‘Vượt Tù, Vượt Biển’ cùng Huỳnh Công Ánh

Cát Linh, phóng viên RFA
2017-04-24
 
Bìa cuốn hồi kỳ Vượt Tù Vượt Biển của Huỳnh Công Ánh.

Bìa cuốn hồi kỳ Vượt Tù Vượt Biển của Huỳnh Công Ánh.

RFA photo
 
 Cuốn hồi ký “Vượt tù Vượt biển” của tác giả Huỳnh Công Ánh được giới thiệu đến với mọi người sau 42 năm kể từ tháng 4 năm 1975.

Trong đó, những sự kiện, hình ảnh của miền Nam kể từ buổi sáng 30 tháng 4-75, cuộc sống của người lính Việt Nam Cộng hoà trong trại cải tạo, hay những chuyến vượt biển kinh hoàng được tác giả kể lại trong cuốn hồi ký với vai trò là một nhân chứng lịch sử.

Nhân vật Tôi

Nhân vật “tôi” xuyên suốt trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển” là Đại uý Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, người tù vượt ngục trại Long Giao, người lái tàu vượt biển hai lần, chủ tịch Hội Cựu Quân nhân tại đảo Pulau Bidong năm 1981; người sáng lập Phong trào Hưng ca Việt Nam: nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh.

Tất cả những vai trò từng tồn tại trong 70 năm cuộc đời được ông gói ghém trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển”, cuốn hồi ký ông ấp ủ 38 năm. Khi thực hiện được, thì đã bước sang năm thứ 42 kể từ buổi sáng 30 tháng 4 năm 1975.

“Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu. Mặc dù tuổi đã lớn nhưng những hình ảnh không bao giờ quên. Vì tuổi lớn, có những sự kiện có thể mất đi nhưng không có gì thêm bớt. Và những nhân vật vẫn còn nằm yên đó..”

Thật sự là như thế. Sài Gòn buổi sáng 30 tháng 4 năm 75 hiển hiện ra dưới ngòi bút của ông với đầy đủ âm thanh, sắc thái, mùi vị. Ông gọi những chương đó là “Tan hàng, Bỏ súng”.

Tan hàng; Bỏ súng

“30.4. Hình như suốt đêm qua Sài Gòn chập chờn không ai tròn giấc ngủ. Tôi không thể nằm yên ở nhà chịu trận mà không biết những gì đang xảy ra bên ngoài đường phố. Tôi rời nhà với đôi mắt cay xè. Sài Gòn vẫn nắng chói chang…

Sáng sớm hôm nay một chiếc trực thăng HU.1D bên kia đường, đỗ trên nóc nhà đón thân nhân, đã vướng dây điện, nằm chúi đầu như sắp rơi xuống đất. Ngoài đường cả một cảnh tượng hỗn loạn đang xảy ra, xe cộ xuôi ngược, và chưa lúc nào đường phố thấy người đi bộ nhiều như sáng nay, nhiều người chạy trên đường với thái độ hốt hoảng…”

Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu.
– Huỳnh Công Ánh

“Cảm giác trưa ngày 30 tháng 4 là cảm giác không biết mình sẽ đi về đâu sau cái ngày Việt Cộng chiếm miền Nam, sau ngày buông súng. Lúc đó cứ nghĩ là bây giờ họ thắng rồi, họ lấy hết đất nước rồi, cảm giác như đờ đẫn, không biết đứng ở đâu, không biết làm gì. Cho tới khi có thông cáo đi tù cải tạo 10 ngày thì cũng vui mừng, giỡn đùa…ôi 10 ngày nhằm nhò gì, 3 tháng cũng nhằm nhò gì. Ở tù 10 ngày, 3 tháng hay 1 năm rồi ra có cơ hội đi làm ăn hoặc đi học lại, vì tôi tổng động viên năm 68, hai mươi mấy tuổi thôi, tôi cũng ước mơ đi học lại.”

Qua những tình tiết tác giả kể lại trong “Bỏ súng”, người đọc sẽ thấy và hiểu những lớp xi măng đầu tiên xây dựng nên một thành trì xã hội chủ nghĩa ngày nay.

“…Thời gian của tháng 5-75 là thời gian của xôn xao họp hành, thành lập khu phố, kê khai giấy tờ và học tập cái gọi là “chính sách của cách mạng”. Chị giúp việc nhà hàng xóm kế cận căn nhà tôi ở, nghe đâu cũng là Việt Cộng nằm vùng, bây giờ là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân phường.”

Về Long Giao

Những tháng ngày sau đó của Huỳnh Công Ánh và đồng đội của ông được lột tả thật đến từng tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng máy xe nổ ầm ì trong đêm khuya. Cách ông tường thuật đoạn đường về Long Giao mà bần bật lên đó là niềm tin, niềm hy vọng, rồi tiếp nối là sự hoang mang, để rồi cuối cùng là thất vọng.

“Giờ này trong bóng tối, chen chúc trong chiếc xe, tôi mới thấy ân hận. Vợ con tôi chắc đã ngủ rồi mà không biết cảnh chồng và cha đang ngồi trên chiếc xe bít bùng này và đi về đâu? Hoàn cảnh này không thể có chuyện đi “học tập 10 ngày” được rồi. Cũng có thể chúng chở ra biển, rồi nhận chìm tàu, hay đem lên núi xử bắn rồi lấp xuống hố.”

7 năm trong trại tù Long Giao trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh không thiếu những câu chuyện bi hài. Những mẫu chuyện ngắn, được kể lại gọn gàng qua những lời đối thoại không văn vẻ, nhưng rất “trịnh trọng” bởi cách xưng hô “thưa gửi các bộ”, đủ để người đọc phải vỡ oà cái cảm xúc vừa buồn cười, vừa cay đắng.

000_HKG2005042754750-400.jpg
Một bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy lính Việt Nam Cộng Hòa bị hộ tống bởi bộ đội Bắc Việt. AFP photo

“…Những tuần lễ đầu ở Long Giao, khi đi ngang qua các vọng gác của các bộ đội, thấy nhiều viên đá cục chất đống dưới chân vọng gác. Sau mới biết, bộ đội sau khi đi đại tiện, họ dùng đá để lau chùi. Bộ đội mà thế thì huống gì là tù, lấy giấy ở đâu? chỉ dùng lá, cục đá hoặc chà dưới cỏ. Man rợ như thế đấy.

Cũng có những câu chuyện nực cười khác

Khi mới vào Long Giao, có anh tên là Lê Thông, mang kính cận dày cộm. Một hôm đi ngược chiều với bộ đội, tên bộ đội gọi giật lại:

Anh kia, ai cho phép anh đeo kiếng?

Báo cáo cán bộ, tôi bị cận thị. Anh Thông trả lời

Cận thị là cái gì? Lấy xuống, lấy xuống mau!

Báo cáo cán bộ lấy kiếng xuống thì tôi quờ quạng lắm, làm sao thấy đường đi?

Tôi không đùa với anh đâu nhé. Lấy xuống mau!”

Vượt tù, vượt biển

Từ những chương này trở về sau, là những mốc thời gian tác giả gọi là tàn khốc nhất. Chính vì vậy mà trong suốt 38 năm, dù trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, ông vẫn không quên một chi tiết nào. Từ cuộc vượt ngục lịch sử thoát khỏi những ngày học tập cải tạo trong trang phục của bộ đội Bắc Việt cho đến hai lần lái tàu vượt biển.

“Khi ở tù, phải có 1 thời gian suy nghĩ rất là lâu, bao nhiêu năm liền về ý định trốn tù. Vượt biển thì khốc liệt lắm, trong vòng có mấy ngày thôi. Tôi đã từng bị mảnh đạn bị thương, rồi bỗng nhiên trở thành người chỉ huy cứu 29 người trên tàu sống sót trong 17 ngày trôi trên biển. Chính mình cũng bị hải tặc Thái Lan khoét lưỡi lê trong hậu môn chảy máu đi không được, bị kẹp tay tra khảo. Nó khốc liệt sợ hãi hơn đường trốn tù. Cái hãi hùng của chuyến vượt biên thứ hai nếu xảy ra giống như chuyến thứ nhất thì liệu vợ, con và cháu và em của mình sẽ ra sao? vì mình mà họ chết. Nếu mình chết 1 mình không sao. Nhưng liên luỵ đến con nhỏ, cháu mình thì cảm giác nó sợ sệt, không ăn không ngủ được nhiều hơn là trong tù.

Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy.
– Huỳnh Công Ánh

Vượt biên là mình phải làm sao cho tàu đi không chìm dưới biển, làm sao để tránh hải tặc vô cướp, hiếp dâm…Khi đi rồi không biết sẽ đi về đâu? Tấp vô bến nào hay được tàu vớt hay bị chìm tàu?”

Những ký ức tưởng như sẽ dần nguôi ngoai, nhưng không phải thế. Ông nhớ lại cuộc đời của một người tỵ nạn đến Mỹ ba mươi mấy năm, và thấy rằng nó cay đắng thâm trầm nghiệt ngã hơn thời gian 7 năm học tập cải tạo rất nhiều.

“Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy. Nhiều khi trong giấc chiêm bao mình thấy họ bắt mình, kéo mình, mình vẫy vùng, đá vào người vợ nằm kế mình. Nhiều lần như thế, nghĩa là nó ám ảnh mình suốt đời.

Thành ra cái chuyện ám ảnh, lo âu, dĩ vãng trong tù là nhớ vanh vách, chỉ có đọc ra, ghi ra, chứ không thêm thắt, hư cấu, văn chương gì cả.”

Nhân chứng lịch sử

Khó mà tìm được một mỹ từ hay một chi tiết bắt người đọc phải suy nghĩ trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh. Thay vào đó, từng câu từng chữ hiện ra gãy gọn, thật thà, có cả cái tiếng chửi thề không lẫn vào đâu được của người miền Nam, đưa người đọc của nhiều thế hệ quay về sống với từng giây phút của năm tháng đó, chứng kiến những câu chuyện đó.

Ông nói rằng để thoát được những chuyến đi ấy, ông đã chịu ơn tình của nhiều người. Những ân tình đó là nguyên nhân đến 38 năm sau cuốn hồi ký mới ra đời. Niềm vui của ông được diễn tả bởi hai chữ “bàng hoàng” vì ông cho rằng ông đã thực hiện được sứ mệnh của cuộc đời mình.

Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân.
– Huỳnh Công Ánh

“Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân. Và mình đứng cửa giữa, tức là lòng mình đã chùng xuống rồi. Ba mươi mấy năm tôi mới viết, thì sự hận thù ra ngòi bút, ra trong tư tưởng không còn nữa. Nó đã bình tâm rồi. Mình muốn mình là người Việt Nam yêu nước, mình muốn mình là nhân chứng thật sự giữa hai chế độ miền Bắc và miền Nam. Và nhân chứng đó chỉ đưa ra hình ảnh thôi, không phê phán, không chửi rủa, không đả đảo, không hận thù.”

Điều ông mong muốn, với vai trò là một nhân chứng kể lại một khúc quanh của lịch sử, người đọc, và thế hệ sau sẽ tự biết cái nào đúng, cái nào sai, cái nào cần thiết cho giống nòi Việt Nam.

Khi chương cuối cùng của hồi ký “Vượt tù, vượt biển” khép lại, người đọc vẫn còn thấy đâu đó buổi sáng hỗn loạn của ngày 30 tháng 4 lịch sử. Với nhiều người khác, biến cố ấy không chỉ dẫn đến một cuộc vượt tù cải tạo và hai chuyến vượt biển của Huỳnh Công Ánh, mà còn dẫn đến một câu chuyện dài chưa có hồi kết của đất nước, dù đã bước sang năm thứ 42.

NHẤT PHÁ SƠN LÂM

From facebook:  Trung Minh Le shared Dương Hòa Đức‘s post.
 
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

Dương Hòa Đức added 2 new photos.Follow

NHẤT PHÁ SƠN LÂM

Nhìn bản đồ 1943 và bản đồ 1997 về rừng cây Việt Nam thì không cần bình luận một chữ nào về thành tích phá hoại của lũ thất học.
Đánh Việt Cộng thì cần gì Dioxin hay Chất độc da cam da quýt gì.

Cứ cho nó thấy một nạm tiền, hay một chức danh có thể làm ra tiền cho dù bất nghĩa thì sai nó giết cha mẹ nó, nó cũng làm.

Vì tiền, tụi nó “cờ lờ vờ, cờ lờ mờ vờ” cạo sạch không còn một nhúm cây để gọi là sinh thái.

Hút cát bán cho Trung Cộng xây bồi đấp đảo, nhà cửa hỏng chân trụt xuống sông.

Sắp đến mùa mưa là lũ quét sẽ triệt hạ nhóm nhà trung du.

KHI ĐÁM CÔNG BỘC LÀ NÔ LỆ CỦA ĐỒNG TIỀN.

nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.

From facebook: Trần Bang shared Manh Dang‘s post.
Ngay lời nói đầu của Hiến pháp 2013 có đoạn: “Thể chế hoá cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kế thừa Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1990… “. Tất cả các Hiến pháp đã nêu do ĐCSVN biên soạn và Hiến pháp 2013 không công nhận Tam quyền phân lập, nên không có Tư pháp độc lập, không có độc lập thì làm gì có Quyền lực của Tư pháp?

Có thẩm phán, kiểm sát viên nào không phải là đảng viên đảng cộng sản VN?

Đảng CS nắm cả ba quyền, gọi là “đảng thống nhất lãnh đạo”.

Ông Chung là 1/200 ủy viên BCH trung ương đảng, cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐCSVN giữa hai kỳ Đại hội đảng.

Ông Chung được BCH phân công là Chủ tịch TPHN, và vụ này ông được phân công giải quyết, thương lượng với Dân Đồng Tâm. Nên Toà án, VKS, Công an điều tra HN thực tế đều là cấp dưới (về mặt đảng) của ông Chung, nên họ đều phải chấp hành ông Chung.

Điều 4, Hiến pháp 2013: ” ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và XH”.

Đảng cộng sản đẻ ra pháp luật, luôn đứng trên pháp luật. Pháp luật chỉ là công cụ của đảng, nên nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.

Tết đến vẫn có khẩu hiệu ” Mừng đảng mừng xuân”,

Không có ” Mừng nhà nước, mừng nhân dân VN” đâu?

Nên nói “Đồng Tâm Vô Pháp” không sai, nhưng chưa đủ!

Vì VN vô pháp từ khi đảng cướp chính quyền năm 1945!

Đồng bào Đồng Tâm, Mỹ Đức, HN đọc để cảnh giác

From facebook:  Trần Bang shared Bảo Nhi Lê‘s post.
Đồng bào Đồng Tâm, Mỹ Đức, HN đọc để cảnh giác… bởi nông dân Thái Bình đấu tranh chống tiêu cực cuối thế kỷ 20 đã bị đàn áp rất thâm hiểm, độc ác, dã man theo kiểu Mao- Đặng của TQ ( hơn thời trung cổ)…

 

“…Gia đình nộp đơn kiện thì công an chỉ những trại tù rất khác nhau; thí dụ họ giam con người ta Quảng Ninh thì họ chỉ cho thân nhân vào Nghệ An tìm; họ giam con người ta ở Thanh Hóa thì họ chỉ thân nhân lên Vĩnh Phú tìm; họ giam con người ta ở Vĩnh Phú thì họ nói là giam ở tận Ðắc Lắc v.v.

Như thế có nghĩa là để cho những nông dân nghèo khó, ngu ngơ không biết đường biết xá, đi tìm thân nhân vài lần là hết tiền nên đành phải bỏ cuộc.

Trong các nhà tù, thì chúng nó ra lệnh cho những thằng tù muốn lập công với công an, là bọn tù hình sự, những thằng tàn ác nhất, tìm cách gây sự với những nông dân và cựu chiến binh cầm đầu cuộc nổi dậy; rồi bọn hình sự này thủ tiêu những nạn nhân bằng cách dùng đũa nhọn đóng vào tai lúc người ta đang ngủ. Nạn nhân chết ngay tức khắc, không thể kêu một tiếng nào cả. Chính thân nhân những người chết kể lại cho tôi nghe chuyện đó.

Ðó là cuộc tàn sát trong bóng tối một cách hèn hạ, cực kỳ khôn khéo, cực kỳ hèn hạ, cực kỳ đểu cáng và chúng nó là những đao phủ số một nên mới nghĩ ra hình thức thủ tiêu dã man như thế…” 

hàng ngàn bà con Giáo dân xứ Song Ngọc, Phú Yên đi phản đối kẻ đánh người, cướp điện thoại và 200 áo

From facebook:  Trần Bang shared Hoàng Bình‘s post.
Nhờ các Linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Nguyễn Duy Tân cùng hàng ngàn bà con Giáo dân xứ Song Ngọc, Phú Yên đi phản đối kẻ đánh người, cướp điện thoại và 200 áo (nghi là ca QL cướp mang về huyện ) ở công an huyện Quỳnh Lưu 

Cuối cùng, những chiếc áo ” Formosa get out” này công an huyện Quỳnh Lưu đã phải trả lại cho dân, họ hứa sẽ điều tra về sự việc trên.

Hết Formosa rồi tới Lee&Man

From facebook:  Trần Bang shared Van Trang‘s post.
Hết Formosa rồi tới Lee&Man

Công nghiệp giấy được xếp vào loại gây ô nhiễm hơn cả công nghiệp khai khoáng, bởi phải khai thác các nguồn xen-lu-lô tự nhiên, sử dụng nhiều chất tẩy trong quá trình sản xuất và đặc biệt việc tái chế giấy như Lee & Man càng thải ra nhiều chất độc hại và nguy hiểm. ‘Đừng để Lee & Man bức tử sông Hậu’ là lời kêu gọi thống thiết của người miền Tây lúc này.”

Nguồn VOA

Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết

Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) – Sẽ còn nhiều lươn lẹo, mưu mẹo ở Đồng Tâm. – G.S. Tương Lai

Ngay sau biến động Đồng Tâm, vài trang mạng (Đàn Chim ViệtVấn Đề…) đã đăng lại “Báo Cáo Về Vụ Nổi Dậy Ở Thái Bình” của G.S. Tương Lai – khi ông còn đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng Viện Xã Hội Học Việt Nam. Đây là một tập tài liệu khả tín, khách quan – dài 53 trang – với phần kết luận hơi (bị) lạc quan:

“Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.”

Hai mươi năm sau, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Khánh An (VOA) vào hôm 17 tháng 4 năm 2017, G.S. Tương Lai – tiếc thay – đã còn giữ được sự lạc quan và niềm hy vọng (“có những chủ trương đúng sách lược đúng“) như hai thập niên trước nữa. Ông buông thõng: “Sẽ còn nhiều ‘lươn lẹo,’ ‘mưu mẹo’ ở Đồng Tâm.”

Mọi sự “lươn lẹo, cũng như “mưu mẹo” sắp tới – tất nhiên – không đến từ phía những người nông dân Việt Nam chân chất. Nỗi bi quan của G.S. Tương Lai khiến tôi chợt nhớ đến lời tuyên bố của ông, đúng hai năm trước – vào hôm 29/04/2015 – khi trả lời Thụy Mi ( RFI ) về một câu hỏi có liên quan đến vấn đề thời cuộc:

“Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết. Từ sự chuyển biến đó, dần dần từng bước thay đổi thể chế chính trị, thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu làm được như thế, họ sẽ lấy lại uy tín.”

Làm thế nào để người dân Việt có thể đặt lại niềm tin vào “giới cầm quyền mưu mẹo” và “lươn lẹo” (rõ ràng) là một nan đề, nhất là riêng với nông dân – giới người vừa lên tiếng kêu than rằng “chúng tôi đã bị lừa quá nhiều rồi.”

Giữa tình cảnh hoang mang, căng thẳng, và lo sợ của hàng vạn con dân chân lấm tay bùn này – tuyệt nhiên – không thấy một vị “lãnh đạo cấp cao” nào “vào cuộc” cả. Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Quốc Hội, Thủ Tướng… đều câm như hến!

Kẻ lên tiếng, mỉa mai thay, chỉ là một thường dân – theo tường thuật của Viễn Đông (VOA) nghe được vào hôm 19 tháng 4 năm 2017:

“Người nông dân nổi dậy” ở Hải Phòng, từng đứng lên chống lực lượng thu hồi đất, cho biết rằng ông “sẵn sàng đứng ra làm trung gian” giữa người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, với chính quyền nhằm giúp làm hạ nhiệt căng thẳng hiện nay…

Người nông dân, từng được hàng xóm láng giềng và người thân ở Hải Phòng đón chào như người hùng sau khi được đặc xá trở về, nhận định tiếp:

“Theo ý kiến cá nhân tôi, chính phủ phải vào cuộc, phải thành lập đoàn thanh tra để làm rõ. Chính phủ phải có kết luận rõ ràng, công bố công khai và xử lý tất cả các quan chức từ xã, huyện, thậm chí cả thành phố Hà Nội. Nếu có dấu hiệu sai phạm phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Sau đó, phải thả khẩn cấp những người mà chính quyền bắt. Cái sai về chính quyền phải xử lý trước”.

Tôi vô cùng trân trọng thiện ý, cũng như thiện chí, của kỹ sư Đoàn Văn Vươn; tuy thế, vẫn không khỏi cảm thấy ái ngại khi đọc lại những sự kiện đã xảy ra tại quê hương ông – theo tường trình của Gia Minh (RFA) vào hôm 2 tháng 10 năm 2012:

“Tin cho biết cuộc làm việc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hải Phòng bắt đầu từ lúc 2 giờ chiều, và đến 5 giờ Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam có cuộc họp báo thông tin về kết luận của Thủ tướng tại Trung tâm hội nghị quốc tế.

Theo ông Vũ Đức Đam thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận hai quyết định giao đất QĐ447 và QĐ220 của huyện Tiên Lãng đều không đúng pháp luật. 

Đến hai quyết định thu hồi 460 và 461 cũng trái pháp luật. Vì quyết định thu hồi không đúng nên việc cưỡng chế cũng không đúng. 

Còn về việc hủy hoại tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, thủ tướng yêu cầu xử lý theo đúng qui định của pháp luật.” 

Dù Thủ Tướng “kết luận rõ ràng” như trên nhưng rồi anh em ông Đoàn Văn Vươn vẫn cứ phải đi tù, còn người chỉ huy vụ “trận đánh đẹp” (phá hủy nhà cửa của nạn nhân) Đại Tá Đỗ Hữu Ca – Giám Đốc Công An Hải Phòng thì được thăng cấp!

 

 

 

 

 

 

 

 

Ông Đỗ Hữu Ca – Giám đốc CA TP HP được thăng hàm Thiếu tướng. 
Ảnh & thú thích: báo Pháp Luật

Dù vậy, xét cho cùng, qúi ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Qúi vẫn còn được coi là những người may mắn vì đã được công luận biết đến tên tuổi nên không thể tự nhiên mà “mất hút” trong hệ thống lao tù được.

Rất nhiều người dân Việt đã không có được sự “may mắn” tương tự:

“Cách đây chừng một thập kỷ đã xảy ra vụ nổi loạn của nông dân Thái Bình. Những người dân cày đói ăn biểu tình yêu cầu bọn quan chức địa phương hoàn lại những món tiền bị cưỡng đoạt trái phép. Cuộc khởi loạn thoạt tiên xảy ra trên bảy huyện trong tỉnh, trước hết là Quỳnh Phụ, sau đó lan ra các tỉnh lân cận như Hải Hưng, Vĩnh Phú, Quảng Ninh…

Phóng viên nước ngoài rầm rộ đổ đến Hà Nội… Họ đón tiếp niềm nở, nụ cười thường trực gắn trên môi: trà ngon, gà vườn, quà tặng rẻ tiền nhưng lạ mắt… Kèm theo đó là sự hứa hẹn mềm mỏng: ‘chúng tôi sẽ để các ông các bà xuống tỉnh Thái Bình trong thời gian ngắn nhất, với điều kiện đảm bảo được sự an toàn của quý vị’. 

Sự trì hoãn đó có hiệu lực. Một tuần, hai tuần, ba tuần trôi qua. Các ông tây bà đầm không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Quỹ thời gian có hạn. Hà Nội chỉ là một quán trọ xoàng. Hành tinh mênh mông còn có biết bao nơi chốn mời gọi… Họ lần lượt ra đi.

Khi phóng viên nước ngoài cuối cùng lên máy bay và các ống kính đã chĩa về hướng khác là lúc cuộc đàn áp bắt đầu. Trong một đêm, hàng nghìn cựu chiến binh đã bị bắt…

Cuộc vây bắt diễn ra êm nhẹ. Hoàn toàn trong bóng đêm. Sót lại là tiếng kêu khóc của đám dân quê đói khổ, thất học, thân nhân của những người bị cùm trói và tống vào xe thùng sắt.

Các cựu chiến binh Thái Bình, những người đã hiến dâng toàn bộ tuổi thanh xuân trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, những thương bệnh binh nạn nhân của chất độc da cam, những người thường được ca ngợi véo von là anh hùng cứu nước. Họ sẽ được đảng Cộng sản thân yêu đối xử ra sao?

Họ bị phân tán vào khắp các trại tù, sống trà trộn giữa đám tội phạm thật sự. Ở đó, họ sẽ chết trong một thời gian rất ngắn bởi chính các bạn tù này. Bọn tội phạm được lệnh thủ tiêu họ. Đương nhiên, ‘lệnh mồm’ và ban bố một cách thì thầm đến tận từng cá nhân. 

Đây chính là ‘phương thức châu Á’, nhóm danh từ tôi tạm mượn ông Karl Marx tôn kính ở phương Tây. Bọn tội phạm được hứa hẹn giảm án theo thành tích: giết một người án 20 năm giảm xuống 18 năm. Giết hai người, 18 năm còn lại 16… Cứ thế mà thực thi.

Khởi sự là các cuộc khiêu khích, gây hấn. Sau đấy là cuộc tàn sát bằng các hình thức khác biệt, trong đó một hình thức đặc biệt hiệu nghiệm và rất ấn tượng: giết người bằng đũa ăn. Người châu Á ăn cơm bằng đũa. Dụng cụ ẩm thực biến thành vũ khí sát nhân là sự ứng biến tuyệt vời. 

Người ta vót những chiếc đũa bằng gốc tre đực, thứ tre cứng như sắt, một đầu đũa được chuốt nhọn như kim đan. Khi các cựu chiến binh Thái Bình đang ngủ, bọn tội phạm bất thình lình đóng chiếc đũa này vào lỗ tai của họ. Với độ dài 25cm, đũa xuyên suốt từ tai nọ sang tai kia. Nạn nhân chết tức khắc không kịp bật một tiếng kêu.

Như thế, trong bóng đêm và trong sự im lặng, những người cầm đầu cuộc biểu tình của dân cày Thái Bình đã chết theo kiểu ấy.” (Dương Thu Hương – “Bóng Đêm Rắn Rết & Nước Mắt.” Paris, tháng 4/2007).

Mai hậu, liệu có cách nào để tránh cho những người dân cầy ở Đồng Tâm khỏi phải “chết theo kiểu ấy,” trong “bóng đêm” đang bao phủ Việt Nam không?

24/4/2017

Biểu tình phản đối công an thu áo No-Formosa

Biểu tình phản đối công an thu áo No-Formosa

2017-04-24
 

Áo thun có biểu tượng phản đối Formosa.

Áo thun có biểu tượng phản đối Formosa.

Courtesy of danlambao
 
 

Hàng ngàn người tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trong đó có nhiều giáo dân Công giáo hôm 24 tháng tư biểu tình bao vây trụ sở công an huyện Quỳnh lưu.

Lý do của cuộc biểu tình là một số nhân viên an ninh và công an, vào sáng cùng ngày chận đường người dân, tịch thu áo thun có in hình đòi công ty Formosa rút khỏi Việt Nam.

Hai vị linh mục quản xứ gồm linh mục Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục đại diện cho người dân nói chuyện với cơ quan công an huyện.

Vào lúc khoảng 6 giờ chiều tại cổng trụ sở công an huyện Quỳnh Lưu, linh mục Đặng Hữu Nam cho biết:

Hiện tại tôi đang ở hiện trường, cho người dân về. Chúng tôi và chính quyền cũng như công an huyện Quỳnh Lưu đồng ý nhau cách giải quyết. Những gì mà anh  em an ninh làm sai thì họ phải xin lỗi, họ phải đưa xuống giáo xứ Song Ngọc để trả đồ lại cho dân. Chúng tôi đang cho người dân ra về, và công an cũng như chính quyền huyện Quỳnh Lưu hứa trả lời chúng tôi bằng văn bản. Tôi nói với chính quyền cũng như công an trước mặt bà con giáo dân rằng nếu nhà cầm quyền giải quyết không hợp tình hợp lý, thì tôi tiếp tục tổ chức cho bà con đi biểu tình đòi quyền lợi.”

Cuộc biểu tình được cho biết kết thúc trong ôn hòa vào khoảng 6 giờ chiều, không có xô xát hay đụng chạm giữa người biểu tình và lực lượng công an.

Từ khi thảm họa môi trường Fomosa Vũng Áng do nhà máy gang thép Formosa của Đài Loan gây ra làm cá chết hàng loạt dọc theo bờ biển 4 tỉnh bắc miền trung từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đến Thừa Thiên- Huế. Người dân bốn tỉnh và Nghệ An liên tục biểu tình đòi bồi thường và đòi Forrmosa rút khỏi Việt Nam.

Cơ quan chức năng cho rằng Nghệ An không nằm trong vùng chịu tác động bởi thảm họa môi trường Formosa; thế nhưng dân chúng lại nói họ bị ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế.

Học chữ để làm gì?

Học chữ để làm gì?

Tạp ghi Huy Phương

(Hình minh họa: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Chưa bao giờ cái học trở nên vất vả cho nhiều học sinh như ở Việt Nam ngày nay. Phải đi bộ mất cả nửa ngày đường mới đến được trường để học “cái chữ,” các học sinh ở các vùng cao nguyên của Bình Định vẫn phải đến trường.

Ai cũng mủi lòng khi trời trở lạnh, mà thấy các em đến trường mong manh trong chiếc áo mỏng, chân đất không giày dép, đầy bùn đất, đỏ ửng. Trường thì bốn bề gió lộng, không có vách che chắn. Phần ăn trưa mang theo chỉ có nắm cơm với muối.

Đến trường, học sinh phải tự đu dây kéo bè, ghe tự vượt sông đến trường và về đến nhà khi trời đã tối mịt. Trong một trường hợp “bi thảm,” 19 em học sinh trong 57 em học sinh trường Lãng Khê, Nghệ An, phần lớn là gái, chết không tìm được xác, trong buổi sáng mùa mưa năm 2007, nước sông chảy xiết, thuyền nhỏ, chở nặng chết máy, bị sóng đánh chìm.

Cha mẹ như vậy, ai không khỏi xót xa chạnh lòng vì thương con, không cho con đến trường thì ngu dốt, mà cho con đi học, mạng treo sợi tóc, khốn khổ trăm bề, trong khi việc đồng áng không ai làm phụ, cơm ngày hai bữa không đủ ăn, tiền trường không đóng đủ, không áo quần cho con trẻ, lấy gì ăn để cho các con đi học.

Kỳ Anh là một trong những địa phương chịu thiệt hại nặng nề do thảm họa cá chết và đổ chất thải do công ty Formosa gây ra, cả nghìn học sinh tại địa phương này không đến trường trong năm học mới. Các phụ huynh cho biết nguyên do là họ không đủ tiền đóng học phí cho con. Mức học phí cho mỗi em là 1.7 triệu đồng, chính quyền cho giảm miễn 400,000 đồng, nhưng lấy đâu ra 1.3 triệu đồng để đóng cho con em, vì ngư dân không kiếm ra tiền, ngay hạt muối làm ra cũng không bán được.

Ở những nơi khác thì không thiếu những tệ nạn vô đạo đức của các giới chức trong ngành giáo dục, từ giáo viên đổi điểm lấy tính dục, hiệu trưởng khai gian, lạm thu nhiều khoản ngoài quy định của học sinh nghèo, cắt xén tiền ăn trưa của học sinh…

Trong tình trạng khó khăn của đời sống và hoàn cảnh xã hội như thế, nhiều phụ huynh học sinh nản chí, không muốn cho con đến trường để kiếm “cái chữ” như cách nói của người thiểu số vùng cao.

Vào thời buổi này, học chữ để làm gì?

Hơn 200,000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp đang được Bộ Lao Động xây dựng đề án xuất khẩu lao động kiếm việc làm ở nước ngoài.

Hàng chục nghìn thanh niên cần có tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật, tiếng Anh… để xuất ngoại kiếm việc làm, liệu có cần học tiếng Việt?

Quyền cao chức trọng trong xã hội này, chỉ cần lươn lẹo, luồn lọt, mềm lưng, phe đảng, hiến vợ, đâu cần đến kiến thức chuyên môn hay văn bằng thích hợp. Hoạn lợn như Đỗ Mười, bẻ ghi đường ray như Lê Duẫn gặp thời cũng là bậc Đế Vương, học luật trong rừng, đọc một tiếng Anh cơ bản “Made” chưa xong, cũng làm được Tể Tướng.

Thời nay có nên dạy con chữ trung tín, thật thà, để con chết đói không, hay nên dạy con mánh mung, luồn lọt!

Thời buổi sản sinh ra nhiều bí thư, chủ tịch, đại gia, thì đàn bà con gái, Trời cho có cái nọ, chẳng cần có thêm “cái chữ” làm gì!

Ở xứ “địa linh nhân kiệt” như đất Thanh Hóa, cô Trần Quỳnh Anh xuất thân chỉ là nhân viên tạp vụ (lao công tạp dịch) của liên đoàn lao động tỉnh, học vấn cỡ lớp Ba trường làng, nhờ nghệ thuật “lên giường” cũng được bí thư tỉnh ủy bổ nhiệm làm trưởng phòng nhà và bất động sản Sở Xây Dựng Thanh Hóa, một chức vụ dành cho những ứng viên có bằng đại học, tài sản không dưới triệu đô la. Nhờ thân xác Quỳnh Anh lại được ưu ái học thạc sĩ “tại chức,” được cử đi học lớp cao cấp lý luận chính trị để “làm hạt giống đỏ,” “cán bộ nguồn” và sắp sẵn vào vị trí phó rồi giám đốc Sở Xây Dựng Thanh Hóa nay mai, mà chẳng thấy đảng nói gì.

Ngay một tờ báo mang tên là Giáo Dục Việt Nam cũng công nhận: “Dù là do gì đi nữa thì phải thấy rằng, từ khi vòng 1 của các kiều nữ Việt căng tròn và đẫy đà hơn thì tên tuổi của họ cũng lên như ‘diều gặp gió.’ Một nhân vật ‘lừng danh’ của Việt Nam là Ngọc Trinh, xuất thân từ thị trấn Tiểu Cầu, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nghèo, học hành dở dang, nhưng nhờ cao 1m72, nhờ vòng số 1, số 3 phổng phao, eo thon, da trắng cũng trở thành “Nữ Hoàng Nội Y,” “Hoa Hậu Trang Sức,” “Người Đẹp Ăn Ảnh,” “ Siêu Mẫu Việt Nam.” Dù thiên hạ có ganh ghét gọi cô là” “chân dài não ngắn” hay “hoa hậu ao làng” gì gì đi nữa, giờ đây Ngọc Trinh cũng là chủ nhân khối tài sản hàng trăm tỷ đồng, nghĩa là có trong tay hằng triệu đô la, có đủ mọi thứ mà mỗi cô thiếu nữ Việt Nam lớn lên đều mơ ước.

Có nhan sắc như hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương, thì dù trong thời gian ở Đại Học Hoa Sen, học hành quá tệ, bị 7 môn thi với điểm 0 và nhiều điểm 3, bị báo chí “lắm chuyện, ganh tỵ” phanh phui ra, thì cũng có sao đâu? Hoa hậu Thùy Dung chưa tốt nghiệp phổ thông, làm học bạ giả, cũng có sao đâu? Cái dốt không làm cho vòng eo con gái lớn ra, cũng không làm cho vòng ngực nhỏ lại kia mà.

Học chữ để làm gì, rốt cuộc sinh viên cũng… lên giường!

Các cụ ta ngày xưa vẫn khuyến học con cái bằng lời khuyên: “Ấu bất học, lão hà vi?” (nhỏ không học, lớn lên làm gì!). Ngày nay, dưới chế độ này, “Trí thức không bằng cục phân, chẳng bằng năm năm thẻ đảng!”

Xin các cụ đừng lo, ca dao thời đại lại có câu: “Học cho lắm tắm cũng ở truồng, học bình thường cũng cởi truồng rồi mới tắm!” Thời nay nghề ở truồng lại làm ra nhiều tiền hơn nghề mặc quần áo!

Số Báo Cuối Cùng – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Số Báo Cuối Cùng – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

Tuongnangtien

RFA

 Trong một thời gian không lâu nữa, chúng tôi sẽ phổ biến rộng rãi nguyên bộ Bách Khoa trong dạng điện tử để mọi người khắp nơi có thể đọc dễ dàng.

Diễn Đàn Thế Kỷ (ngày 2 tháng 4 năm 1917)

Với thời gian, trí nhớ của tôi mỗi lúc một thêm bạc bẽo. Tháng 11 năm 1989, Bức Tường Ô Nhục Bá Linh (“Wall of Shame) sụp đổ. Qua năm sau, tạp chí Reader’s Digest (dường như là số tháng 5) có đăng một mẩu chuyện ngăn ngắn – liên quan đến biến cố này – mà tôi chỉ còn nhớ được loáng thoáng như sau:

Giữa đám đông đang hăm hở và hớn hở lũ lượt vượt rào đi từ Đông qua Tây là một ông già, dáng lầm lũi và đơn độc. Ông không dừng chân ở bất cứ quán bar nào, dù tất cả đều mở rộng cửa –  và cung cấp rượu bia miễn phí – để chào đón những kẻ vừa đặt chân đến phần đất tự do.

Và trong khi mọi người đều náo nức xếp hàng chờ được lãnh tiền (gọi là “tiền chào mừng”, khá hậu hĩnh) do chính phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức cấp phát thì ông già lặng lẽ tìm đến thư viện để gửi trả một cuốn sách mượn từ tháng Tám năm 1961, cùng với lời trần tình: Tôi chỉ định giữ tác phẩm này vài ngày thôi nhưng không ngờ bị kẹt ở bên kia bức tường tới hai mươi tám năm trời! Để trễ hạn lâu quá, tôi rất lấy làm tiếc và xin được thứ lỗi.

Câu xin lỗi vừa ghi khiến tôi lại nhớ (và cũng chỉ nhớ mang máng thôi) đến lời than thở của học giả Nguyễn Hiến Lê, trong một tác phẩm nào đó của ông: Thưở nhiễu nhương và loạn lạc  thì ngay đến sách báo cũng phải chịu cảnh phong trần, lưu lạc!

Thời gian “lưu lạc” kéo dài gần ba mươi năm của một cuốn sách kể cũng khá dài nhưng so với số phận long đong của một tờ báo (tạp chí Bách Khoa, số cuối cùng – 426 – phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) thì xem ra vẫn còn hơi ngắn, theo như “tin mừng” vừa được nhà văn Phạm Xuân Đài (chủ bút trang Diễn Đàn Thế Kỷ) hân hoan loan báo:

“Trong công cuộc sưu tầm những tài liệu cũ của miền Nam trước 1975, lâu nay chúng tôi đã hết sức cố gắng tìm kiếm bộ tạp chí Bách Khoa, một tờ báo đã đi gần suốt chiều dài 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa. Và xin báo tin mừng với quý độc giả và bè bạn gần xa: cách đây mới hai ngày thôi, chúng tôi đã có được số Bách Khoa cuối cùng còn thiếu, đó là số phát hành 20 tháng 4 năm 1975. Trong một thời gian không lâu nữa, chúng tôi sẽ phổ biến rộng rãi nguyên bộ Bách Khoa trong dạng điện tử để mọi người khắp nơi có thể đọc dễ dàng.

Việc số báo Bách Khoa cuối cùng đến với chúng tôi vào những ngày cuối tháng Ba năm 2017 vừa rồi đã gây cho chúng tôi một xúc động mãnh liệt, vì đó chính là một trong những hình ảnh còn sót lại một cách cụ thể của một miền Nam đang hấp hối, cách đây 42 năm.”

Bìa Giai Phẩm Bách Khoa Số Cuối Cùng. Nguồn ảnh: Diễn Đàn Thế Kỷ

Chúng ta đang sống trong một thế thẳng băng, cùng với những phương tiện giao thông và truyền thông tân kỳ chưa từng thấy trong lịch sử. Cớ sao một số báo Bách Khoa (BK) lại phải “phong trần lưu lạc” đến gần nửa thế kỷ vậy cà?

Đây không phải là một câu hỏi khó nhưng cũng không dễ trả lời ngắn gọn nên tôi xin phép được thưa thêm năm điều/ba chuyện cho nó ngọn ngành:

Từ BK số 1 đến số 425, chắc chắn, đều được gửi đi và lưu giữ trong những thư viện ở Âu Mỹ nên việc sưu tập chả khó khăn gì. Nhưng với số báo cuối cùng, 426, phát hành 10 ngày trước khi miền Nam thất thủ thì số phận của nó lại hoàn toàn khác. Toà soạn BK – vào thời điểm này – chắc chẳng có ai còn lòng dạ nào để lo lắng đến chuyện phát hành, hay gửi báo đến cho độc giả (dài hạn) qua bưu điện nữa.

Giữa lúc “xẩy đàn tan nghé” thì tai họa chả bỏ sót ai, và cũng chả chừa một thứ gì ráo trọi:

“Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế…

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt… Đứa may trốn thoát…  Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít.  Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ.  Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng. Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.” (Nguyễn Văn Lục, “Sách cũ Miền Nam 1954 – 1975”).

Phần thư. Nguồn ảnh: thbl6869

Trong khi đám trẻ con quàng khăn đỏ hét hò đốt sách thì qúi vị trí thức, nhân sĩ, nhà văn, nhà báo cũng cần mẫn ghi chép và hoàn thành những “công trình biên khảo” để đưa bọn cầm bút (thuộc bên bại cuộc) ra … trước toà án dư luận:

  • Nọc độc văn hóa nô dịch,Trần Trọng Đăng Đàn, gồm 2 cuốn:
    Nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ,  NXB TPHCM 1983
    b.  Lại bàn về nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ,  NXB TPHCM 1987
  • Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy  (2 tập) nhiều tác giả, NXB Văn Hóa 1977
  • Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa/ tư tưởng (2 tập) Nhiều tác giả, NXB Thông tin lý luận 1980
  • Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa thực dân mới,Hà Xuân Trường, NXB Sự Thật 1979
  • Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy, Lê Đình Kỵ, NXB TPHCM 1987
  • Cuộc xâm lăng văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN, Lữ Phương, NXB Văn Hoá 1985

Đó là một “thời nông nỗi” đã qua chăng ? Không đâu, làm gì có chuyện đó! Cuộc “Cách Mạng Văn Hoá” chưa bao giờ ngưng nghỉ cả. Chủ trương “bài trừ văn hóa nô dịch, lai căng” là chính sách triệt để, xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua mà.

Ngày 20 tháng 3 năm 2017 vừa qua, T.T (đương nhiệm) Nguyễn Xuân Phúc lại vừa ký Nghị Định 28/2017/NĐ-CP: “Phạt tiền từ 20-25 triệu đồng đối với hành vi tàng trữ, phổ biến trái phép bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có nội dung đã quyết định cấm phổ biến hoặc quyết định thu hồi, tịch thu, tiêu hủy.”

Vậy bằng cách nào mà  cuốn tạp chí BK, số cuối cùng (phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) đã không bị ném vào mồi lửa, không trở thành giấy gói xôi, không bị thu hồi, tịch thu, tiêu hủy” và vẫn có thể xuất hiện “nguyên con” trên trang web của Tạp Chí Thế Kỷ 21 vào ngày 2 tháng 4 năm 2017 vừa qua? Đây là câu hỏi mà qúi vị lãnh đạo của chính phủ hiện hành … cần “suy ngẫm” để có thể ban hành những nghị quyết, hay nghị định đỡ ngớ ngẩn (và lạc hậu) hơn chút xíu.

Vượt biên, 87 người bị giết chết.

From facebook:   Dominic Pham‘s post.
 
 
Image may contain: one or more people and outdoor
Dominic Pham with Dominic Pham in Saigon, Republic of Vietnam.

 

Vượt biên, 87 người bị giết chết.

Vì đâu nên nỗi.

Bà Nguyễn Thị Thương, 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo Sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo Sư Trần Quang Huy, Phân Khoa Trưởng Văn Khoa Đại Học Sài Gòn, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà, con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót.

Ghe mang số SS0646 IA dài 13,5 m, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01/12/1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979. Hai tàu cướp Thái Lan cặp 2 bên hông thuyền tỵ nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải.

80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật quý. Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tỵ nạn nghiêng chìm như một trò chơi. Dân tỵ nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng, trong khi 27 người tỵ nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm.

Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo, chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo Sư Trần Quang Huy. Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát, kinh hoàng.

Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa.

Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513 tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tỵ nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tỵ nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền.

Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ 5, một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo, nhóm người tỵ nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan ra đón họ vào đất liền.

Không lâu sau đó Bà Nguyễn Thị Thương sinh thêm đứa con gái út trong trại tỵ nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông Trần Quang Huy. Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà Thương đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp.

Bà Nguyễn Thị Thương kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói : “Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển. Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi”.

st

Phần lớn hải tặc Thái xuất phát từ Phuket và phần lớn người dân Phuket theo đạo Hồi !!!

BÍ ẨN ĐỒNG TÂM…

From facebook: Trần Bang

Bác Mac Văn Trang đặt ra những câu hỏi về vụ Đồng Tâm rất hay.

BÍ ẨN ĐỒNG TÂM…

Sự kiện diễn ra ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội (nhất là từ ngày 15 đến 22/4/2017), chắc chắn còn tốn nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu, bình luận. Riêng tôi, theo dõi rất sát tin tức về sự kiện Đồng Tâm, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa hiểu được nhiều điều bí ẩn.

1. Chuyện đất đai chỉ trực tiếp liên quan đến một số hộ canh tác trên cánh đồng Sênh, thế thì làm sao cả xã Đồng Tâm hơn 6000 người lại đoàn kết đến mức dám tuyên bố sẽ giữ đất đến chết?

2. Làm sao có một lực lượng lãnh đạo đoàn kết, thống nhất về chủ trương, chiến lược, chiến thuật đấu tranh nhất quán, với mục tiêu trước sau như một, nhưng sách lược đối nội, đối ngọai rất linh hoạt, khi cương, khi nhu, ứng phó với mọi tình huống một cách sáng suốt. Lúc thì cho nhà báo, luật sư vào tiếp xúc; lúc thì cấm tiệt, nội bất xuất, ngoại bất nhập; không đối thoại với cán bộ huyện, phó bí thư thành ủy về cũng không nên cơm cháo gì, chỉ chọn mỗi ông Chung. Nhưng ông Chung về UB huyện, cho 3 xe ca mời 100 người dân lên đối thoại, nhất định không lên… Tất cả những ứng phó ấy lại xảy ra lúc Cụ Kỉnh “lãnh tụ” và mấy người chủ chốt bị CA lừa bắt đi. CA rất “cao tay”, lừa bắt mấy thủ lĩnh, tưởng dân sẽ như rắn không đầu, nhưng “phong trào” không hề nao núng. Thậm chí, chị Phó bí thư Đảng ủy xã còn tuyên bố trước dân: “Bây giờ tôi là Cụ Kỉnh”! Làm sao có một bộ chỉ huy có tâm, có tầm, có bản lĩnh, không mắc vào mưu thâm, kế hiểm của đối phương, hoàn toàn không manh động…

3. Nhưng bí ẩn nhất, là làm sao người dân có thể “tay không bắt giặc”, một lúc bắt 38 cán bộ, CSCĐ nhốt vào Nhà văn hóa? Kỳ lạ? Nếu “binh vận” thì bằng cách nào mà hiệu quả vậy? Nếu dùng vũ lực thì tổ chức lực lượng “dân quân” như thế nào mà thắng nổi ngần ấy CSCĐ được trang bị đầy người, võ nghệ điêu luyện?

4. Bắt rồi cũng chết dở, làm sao canh gác, nuôi dưỡng được 38 anh chàng lực lưỡng (ngày 22/4 còn 19 người). Điều bí ẩn là các CSCĐ không bị còng chân, xích tay; họ được tự do trong nhà văn hóa, chỉ có cửa kính mong manh, rất dễ phá; họ được ra ngoài đi vệ sinh, thay quần áo… thế thì sao họ không nổi dậy, phá “nhà giam”, tự giải thoát? (Nghe nói có 3 CSCĐ tự giải thoát trong ngày 22/4 cùng với 15 người được thả về). Trong những ngày bị giam giữ, người dân đã “tuyên truyên, binh vận” thế nào để lúc ra về anh em thiện cảm với dân, có người cúi đầu vái bà con?…

5. Việc đấu tranh để ông Chung tự tay viết Bản cam kết 3 điểm đáp ứng đúng yêu cầu của dân, lại còn tự tay điểm chỉ vào, cũng là điều chưa từng có dưới chế độ này. Đọc “chuyện bên lề vụ Đồng Tâm” mới thấy đấu tranh để ông Chung chấp nhận viết Bản Cam kết đòi hỏi người dân rất khôn khéo, kiên cường, thậm chí quyết tử! Nhưng cũng khen ông Chung biết lắng nghe, thấu hiểu và can đảm…

Vẫn còn nhiều bí ẩn nữa, nhưng với 5 điều ấy, đã bái phục nhân dân Đồng Tâm lắm rồi. Cái tên Đồng Tâm, Mỹ Đức thật đẹp, xứng với người dân nơi đây, đã nêu tấm gương về đấu tranh cho quyền dân sinh, dân chủ một cách ôn hòa và đã thành công bước đầu. Với những tố chất như đã thể hiện, tôi tin nhân dân nơi đây sẽ tiếp tục đấu tranh thắng lợi, để có cuộc sống dân chủ, tiến bộ hơn nhiều làng quê khác.

23/4/2014

MVT