Rối loạn tâm thần gia tăng tại Việt Nam, hơn 14 triệu người gặp vấn đề, hệ thống hỗ trợ còn quá mong manh

Ba’o Dat Viet

March 25, 2025

Tại “Ngày hội chăm sóc sức khỏe tâm thần cho gia đình Việt” do Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn tổ chức hôm 23 Tháng Ba, Bộ Y Tế Việt Nam đã đưa ra cảnh báo đáng lo ngại: tình trạng rối loạn tâm thần đang có xu hướng gia tăng trên phạm vi cả nước, với khoảng 14 triệu người dân đang gặp vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm trí.

Tuy nhiên, theo báo VN Express, chỉ một tỷ lệ rất nhỏ trong số này có thể tiếp cận được dịch vụ hỗ trợ chuyên môn, do mạng lưới chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam còn yếu và thiếu hụt nghiêm trọng về nhân lực lẫn cơ sở vật chất.

Các dạng rối loạn được ghi nhận bao gồm: trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tâm thần phân liệt, mất trí nhớ, thiểu năng trí tuệ và các rối loạn phát triển như tự kỷ. Đáng chú ý, một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến tình trạng này gia tăng chính là việc sử dụng mạng xã hội tràn lan, đặc biệt ở thanh thiếu niên và phụ nữ. Tỷ lệ ảnh hưởng tiêu cực của mạng xã hội lên sức khỏe tâm thần hiện nay được ghi nhận lên tới 32.4%.

Không chỉ mạng xã hội, các yếu tố như giấc ngủ kém, bị bắt nạt trực tuyến, hay giảm hoạt động thể chất cũng đang góp phần làm gia tăng triệu chứng lo âu, trầm cảm và cảm giác cô lập trong cộng đồng.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa sức khỏe tâm thần là trạng thái mà con người có thể nhận thức, phát huy tiềm năng bản thân, đối mặt hiệu quả với căng thẳng, làm việc và đóng góp cho xã hội. Khi bị rối loạn, không chỉ sức khỏe thể chất suy giảm, mà còn kéo theo hệ lụy như đói nghèo, mất cơ hội học tập, lao động, hòa nhập cộng đồng, thậm chí là tự sát.

Mỗi năm, thế giới có hơn 800.000 người tử vong vì tự sát – trong đó 80% rơi vào các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình như Việt Nam. Tự sát cũng là nguyên nhân tử vong thứ hai trong nhóm tuổi 15–24, cảnh báo mối nguy đang rình rập trong giới trẻ.

Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn chưa xây dựng được một chiến lược quốc gia toàn diện về sức khỏe tâm thần đúng theo khuyến cáo của WHO – nghĩa là chưa có tầm nhìn, giá trị cốt lõi, định hướng và mô hình hành động cụ thể để ứng phó với khủng hoảng sức khỏe tinh thần đang âm ỉ lan rộng.

Thực tế, hệ thống chăm sóc chuyên ngành tâm thần tại Việt Nam còn rất hạn chế. Toàn quốc hiện chỉ có khoảng 143 nhà tâm lý lâm sàng và trị liệu đang làm việc tại các bệnh viện công – một con số thấp hơn gần 10 lần so với tiêu chuẩn trung bình toàn cầu. Tổng số giường bệnh cho bệnh nhân tâm thần chỉ khoảng 9.400, chủ yếu tập trung tại tuyến tỉnh và trung ương, khiến người dân ở vùng sâu vùng xa gần như không có cơ hội tiếp cận.

Không chỉ thiếu nhân lực và cơ sở vật chất, rào cản lớn nhất có lẽ vẫn nằm ở định kiến xã hội. Bệnh tâm thần và các vấn đề sức khỏe tinh thần vẫn bị gắn với kỳ thị, sợ hãi và hiểu lầm trong cộng đồng. Nhiều người, dù đang âm thầm chịu đựng, vẫn ngần ngại tìm đến chuyên gia vì sợ bị phán xét, xa lánh.

Các chuyên gia nhấn mạnh, Việt Nam cần gấp rút đầu tư xây dựng một hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần dễ tiếp cận, thân thiện và hiệu quả – đặc biệt ở các địa phương còn nhiều khó khăn. Đồng thời, cần mở rộng truyền thông nâng cao nhận thức, xóa bỏ kỳ thị và tạo ra môi trường nơi mọi người có thể chia sẻ, tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần.


 

Nghèo khó, 2 chị em ở Ninh Thuận cột tay nhau nhảy sông Dinh tự vẫn

Ba’o Nguoi Viet

March 25, 2025

NINH THUẬN, Việt Nam (NV) – Hôm 24 Tháng Ba, khi lực lượng hữu trách tỉnh Ninh Thuận đưa thi thể hai thiếu nữ nhảy cầu Đạo Long 2 lên bờ, người ta thấy cảnh tay của hai thi thể buộc chặt vào nhau.

Cầu Đạo Long 2 bắc qua sông Dinh, nối huyện Ninh Phước với thành phố Phan Rang-Tháp Chàm.

Lực lượng cứu hộ đưa thi thể hai thiếu nữ nhảy cầu sông Dinh tự tử lên bờ để bàn giao cho gia đình lo hậu sự. (Hình: Hải Long/Lao Động)

Báo Lao Động dẫn tin ban đầu cho biết, khoảng 11 giờ khuya 22 Tháng Ba, hai chị em cô cậu là Trần Ngọc Bảo T., 16 tuổi, và Nguyễn Xuân Q., 13 tuổi, cùng ở xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, dẫn nhau ra cầu Đạo Long 2.

Tại đây, hai thiếu nữ để lại đồ dùng cá nhân, cột tay nhau rồi cùng nhảy xuống sông Dinh tự tử.

Khi người dân xung quanh phát hiện hai đôi dép trên cầu nhưng không thấy người, liền trình báo với cơ quan hữu trách.

Nhận tin báo, Công An Tỉnh Ninh Thuận đã huy động lực lượng Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy và Cứu Hộ Cứu Nạn tổ chức tìm kiếm.

Sau nhiều giờ lặn tìm, đến sáng 23 Tháng Ba, thi thể hai em được tìm thấy cách vị trí nhảy cầu khoảng 40 mét, trong tư thế ôm chặt lấy nhau, tay hai người buộc dính nhau bằng dây.

Danh tính nạn nhân sau đó được xác định là em Bảo T. và em Xuân Q.

Nói với báo Người Lao Động, lãnh đạo Ủy Ban Nhân Dân Xã Phước Thuận cho biết hai thiếu nữ đều có hoàn cảnh hết sức khó khăn. Em T. đã nghỉ học, còn em Q. hiện là học sinh lớp Bảy, trường trung học cơ sở Trần Thi, xã Phước Thuận.

Gia đình em Q. thuộc diện cận nghèo, hoàn cảnh hết sức khó khăn. Cha em Q. mất cách đây năm năm, mẹ em phải vào Sài Gòn làm thuê, gửi em cho bà ngoại chăm sóc dù là con duy nhất.

Thời gian gần đây, em Q. không có biểu hiện bất thường. Đêm xảy ra sự việc, em Q. vẫn tham gia sinh hoạt ngoại khóa, vui chơi cùng các bạn.

Hiện trường phát hiện sự việc. (Hình: Pháp Luật TP.HCM)

Trong khi đó, em T. có hoàn cảnh khó khăn nên phải nghỉ học. Cha mẹ em đã ly hôn, đi làm ăn xa. Em sống với ông bà tại địa phương.

“Khi xảy việc đau lòng vào tối 22 Tháng Ba, thì em T. có nhắn tin cho mẹ trước khi nhảy cầu Đạo Long 2. Trước đó nữa, qua lời kể thì em T. cũng từng có ý định tự tử một lần nhưng không thực hiện,” báo Người Lao Động dẫn nguồn tin cho biết.

Hiện nguyên nhân sự việc đang được giới hữu trách điều tra. (Tr.N) [kn]


 

PHÓ TRƯỞNG CÔNG AN TỰ TỬ BẰNG SÚNG LỤC

BBC News Tiếng Việt 

UBND phường Quang Trung, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum đã báo cáo về cái chết của Trung tá N.X.T, Phó trưởng Công an phường Quang Trung, tại nơi làm việc vào hôm nay 24/3.

Theo báo cáo, vào đêm 23 và sáng 24/3, Trung tá T cùng 3 cán bộ khác đang làm nhiệm vụ trực ban tại Công an phường Quang Trung.

Khoảng 5 giờ sáng ngày 24/3, các cán bộ trực ban nghe thấy tiếng nổ phát ra từ phòng làm việc của trung tá T trên tầng 2.

Khi chạy lên kiểm tra, họ phát hiện ông T đã bất tỉnh.

Các cán bộ đã gọi điện cho Trạm y tế Công an tỉnh Kon Tum gần đó. Khi nhân viên y tế tiến hành kiểm tra thì ông T đã tử vong.

Qua kiểm tra hiện trường, cơ quan chức năng xác định ông T tự tử bằng súng lục.

Vụ việc đang được cơ quan điều tra làm rõ.

#BBCTiengViet

#Congan

 

Công an tỉnh Kon Tum: Hình minh họa

Huyền Thoại & Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm

Mạn đàm với Vĩnh Phúc:

Huyền Thoại & Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm

Đúng hơn là cựu nhà báo BBC, Vĩnh Phúc. Ông đã về hưu từ năm 1996, cũng hơn 10 năm rồi. Gần 20 năm làm biên tập viên cho chương trình Việt ngữ đài BBC, ông tích lũy cả khối chuyện trên trời dưới đất, chuyện thật, chuyện giả và nhất là những chuyện lắt léo hậu trường, chuyện người, chuyện đời,… Có chuyện đã nói ra, có chuyện chưa. Chưa nói vì thời lượng phát thanh, vì chính sách của BBC, vì tế nhị, vì chưa có cơ hội nói,… Hôm rồi đến Canada, trong suốt hai ngày mạn đàm, phần lớn ông là người nói, tôi, Nguyễn Văn Lục (NVL), người nghe. Ông nói đủ đề tài, từ Duyên Anh, Ngô Đình Diệm, Trần Kim Tuyến.

Ông đã nói liên miên, nói không ngưng nghỉ, không một tờ giấy trước mặt.

Đến nay nghe rồi thì tôi có thể sờ thấy Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Diệm. Chỉ rất tiếc không có bà Nhu. 

Nhân dịp Vĩnh Phúc cho tái bản cuốn: Những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, tôi ghi lại một phần nội dung cuộc mạn đàm liên quan đến quyển sách mới tái bản của ông. Mặc dầu có cảm tưởng ông biện giải cho những sự thật về ông Diệm, tôi không tìm thấy nơi ông về một cảm tình quá độ, một parti–pris, ông vẫn gây cho tôi một cảm tưởng, biện hộ hẳn là có, nhưng vẫn thong dong thoải mái, vẫn có một thái độ khách quan chừng mực, trí thức và cẩn trọng. Điều quan trọng nhất, ông bằng mọi cách mọi giá tôn trọng sự thật như thái độ chọn lựa cân bằng các người được phỏng vấn. Chọn người được phỏng vấn ở nhiều góc độ khác nhau khiến cho sự kiện được nêu ra đạt được độ khả tín cao. Ông không có thói quen cường điệu hóa một sự việc, một biến cố hay nói huỵch tẹt ra là ông không nói phét, chủ quan cho mình nắm được sự thật. Có những điều tôi đặt ra cho ông mà ông không nắm rõ, ông thẳng thắn thú nhận là điều này ông không biết rõ…

Cuộc mạn đàm được diễn ra như thế nào?

Ông là người diễn xuất, tôi chỉ là chân kéo màn. 

NVL: Trước hết, xin ông cho biết cơ duyên nào đưa ông đến làm việc cho đài BBC, rồi từ

đó mở đường dẫn lối đến việc ông viết cuốn sách này?

VP: Tôi chỉ xin nói sơ lược thôi.

NVL: Xin ông 15 dòng.

VP: Đến Pulau Bidong là để chờ đi Mỹ. Vậy mà không ngờ, đã làm cho BBC gần 20 năm. Nghĩa là từ 1979 đến 1996. Khoảng năm 1988, mình giữ chức vụ Editor. Trong ban Việt ngữ hồi đó có ba người editor. Nếu cần thì Editor sẽ thay thế trưởng ban để điều khiển chương trình.

NVL: Tôi được biết BBC đã nhận ông ngay từ khi còn trên Pulau Bidong. Nhiều người biết không khỏi ngạc nhiên và nể phục. Thật ra câu chuyện đó đã xảy ra như thế nào?

VP: Ở đời, có những chuyện xảy ra không tính toán trước được. Nó như một khúc ngoặt cuộc đời. Chẳng bao giờ có ý nghĩ mình sẽ sang Anh. Ai cũng chờ đi Mỹ cả. Lúc đó chờ đợi đi Mỹ tính ra cũng 6, 7 tháng rồi. Bởi vì ở Mỹ có nhiều bạn bè, anh em bà con.

Câu chuyện nó như thế này. Có một đại diện BBC là Michael Butler sang đảo để tuyển nhân viên. Đúng ra là để test ông nhà báo người Việt gốc Hoa là ông Trần Quốc. Ông M.Butler mới nhờ mình — lúc đó là cố vấn cho Ban thông dịch – tìm kiếm Trần Quốc. Trần Quốc đã bỏ đi Mỹ. Tôi nói với M. Butler:

– “Sorry, ông ta đi Mỹ rồi”.

M. Butler tỏ vẻ thất vọng nói:

– “Tiếc quá, vừa mất công, vừa tốn tiền”. 

Rồi nhìn mình dọ hỏi:

– “Anh có muốn làm cho BBC không?” 

Mình trả lời là:

– “Tôi đã chuẩn bị đi Mỹ rồi. Nhưng anh cứ thử xem sao? Chắc gì tôi có đủ khả năng?”

– “Nói chuyện với anh từ nãy đến giờ tôi tin chắc anh có khả năng. Chỉ cần test anh về khả năng viết cho đúng thủ tục thôi. Anh bằng lòng thì để tôi test nhé ?”

-“ OK, bây giờ là trưa, để cho tôi về ăn cơm trưa xong cái đã.”

NVL: Có vẻ như Butler đi xin ông nhận vào làm cho BBC thay vì ông xin sang BBC làm việc.

VP: Không dám nghĩ thế đâu, chỉ vì Butler đặt mình vào một tình trạng mà trước đó mấy phút mình không bao giờ nghĩ tới. Mình bèn kiếm ông cha Phó trại, tạm mượn cái lều của ông ấy, mình “đuổi” ông ra khỏi lều. Lúc đó trời nắng chang chang, tiếng loa phóng thanh ồn ào gọi dân đi lãnh lương thực. Michael Butler đưa bài test. Phần mình thì ngoáy cho xong. Phải dịch những bài bình luận, despatch, bản tin tường thuật của phóng viên từ các nơi gửi về, dịch ngược, dịch xuôi, rồi một bài phóng bút, viết theo một trong ba đề tài cho sẵn.

NVL: Có thử giọng không? Cái này ông có phần ăn chắc rồi?

VP: Mình cũng hy vọng như vậy. Thử xong thì thu không rõ vì ồn quá. Ông Butler đòi thử

lại. Mình “cóc” chịu thử lại lần thứ hai. Được thì được, không được thì thôi. Hai tuần sau

nhận thư Luân Đôn: chưa có kết quả. Mình tống một thư sang “Sorry, tôi không đi Anh, chờ đi Mỹ”. Trưởng Phòng nhân viên đài BBC lại gửi một thư nói “Ráng chờ vì thủ tục hành chánh! Nhưng rất có hy vọng!”

NVL: Cứ như những điều ông vừa trình bày, có vẻ như ông không thích thú gì với công việc ở BBC mà nhiều người mơ cũng không được?

VP: Không phải là không muốn. Nhưng vì chẳng quen ai ở Luân Đôn, bà con, anh em, bạn bè đều ở Mỹ. Trời thì lúc nào cũng u ám, lạnh lẽo, đời sống lại quá đắt đỏ. Khi mới sang, cô thư ký Ăng lê dẫn đi tim thuê một chỗ ở hai phòng ngủ, trên lầu. Tiền thuê nhà, nó ngốn gần hết lương. Mình lại lên xin với xếp cho nghỉ việc và cho trở về Pulau Bidong. Bạn bè bảo khùng mới bỏ BBC. Xếp lớn khuyên ở lại.

NVL: Thế rồi ở lại luôn một lèo 17 năm đến khi về hưu? Một câu hỏi chót về chuyện này: Có gặp khó khăn trong công việc hay với đồng nghiệp không?

VP: Công việc thì từ từ cũng quen, không có gì khó khăn lắm. Nhưng với đồng nghiệp thì không dễ. Ờ mà câu hỏi này hơi riêng tư và dễ đụng chạm lắm. Ông làm khó tôi đấy.

Nên biết mình là người tỵ nạn đầu tiên được nhận vào BBC. Những anh em khác thì đều vào đó từ trước 1975. Có những người từ 1952. Dĩ nhiên, chưa hiểu nhau nên mình bị nhìn bằng một con mắt khác. Cứ như thể mình là một người thiểu số đến từ Ban Mê Thuột, mặc dầu thời trước 1975, mình cũng đã học ở Tân Tây Lan. Nhưng dần dần thì qua khả năng văn hóa Việt, vốn văn hoá Anh, kiến thức viết lách, mình đã vượt qua được những trở ngại đó. Và chỉ hơn 2 năm sau mình nhập chính ngạch ngay, một trường hợp hãn hữu.

NVL: Thôi tạm dừng ở đây. Cả ông vào tôi đều bậy rồi.

VP: Bậy điều gì?

NVL: Quá 15 dòng rồi. Cùng cười. Tôi muốn biết trước khi viết cuốn sách, ông có vẻ xu hướng cho chế độ ông Diệm. Ngay tựa đề đã cho người đọc nghĩ như thế: Những huyền thoại và sự thật… Ông có thể nói thật, trước khi viết cuốn sách này, thời còn trẻ, với tư cách một người Phật tử, thực sự ông đã nghĩ gì về chế độ ấy và khi viết cuốn sách, mức độ ảnh hưởng của ông Trần Kim Tuyến đến đâu?

 VP: Dù là gì, tôi cũng viết với tư cách nhà báo mà thôi. Lúc còn trẻ, thời sinh viên, như bất cứ người dân nào, mình nhìn chế độ ông Diệm là một chế độc tài, gia đình trị, ảnh hưởng công giáo, tổng thống là người công giáo, cần lao thì có mặt khắp nơi, chỗ nào cũng có cần lao. Mình còn nhớ có lần đi xe buýt về Thị Nghè. Gặp anh tài xế hách dịch gắt ỏm tỏi. Hành khách không ai dám hé răng, vì họ thì thầm bảo nhau ông này là người của bà Nhu. Tin đồn cho thấy cái gì cũng của bà Nhu. Dĩ nhiên mình không tin hẳn. Nhưng ai cũng ngán và sợ.

Chẳng hạn có đám cháy ở khu Khánh Hội, người ta đồn bà Nhu cho đốt để bán tôn của bà. Cái gì cũng của bà Nhu, xe buýt bà Nhu, bột ngọt bà nhu, hãng Taxi bà Nhu cây xăng bà Nhu, bất động sản khắp nơi của bà Nhu, chỗ nào cũng có người mập mờ nhận là Cần Lao … Thấy nó vô lý, nhưng làm sao kiểm chứng được. Tin đồn cứ thế loang ra. Chưa kể, mấy ông Thiên chúa giáo di cư, thái độ vênh váo cũng làm người dân khó chịu lắm.Vì thế mình cũng mong muốn thay đổi chế độ. Nhưng bảo rằng mình chịu ảnh hưởng của ông Tuyến thì không đúng. Sau này, trưởng thành hơn, có nhiều cơ hội tìm hiểu, mình cũng biết phán đoán, biết sự thật nằm ở chỗ nào?

Cho nên, không cần gặp ông Tuyến, tôi mới thay đổi. Từ khi chế độ ông Diệm rơi vào tay các tướng lãnh cầm quyền. Mình nhận ra ngay thực chất của họ và bắt đầu chán. Họ tồi tệ hơn thời ông Diệm. Mình có ăn học, mình thấy rõ ai hay, ai dở.

NVL: Ông cho biết trong trường hợp nào, ông gặp ông Tuyến?

VP: Thật ra mình biết về ông Tuyến từ lâu. Ông sang Anh từ năm 1975. Ông ở Luân Đôn một năm khá chật vật, rồi bạn bè người Anh giúp đổi lên Cambridge, tìm kế sinh sống. Mới đầu nghe đến tên ông mình tránh né. Với thành tích trùm Mật Vụ tạo nên một hình ảnh không đẹp về ông như đi bắt người, thủ tiêu, tra tấn …

NVL: Nhưng gặp rồi thì thay đổi? Không thấy có tra tấn, thủ tiêu? Nhưng dư luận bên ngoài thường cho rằng Trần Kim Tuyến như một thứ hùm xám, ác ôn, trùm mật vụ với nhiều tai tiếng nhất đã được lưu truyền trong công chúng khá lâu. Đó là phản ảnh qua bài viết của Nguyễn Văn Tuấn đăng trên Giao Điểm với bài: Đọc: Những huyền thoại của chế độ Ngô Đình Diệm…

VP: Tôi chẳng biết ông Nguyễn Văn Tuấn này có biết gì về Trần Kim Tuyến không mà viết như vậy. Thực sự tôi cũng chẳng đọc ông Tuấn nên không biết ông ta viết những gì.Nhưng gặp ông Tuyến rồi thì tôi chỉ thấy một người hiền lành, đạo đức. Tôi chưa hề nghe ông ta nói xấu một ai. Xin lỗi, vì ông ấy chết rồi mà tôi lại nói câu này: Mình thấy ông ấy như một anh nhà quê, nói ngọng L, N, cử chỉ tự nhiên, bình dị, có sao nói vậy, hút thuốc lào long sòng sọc. Từ lần gặp lần đầu đến mấy năm sau mới trở thành thân, vì tôi muốn có thời gian dài tìm hiểu. Thì thấy các bạn bè người chung quanh xa gần, ai cũng nói tốt về ông ấy. Họ cho rằng ông làm mật vụ mà cứu người nhiều hơn là bắt người bỏ tù.

NVL: Trong hồi ký “Việt Nam máu lửa Quê hương tôi” của ông Đỗ Mậu có viết, ông Tuyến khi trốn ra nước ngoài đã mang theo một cặp đựng đầy hột xoàn? Việc đó có không?

VP: Tôi có đọc và tôi buồn cười. Theo cụ Võ Như Nguyện nói với tôi nguyên văn thì “thằng Đỗ Mậu nó viết bố láo bố lếu ví dụ tôi mặc đồ tang, tay chống gậy trong đám tang ông Ngô Đình Khôi. Tôi đã mắng nó rồi. Nó viết nhiều chuyện tầm bậy, tầm bạ” .

NVL: Ông có thể kể tên một vài người thường nói tốt về Trần Kim Tuyến.

VP: Cái này thì tôi dám nói mà không ngại. Phải nói nhiều lắm. Cụ Lãng Nhân Phùng Tất

Đắc, chị Bích Thuận và chồng là Émile Ngô Trọng Hiếu, Cụ Đoàn Thêm, Cụ Cao Xuân Vỹ.  Cả Duyên Anh nữa. Duyên Anh có tha ai đâu, mà đối với ông Tuyến thì nói: Ôi thằng cha đó lo cứu người không à! Duyên Anh bảo rằng ông Tuyến làm trùm mật vụ mà đạo đức, hiền lành như vậy thì chọn lầm nghề rồi. Cụ Quách Tòng Đức, cựu đổng lý văn phòng Phủ Tổng Thống nói: “Ông Diệm nóng lắm, nhưng không ác độc. Ông Trần Kim Tuyến đàng hoàng, có tư cách”.

Còn cụ Cao Xuân Vỹ thì: “Tuyến chỉ đọc tài liệu, viết phúc trình cho ông Tổng Thống, ông Nhu. Trần Kim Tuyến chỉ cứu người chứ không hại người bao giờ cả. Ngoài ra, phải công nhận đám nhân viên ngoại vi của Trần Kim Tuyến có làm tầm bậy. Tụi này không thuộc Sở Nghiên cứu Chính trị. Anh nào cũng muốn lợi dụng Sở NCCT. Tuyến có la rầy nhân viên, nhưng như anh cả la em, không trừng phạt nặng. Nói mật vụ ác ôn là oan cho Tuyến”.

NVL: Ông có thể cho biết một vài người mà ông Tuyến đã “tha” đã giúp?

VP: Ờ, nhiều lắm chứ. Như bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, ông Nhất Linh, cụ Hà Thúc Ký. Hồi ông Tuyến còn tại chức, nhiều nhà văn nhà báo nhờ ông nên không bị bên công an, mật vụ làm phiền. Đến nay nhiều người còn nhắc. Chỉ trừ cái huyền thoại Trần Kim Tuyến cứu mạng Ngô Đình Nhu vào tháng 2/1947 là hoàn toàn bịa đặt. Về cụ Hà Thúc Ký thì xin kể lại như thế này. Ông Tuyến vào trình ông Diệm về vụ bắt được Hà Thúc Ký, lúc đó đang lẩn trốn và âm mưu ám sát ông Diệm. Ông Diệm nổi nóng quát: Đem thủ tiêu nó đi. Ông Tuyến nhận lệnh ra về và băn khoăn khó xử. Và thay vì thi hành lệnh thủ tiêu, ông Tuyến trì hoãn không làm gì cả. Hôm sau vào gặp ông Diệm. Ông Diệm đã quên béng cái lệnh miệng đem thủ tiêu HTK, rồi hỏi:

– “Hà Thúc Ký ra sao?”

-“ Dạ thưa cụ, vẫn còn giữ đó, để tôi liên lạc với bên Công an”.

 Ông Diệm nói:

-“Mình nóng mình nói như vậy, thôi liệu giúp gia đình nó. Nói bên Công An đối xử tử tế với nó.”

 Chút xíu nữa cái mạng của ông Hà Thúc Ký không còn nữa, nếu ông Tuyến thi hành lệnh miệng ngay đêm hôm đó. Ông Diệm lúc tức thì nói thế chứ đâu có ý định thủ tiêu Hà Thúc Ký.

Lại có trường hợp giúp người mà mắc oan. Ông Tuyến đã có lần giúp cho Trần Quang Thuận – về Nha chiến tranh Tâm lý, sau khi tốt nghiệp quân trường Thủ Đức – rồi mang vạ vì Thuận lái chiếc xe Austin hai mầu xanh/trắng, mang số DBA 599 của anh ta chở Hòa Thượng Thích Quảng Đức đến chỗ tự thiêu ở Ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng.  Ông Nhu “ghim” ông Tuyến vì vụ này.

NVL: Bốn câu hỏi chót về ông Tuyến. Tại sao ông ấy không tự mình viết lại hồi ký? 

VP: Ai cũng thúc dục ông ấy viết đấy chứ. Nhất là Cao Xuân Vỹ. Tôi cũng thúc dục ông ấy viết nhiều lần. Nhưng sau này, ổng có nói: “Moa (Lúc này đã thân, ông gọi toa, moa) không viết vì sợ đụng chạm rất nhiều người. Viết ra sự thật thì sẽ làm nhiều người mất mặt, trong đó có nhiều người còn sống. Nếu họ chết rồi thì vợ con họ cũng đau lòng.” Sau đó có lần, chính ông đề nghị tôi viết.

NVL: Xin hỏi lại cho chắc, tôi vẫn tưởng chính ông đến đề nghị ông Tuyến cho phỏng vấn?

VP: Không, không có chuyện đó. Chính ông Tuyến đề nghị là “Thôi Phúc toa viết đi, toa đến đây, toa đặt sẵn những câu hỏi gợi ý, rồi moa theo đó trả lời”.

NVL: Về điểm này, về nhân cách, cũng xin trân trọng ông.

VP: Không dám!

NVL: Thế còn về những lời đồn “Sở Nghiên cứu Chính trị như một CIA Việt Nam, buôn bán thuốc phiện lậu và kinh tài khai thác gỗ, xuất cảng lông vịt, vụ vé số kiến thiết”?

VP: Về điểm thành lập Sở Nghiên cứu CT, mình đã trình bầy đầy đủ trong sách. Chỉ tóm tắt là khi đó, ông Tuyến không biết một tý gì về vai trò của mình: từ ý thức chính trị đến tổ chức. Chẳng ông nào có kinh nghiệm chống Cộng sản cả. Hoàn toàn tay mơ. Nhân viên trên dưới 30 người, thử hỏi với số nhân viên như thế, làm được gì? Mỗi khi cần nhân sự thì phải điều động bên Công an, Bảo an.

Về những đồn đãi buôn thuốc phiện lậu, xuất cảng lông vịt là do hiểu lầm. Chỉ có khai thác gỗ là có nhưng có lý do và đã được hai ông Diệm – Nhu cho phép. Xin xem chi tiết trong sách.

Nói thêm là ngay cuốn sách: Làm thế nào để giết một Tổng Thống, cái tựa do Sức Mấy đặt ra cho loạt bài đăng trên báo Hoà Bình. Tác giả Cao Thế Dung chỉ được gặp Trần Kim Tuyến có một buổi để hỏi chi tiết, về viết. Nhưng sau đó lại làm như ông Tuyến là đồng tác giả, và viết quá sai sự thật. Ông Tuyến đã phản đối và Hoà Bình đã cải chính ngay. Nhưng khi in thành sách, vẫn để tên ông Tuyến, khiến ông rất bực mình.NVL: Và câu hỏi chót về ông Tuyến, ông có nhận thấy có sự trùng hợp về những điều thị phi, những tiếng đồn xấu chung quanh ông Tuyến cũng là những điều thị phi về ông Diệm và chế độ ấy? Phải chăng nó cùng nguồn gốc? Cùng bản chất? Và phải chăng khi ông bênh vực ông Trần Kim Tuyến là một cách gián tiếp giải trừ những huyền thoại về ông Diệm?

VP: Thưa ông, câu trả lời của tôi đã nằm ngay trong câu hỏi của ông rồi.

NVL: Nay thì xin đi vào chính nội dung cuốn sách của ông. So ra với lần xuất bản trước, 1998, lần này dày hơn đến 100 trang. Điều gì đã thêm vào như thế?

VP: Thêm vào vì mình không hài lòng với lần xuất bản đầu tiên, thấy cần tìm  kiếm thêm nhân chứng. Chẳng hạn tìm hiểu thêm con người của ông Ngô Đình Cẩn. Ông có cướp đoạt tài sản của người ta không, có cho bộ hạ khủng bố đối lập không? Những nhân chứng mới như Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Tường Thiết, cháu và con trai Nhất Linh giúp soi sáng thêm về chủ tâm quyên sinh của ông Nhất Linh để phản đối chế độ? Ngoài ra còn những nhận xét, đánh giá quý báu của cụ Võ Như Nguyện, một nhân vật theo rất sát với ông Ngô Đình Khôi rồi ông Diệm. Cuộc phỏng vấn cụ Võ Như Nguyện quả thực hữu ích, vì nó củng cố thêm cho những điều tôi đã trình bày trong lần xuất bản đầu tiên.

Nhưng thích thú không kém là những lời của nhân chứng cựu đại úy tùy viên Lê Châu Lộc. Nhờ Lê Châu Lộc ta hiểu thêm “con người” Ngô Đình Diệm như thế nào trong những hoàn cảnh cay nghiệt của vai trò một tổng thống, thấu hiểu được những cá tính con người ông ấy và nhất là cái cõi riêng tư, những nỗi niềm trăn trở và cô đơn của ông ấy. Nhà văn, nhà viết sử làm sao đạt được cái cõi riêng ấy để hiểu được một con người?

NVL: Tôi cũng nhìn ra được điều ấy, khi đọc những phần nhận xét của Lê Châu Lộc. Đó là những thứ tư liệu ròng mà không dễ có được. Đỗ Thọ cũng viết về ông Diệm, nhưng để tình cảm lấn lướt nhiều quá. Người đọc bị ngộp. Cảm thấy không tự nhiên. Nhưng đâu là huyền thoại và sự thật về con người Ngô Đình Diệm?

VP: Theo tôi thì giá đọc được chính bài viết thì vẫn hơn là những điều tôi nói ra đây. Nhưng về cá nhân ông ấy, tôi nghĩ ông là người có đạo đức và về phương diện chính trị, ông là người có lòng với đất nước, với dân tộc, trước ông và sau ông, thật cũng khó có người sánh bì.

NVL: Ông có nghĩ rằng, những ý kiến của ông về ông Diệm sẽ có một số người phản đối, thậm chí coi ông Diệm là thứ độc tài ác ôn, gia đình trị, ba đời Gia tô bán nước, làm tay sai cho giặc?

VP: Chính vì còn có những người nghĩ như thế nên mới có vấn đề cần giải trừ những huyền thoại và những sự thật về con người ấy. Với lại không ai cấm họ nói viết ra như thế, với điều kiện họ đưa ra được bằng cớ khả tín. Vâng, vấn đề là nói sao cũng được, miễn là có bằng cớ khả tín.

NVL: Nói chuyện bằng cớ, thưa ông, đã có lần ông chủ bút báo ĐT gửi cho tôi một bức hình gia đình ông Diệm và hỏi xem tôi nghĩ gì? Hình ảnh một già đình quan lại thuộc hàng Thượng thư triều đình ba đời làm tay sai cho Pháp mà như thế sao?

VP: Vâng, bức hình mà ông nói chính là bức hình thứ nhất ở trang 305 trong sách của tôi, do cựu trung úy Nguyễn Minh Bảo lấy được trong phòng ông Diệm trong cuộc đảo chính 1/11/63. Theo tôi, bức hình nói lên tất cả. Trông rõ cái cảnh nghèo khó, thanh bạch của gia đình ông ấy. Ông Diệm, ông Thục đi chân đất, quần áo nhếch nhác lôi thôi như bất cứ một gia đình nông dân nghèo túng nào.  Nhưng ông nói thật hay nói đùa đấy? Lấy đâu ra ba đời làm tay sai cho Pháp, mà ông Diệm làm tay sai cho Pháp hồi nào?

NVL: Có thể là tại vì ông Diệm có lý tưởng và nhờ ông sống độc thân, không bị ràng buộc vào gia đình nên ông mới hết lòng với dân, với nước?

VP: Có thể lắm và chắc cũng không thể không nghĩ tới điều đó. Có vợ con thì nó khác.

NVL: Ông có nghĩ rằng khi đọc sách của ông, sẽ có người nghĩ rằng, ôi cha Vĩnh Phúc này là tên Bắc kỳ, công giáo di cư, Hố Nai?

VP: Cười. Cứ để họ hiểu lầm. Người như ông Diệm còn không thiếu kẻ hiểu lầm, thì phần tôi có nghĩa lý gì. 

NVL: Phần tôi, tôi đặc biệt chú trọng đoạn Lê Châu Lộc, tùy viên của ông Diệm kể buổi sáng hôm ấy ông Diệm phải tiếp kiến đô đốc Felt tại Đàlạt. Ông có nhận xét gì về buổi gặp gỡ lịch sử này?

 VP: Ông tinh ý lắm, nêu dẫn đoạn ông Diệm gặp đô đốc Felt là điểm thắt nút mối bang giao hợp tác giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm trong suốt 9 năm. Buổi sáng hôm ấy, ông Diệm nôn nóng khác thường, tức giận đạp đổ ghế vì sĩ quan tùy viên tới chậm. Cái tức giận tùy viên chỉ là cái cớ thôi. Cái chính là lá bài sắp lật ngửa. Và tôi nghĩ rằng: Ván bài lương tâm và trả giá giữa người Mỹ và ông Diệm nằm ở buổi tiếp kiến hôm đó trước khi ông Diệm bị thảm sát. Đó là bản chúc thư giã từ sau 9 năm cầm quyền, một lần chót nói lên cái quan điểm khác biệt giữa người Mỹ và ông Diệm. Những kẻ viết sử sau này thường bác bỏ luận cứ này để biện hộ cho việc lật đổ ông ấy. Không có người Mỹ, cuộc đảo chánh đó không có cơ thành tựu.

VP: Vừa rồi, ông đang hỏi tôi về con người ông Diệm. Tôi chưa nói hết, thì đấy, con người ấy có thể khoan dung ngay cả đối với kẻ thù. Nhưng cũng con người đó có thể nóng như lửa, mặt đỏ gay, hầm hầm, giộng ba toong thình thình trên sàn máy bay vì thấy treo cờ Vatican, vứt hồ sơ vào mặt ông Nhu mà không cho tùy viên lượm lại. Nhưng chỉ trong chốc lát, ông tổng thống nguôi giận. Nhưng ngược lại, ông lại tỏ ra rất bình tĩnh khi dinh độc lập bị ném bom. Lê Châu Lộc nhận thấy ông Diệm vẫn ngồi đọc sách một cách bình thản hỏi:

– “Cái chi đó?”

– “ Dạ người ta bỏ bom mình”.

– “ Thế à, mà ai bỏ bom vậy?”

Theo Lê Châu Lộc, làm tùy viên cho ông Diệm là khổ lắm. Theo ông đi kinh lý tối ngày, bất kể thì giờ, bất kể ngày đêm. Bằng máy bay, bằng trực thăng, bằng xe, bằng xuồng, “thăm dân cho biết sự tình”. Có lần phải kê ghế bố mà ngủ trong khi bên dưới lõng bõng nước. Những chuyến đi vất vả và nguy hiểm như thế cũng không làm ông Tổng Thống nản lòng, vì ông muốn đến tận nơi hẻo lánh nhất, hoàn cảnh khó khăn nhất để đem lại nguồn an ủi cho binh sĩ.

Thử hỏi sau này có anh lãnh đạo nào làm được như thế không?

NVL: Tôi cũng nghĩ như vậy. Có ông lãnh đạo nào bỏ ra vài lần thăm dân, thăm trường học trong suốt những năm về sau này? Chữ kinh lý, tôi nghĩ là chữ đặc quyền dùng cho ông Diệm. Sau này chữ đó không còn có trong tự điển nữa. Vậy mà thời ông Diệm, ciné chỉ chiếu những chuyện gì đâu.

VP: Ông nhắc tôi mới nhớ. Tôi còn nhớ hồi đó, ciné hát xong bài chào cờ là hát bài suy tôn Ngô Thổng thống. Đáng nhẽ phải bỏ tù cái thằng cha nào đã nghĩ ra cái bài hát thối tha: Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. (1)  Bài đó giết ông Diệm từng ngày, từng  giờ không cần gươm giáo đấy. Vứt bài hát đó vào sọt rác và chiếu lên hình ảnh ông Tổng Thống đi bốt, lội bùn, sắn quần lên tới đầu gối thì còn gì đẹp bằng nữa? (2)

NVL: Vâng, quả đúng như vậy.

VP: Nay thì đến lúc tôi hỏi ngược lại ông: Đọc lần tái bản này ông thấy thế nào ?

NVL: Phải nói bản cũ, tôi đọc nhiều lần, mỗi lần muốn viết điều gì về chế độ Ngô Đình Diệm. Tôi đều dở ra tham khảo. Nhưng chê trước đã. Thật ra, không phải chê mà ấm ức.

Thứ nhất, cuốn sách không có cái nhìn tổng thể lớp lang về chế độ ấy. Nó thiếu văn mạch của những chuỗi sự kiện nối tiếp nhau. Nó nêu ra đó rồi để cho độc giả tùy ý chọn lựa thái độ. Quả là có rộng lượng và tôn trọng độc giả. Sự kiện từng mảnh của chế độ ấy như chính ông nói với tôi, như đống gạch. Có viên lành lặn, viên vỡ. Rồi ông bày hàng ra, ông đẩy cái trách nhiệm đánh giá cho các nhà sử học, cho người đọc. Mà như chúng ta biết đấy. Nhà sử học nào đã làm được công việc ấy? Trong khi đó, đáng nhẽ là trách nhiệm của ông phải làm?

Thứ hai, về phương pháp làm việc, ông đã chọn cách viết chỉ dựa trên nhân chứng, một thứ Oral History, rất khả tín, thời thượng. Phải chăng, đó là lối làm việc theo thói quen từ BBC của ông? Nhưng lối viết nêu dẫn nhân chứng lại rất áp đảo, trấn áp người đọc. Chẳng hạn khi chính Lê Châu Lộc nói rằng, ông Diệm nghe tin phi công Phạm Phú Quốc ở trong tù bị bọn công an hành hạ đến nơi đến chốn. Ông Diệm không an tâm sai Lê Châu Lộc đến nhà giam xem thử. Lê Châu Lộc bằt Phạm Phú Quốc dơ tay cho xem có bị thương tích không.Không có. Chỉ nêu sự việc: Một người đã ném bom tính giết mình, đã không bị đưa ra tòa,  không bị cho đi mò tôm là may, lại còn thăm hỏi. Chuỗi sự kiện đó dẫn đưa tới việc phải thừa nhận: Ông Diệm là người tốt. Không lạ gì, sau đó, Phạm Phú Quốc đã viết thư xin lỗi ông Diệm. Tôi chỉ nói, lối viết đó có tác dụng thuyết phục, vì nó vượt lý luận, bịt miệng những ai muốn nói khác, muốn bôi nhọ. 

Ở trên, tôi nói ấm ức, vì ông không sử dụng tài liệu. Ông cũng đã nêu ra những lý do khi ông cho rằng những hồi ký, những sách viết về chế độ ấy do các nhà văn, nhà chính trị, nhà báo viết bố láo, bố lếu, bóp méo lịch sử cho dù dùng tài liệu ngoại quốc viết cũng tào lao, rất là bôi bác. Nói chung là như thế. Nhưng này, ông chê người ta viết bố láo, bố lếu. Vậy có thể nào ông cho biết đích danh một tác giả hay một cuốn sách viết bôi bảc?

VP: Cái này thì xin ông tha cho. Tôi chỉ nói được là nhiều lắm, tôi tránh nói ra. Độc giả đọc họ là biết rồi. Sau khi anh em ông Diệm bị giết, nhiều người đã viết quá sai sự thật chỉ nhằm mục đích câu độc giả. Sau 1975, cũng thế. Ngay cả những bầy tôi, sau này viết về chủ mình, cũng phản bội, viết bôi bác, nói trắng ra đen. Theo tôi, viết như thế không xứng đáng một người cầm bút.

Chính vì vậy, tôi chọn lựa không sử dụng tài liệu của bất cứ ai.

NVL: Chọn lựa như thế, đúng ra là chọn lựa tư cách là một nhà báo hay nhà sử? 

VP: Nhà báo thì cung cấp thông tin, dữ kiện. Còn nhà sử cung cấp kiến thức. Nói như thế thì ông biết tôi là nhà gì rồi?

NVL: Cũng đúng, nhưng tôi xin bổ túc, Trần Trọng Kim kiến thức sử đâu có bao nhiêu, nhưng sự trung thực thì lồng lộng mà kẻ hậu bối chỉ biết cúi đầu khâm phục.

VP: Tôi cũng không nghĩ gi khác ông. Chúng ta cùng nói chung một thứ ngôn ngữ: Sự can đảm và lòng trung thực. Đó là những đức tính cần có của một người cầm bút.

NVL: Khi ông dùng chữ bày tôi viết về chủ mình thì gián tiếp người đọc như tôi cũng hiểu bầy tôi là ai rồi ?

VP: Ấy chớ, xin ông đừng diễn dịch xa quá.

NVL: Trong biến cố Phật giáo, mặc dầu ông đã cố gắng phỏng vấn một số người như cụ Quách Tòng Đức, TT Thích Tâm Châu và ngay cả ông Đặng Sỹ v.v… Phần trả lời của TT Tâm Châu chưa đầy đủ lắm. Phải nói về vai trò của TT ấy như thế nào, vai trò của TT Trí Quang có tính cách quyết định về đường lối đâu tranh chống chính quyền? Nguyên đo đưa đến sự đổ vỡ đến tách ra thành hai khối Phật giáo? Phần ông Đặng Sỹ thì tránh né trả lời.Chính tôi cũng liên lạc với ông được hai lần, nhưng ông cứ khất lần. Rất tiếc nay người nhà ông báo cho tôi biết ông mới qua đời. Thế là một dấu mốc lịch sử bị đứt quãng. Nhưng tôi vẫn thấy còn cần đào sâu thêm nữa để có thể khai thông một số vấn đề chưa sáng tỏ như vụ nổ đài phát thanh Huế v.v… Những người như đại úy Minh, văn phòng cố vấn chỉ đạo của ông Cẩn có thể đóng góp cho rõ thêm vai trò ông Cẩn và đặc biệt TT Trí Quang, sau 1975, ông rút vào bóng tối một cách khó hiểu như có điều gì không tiện nói. Im lặng ở đây là vàng. Ông cần lên tiếng và nên lên tiếng. Ông nghĩ thế nào về vấn đề này?

VP: Thật ra những người như ông Ngô Đình Nhu đáng nhẽ phải để lại những Mémoires thì đỡ cho chúng ta biết bao nhiêu. Hình như các người làm chính trị ở Việt Nam không có thói quen viết nhật ký. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp TT Thích Trí Quang nhưng quá khó gặp. Cả TT Hộ Giác một khuôn mặt đấu tranh nổi bật thời đó hiện còn sống ở Mỹ, tôi cũng cố tìm cách tiếp xúc nhiều lần mà không được. Tôi sẽ đặc biệt lưu tâm đến trường hợp này trong lần tái bản sau.

Nguon: Ho Cong Hung

KẾ HOẠCH GIẢI CỨU SCB TRONG 15 NĂM – BBC News Tiếng Việt

BBC News Tiếng Việt

SCB – ngân hàng chịu trách nhiệm cho vụ gian lận tài chính lớn nhất Việt Nam – đã nhận được gói cứu trợ từ Ngân hàng Nhà nước có trị giá lên tới 5% tổng sản lượng kinh tế quốc gia năm 2024.

Sun Group hy vọng sẽ trả lại khoản tiền này trong vòng 15 năm, theo các tài liệu mà hãng tin Reuters tiếp cận được và dẫn lại hôm 18/3.

Đây là lần đầu tiên lộ trình giải cứu ngân hàng SCB được tiết lộ, một vấn đề mà truyền thông Việt Nam rất kín tiếng.

Sun Group sẽ giúp SCB trả khoản vay 657 ngàn tỷ đồng và sinh lời ra sao?

#BBCTiengViet

#TruongMyLan

#SCB 

Hoàng Thị Thúy Lan, bí thư Vĩnh Phúc, nhận hối lộ hàng triệu đô la

Ba’o  Nguoi – Viet

March 17, 2025 : 2:56 PMFacebookTwitterEmailPrint

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Bà Hoàng Thị Thúy Lan, cựu bí thư tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc, khi còn đương chức đã nhận hối lộ 25 tỷ đồng ($979,240) và $1 triệu từ tập đoàn Phúc Sơn. Hôm 17 Tháng Ba, bà Lan bị Cục Cảnh Sát Điều Tra Tội Phạm Về Tham Nhũng, Kinh Tế và Buôn Lậu, thuộc Bộ Công An, đề nghị truy tố về tội “nhận hối lộ.”

Theo truyền thông tại Việt Nam, ngoài bà Lan, còn có ông Lê Duy Thành, cựu chủ tịch tỉnh và Phạm Hoàng Anh, cựu phó bí thư thường trực Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc, cũng bị Cục Cảnh Sát Điều Tra Tội Phạm Về Tham Nhũng đề nghị truy tố về tội “nhận hối lộ.”

Bà Hoàng Thị Thúy Lan, bí thư Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc, hồi Tháng Giêng, 2024. (Hình: VNExpress)

Riêng bị can Nguyễn Văn Hậu, tức Hậu Pháo, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị tập đoàn Phúc Sơn, bị đề nghị truy tố với cáo buộc cùng lúc ba tội “đưa hối lộ; vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng và vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.”

Trong 41 bị can của vụ án còn có ông Phạm Văn Vọng, cựu bí thư Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc; ông Ngô Đức Vượng, ông Nguyễn Doãn Khánh, cùng từng là cựu bí thư Tỉnh Ủy Phú Thọ và ông Lê Viết Chữ, cựu bí thư Tỉnh Ủy Quảng Ngãi.

Đặc biệt, bị can Đặng Trung Hoành, chánh văn phòng Huyện Ủy huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, cháu Võ Văn Thưởng, cựu chủ tịch nước, bị cáo buộc “lợi dụng ảnh hưởng với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.”

Vụ án xảy ra tại tập đoàn Phúc Sơn được khởi tố hôm 26 Tháng Hai, 2024, và gây chú ý công luận khi có nhiều bị can bị bắt ngay trong lúc là đương chức bí thư, chủ tịch tỉnh.

Báo Tuổi Trẻ dẫn kết quả điều tra xác định, các bị can này “vì vụ lợi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chỉ đạo, can thiệp, tạo điều kiện thuận lợi” cho công ty Thăng Long của Hậu Pháo được làm chủ đầu tư, điều chỉnh, giao đất thực hiện dự án chợ đầu mối nông sản thực phẩm, hệ thống kho vận và khu đô thị thương mại Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, cùng nhiều dự án khác “trái quy định pháp luật.”

Qua đó, bị can Nguyễn Văn Hậu đã đưa tổng số 45.4 tỷ đồng ($1.77 triệu) và $2.32 triệu cho các quan chức nêu trên, trong đó bà Hoàng Thị Thúy Lan nhận 25 tỷ đồng ($979,240) và $1 triệu; Lê Duy Thành nhận 20 tỷ đồng ($783,392) và $1.3 triệu; Phạm Hoàng Anh nhận 400 triệu đồng ($15,668) cùng $20,000.

Ngoài ra, từ năm 2022 đến Tháng Giêng, 2024, bị can Hậu còn đưa Phạm Hoàng Anh bốn lần với tổng số tiền là 5 tỷ đồng ($195,848) và $500,000.

Kết luận xác định, dự án chợ đầu mối do công ty của bị can Hậu làm chủ đầu tư có 673 lô đất được bán cho khách hàng, thu tổng 2,603 tỷ đồng ($101.9 triệu). Trong đó, hơn 1,000 tỷ đồng ($39.1 triệu) thu theo hợp đồng để hạch toán sổ sách, 1,599 tỷ đồng ($62.6 triệu) để ngoài sổ sách. Từ đó, gây thiệt hại cho nhà nước 290 tỷ đồng ($11.3 triệu) thuế thu nhập doanh nghiệp và hơn 101 tỷ đồng ($3.9 triệu) thuế giá trị gia tang (VAT).

Tổng trong vụ án này, bị can Hậu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “đưa hối lộ” số tiền tổng cộng 132 tỷ đồng ($5.1 triệu).

Theo ghi nhận của báo Nhân Dân, ba tháng trước khi bị bắt, bà Thúy Lan là quan chức đứng đầu về số phiếu “tín nhiệm cao” của tỉnh Vĩnh Phúc.

Công an phong tỏa, khám xét tư gia của bà Hoàng Thị Thúy Lan chiều 8 Tháng Ba,2024. (Hình: Người Lao Động)

Hồi năm 2021, bà Lan gây bàn tán khi sắp ghế con gái ruột, Trần Huyền Trang, thời điểm đó 31 tuổi, làm phó giám đốc Sở Kế Hoạch Đầu Tư Tỉnh Vĩnh Phúc.

Bà Trang về công tác tại sở nêu trên ở vị trí chuyên viên, sau đó “leo” lên ghế phó phòng, trưởng phòng, trước khi được mẹ mình chỉ định làm phó giám đốc. Do công luận chỉ trích vụ “mẹ bổ nhiệm con,” bà Trang mất ghế phó giám đốc sở sau ba tháng. (Tr.N) [kn]


 

Vấn Đề Hỗ Trợ Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa Tại Phiên Rà Soát của Liên Hợp Quốc

Ba’o Dat Viet

March 11, 2025

Vào ngày 6 và 7 tháng 3 vừa qua, Việt Nam đã tham gia phiên rà soát đầu tiên về việc thực thi Công ước về Quyền của Người Khuyết Tật (CRPD) tại Liên Hợp Quốc ở Geneva, Thụy Sĩ. Trong phiên rà soát, vấn đề về hỗ trợ cho thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (TPB VNCH) sau ngày 30/4/1975 đã được đưa ra làm điểm nóng tranh luận.

Bà Amalia Gamio, Phó Chủ tịch ủy ban về Quyền của Người khuyết tật, đã chỉ ra rằng hàng trăm nghìn cựu quân nhân VNCH bị thương tật không được hỗ trợ bởi Nhà nước Việt Nam như các đối tượng khuyết tật khác. Đáng chú ý, bà nhấn mạnh rằng hiện có vài chục nghìn TPB VNCH chỉ nhận được trợ giúp từ các nguồn từ thiện do cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài quyên góp, thường thông qua các chương trình được tổ chức tại một số ngôi chùa và nhà thờ tại TP.HCM.

Trong phản hồi của mình, ông Nguyễn Văn Hồi, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, đã khẳng định rằng theo luật của Việt Nam, không có sự phân biệt đối xử giữa các cựu chiến binh dựa trên lý lịch của họ. Ông cũng nói thêm rằng có những biện pháp chế tài và quy định nhằm trừng phạt bất kỳ cán bộ nào từ chối hỗ trợ cho người khuyết tật và không có sự phân biệt đối xử với bất kỳ nhà thờ hay tổ chức tôn giáo nào.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Bắc Truyển, người có mặt tại phiên điều trần, đã phản bác câu trả lời của đại diện nhà nước. Làm việc trong chương trình chăm sóc cho thương phế binh của Dòng Chúa Cứu Thế, ông Truyển chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của mình khi tiếp xúc với khoảng 5000 thương phế binh, cho biết họ không nhận được sự chăm sóc như những gì được khẳng định.

Vấn đề này đã làm dấy lên những câu hỏi lớn về tính hiệu quả và công bằng của chính sách hỗ trợ người khuyết tật tại Việt Nam, đặc biệt là trong việc đối xử với cựu quân nhân VNCH. Sự chênh lệch giữa chính sách và thực tế mà các thương phế binh này đang phải đối mặt là một thách thức đáng kể cho chính phủ Việt Nam trong việc thực thi cam kết quốc tế về quyền của người khuyết tật.


 

50 năm nhìn lại di sản VNCH  30-4-1975-2025

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

07/03/2025

Lúc này đã bước vào mùa xuân của năm 2025, đánh dấu một khởi đầu chặng đường 50 năm mất miền Nam, 30 tháng tư 1975 sắp tới.  Kể từ đó đến nay, nhiệt kế xem ra vẫn hừng hực lửa của hận oán và mất mát.  Vẫn chưa bao giờ có một tiếng nói chính  thức về cái mà người ta thường rêu rao Hòa hợp và hoà giải dân tộc. Tuyên truyền có thể có, thực tế là không.

Có một điều gì đó ngăn cản hầu như không thể vượt qua!!

Điện Biên Phủ đã qua, chia đôi đất nước, ta vẫn còn một nửa. 30 tháng tư, 1975, mất cả nước với nhiều tên gọi, nhiều chính sách vô nhân đạo như một trả thù của kẻ chiến thắng.

Làm sao quên được những lời nhục mạ như: ngụy quân, ngụy quyền. Chính sách  học tập cải tạo không ngày về. Có những người chịu đựng 17 năm tù, người khác chết rũ tù có đi mà không bao giờ trở lại.

Chính sách cải tạo hằng trăm ngàn quân  dân cán chinh mà thực tế không cải tạo được lấy một người.

Có cần phải nhắc lại hàng trăm ngàn người đã phải đi học tập cải tạo tại miền Bắc trên những vùng cao, hiểm trở, đồi núi lạnh lẽo rét buốt, phải lao động cực khổ, đói ăn, chết dần chết mòn không?

Đó là chính sách  về cái chết từng ngày, chết mòn nhục nhã và đau khổ thay vì một phát súng giải thoát.

Tưởng rằng cuộc chiến đã tàn cuộc!! Cuộc chiến với xác người, thiệt hại vật chất đã qua. Nhưng một cuộc chiến quá khứ vẫn như tro tàn âm ỉ. Hận oán vẫn ngút trời dễ dầu gì quên được!!

  • Ngay đối với kẻ thắng cuộc, nhiều người cảm thấy như bị lừa đảo…Thật vậy, cảm giác ngỡ ngàng đến sửng sốt với những kẻ chiến thắng khi vào tiếp thu miền Nam vẫn còn đó. Hình ảnh anh bộ đội khi quay về Bắc làm quà cho con là một con búp bê và chiếc khung xe đạp.

Thấm thía và nhục nhã lắm thay!!

Chưa bao giờ có một tiếng nói chính thức về cái mà người ta rêu rao, tuyên truyền về miền Nam. Họ kinh ngạc như những anh mán rừng bởi vì họ đã đem cả tuổi trẻ hy sinh và đánh cuộc , cuối cùng chỉ là nỗi thất vọng ê chề khi họ vào miền  Nam- như trường hợp nhà văn nữ Dương Thu Hương.

Sau này, bà đã kể lại nỗi thất vọng khi thấy miền Nam trù phú, tự do như thể ngoài sức tưởng tượng của bà. Sau này, bà đã viết tố cáo sự lừa bịp, dối  trá trong cuốn tiểu thuyết: Thiên Đường mù để tố cáo sự giả trả ấy.

Bà còn phẫn nộ tự nhận mình nay là kẻ làm giặc chống lại chế độ.

Ngày hôm nay, hàng triệu thanh niên miền Bắc đã “-sinh Bắc tử Nam”, chúng ta hãy  thực tình ngay thẳng nhìn lại những lời tuyên truyền dối trá “ đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, từng là mục tiêu của sự chế riễu và khinh rẻ miền Nam. Thực tế chỉ là cuộc chiến  ủy nhiệm  như lời tuyên bố của Lê  Duẩn: “ Ta đánh Mỹ là đánh  cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại;”

( Xem Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày, trang  422.):

50 năm đã qua, nhưng nỗi đau còn nguyên vẹn, nặng trĩu trong tim họ, mặc dù họ không phải là nguyên nhân những nỗi đau ấy.

Trong 20 năm, từ 1975 đến 1995, Mỹ đề ra chính sách cấm vận nhằm cô lập Việt Nam, cộng thêm những chính sách hà khắc của nhà nước, dân chúng đói ăn, cơm độn khoai sắn bo bo..đã buộc hàng triệu người liều mình đi ra biển…Cái mà sau này người ta gọi là “ Boat people”.   Sau này đã có bao nhiêu người đến được bến bờ tự do, bao nhiêu người  bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp? Thật không kể xiết!!!

Trong khi đó, chính quyền Hà Nội qua thứ trưởng  ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn vẫn kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc qua Nghị Quyết 36? Hòa giải với ai? Với người đã chết hay người còn sống? Với thương phế binh VNCH? Với quá khứ của nền Đệ I Và Đệ II cộng Hòa?

Thực tế cho thấy, các thương phế binh này đã bị bỏ rơi, chỉ nhờ vào sự tương trợ của các tổ chức hải ngoại quyên góp tiền gửi về trong nhiêu năm quá.

Tất cả số phận quân dân miền Nam đã sống cô lập bên lề xã hội cộng sản.

Tôi  chỉ cần nêu ra một trường hợp cụ thể  là trong lãnh vực tôn giáo như Phật giáo kể từ năm 1981 đã trở thành Phật giáo nhà nước dưới sự kiểm soát của chính quyền không nói làm gì.

Riêng công giáo còn có cái tiếng là tự chủ, độc lập dưới cái dù che của Vatican. Tuy nhiên, điều cần và đủ là họ chỉ được nói và phát biểu hoàn toàn trong phạm vi nhà thờ. Ngoài ra là một cấm kỵ không có văn bản, họ không bao giờ dám đề cập xa gần đến Đệ I  và Đệ II  cộng hòa.

Các giám mục cai quản hiện nay phải biết im lặng, không dám phê phán về tệ nạn xã hội xảy ra hằng ngày trước mắt họ..

Đó là bàn tay bạo lực được che đậy, dấu kín. Muốn yên thân, họ phải câm lặng như những loại chó câm- chó không biết sủa- một từ ngữ của giám mục người Pháp, đức cha Seitz, (Kim) trong Les chiens Muets

Chó là để sủa, chó không biết sủa có còn là chó không?.

  • Hai mươi năm miền Nam nhập cuộc và 30 năm sau giải phóng.

Tôi xin được lấy lại lời của triết gia  E. Mounier như một cột mốc khởi điểm tóm gọn tinh thần của miền Nam tự do:

Đôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho kẻ cứng đầu, và một hòn đá tảng đặt đúng chỗ, có thể chuyển hướng cả một dòng sông.”

Miền Nam là những ai trong mỗi chu kỳ lịch sử? Nhiều lắm kể sao cho xiết. Vấn đề là: Liệu có thể kiếm ra được ai là hòn đá tảng có thể chuyển hóa cả một dòng sông?

Hãy cùng nhau nhớ lại về mặt lịch sử, chính trị. Hai miền Nam-Bắc trở thành hai thực thể đối đầu. Sự ngăn cách không hẳn chỉ nằm ở dòng sông Bến Hải  mà còn in sâu trong tâm thức người dân miền Nam, bên này người Việt quốc gia chống ý thức hệ cộng sản bên kia, chủ nghĩa cộng sản vô thần..

Mà thực tế cùng là người Việt, cùng máu đỏ da vàng, nhưng không còn nhìn nhận nhau là người Việt nữa. Chỉ có bạn, đồng chí hay kẻ thù!!!Lẳn ranh thật rõ ràng và dứt khoát không có cơ may nào nối lại.

Hòn đá tảng mở đầu cho miền Nam xoay ngược tình thế lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, giáo dục chính là ông Ngô Đình Diệm.

Từ một chế độ thực dân, phong kiến thối nát, bóc lột và hại dân, ông Diệm biến nó trở thành một chế độ dân chủ cộng hòa.

Cần nhắc với  nhau rằng khi ông Diệm nhận chức Thủ tướng về nước, miền Nam đang ở bên bờ vực thẳm về chính trị, kinh tế, bị khuynh đảo bởi nhiều thế lực cả bên trong lẫn bên ngoài..

Lúc ấy, chỉ cần ổn định tình thế là đủ trở thành vị cứu tinh. Stephan Pan, trong Viet Nam crisis đã nhận xét không sai: “Ngo Đinh Diêm assumed the prime ministership in 1954 when his country was facing economic chaos, political íntasbility and external subversion, not on a massive scale, but on a scale that kept increasing intensity. He led South Viêt Nam through this initial crease, changed it from a  the first national monarchy in a republic and built the first national loyalty íts people ever know.

Đến lượt nhà văn đại diện cho giới trí thức miền Nam lúc bấy giờ, Mai Thảo đã hãnh diện tuyên bố: “Sài gòn, thủ đô văn hóa miền Nam. Sài gòn thay thế cho Hà Nội, từ một đô thị miền Nam trở thành một thủ đô tinh thần của toàn thể đất nước, Saigòn sáng tạo và suy tưởng”

( Tạp chí Sáng Tạo, số đầu 1956).

Bên cạnh Sáng Tạo, còn nhiều báo chí, tập san ra đời như  Tạp chí Văn Hóa Á Châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Quê Hương của giáo sư Nguyễn Cao  Hách, Tin Sách của giáo sư Thanh Lãng, Luận đàm của hội Giáo chức với các cụ  Thẩm Quỳnh và Nghiêm Toản, tạp chí Bách Khoa của của Huỳnh Văn Lang, Hiện Đại của thi sĩ Nuyên Sa, Thế kỷ 20 của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch..

Trong 20 năm ấy, miền Nam đã hình thành một sắc thái văn hóa riêng, một nền giáo dục chuyên môn và nhất là tinh thần làm việc, về ý thức dân chủ, về ý thức tự do về những giá trị nhân bản.

Và nhất là quyền con người.

Tâm thức ấy, lý tưởng ấy đã khắc sâu, truyền thừa chẳng những trong 20 năm miền Nam mà còn là hành trang khi đối đầu với thế lực với kẻ thắng cuộc trong suốt hành trình 30 năm còn lại sau này.

Tuy nhiên, trong thế đối đầu với cộng sản, chọn lựa giữa tranh đấu cho dân chủ của một miền Nam dân chủ, tự do và tác động sống còn vẫn là chọn lựa đối đầu với cộng sản phía bên kia thật sự không dễ dàng gì!!  Phải hy sinh điều gì, dân chủ hay độc đoán?

Vì thế, trong viễn tượng đường dài, ngay trong tình huống thất vọng thua cuộc, giới trí thức miền Nam vẫn hoàn tất vai trò nhân chứng, vai trò phản biện, vai trò tố cáo và cả vai trò tiên tri cho cả giai đoạn sau 30 tháng tư. Nên nhớ cho bởi khát vọng tự do, dân chủ đã thấm đẫm trở thành máu thịt với khát vọng xóa bỏ mọi thứ độc tài đảng trị, khát vọng về công bình xã hội, khát vọng về một cuộc cách mạng cho người nghèo, vì người nghèo, khát vọng chấm dứt phân ly, thù hận trong cộng đồng dân tộc vẫn là khát vọng  chung của đất nước.

Tình hình miền Nam sau 1954, mỗi ngày thêm ổn định như nhận định của giáo sư Vũ Văn Mẫu: “Quá khứ trong sạch của Ngô Đình Diệm khi làm việc quan, tính tình khí khái của ông khi từ chức Thượng Thư Bộ Lại trong nội các đầu tiên của Bảo Đại.”

Trong giai đoạn này, chính phủ Ngô Đình Diệm đã giải quyết vấn đề định cư cho cả  triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam, giải quyết vấn đề các giáo phái, ổn định kinh tế và quan trọng là: phát triển đào tạo giáo dục.

Giáo sư Lý Chánh Trung ghi nhận dưới thời ông Diệm, năm 1954-1955 có 1000 trường tiểu học với 7000 lớp học. Qua năm 1961-1962 có 4172 trường tiểu học với 21.817 lớp học. Gần 200 trường trung học đã được xây dựng cho các tỉnh ly và quận lỵ. Ngay các vùng hẻo lánh, nghèo nàn như Gio Linh, Bồng Sơn, Cà Mâu, Trà Oạn vv.. đều có trường học.

Viện Đại học Sài gòn được trao trả ngày 11/5/1955. Hai năm sau thành lập Đại học Huế ngày 12/11/1957. Và năm 1958, đại học Đà Lạt.

Chính sự phát triển đồng  bộ về giáo dục từ tiểu học, trung học, đại học và các ngành chuyên môn là điều mà trong suốt thời kỳ chiến tranh Hà Nội đã không bao giờ thực hiện được.

Về an ninh, năm 1956, 80% cán bộ hạ tầng Việt minh bị triệt hạ. Trại tù Chí Lợi ở Bình Dương tập trung đến  6000 chính trị phạm cộng sản bị bắt giam.

Đặc biệt ở miền Trung, cán bộ cộng sản dưới thời của Ngô Đình Cẩn gần như bị trừ diệt toàn bộ cán bộ nằm vùng.

Đây là điều mà người Pháp không làm được trong suốt 9 năm chiến tranh Việt-Pháp.

Vào những năm đầu của chính thể ông Diệm, người ta có thể đi suốt ngày đêm từ Cà Mâu đến Bến Hải một cách an toàn. Thôn quê miền Nam tương đối an toàn.

Để tóm tắt giai đoạn này, xin trích dẫn nhận định của một sử gia trẻ tuổi Edward Miller như sau: “ Ngô Đình Diệm là người có hoai bão. Với tư cách lãnh đạo miền Nam từ 1954 đến 1963. Diệm mong muốn trở thành người lãnh đạo hàng đầu trong việc xây dựng chính quyền Quốc gia, ông cương quyết tìm ra một đường lối khác biệt với con đường mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản  Việt nam đang theo đuổi.” ( Ngô Đình Diệm was a dreamer. As ruler of South Viêt Nam from 1954 to 1963. Diệm aspired to greatness as nation builder and he was determined to find  an alternative to the path taken by Hồ Chí Minh and the Vietnamese Communists.)

Hay như ông  Denis warner, người Úc nhận xét: Diêm là The last Confucius- Nhà nho cuối cùng con lại.

  • Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu

Khi chế độ Diệm sụp đổ, Hà Nội cho là thời cơ may đã đến bất ngờ với họ. Họ cấp tốc thi hành những biện pháp tức thời sau đây:

  • Chọn một số Trung đoàn đưa gấp vào Quân Khu V và Tây nguyên.
  • Mở rộng đường vận chuyển chiến lược 559
  • Đưa gấp vào chiến trường những vũ khí chống lại thiết vận xa M.113.
  • Bùi Tín có mặt trong đoàn cán bộ 24 người vào miền Nam quan sát tình hình tại chỗ.
  • Đưa đại tướng Nguyễn Chí Thanh trở lại quân đội để vào miền Nam nhận nhiệm vụ tổng tư lệnh và lên đường ngay tháng 12/1963.

Chính vì thế,  sau 1963, chính phủ quân nhân do tướng Thiệu cầm đầu đã gặp rất nhiều trắc trở tứ phía với sự xâm nhập từ miền Bắc vào Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh. Nhiều dấu hỏi được đặt ra tại sao người Mỹ có mặt ở Việt Nam, tại sao họ rút lui, tại sao thua?

Câu trả lời đã có hồi đáp của TT. Nguyễn Văn Thiệu: “ Họ đã bỏ rơi chúng tôi. Họ đã bán đứng chúng tôi. Họ đã đâm sau lưng chúng tôi. Đó là sự thực. Họ đã phản bội chúng tôi. Một đồng minh vĩ đại đã  thất ước với một đồng minh nhỏ bé.” ( They abandoned us. They sold us out. They stabbed us in the back. It ís true. They betrayed us. A great ally failed a small ally.

( Trong” The ten thousand day war- Michal Mac lear, trang 395.)

Cuộc chiến ngày một thêm khốc liệt. 10 ngàn binh sĩ cộng sản đã trở thành tro bụi dưới bom đạn B.52 ở Khe Sanh, rồi tết Mậu Thân cũng vậy…

Cộng thêm vào đó, việc chống đối chiến tranh của giới văn nghệ sĩ miền Nam ngày càng lan rộng từ nhiều phía. Họ là những tên tuổi nổi tiếng là thành phần thiên tả, lực lượng thứ thú ba, đòi hỏi chấm dứt chiến tranh từ một phía như Nguyễn văn Trung, Lý  Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, vương Đình Bích, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín và nhiều người khác…

Sau này họ mới vỡ lẽ ra rằng, điều mà họ đòi hỏi tự do ngôn luận, tự do báo chí là những điều thật ra họ đã có sẵn trong túi áo của họ..

Cái mà người viết bài này dành bẽ bàng gọi tên nó là ảo tưởng của trí thức miền Nam và chúng ta có vẻ tất CẢ là NHỮNG KẺ VẼ ĐƯỜNG CHO HƯƠU CHẠY. Hay nói một cách bình dân là những kẻ tiếp tay, nối giáo cho giặc.

  • Một trang sử mới bắt đầu và mở ra: 30/4/1975- 25/5/2025

Tôi vẫn tin rằng: trong cái rủi có cái may. Lịch sử đôi khi cũng đem lại những cái bất ngờ đầy ý nghĩa và thú vị như một bù trừ, một báo hiệu tin lành..

  • Cuộc di cư. Chẳng mấy ai ngờ và tin rằng cuộc di cư đem lại những thành quả bất ngờ là thống nhất Nam Bắc một nhà. Nếu cuộc di cư năm 1954-1955 đã đem lại những thành quả đáng khich lệ khi một triệu người di cư vao miền Nam đã tạo ra hai dòng chảy văn học, hai nếp sống văn hóa, sức mạnh đoàn kết, ý chí vươn lên, hai giọng ngôn ngữ, hai nếp sống tôn giáo giữa Bắc và Nam.

Nó hòa quyện vào nhau như thể là một. Nó tạo ra sức mạnh của miền Nam với một quân đội được huấn luyện tại các trường hạ sĩ quan  Đồng Đế, chuẩn úy tại Thủ Đức và thiếu úy ở trường sĩ quan Đà Lạt và được được trang bị đầy đủ.

Sự quyết tâm rời bỏ quê cha đất tổ, bỏ lại tất cả lên đường vào Nam là một cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân. Đã có gần 2 triệu đôi chân như thế, từ già trẻ lớn bé, từ người nông dân đến trí thức thành thị, từ giới nhà văn đến giới tu sĩ đã ơi ới gọi nhau lên đường vào miền Nam.

  • Một chiến dịch Passage to Freedom là niềm tự hào của người ra đi và sự mở rộng bàn tay đón tiếp của  con dân miền Nam.

Người miền Bắc cộng sản sau này chưa bao giờ được hưởng cái ân huệ ấy và sẽ không bao giờ xảy ra.!!

  • Cuộc di tản sau 1975.

Với cái tinh thần ấy, cuộc di tản của người miền Nam cũng sẽ nối tiếp con đường của cuộc di cư năm 1954 và nó còn mở ra nhiều cơ hội hơn thế nữa của thế giới tự do.

Tôi có dịp viết một bài về cuộc di tản ra chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với 30 chiến hạm đủ loại của Hạm đội 7 đang đậu sẵn ở ngoài khơi bờ biển VN , cách Vũng tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối..

Các chiến hạm ấy đang chờ để đón lính Mỹ và người Việt Nam từ đất liền… Sứ mạng lần này không giống với 21 năm về trước tại vịnh Hạ Long.

Trên boong chỉ huy của chiến hạm của viên Đô Đốc hạm đội 7, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả, nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường Việt Nam như Stanlay Karnov, David Haberstam, Neil Seehan, John Kenneth Galbraith và nhiều người khác. Dầu vạy còn được biết 125  nhà báo trong số họ, đủ quốc tịch tình nguyện ở lại để tường thuật cơn hấp hối của miền Nam…

Bên cạnh đó, người ta còn nhận thấy có phụ tá trùm mật vụ Frank Snepp đã  vừa đến đây,  người mà trước đây đã hộ tống  tt. Nguyễn Văn Thiệu ra đi trước đó mấy ngàyự

  1. Snepp đến đây với mục đích là để đón tiếp một nhân vật quan trọng nhất-đại diện cho nước Mỹ- trong lúc này. Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ nước Mỹ.

Lá cờ đã được cuốn lên có nghĩa là nước Mỹ không còn ở đó nữa..!!.

Ngay khi vừa bước lên chân lên boong tàu vào lức 2 giờ 47, giờ Sàigon. Ông đại sứ đã nhận được một điện chúc mừng của H.Kissinger với nội dung như sau:” Với lời ngợi khen nồng nhiệt  vì ông đã chu toàn trách nhiệm Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!

Trong khi đó, những con thuyền nhỏ như lá tre của dân tỵ nạn nhấp nhô trên mặt biển. Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai? Họ có thể là bất cứ ai. Số phận họ rồi sẽ ra sao? Chẳng ai tiên đoán được tương lai họ như thế nào ? Chỉ biết rằng con số được vớt đi trên biển là 100.000 người được vớt đi từ các chiến hạm trong tổng số 250.000 được đi bằng các phương tiện khác như máy bay..

Sự ra đi trên biển cả thật bi tráng và tuyệt vọng như số phận những lá tre trên một đại dương!!

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nay ngồi nghĩ lại, nhiều người đã không mường tượng nổi họ đã có thể làm được một điều như vậy!

Cứ như một phép lạ Hy Lạp. Cứ như sự đáp trả như một cát tát vào mặt người cộng sản. Cứ như một lời tố cáo trực tiếp: chúng tôi có mặt. Cứ như một tín hiệu cho thấy: đất lành chim đậu. Cứ như một dấu hiệu đâu là quê hương đích thực, đâu là bến đỗ, đâu là chỗ để về…

Nhưng cái Sô vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì.

Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.

Nhận xét ấy ăn khớp với điều mà Sir Robert Thompson, một chuyên gia về du kích dưới thời đệ I cộng hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó vào ngay 23/3/1975 như sau:” Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của Hoa Kỳ.. Cuộc  triệt thoái khỏi Đông Dương là cuộc rút lui lớn nhất thế giới từ khi Napoleon rút lui khỏi Moscou.”.

Một vụ cần nói lại trong chuyến tàu vượt biển này là có một chiếc trực thăng do một vị tướng không quân chở theo một trung tướng quân đoàn đã đáp trực thăng xuống tàu chỉ huy Blue-Ridge. Một sĩ quan đã báo việc này lên vị đô đốc. Ông đã ra lệnh và nói vị thiếu tướng không quân nội dung như sau: Nói với y là đây không thuộc lãnh thổ VNCH mà là nước Mỹ ngoài biển. Và yêu cầu họ cởi bỏ quân phục cũng như lon chậu, đồng thời giữ im lặng, không được tuyên bố điều gì.

Được biết, sau đó vị tướng Không quân đã quỳ phủ phục xuống sàn tàu và thề rằng sẽ có một ngày ông sẽ trở về.

Quả thực, sau này ông đã quay trở về VN, nhưng không phải để phục quốc mà để bắt tay hòa giảo với chính quyền cộng sản..

  • Thế hệ người Việt thứ hai.

Phần những đồng bào may mắn đến được miền Đất Hứa đã hy sinh đời mình cho đời sau con cái, đã tận tụy làm ăn.. Con cái họ nay đã trưởng thành với phần đông thành công trên xứ người, không phụ lòng cha mẹ.

Cả một thế hệ tương lai đầy hứa hẹn như một biểu tượng  thành  công nơi xứ người trong sự hội nhập đem lại hãnh diện cho cá nhân gia đình mà còn góp phần vào gia tài chung của thế giới.

Chúng ta chỉ cần nhìn lại miền Nam Cali, nơi có gần một triệu người Việt sinh sống. Họ tạo  thành một sức mạnh kinh tế, xã hội, văn hóa. Đã có  các tướng lãnh trong nhiều binh chủng Hoa Kỳ, đã có ngững chuyên viên thượng thặng trong nhiều cơ quan chính phủ Hoa Kỳ.. Người Việt hải ngại ngày nay có quyền hãnh diện về những thành quả ấy.

Phần giới trẻ sẽ dần quên quá khứ và những gì chúng biết được, nghe kể lại từ cha ông chúng sẽ chỉ còn là những hoài niệm quá khứ mờ nhạt, lu mờ.

  • Và cái ngày hôm nay, sau 30 tháng tư, 1975, sau 50 năm.

Sau 50 năm, tôi và những người Việt di tản trên dưới 3 triệu người trên khắp thế giới tự hỏi chúng ta được gì? Và mất gì?

Câu hỏi rất thiết thực và xác đáng cần có câu trả lời. Phần tôi, không có tư cách gì đại diện thay cho hơn 3 triệu người ấy.

Nhưng tôi thành thực nghĩ rằng, khi ra đi, tôi đã mất trắng tất cả như một thứ ăn cướp ngày một cách công khai. Từ quê hương, nhà cửa, bạn bè, họ hàng và cả quãng đời tuổi trẻ miền Nam của tôi được lớn lên, được ăn học trở thành người thông tuệ.

Sang xứ người, tôi đã có lại tất cả mọi thứ, con cái tôi được ăn học đến nơi đến chốn mà nếu ở VN, rất có thể, chúng sẽ dở dang không ra ông ra thằng..

Phần trong giới quen biết, những người có căn bản học vị như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, kỹ sư đều có cơ may trở lại nghề cũ, hội nhập và đời sống thu nhập cao…

Nghĩ lại những điều ấy, tôi thấy rằng món quà cao quý nhất mà đất nước này dành cho tôi và những người khác là Tương Lai.

Có thể có tương lai, có niềm hy vọng là có tất cả mà chính quyền cộng sản không hề có để ban phát.

Kỷ niệm 50 năm ngày mất miền Nam, thay vì nguyền rủa bóng tối, tôi an ủi thân phận mình vẫn còn chút gì và bằng lòng về những điều ấy cho riêng mình…

Tương lai với đầy triển vọng và hứa hẹn vẫn thuộc về chúng ta.


 

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9)

Và Người đã dạy tất cả chúng ta:

“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác.” (Ga 12,24)

Đức Kitô là hạt lúa miến mà Chúa Cha đã gieo vào mảnh đất thế gian. Người đã tự hủy cách hoàn hảo, đơm hoa kết trái dồi dào. Người đích thực là vị tử đạo đầu tiên, trung kiên với sứ mạng được Thiên Chúa Cha trao phó. Người đã chết để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chân lý. Cuộc đời rao giảng, cuộc tử nạn và phục sinh của Người đã trở thành điểm khởi đầu và cùng đích cho đời sống đức tin của các Kitô hữu.

Khởi đi từ các tông đồ, trải qua lịch sử hơn 2000 năm của Giáo hội Công Giáo, các tín hữu ở khắp cùng trái đất đã vui mừng đón nhận vinh phúc tử đạo và coi đó là phương thế tuyệt vời để được chung phần với Đấng Phục Sinh. Các ngài đã sống và chết trong những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau để làm chứng cho các giá trị Tin mừng.

Giáo hội Việt Nam hạnh phúc và tự hào khi được cùng chia sẻ vai trò chứng nhân cho con người trên quê hương Việt Nam này. Kể từ ngày các nhà thừa sai gieo mầm đức tin tại Việt Nam, hàng trăm ngàn tín hữu trên mảnh đất hình chữ S đã anh dũng tuyên xưng niềm tin của mình, dù phải chịu bắt bớ, tra tấn, tù đày và hy sinh mạng sống.

Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn Vũ ghi nhận và tôn vinh. Ngày 19 tháng 6 năm 1988 đã trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam, tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh.

Trong số 117 vị, có 08 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục với 13 vị người nước ngoài và 37 vị  người Việt Nam, 14 Thầy Giảng; 01 Chủng Sinh và 44 Giáo dân. Trong 117 cái chết anh dũng, có 01 vị chịu bá đao, 04 vị chịu lăng trì, 06 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo và 09 vị chết rũ tù.

Hướng về các bậc tiền bối với tâm tình ngưỡng mộ và biết ơn, cũng như để nhắc lại gương sáng của các ngài, hôm nay, Giáo hội Việt Nam đã công bố mở Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này. Năm Thánh khai mạc vào ngày 19.6.2018 (ngày tuyên phong 117 vị Thánh Tử đạo Việt Nam) và Bế mạc vào ngày 24.11.2018, ngày Lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong năm lịch phụng vụ. Trong Năm Thánh này, các tín hữu được hưởng Ơn Toàn xá khi tham dự lễ khai mạc và bế mạc Năm Thánh, cũng như khi hành hương đến các địa điểm được chỉ định.

Tại Giáo phận Bà Rịa, thánh lễ khai mạc Năm Thánh được cử hành lúc 09g30 ngày 19.6.2018 tại Nhà thờ Chánh Tòa; thánh lễ bế mạc vào lúc 09g30 ngày 18.11.2018 tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu.

Nhà thờ Mồ được chọn làm nơi hành hương cho các tín hữu trong năm thánh. Nhà thờ Mồ nằm cách Nhà thờ Chánh Toà hiện nay khoảng 300m, trên khu đất trước đây là nghĩa trang giáo xứ. Dù chỉ là một ngôi nguyện đường khiêm tốn, nhưng đây chính là nơi cất giữ cả một ký ức hào hùng của cộng đoàn tín hữu Bà Rịa. Nơi đây ghi danh 288 vị anh hùng đức tin, và ghi dấu nhiều tín hữu vô danh khác, đã đổ máu đào làm nên lịch sử hào hùng cho mảnh đất Bà Rịa.

Chúng ta cùng lần giở lại những trang sử hào hùng cách đây gần 150 năm, để nhìn thấy dòng máu đỏ đã tuôn trào, làm nảy sinh và tăng trưởng bao thế hệ tín hữu. Năm 1861 – 1862 được ghi dấu là 02 năm lửa máu của Phước Tuy, tên gọi trước kia của Bà Rịa. Chính quyền thời đó ngờ vực người Công giáo theo Tây, cụ thể là các nhà sừa sai ngoại quốc cùng các binh sĩ Pháp và Tây Ban Nha, nên đã ra sức lùng bắt các tín hữu. Có khoảng 700 tín hữu đã bị bắt và giam vào 04 ngục thất:

Ngục Chánh tại làng Phước Lễ, giam 300 nam tín hữu.

Ngục thứ Hai cách ngục Phước Lễ khoảng hơn 3000 thước, dọc theo con đường Bà Rịa –  Xuân Lộc. Nơi đây giam giữ 135 tín hữu.

Ngục thứ Ba cách Phước Lễ độ hơn 5000 thước, trên đường hướng về Đất Đỏ, Long Điền. Có 140 tín hữu đã bị giam giữ tại đây.

Ngục thứ Tư trong làng Phước Thọ, trung tâm Họ Đất Đỏ, là nơi giam giữ 125 nữ tín hữu và trẻ con.

Thế rồi ngày hạnh phúc của các tín hữu đã đến. Ngày 7 tháng Giêng dương lịch năm 1862, người Pháp dẫn binh chiếm Phước Tuy, chính quyền địa phương tưởng rằng họ tiến vào giải thoát các tín hữu nên đã phóng hỏa 4 ngục thất. Ngoài một số tín hữu thoát thân, có tất cả 444 vị đã bị chết trong cuộc thiêu sinh đó.

Sau vài tháng tạm yên ổn, cuối năm 1862, một cuộc bắt bớ khác lại tái diễn ở vùng Gò Sầm, Đất Đỏ. Một cuộc lùng sục, truy đuổi các tín hữu lại diễn ra, chủ yếu vùng Đất Đỏ và Họ Thôm (Long Tâm). Lần bách hại này tuy ngắn ngủi nhưng cũng gần 200 tín hữu đã bị sát hại.

Tuy vậy, đúng như lời Chúa nói: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác. Các tín hữu đã nằm xuống vì đức tin, giọt máu của các ngài đã thấm vào mảnh đất Bà Rịa, làm đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái là bao thế hệ Kitô hữu. Đạo Công giáo dần dần phục hưng và phát triển trên mảnh đất Bà Rịa.

Những năm sau đó, nhiều linh mục, trong đó có các Cha Cố người ngoại quốc, đã lần lượt đến để đồng hành, chăm sóc các tín hữu. Đặc biệt, Họ Bà Rịa vinh dự được Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (sau này là Giám mục tiên khởi của Giáo hội Việt Nam) coi sóc từ năm 1917 đến 1926. Nhiều họ đạo đã được thiết lập, nhiều nhà thờ và các cơ sở tôn giáo như trường học, đất thánh, lầu chuông, phòng thuốc,…cũng dần xuất hiện. Các cử hành phụng vụ, các sinh hoạt giáo hội tại các họ đạo cũng ngày càng phát triển về quy mô và số lượng. Đặc biệt, ngày càng có nhiều anh chị em lương dân tìm đến với Giáo hội để được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Khai tâm Kitô giáo.

Nhìn lại hành trình đức tin trong những thế kỷ qua, nhìn thấy những thành quả tốt đẹp của Giáo hội hiện tại, mỗi người chúng ta càng được nhắc nhớ phải tỏ lòng tri ân các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các Vị Tử đạo tại Bà Rịa cùng hàng trăm ngàn Kitô hữu vô danh khác đã hy sinh tính mạng để bảo vệ đức tin. Chúng ta tri ân các ngài bằng chính cuộc đời nhân chứng của mình. Đó cũng là lúc chúng ta tiếp nối sứ mạng của các ngài, thi hành nhiệm vụ của mỗi người tín hữu đã được Chúa Phục sinh trao phó.

Về việc tổ chức mừng năm thánh, tại Giáo phận Bà Rịa, ngoài thánh lễ khai mạc và bế mạc Năm thánh, mỗi giáo xứ, giáo họ biệt lập, các dòng tu, các giới và các thành phần tông đồ cấp giáo phận sẽ thực hiện một ngày hành hương riêng kính viếng Nhà thờ Mồ. Ngoài ra, tại mỗi giáo hạt sẽ cử hành ngày sinh hoạt để học hỏi, tôn vinh và cầu nguyện cùng các Thánh tử Đạo Việt Nam cũng như các Vị Tử đạo Bà Rịa.

Sống tinh thần Năm Thánh, mỗi tín hữu được mời gọi chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và Các Thánh Tử Đạo, vừa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài, tích cực sống tinh thần tử đạo trong cuộc sống hàng ngày hôm nay.

Ước gì, nhờ việc tham dự các cử hành Năm Thánh Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mỗi Kitô hữu chúng ta được hưởng trọn vẹn những ơn ích thiêng liêng mà Năm Thánh đem lại, biết dùng ơn Chúa ban để hăng hái phụng sự Chúa, và tích cực góp phần vào việc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất nước chúng ta.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho dân tộc Việt Nam chúng con. Amen.

Lm. Antôn – Phước Tỉnh


 

Nửa thế kỷ khai tử, Sài Gòn vẫn bất tử-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

February 27, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

“Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên”[*].

Sài Gòn, danh xưng đã có từ hơn ba thế kỷ để chỉ một vùng lãnh thổ trung tâm phía Nam Việt Nam, nơi đã từng hào phóng đón nhận biết bao thế hệ người Việt cất công nam tiến khai phá vùng đất mới.

Sài Gòn, nhờ vị trí đắc địa đã trở thành một điểm giao thoa của nhiều tôn giáo, nền văn hóa, dân tộc, thành phần … biến sự thân thiện, chân thật, hào sảng trở thành tâm tính địa phương.

Một quán cà phê ở Sài Gòn ngày nay có tên là “Sài Gòn Xưa” như một hoài niệm một thời đã được sống mà không thể nào quên. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sài Gòn, nơi đã từng là thủ đô của cả một quốc gia dưới nền Cộng Hòa trước khi ngơ ngác thấy mình có danh tính mới vào ngày 2 Tháng Bảy 1976.

Trước đó, thời thuộc Pháp, Sài Gòn vốn đã là trung tâm hành chính của vùng Đông Dương bao gồm Việt, Miên (Cambodia ngày nay) và Lào. Khi ấy, dinh toàn quyền Đông Dương (Dinh Norodom) được người Pháp cho đặt tại Sài Gòn.

Sau khi giành được độc lập, tư cách pháp lý của đô thành Sài Gòn được xác lập vào ngày 22 Tháng Mười 1956, với Sắc lệnh số 143-NV của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhằm đổi tên các tỉnh thành miền Nam Việt Nam, theo đó, đổi tên Sài Gòn – Chợ Lớn thành đô thành Sài Gòn của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, quản lý vùng lãnh thổ từ dưới vĩ tuyến 17 đến Cà Mau theo Hiệp định Genève năm 1954.

Đến ngày 2 Tháng Bảy 1976, sau khi chế độ Cộng Sản thống nhất được lãnh thổ, họ đã thông qua quốc hội để đổi tên đô thành Sài Gòn trở thành thành phố Hồ Chí Minh, vốn là tên giả lãnh tụ của họ: ông Nguyễn Sinh Cung.

Lần giở tài liệu từ khối ý thức hệ Cộng Sản, họ đã từng có tiền lệ đổi tên địa danh bằng tên lãnh tụ.

Trong đó, năm 1925, họ đã đổi tên thành phố Volgograd, tọa lạc tại bờ tây hạ lưu sông Volga, một trong những trung tâm công nghiệp lớn của nước Nga, thuộc Liên Xô cũ trở thành thành phố Stalingrad, tên lãnh tụ Joseph Stalin của Liên Xô khi ấy. Đến năm 1961, sau khi Stalin đã qua đời, thì thành phố mới được phục hồi lại tên cũ Volgograd.

Cũng vậy với thành phố Saint Peterburg. Năm 1924 bị đổi thành thành phố Leningrad, tên lãnh tụ Cộng Sản. Đến tận năm 1991,sau khi Liên Xô tan rã, thành phố mới được phục hồi tên cũ.

Lấy cảm hứng từ các sự kiện đổi tên thành phố này, một bác sĩ thân Cộng là ông Nguyễn Hữu Nghiệp đã vận động nhóm thân hữu cùng đề xuất lấy tên ông Hồ Chí Minh để đổi tên cho đô thành Sài Gòn. Đề xuất này đăng tải trên báo Cứu Quốc, xuất bản tại Hà Nội vào ngày 27 Tháng Tám 1946.

Đến 30 năm sau, khi cưỡng chiếm được miền Nam, giành quyền quản lý toàn lãnh thổ, trong đó có đô thành Sài Gòn, chế độ Cộng Sản đã thay đổi thành thành phố Hồ Chí Minh.

Dịp ấy, người miền Nam, người Sài Gòn tiếc nuối danh tính cũ, vốn đã có từ hàng trăm năm, đã uất hận than thở: “Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên”.

Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn thường được gọi là “Nhà thờ Đức Ba” tọa lạc ở trung tâm thành phố. Lễ Giáng Sinh hàng năm, không phải chỉ có tín đồ Thiên Chúa Giáo, cả triệu người đổ dồn về đây và các đường phố chung quanh hân hoan chào mừng ngày lễ Chúa giáng trần. (Hình: Chris Jackson/AFP/Getty Images)

Tuy đã bị khai tử, nhưng sau nửa thế kỷ, có vẻ như danh xưng Sài Gòn chưa một lần mất dấu. Cái tên Sài Gòn vẫn cứ tồn tại nhờ chính hệ thống truyền thông của chế độ Cộng Sản trong nước, khi bị gắn tên vào những sự kiện tiêu cực, như: Nếu mưa thì “Sài Gòn ngập đến đầu gối”, nếu nắng “Sài Gòn vật vã dưới nắng nóng”, nếu chết “Phát hiện xác chết nam giới nổi trên sông Sài Gòn”, nếu nghiện ngập “Bắt khối lượng ma túy lớn ở Sài Gòn”, nếu chơi bời “Phát hiện ổ mại dâm ở Sài Gòn”, nếu tệ nạn “Chém nhau trên phố Sài Gòn”, thậm chí, nếu hỏa hoạn “Cháy lớn ở Sài Gòn” … đều là những cái tít trên mặt báo của chế độ.

Nhờ vậy, dù nằm ngoài toan tính của chế độ, nhưng đã góp phần giữ gìn lại cái tên Sài Gòn.

Điều đó như đúng tính chất Sài Gòn, nơi không chỉ giao thoa của nhiều tôn giáo, văn hóa, dân tộc, thành phần. Mà còn chứa chấp đủ mọi loại hỷ, nộ, ái, ố tồn tại trong cuộc đời mà vẫn bao dung thân thiện, cũng từ đó mà định hình tính cách hào sảng chẳng dễ thấy từ những nơi khác.

Mới đây, đến cả người đứng đầu chế độ Cộng Sản là ông Tô Lâm cũng đã phải nhắc cái tên Sài Gòn với đầy vẻ tiếc nuối, ông dẫn câu chuyện về Singapore đã từng thèm muốn vị thế Sài Gòn từ thập kỷ 60 như thế nào…

Được nhắc nhở thường xuyên bởi chính những kẻ muốn khai tử cái tên Sài Gòn, giờ lại còn được công khai ca ngợi, thì xem ra, Sài Gòn bất tử. Sài Gòn sống dai dẳng hơn cả đời người, chủ nghĩa, ý thức hệ, sự thắng thua … Sài Gòn cũng chẳng cần đến một lời tuyên bố về sự hồi sinh. Bởi lẽ, Sài Gòn đã từng chết bao giờ mà cần phải hồi sinh?

Hoa Thịnh Đốn, ngày 26 Tháng Hai 2025
Đặng Đình Mạnh

[*] Nước Mắt Cho Sài Gòn (Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên) – Nguyễn Đình Toàn


 

Có hai tù nhân lương tâm vừa lặng lẽ trở về

Tác Giả: Đàn Chim Việt

22/02/2025

Nhà hoạt động nhân quyền Vũ Quang Thuận

Ông Trần Phi Dũng (sinh năm 1966), thành viên nhóm Ân Đàn Đại Đạo (còn được gọi là Hội đồng Công Luật Công Án Bia Sơn hay Công Án Bia Sơn) vừa mãn án hôm 10/2/2025, sau 13 năm tù.

Ông Trần Phi Dũng

Ông Dũng bị bắt tháng 2/2012 cùng với 21 thành viên khác với cáo buộc “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”- điều 79-BLHS năm 1999. Trong vụ án này, tòa án Phú Yên đã kết án 21 người tổng cộng 299 năm tù giam, chưa kể hàng chục năm bị quản chế sau án tù. Riêng ông Phan Văn Thu, người sáng lập Ân Đàn Đại Đạo, bị tuyên án “Chung thân” và đã qua đời trong nhà tù Gia Trung vào năm 2022, sau 10 năm thụ án.

Ân Đàn Đại Đạo xây dựng khu sinh thái Đá Bia rộng 48 héc-ta tại khu vực Suối Lớn, Đèo Cả, thuộc xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên theo hướng “tiền sinh thái, hậu tổ đình”. Khu sinh thái Đá Bia được chính Nhà nước công nhận là khu “sinh thái quốc gia”. Tuy nhiên, hồi tháng 2 năm 2012, nhà cầm quyền bất ngờ lùa công an đột nhập vào khu sinh thái và bắt giữ hàng chục người, đương nhiên cướp trắng tài sản mà họ đã gầy dựng được.

Ngoài ông Phan Văn Thu, hai người khác cũng đã qua đời trong tù do bị ngược đãi và bệnh tật là ông Đoàn Đình Nam (qua đời năm 2019) và ông Phan Thanh Ý (năm 2022).
Ông Trần Phi Dũng ra tù trong tình trạng sức khỏe suy kiệt với một số căn bệnh nan y như tiểu đường, viêm khớp và huyết áp…

Do hoàn cảnh nghèo khó nên trong suốt 13 năm ở tù, gia đình ông chỉ đi thăm nuôi khoảng một năm từ một đến hai lần. Vì thế, con đường tù đày của ông Trần Phi Dũng càng trở nên khắc nghiệt. Hiện ông Dũng vẫn chưa thể đi bệnh viện để khám bệnh vì kinh tế quá khó khăn và việc đi lại của ông gặp khó khăn do án quản chế.

Trong một diễn biến khác, nhà hoạt động nhân quyền Vũ Quang Thuận, còn được biết tới với biệt danh “Võ Phù Đổng” vừa được trả tự do vào sáng 22/2/2025. Thông tin được xác nhận bởi trang facebook Huỳnh Nghĩa. Ông Thuận được trả tự do sớm 9 ngày so với bản án 8 năm tù giam ông đã bị tuyên.

Tin cho hay, sáng ngày 22, cán bộ trại giam Nam Hà đã chở ông Thuận từ nhà tù này tới một bệnh viện tại Hà Nội để khám bệnh. Khám bệnh xong, công an đã chở ông về Thái Bình, là nơi ông có hộ khẩu thường trú, thay vì đưa ông về Hà Nội theo nguyện vọng, nơi trước khi bị bắt ông đã sống cùng mẹ và em trai trong một căn nhà trọ.

Ông Vũ Quang Thuận sinh năm 1966, người sáng lập phong trào Chấn Hưng Nước Việt, bị bắt vào đầu tháng 3 năm 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88-Bộ luật Hình sự 1999, cùng với hai đồng sự khác là Nguyễn Văn Điển và sinh viên Trần Hoàng Phúc. Ông Thuận bị kết án 8 năm tù giam, 5 năm quản chế. Trong thời gian ở tù, ông Thuận đã phải chiến đấu chống lại bệnh tật và sự ngược đãi của cai tù. Ông Thuận bị bệnh phổi nặng và sức khỏe ngày càng suy kiệt, đặc biệt là 3 năm trở lại đây.

Chính phủ Mỹ và nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế đã phản đối bản án dành cho Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc và ca ngợi họ như những công dân can đảm, chiến đấu vì các giá trị tự do.

Phạm Thanh Nghiên


 

Tô Lâm bị dư luận viên chỉ trích vì nói dân Singapore ‘mơ ước sang BV Chợ Rẫy’ chữa bệnh hồi 60 năm trước

Ba’o Nguoi-Viet

February 15, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN, bất ngờ bị giới dư luận viên chỉ trích về phát ngôn cho rằng khoảng 50, 60 năm trước, người Singapore “mơ ước sang bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh.”

Trang Facebook “Tifosi” có hơn 300,000 lượt follow, chuyên định hướng thông tin và tuyên truyền theo ý đảng, hôm 15 Tháng Hai bỗng nhiên đăng một bài dài phản bác phát ngôn nêu trên là “không chính xác.”

Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN. (Hình: Sài Gòn Giải Phóng)

Bài đăng trên trang này liệt kê rằng trong giai đoạn cuối thập niên 1960, Singapore có tới tám bệnh viện lớn và lượng bác sĩ tính bình quân trên đầu người lớn nhất Đông Nam Á.

“Trong giai đoạn 1969-1972, Singapore là quốc gia có ít trẻ sơ sinh thiệt mạng nhất ở Đông Nam Á với chỉ khoảng 15 trên 1,000 trẻ em, chi tiêu y tế bình quân đầu người lớn nhất Đông Nam Á, số giường bệnh bình quân cao nhất…,” trang “Tifosi” viết.

Việc một trang của giới dư luận viên dám bình luận rằng phát ngôn của ông Tô Lâm “không chính xác” khiến công luận ngạc nhiên.

Đáng nói, bên dưới bài đăng có nhiều ý kiến tranh cãi, tán đồng bình luận cho rằng các phát ngôn gần đây của ông Tô Lâm “có vấn đề” và khen Facebook “Tifosi” “rất can đảm.”

Facebooker “Đinh Dôn” đặt câu hỏi: “Page nay ‘chơi lớn’ thế. Muốn bị bế [bắt] à?”

Facebooker “Tran Van Tuan” thì nói dạo gần đây thấy ông Tô Lâm “phát biểu nhiều cái khiến mình không thích lắm,” như “đem một số tỉnh thành của Trung Quốc ra so sánh với Việt Nam” và sau vụ trao huân chương [Sao Vàng] cho “đồng chí X” [Nguyễn Tấn Dũng, cựu thủ tướng].

Facebooker này nhấn mạnh rằng nếu được bầu tổng bí thư thì “mình sẽ bầu cho bác [Phạm Minh] Chính vì ông này thực sự là người nghĩ cho đất nước.”

Facebooker Trần Khoa nói: “Chuẩn luôn. Đôi lúc chả hiểu lãnh đạo mình đang bị nhét chữ hay là đúng không hiểu về lịch sử đất nước thật. Thấy có những tít rất mị dân!”

Bệnh viện Chợ Rẫy tại Sài Gòn. (Hình: Tài Nguyên và Môi Trường)

Một số ý kiến khác thì bày tỏ sự nghi ngờ về trình độ “không tới đâu” của các thư ký, trợ lý của ông Tô Lâm.

Ngoài phát ngôn liên quan Singapore, ông Tô Lâm cũng gây tranh luận khi thừa nhận Sài Gòn trước đây là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, là “Hòn Ngọc Viễn Đông,” khái niệm mà giới dư luận viên thường tỏ vẻ bực tức mỗi khi có ai đó nhắc đến để so sánh với thực trạng của TP.HCM sau 1975. (N.H.K) [qd]