Làm người Việt yêu nước thật khó!

Ba’o Nguoi-Viet

January 21, 2024

Tuấn Khanh/SGN

Tưởng niệm 50 mất Hoàng Sa, nhưng mọi thứ có vẻ đi qua ở Việt Nam im lặng và chìm ngập trong làn sóng mua bán, vui chơi.

Chưa bao giờ có một ngày tưởng niệm mất nước lại đau như vậy. Đau như ai bóp nát sức sống Việt, ngấu nghiến lòng yêu nước ngàn đời của tổ tiên Việt bằng mù loà cơm áo. Đôi ba lời giận dữ vang lên trên mạng xã hội, vài tiếng kêu tuyệt vọng thư ngỏ phát đi, lạc lõng tựa như đang sống trong một vùng đất khác, quyền lực khác, không phải của người Việt.

Mới nhớ chuyện đã qua, mà ngẫm.

Năm 2015, trong lần đến gặp nhà nghiên cứu Phan Thuận An ở Huế, ông giới thiệu cho thấy một văn bản thú vị có từ thời vua Bảo Đại – rất quan trọng – để chứng minh rằng Hoàng Sa thuộc về Việt Nam.

Bản gốc tấu chương năm 1939, của học giả Phạm Quỳnh, bấy giờ có chức Tổng lý đại thần, gửi cho vua Bảo Đại để xin ủy lạo cho binh sĩ đồn trú ở Hoàng Sa, nơi thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam.

(Hình: Tuấn Khanh)

Vào thời ấy việc di chuyển ra Hoàng Sa bằng thuyền, đồn trú luân phiên của binh sĩ rất khó khăn. Không chỉ là trấn giữ phần đảo chủ quyền, mà đôi khi phải đánh nhau với hải tặc và cứu hộ cho ngư dân Việt.

Bắc Kinh thì luôn đưa ra những lý luận cho thấy rằng Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc, lấn át và thách thức Việt Nam về các chứng cứ chủ quyền. Văn bản quý của nhà nghiên cứu Phan Thuận An đưa ra là một trong những chứng cứ mạnh mẽ và dứt khoát về việc Hoàng Sa thuộc người Việt Nam cho đến tận thời kỳ vương triều cuối cùng.

Với tấm lòng yêu nước, nhà nghiên cứu Phan Thuận An gửi tặng bản gốc tấu chương cho Hà Nội, để nhằm góp vào những cứ liệu bảo vệ chủ quyền Tổ Quốc, theo lời kêu gọi lúc ấy. Ông chụp lại để làm bằng chứng, và kỷ niệm, treo ngay trong phòng khách nhà mình.

Nhưng không hiểu vì sao chưa bao giờ thấy Hà Nội chính thức sử dụng tư liệu này trong việc tranh cãi về chủ quyền Hoàng Sa với Trung Quốc, và cũng không thấy chia sẻ bản văn này với bất kỳ nhóm nghiên cứu hay nhà nghiên cứu nào về biển Đông trong việc chống lại các luận điệu xâm lược hàm hồ của Trung Quốc.

Khi hỏi ông rằng, liệu ông có biết giờ này văn bản đó ở đâu không? Nhà nghiên cứu cả đời gắn với Huế, cười buồn, “chỗ mô thì chỉ có họ biết thôi”. Ông nói rằng ông chỉ làm hết trách nhiệm của một công dân với Tổ Quốc – đặc biệt là một công dân ý thức mình là người Việt Nam – chứ không vì bất kỳ chuyện công danh hay lý tưởng chủ nghĩa gì cả.

Khác với những kẻ sau năm 1975 được tự tung tự tác chiếm đoạt các tài liệu quý của nhà Nguyễn, cũng như từ văn khố lưu trữ của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa, rồi tự xưng mình là Huế học hay là nghiên cứu cách mạng gì đó, nhà nghiên cứu Phan Thuận An tự mình đã viết lên hàng trăm công trình nghiên cứu, chọn sống một đời kể lại quá khứ có thật, và khiêm tốn.

Theo lời của nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì sau tấu chương của Phạm Quỳnh, các binh sĩ được Hoàng đế Bảo Đại thưởng hậu.

Cũng như hậu sinh Phan Thuận An, học giả Phạm Quỳnh cũng đã làm tất cả mọi thứ trong đời mình với một trách nhiệm công dân, chứ không chỉ là một quan chức dâng tấu chương. Thế nhưng tâm huyết của ông với đất nước và văn hóa Việt Nam được đổi lại bằng án tử hình bởi những người cộng sản, hay nói chính xác hơn là từ Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên, vào năm 1945.

Trong tạp chí Xưa và Nay số 269 (Tháng 10/2006), do người chịu trách nhiệm là nhà sử học Dương Trung Quốc, cũng ghi chép lại việc tử hình ông bởi cách mạng. Toàn văn kết án của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kính gửi Tòa án quân sự Thuận Hóa ngày 9/12/1945, ghi rằng:

“Phạm Quỳnh, một tay cộng sự rất đắc lực của giặc Pháp trong việc củng cố địa vị của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mãi quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9-3-1945, nhiều triệu chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta”. (trích)

Trong văn bản này, còn hai người nữa bị kết án tử hình nữa là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân, thuộc gia đình của tổng thống đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm. Được biết, vừa khởi nghĩa chiếm chính quyền, Ủy ban Cách mạng vừa cho người đến bắt ngay cả ba ông, vào ngày 23-8-1945.

Xưa và Nay cũng có trích lời của nhà sử học Cộng sản Trần Huy Liệu rằng việc kết án và giết hại Phạm Quỳnh là điều sai lầm và hoàn toàn vô lý. Kết luận của bài nghiên cứu lịch sử rằng việc giết người đó, vô cùng “lạc lõng” trong thời đại cách mạng đang muốn chinh phục lòng người của ông Hồ Chí Minh. Tiếc thay sự thật thì vẫn còn đó, nhưng những câu chuyện để bảo vệ sự thật như ở Xưa và Nay, thì cũng hết sức lạc lõng trong một thời đại thiếu ánh sáng.

(Hình: Tuấn Khanh)

Đọc chuyện xưa, mà sợ. Những nỗ lực gây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam với tư cách công dân yêu nước của học giả Phạm Quỳnh chỉ được đổi lại bằng cái chết, và sự thật bị bóp méo.

Nghe chuyện nay, rồi buồn. Tư liệu nghiên cứu công phu với tư cách công dân yêu nước của nhà nghiên cứu Phan Thuận An cũng được đổi lại bằng sự thờ ơ, và lãng quên.

Và cũng có rất nhiều công dân yêu nước khác trên đất nước này đã làm tất cả theo bổn phận và lương tâm, nhưng rồi chỉ được đổi lại bằng sự đe dọa, sách nhiễu hay tù đày như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Hóa, Hoàng Bình, Trần Đức Thạch… và rất nhiều người khác nữa, không thể kể hết.

Ngẫm lại, sống với một lương tâm công dân yêu nước Việt, thật khó biết bao.


 

Vụ tấn công 2 đồn công an ở Đắk Lắk: 10 người bị tuyên án chung thân

Ba’o Nguoi-Viet

January 21, 2024

ĐẮK LẮK, Việt Nam (NV) – Chỉ sau năm ngày xét xử 100 bị cáo trong vụ bạo động tại hai đồn công an xã ở tỉnh Đắk Lắk, phán quyết của tòa án tỉnh này tuyên 10 án chung thân, số còn lại bị kết án từ chín tháng đến 20 năm tù.

Theo báo VNExpress hôm 20 Tháng Giêng, hai trong số bị cáo bị án chung thân là Y Sôl Niê và H Wuêñ Êban bị quy kết là “cầm đầu, lôi kéo, kích động các bị cáo khác.”

Các bị cáo nghe tòa công bố phán quyết hôm 20 Tháng Giêng. (Hình: VNExpress)

Đáng lưu ý, theo tờ Tuổi Trẻ, Y Sôl Niê, 45 tuổi, cư trú tại tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ.

Phán quyết của tòa Đắk Lắk cũng kết án khiếm diện từ chín đến 11 năm tù đối với sáu bị cáo đang ở ngoại quốc và bị truy nã với cáo buộc “khủng bố” gồm các ông Y Mut Mlô, Y Quynh Bdap, Y Čhik Niê, Y Niên Êya, Y Bút Êban và Y Chanh Byă.

Trong số này, ông Y Quynh Bdap, bị kết án 10 năm tù, là người đồng sáng lập tổ chức Người Thượng Vì Công Lý (MSFJ).

Đề cập vụ chính quyền tỉnh Đắk Lắk khép tội ông Y Quynh Bdap, Facebook MSFJ viết: “…Không có bằng chứng cụ thể nào, mà chính quyền chỉ dùng các hình ảnh rồi chỉnh sửa bằng photoshop để bôi nhọ danh dự và vu khống, nhắm vào ông Y Quynh Bdap nhiều nhất, rồi còn tung ra lệnh truy nã và còn phạt tù với tội ‘khủng bố’ trong khi đó ông Y Quynh chỉ hoạt động về nhân quyền cho người bản địa. Sau khi thấy lệnh truy nã thì ông đã báo cáo ngay với quốc tế về vụ việc này, vì đây là sự trả thù của chính quyền đối với nhà hoạt động chân chính.”

“Chính quyền chiếm đất đai, đẩy họ [người Thượng] vào cảnh nghèo khổ. Dù không có gì đáng ghét hay thù hận, nhưng đó là sự thật và ai cũng thấy rõ. Nếu chính quyền không thay đổi, liệu người dân có thể im lặng mãi không? Sự im lặng đáng đặt câu hỏi – họ sẽ làm gì trong thời gian tới? Tất cả sẽ đoàn kết và hoạt động mạnh mẽ hơn vì nhân quyền, cất tiếng nói của mình với thế giới,” theo Facebook MSFJ.

Liên quan phiên tòa, Luật Sư Đặng Đình Mạnh được đài Á Châu Tự Do (RFA) dẫn lời: “…Chưa đầy năm ngày để xét xử 100 bị cáo là bất khả thi. Vì chỉ cần Hội Đồng Xét Xử, công tố và luật sư xét hỏi để làm rõ tội trạng của từng bị cáo đã không đủ thời gian chứ nói gì đến một loạt thủ tục trước và sau đó. Trừ phi đây là phiên tòa mà dân gian hay gọi xách mé về nền tư pháp trong nước là án bỏ túi’.”

Phiên tòa hạn chế sự tham dự của người dân và thân nhân các bị cáo. (Hình: VNExpress)

Luật Sư Mạnh cũng bình luận thêm rằng trong vụ án này, việc xét xử của tòa án, tranh luận của công tố và bào chữa của luật sư “đều chỉ là hình thức và thực hiện quấy quá cho xong.”

Vụ bạo động hôm 11 Tháng Sáu năm ngoái được mô tả là do một nhóm người bịt mặt, mang theo các loại vũ khí gồm súng và bom xăng tấn công hai đồn công an ở xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, vào rạng sáng 11 Tháng Sáu, khiến chín người thiệt mạng, trong đó có bốn viên chức công an cùng bí thư xã Ea Ktur, chủ tịch xã Ea Tiêu. (N.H.K) [kn]


 

Về đâu số phận bốn đứa trẻ của đôi vợ chồng “bán con” ở Trà Vinh?

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

20-1-2024

Theo chia sẻ của một cán bộ nơi hai vợ chồng đã bị kết án 23 năm tù vì “bán con”: Ba đứa lớn đã được giao về cho ông bà nội của các bé, đứa con út (bị “bán”) thì đang được chính quyền địa phương chăm sóc.

Gia đình người vợ (cô Nhung) là người Khơ-me, ruộng vườn không đáng kể, chủ yếu sống bằng nghề làm thuê bấp bênh, ai kêu gì làm nấy.

Vị này còn cho biết, gia đình hai bên nội ngoại của vợ chồng này đều rất nghèo khó. Khi bố mẹ đã bị đi tù, ba đứa con lớn được giao về cho ông bà nội nhưng họ là những lao động đã già yếu, chỉ có thể làm thuê bằng những công việc giản đơn và không ổn định. Ngày công của họ (nếu là ngày có việc làm) thì cả hai người chỉ kiếm được tổng cộng trên dưới 100 nghìn.

Tuy nghèo khổ như vậy nhưng không thuộc diện hộ nghèo, vì xã “đang xây dựng nông thôn mới” nên tỉ lệ hộ nghèo bị khống chế.

Từ khi cha mẹ các bé bị bắt (năm 2022) thì cơ bản các cháu cũng chỉ được chính quyền hỗ trợ ít gạo và quần áo.

Hỏi về cách để liên hệ trực tiếp với ông bà các bé thì được biết rằng họ không có điện thoại, tất nhiên cũng không có tài khoản ngân hàng. Mọi sự giúp đỡ nếu không thể đến gặp trực tiếp thì phải thông qua chính quyền xã (Hội Chữ Thập đỏ hoặc Mặt trận Tổ quốc?).

P/S: Tôi nhớ không nhầm thì hiện 3 đứa lớn đang ở với Ông Bà là gia đình chị Kim Thị Chane Tha, cư trú tại ấp Hòa Lạc A, xã Lương Hòa A, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

***

Chu Mộng Long: Xưa bán con được ca tụng, nay bán con phải ở tù

Bi kịch của chị Dậu bán con để cứu chồng được ngợi ca trong tất cả các giáo trình, giáo khoa cho trẻ con học. Hiển nhiên, ca tụng chị Dậu là để tố cáo chế độ thực dân, phong kiến đã đẩy thân phận con người vào bước đường cùng.

Có học trò viết: “Chị Dậu bán chó để cứu chồng thì có thể chia sẻ, cảm thông, nhưng bán con để cứu chồng là nhẫn tâm”. Cô giáo cho ăn hột vịt lộn vì bình luận như vậy là xúc phạm tấm gương người mẹ Việt Nam. Học trò chua chát viết trên nhóm Zalo: “Đề yêu cầu trình bày ‘suy nghĩ của em’, nhưng lại chấm theo suy nghĩ của cô giáo!”

Báo nhà nước từng đăng về chuyện bà Võ Thị Cầm bán đứa con thứ 4 của mình cho nhà giàu để cứu đói cho gia đình. Chuyện mới xảy ra vào khoảng sau năm 1957, lại ở miền Bắc XHCN. Đứa con ấy có tên là Vương Đình Huệ, người thật, không phải tiểu thuyết.

Ảnh chụp màn hình bài trên báo GDVN

Không biết luật thời đó có cấm cha mẹ bán con không? Không thấy toà nào xử các bà mẹ trên.

Nay có ông cha bà mẹ sinh cả đàn con. Cũng nghèo túng, cơm không đủ sống, phải bán con để giải quyết khó khăn, đói nghèo. Toà xử đến 13 năm tù. Ở ngoài không đủ cơm ăn thì được ăn cơm tù?

Thôi thì coi như bố mẹ đi tù để được ăn cơm tù là hình phạt nhân đạo. Nhưng làm vậy có khác nào kết án tử hình đối với 3 đứa trẻ vô tội đang sống lây lất ngoài đời?

Toà hiện nay chí ít cũng đã từng học tấm gương chị Dậu từ lớp 9, và chí ít cũng đọc báo về tấm gương mẹ con Vương Đình Huệ. Chẳng lẽ khi kết án, toà không có chút liên tưởng nào đến những tấm gương đã học, đã đọc?

_____

Bài liên quan: Bé sơ sinh 50 ngày tuổi bị mẹ bán với giá 18 triệu đồng (GĐ&XH). – Tuyên án 23 năm tù đối với cặp vợ chồng mua bán con ruột (Báo TV). – Bán con với giá 18 triệu đồng, hai vợ chồng lãnh án (CAND). Cùng một vụ án, nhưng thông tin từ báo Tiền Phong hơn một năm trước, ngày 20-12-2022, thì hơi khác: Bé sơ sinh bị mẹ ‘cho’ người khác với giá 20 triệu đồng.


 

 Vụ 4 tiếp viên hàng không xách ma túy: Số bị can lên 500, nhưng chi tiết ‘mù mờ’

 Ba’o Nguoi-Viet

January 20, 2024

SÀIGÒN, Việt Nam (NV) – Công An ở Sài Gòn vừa công bố số bị can bị khởi tố liên quan vụ bốn nữ tiếp viên Vietnam Airlines xách ma túy từ Pháp về Việt Nam hiện đã lên 500 người.

Báo Người Lao Động hôm 20 Tháng Giêng dẫn lời ông Mai Hoàng, phó giám đốc Công An ở Sài Gòn, cho biết kể từ vụ bốn nữ tiếp viên bị chặn bắt quả tang tại phi trường Tân Sơn Nhất hồi Tháng Ba năm ngoái, đến nay đã triệt phá 150 đường dây ma túy tại nhiều tỉnh thành.

Tuy tang vật là ma túy rành rành trong các tuýp kem đánh răng nhưng bốn nữ tiếp viên Vietnam Airlines mau chóng được trả tự do. (Hình: Chính Phủ)

Ông Mai Hoàng nói thêm đây là đường dây ma túy lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, dự kiến khởi tố 500 bị can.

Chi tiết về nhân thân các bị can vẫn “mù mờ” trong phát ngôn của giới chức công an này.

Đáng nói, mới hồi đầu Tháng Giêng, con số bị can bị khởi tố liên quan vụ bốn tiếp viên được công bố là 381 người, kèm tang vật là 130 kg ma túy.

Nhân dịp này, ông Mai Hoàng tiếp tục lên tiếng giải thích về chuyện công an mau chóng thả bốn nữ tiếp viên Vietnam Airlines: “Các nữ tiếp viên thường tận dụng việc vali đựng hành lý thừa cân trong các chuyến bay để vận chuyển hàng về Việt Nam lấy tiền công. Việc trả tự do cho bốn nữ tiếp viên thời điểm đó dù nhiều áp lực nhưng điều đó đảm bảo không làm oan người vô tội và đặt tính nhân văn lên hàng đầu.”

Dường như phát ngôn của ông Mai Hoàng là để thuyết phục công luận thêm một lần nữa, dù trước đó, báo Tuổi Trẻ dẫn lời ông Tô Ân Xô, phát ngôn viên Bộ Công An, giải thích: “Các tiếp viên không biết bên trong 327 tuýp kem đánh răng nhận vận chuyển, có 157 tuýp đã bị trà trộn, cất giấu ma túy. Do đó, các cơ quan chức năng xác định chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự bốn nữ tiếp viên hàng không của Vietnam Airlines.”

Ông Tô Ân Xô nói thêm, kết quả điều tra sơ bộ xác định khi bốn nữ tiếp viên hàng không nêu trên đang lưu trú tại Pháp, thì có một nghi can người Việt Nam nhờ chuyển hàng tiêu dùng là 327 tuýp kem đánh răng và 17 chai nước súc miệng về Việt Nam qua phi trường Tân Sơn Nhất, để “gửi cho người nhà.”

Phát ngôn của ông Tô Ân Xô được cho là “bất nhất” với tường thuật của các báo ở Việt Nam trước đó.

Bốn nữ tiếp viên Vietnam Airlines bị chặn bắt quả tang tại phi trường Tân Sơn Nhất sau một chuyến bay từ Pháp. (Hình: VietNamNet)

Báo Dân Trí ghi nhận lời khai ban đầu của bốn tiếp viên Vietnam Airlines là họ “đã nhận lô hàng kem đánh răng hàng chục kg thông qua một đồng nghiệp làm chung hãng, rồi chia ra cho từng người để đưa về Tân Sơn Nhất.”

Bốn nữ tiếp viên cũng cung cấp các đoạn tin nhắn thỏa thuận tiền công vận chuyển với người giao hàng tại Pháp. (N.H.K)

 


 

 50 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa: Chính phủ cần xây đài tưởng nhớ sự kiện này!

 RFA
2024.01.18

Người dân Hà Nội tưởng niệm liệt sỹ Hoàng Sa trong ngày 19/01/2017

AFP

00:31/06:36

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) độc lập yêu cầu chính quyền Việt Nam ghi sự kiện Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hoà 50 năm trước vào lịch sử của dân tộc, đồng thời xây đài tưởng nhớ.

Tuyên bố về 50 năm ngày Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm được các tổ chức như Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Lập quyền dân, Diễn đàn Bauxite Việt Nam… công bố vào ngày 15/01, bốn ngày trước ngày tưởng niệm trận hải chiến Hoàng Sa, trong đó 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hoà tử trận và bị Trung Quốc chiếm giữ quần đảo này từ đó tới nay.

Tuyên bố nhắc lại khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và Bắc Kinh đã lợi dụng cuộc nội chiến ở Việt Nam để sử dụng vũ lực chiếm đoạt quần đảo.

Theo tuyên bố, Trung Quốc là phía xâm lược còn các quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã hy sinh trong trận chiến chống quân xâm lược. Do vậy, họ nên được vinh danh như những anh hùng của dân tộc và Việt Nam cần phải công nhận sự cống hiến xương máu của họ trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, cựu Trưởng ban Nghiên cứu – Ban Dân vận Trung ương, nhắc lại quan điểm này trong cuộc phỏng vấn trả lời Đài Á Châu Tự Do (RFA) ngày 18/01:

Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước hy sinh để bảo vệ chủ quyền đất nước của mình thì phải được tưởng nhớ phải được tôn vinh. 74 người chiến sĩ hy sinh ở Hoàng Sa cũng thế thôi, cũng trong tinh thần như vậy.”

Biểu tình chống Trung Quốc ở thành phố HCM ngày 10/6/2018 (AFP)

Trên các tờ báo Nhà nước những ngày gần đây rất ít tin về sự kiện 50 năm ngày mất Hoàng Sa, nếu có thì chỉ vài bài nói về việc chính quyền địa phương thăm hỏi những nhân chứng – là những quân dân cán chính VNCH từng làm việc trên quần đảo Hoàng Sa.

Nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thừa nhận sự hy sinh của họ một cách chính thức và tổ chức tưởng niệm ngày này, ngược lại khi người dân tổ chức tưởng niệm trong nhiều năm trước đây thường bị sách nhiễu, đàn áp.

Ông Lê Thân- chủ nhiệm Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng, cho rằng Hà Nội nên đối xử bình đẳng với tất cả những người đã ngã xuống trong mọi cuộc chiến bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Nhà nước Việt Nam cần vinh danh những người lính tử trận ở Hoàng Sa và các liệt sỹ chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, cũng như 64 liệt sỹ Gạc Ma- những người đã bị hải quân Trung Quốc sát hại khi cưỡng chiếm thực thể này ở quần đảo Trường Sa năm 1988.

Tuyên bố cũng kêu gọi Nhà nước cần truyền thông rộng rãi cho nhân dân, đặc biệt là các thanh thiếu niên luôn luôn ghi nhớ việc Bắc Kinh vi phạm luật pháp quốc tế trong vấn đề Hoàng Sa.

Trong tuyên bố này, các tổ chức và các nhân sỹ ký tên đề nghị chính quyền tiếp tục đấu tranh kiên quyết, bền bỉ  bằng mọi hình thức, biện pháp với Trung Quốc nhằm đòi lại Hoàng Sa.

Ông Nguyễn Khắc Mai, đại diện cho tổ chức Lập quyền dân ký trong tuyên bố, nói:

Tiếng nói của chúng tôi là chắc chắn chỉ là một nhóm nhưng mà nó cũng tiêu biểu cho một cái tinh thần hiểu biết và trách nhiệm công dân của mình đối với đất nước với tổ quốc Mà 50 năm đã qua, nhân dân thì yêu cầu đảng cầm quyền và Nhà nước có nhiều hoạt động mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, tất nhiên là hòa bình thôi

Nhưng mà phải đưa nó ra thành ra luật pháp quốc tế kêu gọi thế giới nó phân tích nó phê phán nó ủng hộ mình và nó lên cái cuộc xâm lược đấy của Trung Quốc. Phải coi trọng đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Hoàng Sa bằng tư pháp, luật pháp và dư luận quốc tế.”

Theo ông, Nhà nước Việt Nam phải có những cái tuyên bố rõ ràng, mạnh mẽ về vấn đề này và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế, chứ không lên tiếng một cách máy móc và hời hợt như trong nhiều thập niên qua.

Tôi chỉ hy vọng là Nhà nước phải coi trọng nhiều các hoạt động luật pháp và dư luận hơn nữa về vấn đề bảo vệ chủ quyền của ta ở Hoàng Sa, đặc biệt là cho ngư dân tiếp tục ra ngư trường Hoàng Sa để đánh bắt và để khẳng định chủ quyền của mình ở đấy,” nhà nghiên cứu 92 tuổi ở Hà Nội nói.

Sau khi xâm chiếm Hoàng Sa, năm 1988, Trung Quốc lại xua quân đánh chiếm Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa. Trong nhiều năm gần đây, Bắc Kinh đã cải tạo và biến các đảo chiếm được từ Việt Nam thành những căn cứ quân sự, uy hiếp các đảo và cả đất liền của Việt Nam.

Ông Lê Thân đề nghị chính quyền, ngoài việc cố gắng giữ nguyên hiện trạng, bên cạnh đó cần tiếp tục đấu tranh pháp lý để khẳng định “Hoàng Sa là của Việt Nam” và để đến thời cơ chính muồi “cũng chỉ có thể lấy lại bằng vũ lực chứ không có cách gì khác.”

Trong thập niên trước, nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số địa phương khác phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông.

Trong các dịp tưởng niệm ngày mất Hoàng Sa (19/1) hay Gạc Ma (14/3), nhân sỹ trí thức và người dân thường tập trung ở tượng đài Lý Thái Tổ ở trung tâm Hà Nội hay tượng đài Đức Thánh Trần ở thành phố HCM để tưởng niệm.

Tuy nhiên trong nhiều năm gần đây, bên cạnh việc hàng trăm người bất đồng chính kiến bị bắt giam, thì lực lượng an ninh cũng thường ngăn chặn khiến các cuộc tưởng niệm công khai, đông người không thể diễn ra. Do vậy, các tổ chức XHDS kêu gọi người dân thực hành việc tưởng niệm các liệt sỹ Hoàng Sa theo cách của riêng mình.

Ông Lê Thân nói:

Trong điều kiện này cũng khó tập trung thì mỗi người tự làm một phút mặc niệm trong cái ngày 19/1 để tưởng nhớ 74 người anh hùng đã hi sinh vì Tổ quốc. Cái đó động viên tạo ra một phong trào để động viên cho thế hệ trẻ cũng như nhắc nhở bà con mình về ccuộc chiến ở Hoàng Sa.”

Người dân Hà Nội tham gia một cuộc biểu tình tại Hồ Gươm chống Trung Quốc với biểu ngữ “Sang năm tới Hoàng Sa” hồi năm 2016 (AFP)

Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn ở Pháp cho rằng tuyên bố trên của các tổ chức và nhân sỹ rất đáng được trân trọng. Ông cho rằng Hà Nội phải có một động thái mạnh, như long trọng ra một tuyên bố trước quốc dân đồng bào cũng như trước cộng đồng quốc tế. Mục đích để cho tranh chấp vẫn còn tồn tại và Việt Nam luôn quan tâm đến việc giành lại các vùng lãnh thổ đã mất của mình.

Nội dung của tuyên bố này tố cáo Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hiệp quốc khi sử dụng vũ lực để xâm chiếm Hoàng Sa từ Việt Nam.

Tuyên bố cũng cần đưa ra các chứng cứ lịch sử và các cơ sở pháp lý để chứng minh Việt Nam có chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời vận động cộng đồng quốc tế ủng hộ mình trong nỗ lực đòi lại công lý.

Theo ông, việc xây dựng đài liệt sỹ Hoàng Sa hay viết lại lịch sử sẽ không đủ để Việt Nam thuyết phục được cộng đồng các quốc gia trên thế giới nhìn nhận và ủng hộ chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.

YouTube player

 

23 Điều Vô Lý Chỉ Có Ở Việt Nam

 

Ở Việt Nam có những thứ và những điều vô cùng vô lý nhưng vì những thứ đó đang ở Việt Nam nên ai cũng cho rằng nó có lý và không có vấn đề gì. Hy vọng nhiều người sẽ nhận ra. Danh sách như sau:

1. Sổ hộ khẩu. Trên thế giới chỉ có 3 nước áp dụng chính sách này, cả 3 nước đều là 3 cường quốc của thế giới, là thiên đường cộng sản. Đó là Việt Nam, Trung Quốc và….Bắc Hàn. Tôi thật sự không hiểu nổi mục đích của cái sổ hộ khẩu là gì, trừ việc làm mồi kiếm ăn cho mấy anh chị Công An. Nếu bạn nào có thế giải thích trong 1 câu “tại sao chúng ta lại có sổ hộ khẩu” tui chết liền. Ở xứ khác khi sinh ra chỉ có giấy khai sinh rồi lớn lên làm cái thẻ, hộ chiếu. Vài nước thì dùng bằng lái xe làm chứng minh. Muốn đi đâu thì đi, nước của mình mà. Tại sao mỗi lần chuyển địa phương là phải đi khai tạm trú, kt3. Mấy cái này là gì tui hiểu tui chết liền.

2. Đi mua xe đi đăng ký tên mình phải dùng sổ hộ khẩu vè đăng ký tại nơi thường trú (nơi đăng ký hộ khẩu). Nó vô lý ở chỗ này. Bạn là dân Lạng Sơn chuyển công tác vô làm ở Cà Mau, bạn muốn mua xe máy và đứng tên bạn, lỡ xe có bị trộm thì người ta biết xe đó là của mình. Nhưng ở Việt Nam thì nếu mua ở Cà Mau thì dân Lạng Sơn phải chở xe về Lạng Sơn đăng ký. Có cái nước nào khác trừ Việt Nam làm vậy không? Có ai biết thì nói nha, tại tui khờ lắm, hiểu biết về thế giới bên ngoài Việt Nam kém nữa.

3. Cảnh sát giao thông kiểm tra xe nếu không có đủ giấy tờ sẽ bị giam xe. Tại sao người lái xe phải chứng minh xe đó là của người lái? Sao CSGT không chứng minh điều ngược lại. Phi logic. Còn việc giam xe thì tui chưa biết xứ nào khác làm vậy hết.

4. Thuế “chuyển đổi mục đích sử dụng đất”. Tui chưa biết xứ nào khác có cái thuế quái dị như vậy. Đây là loại thuế làm cản trợ quá trình công nghiệp hóa của đất nước. Bạn là một nông dân có 100 mét vuông đất nông nghiệp. Bạn muốn dùng 50m2 đó để xây cái hang. Bạn phải đi tới Sở Tài Nguyên Môi Trường nộp đơn chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Số tiền đó cộng với bôi trơn đút lót thì gần bằng giá bán thị trường rồi. Thế thì bạn phải bán đi 50 m2 còn lại. Nghĩa là cái thuế này làm mọi thứ liên quan tới đất đai mắc gấp đôi. Một trong những thứ khùng điên nhất.

5. Đi nộp giấy tờ phải đi công chứng rồi phải có con tem xác nhận. Đã vậy còn phải xin xỏ mấy bé mấy *** ** làm hành chính nữa chứ.

6. Đi “xin việc” ở cơ quan nhà nước, công ty quốc doanh và một số công ty tư nhân phải nộp “sơ yếu lý lịch”. Sơ yếu lý lịch yêu cầu bạn phỉ ghi rõ về gia đình và bản thân: Trước và sau 1975 đã và đang làm gì. Tui và gia đình tui làm gì trước sau 1975 thì liên quan gì tới năng lực yêu cầu của công việc?

7. Đi làm tự thiện phải (nộp đơn) “xin phép” Ủy Ban Nhân Dân và Mặt Trận TỔ QUỐC địa phương. Trời ơi, đã đi từ thiện, là bỏ tiền túi mình ra cho người khác, đã vậy còn phải đi xin giấy phép là sao? Độc Lập Tự Do Hành Phúc đâu rồi?

8. Tham gia các giải thể thao ở tỉnh (và vài thành phố) phải có hộ khẩu và sổ tạm trú ở đó. Thể thao Thái Lan đang phát triển với quy vô chinh phục Châu Á. Trong khi đó ở Việt Nam các nhà làm thể thao hỏi “hộ khẩu con đâu?”. Thấy có ngu không?

9. Đi du lịch hoặc ở khách sạn nhà nghỉ phải đưa hộ chiếu hoặc Chứng Minh Thư cho tiếp tân. Ở xứ khác tui chỉ trình cái thẻ Master hoặc Visa. Nếu đưa hộ chiếu thì họ photocopy xong rồi đưa lại chứ không giữ. Tui chưa biết cái xứ nào làm vậy, trừ Việt Nam.

10. Trước giải, buổi, hội hay chương trình gì cũng phải giới thiệu danh sách mấy quan có mặt. Đã vậy danh nghĩa dài dòng lê thê. Có cần phải đọc tên từng người một, chờ từng người một đứng dậy ngồi xuống không. Tui thật sự không hiểu cái logic. Tui chưa bao giờ thấy 1 giải hay trận thể thao nào ở nước ngoài làm vậy.

11. Các trung tâm thể thao trưng khẩu hiệu “rèn luyện thể thao theo giương Bác Hồ vĩ đại”. Sao xứ Mỹ không trưng khẩu hiệu “tập luyện theo gương George Washington vĩ đại”? Bác Hồ hồi đó có tập thể thao mà sao tui không biết ta. Chuột cơ tay đô nữa, giờ tui mới biết.

12. Tất cả các giấy tờ hành chính pháp lý phải có dòng chữ này ở trên “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”. Giấy xin phép nghỉ học cũng vậy, giấy báo cáo cũng vậy luôn. Xứ khác có vậy không ta?

13. Đi toilet ở Bến Xe (Miền Đông, Miền Tây, tỉnh, thành phố) mỗi lần phải trả 2,000 VND.

14. Toilet công cộng thường không có giấy vệ sinh. Vậy người ta dùng gì để chùi *** ta? (vì giới phụ nữ khiếu nại nhiều quá nên ngày nay có một số toilet đông đảo người dùng có một bàn trực chuyện bán giấy vệ sinh ).

15. Làm xong cái hội thảo hay chương trình gì lớn chút cũng phải nói : “Cảm ơn các lãnh đạo đã tạo điều kiện.”

16. Quân Đội đi làm kinh tế: Viettel, MB Bank, Xăng Dầu Quân Đội, Binh Đoàn 318 Dầu Khí. Tui thật sự không hiểu. Quân đội gì mà làm kinh tế kinh doanh? Chỉ thấy ở VN

17. Quân Đội tham gia thể thao thành tích chuyên nghiệp. Tui chưa biết quân đội nước nào khác làm vậy.

18. Cảnh Sát Nhân Dân tham gia thể thao thành tích chuyên nghiệp.

19. Quân Đội phong hàm sĩ quan cho vận động viên đạt thành tích. Mặc dù chưa bao giờ qua trường lớp đào tạo sĩ quan, chưa bao giờ có kinh nghiệm cầm súng, chưa bao giờ có kinh nghiệp chiến trường. Hàm sĩ quan vô nghĩa vậy sao? Bạn là cha mẹ thì có cho con mình vô cái quân đội như vậy không? Vận động viên đạt thành tích thể thao thì liên quan gì tới phong hàm sĩ quan quân đội? Tui chưa biết quân đội xứ nào khác làm vậy hết.

20. Đi xin việc làm vô mấy cơ quan nhà nước hay quốc doanh phải lót tiền (ngay cả việc đổ hoặc hốt rác trên đường phố), cả trăm triệu hơn chứ không kém. Có xứ nào khác làm vậy không ta?

21. Đánh thuế kinh doanh trên facebook. Cái này miễn ý kiến.

22. Sinh viên học ĐH hay CD cũng phải học 1.5 năm lý thuyết kinh tế triết học Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.5 năm của cuộc đời mà sinh viên sẽ không lấy lại được

.23. Và cuối cùng, Đảng Cộng Sản đấu tranh hy sinh cả triệu người dân trong cuộc chiến chống Pháp, Mỹ Ngụy vì lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, nhưng cuối cùng lại dùng chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường để làm giàu. Vậy cả triệu người Việt đã chết làm gì? Cuộc chiến đó có nghĩa gì?

Ku Búa


 

Đốt chết người tình trẻ, bà ở Đà Lạt uống thuốc trừ sâu tự sát

Ba’o Nguoi-Viet

January 16, 2024

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Một bà 43 tuổi ở làng hoa Thái Phiên, phường 12, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, đã đổ xăng đốt chết người tình 37 tuổi do mâu thuẫn.

Báo Tuổi Trẻ hôm 16 Tháng Giêng dẫn điều tra ban đầu cho biết bà Hoàng Thị Thúy, 43 tuổi, và ông Huỳnh Văn Hoàng, 37 tuổi, đều đã có gia đình riêng và đã ly hôn.

Hiện trường nơi xảy ra sự việc ở làng hoa Thái Phiên, phường 12, thành phố Đà Lạt. (Hình: N.X/VietNamNet)

Do có quan hệ tình cảm, cả hai thuê nhà trọ ở làng hoa Thái Phiên, phường 12, thành phố Đà Lạt, chung sống với nhau. Gần đây, họ thường xuyên cãi vã do liên quan đến chuyện tình cảm và tiền bạc.

Vào rạng sáng cùng ngày, hai người lại xảy ra mâu thuẫn. Do ghen tuông và bực tức nhiều chuyện, bà Thúy đã đổ xăng đốt nhà.

Nhiều người dân phát hiện căn nhà nơi họ sinh sống bị cháy nên chạy đến dập lửa. Khi đến nơi thì thấy ông Hoàng đã chết trong tình trạng bị thiêu cháy. Cạnh đó, bà Thúy đang bất tỉnh, xung quanh nồng nặc mùi thuốc trừ sâu. Họ vội đưa nạn nhân đi cấp cứu, đồng thời báo cơ quan hữu trách.

Công An Tỉnh Lâm Đồng đã đến khám nghiệm hiện trường, giảo nghiệm tử thi và làm việc với những người liên quan để điều tra vụ án.

Việc tẩm xăng đốt người tình mỗi khi xảy ra mâu thuẫn là cách được khá nhiều người ở Việt Nam thực hiện trong thời gian gần đây.

Theo báo Tuổi Trẻ, hôm 14 Tháng Mười, 2023, do bị người tình là bà ĐTMN, 54 tuổi, có ý định chấm dứt tình cảm, ông HVC, 50 tuổi, ở thành phố Biên Hòa, canh lúc bà N. vừa đi tập thể dục về, cầm theo một chai đựng xăng đến tiệm thuốc Mỹ Nhân của bà này “nói chuyện.”

Sau đó, ông C. bất ngờ kéo bà N. vào nhà rồi đổ xăng lên người cả hai và châm lửa đốt. Bà N. kịp vùng chạy ra ngoài nên may mắn thoát nạn.

Ông C. thiệt mạng tại hiện trường do phỏng nặng trong lúc tiệm thuốc bị cháy nám đen.

Sự việc thu hút hàng trăm người dân hiếu kỳ kéo đến theo dõi việc nhà chức trách dập tắt đám cháy.

Xe cứu thương chở thi thể nạn nhân rời hiện trường. (Hình: M.V/Tuổi Trẻ)

Trong một vụ tương tự xảy ra hồi đầu Tháng Chín, 2023, theo tờ Người Lao Động, do xảy ra mâu thuẫn với người yêu, ông DQH, 31 tuổi, ở tỉnh Hà Nam đã đi mua một can xăng, mang tới nhà người yêu đổ xăng ra sàn và tưới lên người mình với ý định tự thiêu.

May mắn là sau khi nhận tin báo, công an viên ở huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, xuất hiện kịp thời, đá rơi cái bật lửa trên tay ông H.

Nghi can DQH sau đó bị công an khống chế đưa về đồn trong lúc công an mở cuộc điều tra.

Báo Người Lao Động hồi trung tuần Tháng Ba, 2023, tường thuật vụ ông ĐNP, 50 tuổi, ở Sài Gòn, do hận người tình nên lái xe Camry đến trước cổng nhà bà này ở thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, rồi tự thiêu trong xe.

Sự việc gây ra tiếng nổ lớn, người dân gần đó định cứu giúp nạn nhân nhưng bất thành. Ngọn lửa đã thiêu rụi gần như hoàn toàn phần nội thất của chiếc xe.

Khi khám nghiệm hiện trường, công an phát giác trong xe có một can nhựa vẫn còn sót lại một ít xăng, trên thi thể nạn nhân cũng nồng nặc mùi xăng. (Tr.N) [qd]


 

5 nữ Tiến sĩ nổi tiếng Việt Nam là những Nữ tu Công Giáo.

5 nữ Tiến sĩ nổi tiếng Việt Nam là những Nữ tu Công Giáo. Tạ ơn Chúa!

Nguon: Minh Nguyen Quang & Peter Vũ Thoại

Đóng góp của một số nữ tu Công Giáo trong giảng dạy, thực hành và nghiên cứu tâm lý học ở Việt Nam.

  1. TS. SR. FRANCOIS TÔ THỊ ÁNH (DÒNG ĐỨC BÀ: CONGRÉGATION NOTRE DAME – C.N.D)

Nữ tu dòng Đức Bà – Sơ Tô Thị Ánh là nữ Tiến sĩ trị liệu tâm lý đầu tiên của Việt Nam. Bà là một học trò của Carl Rogers – người sáng lập trường phái trị liệu nhân vị trọng tâm (Person-Centered Psychotherapy). Dưới sự tự do học thuật ở miền Nam trước năm 1975, bà Tô Thị Ánh du học tại Đại học United States International, Mỹ và tốt nghiệp tiến sĩ vào năm 1972 với luận án tiến sĩ “Eastern and Western Cultural Values, Conflict or Harmony?” (To, 1972) do đích thân Giáo sư Carl Rogers hướng dẫn. Bà được xem là người đi tiên phong và đặt nền tảng vững chắc cho ngành Tâm lý Trị liệu tại Sài Gòn từ trước năm 1975, sau năm 1975 Sơ vẫn được tham gia giảng dạy tại Khoa Công tác Xã hội, đại học Mở TP. HCM. Sinh viên tâm lý học ở Việt Nam ít ai chưa từng đọc qua tác phẩm kinh điển “Tiến trình thành nhân” của Carl Rogers với tựa tiếng anh là “On becoming a person”. Người dịch tác phẩm đó sang tiếng Việt một cách sâu sắc vào năm 1992 là bà Tô Thị Ánh. Bà cũng là đồng dịch giả một tác phẩm khác có tựa “Sa mạc nở hoa” với tác phẩm gốc là “Dibs in Search of Self” của tác giả Virginia Axline, đây là một trong những tác phẩm kinh điển về tâm lý trị liệu trẻ em.

  1. TS. SR. MARIA THECLA TRẦN THỊ GIỒNG (DÒNG ĐỨC BÀ: CONGRÉGATION NOTRE DAME – C.N.D)

Bà Trần Thị Giồng là một nữ tu Công Giáo dòng Đức Bà và cũng là một tiến sĩ tham vấn và trị liệu tâm lý với hoạt động nghề nghiệp rất “lặng lẽ” ở Việt Nam, bà hoàn thành luận án tiến sĩ tại Đại học De La Salle từ năm 1993 và đã tham gia giảng dạy tại các trường đại học ở Việt Nam, cũng như một số các chương trình đào tạo thần học liên dòng cho các tu sĩ nam nữ trong hơn 20 năm (Joachim, 2015). Dưới sứ vụ tôn giáo, Sơ Giồng từng là Sơ giám tỉnh của dòng Đức Bà (C.N.D) tại Việt Nam. Sơ Giồng là một trong những nữ tu Công giáo đầu tiên được chính quyền “cho phép” đi du học trở lại vào cuối những năm 1980 sau khi Việt Nam vừa chấm dứt chiến tranh. Sơ Giồng là người hiếm hoi sau năm 1975 du học ngành tâm lý học nhưng không phải ở Liên Xô như những người khác được nhà nước chỉ định. Vì vậy sau giải phóng, bà là một trong những nhân vật đầu tiên quay trở lại tiếp cận tâm lý học hiện đại – như miền nam Việt Nam đã từng làm trước năm 1975. Năm 1991 bà tốt nghiệp thạc sĩ với luận văn “Accompanied and unaccompanied adolescent Vietnamese refugees in Palawan: their problems, self concept and security level” (Giong, 1991); cho tới năm 1993, bà tốt nghiệp tiến sĩ với luận án “The effects of spiritual-psychological synthesis on anxiety, depression, and mental health of Vietnamese refugees.” (Giong, 1993); Thời điểm này ở Việt Nam,Tâm lý học Mác-xít đang chiếm một vị trí độc tôn (Sirikantraporn & Nguyen, 2020).

  1. TS. SR. TERESA TRÌ THỊ MINH THÚY (DÒNG MẾN THÁNH GIÁ THỦ THIÊM – MTGTT)

Tiến sĩ Trì Thị Minh Thúy hiện đang là giảng viên các chương trình cao học tại Khoa tâm lý học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM. Trước đây Sơ Thúy cũng từng là giảng viên của trường Đại học Văn Hiến. Năm 2012, sơ tốt nghiệp tiến sĩ tại đại học De La Salle với luận án “Roles of filial piety, parental control and parental warmth in parent adolescent conflict among Vietnamese families” (Thuy, 2013). Không chỉ dấn thân vào các hoạt động phục vụ cộng đồng, Sơ cũng đóng góp cho ngành khoa học tâm lý ở Việt Nam với vai trò tác giả và đồng tác giả hàng loạt các công bố và báo cáo khoa học quốc tế và sách; một số nghiên cứu có thể kể đến như “Expression of basic emotions in pictures by German and Vietnamese art therapy students – A comparative, explorative study” (Danner-Weinberger et al., 2019). “Parental burnout around the globe: A 42-country study” (Roskam et al., 2021). “Gender Equality and Maternal Burnout: A 40-Country Study” (Roskam et al., 2022). “Parenting Culture(s): Ideal-Parent Beliefs Across 37 Countries” (Lin et al., 2023). “Three reasons why parental burnout is more prevalent in individualistic countries: a mediation study in 36 countries” (Roskam et al., 2023). Sơ cũng là đồng tác giả Chương 1: “Enhancing Resilience in Youth: Sustainable Systemic Effects in Different Environments” trong tựa sách “Enhancing Resilience in Youth – Mindfulness-Based Interventions in Positive Environments” thuộc nhà xuất bản Springer (Steinebach et al., 2019)

4-TS. SR. HOÀNG MINH TỐ NGA (DÒNG ĐỨC BÀ: CONGRÉGATION NOTRE DAME – C.N.D)

Sơ Hoàng Minh Tố Nga là một nữ tu dòng Đức Bà tại Việt Nam. Sơ tốt nghiệp cử nhân tiếng Anh và khi giảng dạy với tư cách là giảng viên đại học, sơ Nga đã tham gia vào công việc tình nguyện với bệnh nhân HIV/ AIDS và thấy rằng chăm sóc sức khỏe tâm thần là mối quan tâm thực sự của sơ. Năm 2004, sơ Nga lấy bằng thạc sĩ tham vấn tâm lý tại Đại học De La Salle với luận văn “Counselor academic training, counseling experience, and counselor self-efficacy as predictors of counselor psychological well-being” và tốt nghiệp tiến sĩ chuyên ngành Trị liệu hệ thống và gia đình tại Đại học Minnesota, Hoa Kỳ với luận án “Borderline Features in Vietnamese Adolescence: The Roles of Childhood Trauma, Parental Bonding, and Family Functioning” vào tháng 8 năm 2014 (Hoang, 2014). Sơ Tố Nga là giảng viên Khoa Tâm lý học tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. HCM từ 2007 đến tháng 3/2022 và hiện nay Sơ Tố Nga là giảng viên tại đại học Fulbright Việt Nam. Năm 2000, sơ Tố Nga thành lập Tâm lý Việt An, một tổ chức phi lợi nhuận cung cấp dịch vụ đào tạo, trị liệu tâm lý và trị liệu gia đình cho các cá nhân, gia đình và tổ chức, đặc biệt dành cho những người có thu nhập thấp, sẽ nhận được dịch vụ tư vấn miễn phí tại đây (HOANG to Nga, 2020; Hoang Minh To Nga, 2022).

  1. TS. SR. NGUYỄN THỊ THANH TÚ (DÒNG PHAN SINH THỪA SAI ĐỨC MẸ: FRANCISCAN MISSIONS OF MARY – FMM)

Sơ Nguyễn Thị Thanh Tú là một nữ tu Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ (FMM). Sơ tốt nghiệp tiến sĩ ngành Tâm lý trị liệu năm 2014, sau đó cô phụ trách dạy môn Sang chấn tâm lý và Trị liệu nghệ thuật cho chương trình thạc sĩ tại Đại học Saint Paul, Ottawa, Canada (2015-2017). Hiện nay, sơ là giảng viên các chương trình cao học thạc sĩ Tâm lý học lâm sàng tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM. Sơ Tú chuyên nghiên cứu về Sang chấn tâm lý và về sức bật tinh thần dưới góc nhìn của Trị liệu nghệ thuật và Liệu pháp tường thuật, bên cạnh đó Sơ cũng quan tâm tới các nghiên cứu về can thiệp tâm lý tích hợp các can thiệp tôn giáo và tâm linh cho các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Sơ đã có những công bố với vai trò tác giả chính và cũng là tác giả các chương sách tâm lý học thuộc các tập san Tâm lý học và Tâm lý học tôn giáo uy tín trên thế giới, một số có thể kể đến như “Grieving the loss linked to childhood sexual abuse survivor: A narrative therapy in search of forgiveness” (Nguyen et al., 2013). “Faith in God and posttraumatic growth: A qualitative study among Vietnamese Catholic immigrants” (Nguyen et al., 2014). “Women survivors of sex trafficking: A trauma and recovery model integrating spirituality” (Nguyen et al., 2014). “God images and resilience: A study of Vietnamese immigrants” (Nguyen et al., 2015). “Images of God and the imaginary in the face of loss: a quantitative research on Vietnamese immigrants living in Canada” (Nguyen et al., 2018). Đồng tác giả Chương “L’éthique professionnelle en counselling et en psychothérapie: une éthique de l’ordre de la rencontre” trong tác phẩm “From Psychology to Spirituality / De la psychologie a la spiritualite” (Malette et al., 2019) và tác giả đầu Chương “Art Therapy and Resilience in Child Sexual Abuse: A Case Study Report concerning Ethical Issues in Vietnam” trong tác phẩm “Positive Psychology and Spirituality in Counselling and Psychotherapy” (Nguyen et al., 2022). Đầu năm 2023, Giáo Trình thực Hành Tâm Lý Lâm sàng do Sơ Tú chủ biên vừa được xuất bản (Tú, 2023).


Tạ ơn Chúa về những điều vĩ đại. Nguyện xin Chúa đồng hành và soi sáng cho Giáo hội và quê hương Việt nam chúng con. Amen!
_______________
THAM KHẢO TỪ CÁC NGUỒN TIN TRÊN INTERNET:

  1. To, T. A. (1972). Eastern and Western Cultural Values, Conflict Or Harmony?. United States International University.
  2. Joachim, P. (2015). Q & A with Sr. Thecla Tran Thi Giong. Global Sisters Report. https://www.globalsistersreport.org/blog/q/trends/q-sr-thecla-tran-thi-giong-27356
  3. Giong, M. T. T. (1991). Accompanied and unaccompanied adolescent Vietnamese refugees in Palawan: their problems, self concept and security level. De La Salle University.
  4. Giong, M. T. T. (1993). The effects of spiritual-psychological synthesis on anxiety, depression, and mental health of Vietnamese refugees. De La Salle University.
  5. Sirikantraporn, S., & Nguyen, H. A. (2020). CHAPTER THIRTY TEACHING PSYCHOLOGY IN VIETNAM. Teaching Psychology around the World, 5.
  6. Thuy, T. T. M. (2013). Filial Piety, Parental Control and Parental Warmth as Predictors of Parent-Adolescent Conflict among Vietnamese Families. Philippine Journal of Counseling Psychology, 15(1), 1-1.
  7. Danner-Weinberger, A., Puchner, K., Keckeis, M., Brielmann, J., Tri, M. T. T., The Huy Le Hoang, Nguyen, L. H., Köppelmann, N., Rottler, E., Gündel, H., & von Wietersheim, J. (2019). Expression of basic emotions in pictures by German and Vietnamese art therapy students – A comparative, explorative study. Frontiers in Psychology, 10. https://doi.org/10.3389/fpsyg.2019.00975
  8. Roskam, I., Aguiar, J., Akgun, E., Arikan, G., Artavia, M., Avalosse, H., Aunola, K., Bader, M., Bahati, C., Barham, E. J., Besson, E., Beyers, W., Boujut, E., Brianda, M. E., Brytek-Matera, A., Carbonneau, N., César, F., Chen, B.-B., Dorard, G., … Mikolajczak, M. (2021). Parental burnout around the globe: A 42-country study. Affective Science, 2(1), 58–79. https://doi.org/10.1007/s42761-020-00028-4
  9. Roskam, I., Gallée, L., Aguiar, J., Akgun, E., Arena, A., Arikan, G., Aunola, K., Bader, M., Barham, E. J., Besson, E., Beyers, W., Boujut, E., Brianda, M. E., Brytek-Matera, A., Carbonneau, N., César, F., Chen, B.-B., Dorard, G., dos Santos Elias, L. C., … Mikolajczak, M. (2022). Gender equality and maternal burnout: A 40-country study. Journal of Cross-Cultural Psychology, 53(2), 157–178. https://doi.org/10.1177/00220221211072813
  10. Lin, G.-X., Mikolajczak, M., Keller, H., Akgun, E., Arikan, G., Aunola, K., Barham, E., Besson, E., Blanchard, M. A., Boujut, E., Brianda, M. E., Brytek-Matera, A., César, F., Chen, B.-B., Dorard, G., dos Santos Elias, L. C., Dunsmuir, S., Egorova, N., Escobar, M. J., … Roskam, I. (2023). Parenting culture(s): Ideal-parent beliefs across 37 countries. Journal of Cross-Cultural Psychology, 54(1), 4–24. https://doi.org/10.1177/00220221221123043
  11. Roskam, I., Aguiar, J., Akgun, E., Arena, A. F., Arikan, G., Aunola, K., Besson, E., Beyers, W., Boujut, E., Brianda, M. E., Brytek-Matera, A., Budak, A. M., Carbonneau, N., César, F., Chen, B.-B., Dorard, G., dos Santos Elias, L. C., Dunsmuir, S., Egorova, N., … Mikolajczak, M. (2023). Three reasons why parental burnout is more prevalent in individualistic countries: a mediation study in 36 countries. Social Psychiatry and Psychiatric Epidemiology. https://doi.org/10.1007/s00127-023-02487-z
  12. Steinebach, C., Langer, Á. I., & Thuy, T. T. M. (2019). Enhancing resilience in youth: Sustainable systemic effects in different environments. Enhancing Resilience in Youth: Mindfulness-Based Interventions in Positive Environments. 3–17.
  13. HOANG to Nga. (2020, August 6). Harvard-Yenching Institute. https://www.harvard-yenching.org/person/hoang-to-nga/
  14. Hoang Minh To Nga. (2022, August 18). Fulbright University Vietnam. https://fulbright.edu.vn/our-team/hoang-minh-to-nga/
  15. Hoang, T. N. M. (2014). Borderline features in Vietnamese adolescence: The roles of childhood trauma, parental bonding, and family functioning. University of Minnesota.
  16. Nguyen, T.-T., & Bellehumeur, C. (2013). Grieving the loss linked to childhood sexual abuse survivor: A narrative therapy in search of forgiveness. Counselling and Spirituality / Counseling et spiritualité, 32(1), 37–58. https://psycnet.apa.org/record/2014-02857-003
  17. Nguyen, T. T., Bellehumeur, C. R., & Malette, J. U. D. I. T. H. (2014). Faith in God and posttraumatic growth: A qualitative study among Vietnamese Catholic immigrants. Counseling et Spiritualite, 33(2), 137-155.
  18. Nguyen, T. T., Bellehumeur, C. R., & Malette, J. (2014). Women survivors of sex trafficking: A trauma and recovery model integrating spirituality. Counselling and Spirituality / Counseling et spiritualité, 33(1), 111–133.
  19. Nguyen, T. T., Bellehumeur, C., & Malette, J. (2015). God images and resilience: A study of Vietnamese immigrants. Journal of Psychology and Theology, 43(4), 271–282. https://doi.org/10.1177/009164711504300405
  20. Nguyen, T. T. T., Bellehumeur, C., & Malette, J. (2018). Images of God and the imaginary in the face of loss: a quantitative research on Vietnamese immigrants living in Canada. Mental Health, Religion & Culture, 21(5), 484–499. https://doi.org/10.1080/13674676.2018.1499715
  21. Malette, J., Bellehumeur, C. R., & Nguyen, T. T. (2019). L’éthique professionnelle en counselling et en psychothérapie: une éthique de l’ordre de la rencontre. In J. Malette, M. Rovers, & L. Sundaram (Eds.), From Psychology to Spirituality / De la psychologie a la spiritualite (Vol. 7, pp. 127–150). Peeters Publishers. https://doi.org/10.2307/j.ctv1q26wnf.9
  22. Nguyen, T. T., Malette, J., & Trinh, T. V. (2022). Art Therapy and Resilience in Child Sexual Abuse: A Case Study Report concerning Ethical Issues in Vietnam. In J. Malette, C. R. Bellehumeur, C. Kam, & B. Maisha (Eds.), Positive Psychology and Spirituality in Counselling and Psychotherapy (pp. 161–176). Peeters Publishers. https://doi.org/10.2307/jj.1357310.10
  23. Tú, N. T. T. (2023). Giáo Trình Thực Hành Tâm Lý Lâm Sàng. NXB Thế Giới

 Văn Hóa Đốt Sách – Học giả Nguyễn Hiến Lê

 Học giả Nguyễn Hiến Lê sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912 và mất ngày 22 tháng 12 năm 1984.

Trước 75 trong Nam không học sinh nào không đọc sách Nguyễn Hiến Lê. Ưu điểm của cụ Lê là cụ giản lược những đề tài rộng lớn, phác thảo những đại cương trong khuôn khổ một cuốn sách dễ đọc, dễ hiểu, nhờ vào lối văn giản dị không cầu kỳ như bản thân đời sống của cụ. Sách Nguyễn Hiến Lê hầu hết viết cho ban Tú tài nhưng không phải vì vậy đã không có những công trình lớn: Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ, Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa, Lịch Sử Văn Minh Ả Rập, Kinh Dịch, Bách Gia Tranh Minh… là những tập sách dày công nghiên cứu, đã đem đến vô vàn kiến thức cho thanh niên miền Nam buổi ấy. Chính vì sau hai thập niên Việt hóa học đường, không còn một học sinh nào, từ Nam ra Bắc đọc thông một quyển sách chữ Hán cũng như chữ Pháp. Thế hệ Nguyễn Hiến Lê là chiếc cầu nối tuổi trẻ Việt Nam với kho tàng thế giới. Trên 120 đầu sách, Nguyễn Hiến Lê cống hiến sở học của mình.

Sau 75 cụ Lê còn là nhân chứng của công cuộc giải phóng thô bạo trên nửa phần đất nước. Vào ngày giỗ muộn màng thứ 39, hãy cùng đọc lại ghi chép của Nguyễn Hiến Lê về nạn đốt sách của phía chiến thắng. Là những trang chữ bị kiểm duyệt.

[Trần Vũ]

*******

Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Ðôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc.

Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.

Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.

Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kỳ loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó…

Lần đó sách ở Sài Gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.

Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lý… Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp 5,6 bạn lại vấn kế.

Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho “ve chai” một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.

Một luật sư tủ sách có độ 2,000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.

Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quý, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.

Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.

Bà Ðông Hồ quen ông Giám đốc thư viện thành phố, bán được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.

Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn xin sở Thông tin văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo, đơn đó ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi là nhân sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có thói việc lớn, việc nhỏ gì cũng không trả lời bằng thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.

Ít tháng sau tình hình dịu lần rồi yên, không nhà nào bị kiểm kê, Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn “phần thư” kể như qua hẳn. Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ sách nữa, ai xin tôi cũng cho.

Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết vì coi đó là những công cụ giáo dục quần chúng, ở Sài Gòn chỉ thấy bán vài tạp chí Nga, Ba Lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng ký trước ở sở Bưu điện. Một người cháu tôi từ Pháp gởi về cho tôi một tờ Nouvel Observateur (của khối thân Cộng), số đó bị chặn lại. Nghe nói tờ Humanité của đảng cộng sản Pháp cũng không được bán trong nước. Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung Hoa nào bán ở Sài Gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt, ở các thư viện Hà Nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người đọc lén được.

Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa học xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ Văn hóa vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!

Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại gởi một số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước, như quần áo cũ, các thực phẩm đóng hộp, các thuốc tây không có propriétés cho biết cách dùng, trị bệnh gì… mà chỉ cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo thông cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều bào ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới biết mà thi hành chỉ thị được; và ở thời này, thư máy bay từ Sài Gòn ra Hà Nội mất có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài Gòn qua Pháp, Gia Nã Ðại mất 2 tháng, có khi 4 tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?

Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.

Một anh bộ đội đi xe đò từ Long Xuyên lên Sài Gòn nghe hai chị bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài Gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến … mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại 3,4 giờ để kiểm soát, điều tra rất kỹ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi đóa, chửi thậm tệ anh bộ đội; khi xe tới bến Phú Lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi: “Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò không ngu? Nhồi sọ quá thì làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài sách báo của chính quyền đâu thì còn biết chút gì về thế giới nữa?”

Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà Nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy 3 trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.

Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10,000 bản trở lên, có thứ 30,000, 100,000 bản, tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó ham đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lý do. Hà Nội mỗi năm xuất bản không biết được 100 nhan đề không (trong này, thời trước được khoảng 1,000 nhan đề); sách được gởi đi khắp nơi không có sự cạnh tranh, mà ai cũng “đói sách”; lại thêm nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị, như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học, sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát hành đã bán chợ đen ở Hà Nội, không vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch sử tỉnh Vĩnh Phú, ngay cả bộ Hồ Chí Minh toàn tập, ở Long Xuyên không làm sao kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục cũng không mua được. Trái lại bộ Lê- Nin toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền Nam bán chạy veo veo; người ta mua về để bán kí lô.

Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.

NHL

From: TU-PHUNG


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dương Trung Quốc

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Lúc bé, tôi vẫn thường xem phim cọp. Lý do, giản dị, chỉ vì tôi rất ít khi có tiền mua vé. Lúc có, tôi lại muốn dùng tiền để mua những thứ khác (bắp nuớng, đậu phụng rang, cà rem, bánh kẹo…) để nhai lai rai trong lúc coi phim cơ.

Nhưng làm thế nào để vào cửa cọp mới được chớ? Ít nhất cũng có hai cách. Thứ nhất là đứng xớ rớ truớc cửa rạp, thấy một ông hay một bà trông có vẻ bảnh bao và dễ tính là mình xà ngay đến:

  • Thưa chú, thưa dì, thưa cô, thưa bác… con muốn coi cái phim này hết sức nhưng không có tiền, làm ơn dắt con vô luôn nha?

Nếu họ gật đầu là kể như… khỏe. Theo lệ, mỗi nguời lớn đi xem phim có quyền dắt theo một trẻ em – miễn phí.

Lối thứ hai rắc rối hơn một chút, kém đàng hoàng hơn một tí, và cần một ít vốn đầu tư. Mấy đứa phải hùn hạp đủ tiền cho một thằng hay một con nào đó mua vé đàng hoàng. Sau đó, nó sẽ len lén mở cửa hông cho cả lũ vào luôn!

Có lần vì giông bão rạp chiếu bóng cũng chỉ có mấy ngoe mua vé vào xem. Lũ nhi đồng chúng tôi quên chi tiết đó, vẫn tiếp tục rủ nhau coi cọp. Không những thế, nhiều đứa còn “mời” cả anh chị và bố mẹ “đi” luôn. Dân trong xóm tôi đều nghèo, đều rất ham… vui; do đó, gặp ngày mưa buồn bã và rảnh rỗi (rạp hát lại gần nhà) nên mọi nguời đều vui vẻ… nhận lời!

Chủ rạp kinh ngạc khi thấy vé không bán được bao nhiêu mà bên trong rộn rã tiếng cười đùa vỗ tay của trẻ con, rôm rả tiếng bàn tán nói cười của nguời lớn. Không cần phải thông minh lắm nguời ta cũng tìm được lý do, không lâu, sau đó.

Thế là bất ngờ, sau một lời xin lỗi ngắn ngủi qua hệ thống phát thanh, đèn bật sáng trưng, nhân viên ào vào soát vé. Lần lượt từng mạng một, không phân biệt già trẻ lớn bé, không sót một ai, cả xóm bị “mời” ra khỏi rạp bằng những lời lẽ hoàn toàn … không nhã nhặn.

Ðã có lúc vui miệng, tôi kể cho mấy đứa con nghe về cái kỷ niệm ấu thơ (không mấy êm đềm) này. Chúng đều tỏ vẻ ái ngại và vô cùng thất vọng về thái độ rất thiếu đàng hoàng, lương thiện của một người làm cha không lấy gì làm khả kính:

  • It’s not fun.Như vậy đâu có vui bố.
  • And it’s not fair, either!Cũng không công bằng mấy bố à.
  • Ờ thì bố cũng thấy là không vui gì cho lắm và có hơi kỳ kỳ một chút.
  • Kỳ một chút sao được. It’s cheating,như vậy là ăn gian!

Tôi miễn cưỡng đồng ý với tụi nó mà bụng dạ (nói thiệt) có hơi buồn. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình đã gian lận gì nhiều trong chuyện xem phim cọp cả. Cũng như tất cả những nguời dân lớn nhỏ khác của cả xóm mình, tôi chỉ có tội nghèo mà ham… vui (và hơi láu cá chút đỉnh) thế thôi.

Láu cá (rõ ràng) không phải là một đức tính, dù nhìn theo quan niệm đạo đức của bất cứ ai. Bởi vậy, càng già tôi càng đàng hoàng thấy… rõ! Những nguời tử tế, biết phục thiện, và tử tế như tôi – tiếc thay – hơi ít.

Tạp chí Khởi Hành số 34, phát hành tháng 8 năm 99, từ California, có bài viết “Khi Chính Trị Chi Phối Văn Hoá”, của Trần Anh Tuấn, về những nguời… rất không đàng hoàng như thế. Những kẻ mà đến lúc chết vẫn còn (vô cùng) láu cá!

Một phần của bài viết, ông Trần Anh Tuấn dùng để điểm cuốn Lịch Sử Và Văn Hoá Việt Nam – Những Gương Mặt Trí Thức, tập I, do Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân và Tạ Ngọc Liễn sưu tầm và biên tập, Nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998. Nội dung cuốn sách được ông Trần Anh Tuấn ghi nhận như sau:

Với hơn 700 trang, các tác giả đã chọn ra 71 nhân vật mà họ vinh danh là những trí thức Việt Nam tiêu biểu trải qua 770 năm lịch sử, với 9 thời đại và thời kỳ (Trần, Hồ, Lê, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa V.N.)”.

Nhưng nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách: trong suốt 720 năm (1225 – 1945) họ chỉ chấm có 38 nhân vật tức 53%. Ðó là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Triệu Thái, Lê Thánh Tông, Lê Sĩ Liên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Lê Qúi Ðôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Võ Trường Toản, Phan Huy Chú, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Ðình Chiểu, Phạm Thuật Duật, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Truờng Tộ, Nguyễn Quang Bích, Lương Văn Can, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn An Ninh, và Phạm Tuấn Tài.”

Trong 50 năm sau cùng (1945 – 1995), họ đưa ra một số lượng khổng lồ là 33 nguời, tức 47%. Trong số 33 tên, chỉ trừ giáo sư Hoàng Xuân Hãn sống ở Pháp, còn lại 32 tên không ai khác hơn là những đảng viên cao cấp của Ðảng Cộng sản Việt Nam và những nguời phục vụ chế độ cộng sản. Ðó là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Khánh Toàn, Ðặng Thái Mai, Trần Huy Liệu, Phạm Huy Thông, Tôn Thất Tùng, Hồ Ðắc Di, Phạm Ngọc Thạch, Trần Ðại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Văn Giáp, Tôn Quang Phiệt, Hải Triều, Ngụy Như Kon Tum, Dương Ðức Hiền, Ðặng Văn Ngữ, Hoài Thanh, Nam Trân, Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Thiêm, Từ Chi, Nguyễn Ðổng Chi, Cao Xuân Hy, Trần Ðức Thảo, Hoàng Thúc Trâm, Ðào Duy Anh, và Hoàng Xuân Hãn.”

Cứ theo như lời của ông Trần Anh Tuấn thì “nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách”. Là kẻ hậu sinh, tôi không hề dám có nghĩ tranh luận hay bút chiến với một nguời cầm bút vào hàng truởng thượng – và nặng ký – như ông Trần Anh Tuấn. Tuy nhiên vì đã lỡ biện minh cho chuyện vào cửa cọp của chính mình, tôi tự thấy có bổn phận phải lên tiếng để bênh vực cho một số những nguời vừa được vinh danh là “trí thức Việt Nam tiêu biểu” – trong nửa thế kỷ qua.

Theo tôi thì qúi ông Ðào Duy Anh, Trần Ðức Thảo, Hoàng Xuân Hãn… đều dư sức dắt theo ba trự lóc nhóc cỡ như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… đi vào lịch sử mà khỏi cần mua vé. Như đã thưa, tuy không bằng luật nhưng theo lệ (ít nhất cũng là lệ ở những thành phố miền Nam) mỗi nguời đi xem phim có quyền dắt theo một nhi đồng – miễn phí. Hồi nhỏ tụi tôi vẫn đi xem phim ké theo kiểu đó mà. Ðiều này đâu có gì là gian lận mà ông Tuấn phải phàn nàn và nặng lời dữ vậy?

Giữa chuyện ham vui (của lũ bé con chúng tôi, ngày truớc) và chuyện ham danh (của những ông lãnh tụ cộng sản Việt Nam, bây giờ) có một điểm này chung: túng làm liều. Ðiểm chung đó, với ít nhiều chủ quan, tôi tin tưởng là thông cảm và chia sẻ được.

Nếu không, nghĩa là nếu ông Trần Anh Tuấn không đồng ý, tôi xin đề nghị chúng ta nên nhìn vấn đề theo cách khác – dựa vào hình ảnh, kinh nghiệm phổ cập hơn với phần lớn mọi người, và cũng vẫn với phong thái nhẹ nhàng tương tự. Hãy tưởng tượng đến cảnh quá giang.

Chiếc bè chở những “gương mặt trí thức Việt Nam tiêu biểu” của nửa thế kỷ qua đi vào lịch sử mà chỉ có vài ba ông cỡ như Ðào Duy Anh, Trần Ðức Thảo và Hoàng Xuân Hãn… thì ngó bộ hơi neo đơn và cũng (có phần) phí phạm. Nó còn rộng chỗ nên quí ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… xin được quá giang – vậy thôi.

Nguời ta mượn lời để diễn ý. Ðặng ý thì bỏ lời. Thiên hạ mượn bè để qua sông. Miễn sao họ qua lọt thì thôi. Câu nệ quá tôi sợ… mất lòng và, chắc chắn, cũng sẽ mất vui!

Tôi chỉ tận tình chia sẻ nỗi bất bất bình của ông Trần Anh Tuấn về việc những vị sử quan đương đại – Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân, và Tạ Ngọc Liễn – theo chỉ thị, đã mở cửa hông cho thêm cả đống ông nữa (tổng cộng lên đến 33 mạng) ào ạt nhào luôn vào lịch sử.

Cũng như đi coi phim cọp, đi quá giang – dù là bằng thúng, bằng mủng, bằng bè, bằng ghe tam bản, bằng thuyền ba lá, bằng ca nô, bằng tầu (hay bằng thủy phi cơ… chăng nữa) cũng đều nên tránh chuyện đàn đúm, kéo bè, kết đảng đông đảo quá. Xô đẩy, giành giật, chen lấn là cảnh (luôn luôn) rất khó coi và dễ gây hiểu lầm là một vụ thủy tặc hay không tặc. Ðó là chưa kể chuyện quá tải, rất không an toàn.

Chìm xuồng, cả lũ, như chơi.

Gần cả thế kỷ qua dân Việt dở sống dở chết. Giữa lúc muôn họ lầm than, nhân tâm ly tán, nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt như sao buổi sớm; danh nhân, trí thức, kẻ sĩ… ở đâu mà hăm hở chen lấn đi vào lịch sử đông dữ vậy – hả Trời? Chợ chưa họp mà kẻ cắp đã đến đủ mặt như thế thì (ngó) cũng kỳ.

Mới đây ông Nguyễn Chính còn khám phá ra vụ này, ngó bộ, còn kỳ dữ nữa về chuyện khai thác bauxite ở Việt Nam: “Quốc hội chưa họp, nghĩa là chưa ai có ý kiến gì, ông dân biểu Dương Trung Quốc đã phát ngôn trên báo Tuổi Trẻ rằng “Nhưng Bộ Chính trị đã quyết rồi thì bây giờ ta chỉ bàn làm sao cho tốt, cho an toàn thôi” khiến nhiều cử tri rất ngỡ ngàng.”

Tôi thì không ngỡ ngàng gì cho lắm vì đã được họp tập trước về việc “Đảng chỉ tay, Quốc hội vỗ tay, dân trắng tay” tự lâu rồi. Chỉ hơi ngờ ngợ vì cái tên của ông Dương Trung Quốc nghe (có vẻ) quen quen. Té ra, ông chính là một trong ba nhân vật đã sưu tầm và biên tập cuốn Lịch sử và văn hoá Việt Nam – Những gương mặt trí thức (tập I) do Nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998.

Tưởng sao chớ “đi ra, đi vô cũng cái thằng cha khi nẫy” chớ ai! Mười năm trước ông Dương Trung Quốc tô vẽ cho nhiều kẻ bất hảo trở thành “Những gương mặt trí thức” của lịch sử và văn hoá Việt Nam. Bây giờ thì ông mở đường để con những người này mang đất nước ra băm xẻ, cho bằng thích.

Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!


 

Một thiếu nữ ở Nghệ An lừa bán em gái ruột sang Trung Quốc ‘làm vợ’

January 15, 2024

Ba’o Nguoi-Viet

NGHỆ AN, Việt Nam (NV) – Hôm 15 Tháng Giêng, Tòa Án Tỉnh Nghệ An đã tuyên án hai bị cáo Cụt Thị Ngọc và Ven Thị Hoài, mỗi người 12 năm tù về tội “mua bán người dưới 16 tuổi.”

Hội Đồng Xét Xử nhận định hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp “đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội với nhiều người,” do đó cần đưa ra hình phạt tương xứng để “răn đe, phòng ngừa chung.”

Hai bị cáo Ven Thị Hoài (trái) và Cụt Thị Ngọc tại tòa. (Hình: KH/Thanh Niên)

Báo Dân Trí dẫn cáo trạng cho biết bị cáo Hoài, 21 tuổi, trú huyện Kỳ Sơn, và bị cáo Ngọc, 27 tuổi, ở huyện Quế Phong, cùng tỉnh Nghệ An, quen nhau khi làm công nhân tại Thái Bình.

Tháng Mười, 2022, Ngọc nhắn tin cho Hoài nói có người thân đang ở Trung Quốc, nếu tìm được phụ nữ đưa qua biên giới bán làm vợ cho người bản địa thì sẽ được trả tiền công hậu hĩnh.

Ngay sau đó, Hoài phản hồi có em gái 14 tuổi, sẽ về thuyết phục gia đình.

Để không bị thoát “con mồi,” Ngọc nói với Hoài nếu đưa được em gái sang Trung Quốc sẽ được trả 30 triệu đồng ($1,225) tiền công và gia đình được nhận khoản tiền 120 triệu đồng ($4,902).

Nói là làm, Ngọc sau đó chuyển trước cho Hoài 4.5 triệu đồng ($183) để trả nợ và làm chi phí đưa đón nạn nhân. Đồng thời Ngọc hứa sẽ trả thêm cho bạn đủ số tiền đã thỏa thuận nếu phi vụ trót lọt.

Đến Tháng Sáu, 2023, Hoài về thuyết phục mẹ cho em gái là VTK, 14 tuổi, “đi làm công ty” ở Bắc Giang và được mẹ đồng ý.

Hai ngày sau, người thân em Moong Thị N,14 tuổi, ở cùng xã đến nhà Hoài chơi, biết Hoài sắp đưa em đi làm “việc nhẹ lương cao” nên cũng về đặt vấn đề xin theo.

Sau đó Hoài gọi điện cho Ngọc thông báo đã kiếm được hai người, yêu cầu trả 60 triệu tiền công ($2,450) và 240 triệu đồng ($9,804) để đưa cho các gia đình.

Đầu Tháng Bảy, 2023, Hoài cùng hai bé gái đón xe đò từ huyện Kỳ Sơn xuống thành phố Vinh để đi ra Hà Nội. Tuy nhiên, khi đến xã Chiêu Lưu thì bị công an phát hiện bắt giữ.

Hai ngày sau, biết Hoài bị bắt, Cụt Thị Ngọc tới công an đầu thú.

Phản ảnh trên báo VNExpress, nhiều người tỏ ra phẫn nộ.

Độc giả “Truongson thuydung” bất bình viết: “Con chị đốn mạt, vì vài chục triệu mà bán em ruột sang xứ người, phải người gia đình tôi thì xin để gia đình xử lý trước, sau đó pháp luật trừng trị sau.”

Trong khi đó, độc giả “Cù Kim Ngọc” ngán ngẫm: “Trời ơi, tôi đang đọc cái gì thế này? Chị em thương nhau không hết…. lại nỡ, không hiểu nổi?!” (Tr.N)


 

Sau ông Trọng sẽ là cơn đại hồng thủy…-Trương Nhân Tuấn

 Ba’o Tieng Dan

Trương Nhân Tuấn

15-1-2024

“Sinh, lão, bịnh, tử” là chuyện gắn liền với mỗi cá nhân con người, tức là chuyện “bình thường”. Ai rồi cũng phải trải qua một trong bốn giai đoạn đó trong cuộc đời mình. Ông Trọng cũng vậy. Ông không phải là thần thánh.

Tuy nhiên, ông Trọng là lãnh đạo tối cao của Việt Nam hiện nay. Bất cứ chuyện gì xảy ra đối với ông Trọng, trực tiếp hay gián tiếp, đều có liên quan đến Việt Nam. Sự vắng mặt của ông những ngày qua làm dấy lên những đồn đoán, ngay cả ở báo chí nước ngoài. Người ta đặt vấn đề về “hậu sự” của ông Trọng.

Cá nhân tôi từ hơn hai thập niên qua luôn giữ quan điểm rằng, yếu tố cần thiết để Việt Nam có thể phát triển lành mạnh và bền vững là vấn đề “pháp trị hóa nhà nước”. Các quốc gia Nam Hàn, Đài Loan, Singapore… từ ba thập niên 1970, 1980 và 1990 của thế kỷ trước đều là các quốc gia “độc tài”. Khác với Việt Nam, các quốc gia trên đều là các “Quốc gia pháp trị – Etat de Droit” và kinh tế phát triển theo tư bản chủ nghĩa.

Nhớ lại những năm cuối nhiệm kỳ 1 của ông Trọng, ước muốn của ông được báo chí ghi lại: “Xây dựng một bộ máy nghiêm minh đồng thời hoàn thiện thể chế, chính sách, luật pháp tới mức không còn những ‘khoảng trống’, ‘kẽ hở’ cho tham nhũng, để không thể tham nhũng, không dám tham nhũng và không còn muốn tham nhũng“.

Đến nay đã giữa nhiệm kỳ 3. Khách quan nhận xét thì rõ ràng những ước muốn của ông Trọng vẫn còn xa xôi lắm.

Cốt lõi của vấn đề là ở thể thức phân bổ quyền lực. Quyền lực tập trung vào đảng. Đảng lãnh đạo toàn diện, về mọi mặt, nhà nước và xã hội.

Thử nhìn vào nơi nào trong xã hội này mà không thúi nát? Ngay cả ở các nơi chốn tôn nghiêm. Câu thơ (của Bùi Minh Quốc): “Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa“, chưa bao giờ đúng như lúc này.

Ông Trọng đã thất bại toàn tập trong vấn đề “nhốt quyền lực vào cái lồng lập pháp”. Những biện pháp như “bỏ phiếu tín nhiệm” chỉ là trò cười đối với cán bộ tham nhũng, hủ bại. Những con sâu chúa trong hệ thống quyền lực này vẫn an toàn vô sự, bất chấp cái “lò” của ông Trọng nóng hơn bao giờ hết.

Người ta chỉ có thể diệt trừ tham nhũng ở một số người nhưng không bao giờ diệt tham nhũng ở cả một tập đoàn. Qua các vụ Việt Á, “các chuyến bay giải cứu”, người ta đã thấy đảng CSVN thúi nát từ trên tới dưới, từ trong ra ngoài.

Đảng viên CSVN đối xử với dân chúng như những con thú. Chỉ hiện hữu trong xã hội loài thú, khi một con thú bị thương, con thú này trở thành con mồi cho những con thú khác.

Đảng CSVN xây dựng cái gì mà một người Việt gặp hoạn nạn là cơ hội tốt cho đảng viên cộng sản lạm dụng. Có khác gì xã hội của loài thú đâu?

Theo tôi thấy, với cái đà này “sau” ông Trọng sẽ là cơn đại hồng thủy. Không “pháp trị hóa nhà nước” thì không có bất cứ cái gì ngăn cản được sự hủ bại của quyền lực.

Tôi nghĩ rằng thời gian còn lại của ông Trọng không nhiều. Tôi rất bi quan về tiền đồ của đất nước. Mô hình phát triển của Trung Quốc mà ông Trọng lấy về áp dụng cho Việt Nam chỉ là một cái áo quá khổ so với Việt Nam.