn ông bảo vợ: Xưa mà không có anh lấy thì em ế. 

Cũng đừng bảo đất nước ta mới qua chiến tranh, thế là tốt rồi. 50 năm là một quãng đường rất dài, bằng 2/3 đời người. Đủ để một dân tộc với ý chí quật cường như Việt Nam phát triển rực rỡ, hoàn toàn có thể ngang hàng hay hơn Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan… 

Giờ chúng ta hãy nhìn thực trạng của Việt Nam về mọi mặt. 

Về kinh tế, mặc dù tuyên bố tăng trưởng GDP cao nhưng thực chất 80% là do FDI mang lại, Việt Nam đơn giản là làm thuê cho nước ngoài trên chính đất nước của mình. Các “nắm đấm thép” của nhà nước đã biến thành những móng vuốt thép cào cấu nát bét ngân sách quốc gia.

Cuối năm 2023, Bộ Tài Chính điểm ra 1000 dự án lãng phí không hiệu quả, riêng Bộ Công Thương có 12 dự án thua lỗ nghìn tỉ với tổng mức đầu tư 63.610 tỉ đồng. 

20 tập đoàn kinh tế nhà nước chiếm giữ 80% tín dụng ngân hàng, họ là những đứa con đẻ được nuông chiều hết mực nhưng đóng góp không hề tương xứng với ưu đãi nhận được mà ngược lại làm góp phần suy yếu nền kinh tế. 

Trong khi ấy, nội lực kinh tế của một quốc gia thực chất phải nằm ở kinh tế tư nhân. Mô hình của Hàn Quốc cho thấy, những tập đoàn tư nhân sẽ phải tự bươn chải, chỉ khi lớn đến một mức nào đấy, đã chứng tỏ được năng lực, họ sẽ có được sự hỗ trợ nhất định của nhà nước và kết quả cho thấy Hàn Quốc đã trỗi dậy với những thương hiệu khổng lồ. 

Cùng với nó là nạn tham nhũng ngày càng tệ hại ở Việt Nam chắc chắn có liên quan tới năng lực yếu kém của những “đứa con đẻ” của nhà nước. 

Kinh tế yếu kém sẽ dẫn tới quân sự yếu kém, công nghệ yếu kém. 

Hãy mang những thành tựu của người anh em cùng ý thức hệ của chúng ta so sánh. 

Trung Quốc đang làm chấn động thế giới bởi sự vươn mình thực sự của họ. Nền kinh tế của họ là thực sự do nội lực cách doanh nghiệp trong nước. Họ chuyển từ những kẻ học việc, bắt chước thành những nhà sáng chế. 

Giờ đây Mỹ đang toát mồ hôi trong cuộc chiến về thành tựu vật lý lượng tử, máy tính lượng tử và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc, hàng hoá Trung Quốc tràn ngập khắp thế giới. Với đà này, với một dân số khổng lồ và nội lực vượt trội như vậy, nếu họ có vượt trội Mỹ về kinh tế và sức mạnh quân sự thì cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. 

Điều ấy liên quan tới vận mệnh dân tộc Việt Nam. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng có tầm nhìn bao quát thì thay vì thốt ra mấy câu cảm thán đầy hãnh diện thì ông đã nên thâm trầm mà nhìn ra nguy cơ khi đất nước ta phải sống cạnh ông bạn cùng lý tưởng, quá mạnh và vô cùng sâu hiểm. 

Hãy nhớ rằng khi anh em thân thiết nhất, hữu hảo nhất, chúng ta mất Hoàng Sa. Những năm trở lại đây Trung Quốc đã xây dựng 7 cơ sở quân sự ở Biển Đông. Những cơ sở quân sự thậm chí không có một bóng cây bởi mục đích đậm đặc của quân sự, đường băng, kho tàng vũ khí quân dụng. Họ xây dựng đảo không phải để sống, mà để tạo ra những cơ sở quân sự để kiểm soát biển Đông. 

Lãnh đạo Việt Nam nhận thức được điều này và đang nỗ lực xây dựng cơ sở quân sự ở Trường Sa nhưng với một nền kinh tế yếu kém, sự nỗ lực ấy không là gì so với thành quả xây dựng của Trung Quốc. 

Việt Nam đang trong một thế vô cùng hiểm nghèo, có thể thay câu nói của ông Trọng bằng câu nói: “Việt Nam đã bao giờ nguy đến thế này chưa?” 

Tại sao nguy, bởi phía Bắc giáp biên giới Trung Quốc, hướng biển Đông với 7 cơ sở quân sự của Trung Quốc và phía Tây Nam có Campuchia, một người anh em đang ngả hẳn vào vòng tay của Trung Quốc và tâm lý thù ghét có tính lịch sử với Việt Nam vẫn còn. 

Khi thằng hàng xóm xấu tính, đầy tham vọng ăn nuốt mà lại quá mạnh thì ta phải làm sao? Ta phải nỗ lực nâng cao năng lực, sức chiến đấu của mình, ta phải có đồng minh mạnh. Chơi với kẻ xấu tính, khi nó hữu hảo nhất, ta mất nhiều nhất, Hoàng Sa là minh chứng rõ ràng và đau đớn nhất. 

Trong khi nguy cấp như vậy nhưng quan chức Việt Nam lại khét tiếng là những thanh củi dự bị ngày càng to hơn. Lý tưởng, khát vọng xây dựng đất nước không có hay có nhưng quá yếu ớt, bị che lấp bởi lòng tham muốn kiếm lợi riêng. Cơ chế thiếu khoa học và bộ máy yếu kém lại chính là một cái công xưởng tạo ra củi, xong lại tự hào là mình đốt lò quyết liệt. Cái cần làm là trị tận gốc, tức là phải thay đổi cơ chế tạo ra củi, chứ không phải kiểu một tay tạo củi, tay kia đốt lò. 

Hãy nhớ kinh Trung Quốc được như ngày hôm nay là nhờ Đặng Tiểu Bình và hiện thời là Tập Cận Bình, hai người hiểu là muốn làm được việc lớn cho quốc gia, sự trong sạch với đồng tiền, với lợi ích riêng là điều cần thiết. 

Ông Nguyễn Phú Trọng sở dĩ có được một uy tín như vậy bởi ông là một người được đánh giá là trong sạch nhưng tiếc thay, tầm nhìn của ông quá hạn chế. Ông đắc ý về một thứ giá trị tầm phào như “ngoại giao cây tre”. 

Với thực trạng trung bình 10 người dân có một cán bộ, viên chức nhà nước, trung bình 5 lao động nuôi một viên công chức thì việc ông Tô Lâm cho tinh giản bộ máy, cắt giảm ngân sách của các tổ chức, hội nhóm trực thuộc nhà nước là một việc làm đúng đắn nhưng đấy mới chỉ là một bước nhỏ trong chặng đường trước mắt. 

Hãy nhìn vào khoa học kĩ thuật. 

Trong khi thế giới đang ráo riết và rầm rộ trong cuộc đua về máy tính lượng tử, trí tuệ nhân tạo, liên tục đạt được những thành tựu mới thì Việt Nam chỉ có con số không tròn trĩnh. 

Nói tới kỉ nguyên mới là phải nói tới những lĩnh vực này mà muốn phát triển được hai lĩnh vực này thì cần phải có ngân sách đáng kể dành cho R&D, nghiên cứu và phát triển nhưng tham nhũng như vậy, sự tích luỹ ngân sách yếu ớt như vậy thì làm sao có được R&D đáng kể? 

Do vậy, cái việc cắt giảm bộ máy cồng kềnh của ông Tô Lâm là hoàn toàn đúng. Hãy tạo ra một bộ máy tinh gọn để giảm gánh nặng cho ngân sách và cái quan trọng là phải tận diệt tham nhũng. 

Có dám làm quyết liệt hay không, bộ máy nằm trọn trong tay, không có gì là không thể nhưng đừng có kiểu tự hào đốt củi như ông Nguyễn Phú Trọng bởi với dưới góc nhìn của người dân củi là sản phẩm bộ máy của chính quyền và diệt tham nhũng chính trách nhiệm của các vị, không phải là thành tựu gì đáng để người dân tung hô. 

Hãy nhìn thực trạng của quản lý thị trường. Phải cắt đứt được vấn nạn nhập lậu qua biên giới Trung Quốc, Lào (tôi không rõ về biên giới Campuchia). Tôi đã phải có lúc 12 giờ đêm nằm phục để chứng kiến đoàn người vác đồ lậu xuyên biên giới. 

Doanh nghiệp Việt Nam nào có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập lậu như vậy? 

Rồi thực phẩm chức năng, thuốc tây, gần đây có 600 loại sữa giả lan tràn trên thị trường suốt bao năm. 

Đại dịch đã phô bày đạo đức cán bộ ngành y tế với que chọc mũi và những chuyến bay “giải cứu”. 

Tôi đau xót tự hỏi với đạo đức cán bộ như vậy thì bao dân oan mất đất đã phải tàn lụi trong đau khổ, uất ức. Những biệt phủ, siêu xe do các cán bộ buôn chỏi đót, nuôi lợn, chạy xe ôm thêm hay được xây bằng máu và nước mắt dân oan? 

Nếu thực sự “do dân vì dân” thì các vị phải nhìn thấu vấn đề. Trên con đường ra phía trước, các vị bảo không “bỏ lại ai phía sau” nhưng những người dân đã gục chết trên con đường tìm công lý thì làm sao chạy cho kịp với hành trình dân tộc? Phải chăng oan hồn của họ sẽ được bám theo? 

Tôi tự hỏi trong cái “kỉ nguyên mới” của ông Tô Lâm, bao phần trăm được hướng tới giá trị tinh thần của dân tộc? Con người ngoài bánh mì còn cần có hoa hồng. Hoa hồng ở đây là tự do, dân chủ, nhân quyền, công lý, văn học nghệ thuật, nền giáo dục tinh hoa, khai phóng con người, nền y tế khiến con người cảm thấy được chăm sóc chu đáo. Và điều quan trọng là niềm tự hào dân tộc. Ở đây tôi không nói tới niềm tự hào về lịch sử, về dòng giống con rồng cháu tiên mà là niềm tự hào của thành tựu hiện tại của một đất nước. Sao cho khi người dân ra nước ngoài, ai hỏi họ từ đâu tới, khuôn mặt người ta có thể bừng sáng rực rỡ mà trả lời “tôi là người Việt Nam.” 

Mấy “trí thức” nhân bài phát biểu của ông Tô Lâm mà “làm thơ” bằng văn xuôi, lại “tát nước theo mưa”, lại cao hứng tán thưởng, tràn trề hy vọng, lại “bay cao”… Mấy trí thức như vậy thật nhạt nhẽo, vô hại và ăn hại, chẳng có chút giá trị khai dân trí chút nào. 

Chúng ta ở đây không phải để khiến nhau thoả mãn, để vỗ tay, để cười giả lả ve vuốt hồn nhau, không phải để nhau “xuất ra” cho thoải mái và thư giãn tinh thần, để thăng hoa những cái ngã siêu bé của chúng ta. Chúng ta ở đây để nói lời thật, tư duy thật, thứ tư duy cần bao năm tháng học hỏi và suy ngẫm, thứ tư duy cần trăn trở, cần đọc nhiều, cần liên kết để đưa ra nhận định đúng đắn. 

Trước hết, nếu ông Tô Lâm thực sự là người có tâm có tầm, việc đầu tiên ông cần làm là nâng cấp, cải thiện nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà, dựng tượng tưởng nhớ những nạn nhân vượt biển mà ta gọi là thuyền nhân. Máu của người Việt Nam đã làm đỏ thêm biển Đông, nước mắt của thuyền nhân Việt Nam đã làm nước biển Đông thêm mặn. 

Họ chạy đi bởi sự đối xử tàn ác của chính quyền các vị. Có ai muốn bỏ quê hương đất nước ra đi trong khi biết nguy cơ bị chết đói, hãm hiếp và cướp bóc rất cao. Hành trình đầy sóng gió, máu, nước mắt, khi phải chứng kiến người thân chết trước mắt mình. 

Hãy dựng tượng thể hiện sự thông cảm, sự thương cảm của dân tộc Việt Nam với họ. Hành động ấy sẽ nâng hình ảnh của ông lên rất cao, và ông sẽ được ghi nhận mãi mãi trong lịch sử và trong lòng người dân. 

Hãy rà soát lại danh sách tù nhân lương tâm và hãy thả họ ra nếu các vị thấy họ vô tội. Tôi tin rằng đa phần các vị biết họ vô tội nhưng bởi thói quen độc tài, các vị bất chấp và nhân danh thứ gọi là pháp luật để buộc tội họ. 

Tôi là người trong cuộc, tôi biết rõ điều này. Tôi làm gì mà phải có kiến nghị khởi tố, cấm xuất cảnh, triệu tập và rình rập, đeo bám người nhà, bạn bè, học sinh để truy bắt? 

Hãy nhớ cho rằng tôi là người luôn thân thiện, hợp tác, lực lượng an ninh suốt từ năm 2000. 

Tôi là người ôn hoà. Bố mẹ tôi vốn có doanh nghiệp xe buýt, thời thế thay đổi, với chính sách cải tạo công thương mà trắng tay. Một doanh nghiệp ông tự xây dựng lên bằng bàn tay người thợ. Cuối đời ông thành một người bất đắc chí và chỉ cay đắng thốt lên “chúng nó cấu cánh tao.” Chỉ sợ xây nhà thì chính quyền đến cướp. Đến giờ tôi hiểu tại sao ông lo sợ, hồi hộp đến vậy khi thấy tôi mua sắt về xây nhà. 

Tôi là người ôn hoà nên không lấy câu chuyện, sự mất mát của gia đình làm mối hận thù, bởi tôi hiểu ấy là lịch sử và ta phải chấp nhận lịch sử. Ta không để cái sai của lịch sử định hình tư tưởng và hành động của ta. 

Sự công bằng, chính trực luôn là tiêu chí của tôi. 

Nhưng những ngày tháng trốn tránh này tôi càng nhận diện chân dung của các vị. Các vị nói một đằng làm một nẻo. Bảo tôi về nhưng ráo riết lùng sục. Liệu tôi có nên nhắm mắt, giả ngu để trao sinh mệnh cho các vị? Để số phận của tôi được các vị định đoạt? 

Một vị an ninh nhắn tin là chìa tay mà tôi từ chối. Ai chìa tay cho ai? Tôi có sa ngã gì đâu mà chìa tay cứu vớt? Ngược lại, tôi đang chìa tay cho cả chính thể của các vị. Bàn tay của tôi là bàn tay nhân ái, bàn tay trí tuệ, bàn tay của hiểu biết, bàn tay của khao khát thực sự đưa dân tộc đi lên, bàn tay chai sạn của lao động và tu luyện, bàn tay ấm nóng của một con tim đầy nhiệt huyết và lý tưởng cao đẹp chứ không phải bàn tay lừa lọc, đạo đức giả, bất nhân và độc tài. 

Ngày mai, ngày kia, tuần sau các vị có thể bắt được tôi nhưng các vị không bao giờ có thể khiến dân chúng nhìn sai về Đoàn Bảo Châu bởi tôi đã để ánh sáng của công lý, sự minh bạch, sự thật xuyên qua tâm hồn, hành động và toàn bộ bản thể thiêng liêng của tôi. Các vị bắt tôi, điều ấy chỉ tô thêm một nét xấu trên chân dung vốn đã không mấy tốt đẹp của các vị. 

Các vị phải học rất nhiều. Không phải học từ nhau bởi một cái ao tù thì lấy đâu ra sự trong lành mà học từ thế giới, từ những nhà hiền triết đã sống xuyên qua nhiều thế kỉ. Tôi hiểu là các vị không thể học nhanh được nhưng một con thuyền buồm sẽ tới được đích khi nó biết hướng đi. Buồm to được giương lên mà không có hướng đúng thì chỉ lạc lối mãi mà thôi. 

Vậy kỉ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ có thể vươn được đến đâu thì ta cần phải chờ thêm thời gian và điều ấy phụ thuộc vào chính các vị. Không phải phụ thuộc vào những người được gọi là “trí thức” của đất nước bởi chính các vị đã làm hỏng họ, đã biến họ thành một thứ nhạt nhẽo, lờ lợ, ăn theo nói leo, vỗ tay và cười xu nịnh. 

Cũng không phụ thuộc vào quần chúng bởi cũng chính các vị đã biến họ thành một lớp người cam phận, sợ sệt, hèn nhát, ích kỷ và khôn lỏi. 

Muốn dân tộc vươn mình, lãnh đạo thực sự phải vươn mình trước về tư tưởng, tầm nhìn, sự quyết đoán và nhất định phải có con tim yêu nước thực sự.

Thời gian sẽ trả lời điều này và tôi cũng có hy vọng vào các vị. 

Đoàn Bảo Châu.

50 Years – Where Is Vietnam, What Has It Achieved?

The General Secretary of the Communist Party of Vietnam, Mr. Tô Lâm, wants to lead the country into an “era of rising,” and his speech on the 50th anniversary of the country’s reunification has inspired and given hope to many intellectuals in Vietnam.

That is a good thing, but the important thing is to determine where the country stands, what needs to be done, what dangers might be lurking, and if one is a true intellectual, they must see these things instead of giving shallow and empty and hollow praise. 

To be able to evaluate the achievements of a leader in the coming years, it is crucial that we have a scale that can “weigh and measure” the current situation. In reality, nearly 50 years after the guns fell silent, the Communist Party of Vietnam and the Vietnamese government in general have not made any significant breakthroughs in leading the country. The fact that the late Secretary-General Nguyễn Phú Trọng proudly exclaimed, “Has our country ever been like this before?” reflects a narrow vision, a naive optimism, and a weak will to lead the nation forward.

Let me clarify a few points here. Don’t bring up the poverty and hunger of the subsidy period and then nod smugly, saying: Look, in the past we wore tattered clothes, ate rice mixed with bo bo, now we have intact clothes, meals full of meat and fish—who’s to thank for that?

Also, don’t use the kind of logic like a man telling his wife: If I hadn’t married you back then, you’d still be single.

And don’t say that our country has just come out of war, so this is good enough. 50 years is a very long time, equivalent to two-thirds of a person’s life. It’s enough for a nation with a resilient spirit like Vietnam to develop brilliantly, completely capable of being on par with or surpassing South Korea, Taiwan, Singapore, Thailand… 

Now let us look at the reality of Vietnam in all aspects.

Economically, despite claims of high GDP growth, in reality, 80% of it comes from FDI; Vietnam is simply working for foreign countries on its own land. The “iron fists” of the state have turned into steel claws that tear the national budget to shreds.

At the end of 2023, the Ministry of Finance pointed out 1,000 wasteful and ineffective projects, with the Ministry of Industry and Trade alone having 12 loss-making projects worth thousands of billions, with a total investment of 63,610 billion VND.

20 state-owned economic corporations hold 80% of the banking credit; they are the spoiled children who are pampered to the fullest but contribute far less than the privileges they receive, and in fact, they contribute to weakening the economy.

Meanwhile, the true economic strength of a nation should lie in the private sector. The South Korean model shows that private corporations must struggle on their own, and only when they grow to a certain level and prove their capabilities do they receive certain support from the state. The result is that South Korea has risen with giant brands.

Along with that is the increasingly terrible corruption in Vietnam, which is certainly related to the incompetence of these “children” of the state.

A weak economy leads to a weak military, weak technology.

Let’s compare it with the achievements of our ideological brother.

China is shaking the world with their true rise. Their economy is genuinely driven by the internal strength of domestic enterprises. They have gone from being apprentices and imitators to becoming innovators.

Now, the U.S. is sweating in the race over achievements in quantum physics, quantum computers, and artificial intelligence against China, with Chinese goods flooding the world. At this rate, with such a huge population and superior internal strength, if they surpass the U.S. in economic and military power, it would not be surprising.

This relates to the fate of the Vietnamese nation. If Mr. Nguyễn Phú Trọng had a broader vision, instead of uttering those proud exclamations, he should have been more reflective and seen the danger of our country living next to a friend with the same ideology, who is too strong and extremely cunning.

Remember that when we were closest and most friendly, we lost the Paracel Islands. In recent years, China has built seven military bases in the South China Sea. These military bases don’t even have a single tree because their purpose is purely military—runways, weapon storage facilities. They build islands not to live on, but to create military bases to control the South China Sea.

Vietnam’s leadership is aware of this and is trying to build military bases in the Spratly Islands, but with a weak economy, those efforts are nothing compared to China’s achievements.

Vietnam is in an extremely dangerous position, so much so that we could replace Mr. Trọng’s statement with: “Has Vietnam ever been in such danger as it is now?”

Why is it dangerous? Because to the north, we border China; to the east, the South China Sea has seven Chinese military bases; and to the southwest, there’s Cambodia, a brother who has fully leaned into China’s embrace, with a historical resentment toward Vietnam that still lingers. 

When the neighbor is bad-tempered, full of ambition to swallow us, and far too strong, what must we do? We must strive to enhance our capabilities, our fighting strength, and we must have strong allies. When dealing with a bad-tempered neighbor, even at its most friendly, we lose the most—the Paracel Islands are the clearest and most painful proof.

Yet, in such a critical situation, Vietnamese officials are notorious for being increasingly large “firewood reserves.” The ideals and aspirations to build the country are either nonexistent or too weak, overshadowed by the greed for personal gain. An unscientific mechanism and an incompetent system are exactly the factory that produces firewood, and then they proudly claim they are fiercely “burning the furnace.” What needs to be done is to address the root cause, which is to change the mechanism that creates firewood, not to create firewood with one hand while burning the furnace with the other.

Remember that China’s success today is thanks to Deng Xiaoping and now Xi Jinping, two people who understood that to achieve great things for the nation, integrity with money and personal interests is essential.

Mr. Nguyễn Phú Trọng gained such prestige because he is considered an honest man, but unfortunately, his vision is too limited. He takes pride in something trivial like “bamboo diplomacy.”

With the reality that, on average, for every 10 citizens, there is one state official or employee, and on average, five workers support one civil servant, Mr. Tô Lâm’s decision to streamline the system and cut the budget of state-affiliated organizations and associations is a correct move, but it is only a small step on the road ahead.

Let’s look at science and technology.

While the world is racing fiercely in the competition over quantum computers and artificial intelligence, continuously achieving new milestones, Vietnam has a round zero.

Speaking of a new era means speaking of these fields, and to develop these fields, there needs to be significant funding for R&D, research and development. But with such corruption and such weak budget accumulation, how can there be significant R&D?

Therefore, Mr. Tô Lâm’s move to cut down the cumbersome system is absolutely correct. Create a lean system to reduce the burden on the budget, and the important thing is to eradicate corruption completely.

Do they dare to act decisively or not? The system is entirely in their hands; nothing is impossible. But don’t be proud of burning firewood like Mr. Nguyễn Phú Trọng, because from the people’s perspective, firewood is a product of the government’s system, and eradicating corruption is their responsibility, not an achievement for the people to praise.

Look at the reality of market management. We must cut off the problem of smuggling across the borders with China and Laos (I’m not sure about the Cambodian border). I once had to lie in wait at midnight to witness groups of people carrying smuggled goods across the border.

Which Vietnamese businesses can compete with smuggled goods like that?

Then there are functional foods, medicines, and recently, 600 types of fake milk have been flooding the market for years.

The pandemic exposed the ethics of health sector officials with nasal swab kits and “rescue” flights.

I painfully ask myself, with such ethics among officials, how many unjustly displaced people have withered away in misery and resentment? Were those villas and supercars of officials earned from selling brooms, raising pigs, or working as motorbike taxi drivers on the side, or were they built with the blood and tears of the wronged?

If you truly “serve the people, for the people,” you must see through the issues. On the road ahead, you say you won’t “leave anyone behind,” but the people who have died on the path to justice—how can they keep up with the nation’s journey? Could it be that their wronged spirits will follow along?

I ask myself, in Mr. Tô Lâm’s “new era,” what percentage is directed toward the spiritual values of the nation? People need not only bread but also roses. Roses here mean freedom, democracy, human rights, justice, literature and arts, an elite education system that liberates people, a healthcare system that makes people feel well-cared for. And the most important thing is national pride. I’m not talking about pride in history or the lineage of dragon and fairy descendants, but pride in the current achievements of a nation—so that when people go abroad, and someone asks where they’re from, their faces can light up brightly as they answer, “I am Vietnamese.”

Some “intellectuals,” upon hearing Mr. Tô Lâm’s speech, “compose poetry” in prose, “pour water with the rain,” enthusiastically praise, brim with hope, and “soar high”… Such intellectuals are truly bland, harmless, and useless, with no value in enlightening the people.

We are not here to satisfy each other, to clap, to laugh fakely and flatter each other’s souls, not to “release” for comfort and mental relaxation, to exalt our tiny egos. We are here to speak the truth, to think genuinely, the kind of thinking that requires years of learning and reflection, the kind of thinking that demands concern, extensive reading, and connection to make accurate judgments.

First of all, if Mr. Tô Lâm is truly a man of heart and vision, the first thing he should do is to upgrade and improve the Republic of Vietnam Cemetery, erect a statue to commemorate the victims of the boat people exodus. The blood of the Vietnamese has reddened the South China Sea further, the tears of Vietnamese boat people have made the sea saltier.

They fled because of the cruel treatment by your regime. Who would want to leave their homeland knowing the high risk of starvation, rape, and robbery? A journey full of storms, blood, tears, witnessing loved ones die before their eyes.

Erect a statue to express the sympathy and compassion of the Vietnamese nation toward them. That action would elevate your image greatly, and you would be forever remembered in history and in the hearts of the people.

Review the list of prisoners of conscience and release them if you find them innocent. I believe most of you know they are innocent, but due to your authoritarian habits, you disregard that and use what you call the law to convict them.

I am someone directly involved; I know this clearly. What have I done to deserve a proposal to prosecute, a ban on leaving the country, summons, and being stalked, with my family, friends, and students harassed to hunt me down?

Let me remind you that I have always been friendly and cooperative with the security forces since 2000.

I am a peaceful person. My parents used to own a bus company, but times changed, and with the policy of industrial and commercial reform, they lost everything. A business my father built with his own hands as a worker. At the end of his life, he became a disillusioned man, bitterly saying, “They clipped my wings.” He feared that if he built a house, the authorities would come and take it. Now I understand why he was so afraid and anxious when he saw me buying steel to build a house.

I am a peaceful person, so I don’t use my family’s story and losses as a source of hatred, because I understand that it is history, and we must accept history. We cannot let the wrongs of history shape our thoughts and actions.

Fairness and integrity have always been my principles.

But during these days of hiding, I have increasingly seen your true face. You say one thing and do another. You tell me to return but relentlessly hunt me down. Should I close my eyes, play dumb, and entrust my life to you? To let my fate be decided by you?

A security officer texted me, offering a helping hand, which I refused. Who is helping whom? I haven’t fallen into anything to need saving. On the contrary, I am offering a hand to your entire regime. My hand is a hand of compassion, a hand of wisdom, a hand of understanding, a hand with a genuine desire to lift the nation, a calloused hand from labor and cultivation, a warm hand of a heart full of passion and noble ideals—not a hand of deceit, hypocrisy, cruelty, and authoritarianism.

Tomorrow, the day after, or next week, you may catch me, but you will never make the people see Đoàn Bảo Châu wrongly, because I have let the light of justice, transparency, and truth shine through my soul, my actions, and my entire sacred being. If you arrest me, it will only add another stain to your already less-than-ideal portrait.

You have a lot to learn. Not from each other, because a stagnant pond cannot produce purity, but from the world, from the sages who have lived through many centuries. I understand you cannot learn quickly, but a sailboat will reach its destination if it knows the direction. A large sail hoisted without the right direction will only drift further away.

So, how far the nation’s era of rising can go depends on time, and it depends on you. It does not depend on those called “intellectuals” of the country, because you have ruined them, turned them into something bland, lukewarm, parroting, clapping, and laughing sycophantically.

Nor does it depend on the masses, because you have turned them into a class of people who accept their fate, who are fearful, cowardly, selfish, and cunning.

For the nation to rise, the leadership must first rise in thought, vision, decisiveness, and must absolutely have a heart that truly loves the country.

Time will answer this, and I, too, have hope in you. 

Đoàn Bảo Châu


 

MIỀN NAM ĐÃ GIẢI PHÓNG MIỀN BẮC NHƯ THẾ NÀO?

Duthapsang Tran

 Fw. Bài hay và đúng sự thật

Hòa hợp, hoà giải, và hòa bình thực sự để đất nước phát triển là nhu cầu bức thiết của dân tộc hiện nay. Sau 50 năm chia cắt, thì lòng người vẫn có “Triệu người vui, triệu người buồn!” theo như nhận xét của ông Võ Văn Kiệt. Đây là bài toán nan giải không dễ giải quyết, nhưng chúng ta phải làm, để theo kịp đà tiến hoá của nhân loại!

Thực ra, nếu hiểu nghĩa vui buồn theo dựa trên kẻ thắng người thua thì cả hai miền Nam – Bắc đều có vui lẫn cả buồn!!!

Miền Bắc vui vì đã thống nhất đất nước qua sức mạnh cứng bằng súng đạn. Công lao này không ai phủ nhận, miễn là đừng lấy cái thế của kẻ thắng trận mà kiêu căng chà đạp lên nỗi đau của dân miền Nam. Miền Nam thì đã giải phóng được miền Bắc qua sức mạnh mềm!

Tự lúc nào văn hóa sống cởi mở, nhân bản của dân Miền Nam đã thức tỉnh dân Miền Bắc, văn chương, âm nhạc đầy tình người, tình tự quê hương của Miền Nam át đi những bài nhạc đầy hận thù, sắc máu với những giai điệu chói tai. Người Miền Nam chia sẻ với dân Miền Bắc tình cảm qua Nhạc Vàng Bolero đầy tình người như bài hát Tôi Muốn của Nhạc sĩ Lê Hựu Hà với câu: “… Tôi muốn mọi người biết thương nhau không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu…”

Trong một bài viết nhân dịp 50 năm ngày 30/4 của người bên thắng cuộc, tác giả Trần Lệ Bình muốn nói lên cảm nghĩ thật lòng dù có khi bị ném đá: “Tối tối mỗi khi có điện, đám bạn đến đầy nhà để nghe bài nhạc Pháp “Bang Bang”… Khi sống trong cảnh cả ngày chỉ nghe đài phát thanh phát những bài hát như hét như gào: “…không cho chúng nó thoát, chúng bay vào sẽ không có đường ra nó….” quen tai, bây giờ được nghe hai tiếng “bang bang” với âm điệu du dương đến mê hồn, khiến chúng tôi không ngờ trên đời nay lại có những loại nhạc làm lay động lòng người đến như vậy.”

Ở một đoạn khác, tác giả Trần Lệ Bình nói về chị bán mướp: “… Lúc này chị cầm trong tay chiếc dao gọt tôi chưa thấy bao giờ, tay chị lướt nhẹ nhàng từ trên xuống dưới quả mướp, vỏ mỏng như tờ giấy đều đều chui từ giữa kẽ dao rơi xuống vẫn đúng chiều dài của quả mướp. Chỉ trong tích tắc, quả mướp hết vỏ vẫn tròn trịa như nguyên. Với nét mặt thật sung sướng, chi nói: “Cái thứ dao của bọn ngụy hay thật!”. Mấy chị đang đứng chờ mua cũng xen vào: “Thế đấy, cái dao đơn giản và thuận tiện thế mà miền Bắc XHCN cũng không làm nỗi…”. Tác giả kết luận: “Một sự thật mà bất cứ ai còn có lòng trung thực đều không thể phủ nhận là 30-4-75 đã giải phóng Miền Bắc khỏi nghèo nàn lạc hậu, đã cho dân Bắc được tiếp cận với văn minh của nhân loại.

Dân Miền Nam sẽ rất vui và nên tự hào nếu họ biết được chính họ đã giải phóng người dân Miền Bắc khỏi bức màn sắt của giáo điều đã che đậy tầm nhìn, sự hiểu biết của dân Miền Bắc với thế giới văn minh, nhân bản hơn. Miền Nam vui vì được người bên thắng cuộc, bà Dương thu Hương, công nhận là xứ văn minh tiến bộ ngay trưa ngày 30/4/1975 chứ không phải đợi mãi đến giờ này ông Tô Lâm mới dám xác nhận Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông!

Đến đây thì người dân Miền Nam có thể dùng tựa của một bài hát của nhạc sĩ Nhật Ngân để đặt câu hỏi “Anh Giải Phóng Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh” và dân Miền Nam nên vui mừng vì họ đã giải phóng được Miền Bắc qua quyền lực mềm: tinh thần khai phóng, nhân bản và nghĩa đồng bào. 

Nguyễn văn Lợi


 

ĐÊM TRƯỚC NGÀY 30/4/2024: BUỒN VÀ THƯƠNG CHO DÂN MÌNH NƯỚC MÌNH

Phêrô Nguyễn Văn Khải added 7 new photos from April 29, 2024 at 5:37 PM.

April 29, 2024

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

 Năm nào cũng vậy cứ những ngày này tôi khó ngủ. Nhớ đến nguyên nhân, diễn biến và hậu quả, đặc biệt là các nạn nhân của cuộc chiến 54-75 tôi càng thấy thương cho dân mình nước mình và càng giận những kẻ gây chiến là cộng sản Việt-Nga-Tầu.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCS, trong đó có những người thân của tôi, có bố tôi, có chú tôi, có những người anh em của tôi, đã phải hy sinh tuổi trẻ, đã bỏ một phần máu thịt, hoặc bỏ cả mạng mình ở khắp bốn chiến trường A-B-C-D.

Vì họ đã bị tuyên truyền, đã bị tẩy não, đã bị nhồi sọ, đã bị lừa và bị lùa vào cuộc chiến khốc liệt! Họ đã bị đánh cắp tuổi trẻ và mạng sống mà rốt cuộc bản thân họ, gia đình họ và cả quốc gia dân tộc chẳng được lợi lộc gì! Chỉ có một số kẻ cơ hội, những kẻ đầu cơ chiến tranh là được lợi và họ vẫn tiếp tục hưởng lợi từ cuộc chiến này cho đến hôm nay.

Tôi thương cho những người lính của quân đội VNCH đã phải gồng mình bảo vệ một quốc gia tự do được Liên hợp Quốc công nhận, một chế độ dân chủ do người dân chọn lựa. Họ đã thắng trong từng trận đánh, nhưng đã thua trong toàn cuộc chiến, vì bị đồng minh phản bội và bỏ rơi trong khi đối thủ lại được Nga-Tầu hậu thuẫn quá mạnh.

Tôi thương cho các thương binh của VNCH bị hắt hủi, phải sống lay lắt, cơ cực và nhiều người chết một thân một mình. Thế mà đến cái tên gọi là Thương Phế Binh VNCH, nhiều người cũng không dám gọi và lại càng không dám đưa tay giúp đỡ, nhưng miệng thì vẫn ra rả xưng mình là bạn đồng hành của những người nghèo, những người bị loại trừ, những người bị bỏ rơi, etc.

Tôi thương cho những người cha người mẹ bị mất con, những người vợ mất chồng, những người chồng mất vợ, những người con mất bố, những anh chị em mất nhau, ở cả hai miền Bắc-Nam, cả bên cộng sản lẫn bên cộng hoà. Tôi thương cho bao nhiêu thiếu nữ Miền Bắc phải đi dân công hoả tuyến đến khi chiến tranh kết thúc thì đã quá lứa lỡ thì và phải sống côi cút vất vả và bệnh tật cả đời.  

Tôi thương cho những tín đồ, những tu sĩ của các tôn giáo, đã phải vào tù trước sau và vì cái ngày 30 tháng 4 ấy, trong đó có cha đỡ đầu của tôi, có bác của tôi; thậm chí có cha bị bắt và bị đánh chết trong tù chỉ sau mấy ngày giam giữ như cha xứ của tôi. 

Tôi thương cho hàng triệu công dân VNCH bị đảo lộn cuộc sống, cho hàng chục nghìn gia đình quân dân cán chính VNCH bị tan cửa nát nhà, mất tài sản, mất công ăn việc làm và thậm chí phải vào tù hoặc bị lưu đầy chốn rừng thiêng nước độc.

Tôi thương cho những người vượt biên vượt biển, lao vào cõi chết để tìm cõi sống, bao nhiêu người đã bỏ mình trên rừng dưới biển trên đường đi tìm tự do, bao nhiêu người đã bị cán bộ, công an và cướp biển trấn lột, bỏ tù, hãm hiếp và cướp bóc mà thương tích trong tâm hồn còn hằn sâu đến hôm nay.

Tôi thương cho đất nước mình, man rợ thắng văn minh, độc tài thắng dân chủ, ma quỷ nhảy lên làm thần phật, những kẻ bất tài thất đức thâu tóm quyền lực trong khi những kẻ có tâm có tài thì hoặc bị bỏ tù, hoặc bị quản chế, hoặc bị cô lập, hoặc bị loại trừ, hoặc đã phải bỏ nước ra đi…

Nỗi đau buồn của tôi có thể sẽ giảm thiểu ít nhiều, nếu Việt Nam nay có tự do và quyền con người được tôn trọng, nếu môi sinh không bị tàn phá, nếu người dân không bị đè đầu cưỡi cổ và bị móc túi bằng đủ cách khác nhau, nếu đạo đức luân lý không ngày càng xuống cấp bởi tham nhũng, dối trá và bạo lực, nếu các tôn giáo không bị kiểm soát và thao túng, nếu nhiều chức sắc và nhà tu hành không bị tha hoá trở thành tay chân của bạo quyền, etc.

Đằng này…!

Một chế độ thực tâm yêu nước và thương dân sẽ không tổ chức “mừng chiến thắng”, một chính quyền biết chữa lành vết thương chiến tranh sẽ không tiếp tục ăn mày dĩ vãng để chia rẽ và thống trị dân.

Tôi nghĩ người có nhân bản, có đạo đức, có hiểu biết không ai lợi dụng dịp này để đi du hý. Ai lại đi ăn mừng trên nỗi đau của người khác và trên cái mất mát của chính dân tộc mình?

Đến như chính ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ hàng đầu của cộng sản Việt Nam, một người có vợ con chết trong cuộc chiến mà ông là tác nhân còn biết nói hồi hơn 20 năm trước rằng 30 tháng 4 là ngày “triệu người vui thì cũng có triệu người buồn”.

Tôi đọc kinh và làm lễ cầu nguyện cho các nạn nhân trong cuộc chiến 54-75, những người đã qua đời cũng như những người còn đang sống, Bắc cũng như Nam, quốc gia cũng như cộng sản, chết trước cũng như sau 75, chết trên chiến trường, chết trên rừng dưới biển, cũng như trong các trại tập trung của cộng sản.

Tôi cầu nguyện cho những người vì yêu nước và thương đồng bào, vì dấn thân cho tự do dân chủ, cho quyền con người đang bị lưu đầy ở các nước hoặc đang còn bị giam cầm hiện nay trong các trại tù của chính quyền cộng sản.

Xin Chúa cho người chết được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng các bậc tổ tiên và xin cho người sống được tìm thấy ý nghĩa cuộc đời bất chấp những gian nan, khốn khó.

Tôi cũng cầu nguyện cho mọi người Việt Nam sớm được sống như là một con người được tôn trọng và yêu thương chứ không phải như một con vật bị bạo quyền lạm dụng, được sống như con cái của Đức Chúa Trời chứ không phải như nô lệ cho các thế lực đen tối, được có đủ tự do và điều kiện để xây dựng cuộc sống của mình như Chúa muốn và người mong.

Tôi cầu nguyện cho mỗi người thức tỉnh!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT


 

“Mua tội” bằng tiền mặt và đất vàng: Đại án Phúc Sơn phơi bày mặt thật chống tham nhũng

Ba’o Dat Viet

May 1, 2025

Trong một vở kịch chống tham nhũng ngày càng trở nên nhàm chán với khán giả, cái tên Hoàng Thị Thúy Lan – cựu bí thư Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc – bất ngờ được nhắc đến với “nỗ lực khắc phục hậu quả” bằng cách… nộp lại tiền mặt cùng hai lô đất, sau khi bị cáo buộc nhận hơn $2 triệu hối lộ từ Hậu “Pháo”, đại gia xây dựng đứng sau tập đoàn Phúc Sơn.

Theo cáo trạng vừa được Viện Kiểm Sát Tối Cao ban hành, bà Lan không chỉ nộp lại 20 tỷ đồng (~$769,000) mà còn “tự nguyện” giao hai lô đất gồm một lô mặt tiền rộng 304 mét vuông và một lô đất kho vận hơn 3,000 mét vuông – một hành động được ca ngợi là “tích cực khắc phục hậu quả.”

Cựu chủ tịch tỉnh Vĩnh Phúc, ông Lê Duy Thành, cũng “tự nguyện” đóng góp không kém phần hào phóng: 15 tỷ đồng cùng $830,000, tất cả để đổi lấy sự khoan hồng từ cơ quan tố tụng. Tổng cộng, các bị can trong đại án này đã nộp gần 119 tỷ đồng và $900,000, không phải để trả lại cho dân mà để… giảm án.

Đáng nói, ông Nguyễn Văn Hậu, tức Hậu “Pháo,” bị cáo buộc đã chi tổng cộng hơn $5 triệu cho loạt quan chức tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ và Quảng Ngãi, nhằm trúng thầu và thâu tóm dự án. Riêng tại Vĩnh Phúc, nơi được xem là “trung tâm lộ sáng” của vụ án, có đến 15 quan chức bị đề nghị truy tố, trong đó có hai cựu bí thư tỉnh và hai cựu chủ tịch.

Cáo trạng tiết lộ chi tiết gây sốc: “Chị có việc, chuẩn bị ngay cho chị 1 triệu Mỹ,” bà Lan thản nhiên yêu cầu. Không cần giấy tờ, không cần ngụy trang, chỉ một cái giơ ngón tay là ông Hậu hiểu ngay: tiền mặt, và chỉ tiền mặt.

Nghe qua tưởng như chuyện kịch bản trong phim, nhưng đây là thực tế tại một địa phương ở miền Bắc Việt Nam. Tài sản quốc gia bị bòn rút trắng trợn thông qua “quan hệ – tiền tệ – hậu tệ,” và khi bị lộ, giải pháp lại là dùng chính phần tiền hối lộ để “khắc phục hậu quả.” Thật trớ trêu, đây được xem là “tình tiết giảm nhẹ,” là lý do để các bị can mong chờ mức án nhẹ nhàng hơn khi ra tòa.

Chống tham nhũng kiểu này chẳng khác nào bật đèn xanh cho sai phạm: “Cứ ăn đi, nếu bị bắt thì nộp lại một ít là xong.”

Trong khi đó, người dân, giới lao động và những ai dám lên tiếng chống bất công xã hội vẫn đang chịu cảnh lao lý, không tiền để nộp “khắc phục hậu quả,” cũng chẳng có đất để tự nguyện hiến tặng. Luật pháp rõ ràng không mù, nhưng dường như luôn chọn cách nhìn theo… số dư tài khoản.


 

Hồi ký – Nguyễn Hiến Lê

Thienlong Nguyen 

( Hồi kí của một người cảm tình sâu sắc với kháng chiến,  với Miền Bắc VNDCCH, một đại trí thức  Miền Nam- Học giả uyên bác  Nguyễn Hiến  Lê )

THẤT BẠI TRONG HÒA BÌNH

Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến, già cũng như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lý chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy chục năm gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm. Đành rằng phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi, có kinh nghiệm 20 năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mỹ, thành cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung Hoa thì có việc gì mà làm không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, 20 năm sẽ đuổi kịp Nhật Bản về kinh tế.

Đồng chí Lê Duẩn - nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam

Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ đã không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”

Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc dân rồi, giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đựng được tới phút chót thì không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung Hoa cung cấp cho; trái lại trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại giao, kinh tế, nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư thiếu kỹ thuật gia, khó phát triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng sụp đổ.

Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.

KHÔNG ĐOÀN KẾT

Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mỹ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ 6, 7 tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài Gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.

Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.

Có nhiều nguyên nhân.

Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “ngụy” hết, trụy lạc, bị nhiễm độc nặng của Mỹ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến rằng dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ thấy một số thanh niên híp pi, lêu bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại đa số người trong này ghét Mỹ, ghét văn minh Mỹ, có thể nói gia đình nào cũng có người có cảm tình với kháng chiến, giúp kháng chiến cách này hay cách khác, nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công được. Chỉ nội một việc biết người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ có công với kháng chiến, chớ đừng nói là còn che chở, giúp tiền bạc, tiếp tay cho nữa. Chỉ trừ một số phản quốc, theo Mỹ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn thì không có gia đình nào trong Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư cách, mới đầu gia nhập kháng chiến, sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mỹ, hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.

Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mỹ thì cái gì cũng làm được.Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lý, anh đừng nói nữa”.

Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kỹ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau … Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…

Chợ trời | Sài gòn thập cẩm

 

Trong mỗi cơ quan ở Sài Gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn “nằm vùng” cũng không ưa bọn tập kết về đó; bị khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn này thạo việc hơn hết. Chỉ vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.

CHỢ TRỜI SAU 1975 ĐẢNG cs CƯỚP SÀI GÒN - THÔNG TIN-VĂN HÓA

BẤT CÔNG

Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn thời trước nhiều.

Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Ly để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả.

Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục (sic) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao, trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v.

Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó: cán bộ thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline.

Sài Gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v.) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?

Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng kỳ cục như vậy (2). Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay trở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!” Kravchenko (trang 185) nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chế độ thôi, tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong một số trại cải tạo.

kinh tế việt nam thời bao cấp

Giành giật mua hàng nhu yếu phẩm ở mậu dịch quốc doanh.

THIẾU KỶ LUẬT

Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng, nên không có kỷ luật, dưới không tuân trên, loạn.

Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu quốc, địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương (ngay xã cũng không tuân lệnh tỉnh, huyện), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa phương, cấp trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà không đi, nằm ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển trách; cái tệ nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về, lấy cớ là phải kiếm gạo, chủ nhiệm đành làm thinh, chứ không biết đáp sao.

Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ quan nọ đến tuổi về hưu, bảo người giúp việc: “Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi: xe hơi, “bìa” (sổ đặc biệt để mua nhu yếu phẩm), nhà ở v.v. mà còn bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạnh họe cái này, cái khác; không, tôi không về”. Một ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai thì giam. Một viên công an bảo: “Tôi làm việc 4, 5 năm rồi, mà bây giờ mới biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm gì thì làm”.

Vì mất kỷ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: ở miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa họ ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà nuôi? Họ sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hy sinh để giành độc lập; bây giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa.

Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh kiêm giám đốc ngân hàng (?) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một chiếc tàu của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới (và không biết bao nhiêu lượng vàng nữa) để vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an – cây cột chống đỡ chế độ – ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi.

Tinh thần vô kỷ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ – điều đó có thể hiểu được – cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học; chúng làm biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kỳ tựu trường có nơi còn tổ chức múa lân, đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời được ít trẻ thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu trưởng phải tới nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô giáo. Và người ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân sự mới phải thi vô sư phạm.

Kỷ luật như vậy, trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một số cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.

KÍNH TẾ SUY SỤP

Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt Nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát (phosphate) phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.

Sau 30/4/1975, Chính Quyền VNCH Để Lại Nhiều Vàng Và USD, Tại Sao Nước ...

Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau 20 năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% (3); có hồi gạo quý tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày Tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.

Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai … đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường. Nhưng một người Ba Lan trong ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo … về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.

Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu

Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.

Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ … để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.

Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quỹ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, Tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kỳ một dịp gì cũng liên hoan được: một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, Tết … mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít.

Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén đĩa, xoong chảo, người làm bếp (lựa trong nhân viên) để nấu ăn làm tiệc Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô Tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.

Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường Đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: “Lâu rồi quen đi” Không nên trách ông ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được: đâu có vôi để quét tường? đâu có xà bông để rửa sàn? đâu có giẻ để lau? Nước thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà không ngại?

Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế – mà trước kia họ sống rất sạch – mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh 4, 5 người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.

Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.

Năm 1978, chính quyền Bắc … ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam…, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo. (Nguyến Hiến Lê tâm sự)

Nguyễn Hiến Lê

————————

( Nguồn: FB Sơn Bùi )

 


 

Ngày 30/4 của Phạm Xuân Ẩn

Tác Giả: Đàn Chim Việt

30/04/2025

Tuần báo Newsweek đã miêu tả về ngày 29-4 của Phạm Xuân Ẩn – người được đánh giá là “nhân vật của Thế kỷ XX” một “Điệp viên hoàn hảo”, một “Người Việt trầm lặng” sau này mới rõ dần chân dung ông. Còn ngày 29-4 ấy trong một biến động được miêu tả là “cuộc tháo chạy tán loạn”, là ”Sài Gòn sụp đổ “, thì ông Ẩn đã làm gì?

Tờ Newsweek viết về việc Phạm Xuân Ẩn đã cứu trùm cảnh sát mật vụ của chế độ Sài Gòn, bác sỹ Trần Kim Tuyến, đi được chuyến bay cuối cùng di tản khỏi Sài Gòn như thế nào? “Tuyến sẽ bị giết chết nếu ông ta còn ở lại”, Newsweek viết.

Khi ông Tuyến cuống cuồng gọi điện cho Sứ quán Mỹ tìm sự giúp đỡ của CIA thì được trả lời là tất cả đã đi hết. Quá hoảng sợ lo cho tính mạng, ông quay lại tìm người bạn thân Phạm Xuân Ẩn, một phóng viên báo Time nhiều quyền lực và có mối quan hệ rộng vào bậc nhất Sài Gòn.. Ông Ẩn vội đưa Tuyến lên chiếc xe của mình tới Tòa Đại sứ Mỹ kiếm tìm cơ hội cuối cùng nào có được.

Nhưng cảnh tượng thật hãi hùng. Tòa đại sứ đông nghẹt những người cầu cứu hoảng loạn. Chiếc xe cũ Renault của ông Ẩn không sao len vào được… Gọi điện khắp các địa chỉ cần thiết khác trong thành phố, cuối cùng ông Ẩn liên lạc được với một nhà báo Mỹ có thể nhắn cho Tòa Đại sứ… Nhờ thế họ mới biết được còn chuyến di tản cuối cùng của CIA tại ngôi nhà của CIA ở đường Gia Long, nơi đã diễn ra biểu tượng cuối cùng của Sài Gòn sụp đổ.

Ở tòa nhà này, họ cũng suýt nữa thì trượt chuyến đi. Khi xe của ông tới nơi, cánh cửa thép của tòa nhà đã đóng lại để tránh dòng người có thể ập vào. “Đề nghị cho gọi ông Polgar”. Ẩn yêu cầu được gặp người sếp mà ông quen. Nếu gặp được Polgar chắc chắn ông ta biết được câu chuyện trầm trọng của ông Tuyến, sẽ giải quyết ngay. Nhưng người lính gác không chịu gọi.

Vừa may lúc vợ của người lính gác mua đồ ăn đến, cánh cửa hé ra cho bà ta vào. Thế là ông Ẩn một tay giữ chặt cửa, tay kia đẩy thật mạnh bạn mình vào lọt. Tờ Newsweek kết luận: “Thế là, vị trùm cảnh sát mật vụ Sài Gòn đã được một điệp viên của Hà Nội cứu thoát, leo lên mái nhà để lên máy bay đi di tản.”

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn: Biểu tượng của hòa bình và hòa hợp - Ảnh 2.

Khi tất cả phóng viên của Time được sơ tán trước ngày Sài Gòn thất thủ ngày 30/4 /1975, Phạm Xuân Ẩn là người ở lại. Ảnh tư liệu đăng ở Afamily Magazine.

Chuyện gì đã xảy ra sau đó? Vợ con ông Ẩn đã đi theo người của báo Time. Để rồi sau này lại phải vất vả mới về lại Sài Gòn. Chỉ còn mình ông ở lại vì chưa có mệnh lệnh nào. Ông không đi, bởi “ngoài việc đất nước đang sang giai đoạn mới, đã đẩy được người ngoại quốc chiếm đóng ra khỏi xứ sở, còn lý do nữa là mẹ tôi đã quá già yếu không thể đi được”. Đó là lời ông Ẩn trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài.

Vào năm 1992 khi tôi bắt đầu viết cuốn sách đầu tiên đưa Phạm Xuân Ẩn ra ánh sáng, mãi tới 10 năm sau mới in được, cuốn “Phạm Xuân Ẩn — Tên người như cuộc đời”, một công việc có ý nghĩa trong đời viết lách của mình, tôi đã phỏng vấn Phạm Xuân Ẩn về ngày 30-4 ở Sài Gòn.

Vì sao ông Tuyến lại rơi vào cảnh đó, khi mà ông ta là người đứng đầu bảng danh sách số người mà Mỹ phải đưa đi? Phạm Xuân Ẩn tả lại: “Ông ta là nhân vật thứ ba sau Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Làm giám đốc Sở Nghiên cứu Văn hóa Chính trị Xã hội, người Mỹ gọi là Sở Mật vụ. Trong suốt cuộc đời tôi hoạt động dưới vỏ bọc làm một nhà báo của Mỹ, ông mến tôi. Sau đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963, ông ta cũng bị bắt. Ông ta đi cùng chuyến máy bay với ký giả Stanley Karnow từ Hồng Kông về và bị bắt ngay trước mắt Stanley. Sau lúc ông bị bắt, tôi tới nhà thăm. Bả đang mang bầu. Vì sao ông ta kẹt lại khi vợ con ông ta đi cả rồi? Vì ông này ghét Thiệu. Trước giải phóng một tháng, ngay sau khi Đà Nẵng đã thất thủ, Tuyến vẫn đang trong một âm mưu lật đổ Thiệu để lập chính phủ mới.

Tối 1-4 bác sỹ Trương Khuê Quang, giám đốc trường Quốc gia Nghĩa tử, người trung gian của Tuyến đưa Tuyến đến gặp Trí Quang. Đêm mùng 3 rạng mùng 4 Thiệu bắt nhốt hết những phần tử âm mưu đảo chính, kể cả nghị sỹ, dân biểu, nhà báo.. Ông Tuyến vẫn nấn ná chờ vì nghĩ rằng Thiệu bỏ chạy sớm sẽ thả đàn em của mình ra… Nhưng mãi khi ông Hương lên rồi, ngày 26 mới thả. Ông Tuyến yên trí thế nào CIA cũng phải đưa mình đi.”

Tướng Phạm Xuân Ẩn nhớ lại cảnh ông Tuyến chạy đến cầu cứu:

Người cháu ông Tuyến – một viên thiếu tá – chở ông đến bằng xe Honda. Tôi giục nó về lo cho vợ con, để ông Tuyến lại. Tôi bắt đầu gọi điện. Kêu Tòa Đại sứ. Năm cái telephon tất cả. Sự thể diễn ra đúng như báo chí đã nói rồi.

Tuyến đi chuyến cuối cùng với ông Trần Văn Đôn. Ông Đôn cũng thảm, không sao chen lên được mấy chuyến trước. Con ông phải động viên “Ba, ba đừng bỏ cuộc.” Cô bí thư của ông Polgar chủ nhiệm CIA tên là Hà Hiếu Lang, em đại tá Điệp nhường 3 chỗ cho gia đình tướng Đôn. Người cuối cùng lên được máy bay là ông Tuyến. Trong hình, cái người thấp bé là ổng… Không leo lên được, tướng Đôn phải đưa tay kéo lên.

Chi tiết này sau tôi biết được do đọc báo trong bài người ta phỏng vấn tướng Đôn. Tấm hình minh chứng phút cuối cùng đó của một phóng viên hãng UPI. Hãng được sử dụng 20 năm, gần đây tác giả mới lấy bản quyền.”

Trong bài của Morley Safer, ông ta viết: “Ẩn đã can đảm giúp cho Trần Kim Tuyến thoát khỏi Việt Nam. Tuyến là một trong những viên chức cao cấp nhất của CIA tại Việt Nam. Là một tay âm mưu bất trị làm việc cho Thiệu sau đó chống lại chính quyền Thiệu. Vào ngày cuối cùng của Sài Gòn Tuyến vẫn còn nỗ lực thương thuyết với Phật giáo để lập một chính quyền mới.”

Những việc cứu “kẻ thù” như thế không chỉ diễn ra một lần. Ông đã từng cứu nhiều bạn Mỹ của ông thoát chết trong những hoàn cảnh vô cùng phức tạp và còn nguy hiểm cho ông trong chiến tranh.

Câu chuyện ngày 30-4 của tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn vẫn còn gây tranh luận tới tận gần 30 năm sau – vào năm 2006 khi ông Ẩn mất và giới truyền thông trong ngoài nước viết nhiều về ông.

Một bài phỏng vấn nhà báo Mỹ Don Southerland – người đang là Tổng giám đốc chương trình, trong đó có lý giải ngày 30-4 của Phạm Xuân Ẩn lý giải tại sao ông Ẩn lại cứu bác sỹ Trần Kim Tuyến.

Dan Southerland là người chứng kiến phút giây đó: “Đêm 29-4 trước khi các trực thăng chuẩn bị rời Việt Nam, tôi đang liên lạc với các trụ sở truyền thông nước ngoài thì Ẩn vẫn còn ở lại đó dù vợ con ông đã đi. Ông nói có một vấn đề hệ trọng là cần tìm cách cho bác sỹ Tuyến ra đi. Tôi sau khi liên hệ với một giới chức cao cấp của tòa Đại sứ Mỹ và được bảo là hãy nói cho ông Tuyến hay rằng có thể đến 22 Gia Long có thể gặp được số quan chức Nam Việt nam như Trần văn Đôn và một số người khác để được bốc đi khỏi Sài Gòn.” Và câu chuyện diễn ra như thế nào ta đã biết.

Dan Southerland nhận định như sau:

“Ông Ẩn đã giúp người vốn chống Cộng cuồng nhiệt. Tôi muốn nói là ông Ẩn đã giúp một người có lý tưởng mà ông Ẩn hoạt động gần hết đời để chống lại nó… Lời của đại tướng Võ nguyên Giáp đánh giá rằng “nhờ các tài liệu tình báo của Phạm Xuân Ẩn mà Hà Nội như có mặt tại phòng chiến tranh của Lầu Năm góc” là đúng. Bởi vì Ẩn có thể cung cấp cho Hà Nội một số việc, chẳng hạn cách suy nghĩ, lý luận của người Mỹ. Đó là khả năng lớn nhất của ông Ẩn. Ông ta có thể cảm nhận sự thật.”

Phạm Xuân Ẩn: Vừa làm báo, vừa... tình báo - Báo Công an Nhân dân điện tử

Tình báo Phạm Xuân Ẩn (phải) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ảnh của báo lề phải.

“Có thể kết luận việc ông Ẩn hết sức giúp Trần Kim Tuyến ra khỏi Việt nam là chỉ thuần về ơn nghĩa và tình bằng hữu mà chuyện này có thể đã khiến ông mất sự tin cậy của Hà Nội.

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn: Biểu tượng của hòa bình và hòa hợp - Ảnh 3.

Phạm Xuân Ẩn khoe thẻ nhà báo năm 1965 tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, ngày 26/4/2000. Ảnh tư liệu đăng ở Afamily Magazine.

Khi viết cuốn sách “Phạm Xuân Ẩn – Tên người như cuộc đời”, tôi cũng băn khoăn về suy diễn này và đã đem hỏi hai người chỉ đạo trực tiếp của ông là Trần Quốc Hương, Nguyên Bí thư TW Đảng, và Đại tướng Mai Chí Thọ. “Cứu Tuyến, đó là biểu hiện rất đặc biệt về tư chất Ẩn. Con người trung hậu như vậy nhất định sẽ thành công trong sự nghiệp. Đó gần như là Luật Nhân – Quả”(lời đại tướng Mai Chí Thọ). Còn ông Trần Quốc Hương thì nói: “Ẩn xử sự đúng với bản chất con người của mình trọng đạo lý.”

Ngày 30-4-1975 đã lùi xa 40 năm. Giá như tổ chức một cuộc đại phỏng vấn mọi người Việt Nam chung một câu hỏi: Ngày 30-4-75 đến với bạn như thế nào? Câu trả lời sẽ là phần máu thịt toàn vẹn đắp lên phần xương, là những diễn biến sự kiện lịch sử đã ghi lại.

Phạm Xuân Ân, phóng viên chiến tranh Việt Nam của tờ Times, 2005 ©AFP - Nicolas Cornet

Phạm xuân Ẩn năm 2005, hình của TTX AFP

Và trong số đó, ngày 30-4 của Phạm Xuân Ẩn đã hiện lên con người nhân văn nhất trong những giây phút sống còn. Viết về ông, tôi được các tác giả nước ngoài nhận xét tặng những lời ghi nhận quý báu:

Giáo sư sử học Mỹ Larry Berman, tác giả cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:

“Cuốn sách của bà đã mở đường cho tất cả chúng tôi” (Your biography of Pham Xuân Ẩn led the way for the rest of us..). “Trong tất cả những người viết về Phạm Xuân Ẩn, bà là người hiểu rõ chủ nghĩa nhân văn của ông ấy hơn ai hết” (You know An’s humanity better than anyone who writes his story”.

Giáo sư người Mỹ Thomas Bass – tác giả cuốn sách mới viết về Phạm Xuân Ẩn “Điệp viên Z 21, kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” đã trả lời phỏng vấn trên “Tuổi trẻ cuối tuần” ra ngày 27-4-2014 như sau:

“Bà Nguyễn Thị Ngọc Hải là tác giả quan trọng hàng đầu về Phạm Xuân Ẩn. Cuốn sách của bà là chỉ dẫn quan trọng cho tất cả chúng tôi những người theo bước chân bà viết về ông”.

Sau cùng, tôi vinh dự còn giữ một kỷ vật quý không công bố, đó là lá thư viết tay của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cảm ơn về cuốn sách Phạm Xuân Ẩn.

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

 (Facebook)

***************************************************************

Ghi chú của Kẻ Đi Tìm:

Ý thức về cái xấu, cái bẩn của Cộng Sản, Phạm xuân Ẩn đã trăn trối với gia đình đừng chôn ông ở nghĩa trang của Cộng Cán. Sự tuyệt vọng và chán ghét chế độ Cộng Sản đã theo ông tới cuối đời bằng lời yêu cầu trước khi ông trút hơi thở cuối cùng, được tiết lộ bởi David Devoss: “Đừng chôn tôi gần Cộng sản”. 


 

Cha Bắn Tài Xế Từng Cán Chết Con Gái Rồi Tự Sát, Nghi Án “Chìm Xuồng” Lộ Diện

Ba’o Dat viet

April 30, 2025

Một bi kịch đẫm máu vừa xảy ra sáng 28 Tháng Tư tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, khi ông Nguyễn Vĩnh Phúc, 43 tuổi, nổ súng bắn vào một tài xế vận tải – người từng liên quan đến cái chết của con gái ông – rồi tự kết liễu đời mình bên vệ đường.

Theo tường thuật từ báo Tuổi Trẻ, khoảng 7 giờ 30 phút sáng cùng ngày, ông Phúc mang theo một khẩu súng tự chế đến tiệm bán vật tư nông nghiệp Nga Bình, xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn. Tại đây, ông bất ngờ rút súng bắn vào người chủ tiệm là ông Nguyễn Văn Bảo Trung, 33 tuổi, quê ở Cầu Kè, Trà Vinh – người từng là tài xế trong vụ tai nạn giao thông khiến con gái ông Phúc tử vong vào năm ngoái.

Sau phát súng, ông Phúc chạy bộ khoảng 200 mét ra quốc lộ 54 rồi quay súng tự bắn vào đầu mình. Cả hai được đưa đi cấp cứu trong tình trạng nguy kịch tại Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ.

Được biết, ông Trung là người điều khiển xe tải trong vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 4 Tháng Chín, 2024, trên tỉnh lộ 901, khiến em Nguyễn Ngọc Bảo Trân, 14 tuổi, con gái ông Phúc, tử vong tại chỗ. Vụ tai nạn sau đó gây ra nhiều tranh cãi khi Công An Huyện Trà Ôn không khởi tố vụ án, với lý do lỗi thuộc về em Trân do “không giữ khoảng cách an toàn” và “không chú ý quan sát.”

Tuy nhiên, kết luận này ngay lập tức vấp phải phản ứng từ Viện Kiểm Sát và Tòa Án Tỉnh Vĩnh Long. Hai cơ quan này khẳng định lỗi chính thuộc về tài xế Nguyễn Văn Bảo Trung do “vượt xe không bảo đảm an toàn,” trong khi em Trân chỉ vi phạm hành chính.

Dư luận địa phương khi đó sôi sục với nghi vấn có “bàn tay che chắn,” khi tin đồn lan truyền rằng tài xế Trung là cháu của một lãnh đạo cấp cao Công An Huyện Trà Ôn. Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết cáo buộc công an địa phương “đánh tráo khái niệm” để không khởi tố vụ án, đẩy phần lỗi hoàn toàn về phía nạn nhân.

Vụ án từ đó rơi vào im lặng. Cho đến sáng 28 Tháng Tư, người cha của nạn nhân tự tay “lật lại hồ sơ” bằng một hành động tuyệt vọng và bạo liệt.

Ông Phúc – người dân xã Trà Côn, được nhiều người địa phương mô tả là “ít nói nhưng thương con vô cùng” – đã im lặng suốt nhiều tháng, lặng lẽ sống cùng nỗi uất nghẹn vì cái chết của con gái không được làm rõ minh bạch.

Sự việc nay không chỉ là một vụ án hình sự liên quan đến súng đạn, mà còn là tiếng chuông cảnh báo về niềm tin đang mai một trong hệ thống tư pháp cấp cơ sở.

Một người cha mất con, một kẻ gây tai nạn không bị khởi tố, và một hệ thống điều tra – tố tụng bị nghi ngờ “nương tay” vì quan hệ cá nhân – tất cả đan xen trong một câu chuyện mà công lý vẫn chưa có lời đáp.


 

Tuẫn Tiết- Đinh Khắc Nam

Đinh Khắc Nam

 Tuẫn Tiết.

Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-41975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.

Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc. Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.


30 THÁNG 4

Xuyên Sơn

 30 THÁNG 4

Xin các bạn nói chuyện với tôi đừng bao giờ nhắc đến từ ăn mừng ngày giải phóng 30 tháng 4 nhe, nếu các bạn còn coi tôi là bạn, bởi với tôi đó là một tháng 4 đen vì giải phóng vô đây có vạn người vui nhưng có triệu người buồn !

Hình 1:

Thiếu tá Đặng Sĩ Vinh vị sĩ quan QLVNCH đã tuẫn tiết cùng với vợ con khi hay quân CSBV đã tiến chiếm Saigon, ông thà chết vinh hơn sống nhục

Hình 2:

Trung tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến tại Saigon trong ngày 30 tháng 4 !

Ông chấp nhận cái chết chớ không muốn rơi vào tay giặc thù !

Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử

Mẹ Việt Nam Ơi,

Con Xin Tạ Lỗi Dưới Chân Người .!

Nguồn: fb Si Ngo


 

Bắt thẩm phán, gây khủng hoảng du học sinh: Chính quyền Trump bị tố “lạm quyền trắng trợn”

Ba’o Dat Viet

April 27, 2025

MILWAUKEE – Một thẩm phán liên bang bị bắt ngay giữa nhiệm sở. Hàng ngàn du học sinh lao đao, bị đẩy đến bờ vực trục xuất. Ngày 25 Tháng Tư, hai sự kiện chấn động đã phơi bày tình trạng rối loạn và lạm quyền ngày càng trắng trợn của chính quyền Donald Trump trong cuộc chiến di trú đầy tranh cãi.

Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã còng tay thẩm phán Hannah Dugan, hạt Milwaukee (bang Wisconsin), với cáo buộc trợ giúp người nhập cư bất hợp pháp trốn tránh truy bắt. Giám đốc FBI Kash Patel xác nhận trên mạng xã hội X rằng bà Dugan bị truy tố vì “cản trở thi hành công vụ” – một cáo buộc đang bị giới luật gia lẫn các chính trị gia chỉ trích là nhằm mục tiêu chính trị.

Tại phiên tòa cùng ngày, bà Dugan chọn im lặng, để luật sư của mình, Craig Mastantuono, lên tiếng phản đối vụ bắt giữ mà ông gọi thẳng là “hành động phi lý, đe dọa nền pháp quyền.”

Thống đốc bang Wisconsin, ông Tony Evers, cũng không giấu được sự phẫn nộ khi tuyên bố việc còng tay một thẩm phán là “cú đòn đánh vào năng lực hành pháp và nền dân chủ Mỹ.” Vụ việc diễn ra giữa lúc nhiều thẩm phán liên bang và tiểu bang đang mạnh mẽ chống lại các sắc lệnh di trú hà khắc của ông Trump.

Chưa dừng lại ở đó, cùng ngày, Bộ An ninh Nội địa Mỹ phải chấp nhận khôi phục trạng thái cư trú hợp pháp cho hàng trăm du học sinh – sau ba tuần gây ra hỗn loạn chưa từng thấy bằng cách xóa hồ sơ cư trú trên hệ thống SEVIS.

Ít nhất 1.800 du học sinh và 280 trường đại học bị cuốn vào cơn bão nhập cư. Hàng loạt sinh viên mất việc, buộc phải rời khỏi Mỹ, hoặc kéo nhau ra tòa. Theo thống kê, hơn 100 đơn kiện đã được các tòa án trên toàn quốc thụ lý, khiến chính quyền Trump phải đối mặt với áp lực pháp lý ngày càng lớn.

Dưới áp lực trong và ngoài nước, giới quan sát nhận định rằng việc bắt thẩm phán và truy lùng du học sinh chỉ càng bộc lộ một chính quyền ngày càng đơn độc, đang sử dụng luật pháp như vũ khí chính trị, bất chấp mọi nguyên tắc pháp quyền căn bản mà nước Mỹ từng tự hào.